THỨ
TƯ SAU CHÚA NHẬT I – MÙA VỌNG
Is
25, 6-10a; Mt 15, 29-37
BÀI ĐỌC: Is 25, 6-10a
6 Ngày ấy, trên núi này, Đức
Chúa các đạo binh sẽ đãi muôn dân một bữa tiệc: tiệc thịt béo, tiệc rượu ngon, thịt
béo ngậy, rượu ngon tinh chế. 7 Trên núi này, Người sẽ xé bỏ chiếc
khăn che phủ mọi dân, và tấm màn trùm lên muôn nước. 8 Người sẽ vĩnh
viễn tiêu diệt tử thần. Đức Chúa là Chúa Thượng sẽ lau khô dòng lệ trên khuôn
mặt mọi người, và trên toàn cõi đất, Người sẽ xoá sạch nỗi ô nhục của dân Người.
Đức Chúa phán như vậy. 9 Ngày ấy, người ta sẽ nói: "Đây là
Thiên Chúa chúng ta, chúng ta từng trông đợi Người, và đã được Người thương cứu
độ. Chính Người là Đức Chúa chúng ta từng đợi trông. Nào ta cùng hoan hỷ vui
mừng bởi được Người cứu độ. "10 Vì bàn tay Đức Chúa sẽ lại đặt
trên núi này.
ĐÁP CA: Tv 22
Đ. Này tôi được ở đền Người
những ngày tháng, những năm dài triền miên. (c 6cd)
những ngày tháng, những năm dài triền miên. (c 6cd)
1 Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng
thiếu thốn gì. 2 Trong đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ. Người
đưa tôi tới dòng nước trong lành 3a và bổ sức cho tôi.
3b Người dẫn tôi trên đường ngay nẻo
chính vì danh dự của Người. 4 Lạy Chúa, dầu qua lũng âm u con sợ gì
nguy khốn, vì có Chúa ở cùng. Côn trượng Ngài bảo vệ, con vững dạ an tâm.
5 Chúa dọn sẵn cho con bữa tiệc ngay
trước mặt quân thù. Đầu con, Chúa xức đượm dầu thơm, ly rượu con đầy tràn chan
chứa.
6 Lòng nhân hậu và tình thương Chúa ấp ủ
tôi suốt cả cuộc đời, và tôi được ở đền Người những ngày tháng, những năm dài
triền miên.
TUNG HÔ TIN MỪNG:
Hall-Hall: Kìa Chúa đến cứu độ dân Người;
phúc thay ai sẵn sàng nghênh đón Chúa. Hall.
TIN MỪNG: Mt 15, 29-37
29 Khi ấy, Đức Giê-su đến
ven Biển Hồ Ga-li-lê. Người lên núi và ngồi ở đó. 30 Có những đám
người đông đảo kéo đến cùng Người, đem theo những kẻ què quặt, đui mù, tàn tật,
câm điếc và nhiều bệnh nhân khác nữa. Họ đặt những kẻ ấy dưới chân Người và
Người chữa lành, 31 khiến đám đông phải kinh ngạc vì thấy kẻ câm nói
được, người tàn tật được lành, người què đi được, người mù xem thấy. Và họ tôn
vinh Thiên Chúa của Ít-ra-en.
32 Đức Giê-su gọi các môn đệ
lại mà nói: "Thầy chạnh lòng thương đám đông, vì họ ở luôn với Thầy đã ba
ngày rồi và họ không có gì ăn. Thầy không muốn giải tán họ, để họ nhịn đói mà
về, sợ rằng họ bị xỉu dọc đường. "33 Các môn đệ thưa:
"Trong nơi hoang vắng này, chúng con lấy đâu ra đủ bánh cho đám đông như
vậy ăn no? "34 Đức Giê-su hỏi: "Anh em có mấy chiếc bánh?
" Các ông đáp: "Thưa có bảy chiếc bánh và một ít cá nhỏ. "35
Bấy giờ, Người truyền cho đám đông ngồi xuống đất. 36 Rồi Người cầm
lấy bảy chiếc bánh và mấy con cá, dâng lời tạ ơn, bẻ ra, trao cho môn đệ, và
môn đệ trao cho đám đông. 37 Ai nấy đều ăn và được no nê. Những mẩu
bánh còn thừa, người ta thu lại được bảy thúng đầy.
THÁNH THỂ DIỆT TỘI, SINH SỰ SỐNG DỒI
DÀO
Là người Công Giáo, khi đọc trình
thuật Hóa Bánh, ai cũng nhận ra đó là dấu chỉ Chúa lập Bí Tích Thánh Thể. Mầu
nhiệm Bí Tích này, Chúa muốn:
- Chúng ta phải xác tín về hiệu quả của Bí Tích Thánh Thể.
- Chúng ta được Chúa mời gọi cộng tác để làm hoàn hảo Hy
Lễ của Ngài.
I. CHÚNG TA
PHẢI XÁC TÍN VỀ HIỆU QUẢ CỦA BÍ TÍCH THÁNH THỂ.
Chúa đã dùng miệng ngôn sứ Isaia (Is
25, 6-10: Bài đọc) báo trước về hiệu quả của Bí Tích Ngài thiết lập:
C “Trên núi này (núi Sọ), Đức Chúa các đạo binh sẽ thiết đãi muôn dân một bữa tiệc: tiệc thịt
béo (Mình Chúa Giêsu Phục Sinh), tiệc rượu ngon (Máu Chúa Giêsu Phục Sinh)” (Is 25, 6).
C “Trên núi này, Người sẽ xé bỏ chiếc khăn che phủ muôn dân, và tấm màn trùm lên muôn nước. Người
sẽ vĩnh viễn tiêu diệt tử thần. Đức
Chúa là Chúa Thượng sẽ lau khô dòng lệ trên khuôn mặt mọi người, và trên toàn
cõi đất, Người sẽ xóa sạch nỗi ô nhục của dân Người” (Is 25, 7-8): Ai dự tiệc Thánh Thể, sẽ được Chúa tha tội,
thoát tay tử thần.
C “Ngày ấy người ta sẽ nói: “Đây là Thiên Chúa chúng ta, chúng ta từng
trông đợi Người, và đã được Người thương
cứu độ. Nào chúng ta cùng hoan hỷ vui mừng bởi được Người cứu độ, vì bàn
tay Chúa sẽ lại đặt trên núi này” (Is 25, 9-10): Khi Hội Thánh dâng Lễ, Chúa Giêsu vừa là Chủ Tế, là Bàn Thờ và là
Của Lễ: Bàn Thờ là dấu chỉ nhân tính, là thân xác Chúa Giêsu; bánh rượu là
dấu chỉ Thần tính, là linh hồn Chúa Giêsu (x. GLHT số 1410). Như vậy khi ta
tham dự Thánh Lễ, chính Chúa Giêsu cầu nguyện cho ta trước mặt Chúa Cha, để ta
được đồng hóa với Ngài cùng một nguồn gốc, cùng một xương thịt, cùng một sự
sống (x. Dt 2, 11. 14; Ga 6, 57).
Thực vậy, Giáo Lý Hội Thánh cho
chúng ta biết: Bí Tích Thánh Thể là trung tâm ơn tha tội, và ta được thông dự
vào sự sống sung mãn của Chúa Giêsu Phục Sinh:
1/ Bí tích
Thánh Thể là nguồn ơn tha tội.
Nhờ
Hy Tế của Đức Giêsu, chúng ta được ơn tha tội. Chúng ta biết có bốn Bí Tích tha
tội:
-
Bí Tích Thánh Tẩy: Ơn đặc thù là tha tội tổ
tông (nếu có tội riêng cũng được tha).
-
Bí Tích Giao Hòa: Nhằm tha tội nặng (x. Giáo
Luật số 989). [người có tội nhẹ cũng nên
xưng tội]
-
Bí Tích Xức Dầu: Nhằm tha hết tội cho người
Kitô hữu trong tình trạng nguy tử, nếu họ không đủ khả năng xét mình xưng tội.
-
Đặc biệt nhất Bí Tích Thánh
Thể: Là
trung tâm của các Bí Tích khác, là Bí Tích tha tội bậc nhất, các Bí Tích khác
quy hướng về Bí Tích Thánh Thể. Bí Tích Thánh Thể thông ơn cho các Bí Tích khác.
Vì nếu Đức Giêsu không Phục Sinh, không có Bí Tích Thánh Thể thì có ban Thánh
Tẩy, Giao Hòa, Xức Dầu, cũng không có ơn tha tội!
Bởi đó, một Kitô
hữu còn vướng tội trọng, chưa kịp xưng tội, mà muốn rước Lễ, thì họ hãy ăn năn
tội, là được rước Lễ, Chúa tha hết mọi tội cho họ, với điều kiện, sau Lễ họ phải tìm Linh mục để xưng tội trọng đã phạm
trước khi rước Lễ, càng sớm càng tốt (x. Giáo Luật số 916)! Thánh Phaolô
xác quyết: “Án phạt không có nữa cho
những ai ở trong Đức Kitô” (Rm 8, 1). Mỗi khi rước Lễ, chắc ta không thể
quên được Lời Chúa đã nói về ta: “Ngày
mới sinh ra, ngươi đã bị quăng ra giữa đồng, vì ai cũng ghê tởm ngươi. Ta đi
ngang qua chỗ ngươi và thấy ngươi giãy giụa trong máu. Thấy ngươi mình đầy máu
me, Ta đã phán với ngươi: “Cứ việc sống”. Ta đã làm cho ngươi nảy nở như hoa
ngoài đồng, như một thiếu nữ đến tuổi dậy thì. Nhưng ngươi vẫn trần truồng
không vải che thân. Ta đi ngang chỗ ngươi và thấy ngươi. Này ngươi đã đến tuổi
yêu đương. Ta đã lấy vạt áo của Ta phủ lên để che thân thể lõa lồ của ngươi. Ta
đã thề nguyền và lấy lập Giao Ước với ngươi: Ngươi thuộc về Ta. Ta đã lấy nước
tắm rửa, gột sạch máu me, rồi Ta xức
dầu thơm cho ngươi. Ta đã cho ngươi mặc đồ gấm vóc, đi giày da mềm, thắt khăn
vải gai mịn và khoác toàn tơ lụa. Ta đã lấy đồ trang sức tô điểm cho ngươi, đeo
xuyến vào tay, đeo kiềng vào cổ, đeo hoa tai cho ngươi và lấy triều thiên rực
rỡ đội lên đầu ngươi. Đồ trang sức của ngươi đều là vàng bạc, y phục của ngươi
là vải gai mịn, tơ lụa và gấm vóc, ngươi được nuôi bằng tinh bột lúa miến, mật
ong và dầu. Ngươi đã nên xinh đẹp tuyệt trần và xứng ngôi hoàng hậu” (Ed 16,
5-13).
Đối với người
trong tình trạng nguy tử còn mang tội trọng, cần được Linh mục giải tội, xức
dầu rồi cho rước Lễ, nhưng khi không thể mời được Linh mục, thì bất cứ người
Công Giáo nào cho bệnh nhân rước Lễ, thì cũng giống như đã gặp được Linh mục
cho lãnh các Bí Tích cuối đời. Giáo Luật số 921 dạy: “Các Kitô hữu lâm cơn nguy tử, dù vì bất cứ lý do nào, cần được bổ dưỡng
bằng việc rước Lễ như của ăn đàng”.
Sách Giáo Lý
Mới (năm 1992) của Hội Thánh Công Giáo dạy:
-
Việc rước Lễ giúp ta xa lánh tội lỗi, khi chúng ta rước lấy Mình
Chúa Kitô “đã phó nộp vì ta” và Máu “đã đổ ra cho mọi người được tha tội”. Vì
thế, Bí Tích Thánh Thể không thể kết hợp chúng ta với Chúa Kitô, nếu Chúa Kitô
không thanh tẩy chúng ta khỏi tội đã phạm và giúp chúng ta xa lánh tội lỗi (số
1393).
-
Nhờ tình yêu mà Bí Tích Thánh Thể khơi dậy trong tâm hồn, chúng
ta được gìn giữ khỏi phạm tội trọng, càng tham dự vào sự sống Chúa Kitô, chúng
ta càng sống mật thiết với Người; nhờ đó giảm bớt nguy cơ phạm tội trọng lìa xa
Chúa (số 1395).
-
Nhờ dự tiệc Thánh Thể, ta được gắn bó với Chúa Giêsu Phục Sinh
chặt chẽ hơn, vì Ngài đã tha các tội nhẹ của ta và bảo vệ ta khỏi phạm tội
trọng (số 1416).
Khi Linh mục
kết thúc Thánh lễ, ngài tuyên bố: “Ite missa est”, nghĩa là “lễ xong chúc anh chị em ra đi bình an”. Lời
này Hội Thánh mượn từ phong tục văn hóa Rôma:
* Khi vua tổ chức tiệc lớn đãi các quan thần, lúc mãn
tiệc, nhà vua đứng lên tuyên bố: “Ite missa est”, là mọi người ra về. Thánh Lễ
là bữa tiệc lớn của Vua Trời thết đãi dân Ngài, ai đến dùng không phải trả đồng
nào, còn được ăn cao lương, được cất nỗi khổ nhục, đánh gục thần chết! (x. Is
25, 6-9)
* Khi quan tòa kết thúc phiên xử, để phân
thắng bại, vị chánh án công bố: “Ite missa est”. Mỗi Thánh Lễ là một phiên tòa,
Chúa đứng về phía ta, bênh vực ta, mà xử Satan, xử thần chết! (x. Ga 12, 27-31;
St 3, 15). Ai tham dự Thánh Lễ, người đó được thắng án!
2/ Ta được
thông dự vào sự sống sung mãn của Chúa Giêsu Phục Sinh.
Đặc biệt nhờ ta hiệp dâng Thánh Lễ
với Hội Thánh, Chúa Giêsu uốn nắn tim ta nên giống trái tim Ngài (x. Pl 2, 5), Ngài
thay thế con tim chai đá của ta bằng con tim biết yêu thương của Ngài (x. Ed 36,
26-27), bồi dưỡng chăm sóc ta thêm mạnh mẽ trên con đường lữ hành tiến về Quê
Trời, và làm cho ta khao khát cuộc sống vĩnh cửu, không còn mê đắm sự đời, và
ngay từ bây giờ, được liên kết với Hội Thánh trên trời, với Đức Trinh Nữ Maria,
Mẹ chúng ta, và với các Thánh là anh em con một Cha trên trời (x. số 1419).
Cử hành Bí Tích Thánh Thể được gọi
là lễ Misa, do từ La-tinh “Missio”, có nghĩa là “được sai đi”. Thánh Lễ kết
thúc với lời Hội Thánh sai các tín hữu đi vào đời thực thi ý Chúa, là làm chứng
cho Chúa Giêsu Phục Sinh (x. GLHT số 1332). Được sai đi loan báo Tin Mừng luôn
phát sinh sự bình an cho người nghe và người giảng. Đức Giêsu nói: “Nếu nhà nào xứng đáng thì sự bình an anh em
chúc sẽ đến trên nhà ấy, nhược bằng nhà ấy không xứng đáng, thì sự bình an anh
em chúc sẽ trở lại về với anh em” (Mt 10, 13). Vì thế mà lời chúc cuối Lễ:
“Chúc anh chị em ra đi bình an”, nghĩa là ra đi rao giảng Tin Mừng mới có bình an
thật, chứ không phải chúc “anh chị em ra về bình an”, làm như là đi Lễ đã
trả nợ xong.
Chỉ làm chứng cho
Chúa khi ta được đồng hóa với Chúa Giêsu Phục Sinh (x. Gl 2, 20). Sống như thế,
ta mới được hân hoan cất lời: “Này tôi
được ở đền Người, những ngày tháng, những năm dài triền miên” (Tv 23/22, 6cd:
Đáp ca).
II. CHÚNG TA
ĐƯỢC CHÚA MỜI GỌI CỘNG TÁC ĐỂ LÀM HOÀN HẢO HY LỄ CỦA NGÀI
Thực vậy, Giáo Luật số 906 dạy: “Nếu
không có lý do chính đáng và hợp lý, tư tế không được cử hành lễ Thánh Thể, nếu
không có ít là một vài giáo dân tham dự”. Như vậy Thánh Lễ nào cũng
phải đồng tế. Nghĩa là Chúa Giêsu không muốn dâng Lễ một mình, mà Ngài muốn mọi
người cộng tác. Vì thế thánh Tông Đồ nói: “Tôi
vui sướng trong các nỗi thống khổ vì anh em, và trong thân xác tôi, tôi bù đắp
những gì còn thiếu, nơi các nỗi quẫn bách Đức Kitô phải chịu, vì Thân Mình Ngài
là Hội Thánh” (Cl 1, 24). Chính vì thế mà khi Chúa Giêsu nhìn thấy dân
chúng theo Ngài đã ba ngày như muốn đói lả, làm tâm hồn Ngài thổn thức mà nói với
các môn đệ: “Thầy chạnh lòng thương đám
đông, vì họ ở luôn với Thầy đã ba ngày rồi và họ không có gì ăn. Thầy không
muốn giải tán họ, để họ nhịn đói mà về, sợ rằng họ bị xỉu dọc đường. " Các
môn đệ thưa: "Trong nơi hoang vắng này, chúng con lấy đâu ra đủ bánh cho
đám đông như vậy ăn no? " Đức Giêsu hỏi: "Anh em có mấy chiếc bánh? " Các ông đáp: "Thưa có bảy chiếc bánh và một ít cá nhỏ.
" Bấy giờ, Người truyền cho đám đông ngồi xuống đất. Rồi Người cầm lấy bảy
chiếc bánh và mấy con cá, dâng lời tạ ơn, bẻ ra, trao cho môn đệ, và môn đệ
trao cho đám đông. Ai nấy đều ăn và được no nê. ” (Mt 15, 32-37a: Tin Mừng).
Rõ ràng Chúa Giêsu là Đấng toàn năng,
Ngài có quyền mưa bánh xuống cho dân, như xưa trong sa mạc Thiên Chúa đã mưa
manna nuôi dân Do Thái (x. Xh 16). Thế nhưng, Ngài lại muốn lệ thuộc vào sự
nghèo khó của các Tông Đồ: họ chỉ có bảy chiếc bánh và mấy con cá. Số lương
thực này không đủ cho Nhóm Mười Hai trong lúc đói. Thế mà họ đã sẵn sàng đưa
bánh cá cho Thầy Giêsu, đó còn là dấu chỉ sau này họ hiến cả mạng sống vì Tin
Mừng, để làm hoàn hảo Hy Tế của Thầy.
Vậy:
1/
Khi dâng Lễ chủ tế phải bắt chước
Tông Đồ Phaolô trong sứ mệnh ngôn sứ, ông đến Trôa giảng suốt một tuần lễ, ngày
cuối cùng, ông hăng say giảng đến nửa đêm, người ta ngồi chật nhà, có người
phải leo lên tới lầu ba, trong số ấy, có anh Êutykhô, vì buồn ngủ, cứ “gật gù
nhất trí” nghe ông Phaolô giảng, thế là anh té nhào đầu lộn xuống đất – cách
mặt đất khoảng 10 m – anh đã chết, cả cộng đoàn xôn xao. Tuy vậy mà thánh
Phaolô vẫn ra lệnh cho mọi người ngồi yên, rồi ông đến ôm lấy anh Êutykhô và
nói: “Hồn vẫn còn trong nó”. Rồi ông lại
tiếp tục giảng say sưa cho đến sáng! Rất may sau khi ông Phaolô kết thúc buổi
giảng, mọi người ra về, thì anh Êutykhô cũng đứng dậy, bước theo đoàn người
trong bình an và vui vẻ! (x. Cv 20, 7t)
Chứng từ nói về người giảng Lời Chúa
cũng như người nghe trong thời Hội Thánh sơ khai trên đây đã nhấn mạnh cho mọi
người hôm nay phải xác tín: Người giảng
phải dựa vào Hiến Chế Phụng Vụ số 24, số 52, và giảng với tinh thần say sưa mới
có thể bắt mọi người phải nghe nhiều điều giống Chúa Giêsu, mà xem ra chẳng để
ý đến nhu cầu của người nghe! (x. Mc 6, 34) Thánh Phaolô nói: “Thiên
Chúa đã giao phó Tin Mừng cho chúng tôi, không phải để làm vừa lòng người phàm,
mà để làm đẹp lòng Thiên Chúa” (1Tx. 2, 4). Bởi vì “nếu tôi luôn làm hài lòng người đời, tôi không còn phải là nô lệ của
Đức Kitô” (Gl 1, 10). Có tinh thần giảng như thế mới giống Thầy Giêsu, Vị
Ngôn Sứ gương mẫu nhất, vì đã hết lòng rao giảng cho dân, là lo cho họ được ăn
Lời Hằng Sống của Thiên Chúa, trong khi đó dân chỉ đi tìm của ăn vật chất cúng cho
“thần bụng”, còn Ngài thì cứ muốn cho họ ăn Thịt và uống Máu Ngài, khiến họ ghê
tởm, trở mặt chống đối Ngài, cả đoàn lũ đông đảo, trong đó có các môn đệ nhất
loạt bỏ Ngài mà đi, thế mà Ngài vẫn không hối hận, lại còn như thách thức Nhóm
Mười Hai: “Cả chúng con cũng không bỏ đi
sao?” (x. Ga 6, 27-66).
Vì thế mà giáo huấn của Công Đồng
Vat. II nhắc nhở cho các chủ chăn phải chu toàn sứ mệnh ngôn sứ:
C Giáo huấn của Công Đồng Vat.
II trong Hiến Chế Hội Thánh số 25, nhấn mạnh về sứ mệnh ngôn sứ của các Giám
mục: “Việc rao giảng Phúc Âm là một nhiệm
vụ trổi vượt trong các nhiệm vụ chính yếu của Giám mục, Giám mục là những người
rao truyền Đức Tin, đem nhiều môn đệ mới về với Chúa Kitô. Giám mục là những
Tiến sĩ đích thực nghĩa là có uy quyền của Chúa Kitô, giảng dạy cho những kẻ
được trao phó cho các ngài”.
C Hội Thánh cũng nhắc nhở: “Cha Sở phải lo huấn luyện Giáo Lý cho người
lớn, thanh niên và trẻ em. Cha Sở phải cổ võ và thúc đẩy cha mẹ chu toàn bổn
phận dạy Giáo Lý trong gia đình. Đây là nhiệm vụ riêng biệt và nặng nề trong
việc dạy Giáo Lý cho dân Chúa” (x. Giáo Luật số 773 và 776). Giáo Luật còn
dạy: “Các Linh mục có nhiệm vụ riêng là
phải loan báo Tin Mừng của Chúa, đây là nhiệm vụ bắt buộc, nhất là cha Sở và
những Linh mục khác được ủy thác việc coi sóc các linh hồn” (số 757).
C Vì thế mà giáo huấn của
Công Đồng Vat. II trong Sắc Lệnh “Chức Vụ Và Đời Sống Linh Mục” số 4 dạy: “Dân
Chúa được đoàn tụ trước nhất là nhờ Lời Thiên Chúa hằng sống, Lời này đặc biệt
tìm thấy nơi miệng lưỡi các Linh mục, và các Linh mục mắc nợ giáo dân về Lời
Chúa”.
Một Linh mục khi
dâng Lễ phải xác tín rằng: Không cho giáo dân ăn Lời Chúa – Lời đã trở thành
thịt mình, là sự sống của mình - mà chỉ dùng quyền chức Linh mục đọc lời Truyền
Phép trên bánh rượu trở thành Chúa Giêsu Phục Sinh để ban cho dân, thì đó chỉ
là “CHÚA GIÊSU CÀ THỌT”. Bởi vì trong
trình thuật Hóa Bánh, tiên báo về mầu nhiệm Thánh Thể, Đức Giêsu không tự ý
riêng mình cho dân ăn, mà Ngài còn bảo các Tông Đồ: “Chúng con hãy cho dân ăn đi” (x. Mt 14, 13t). Hỏi khi một vị dâng Lễ,
vị đó lấy cái gì là “bánh của mình” dâng cho Chúa Giêsu để cho dân ăn, nếu
không phải là chính Lời Chúa mà Linh mục đã vất vả thu góp và suy gẫm từ các bài
Kinh Thánh mà Hội Thánh đã chọn đọc trong Thánh Lễ, như một người bố vất vả đi
kiếm tiền, kiếm của để nuôi con cái mình?! Chủ chăn nào thiếu sót trong việc
rao giảng Lời Chúa, thì họ đã phạm tội giết cả hồn xác giáo dân. Thiết tưởng, mọi
chủ chăn trong Hội Thánh phải nói được như thánh Phaolô: “Khốn cho tôi, nếu tôi không loan báo Tin Mừng, tự ý làm việc ấy thì tôi
có công, còn nếu ngoài ý tôi, thì đó là trách nhiệm Chúa đã ký thác cho tôi!”
(1Cr 9, 16-17) Và ông còn nói: “Tôi cam đoan rằng, tôi hoàn toàn trong sạch
về máu mọi người, vì tôi đã không e ngại mà giấu giếm đi, để không loan báo cho
anh em tất cả ý định của Thiên Chúa” (Cv 20, 26-27).
Thánh Phaolô xác
quyết như thế vì dẫu trước khi ông trở lại Công Giáo, ông đã hành hạ và tống
ngục các Kitô hữu, nhưng lúc đó ông bị lầm lạc, mù quáng! (x. Cv 7-9) Ông có
giết thân xác người Kitô hữu, thì hồn họ bay ngay về trời. Còn bây giờ nếu ông e
ngại mà giấu giếm đi không loan báo cho các tín hữu tất cả ý định của Thiên
Chúa, thì ông đã cố ý giết cả hồn lẫn xác đồng loại, và quăng họ xuống Hỏa
ngục! Nhất là các Giám mục, Linh mục, Phó tế đã biết Luật giảng Hội Thánh quy
định:
-
Hiến Chế Phụng Vụ số 24: “Việc cử hành Phụng Vụ, Kinh Thánh giữ vai
tối ư quan trọng. Thực vậy, Hội Thánh đã trích từ Kinh Thánh những Bài để đọc, những
Bài để dẫn giải trong bài giảng”.
-
Hiến Chế Phụng Vụ số 52: “Bài giảng phải căn cứ vào Kinh Thánh để
trình bày các mầu nhiệm Đức Tin và những Quy Tắc cho đời sống Kitô hữu trong
suốt chu kỳ năm Phụng Vụ. Bài giảng rất đáng được coi như một phần của chính
Phụng Vụ, nên không được bỏ giảng nếu không có lý do hệ trọng”.
Nhưng tiếc rằng
hầu hết giáo dân chỉ được nghe cắt nghĩa một câu trong Tin Mừng là may lắm, còn
các Bài đọc kia ít được người giảng lưu tâm, để cho giáo dân thấy một sợi dây Giáo
Lý xuyên suốt qua các Bài đọc vượt thời gian, dựa trên nguyên tắc đọc và hiểu
Kinh Thánh: “Giá trị Cựu Ước được thể
hiện trong Tân Ước; giá trị trong Tân Ước đã được tiềm ẩn trong Cựu Ước”
(HCMK số 16). Nếu chỉ lấy một câu trong Phúc Âm để giảng giải mà không tham
chiếu các Bài đọc, thì chẳng hơn gì các mục sư Tin Lành, đó chỉ là lời khuyên
đạo đức “ăn ngay ở lành”, chẳng hơn gì lý thuyết của Mác-Lê! Ai cắt xén Lời
Chúa trong Phụng Vụ, người đó chống Thiên Chúa. Ta không quên có lần Đảng viên
Cộng sản Việt Nam đã cắt xén lời Đức Tổng Ngô Quang Kiệt, để lấy cớ kết án: “Ông Kiệt làm nhục dân tộc Việt Nam, ông đã
mắc tội với nhân dân!”
Giả như có người
mời ta đến ăn món tái nhúng, chắc chắn trên bàn tiệc phải bày ra năm món:
-
Thịt (tôm, cá).
-
Rau.
-
Bánh tráng.
-
Bún.
-
Nước chấm.
Thế mà người
phục vụ bàn ăn chỉ cho khách ăn một trong năm món đó, hỏi chủ tiệc và người đến
dự có bất mãn không? Phục vụ như thế lần sau người khách đó có được mời, chắc
chắn sẽ từ chối. Thế mà bàn tiệc Lời Chúa của ngày Chúa nhật và lễ Trọng, Hội
Thánh cũng dọn ra đủ “năm món” để mọi người được dùng (Bài đọc I, Đáp ca, Bài
đọc II, Tung Hô Tin Mừng, và Phúc Âm), mà ngày nay phần lớn những người phục vụ
bàn tiệc Lời Chúa chỉ cho dân “ăn” một trong năm Bài đọc của tiệc Thánh Thể, mà
chẳng ai cắn rứt lương tâm, chẳng ai thấy vô lý! Như thế là mất ý thức về tội!
Chúa
đã dùng miệng ngôn sứ Malaki cảnh cáo rất gắt gao các tư tế: “Hỡi các tư tế, nếu các ngươi không nghe, và nếu
các ngươi không lưu tâm tôn vinh danh Ta, Ta sẽ phóng dữ xuống trên các ngươi
và Ta sẽ chúc dữ cho sự chúc lành của các ngươi. Phải, Ta sẽ chúc dữ cho nó. Vì
các ngươi chẳng lưu tâm gì cả. Này Ta sẽ chặt cánh tay các ngươi, và sẽ vãi
phân lên mặt các ngươi, và người ta sẽ mang các ngươi đi vất ngoài thành cùng
đồ phế thải của vật tế lễ ” (Ml 2, 1-3). Hãy nhớ Lời Kinh Thánh dạy: “Kẻ không chu đáo việc bổn phận của mình, nó
thuộc dòng tộc quân phá hoại!” (Cn 18, 9).
2/ Đối với giáo dân. Chúa muốn mọi người thực
thi Lời Ngài dạy: “Hãy tìm kiếm Nước
Thiên Chúa trước và sự công chính của Ngài, còn các điều khác Ngài ban thêm cho”
(Mt 6, 33), chứ “đừng lấy cái bụng làm
chúa, vinh quang đặt nơi điều đáng xấu hổ, chỉ nghĩ đến những điều dưới đất”
(Pl 3, 19). Đan cử: một đoàn lũ dân chúng đông đảo đến với Đức Giêsu và họ lưu
lại với Ngài đã ba ngày, chấp nhận bụng đói, chỉ vì muốn được Ngài làm phép lạ,
chữa lành hết mọi kẻ bệnh hoạn tật nguyền, và mong được Ngài cho bánh ăn no (x.
Mt 15, 29-37: Tin Mừng). Nếu chỉ tin vào Đức Giêsu vì chứng kiến những phép lạ
lẫy lừng Ngài làm, điều đó không làm cho Ngài hài lòng. Thực vậy “trong
thời Ngài ở tại Giêrusalem vào dịp lễ Vượt Qua, thì trong đám người chầu lễ đã
có lắm kẻ tin vào danh Ngài, bởi chứng kiến các dấu lạ Ngài làm. Nhưng Đức
Giêsu không tín nhiệm họ, vì Ngài biết họ hết thảy” (Ga 2, 23-24).
Vậy
Đức Giêsu chỉ muốn người ta quảng đại đến nghe Lời Chúa, như các tín hữu thời
Giáo Hội sơ khai: “Sáng sớm toàn dân đến
với Đức Giêsu trong Đền Thờ để nghe Ngài giảng dạy” (x. Lc 21, 38), cũng
như “ngày ngày họ đồng tâm nhất trí chuyên
cần đến Nhà Thờ để nghe giáo huấn của các Tông Đồ, hiệp thông bẻ bánh (dâng Lễ)
và kinh nguyện” (x. Cv 2, 42. 46). Phải có tâm hồn sống Đạo như thế mới
được Chúa thanh tẩy tội lỗi, và những nhu cầu của thân xác như được lành bệnh
và chẳng thiếu của vật chất, Ngài sẽ ban cho dư dật, để được hân hoan nói: “Kìa Chúa đến cứu độ dân Người; phúc thay ai
sẵn sàng nghênh đón Chúa” (Tung Hô Tin Mừng).
THUỘC LÒNG
Kẻ không chu toàn việc bổn phận của mình, (nhất là sứ mệnh ngôn
sứ), nó thuộc dòng giống quân phá hoại! (Cn 18, 9)
Lm GIUSE ĐINH QUANG THỊNH