Linh mục... cũng như người chăn chiên
là phải sống gần gũi, sống lăn lộn với đàn chiên, phải sống chết với đàn chiên
để lo lắng chăm sóc, bảo vệ và thăng tiến đàn chiên của mình, đến nỗi mùi của
chiên đã ngấm vào không những áo quần mà cả da thịt người ấy nữa.
Hôm
nay Giáo hội mừng kính Thánh Gioan Vianney, bổn mạng các Linh mục. Từ thửa nhỏ,
Gioan Vianney khao khát làm linh mục. Sau này ngài kể: “Khi tôi còn nhỏ, tôi
không biết điều xấu”. Không đủ điều kiện vào chủng viện vì sức học yếu nên ngài
đã phải cố gắng hết sức để có thể vượt qua. Ước mơ làm Linh mục trong ngài luôn
cháy bỏng.
Tài
mọn, trí hèn, học kém, nhưng ngài vẫn được “đặc cách” thụ phong linh mục vào
năm 1815, lúc 29 tuổi. Sau 3 năm ở xứ Ecully, ngài được bổ nhiệm về xứ Ars, một
giáo xứ nhỏ và xa xôi Khi vừa đặt chân đến xứ Ars, ngài đã quỳ xuống hôn mảnh đất
này. Trong thời gian quản nhiệm xứ Ars, một xứ nhỏ nhưng “rắc rối” đủ chuyện,
ngài gặp nhiều giáo dân sống lạnh nhạt và sống buông thả trong tội lỗi. Cha sở
Vianney đã kiên nhẫn để thay đổi lòng người từng chút và từng ngày.
Trong
các bài giảng đầu tiên, cha sở Vianney đã phản đối các thói hư tật xấu của dân
xứ Ars như: báng bổ, nguyền rủa, không coi trọng ngày Chúa nhật, chỉ ưa tụ tập
ăn nhậu và múa hát ở các quán xá, hát những bài ca trơ trẽn và ăn nói tục tĩu.
Ngài nói: “Quán xá là cửa hàng của ma quỷ, là trường học của hỏa ngục, là thị
trường buôn bán các linh hồn, là nơi làm tan vỡ các gia đình, là nơi làm cho sức
khỏe bị hao mòn, là nơi xảy ra các cuộc cãi vã và giết người”.
Cha
sở Vianney phải mất 10 năm mới có thể thay đổi dân xứ Ars. Không còn làm việc
ngày Chúa nhật, nhà thờ càng ngày càng đông người, không còn say xỉn. Cuối
cùng, các quán rượu đóng cửa vì không có khách, và các cuộc cãi vã trong gia
đình cũng hết. Lòng chân thật trở nên tính cách chung. Cha sở Vianney viết: “Xứ
Ars không còn là xứ Ars xưa nữa”, vì cả xứ đã thay đổi tận gốc rễ. Cả xứ Ars trở
nên một cộng đoàn đạo hạnh.
Năm
2010, tôi có đi hành hương đến thăm Xứ Ars. Thăm nhà xứ, tôi thấy tất cả các
căn phòng vẫn còn giữ nguyên trạng như những ngày thánh nhân còn sống, quá đơn
sơ và nghèo nàn…Nhà bếp lụp xụp, khói đen phủ kín tường gạch trét vôi, mấy cái
nồi niêu soong chảo cũ kỷ treo trên tường. Cái nồi luộc khoai lang treo lơ lững,
bên dưới có bóng điện nhỏ như ngọn lửa cháy, chiếu rõ màu đen bụi khói qua năm
tháng. Khoai lang luộc là thức ăn hàng ngày của cha xứ. Cái bàn ăn bằng gỗ cùng
với hai cái ghế gỗ nhỏ toát lên cuộc sống đạm bạc của chủ nhân. Cầu thang gỗ dẫn
lên gác. Căn phòng nhỏ thấp, nơi thánh nhân sống hơn 30 năm, có chiếc giường bị
cháy xém do ma quỷ đốt, một cây súng dài rất cổ treo trên tường, nghe kể là các
vị Hội đồng giáo xứ trực nhà xứ đem vào để bảo vệ cha xứ, một cái đồng hồ như
là sáng kiến đặc biệt của cha Vianey chia đều công việc 24 giờ trong ngày của
ngài. Trong phòng còn có quan tài bằng gỗ sồi, sau 40 năm chôn trong lòng đất,
khi khai quật ngôi mộ, xác cha thánh vẫn còn tươi nguyên, một phép lạ Chúa ban.
Bị
ma quỷ quấy phá nhiều năm, cha thánh chuyển qua phòng khác là nơi dành cho Đức
Giám Mục khi đến đây ban phép Thêm Sức. Căn phòng thứ hai này cũng rất nhỏ và
thấp, các đồ dùng trong phòng rất giản dị, nghèo nàn. Cái bàn nhỏ bên trên còn
để cuốn sách nguyện, từ đó nhìn lên có tượng thánh giá, có mấy tượng ảnh Đức
Trinh Nữ Maria, cái giường ngủ nhỏ kê sát tường, nơi thánh nhân ngủ cho đến khi
qua đời, đôi giày bạc màu thời gian với khổ chân người nông dân vẫn còn đó, bên
cạnh có tủ sách khá nhiều cuốn sách dày, được biết ngài đã đọc và và đánh dấu
nhiều trang sách.
Thật
quá đơn sơ khi nhìn ngắm các vật dụng. Căn phòng ọp ẹp này lại là nơi sinh sống
của một con người vĩ đại trong sự giản dị thanh thoát. Nối giữa hai căn phòng ấy
hiện nay là phòng trưng bày những đồ dùng hàng ngày như áo lễ, áo dòng, dù, sắc…tôi
cảm động nhất khi nhìn và đọc lịch sử về cái áo lễ, mẹ của ngài đã dành nhiều
thời gian để may cho con trai cái áo lễ vì nhà quá nghèo, ngày lễ mở tay, cha
Gioan Maria Vianey đã mặc áo lễ do bàn tay mẹ làm nên vào năm 1810.
Trên
gác là kho lúa mì, cha xứ dùng để nuôi các em cô nhi. Chúa hay làm phép lạ cho
kho lúa có đầy để nuôi trẻ mồ côi. Sau đó,thăm nhà thờ và cử hành Thánh lễ tại
chính bàn thờ mà ngày xưa Thánh nhân hằng ngày vẫn dâng lễ, đặt dưới tầng hầm.
Giáo hội Pháp xây dựng nơi hành hương nổi tiếng này với dáng vẻ hiền lành, đơn
giản, khiêm tốn, đúng với cuộc đời của vị thánh đã sống ẩn khuất suốt 41 năm
trong âm thầm, lặng lẽ hy sinh vì đàn chiên. Ngay đến Vương cung Thánh đường bằng
đá cẩm thạch được dân chúng đóng góp xây dựng sau khi ngài được tuyên Thánh,
cũng được xây nối liền sau ngôi nhà thờ năm xưa với gác chuông cũ rêu phong, những
khung cửa sổ bạc màu.
Bước
vào nhà thờ, tôi nhìn thấy tòa giải tội nơi Thánh Gioan Vianney đã từng ngồi miệt
mài mỗi ngày hàng chục tiếng đồng hồ, bất kể mùa hè hay mùa đông. Tôi ngồi nơi
tòa giải tội vài phút và thầm cầu nguyện với cha thánh. Bên phải Nhà thờ có bàn
thờ dâng lễ, phía trên có thi hài cha thánh. Nhiều người đang quỳ gối cầu nguyện
sốt mến. Thánh lễ được cử hành hầu như liên tục trong ngày.
Hai
ngày tĩnh tâm tại đây, tôi chứng kiến nhiều đoàn hành hương đến cầu nguyện và
dâng lễ. Bí quyết nên thánh của Cha sở Vianney là nguồn trợ lực vô biên từ Bí
tích Thánh Thể, và con đường mục vụ khởi đầu bằng tòa giải tội. Ngài không
thông hiểu tiếng La tinh, nhưng lại thấu hiểu được tâm hồn con người. Ngài có
những lời khuyên đơn sơ, nhưng lại dễ lay động lòng người. Ngài khuyên hối nhân
bằng lời yêu thương nhẹ nhàng đầy Thần Khí nhưng lại hiệu quả lớn lao cho người
ta trút bao gánh nặng tội lỗi, đắng cay khổ đau. Ngài miệt mài nơi tòa giải tội
để đánh thức niềm tin và đưa người ta trở về với Chúa. Biết bao con người đã
tìm lại bình an và niềm vui từ tòa giải tội này. Biết bao tâm hồn đón nhận ơn
Chúa từ bí tích hòa giải.
Ngồi
nơi tòa giải tội của cha Vianney mà tâm hồn lâng lâng niềm hạnh phúc trong sứ vụ
linh mục. Qua trung gian Linh mục, hối nhân gặp được trái tim đầy thương xót của
Thiên Chúa. Và đó là hạnh phúc. Người ta bảo trên đời có ba bóng dáng hạnh phúc
tinh ròng : mẹ đem con đi rửa tội về, người lành tạ thế và hối nhân từ toà giải
tội bước ra. Nếu như hạnh phúc của người truyền giáo là có một người được rửa tội
thì hạnh phúc của Linh mục giải tội là có một tội nhân được giao hoà với Chúa,
được tìm lại ơn thứ tha và nguồn bình an niềm vui tâm hồn. Hối nhân càng nhiều
tội lỗi, càng lâu năm xa cách nguội lạnh mà được ơn trở lại thì Linh mục càng
dâng đầy hạnh phúc.
Như
thế Cha Vianney là người rất hạnh phúc. Chúa phán với tiên tri Edêkiel:
"Edêkiel, Ta đã đặt ngươi làm kẻ canh thức Israel. Nếu ngươi không khuyến
cáo các người ác bỏ đàng tội, thì nó sẽ phải chết. Nhưng Ta sẽ hỏi tội ngươi về
máu nó đã đổ ra" (Ed 3,17-18). Món nợ của Linh mục đối với Chúa là phải
làm hết sức mình để cứu đoàn chiên khỏi tội. Vinh quang của Linh mục là được
chia sẻ vinh quang của Đức Mẹ và các thánh là những người đã cộng tác với Đức
Kitô trong việc cứu con người khỏi tội lỗi.
Thánh
Gioan Maria Vianney đã sống một cuộc đời thánh thiện, toàn tâm toàn lực phụng sự
Chúa, phục vụ anh chị em. Ngài ăn uống kham khổ, sống đơn sơ nhiệm nhặt. Ngài
hy sinh hãm mình hằng ngày để xin Chúa biến đổi lòng của từng anh chị em giáo
dân, giúp họ biết sống thân tình với Chúa, biết thờ phượng Chúa trên hết mọi sự.
Để
có được năng lực tốt nhất mà phụng sự Chúa, phục vụ anh chị em của mình, thánh
nhân hoàn toàn phó thác đời mình trong tay Chúa. Ngài chìm lắng suốt đời trong
cầu nguyện. Cả một ngày sống của cha sở Venney là một ngày sống để cầu nguyện.
Thánh nhân bắt đầu ngày cầu nguyện của mình từ nửa đêm về sáng, khi mới một giờ
đêm. Khi mọi người còn đang yên giấc, ngài đã vào nhà thờ, quỳ trước nhà tạm,
thầm thỉ với Chúa, chiêm ngắm Chúa. Cha sở Vianney miệt mài ngồi tòa giải tội.
Ngài hầu như đọc được tất cả những điều sâu kín trong lòng người, khiến người
ta tìm lại được niềm tin, sự bình an của tâm hồn.
Linh
đạo Linh mục chính là nên thánh trong công việc mục vụ hàng ngày.Trong ngày Tiếp
Kiến chung vào ngày Thứ Tư, 16.5.2013, ĐTC Phanxicô nói: “Giám Mục không phải
là Giám Mục cho bản thân ngài, mà là cho dân. Cũng vậy, Linh Mục không phải là
Linh Mục cho bản thân ngài, mà là cho dân: để phục vụ, nuôi dưỡng, chăm sóc dân
là đoàn chiên của ngài để bảo vệ họ khỏi chó sói.”
Trong
bài giảng Thánh Lễ Làm Phép Dầu vào lúc 9giờ30, ngày Thứ Năm Tuần Thánh,
28.3.2013, tại Đền thờ Thánh Phêrô ở Roma, ĐTC Phanxicô đã đòi hỏi các Linh mục
phải luôn ý thức rõ ràng trách nhiệm chủ chiên của mình là phải mang vào mình
mùi của chiên, ngài nói: “Tôi yêu cầu anh em hãy là những mục tử mang nặng mùi
con chiên của mình.”. Qua đó, ĐTC muốn căn dặn các Linh mục rằng, cũng như người
chăn chiên là phải sống gần gũi, sống lăn lộn với đàn chiên, phải sống chết với
đàn chiên để lo lắng chăm sóc, bảo vệ và thăng tiến đàn chiên của mình, đến nỗi
mùi của chiên đã ngấm vào không những áo quần mà cả da thịt người ấy nữa, thì
người Linh mục, người chăn chiên về đàng thiêng liêng cũng phải vậy. Linh mục
phải biết sống dấn thân trọn vẹn cho cộng đoàn giáo xứ, cho các linh hồn, không
những một cách công bằng, vô vị lợi và bất thiên tư, nhưng còn biết xả thân hy
sinh cho quyền lợi chính đáng của giáo dân, biết lấy mọi nỗi thống khổ, mọi khó
khăn vất vả và mọi gian lao khổ cực của giáo dân làm của riêng mình, và hết
lòng tìm cách an ủi, giúp đỡ họ theo khả năng có thể của mình. Cha sở Vianney
“là mục tử mang nặng mùi con chiên của mình”, ngài là bổn mạng các Linh mục.
Hôm nay Giáo hội mừng kính thánh nhân, xin ngài giúp anh em linh mục chúng con
luôn biết sống theo gương sáng của ngài. Amen.
Lm
Giuse Nguyễn Hữu An