THỨ 5 SAU CHÚA NHẬT 34 THƯỜNG NIÊN
NĂM LẺ
NĂM LẺ
BÀI ĐỌC: Đn 6, 12-28
12 Ngày ấy, các tể tướng và thống đốc của vua Đa-ri-ô đổ xô lại nhà
ông Đa-ni-en và bắt gặp ông đang cầu nguyện và thống thiết nài van Thiên Chúa
của ông. 13 Rồi họ tới yết kiến vua và nhắc đến lệnh cấm của vua:
"Đức vua đã chẳng châu phê lệnh cấm đó sao? Theo lệnh cấm này, trong ba
mươi ngày sắp tới, bất cứ ai cầu xin thần nào hay người nào ngoài đức vua thì
sẽ bị quăng vào hầm sư tử. " Vua đáp lại rằng: "Đúng vậy, chiếu theo
luật không thể huỷ bỏ của dân Mê-đi và Ba-tư thì đúng như vậy. "14
Bấy giờ họ thưa với vua rằng: "Tâu đức vua, trong đám dân Giu-đa lưu đày, có
tên Đa-ni-en không đếm xỉa gì tới đức vua cũng như tới giới lệnh đức vua đã
châu phê. Ngày nào y cũng cầu nguyện đến ba lần. "15 Nghe lời
ấy, vua rất đau lòng và để tâm tìm cách cứu ông Đa-ni-en. Vua cố sức giải cứu
ông Đa-ni-en mãi cho đến lúc mặt trời lặn. 16 Bấy giờ những người
kia lại kéo nhau đến gặp vua và tâu rằng: "Tâu đức vua, xin đức vua biết
cho rằng theo luật của dân Mê-đi và dân Ba-tư, thì mọi giới lệnh và sắc chỉ nhà
vua đã ban đều bất di bất dịch. "
7
Bấy giờ vua đành hạ lệnh, và người ta đưa ông Đa-ni-en đi quăng vào hầm sư tử. Vua
lên tiếng nói với ông Đa-ni-en: "Vị thần mà ngươi bền lòng phụng sự, chính
vị ấy sẽ cứu ngươi! "18 Người ta đem một phiến đá tới đặt trên
miệng hầm. Vua lấy ấn của mình và ấn của các đại thần niêm phiến đá lại để
không còn thay đổi gì được nữa về vụ ông Đa-ni-en. 19 Rồi vua về
cung, suốt đêm không ăn không uống, cũng chẳng cho các cung phi vào hầu. Vua
không tài nào chợp mắt được. 20 Sáng sớm tinh sương, vua đã trỗi dậy,
vội vã đi ra hầm sư tử. 21 Vừa tới gần, vua cất giọng đau đớn gọi
vọng xuống ông Đa-ni-en. Vua lên tiếng nói với ông rằng: "Hỡi Đa-ni-en, người
tôi tớ của Thần hằng sống, vị Thần mà ngươi bền lòng phụng sự, có cứu được
ngươi thoát hàm sư tử không? "22 Bấy giờ ông Đa-ni-en đáp lại:
"Hoàng thượng, vạn vạn tuế!23 Thiên Chúa của thần đã sai thiên
sứ đến khoá hàm sư tử khiến chúng không hại được thần, bởi vì trước mặt Người, thần
đã được nhìn nhận là vô tội, và, tâu đức vua, ngay trước nhan ngài, thần cũng
chẳng làm điều gì ác. "24 Lúc ấy, vua rất vui mừng, truyền kéo
ông Đa-ni-en lên khỏi hầm. Và ông được kéo lên, không một vết thương trên mình,
bởi vì ông đã tin cậy vào Thiên Chúa của ông. 25 Vua liền truyền
điệu những người kia đến, họ là những kẻ đã vu khống cho ông Đa-ni-en; rồi vua
ra lệnh quăng họ cùng với vợ con vào hầm sư tử. Những người này chưa đụng tới
nền hầm, thì sư tử đã vồ lấy chúng mà nghiền nát xương.
Bấy giờ vua Đa-ri-ô viết cho tất cả những
người thuộc các dân tộc, quốc gia và ngôn ngữ trên khắp cõi đất: "Chúc các
ngươi vạn sự bình an!27 Đây là lệnh ta truyền: trên toàn lãnh thổ
vương quốc ta, mọi người phải run rẩy kính sợ trước mặt vị Thần của Đa-ni-en:
bởi vì Người là vị Thần hằng sống và tồn tại muôn đời; vương quốc của Người sẽ
chẳng hề suy vong, quyền thống trị của Người vô cùng vô tận. 28
Người giải thoát, giữ gìn, Người làm những dấu lạ điềm thiêng trên trời cùng
dưới đất. Người đã giải cứu Đa-ni-en khỏi móng vuốt sư tử. "
ĐÁP CA: Đn 3
Đ. Muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy tôn. (c
59b)
(68) Chúc tụng Chúa đi, nào sương đọng mưa
tuôn, muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy tôn. (69) Chúc tụng Chúa đi, kìa
thời đông tiết giá, muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy tôn. (70) Chúc
tụng Chúa đi, này băng phủ tuyết rơi, muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy tôn. (71)
Chúc tụng Chúa đi, hỡi đêm ngày đắp đổi, muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy tôn.
(72) Chúc tụng Chúa đi, ánh sáng và bóng
tối, muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy tôn. (73) Chúc tụng Chúa đi, chớp
giật với mây trôi, muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy tôn. (74) Chúc
tụng Chúa đi, tất cả mười phương đất, muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy tôn.
TUNG HÔ TIN MỪNG: Lc 21, 28
Hall-Hall: Anh em hãy đứng thẳng và
ngẩng đầu lên, vì anh em sắp được cứu chuộc. Hall.
TIN MỪNG: Lc 21, 20-28
20 Khi ấy, Đức Giê-su nói
với các môn đệ rằng: "Khi anh em thấy thành Giê-ru-sa-lem bị các đạo binh
vây hãm, bấy giờ anh em hãy biết rằng đã gần đến ngày khốc hại của thành. 21
Bấy giờ, ai ở miền Giu-đê, hãy trốn lên núi; ai ở trong thành, hãy bỏ đi nơi
khác; ai ở vùng quê, thì chớ vào thành. 22 Thật vậy, đó sẽ là những
ngày báo oán, ngày mà tất cả những gì đã chép trong Kinh Thánh sẽ được ứng
nghiệm. 23 Khốn thay những người mang thai và những người đang cho
con bú trong những ngày đó!
"Vì
sẽ có cơn khốn khổ cùng cực trên đất này, và cơn thịnh nộ sẽ giáng xuống dân
này. 24 Họ sẽ ngã gục dưới lưỡi gươm, sẽ bị đày đi khắp các dân các
nước, và Giê-ru-sa-lem sẽ bị dân ngoại giày xéo, cho đến khi mãn thời của dân
ngoại.
25 "Sẽ có những điềm lạ
trên mặt trời, mặt trăng và các vì sao. Dưới đất, muôn dân sẽ lo lắng hoang
mang trước cảnh biển gào sóng thét. 26 Người ta sợ đến hồn xiêu
phách lạc, chờ những gì sắp giáng xuống địa cầu, vì các quyền lực trên trời sẽ bị
lay chuyển. 27 Bấy giờ thiên hạ sẽ thấy Con Người đầy quyền năng và
vinh quang ngự trong đám mây mà đến. 28 Khi những biến cố ấy bắt đầu
xảy ra, anh em hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lên, vì anh em sắp được cứu chuộc. "
CHỈ THIÊN CHÚA
BIẾN DỮ RA LÀNH
Tin Mừng hôm nay (Lc 21, 20-28),
tác giả Luca ghi lại Lời Đức Giêsu nói tiên tri về biến cố đau thương nhất của
dân tộc Do Thái vào năm 70: Quân Roma kéo đến phá bình địa đền thờ Giêrusalem, dân
Israel người thì bị giết, kẻ bị bắt làm tù binh, tản đi khắp nơi và như thế
nước Israel bị xóa tên trên bản đồ thế giới cho đến ngày nay, dù sau Đệ nhị thế
chiến Liên Hiệp Quốc tạo điều kiện cho Israel trở về tái lập quốc gia, nhưng
hơn nửa thế kỷ nay, Israel vẫn chưa xác định được ranh giới quốc gia của mình, vì
giữa Israel và Palestin luôn gây chiến, tranh nhau từng tấc đất.
Chúng ta hãy tìm hiểu ý
nghĩa biến cố này:
-
Về mặt lịch sử.
-
Về dấu chỉ.
-
Về việc mình phải làm.
I. NHÌN BIẾN
CỐ ISRAEL BỊ PHÁ HỦY VÀO NĂM 70 TRONG LỊCH SỬ.
Đức Giêsu đã cho người Do Thái biết
trước:
- “Bấy giờ, ai ở miền Giuđê, hãy trốn lên núi;
ai ở trong thành, hãy bỏ đi nơi khác; ai ở vùng quê, thì chớ vào thành”
(Lc 21, 21: Tin Mừng).
Nhiều người Do Thái nghe Lời Đức
Giêsu nói như thế, nên vào năm 70 quân Roma kéo đến, có người trốn lên núi, có
kẻ rời thành đi nơi khác, có người đang ở thôn quê không trở về thành, tất cả
họ đều được thoát mạng. Kẻ nào không muốn nghe hoặc không tin Lời Đức Giêsu đã
tiên báo, cứ bám lấy thành như pháo đài an toàn, thì bị giết hoặc bị bắt làm tù
binh.
- “Khốn thay những người mang thai và những
người đang cho con bú trong những ngày đó!” (Lc 21, 23: Tin Mừng)
Khi
quân Roma vây hãm thành Giêrusalem, chúng phân thây người Do Thái để cướp của, trong
số những người bị giết, chúng phát hiện một số ít người đàn bà nuốt tiền vào
bụng để tẩu thoát! Thế là từ bấy giờ lính Roma thấy bất cứ ai to bụng là chúng
giết để tìm của! Thật khốn cho những người đàn bà mang thai, những người đang
cho con bú, họ lấy khăn trùm chạy trốn!!
- “Họ sẽ ngã gục dưới lưỡi gươm, sẽ bị đày đi
khắp các dân các nước, và Giêrusalem sẽ bị dân ngoại giày xéo, cho đến khi mãn
thời của dân ngoại. ” (Lc 21, 24: Tin Mừng)
Dân
Israel lại tin đền thờ Giêrusalem là Thánh Đô của Thiên Chúa, là pháo đài của
dân Chúa chọn, là bùa hộ mệnh cho ai đến nương nhờ, nên họ ồ ạt vào đó để ẩn
thân và chiến đấu. Dù tướng Vespa chỉ huy quân đội Roma đã ra lệnh không ai
được phá Đền Thờ, vậy mà một tên lính Roma chạy ngang qua Đền Thờ, hắn quăng
vào cửa thanh củi đang cháy, thế là Đền Thờ bị thiêu rụi không còn hòn đá nào
chồng trên hòn đá nào! Trong khi đó toàn dân Israel, người thì bị giết, kẻ khác
bị bắt đày đi khắp nơi trên thế giới và miền đất Israel không còn dành riêng
cho họ định cư, như Chúa đã hứa ban cho dòng giống họ mảnh đất chảy sữa và mật
(x Ds 33, 53). Khi người Hồi Giáo gây thánh chiến với Do Thái giáo và Kitô giáo,
họ chiếm nền đền thờ Giêrusalem để xây đền thờ ông Mahômét, vì họ tin Mahômét
mới là Đấng Mêsia được Thiên Chúa sai vào trần gian thực hiện cuộc giải phóng
cho ai tôn thờ Thiên Chúa, gọi là Đấng Ala. Như thế là ứng nghiệm Lời Đức Giêsu
đã nói: “Giêrusalem bị dân ngoại chà đạp”
(Lc 21, 24c).
II. BIẾN CỐ
ĐAU THƯƠNG CỦA DÂN TỘC DO THÁI VÀO NĂM 70 TRỞ THÀNH BA DẤU CHỈ.
C Dấu chỉ thứ nhất: Do Thái
giáo phải nhường chỗ cho Kitô giáo, lý do vào thời ấy nhiều người Israel
sống ở miền Samari bị mang tiếng là lạc đạo hay dân ngoại, vì họ xây Đền Thờ
kính Chúa ở núi Garizim, khác với những người Do Thái tự hào là đạo dòng, đạo
gốc, chỉ thờ Thiên Chúa tại Giêrusalem, mới được Chúa ưng nhận, đúng như Chúa
đã chỉ cho tổ phụ của họ phải xây Đền Thờ kính Chúa ở Giêrusalem (x 1Sb 17).
Đức Giêsu đã giải thích cho người
phụ nữ Samari về việc tôn thờ Thiên Chúa đích thực: “Ngay bây giờ, những kẻ thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Cha trong
Thần Khí và Sự Thật, vì Cha chỉ muốn gặp thấy những kẻ thờ phượng Ngài như thế”
(Ga 4, 23).
-
Thần Khí là Lời Chúa (x Ga 6, 63).
-
Sự Thật là Chúa Giêsu (x Ga 14, 6).
Đó là hai phần chính của Thánh Lễ, Hội Thánh cử hành hằng
ngày theo Lệnh Chúa Giêsu truyền. Như vậy chỉ có Chúa Giêsu mới làm hoàn hảo
giá trị Phụng Vụ Do Thái giáo, đúng như lời Ngài đã nói: “Tôi đến không phải bãi bỏ Luật, nhưng làm hoàn hảo Luật” (Mt 5, 17).
C Dấu chỉ thứ hai: Kẻ nào khước từ Chúa Giêsu, thì chết khốn
nạn đời đời, còn khốn nạn hơn cảnh chiến tranh giữa Do Thái và Roma vào năm
70! Trái lại, ai tin vào Chúa Giêsu là Đấng Chúa Cha sai đến, để mở rộng tâm
hồn đón Ngài qua lời giảng của Hội Thánh và lãnh các Bí tích, đặc biệt là Bí
tích Khai Tâm (Thánh Tẩy, Thêm Sức, Thánh Thể) thì họ được sống dồi dào, đúng
như lời thánh Gioan nói: “Ai có Chúa Giêsu thì sống, kẻ không có Chúa
Giêsu là chết!” (1Ga 5, 12). Vì “ai
không yêu mến Thiên Chúa thì hãy là đồ chúc dữ, xin Chúa đến!” (1Cr 16, 22
– Bản dịch NTT).
C Dấu chỉ thứ ba: Cảnh hoang tàn trút xuống
trên dân Do Thái vào năm 70 là bằng chứng chắc chắn ngày cánh chung
Chúa Giêsu trở lại trần gian, để đón những người công chính về Thiên Đàng, còn
những kẻ khước từ mặc lấy Ngài (x Gl 3, 27) thì bị loại trừ. Như thế ngày cánh
chung vô cùng hân hoan, vui mừng đối với những người được Chúa cứu độ, nhưng vô
cùng kinh hoàng cho những kẻ gian ác, những kẻ không kết hợp với Chúa Giêsu, như
ông Gioan đã được Chúa cho biết trong thị kiến:
- “Một thiên thần từ trời xuống làm cho đất rực
sáng. Người lên tiếng hô mạnh mẽ: “Sụp đổ rồi, sụp đổ rồi, thành Babylon vĩ đại.
Một thiên thần dũng mãnh nhắc một tảng đá to như chiếc cối xay lớn mà ném xuống
biển và nói: “Babylon, thành vĩ đại (Roma), sẽ bị thẳng tay ném đi như thế đó, và người ta sẽ chẳng bao giờ còn tìm
thấy nó nữa! Trong thành ngươi, mọi sinh hoạt đều tắt lịm, sẽ chẳng bao giờ còn
thấy ánh sáng đèn chiếu rọi”.
Đó là bằng chứng
đế quốc Roma bị xóa sổ vào năm 312 do vua Constantino.
- “Sau đó, có tiếng hô lớn của đoàn người đông
đảo ở trên trời vang lên: “Ha-lê-lui-a! Thiên Chúa ta thờ là Đấng Cứu Độ, Đấng
vinh hiển uy quyền! Những Lời Người phán quyết, đều chân thực công minh! Vì
Người đã xét xử con điếm khét tiếng từng dùng chuyện gian dâm mà làm cho mặt
đất ra hư hỏng, và Người đã bắt nó phải đền nợ máu các tôi tớ của Người mà
chính tay nó đã giết. Lần thứ hai lại hô: “Ha-lê-lui-a! Khói lửa thiêu nó cứ
bốc lên đời đời kiếp kiếp. Thiên thần bảo tôi: “Hãy viết: hạnh phúc thay kẻ được mời đến dự tiệc cưới Con Chiên!” (Kh
18, 1-2. 21-23; 19, 1-3. 9a: Bài đọc năm chẵn).
Đó là bằng chứng
những người công chính trong Chúa Giêsu hân hoan vui mừng vì được cứu độ; còn
những kẻ gian ác, kẻ chối từ Chúa Giêsu sẽ bị xét xử nghiêm khắc và bị loại trừ! Đúng như
những hình ảnh Chúa đã dùng văn Khải huyền mà nói với dân: "Sẽ có những điềm lạ trên mặt trời, mặt trăng
và các vì sao. Dưới đất, muôn dân sẽ lo lắng hoang mang trước cảnh biển gào sóng thét. Người ta sợ đến hồn xiêu
phách lạc, chờ những gì sắp giáng xuống địa cầu, vì các quyền lực trên trời sẽ
bị lay chuyển. Bấy giờ thiên hạ sẽ thấy Con Người đầy quyền năng và vinh quang
ngự trong đám mây mà đến. Khi những biến cố ấy bắt đầu xảy ra, anh em hãy đứng
thẳng và ngẩng đầu lên, vì anh em sắp được cứu chuộc. " (Lc 21, 25-28:
Tin Mừng).
Chỉ khi ta hiệp dâng Thánh Lễ với Hội Thánh, ta mới được
Chúa cho “đứng thẳng và ngẩng đầu lên, vì
sắp được cứu chuộc” (Lc 21, 28: Tung Hô Tin Mừng).
- Người đứng thẳng là người công chính
đứng vững trước mặt Thiên Chúa (x Lc 21, 36), không còn cắm mặt xuống chạy trốn
như Cain, vì đã giết em (x St 4, 5).
- Ngẩng đầu lên, tức là
được thoát ra khỏi kiếp thú vật (x Gv 3, 18-19), họ trở thành Hiền Thê của Chúa
Giêsu Phục Sinh, nên “được mời đến dự
tiệc cưới Con Chiên” (Kh 19, 9a:
ĐC năm chẵn). Do đó nếu ta làm theo ý Satan, nó sẽ cướp hết mọi phẩm giá Chúa
đã ban cho ta, đến nỗi phải xấu hổ như kẻ trần truồng (x St 3, 7), nhưng khi ta
hiệp thông Thánh Thể, Chúa Cha “mặc” cho ta chính Con Một Ngài (x Gl 3, 27), hơn
thuở xưa Adam, Eva, chỉ được Chúa may áo da thú mặc cho (x St 3, 21). Vì thế
thánh Phaolô nói: “Xin tôn vinh Đấng có
thể dùng quyền năng đang hoạt động nơi chúng ta, mà làm gấp ngàn lần điều chúng
ta dám cầu xin hay nghĩ tới” (Ep 3, 20).
III. ĐỂ ĐÓN CHỜ CHÚA GIÊSU TRỞ LẠI
ĐƯA TA VÀO NƯỚC THIÊN CHÚA, ta cần phải thực hành Lời Đức Giêsu dạy:
“Hãy
cầu nguyện luôn, đừng nhàm chán” (Lc 18, 1) là kiên trì cầu nguyện xin
Chúa ban cho ta sống Giáo Lý của Hội Thánh dạy giữa bao nghịch cảnh, như bà góa
kiên trì đòi công lý nơi ông thẩm phán bạo ngược (x Lc 18, 1-8), đồng thời ta
hoàn toàn tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa toàn năng, giàu lòng xót thương (x
Ep 2, 4), ban ơn gấp ngàn lần điều ta dám ước mơ cầu xin (x Ep 3, 20).
Đan cử như Đaniel chỉ vì không tôn thờ thần của vua, một chỉ
tôn thờ Thiên Chúa duy nhất, Vua trên các vua, Thần trên các thần, Chúa trên
các chúa. Do đó toàn dân động viên vua Đariô quăng Đaniel vào hang sư tử đang
bị bỏ đói, nhưng nhờ Đaniel luôn cầu nguyện với Chúa, Chúa đã sai thần sứ bịt
mõm sư tử, nhờ thế Đaniel vẫn sống bình an vui vẻ trước miệng sư tử đói meo! Kết
quả, nhà vua phải ra sắc chỉ cho toàn dân thuộc mọi ngôn ngữ trên khắp mặt đất:
“Đây là lệnh ta truyền: trên toàn lãnh
thổ vương quốc ta, mọi người phải run rẩy kính sợ trước mặt vị Thần của Đanien:
bởi vì Người là vị Thần hằng sống và tồn tại muôn đời; vương quốc của Người sẽ
chẳng hề suy vong, quyền thống trị của Người vô cùng vô tận. Người giải thoát, giữ
gìn, Người làm những dấu lạ điềm thiêng trên trời cùng dưới đất. Người đã giải
cứu Đanien khỏi móng vuốt sư tử. ” (Dn 6, 27-28: Bài đọc năm lẻ).
Như thế, Đaniel được Chúa
gìn giữ vô can trong hang sư tử, chỉ vì Đaniel hướng về Giêrusalem cầu nguyện
ba lần trong ngày, khiến vua phải ra sắc chỉ động viên mọi dân mọi tiếng nói
trên toàn thế giới phải cất lời ca tụng Thiên Chúa. Thế thì hôm nay Hội Thánh
cũng dạy chúng ta ngày cầu nguyện ba lần: hai lần trong Kinh Phụng Vụ: Kinh
Sáng, Kinh Chiều, và một lần trong Thánh Lễ, ta mới được bảo đảm ơn cứu độ, diễn
tả người đứng thẳng và ngẩng đầu lên. Vì được bốn ơn này:
a-
Được trở nên con Thiên Chúa
trong Chúa Giêsu, Chúa thế nào ta sẽ được như vậy (x 1Ga 3, 1-2), không còn sống
kiếp thú vật nữa (x Gv 3, 18-19). Vì không loài thú nào chân đạp đất đầu đội
trời giống con người, thú nào cũng đi ngang (cắm mặt xuống đất). Đấy là dấu chỉ
không loài thú nào được Chúa cứu độ.
b-
Được tự do, vì người đứng thẳng và
ngẩng đầu là con cái của tự do, kẻ nô lệ cứ phải còng lưng xuống mà phục vụ chủ.
Đức Giêsu nói: “Ta bảo các ngươi: phàm ai
phạm tội thì là nô lệ. mà nô lệ thì không được lưu lại trong nhà mãi mãi, con
mới lưu lại mãi mãi” (Ga 8, 34-35).
c-
Được trở nên người trưởng
thành về Đức Tin và lòng Mến trong Nước Thiên Chúa. Thánh Phaolô nói: “Khi tôi còn là trẻ con, tôi nói năng như trẻ
con, hiểu biết như trẻ con, suy nghĩ như trẻ con; nhưng khi tôi đã thành người
lớn, thì tôi bỏ tất cả những gì là trẻ con” (1Cr 13, 11). Có nghĩa là khi
con trẻ còn bò chưa đứng lên đi được, thì nó tập nói trước, hiểu sau, lớn lên
mới biết suy nghĩ; trái lại người trưởng thành thì phải suy nghĩ trước, hiểu
rồi mới nói ra. Vì thế thánh Phaolô còn nói: “Phàm ai còn phải dùng sữa (trẻ con), thì không hiểu gì về đạo lý liên
quan đến sự công chính” (Dt 5, 13).
d-
Được Chúa biến dữ ra lành, khác nào ông Stêphanô, lúc
bị ném đá, ông ngẩng đầu lên cầu nguyện, được thấy Chúa Giêsu xuất hiện đang
giơ tay đón ông (x Cv 7, 55t). Mà thật Phó tế Stêphanô phải được ở trong tay
Chúa Giêsu, ông mới có thể nói: “Bây giờ
tôi ngẩng đầu đắc ý, nhìn quân thù vây bủa chung quanh” (Tv 27/26, 6), đặc
biệt Stêphanô đã thắng “sói Saulô”, vì nhờ ông cầu nguyện mà “sói Saulô” trở
thành Tông Đồ Phaolô rất nhiệt tình và xuất sắc trong việc loan báo Tin Mừng, tập
họp nhiều người về dâng lên Chúa không thua kém các Tông Đồ thượng đẳng (x 2Cr
11, 5).
Vậy
ơn Chúa ban cho ta khi tham dự Thánh Lễ hơn lòng mơ ước như thế, ta hãy hiệp
lời chúc tụng Chúa với ba chú bé Do Thái nhảy mừng trong lò lửa: “Muôn ngàn đời, Chúa vẫn trọn tình thương. ”
(Tc Dn 3, 59b: ĐC năm lẻ).
THUỘC LÒNG
Anh em hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lên, vì anh em sắp được cứu
chuộc. (Lc
21, 28b).
Lm Giuse Đinh Quang Thịnh