Kb 1, 2-3; 2, 2-4; 2Tm 1, 6-8. 13-14; Lc 17, 5-10
BÀI ĐỌC I: Kb 1, 2-3; 2, 2-4
1 2 Cho đến bao giờ, lạy Đức
Chúa , con kêu cứu mà Ngài chẳng đoái nghe, con la lên: "Bạo tàn! "
mà Ngài không cứu vớt? 3 Sao Ngài bắt con phải chứng kiến tội ác
hoài, còn Ngài cứ đứng nhìn cảnh khổ đau? Trước mắt con, toàn là cảnh phá phách,
bạo tàn, chỗ nào cũng thấy tranh chấp và cãi cọ.
2 2 Đức Chúa trả lời và nói với tôi: "Hãy
viết lại thị kiến và khắc vào tấm bia cho ai nấy đọc được xuôi chảy. 3
Đó là một thị kiến sẽ xảy ra vào thời ấn định. Nó đang tiến nhanh tới chỗ hoàn
thành, chứ không làm cho ai thất vọng. Nếu nó chậm tới, thì cứ đợi chờ, vì thế
nào nó cũng đến, chứ không trì hoãn đâu. 4 Này đây, ai không có tâm
hồn ngay thẳng sẽ ngã gục, còn người công chính thì sẽ được sống, nhờ lòng
thành tín của mình. "
ĐÁP CA: Tv 94
Đ. Ngày hôm nay, ước gì
anh em nghe tiếng Chúa!
Người phán: Các ngươi chớ cứng lòng. (c 7b. 8a)
Người phán: Các ngươi chớ cứng lòng. (c 7b. 8a)
1 Hãy đến đây, ta
reo hò mừng Chúa, tung hô Người là Núi đá độ trì ta, 2 vào trước
Thánh Nhan, dâng lời cảm tạ, cùng tung hô theo điệu hát cung đàn.
6 Hãy vào đây, ta
cúi mình phủ phục, qùy trước tôn nhan Chúa là Đấng dựng nên ta. 7a
Bởi chính Người là Thiên Chúa ta thờ, còn ta là dân Người lãnh đạo, là đoàn
chiên tay Người dẫn dắt.
7b Ngày hôm nay, ước
gì anh em nghe tiếng Chúa. 8 Người phán: Các ngươi chớ cứng lòng như
tại Mê-ri-ba, như ngày ở Ma-xa trong sa mạc, 9 nơi tổ phụ các ngươi
đã từng thách thức, và dám thử thách Ta, dù đã thấy những việc Ta làm.
BÀI ĐỌC II: 2 Tm.
1, 6-8. 13-14
6 Anh em thân mến,
tôi nhắc anh phải khơi dậy đặc sủng của Thiên Chúa, đặc sủng anh đã nhận được
khi tôi đặt tay trên anh. 7 Vì Thiên Chúa đã chẳng ban cho chúng ta
một thần khí làm cho chúng ta trở nên nhút nhát, nhưng là một Thần Khí khiến chúng
ta được đầy sức mạnh, tình thương, và biết tự chủ. 8 Vậy anh đừng hổ
thẹn vì phải làm chứng cho Chúa chúng ta, cũng đừng hổ thẹn vì tôi, người tù
của Chúa; nhưng dựa vào sức mạnh của Thiên Chúa, anh hãy đồng lao cộng khổ với
tôi để loan báo Tin Mừng.
13 Với đức tin và đức mến của
một người được kết hợp với Đức Ki-tô Giê-su, anh hãy lấy làm mẫu mực những lời
lành mạnh anh đã nghe tôi dạy. 14 Giáo lý tốt đẹp đã giao phó cho
anh, anh hãy bảo toàn, nhờ có Thánh Thần ngự trong chúng ta.
TUNG HÔ TIN MỪNG:
1Pr 1, 25
Hall-Hall: Lời Chúa vẫn tồn
tại đến muôn thuở muôn đời. Đó chính là Lời đã được loan báo cho anh em như một
Tin Mừng. Hall.
TIN MỪNG: Lc. 17,
5-10
5 Khi ấy, các Tông Đồ
thưa với Chúa Giê-su rằng: "Thưa Thầy, xin thêm lòng tin cho chúng con. "6
Chúa đáp: "Nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải, thì dù anh em có bảo
cây dâu này: "Hãy bật rễ lên, xuống dưới biển kia mà mọc", nó cũng sẽ
vâng lời anh em.
7
"Ai trong anh em có người đầy tớ đi cày hay đi chăn chiên, mà khi nó ở
ngoài đồng về, lại bảo nó: "Mau vào ăn cơm đi", 8 chứ
không bảo: "Hãy dọn cơm cho ta ăn, thắt lưng hầu bàn cho ta ăn uống xong
đã, rồi anh hãy ăn uống sau!?9 Chẳng lẽ ông chủ lại biết ơn đầy tớ
vì nó đã làm theo lệnh truyền sao?10 Đối với anh em cũng vậy: khi đã
làm tất cả những gì theo lệnh phải làm, thì hãy nói: chúng tôi là những đầy tớ
vô dụng, chúng tôi đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi. "
ĐỨC TIN
TRÊN ĐƯỜNG PHỤC VỤ
Người Tông Đồ nào của Chúa mà không
phấn khởi khi nghe Đấng Toàn Năng hứa: “Ai không có tâm hồn ngay thẳng sẽ ngã gục, còn người công chính thì sẽ
được sống, nhờ lòng thành tín của mình
” (Kb. 2, 4: Bài đọc I).
Nhưng nhìn vào thế
giới này, dường như thấy ngược lại: Người
công chính bị trù dập, còn kẻ ác cứ phây phây…!
Vì thế người công chính thường cất
lời kêu than: “Cho đến bao giờ, lạy Đức
Chúa , con kêu cứu mà Ngài chẳng đoái nghe, con la lên: "Bạo tàn! "
mà Ngài không cứu vớt? Sao Ngài bắt con phải chứng kiến tội ác hoài, còn Ngài
cứ đứng nhìn cảnh khổ đau? Trước mắt con, toàn là cảnh phá phách, bạo tàn, chỗ
nào cũng thấy tranh chấp và cãi cọ. ” (Kb. 1, 2-3: Bài đọc I).
Cụ thể như Tông đồ Phaolô, ông nhiệt
tình hết sức vì công lý, vì hạnh phúc đồng loại, thế mà ông vẫn bị kẻ ác thắng,
tống ông vào ngục. Ngồi trong tù, ông Phaolô lo sợ cho môn đồ Timôthêu mất Đức
Tin, nên ông viết thư nâng đỡ niềm tin: “Vì Thiên Chúa đã chẳng ban cho chúng ta một
thần khí làm cho chúng ta trở nên nhút nhát, nhưng là một Thần Khí khiến chúng
ta được đầy sức mạnh, tình thương, và biết tự chủ. Vậy anh đừng hổ thẹn vì phải
làm chứng cho Chúa chúng ta, cũng đừng hổ thẹn vì tôi, người tù của Chúa; nhưng
dựa vào sức mạnh của Thiên Chúa, anh hãy đồng lao cộng khổ với tôi để loan báo
Tin Mừng” (2Tm 1, 7-8: Bài đọc II).
Muốn chu toàn sứ mệnh làm chứng cho
Chúa, người Kitô hữu phải:
1- ĐẶT NIỀM HY VỌNG TRONG THẾ GIỚI
PHỤC SINH .
Người Tông Đồ của Chúa chỉ có thể thấy được
giá trị hoạt động của mình, thấy được sự thiện thắng sự ác trong thế giới Phục
Sinh. Đan cử: Nếu ta chỉ nhìn Chúa Giêsu kết thúc đời Ngài trên thập giá, thì
làm sao ta thấy được sự chiến thắng của Đấng Toàn Năng? Như ta biết: ngày Thứ
Sáu Tuần Thánh là ngày của quyền lực sự ác; còn ngày Chúa Phục Sinh mới là ngày
của Thiên Chúa, ngày khai mào chiến thắng của sự thiện trở thành Ngày Thứ Nhất
Trong Tuần!
Kìa bà Monica kêu khóc ròng rã hơn
30 năm, chỉ xin Chúa cho con trở lại Đạo, mãi đến gần giờ chết, bà thấy được ơn
đã xin, nhưng trong mầu nhiệm Phục Sinh, bà mới thấy con mình làm Giám mục, thánh
Tiến sĩ, và cả bà cũng được Hội Thánh tôn phong làm thánh Bổn Mạng Các Bà Mẹ
Công Giáo. Ơn này quả Chúa ban vượt quá ước mơ của bà!
Bởi thế thánh Tông Đồ
nói: “Nếu chúng ta chỉ đặt hy vọng vào Đức Kitô vỏn vẹn ở đời này thôi, thì
chúng ta theo Chúa là những kẻ khốn nạn nhất trên đời” (I Cr. 15, 19). Vậy Đức
Tin Công Giáo dạy ta hướng về tương lai, bởi vì Chúa đã nói với ngôn sứ
Khabacuc: “Nó đang tiến nhanh tới chỗ
hoàn thành, chứ không làm cho ai thất vọng. Nếu nó chậm tới thì cứ đợi chờ, vì
thế nào nó cũng đến, chứ không trì hoãn đâu” (Kb 2, 3: Bài đọc I). Do đó thánh
Phaolô nói: “Chúng ta đã được cứu độ, nhưng
vẫn còn phải trông mong. Thấy được điều mình trông mong, thì không còn phải là
trông mong nữa: vì ai lại trông mong điều mình đã thấy rồi?” (Rm 8, 24). Như
thế niềm tin trong Cựu Ước chỉ là nụ, thời Tân Ước nở hoa, cánh chung mới được
hái trái.
2- KHIÊM TỐN NHẬN BIẾT CHÚA TRAO
NHIỆM VỤ TỪNG PHẦN TRONG CHƯƠNG TRÌNH CỨU ĐỘ CỦA NGƯỜI.
Thánh Phaolô nói: “Tôi trồng, anh Apôlô tưới, Thiên
Chúa mới làm cho mọc lên” (I Cr. 3, 6).
Bởi thế mỗi người Tông Đồ chỉ được Chúa trao từng việc trong công trình
cứu độ loài người:
°
Hoặc
chỉ làm công tác trồng.
°
Hoặc
chỉ làm công tác tưới bón.
°
Giỏi
lắm là vừa trồng vừa tưới.
°
Có kẻ may mắn được đi gặt mà không vất vả
trồng tưới bón.
Nhưng phải nhớ rằng “trồng hay
tưới chẳng là gì, Đấng làm cho mọc lên mới đáng kể”(1Cr 3, 7).
Thật đúng như Lời Đức Giêsu đã nói: ““Người
này gieo, kẻ khác gặt, Ta sai các ngươi đi gặt điều các ngươi đã không vất vả
làm ra, có những kẻ khác đã vất vả rồi, còn các ngươi thừa hưởng công lao của
họ, nhưng kẻ gieo người gặt đều hoan hỷ” (Ga. 4, 36-38).
Vậy “khi đã làm tất cả những gì
theo lệnh phải làm, thì hãy nói: chúng tôi là những đầy tớ vô dụng, chúng tôi
đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi. " (Lc 17, 10: Tin Mừng).
3- CHÚA KHÔNG XỬ VỚI TA NHƯ MỘT
ĐẦY TỚ VÔ ÍCH.
Mặc
dầu, Đức Giêsu đưa ra một ví dụ: Người đầy tớ đã lao động suốt ngày ngoài đồng
dưới nắng nôi thiêu cháy, về đến nhà, bụng đói vẫn còn phải vâng lệnh chủ: hầu
bàn cho chủ ăn trước! Đầy tớ hữu ích như vậy mà nó đâu được quyền đòi chủ phải
biết ơn nó? Nó vẫn phải làm vì nó là thân phận tôi tớ (x. Lc 17, 7-9: Tin Mừng).
.
Trong
tình yêu, Chúa đòi chúng ta không được thua tinh thần phục vụ của đầy tớ ấy, dù
lắm lúc cảm thấy mình chỉ là đầy tớ vô dụng, không muốn làm nữa, nhưng vì “việc đã ký thác cho ta phải chu toàn” (x.
I Cr. 9, 17). Khi xong việc Chúa đã trao, Ngài không cư xử với ta như người đời,
bắt đầy tớ làm việc phụ trội, mà chủ không biết ơn, nhưng ngược lại “ông chủ
sẽ đặt đầy tớ ấy vào bàn ăn, mà qua lại hầu hạ nó” (Lc. 12, 37). Hình ảnh này
ta chỉ có thể thấy nơi Ông Chủ Giêsu đặt các môn đệ vào bàn tiệc, rồi Ngài tự
lấy khăn thắt lưng, đổ nước vào thau và đến rửa chân hầu hạ các ông (x. Ga 13, 4-5).
Như thế nếu ta hết lòng phục vụ theo ơn gọi của mình, cho dù không đạt kết qủa
như lòng mong ước, thì ta hãy vui vì được Chúa Giêsu mời ta chung bàn tiệc
Thánh Thể với Ngài. Và như vậy minh chứng ai được dự tiệc Thánh Thể, người ấy
được chính Chúa Giêsu Phục Sinh phục vụ, Ngài cho họ được thông dự cùng sự sống
với Ba Ngôi Thiên Chúa (x. Ga 6, 57).
Người
Tông Đồ đi phục vụ có được ba xác tín trên, chính là họ đã diễn tả Đức Tin Hội
Thánh Công Giáo, mà Đức Giêsu gọi đó là “Đức Tin bằng hạt cải”, vì chính Ngài
đã nói: “Nước Trời ví như hạt cải gieo
xuống đất” (x. Mt 13, 31-32), tất cả mọi người đều được sống nhờ Đức Tin
này, đây là Tín Điều Các Thánh Cùng Thông Công. Do đó mỗi khi dâng Thánh Lễ, Hội
Thánh thiết tha cầu nguyện trong Nghi Thức Hiệp Lễ: “Xin Chúa đừng chấp tội chúng con, nhưng xin nhìn đến Đức Tin của
Hội Thánh Chúa, xin đoái thương ban cho Hội Thánh được bình an và hiệp nhất
theo thánh ý Chúa”. Đức Tin ấy đưa đến kết quả phi thường được diễn
tả qua hình ảnh: chuyển núi dời non hoặc bứng cả gốc cây dâu xuống mọc dưới
biển!
Đan
cử: Thầy Gioan Maria Vianey khi được cha Giáo sư khảo bài, thấy Vianey quá dốt,
cha Giáo trách:
-
Dốt như lừa, làm
sao làm Linh mục để Chúa nhờ được?
Vianey
vui vẻ đáp:
-
Thưa cha, xưa
ông Samson chỉ dùng một hàm lừa mà giết được cả ngàn quân thù (xTp. 15, 9t). Sao
Chúa không dùng cả con lừa Vianey để Ngài chiến thắng sự dữ? Bởi lẽ Chúa đã hứa
cho những “ai tin vào Ngài, chẳng những làm được những việc như Ngài, mà còn
làm được những việc lớn lao hơn thế nữa!” (Ga 14, 12)
Mà
thực, người đầy tớ trong Chúa Giêsu làm được những việc lớn lao hơn Thầy, hơn
Chủ. Cụ thể khi ta ban Bí tích Thánh Tẩy cho một người nguy tử, khi họ qua đời là
được lên Thiên Đàng ngay. Đó là ta đã làm công việc của Chúa Giêsu; hoặc mỗi
lần đi dâng Lễ, ta cầu nguyện cho những người đã an nghỉ trong Chúa, thì chắc
chắn nhờ Đức Tin của Hội Thánh Chúa, mà ta được đóng góp phần Đức Tin của mình
nhỏ bé như hạt cải, làm nhiều linh hồn được Chúa đón vào Thiên Đàng. Trong khi
Đức Giêsu vất vả suốt đời phục vụ cho đến chết, Ngài mới đưa được một tên trộm
lành vào Thiên Đàng (x. Lc 23, 43).
Vậy
“tin là cách chiếm hữu những điều còn
trong hy vọng, là phương nhận thức các thực tại người ta không thấy!” (Dt. 11,
1)
THUỘC LÒNG.
Ơn cứu độ đã đến cho ta như một hy vọng. Hy
vọng mà thấy được thì hết là hy vọng, vì điều thấy được, ai nào hy vọng nữa!
Nhưng thực ta hy vọng điều ta không thấy, thì ta kiên nhẫn đợi trông (Rm. 8, 24-25).
Lm Giuse Đinh Quang Thịnh