GIÁO
LÝ PHÚC ÂM
CN II MÙA CHAY A
CN II MÙA CHAY A
I. Giáo Huấn Phúc Âm
Cuộc đời Chúa Giêsu, Đấng
Cứu Thế, giống như cuộc đời các tổ phụ, các nhà lãnh đạo và các Tiên Tri trong
Cựu Ước, đã được kêu gọi để thực hiện chương trình của Thiên Chúa. Sứ mạng các
Ngài hàm chứa cả đau khổ và vinh quang.
Hôm nay, Chúa cho tông đồ
thấy Chúa biến hình tức thấy Chúa lúc vinh quang.
Sau nầy, khi các ông
chứng kiến Chúa chết nhục nhả trần truồng trên thánh giá tức lúc Chúa đau khổ.
Hy vọng các ông vẫn giữ vững niềm tin vào Chúa.
Đấng Cứu Thế là Con Thiên
Chúa, là người được tuyển chọn để cứu độ nhân loại qua đường thập giá. Chương
trình cứu độ và Đấng Cứu Thế được sai đến trần gian không là chuyện tùy hứng
hay xốc nỗi, nhưng đã “được tuyển chọn” và đã được định trước.
II. Vấn nạn Phúc Âm
Mô-sê là ai? Êlia như thế
nào? Làm sao Ông Phêrô có thề biết được danh tánh hai người đang đàm đạo với
Chúa là Môisê và Êlia?
Môsê có nghĩa là được cứu
khỏi nước. Tên được những Công Chúa của vua Pharaô đặt cho khi cứu sống cậu bé
Do Thái bị bỏ trong thúng và thả trôi sông. Ông được cứu sống khỏi nước để rồi
sau nầy chính Ông thành người cứu Dân Tộc mình khỏi chết chìm giữa lòng biển
Đỏ. Ông là thế hệ thứ hai người Do Thái sinh trưởng ở Ai Cập, khoảng 12 thế kỷ
trước Chúa Giêsu.
Môsê được Chúa chọn làm
lãnh tụ đưa dân ra khỏi ách nô lệ Ai Cập, khi Ông chăn chiên cho nhạc phụ Giêtrô
ở vùng Midian, chân núi Horeb (Sách Xuất Hành chương 3) Ông quay trở lại diện
kiến Pharaô và xin cho dân đi. Vua không đồng ý. Ông xin Chúa giáng 10 tai họa
trên dân. Sau cùng Ông đã dẫn Dân Do Thái qua Hồng Hải khô chân. Ông lên núi
Sinai lãnh hai bia đá khắc mười giới răn Chúa truyền. Ông là người đồng hành
với dân suốt bốn mươi năm dài trong sa mạc. Ông chịu nhiều đau khổ, vì dân phản
bội Chúa thờ tà thần, vì dân cứng cổ chống đối ông. Ông đã nghe lới Chúa treo
cao con rắn đồng trong Sa Mạc để thành dấu cứu dân khỏi rằn độc (Dân Số 21,9 và
Gioan 3,14) Ông cũng là người yếu tin, đập gậy vào đá tời hai lần, để làm nước
vọt ra cho dân uống thỏa thuê, nhưng ngược lại lệnh Chúa truyền (Dân Số 20,11)
Nên Ông đã chết trước khi vào đất Chúa hứa.
Ông chính là tác giả của
Ngũ kinh, tức năm quyển sách đầu trong bộ Cựu Ước: Sáng Thế, Xuất hành, Lê Vi,
Dân Số và Đệ Nhị Luật. Môsê, một lãnh tụ, một cứu tinh đưa dân mình khỏi Ai
Cập. Môsê, một nhà làm luât và là một tiên tri, người trung gian giữa Chúa và
dân. Ông là người đã thấy Chúa và vinh quang Thiên Chúa. Nhưng Ông cũng là
người đau khổ vì chu toàn sứ mạng Chúa trao phó.
Êlia sống dưới thời vua
Ahab, Ahaziah và Giêhôram, tức tiền bán thế kỷ 9 trước Công Nguyên. Elia có
nghĩa “Yahvê là Chúa” Tên gọi nầy nhằm diễn tả sứ mệnh của Elia: Bênh vực Thiên
Chúa, chống lại thần Baal. Ông chủ trương độc thần: Yahvê là Chúa duy nhất của
Israel. Ông chống lại nền phượng tự ngoại nhập, đa thần đang bành trướng thời
bấy giờ do các hoàng hậu ngoại giáo, cụ thể là hoàng hậu Giê-zi-ben của vua
Ahab. Elia thi tài và chiến thắng 400 tư tế của Hoàng hậu Giêziben. Dân chúng
nổi dậy, giết hết tư tế ngoại giáo. Hoàng hậu Giêziben ra lệnh lùng bắt Elia.
Ông trốn chạy lên núi thánh Chúa là Horeb mất 40 ngày (Sách các vua quyển I,
chương 18 và 19)
Tiên Tri Êlia là người
được thấy Chúa và vinh quang Thiên Chúa trên núi Horeb. Nhưng Ông cũng là người
bị săn đuổi và bị bách hại vị bảo vệ niềm tin độc thần của Do Thái. Ông đã đói
lã nằm hôn mê trên đường lên núi Chúa. Sứ thần Chúa đã hiện ra cho Ông bánh và
nước để tiếp tục hành trình lên núi thánh (Sách Các Vua quyển I chương 19) Thời
đó không có một phương tiện ghi nhận hình ảnh gỉ cả. Thêm vào đó, Phúc Âm Luca
còn nói “Ông Phêrô và đồng bạn thì ngủ mê mệt!” Vậy thì làm sao Phêrô có thể
nhận ra hai người đang đàm đạo với Chúa Giêsu là Môsê và Êlia?
Có người cắt nghĩa rằng:
Từ thời nầy sang thời khác, người ta kể cho nhau nghe chuyện Môsê và Êlia.
Phêrô nhận ra người xuất hiện đàm đạo với Chúa Giêsu ám hạp với lời kể đã từng
nghe. Đồng thời nội dung cuộc đàm thoại giúp Ông nhận ra và xác định danh tánh
các nhân vật.
Cách giải thích khác xem
chừng hợp lý hơn: Phúc Âm là Giáo Lý của các Tông Đồ, được biên soạn rất muộn,
phải từ 50 năm cho đến 80 năm sau ngày Chúa Giêsu về Trời. Như vậy, sự chính
xác theo loại tường thuật không là điểm then chốt, vì không có tác giả Phúc Âm nào
chứng kiến tận mắt việc Chúa biến hình cà. Không thấy thì làm sao biềt thế nào
là chính xác. Các Thánh Sử chỉ cần viết lại theo những tường thuật của những
người đi trước và đặt vào đó quan điểm thần học của mình. Nên danh tánh của
những nhân vật trong biến cố biến hình đã có sẵn từ trước. Không ai đặt vấn đề:
có thật là Môsê và Êlia không? Và cũng không ai thắc mắc làm sao Phêrô nhận ra
hai bậc tiền bối sống trước Ông hơn một ngàn năm? Đó không là mấu chốt Giáo lý
Phúc Âm dạy. Nhưng là vấn đề Đức Kitô, con Thiên Chúa, mang cả hai bản tính:
Thiên Tính và nhân tính. Ngài đau khổ như con người chúng ta. Nhưng Ngài là
Thiên Chúa đầy vinh quang sáng láng.
Chúa chọn 12 tông đồ và
họ kề cận bên Chúa. Nhưng có những trường hợp “xé lẻ” như việc Chúa biến hình
trên núi Tabor hôm nay. Sao Chúa chỉ mang theo có ba Ông Phêrô, Gioan và
Giacôbê, các tông đồ còn lại bị bỏ lại dưới chân núi?
Trong số 12 tông đố có
hai Giacôbê:
Giacôbê tiền (James the
Greater), tức Giacôbê anh em ruột với Gioan tông đồ, cả hai là con Ông Giêbêđê và
bà Salomê, là một trong bốn tông đồ được Chúa chọn đầu tiên chung với hai anh
em Phêrô và Anrê. (Matcô 1, 16-20 và Matt.4.21-22).
Giacôbê hậu (James the
less), con của Ông Alphê, truyền thống Giáo Hội thời bấy giờ cũng gọi là James
người công chính (James the Just). Giacôbê hậu, con Ông Alphê được Kinh Thánh
Tân Ước nhắc đến bốn lần trong Matt. 10,3; Matcô 3,18; Luca 6,15 và Tông Đồ
Công Vụ 1,13
Trong Phúc Âm, ba lần
Chúa Giêsu cho ba ông Phêrô, Gioan và Giacôbê theo Chúa: Khi Chúa Giêsu đến cứu
sống con gái Ông trưởng hội đường tên Giairô ( Luca 8,51 và Matcô 5,37); Rồi
tám ngày sau Chúa đưa Phêrô, Gioan và Giacôbê lên núi cầu nguyện và biến hình
như trong Phúc Âm Luca hôm nay. Tìm thấy tường thuật tương tự ở Matcô 9,2 cũng
như trong Matt. 17,1 và qua tường thuật của Matthêô chúng ta biết đây là
Giacôbê, con Ông Giêbêđê, anh em với Gioan tông đồ; Lần thứ ba, Chúa dẫn ba Ông
Phêrô, Gioan và Giacôbê vào vườn cây đầu cầu nguyện. (Matcô 14,23)
Chúng ta không rõ trong
lần thứ nhất và thứ ba Giacôbê nào theo Chúa? Phêrô và Gioan tông đồ được đề
cập rõ ràng, còn tên Giacôbê không được minh định rõ ràng. Tuy nhiên vấn nạn của
chúng ta là tại sao lại có vấn đề xé lẻ và riêng tư nầy? Tại sao chỉ có ba mà
không tất cả mưới hai tông đồ?
Tôi xin trả lời bằng cách
đặt vấn nạn? Tại sao Chúa chọn Phêrô, người chối Chúa, nóng tính và có lần bị
mắng là quỉ lên hàng thủ lãnh các tông đồ? Tại sao Chúa chọn người tầm thường
nầy lên làm linh mục, còn những người xuất sắc khác đáng làm linh mục hơn lại
cũng chỉ là giáo dân? Đó là vấn đề của Chúa và Chúa có lý do riêng không cần
giải thích với bất cứ ai là tại sao? Chính đương sự cũng không hiều lý do?
Chúng ta có thể tìm thấy câu trả lời nầy trong dụ ngôn thợ làm vườn nho Chúa,
mỗi người lãnh chỉ một đồng bằng nhau vào cuối ngày, dù làm ít giờ hay nhiều
giờ. Đó “là quyền của tôi!” (Matt.20.1-16).
Trong cuộc sống thường
nhật, chúng ta có nhiều bạn bè. Trong số nầy, có những bạn bè gần. Trong số
những bạn bè gần, có những người mà chúng ta gọi là rất thân, sống chết có nhau
và sẵn sàng chia sẻ mọi chuyện thầm kín. Tại sao? Vì họ là bạn thân? Nhưng tại
sao thân? Tại vì gần gũi, thông cảm…vài lý do loanh quanh khác… để rồi sau cùng
chính đương sự cũng không biết sao mình lại chọn người nầy làm bạn rất thân mà
không là người khác.
Cả Ba Phúc Âm nhất Lãm
đều tường thuật: có tiếng từ trong đám mây phán … tức tiếng Thiên Chúa Cha
phán, nhưng cả ba lời phán lại khác nhau, dù từ Thiên Chúa Cha. Ý nghĩa của
những lời phán khác nhau nầy theo các Thánh Sử?
Matthêô tường thuật Chúa
biến hình trên núi Tabor trong chương 17, 1-9 với lời phán của Thiên Chúa Cha
từ đám mây “ Đây là con Ta yêu đấu, luôn làm đẹp lòng Ta, hãy nghe lời Ngài”.
Lời phán nầy chúng ta đã nghe thấy trong Matt.3, 17 khi Chúa Giêsu chịu phép
rửa.
Matcô tường thuật Chúa
biến hình trên núi Tabor trong chương 9, 2-8 với lời phán của Thiên Chúa Cha từ
đám mây “Nầy là Con Ta yêu dấu, hãy nghe lời Ngài” Lời phán nầy cũng đã nghe
thấy trong Matcô 1:11 khi Chúa Giêsu chịu phép rửa “Con là con Ta yếu dấu, Ta
rất hài lòng với con!”
Luca tường thuật Chúa biến
hình trên núi Tabor trong chương 9, 28-36 với lời phán của Thiên Chúa Cha từ
đám mây “Đây là Con Ta, người được tuyển chọn, hãy nghe lời Ngài!” Lời phán nầy
xem chừng khác so với Luca chương 3,21-22 khi tường thuật Chúa chịu phép rửa
“Con là con Ta yếu dấu, Ta rất hài lòng với con!”
Cả ba Phúc Âm Nhất Lãm
khi tường thuật việc Chúa chịu phép rửa đều đặt vào thời gian Chúa Giêsu bằt
đầu cuộc đời truyền đạo. Cả ba Phúc Âm Nhất Lãm khi tường thuật việc Chúa biến
hình trên núi Tabor đều đặt vào thời điểm cuối năm thứ hai cuộc đời truyền đạo.
Tất cả đều xác nhận rằng: Việc cứu độ trần gian là chương trình của Thiên Chúa
Ba Ngôi. Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, sinh xuống làm người để thực hiện chương
trình cứu độ. Từ đầu cho đến cuối, dù đau khổ hay bị ngược đãi, Chúa Giêsu luôn
trung thành, luôn là con yêu dấu của Thiên Chúa Cha.
Riêng Phúc Âm Thánh Luca,
câu nói của Thiên Chúa Cha ở núi Tabor, khi Chúa Giêsu biến hình có phần khác
so với khi Chúa Giêsu chịu phép rửa ở sông Hòa Giang. Thánh Luca thêm “Đây là
Con Ta, người được tuyển chọn…” Thánh Luca, môn đệ của Phaolô, chịu ảnh hưởng
sâu đậm về học thuyết “chương trình của Thiên Chúa”, God’s Plan hay God’s will.
Abraham được chọn làm tổ phụ dân Chúa. Môsê được chọn làm lãnh tụ đưa dân ra
khỏi Ai Câp… Phaolô được chọn làm tông đồ dân ngoại (Tông Đồ Công Vụ 22, 15 và
26,18) Không có việc gì nằm ngoài chương trình của Chúa cả. Tất cả đều được
tuyển chọn.
Giáo lý Phúc Âm: Chúa
Giêsu là Con Thiên Chúa xuống trần, sống giữa con người để thực hiện chương
trình cứu độ đã có từ ngàn đời. Chúa Giêsu phải chịu đau khổ để đi vào vinh
quang Phục Sinh. Đó là chương trình của Thiên Chúa Cha. Từ đó, Chúa Giêsu,
trong vườn cây dầu, dù sợ chết mà van xin “Lạy Cha, nếu có thể, xin cất chén nầy
xa con… nhưng rồi phải nói thêm… xinh đừng theo ý con, nhưng cho ý Cha được
tròn” (Luca 22, 42) Lạy Chúa, này con xin đến để thực thi ý Chúa.
III. Thực hành Phúc Âm
Chúa
cầu nguyện thường xuyên
Phúc Âm tường thuật 15
lần Chúa cầu nguyện.
Tại sao phải cầu nguyện?
Vì khi cầu nguyện, con người được biến hình trở nên sáng láng. Sáng láng ở đây
không có ý nói đến diện mạo bên ngoài như quần áo nên trắng tinh, hay mặt mày
tỏa chiếu hào quang như khi Chúa Giêsu biến hình trên núi Tabor trong Phúc Âm
hôm nay. Nhưng người cầu nguyện được biến đổi. Vì tâm hồn được nâng lên cao như
lên núi Chúa. Con người được tiếp xúc và được bộc lộ tâm tư nguyện vọng của
mình cho Chúa. Nên tu đức gọi là: kết hợp với Chúa khi cầu nguyện.
Muốn làm cho mình biến
đổi tốt hơn, tỏa chiếu dung mạo của Chúa trong đời sống hàng ngày, chúng ta
phải cầu nguyện. Thánh Phanxicô Xaviê đã bỏ cả địa vị cao trong xã hội để đi
truyền giáo là nhờ Ngài cầu nguyện. Mẹ Têrêsa thành Calcutta luôn cầu nguyện để
thực thi thánh ý Chúa. Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn văn Thuận khuyên là:
“Nếu con sa ngã phạm tội hay gặp muôn vàn khốn khó thì hãy tự hỏi xem mình đã
bỏ cầu nguyện bao lâu rồi?”. Cầu nguyện là biến hình, là thay đổi, là bộc lộ
vinh quang của Thiên Chúa trong đời sống mình.
Chúng ta cầu nguyện cho
mình và cầu nguyện cho người khác. Chỉ có Chúa mới có khả năng hoán cải con
người. Luôn vững tin rằng không việc gì mà Chúa không làm được. Khi xem Video
“Le Saint Curé D’Ars” tôi thấy vừa khi đến giáo xứ là Cha Gioan Maria Vianney
vào ngay trong nhà thờ cầu nguyện, rổi Ngài dọn dẹp bàn thờ, giật chuông và kêu
gọi giáo dân đến dâng lễ cầu nguyện. Một bà cụ già đến, vài người đến xem coi
chuyện gì xảy ra… nhưng rồi sau đó tất cả đã được hoán cải. Người ta được hoán
cải vì lời cầu nguyện, vì đời sống cầu nguyện và vì con người cầu nguyện của
Cha Gioan Maria Vianney.
Tôi luôn nhớ lời Cha
Thánh: Linh Mục phải thánh thiện thì mới gọi là Prêtres pour le salut du monde.
Tôi không thể có đời sống thánh thiện, nếu tôi không cầu nguyện, không tiếp xúc
với Chúa là Đấng Thánh. Những giáo dân quen biết cũng hay tâm sự: Chúng con
không cần linh mục làm ăn giỏi hay có biệt tài về đàn hát… nhưng chúng con rất
cần linh mục Thánh Thiện..
Hành
trình về Canvê.
Ông Phêrô thấy Chúa biến
hình, được chứng kiến vinh quang Thiên Chúa thì muốn dựng lều ở đó, muốn đóng
đô dài hạn trên núi Tabor. Không thấy Chúa quan tâm chút nào đến đề nghị thực
tiễn nầy. Thầy trò kéo nhau xuống núi, tiếp tục hành trình.
Hành trình cứu độ không
dừng ở Tabor, nhưng ở đồi Canvê. Phêrô có mặt ở Tabor, lúc Chúa biến hình vinh
quang. Nhưng Phêrô không có mặt ở chân Thánh Giá trên đồi Canvê khi Chúa bị
chết treo trần truồng nhục nhã.
Đời người ai cũng có lúc
lên hương, nhất là vào tuổi “tam thập nhị lập” tức độ tuổi 30. Sức khỏe thật
sung mãn. Có người nghĩ “mình khỏe như thế nầy làm sao chết được!” Đây cũng là
tuổi thành công, thành tài làm nên sự nghiệp. Đậy cũng là lúc mà chúng ta muốn
dựng lều, đóng đô dài hạn trên đỉnh núi của đời người đang lên. Đây cũng là lúc
mà nhiều người bị chúng ta thu hút, muốn đến cắm lều và định cư lâu dài để an
hưởng hạnh phúc đời sống với chúng ta.
Nhưng rồi thực tế của đời
người là: xuống núi hay xuống dốc hay hết thời và nhiều khi bị thất bại thảm
thương, trơ trọi trên đồi Canvê. Không nhìn thấy những người đã từng ở trên núi
Tabor với mình. Họ như Phêrô, bỏ trốn hết. Chúng ta, một mình với nhiều thử
thách và cái chết kết thúc đời người.
Chúa Cứu Thế phải chịu
đau khổ mới vào vinh quang. Không cách gì trốn thoát khỏi ngọn đồi Canvê. Đây
là điểm đến của đời người. Ở đó có thánh giá, có ngọn dáo nhọn, có nấm mồ,
nhưng rồi cũng có Phục Sinh. Hãy cám ơn Chúa vì những lúc lên hương, những khi
thành công. Xin Chúa dồng hành và thêm sức với chúng ta trên đường về Canvê.
Lm Phêrô Trần Thế Tuyên