Lời Chúa cnmv 4a _ Chúa ở cùng chúng ta

CHÚA Ở CÙNG CHÚNG TA
Khi không còn ai lắng nghe tôi nữa, Chúa vẫn nghe tôi. Khi tôi không còn có thể tâm sự hay kêu cầu được với ai, tôi luôn luôn có thể thưa với Chúa. Khi không còn ai giúp tôi biết xử sự thế nào trước nhu cầu hay mong đợi vượt quá khả năng hy vọng của con người, Chúa có thể giúp tôi...  
Lm. HK
Một người cha nhận được tin con trai, một cậu bé thông minh xuất sắc, đã chết trong một tai nạn đường sắt. Ông quay sang vị linh mục, chất vấn trong đau đớn: “Chúa ở đâu khi con tôi chết?”
Vị linh mục nhẹ nhàng trả lời: “Chúa ở đâu khi Con Một Chúa chết trên cây thánh giá, Ngài cũng ở đấy khi con ông chết.”
Một câu trả lời giản dị nhưng lại nói lên tình yêu bao la của Chúa khi sai Ngôi Hai xuống thế làm người. Một tình yêu hoàn hảo và tinh tuyền xoá tan mọi ngăn cách giữa Đấng Cực Thánh và con người, và… Thiên Chúa ở cùng chúng ta!
Đó là một chân lý không ai dám xướng lên nếu không bởi lời Chúa. Thiên Chúa ở cùng chúng ta, còn gì lớn hơn mà Chúa có thể ban cho con người?! Ơn cứu độ là thế: Tên của Đấng Cứu Thế là Giêsu (Giavê cứu) và Emmanuel (Thiên Chúa ở cùng chúng ta).
Được Chúa ở cùng là tột đỉnh của ơn cứu độ! 
Thế nhưng câu chuyện Ađam-Eva năm xưa vẫn tái diễn trong lịch sử nhân loại, đặc biệt trong xã hội hôm nay, với điệp khúc “làm chi có Chúa Trời!”, mà cái hậu quả đáng buồn là “người người đã lìa xa chính lộ, chỉ biết theo nhau làm chuyện suy đồi, chẳng có một ai làm điều thiện, dẫu một người cũng không.” (Tv 14,4)
Mọi sự suy đồi đều bắt đầu từ sự vắng bóng Thiên Chúa. Những cái lắc đầu, nhíu mày, nhăn trán trước cảnh người trẻ truỵ lạc, sa đọa hôm nay từ đâu mà ra nếu không phải từ sự từ khước niềm tin vào Thiên Chúa, nơi các nước văn minh, và đặc biệt nơi Việt nam?
Bài phỏng vấn ngày 26.12.2006 của phóng viên Lâm Vũ (Hanoimoi) với thạc sĩ Nguyễn Duy Ánh, phó giám đốc bệnh viện phụ sản Hà nội, cho biết “số trẻ tại TP. HCM và Hà Nội chào đời thấp hơn số trẻ bị phá. Năm 2005, Việt Nam có 1 triệu 400 nghìn ca nạo phá thai trong đó 500 nghìn ca ở tuổi vị thành niên.”
Giữa thực trạng u tối, bế tắc của xã hội hôm nay, thông điệp Spe Salvi (Được cứu độ trong hy vọng) là ngọn nến ĐGH Bênêđíctô 16 thắp lên cho nhân loại ngay từ những dòng đầu tiên: “Ơn cứu chuộc được ban cho chúng ta theo nghĩa là chúng ta đã được trao cho hy vọng – một niềm hy vọng đáng tin cậy, qua đó, chúng ta có thể đối diện với thực tại của chúng ta: thực tại mà cho dù là cam go đi nữa cũng có thể sống được và chấp nhận được nếu nó dẫn đến một mục đích, nếu chúng ta có thể được bảo đảm về mục đích này, và nếu mục đích này cao cả đến mức biện minh được cho nỗ lực cam go của cuộc hành trình.”
Số 23 của thông điệp này vạch ra nguyên nhân sâu xa mọi bế tắc trong xã hội hôm nay: “những ai không biết đến Thiên Chúa, cho dù người ấy có tràn trề mọi loại hy vọng, thì tối hậu cũng chỉ là vô hy vọng, cũng không có một hy vọng cao cả nâng đỡ toàn bộ cuộc đời (x Eph 2:12).”
Lời từ khước Thiên Chúa không chỉ đến từ người vô thần, mà có khi từ Dân Chúa, đội lốt vẻ tôn kính Ngài. Lời vua Achaz “Tôi sẽ không xin, vì tôi không dám thử thách Chúa.” chỉ là một cách từ chối, không để Chúa can thiệp vào kế hoạch của mình. Sự thiếu lòng tin tưởng đó làm Chúa phiền lòng: “Hỡi nhà Đavít, làm phiền lòng người ta chưa đủ ư, mà còn muốn làm phiền lòng Thiên Chúa nữa sao?” (Is 7,12-13) Ngày nay không thiếu những người tổ chức lễ Giáng sinh thật linh đình nhưng… xin Chúa đừng xen vào!
Sự cứng lòng của nhân loại không thể giết chết mà càng làm toả sáng tình yêu Chúa. “Đức Kitô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi; đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta.” (Rm 5,8). Vì yêu thương, “chính Chúa sẽ cho các ngươi một dấu, này đây một trinh nữ sẽ thụ thai, hạ sinh một con trai, và tên con trẻ gọi là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta.” (Is 7,14) 
Thiên Chúa ở cùng chúng ta, nhưng không phải ai cũng dễ dàng nhận ra. Thánh Giuse như một tia sáng bừng lên giữa bóng đêm thiếu vắng hy vọng của xã hội hôm nay: giữa đêm tối luôn mau mắn nhận ra ánh sáng từ trời cao và thực thi thánh ý. Ngài thật xứng đáng là đấng bảo hộ cho Chúa Giêsu, Niềm Hy Vọng của nhân loại.
Vâng, đời sống cầu nguyện được thông điệp Spe Salvi (số 32) coi như trường học của hy vọng: “Bối cảnh thiết yếu đầu tiên cho việc học hỏi hy vọng là cầu nguyện. Khi không còn ai lắng nghe tôi nữa, Chúa vẫn nghe tôi. Khi tôi không còn có thể tâm sự hay kêu cầu được với ai, tôi luôn luôn có thể thưa với Chúa. Khi không còn ai giúp tôi biết xử sự thế nào trước nhu cầu hay mong đợi vượt quá khả năng hy vọng của con người, Chúa có thể giúp tôi. Dù tôi bị đắm chìm ngập lụt trong cô liêu hoàn toàn...; nếu tôi cầu nguyện thì tôi không bao giờ hoàn toàn đơn côi. Đức cố Hồng Y Nguyễn Văn Thuận, một người tù trong 13 năm, trong đó có 9 năm bị biệt giam, đã để lại cho chúng ta cuốn sách nhỏ quí giá: Những Lời Cầu Nguyện của Niềm Hy Vọng. Trong vòng 13 năm tù đầy, trong một tình trạng hầu như là tuyệt vọng, sự kiện là ngài có thể lắng nghe và thân thưa với Chúa đã trở nên một quyền năng hy vọng gia tăng cho ngài, khiến ngài, sau khi ra khỏi tù, đã trở nên một chứng nhân hy vọng cho dân chúng trên toàn thế giới – chứng nhân của một niềm hy vọng lớn lao không tàn lụi ngay cả trong những đêm đen của cô liêu.” 
Như thế, có thể coi sự mau mắn của thánh Giuse trước thánh ý Chúa là linh dược cho thế giới hôm nay!
Vâng, giữa đêm tối, tôi hãy cầu nguyện. Chúa sẽ ở cùng tôi như lời đã hứa, và tôi có chỗ dựa vững vàng cho niềm hy vọng không bóng tối nào dập tắt được: “Chúa ở cùng chúng ta”