Tìm hiểu đôi nét về
Các Thánh Tử Đạo Việt Nam
Các Thánh Tử Đạo Việt Nam
“Giáo hội Việt nam đã phát sinh những
nhân chứng, đặc biệt là Các Vị Tử Đạo, lời tiền nhân nói không sai: Máu đào là
hạt giống phát sinh Kitô hữu, vì do máu Các Đấng Tử Đạo của dân tộc và Giáo hội
Việt nam mà đức tin trong thế hệ trước đã mọc lên, đức tin của thế hệ hiện tại
được bảo toàn, và hy vọng đức tin của thế hệ mai sau được gìn giữ”. (Đức Gioan
Phaolô II)
Trong suốt 300 năm bắt
Đạo, trải qua sáu triều Vua: Trịnh, Nguyễn, Tây Sơn, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức,
Giáo Hội Việt Nam đã có hơn 100 ngàn Đấng Tử Đạo được ghi nhận trong sổ sách,
trong số này, có 58 Giám mục và Linh mục ngoại quốc thuộc nhiều nước như Pháp,
Tây Ban Nha, Bồ đào Nha, Hà Lan, Italia, 15 Linh mục Việt Nam, 340 Thầy Giảng,
270 Nữ tu Mến Thánh Giá, 99.182 Giáo dân.
Đó là chưa kể con số rất
đông các tín hữu bị chết mất tích trong các cơn bắt Đạo vì lưu đày, vì phải trốn
tránh vào những nơi hẻo lánh...
Đó là chưa kể rất nhiều
tín hữu phải chết do cuộc Phân Sáp bốn trăm ngàn người Công Giáo dưới triều Vua
Tự Đức...
Đó còn là chưa kể con số
hơn mười mấy vạn người công giáo bị chết khi có Phong trài Văn Thân nổi lên tàn
sat người Công Giáo...
Như thế, con số Cha Ông Tử Đạo chúng ta, trong ba trăm năm
bị bắt Đạo, phải tính lên đến ba trăm ngàn người trong vòng ba trăm năm. Nếu tính
theo tỷ lệ, trong ba trăm năm bắt Đạo, cứ một trăm năm thì có một trăm ngàn Vị
Tử đạo. Và theo tỷ lệ này, cứ một năm, có một ngàn Vị Tử Đạo; và đổ đồng, cứ một
ngày, có hơn hai Vị Tử Đạo! (x.tonggiaophanhue.net).
1. Vài tư liệu.
a.
Thời gian và con số:
+ Thời gian bắt đầu vào
năm 1580 và chỉ kết thúc hoàn toàn vào năm 1888, kéo dài gần 3 thế kỷ.
+ Có khoảng 400.000 người
bị lưu đầy, phát lưu và phân sáp. Hơn 100.000 người đã chết vì đạo trong số này
đã có 117 vị được Giáo Hội chính thức tôn phong lên hàng hiển thánh vào ngày
19.6.1988.
b. Về các hình khổ:
Các ngài đã
phải chịu mọi thứ cực hình mà người ta có thể nghĩ ra được như:
- Gông cùm, xiềng xích,
nhốt trong cũi, đánh đòn, bỏ đói.
- Bị voi giầy, bị trói
ném xuống sông, bị đổ dầu vào rốn rồi cho bấc vào mà đốt, bị đóng đinh vào ván
rồi đem phơi nắng.
- Quyết liệt hơn thì bị
trảm quyết tức là bị chặt đầu, bị xử giảo tức là bị thắt cổ, hay bị thiêu sống.
- Vô cùng man rợ và hiểm
độc như bị xử lăng trì, phân thây ra từng mảnh hay là xứ bá đao.
c.
Quá trình Giáo Hội phong thánh
* Ngày 27-5-1900 Đức
Thánh Cha Lêo XIII phong 64 vị lên hàng chân phước.
* Ngày 20-5-1906 Đức
Thánh Cha Pio X phong thêm 8 vị.
* Ngày 02-5-1909 cũng Đức
Thánh Cha Piô X phong thêm 20 vị nữa.
* Ngày 29-4-1951 Đức
Thánh Cha Pio XII phong 25 vị.
Trong 117 vị được phong
chân phước có :
- 8 Giám mục ( Giám mục
thuộc dòng Đaminh và 2 Giám mục thuộc Hội thừa sai Paris)
- 50 Linh mục (Gồm 37
là người Việt Nam, 8 thuộc Hội thừa sai Paris và 5 thuộc dòng Đaminh)
- 15 Thầy giảng
-44 Giáo dân thuộc đủ mọi
thành phần xã hội: công chức, thương gia, công nhân, quân nhân, y sĩ, ngư phủ,
trùm họ...
d.
Theo loại hình phạt
* 79 vị bị trảm quyết tức
là bị chặt đầu. Như vậy là con số bị trảm quyết nhiều nhất.
* 18 vị bị xử giảo tức
là bị thắt cổ.
* 8 vị chết rũ tù
* 6 vị bị thiêu sinh
* 4 vị bị lăng trì tức
là phân thây ra từng mảnh
* 1 vị bị tử thương
* 1 vị bị bá đao
e.
Về thời gian
* 2 vị chịu tử đạo thời
Trịnh Doanh
* 2 vị chịu tử đạo thời
Trịnh Sâm
* 2 vị chịu tử đạo thời
Cảnh Thịnh.
* 57 vị chịu tử đạo thời
Minh Mạng
* 3 vị chịu tử đạo thời
Thiệu Trị
* 51 vị chịu tử đạo thời
Tự Đức
2. Những cuộc bắt Đạo trong thế
kỷ XVII(1625-1692)
Cũng như Giáo Hội Rôma
ngày xưa, Giáo Hội Việt Nam từ giây phút đầu tiên được nghe rao giảng Tin Mừng,
đã phải đối phó với những cơn giông tố dữ dội cấm Đạo nổi lên ác liệt.
- Dưới thờ Vua Sãi Vương bắt Đạo: cấm
người công giáo làm bàn thờ trong nhà, không được mang chuỗi tượng công khai,
chịu những hình khổ của tù nhân, không được làm những chức phận gì trong triều
đình. Các nhà thờ bị triệt hạ, các linh mục ngoại quốc bị tập trung về Hội An
và bị trục xuất ra khỏi nước.
- Dưới thời Vua Thượng
Vương bắt Đạo: người công giáo bị bắt bỏ tù, rồi lập hồ sơ đưa ra toà
án: nếu là thầy giảng hay linh mục không chịu bỏ đạo thì chém đầu; nếu là giáo
dân không chịu bỏ Đạo thì bị đánh bách trượng, bị cạo trọc đầu, bị chặt các đầu
mút ngón tay, bị thả về tàn phế như vậy, không được cấp dưỡng gì hết.
- Dưới thời Vua Hiền
Vương bắt Đạo: các nhà thờ và các nhà nguyện công, tư bị triệt hạ;
các tượng ảnh bị thiêu đốt, các thầy giảng và các chức việc bị bỏ tù; các linh
mục ngoại quốc bị trục xuất ra khỏi nước; nhiều hình khổ rùng rợn được áp dụng
như giam đói, giam khát, bị chặt đầu, phân thây, treo ngược vào cột để xé xác
ra làm sáu phần; cho voi chà nát; đâm gươm vào hông; chặt đứt hai tay, hai
chân, chỉ còn đầu và thân mình.
- Dưới thời Vua Ngãi
Vương bắt Đạo: cấm ba tội, là tội đánh bạc, tội đá gà và tội theo đạo
Công Giáo; các nhà thờ bị triệt hạ; thường dân theo Đạo Công Giáo thì bị bắt bỏ
tù, sĩ quan có đạo thì bị truất chức; ai tố cáo người công giáo đi dự lễ thì được
thưởng, ai biết mà không chịu đi tố cáo thì bị tội; ai không chịu chối Đạo thì
phải mang gông phơi nắng chín ngày, bị thắt cổ, bị treo chân vào cột đánh đòn.
3. Những cuộc bắt Đạo trong thế
kỷ XVIII (1698-1801)
- Dưới thời Vua Minh
Vương: người công giáo chịu thuế nặng gấp ba lần người không công
giáo; ai cũng được tự do làm hại người công giáo bất cứ bằng cách nào; áp dụng
nhiều hình khổ lạ hơn như xẻo hai tai, vấn dẻ vào các ngón tay rồi đổ dầu mà đốt;
lấy dao khắc hình Thánh Giá vào trán người công giáo rồi xiềng hai chân với cổ
lại, bắt đi bứt cỏ nuôi voi của Nhà Vua suốt đời, hình phạt nầy được gọi là Thảo
tượng chung thân; lập chuồng giam người công giáo như giam súc vật: chuồng lợp
lá, chật chội, người công giáo bị giam trong đó, có lính canh đêm ngày không
cho họ ra khỏi, nhưng bên ngoài, lại có dọn đồ ăn rất ngon, lính canh đứng
ngoài cứ hô to: “Nước đó, cơm cá đó. Cứ bỏ đạo rồi ra mà ăn, mà uống”...
- Dưới thời Vua Võ
Vương và Nhà Trịnh: hình khổ được áp dụng thêm, là kẹp các đầu
ngón tay cho ra máu; lập nhà giam Sinh Tử, có hai cửa, một cửa gọi là Cửa Sinh,
một cửa gọi là Cửa Tử, cửa Sinh có Dấu Thánh Giá, ai bước qua để đi ra thì được
sống, cửa Tử có để thanh gươm, ai bước qua là tỏ dấu không muốn bỏ Đạo, thì bị
xử tử.
- Trong thời kỳ Nhà
Tây Sơn bắt Đạo, đặc biệt tại Thừa Thiên và Quảng Trị, giáo dân phải bị
tàn sát dữ dội. Riêng tại Quảng Trị, trong thời kỳ này, nhiều giáo dân phải bỏ
nhà cửa, bồng bế con cái chạy trốn vào rừng núi La Vang, và được Đức Mẹ Maria
hiện ra an ủi năm 1798.
4. Những cuộc bắt Đạo trong thế
kỷ XIX (1830-1885)
- Dưới thời Vua Minh Mạng bắt Đạo:
các nhà lao xá như Trấn Phủ, Khám Đường được thành lập để giam người công giáo;
đày người công giáo đến những nơi rừng thiêng nước độc; áp dụng hình khổ Bá
Đao; xử giảo thắt cổ; bắt tám người công giáo phải mang một cái gông dài như
cái thang để khỏi phải chạy trốn.
- Dưới thờ Vua Tự Đức bắt Đạo: lệnh
ban ra giết các linh mục Việt Nam và các linh mục ngoại quốc; tróc nã các nữ tu
Dòng Mến Thánh Giá; quân sĩ nào theo đạo Công Giáo, trước khi ra trận, phải Phạm
Ảnh, nghĩa là phải bước qua Thánh Giá; thi hành kế hoạch Phân Sáp để tiêu diệt
tận gốc người Công Giáo.
- Cuối thế kỷ XIX, xảy
ra nhiều cuộc tàn sát người Công Giáo bởi Phong trào Văn Thân. Thời kỳ
Văn Thân này tương đối ngắn, nhưng có đến sáu vạn giáo dân bị thảm sát. Riêng tại
một tỉnh Bình Định, có 24.000 giáo dân bị giết. Tại Quảng Trị, chỉ trong vòng một
tháng, hơn 8.000 giáo dân bị giết.
5. Kế hoạch Phân Sáp để tận diệt
người Công Giáo
Kế hoạch Phân Sáp được
thi hành trong năm 1851 và 1856. Do sự thi hành kế hoạch này mà 400.000 giáo
dân phải bị đi phân sáp, từ 50.000 đến 60.000 giáo dân phải chết nơi phân sáp,
3.500 giáo dân bị xử tử, 100 làng công giáo bị đốt phá bình địa, 2.000 Họ đạo bị
tịch thu tài sản ruộng đất, 115 linh mục Việt Nam và 10 giáo sĩ ngoại quốc bị
giết, 80 Dòng Mến Thánh Giá bị phá tan, 2.000 nữ tu Mến Thánh Giá phải tan tác,
100 nữ tu Mến Thánh Giá chết vì Đạo.
Kế hoạch Phân Sáp gồm 4
mặt:
a. Không cho người công
giáo ở trong làng công giáo của mình, nhưng phải đến ở trong các làng bên
lương;
b. Mỗi người công giáo
phải bị 5 người lương canh gác cẩn mật;
c. Các làng công giáo bị
bị phá huỷ, của cải ruộng đất người công giáo bị tịch thu và giao vào tay những
người bên lương, những người này xử dụng và nộp thuế lại cho Nhà Nước;
d. Không cho đàn ông
công giáo ở với đàn bà công giáo; không cho vợ chồng công giáo ở một nơi với
nhau, mỗi người phải đi ở một nơi xa nhau; con cái phải để cho người lương
nuôi. (x.tonggiaophanhue.net).
Đức Chân Phước Giáo
hoàng Gioan Phaolô đã từng nói: “Giáo hội
Việt nam đã phát sinh những nhân chứng, đặc biệt là Các Vị Tử Đạo, lời tiền
nhân nói không sai: Máu đào là hạt giống phát sinh Kitô hữu, vì do máu Các Đấng
Tử Đạo của dân tộc và Giáo hội Việt nam mà đức tin trong thế hệ trước đã mọc
lên, đức tin của thế hệ hiện tại được bảo toàn, và hy vọng đức tin của thế hệ
mai sau được gìn giữ”.