BÀI ĐỌC I: 2 Mcb
7, 1-2. 9-14
1 Hồi ấy, có bảy anh em
bị bắt cùng với bà mẹ. Vua An-ti-ô-khô cho lấy roi và gân bò mà đánh họ, để bắt
họ ăn thịt heo là thức ăn luật Mô-sê cấm. 2 Thay mặt cho anh em mình,
một người lên tiếng nói: "Vua muốn tra hỏi chúng tôi cái gì? Vua muốn biết
điều gì? Chúng tôi sẵn sàng thà chết chẳng thà vi phạm luật pháp của cha ông
chúng tôi.
9 Khi sắp trút hơi thở
cuối cùng, anh nói: "Vua là một tên hung thần, vua khai trừ chúng tôi ra
khỏi cuộc đời hiện tại, nhưng bởi lẽ chúng tôi chết vì Luật pháp của Vua vũ trụ,
nên Người sẽ cho chúng tôi sống lại để hưởng sự sống đời đời. "
10 Sau người này, đến lượt
người thứ ba bị tra tấn. Vừa được yêu cầu anh liền thè lưỡi, can đảm đưa tay ra,
11 và khẳng khái nói: "Tôi có được lưỡi này, tay này, là do
Chúa Trời ban. Nhưng vì luật Chúa Trời, tôi coi khinh những thứ đó, và tôi hy
vọng nhờ Chúa Trời, tôi sẽ lấy lại được. "12 Nhà vua và quần
thần phải sửng sốt vì lòng can đảm của người thanh niên đã dám coi thường đau
khổ.
13 Người này chết rồi, người
ta cũng tra tấn hành hạ người thứ tư như vậy. 14 Khi sắp tắt thở, anh
nói như sau: "Thà chết vì tay người đời đang khi dựa vào lời Thiên Chúa
hứa mà hy vọng sẽ được Người cho sống lại. Còn vua, vua sẽ không được sống lại
để hưởng sự sống đâu. "
ĐÁP CA: Tv
16
Đ. Lạy Chúa, khi thức giấc,
con được thỏa tình chiêm ngưỡng Thánh Nhan. (c. 15b)
con được thỏa tình chiêm ngưỡng Thánh Nhan. (c. 15b)
1 Lạy Chúa, xin
nghe con giãi bày lẽ phải, lời con than vãn, xin Ngài để ý; xin lắng tai nghe
tiếng nguyện cầu thốt ra từ miệng lưỡi chẳng điêu ngoa.
4b Con tuân giữ mọi
lời Chúa dạy, tránh xa đường lối kẻ bạo tàn, 5 dõi vết chân Ngài, con
không vấp ngã. 6 Con kêu lên Ngài, lạy Thiên Chúa, vì Ngài đáp lời
con. Xin lắng tai và nghe tiếng con cầu.
8 Xin giữ gìn con
như thể con ngươi, dưới bóng Ngài, xin thương che chở, 15 Về phần
con, sống công minh chính trực, con sẽ được trông thấy mặt Ngài, khi thức giấc,
được thoả tình chiêm ngưỡng Thánh Nhan
BÀI ĐỌC II:
2 Tx. 2, 16-3, 5
2 16 Thưa anh em, xin chính Chúa
chúng ta là Đức Giê-su Ki-tô, và xin Thiên Chúa là Cha chúng ta, Đấng yêu
thương chúng ta và đã dùng ân sủng mà ban cho chúng ta niềm an ủi bất diệt và
niềm cậy trông tốt đẹp, 17 xin các Ngài an ủi và cho tâm hồn anh em
được vững mạnh, để làm và nói tất cả những gì tốt lành.
3 1 Sau cùng, thưa anh em, xin anh em
cầu nguyện cho chúng tôi, để lời Chúa được phổ biến mau chóng và được tôn vinh,
như đã thấy nơi anh em. 2 Xin cũng cầu nguyện cho chúng tôi được
thoát khỏi tay người độc ác xấu xa, bởi vì không phải ai cũng có đức tin. 3
Nhưng Chúa là Đấng trung tín: Người sẽ làm cho anh em được vững mạnh, và
bảo vệ anh em khỏi ác thần. 4 Trong Chúa, chúng tôi tin tưởng vào
anh em: anh em đang làm và sẽ làm những gì chúng tôi truyền. 5 Xin
Chúa hướng dẫn tâm hồn anh em, để anh em biết yêu mến Thiên Chúa và biết chịu
đựng như Đức Ki-tô.
TUNG HÔ
TIN MỪNG: Kh 1, 5a. 6b
Hall-Hall: Đức
Giê-su Ki-tô là Trưởng Tử trong số những người từ cõi chết trỗi dậy; kính dâng
Người vinh quang và uy quyền đến muôn thuở muôn đời. Hall.
TIN MỪNG:
Lc 20, 27-38
27 Khi ấy, có
mấy người thuộc nhóm Xa-đốc đến gặp Đức Giê-su. Nhóm này chủ trương không có sự
sống lại. 28 Mấy người ấy hỏi Đức Giê-su: "Thưa Thầy, ông Mô-sê
có viết cho chúng ta điều luật này: Nếu anh hay em của người nào chết đi, đã có
vợ mà không có con, thì người ấy phải lấy nàng, để sinh con nối dòng cho anh
hay em mình. 29 Vậy nhà kia có bảy anh em trai. Người anh cả lấy vợ,
nhưng chưa có con thì đã chết. 30 Người thứ hai, 31 rồi
người thứ ba đã lấy người vợ goá ấy. Cứ như vậy, bảy anh em đều chết đi mà
không để lại đứa con nào. 32 Cuối cùng, người đàn bà ấy cũng chết. 33
Vậy trong ngày sống lại, người đàn bà ấy sẽ là vợ ai, vì cả bảy đều đã lấy nàng
làm vợ?"
34 Đức Giê-su
đáp: "Con cái đời này cưới vợ lấy chồng, 35 chứ những ai được
xét là đáng hưởng phúc đời sau và sống lại từ cõi chết, thì không cưới vợ cũng
chẳng lấy chồng. 36 Quả thật, họ không thể chết nữa, vì được ngang
hàng với các thiên thần. Họ là con cái Thiên Chúa, vì là con cái sự sống lại. 37
Còn về vấn đề kẻ chết trỗi dậy, thì chính ông Mô-sê cũng đã cho thấy trong đoạn
văn nói về bụi gai, khi ông gọi Đức Chúa là Thiên Chúa của tổ phụ Áp-ra-ham, Thiên
Chúa của tổ phụ I-xa-ác, và Thiên Chúa của tổ phụ Gia-cóp. 38 Mà
Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống, vì
đối với Người, tất cả đều đang sống. "
PHỤC VỤ ĐỂ PHỤC SINH VINH HIỂN
Khát vọng được hạnh phúc
muôn đời nó dội lên từ đáy lòng mọi người thuộc mọi tôn giáo. Nhưng chỉ có Kitô
giáo tin vào xác hồn mọi người sẽ được sống lại mới đáp ứng thỏa đáng khát vọng
này. Trong Do Thái giáo vốn đã có niềm tin Phục Sinh, nhưng không thể minh
chứng xác thực và cụ thể, do đó nó đã trở thành một đề tài tranh luận sôi nổi
giữa hai nhóm Biệt phái và Sa đốc. Chỉ một mình Đức Giêsu mới là trọng tài xác
quyết có sự sống lại, dựa vào mạc khải từ miệng Thiên Chúa và đồng thời Ngài
cũng cho biết khái niệm chính xác về sự sống của thời Phục Sinh. Tuy nhiên, trong
thế giới Phục Sinh, vinh hiển hay tủi nhục cũng còn tùy thuộc vào cách sống của
mỗi người trên đời có sống theo Giáo Lý của Chúa hay không?
1.
TẠI SAO NIỀM TIN PHỤC SINH KHÔNG ĐỒNG NHẤT TRONG DO THÁI GIÁO?
Nhóm Sa đốc chỉ tin
Ngũ Thư của ông Môsê: Sáng thế, Xuất hành, Lêvi, Dân số, Đệ nhị luật, mà trong
Ngũ Thư không mạc khải rõ về sự sống lại!
Trong khi nhóm Biệt phái yêu thích Lề Luật, nên họ đã nhận toàn bộ Cựu
Ước gồm 46 cuốn làm kinh điển chính thức cho niềm tin. Niềm tin vào thế giới
Phục Sinh chỉ được mạc khải rõ nét trong sách Ngôn sứ (x. Os. 6, 1t; Ez. 37, 1-14;
Is. 51, 17 và Is 60, 1). Và rõ nhất sách Đaniel và Macabê, điển hình như trong
Bài đọc I hôm nay: “Khi sắp tắt thở, người
con thứ tư nói như sau: "Thà chết vì tay người đời đang khi dựa vào Lời
Thiên Chúa hứa mà hy vọng sẽ được Người cho sống lại. " (2Mcb 7, 14a).
Có lẽ Mạc Khải nói rõ về sự Phục Sinh trễ như thế vì lý do trước đây
dân Do Thái cứ mơ tưởng cùng đích ơn cứu độ được đóng khung và dừng lại ở đền
thờ Giêrusalem đã xây dựng trên đất Chúa hứa! Nhưng qua những cuộc bách hại từ
thời lưu đày Baylon trở đi, cho dân Chúa kinh nghiệm: ơn cứu độ không thể hoàn
tất ở đời này được, mà chỉ được hoàn tất trong một thế giới sau cuộc đời trần
thế.
Đối với bè Sa đốc chỉ
chấp nhận Ngũ Thư của ông Môsê, nên khi Chúa Giêsu trả lời cho họ về sự Phục
Sinh, Ngài đã trích một đoạn trong sách Xuất hành (nằm trong bộ Ngũ Thư), đoạn
nói về tiếng Chúa phán dạy cùng ông Môsê khi ông thấy Bụi Gai bốc cháy: “Ta
là Chúa của Abraham, Chúa của Ysaac, Chúa của Giacob” (Xh. 3, 2-6).
Và Đức Giêsu đã giải thích: ngay
đoạn sách này, Thiên Chúa đã mạc khải sự sống lại, vì các tổ phụ Abraham, Giacob
thực đã chết trước khi Chúa gọi ông Môsê. Thế mà Chúa vẫn là Chúa các tổ phụ
của ông Môsê, thì Ngài là Chúa của kẻ sống, chứ không phải là Chúa của kẻ chết!
Như thế là Đức Giêsu xác định: Người ta còn có sự sống nữa sau cuộc sống trần
gian.
2.
SỐNG LẠI LÀ HỢP LÝ VÀ KITÔ GIÁO ĐÃ MINH CHỨNG ĐƯỢC ĐIỀU NÀY .
a-
Sống lại là hợp lý: Con người đúng nghĩa không chỉ có
xác hay chỉ có hồn, mà cả xác hồn. Do đó điều lành hay điều dữ con người làm là
cả xác hồn đều làm, không lẽ kết qủa chỉ có hồn được thưởng hay bị phạt? Vì thế
xác phải sống lại với hồn để cùng chung một số phận mới là hợp lý!
Mặt
khác, phải có thế giới Phục Sinh, một thế giới hoàn toàn không còn sự ác chế
ngự con người, quyền lực sự ác phải bị tiêu diệt, để những ai sống chiến đấu vì
công lý thì được sống trong thế giới chỉ có công lý. Bởi thế, thánh Phaolô nói:
“Nếu ta đặt mối hy vọng vào Đức Kitô vỏn vẹn cho lúc sinh thời này thôi, thì
qủa ta là kẻ khốn nạn nhất trong cả thiên hạ!” (I Cr. 15, 19). Vì nếu người
chết không sống lại, thì ta cứ sống ác để đè bẹp bất cứ ai, chứ dại gì mà phải
chịu đựng, phải tha thứ cho kẻ hại mình, kết quả mình chịu thiệt là kẻ khốn nạn
nhất trên đời.
b- Chỉ có Chúa Giêsu
mới cho loài người được Phục Sinh, như Lời Ngài đã
nói:
“Phục sinh và sự sống chính là Ta, ai tin vào Ta, thì dầu có chết cũng sẽ
sống” (Ga 11, 25). Chân lý này đã được minh chứng bằng việc Chúa Giêsu
cho nhiều người chết sống lại. Đan cử: Ngài đã làm cho con gái ông Giairô, con
trai bà goá thành Naim, cậu Ladarô được sống lại (x. Mc. 5, 21t; Lc. 7, 11t; Ga.
11). Vì “Ngài là Trưởng Tử trong số những
người từ cõi chết chỗi dậy” (Kh 1, 5), “Ngài
đã tiêu diệt thần chết và đã dùng Tin Mừng mà làm sáng tỏ phúc trường sinh”
(2 Tx. 1, 10).
Dĩ
nhiên sự phục sinh này mới chỉ là dấu chỉ sự Phục Sinh thời cánh chung, và minh
chứng chỉ có Chúa Giêsu mới làm cho người ta được sống lại.
Chính
Chúa Giêsu Phục Sinh mà các Tông Đồ đã sờ nắn, đã ăn uống với Ngài, mới thực là
nêu giá trị sự sống thời cánh chung, vì thân xác Ngài đã được Thần hóa, nên
cùng một lúc Ngài có mặt ở khắp nơi để phục vụ những khát vọng của những người
đã từng theo Ngài (x. Lc. 24; Ga. 20, 21).
3.
KIẾP SỐNG THỜI CÁNH CHUNG THẾ NÀO?
Thánh Phaolô được Chúa cho lên đến “tầng trời thứ ba” tham quan, khi
trở lại trần gian, ông nói: “Tôi được
nghe những Lời khôn tả, người phàm không được phép nói lại” (2 Cr. 12, 2. 4).
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu, Đấng từ “tầng trời thứ
chín” đến nói với chúng ta Lời khôn ngoan: Người sống trong Nước Trời khác với
người đời là:
+ Họ không cưới vợ lấy chồng.
+ Họ giống như các thiên thần. (Lc.
20, 34-35).
a- Sống
thời cánh chung không cưới vợ lấy chồng:
* Sống ở đời này không ai
thoát khỏi nỗi khổ vì tình cảm nam nữ: hoặc là khổ vì chính mình bị giăng mắc
đắm đuối, hay là khổ vì bị người ta hiểu lầm, dị nghị … Đến như thánh Phaolô
cũng còn phải lên tiếng thanh minh cho mình: “Tôi không có quyền đem theo
mình một tín nữ sao?” (I Cr. 9, 5). Thậm chí còn có những tiểu thuyết gán
ghép cho cả Chúa Giêsu có người tình!
Bởi thế, nếu trong thế giới Phục Sinh mà
người ta còn giăng mắc chuyện đòi vợ tranh chồng, thì thà không có thế giới ấy
còn tốt hơn! Đó là luận cứ của bè Sađốc khi họ đặt câu hỏi với Chúa Giêsu về
chuyện một bà đã có bảy đời chồng, thì trong thế giới Phục Sinh, bà ấy là vợ
của ai? (x. Lc 20, 29-33: Tin Mừng).
Truyện
kể:
Có bảy anh đều lấy một
cô làm vợ, đến cửa trời hỏi thánh Phêrô:
-
Thưa ngài, vợ
con có lên đây không?
Thánh Phêrô vui vẻ đáp
ngay:
-
Có, vợ con vừa
mới vào đấy, con vào ngay thì theo kịp vợ con!
Anh chồng sụ mặt và lắc đầu:
-
Thôi nó vào rồi,
con chẳng vào nữa đâu, gặp lại nó sợ muốn chết!
Anh thứ nhất, rồi đến anh thứ hai … tất cả
bảy anh đều như thế cả!
* Dầu sao đời sống vợ chồng tuy cùng chung lý
tưởng phục vụ, thì cũng còn đóng khung giới hạn trong một cộng đoàn nhỏ thuộc
phạm vi gia đình. Điều này cũng chưa thể phù hợp hoàn toàn với tinh thần phục
vụ trong Nước Trời là phục vụ không có ranh giới.
Ít nhất vì hai
lý do trên: tránh phiền toái để không ngăn trở phục vụ và tạo điều kiện phục vụ
rộng lớn hơn, mà Chúa Giêsu cho biết: “Con
cái đời này cưới vợ lấy chồng, chứ những ai được xét là đáng hưởng phúc đời sau
và sống lại từ cõi chết, thì không cưới vợ cũng chẳng lấy chồng. Quả thật, họ
không thể chết nữa, vì được ngang hàng với các thiên thần. Họ là con cái Thiên
Chúa, vì là con cái sự sống lại” (Lc 20, 34-36: Tin Mừng).
b- Sống thế
giới Phục Sinh là phục vụ như thiên thần:
Ai
sống đời độc thân vì Nước Trời, họ giống như thiên thần (x. Lc 20, 36b: Tin
Mừng), mà Chúa dựng nên thiên thần chỉ nhằm mục đích “sai đi giúp đáp vì
phần ích những kẻ sẽ thừa hưởng ơn cứu độ” (Dt. 1, 14). Về vấn đề này thánh
Phaolô nói: “Tôi không có chỉ thị nào của
Chúa, nhưng tôi chỉ khuyên nhủ anh em với tư cách là người -nhờ Chúa thương-
đáng được anh em tín nhiệm. Vậy tôi nghĩ rằng: vì những nỗi thống khổ hiện tại,
ở vậy là điều tốt. Phải, tôi nghĩ rằng đối với người ta, như thế là tốt. Bạn đã
kết hôn với một người đàn bà ư? Đừng tìm cách gỡ ra. Bạn chưa kết hôn với một
người đàn bà ư? Đừng lo kiếm vợ. Nhưng nếu bạn cưới vợ, thì cũng chẳng có tội
gì. Và nếu người con gái lấy chồng, thì cũng chẳng có tội gì. Tuy nhiên, những
người ấy sẽ tự chuốc lấy những nỗi gian truân khốn khổ. Mà tôi, tôi muốn cho
anh em thoát khỏi điều đó. Thưa anh em, tôi xin nói với anh em điều này: thời
gian chẳng còn bao lâu. Vậy từ nay những người có vợ hãy sống như không có”
(1Cr 7, 25-29).
Chính vì để nhấn mạnh giá trị phục vụ là nét sáng chói nhất trong thế giới
Phục Sinh, nên khi Chúa Giêsu từ cõi chết sống lại, Ngài đã mặc lấy hình ảnh người làm vườn để tỏ mình ra
cho bà Maria Madala (x. Ga. 20, 15). Và cụ thể, mỗi lần các Tông Đồ gặp lại
Đấng Phục Sinh là được Ngài chăm sóc đến nhu cầu của họ, như Ngài cắt nghĩa Kinh Thánh cho (x. Lc. 24),
chỉ dẫn họ cách đánh cá, rồi nướng bánh và cá phục vụ họ (x. Ga. 21), thông chia cho họ quyền bính và trao việc
cho họ để cộng tác
với Ngài đi cứu đời! (x. Ga 20, 19t; Mt. 28, 18t).
Sở dĩ
việc phục vụ của thánh Phaolô không thua các Tông Đồ thượng đẳng (x. 2 Cr 11, 5)
là vì ông sống độc thân, nên có nhiều điều kiện phục vụ thuận lợi hơn, không bị
phân tâm về chuyện gia đình, nếu ông có vợ.
Như vậy độc thân vì Nước Trời để phục vụ cũng
là một ơn thiên triệu, và như thế đời mỗi người chỉ có quyền chọn một trong ba:
v
Hoặc là chọn bậc tu trì để chuyên lo cầu
nguyện và giảng Lời cho mọi người (x. Cv. 6, 1-7).
v
Hoặc là sống bậc gia đình để chuyên lo diễn
tả tình yêu giữa Chúa Kitô và Hội Thánh (x. Ep. 5, 11t).
v
Hoặc là sống độc thân vì Nước Trời để được tự
do làm việc của Thiên Chúa, phục vụ nhu cầu của đồng loại (x. Lc. 20, 35-36).
Ba ơn gọi trên dưới nhãn giới đóng khung
trong cuộc đời trần thế, khó mà nói bậc nào cao cả nhất, bởi vì ở bậc nào cũng
có cái khó và cái dễ:
+ Sống
bậc tu trì hoặc gia đình thì:
- Điều khó là lệ thuộc vào người khác, không được tự do chọn đối tượng phục vụ, hay
không được tự ý chọn cách phục vụ!
- Điều may mắn là có nơi nương tựa.
+ Bậc sống độc thân giữa đời thì:
- Điều dễ là được tự do trong việc phục vụ.
- Điều khó là ở đời xem ra không chỗ tựa nương, chỉ có Chúa làm gia nghiệp (x. Tv
16/15, 5).
Để có nghị lực lướt thắng được những nghịch
cảnh khi thi thành sứ mệnh ơn gọi, chỉ có cách là tin vào thời Phục Sinh, Chúa
sẽ thưởng bội hậu. Thực vậy, “Tông Đồ Phêrô
và Phaolô được coi là hai cây ô liu và hai cây đèn đứng trước nhan Chúa Tể cõi
đất. Nếu ai muốn làm hại các ngài, thì Lửa (Lời Chúa) từ miệng các ngài phát ra
và thiêu hủy địch thù của các ngài. Các ngài có quyền đóng cửa Trời lại, khiến
mưa không rơi xuống trong những ngày các ngài làm ngôn sứ. Tuy nhiên, có lúc
Chúa cho phép sự dữ dấy lên để thử thách các ngài, nó thắng và giết được các
ngài, người ta sẽ đến nhìn xem thi thể các ngài trong ba ngày rưỡi và không cho
phép chôn các ngài trong mộ. Những người sống trên mặt đất hân hoan vì các ngài
đã chết, họ sẽ ăn mừng và tặng quà nhau, vì hai ngôn sứ này đã làm khổ họ. Sau
ba ngày rưỡi, sinh khí từ Thiên Chúa đến nhập vào các ngài, và các ngài đứng
dậy được. Những kẻ đang nhìn các ngài đều kinh hãi” (Kh 11, 4-11). Đó là
chiến thắng của hai thánh Phêrô và Phaolô vào ngày cánh chung. Vì “Chúa là núi đá cho ta nương ẩn” (Tv
144/143, 1a).
Chính vì vậy mà bảy anh em trong một
nhà chịu Tử Đạo, nhờ tin vào thời Phục Sinh, Chúa sẽ ban cho cả hồn xác được
sống lại để hưởng hạnh phúc đời đời, nên không có cực hình nào làm cho các chú
khiếp đảm bỏ Chúa! (x. 2 Mcb. 7).
4.
SỐNG THẾ NÀO Ở ĐỜI NÀY ĐỂ BẢO ĐẢM CHO SỰ PHỤC SINH VINH HIỂN MAI
SAU?
Dĩ nhiên trong ngày cánh chung, mọi
người từ nguyên tổ Adam trở về sau, dù kẻ dữ hay người lành đều được Chúa cho
sống lại:
§ Xác hồn người lành sống lại, để muôn đời được
vinh hiển như Chúa (x. 1Ga. 2, 6).
§ Xác hồn kẻ dữ sống lại, để chuốc lấy khổ nhục
đời đời (x. Mt. 25, 41-46).
Vậy muốn sống lành, tránh
dữ để được Phục Sinh vinh hiển, ta phải hiểu và sống điều Chúa giải thích về sự
Phục Sinh trong sách Xuất hành mà Tin Mừng hôm nay có nhắc đến (x. Lc. 20, 37-38).
Sự Phục Sinh được mạc khải trong đoạn nói về bụi gai:“Lửa bốc cháy giữa bụi
gai mà gai không bị thiêu rụi” (Xh. 3, 2). Lửa ấy là dấu chỉ về Thiên Chúa
tình yêu (x. Dt. 12, 29), đặc biệt lúc Đức Giêsu bị treo trên thập gía, “lửa
yêu” ấy không thiêu rụi mạo gai đội đầu Ngài. Thực vậy tình yêu của Đức Giêsu
bốc lên như lửa, nên Ngài xin với Chúa Cha tha tội cho kẻ hại mình (x. Lc. 23, 34),
tức là Ngài không diệt kẻ có tội, dù họ như gai góc làm nhức đầu Ngài. Vì ai
biết sám hối tội xin Chúa thương xót như anh trộm lành, đều được Chúa đưa vào
Thiên Đàng ngay (x. Lc. 23, 43).
Như thế Ngài lôi kéo
kẻ sống vào Thiên đàng, chứ Ngài không đưa sang thế giới bên kia một xác chết!
Đấy là Chúa Giêsu đã mạc khải về sự Phục Sinh.
Vậy ngay trong Thánh Lễ này
“bụi gai vẫn bốc cháy”: Lửa tình yêu Chúa Giêsu thiêu rụi tội lỗi và còn ban
cho ta sự sống Phục Sinh, thì ta cũng phải tha thứ cho kẻ xúc phạm đến ta và
làm ơn cho họ, ta mới được đồng danh với Chúa Giêsu là “Con Đấng Tối Cao” (x. Lc
1, 32; Lc 6, 35). Mà “Con Đấng Tối Cao” nay ở trên trời là dấu chứng bảo đảm
cho ta được ở với Ngài, để ta xác tín như thánh Phaolô nói với giáo đoàn
Thessalonike:“Xin Thiên Chúa là
Cha chúng ta, Đấng yêu thương chúng ta và đã dùng ân sủng mà ban cho chúng ta
niềm an ủi bất diệt và niềm cậy trông tốt đẹp, xin các Ngài an ủi và cho tâm
hồn anh em được vững mạnh, để làm và nói tất cả những gì tốt lành. ” (2Tx. 2,
16-17). Vì đã noi gương phục vụ như Chúa Giêsu, và được đồng hiến tế với Ngài
mỗi ngày trong niềm tin “khi thức giấc
con được thỏa tình chiêm ngưỡng Thánh Nhan” (Tv 17/16, 15).
Sống được như trên là
Chúa Giêsu đã giúp cho ta sống đúng bổn phận theo ơn gọi, thì ta mới có CHỖ
trên Thiên Đàng, mà Chúa đã về trước để dọn chỗ cho (x. Ga. 14, 2), đúng như
Lời Kinh Thánh: “Con hoan hỷ được Ngài
cứu thoát” (Tv 9/9A, 15c). Nhưng chúng ta đừng quên rằng “Thiên Chúa chúng ta cũng là lửa thiêu”
(Dt 12, 29); “Ngài là Đấng không vị nể ai,
nhưng cứ theo công việc mỗi người mà xét xử” (1Pr 1, 17a). Kẻ nào sống ác, chỉ
lo vơ vét, chiếm đoạt tài sản của người khác, như “vua Antiôkhô, (ông đã chiếm đoạt vàng bạc nơi Đền Thờ Giêrusalem), rồi
ông rảo khắp các miền thượng du. Vua nghe tin ở Ba Tư có thành Êlymai, một
thành nổi tiếng vì nhiều của cải vàng bạc, vua đã tới đó tìm cách chiếm và cướp
phá thành, nhưng thất bại, ông phải chạy về Babylon lòng buồn não ruột. Bấy giờ
vua đang ở Ba Tư, có người đến báo cho vua biết là các đoàn quân của vua sang
đất Giuđa đã bị đánh bại. Nghe tin ấy, vua lâm bệnh liệt giường phiền não, vua
cho vời bạn hữu đến và nói: “Tôi
không thể chợp mắt, vì nỗi âu lo canh cánh bên lòng. Tôi tự nhủ: Tại sao giờ
đây tôi phải điêu đứng khổ sở thế này. Trước kia đang khi cầm quyền, tôi được
hạnh phúc và được yêu mến biết bao! Nhưng bây giờ nhớ lại thời ở Giêrusalem, tôi
đã lấy mọi vật dụng bằng bạc, bằng vàng, đã sai người đi tiêu diệt dân cư ở
miền Giu-đa mà không có lý do chính đáng. Hồi tưởng lại những hành vị tàn bạo
đó. Tôi biết chắc rằng chính vì thế mà tôi gặp phải bao nhiêu tai biến, và gờ
đây tôi sắp phải chết nơi đất khách quê người vì buồn phiền vô hạn” (1Mcb 6,
1-13).
Qua tai họa của vua
Antiôkhô gặp phải, đã minh chứng cho mọi người biết: Vì sống bất lương, sẽ bị
khổ đời này, trở thành dấu chỉ sẽ phải khổ muôn kiếp trong ngày cánh chung!
Chứng minh Thiên Chúa là lửa thiêu, Ngài thanh tẩy sự ác, chỉ người sống công
chính mới được hưởng hạnh phúc muôn đời trong nước Thiên Chúa.
THUỘC LÒNG.
Con cái đời này cưới vợ lấy chồng, chứ những
ai được xét là đáng hưởng phúc đời sau và sống lại từ cõi chết, thì không cưới
vợ cũng chẳng lấy chồng. Quả thật, họ không thể chết nữa, vì được ngang hàng với các thiên
thần. Họ là con cái Thiên Chúa, vì là con cái sự sống lại. (Lc 20, 34-36)
Lm Giuse Đinh Quang Thịnh