Tiểu luận này được Einstein viết tại
Berlin năm 1930 khi ông 51 tuổi. Năm 1931, nó được dịch ra tiếng Anh và in
trong tập thứ 13 của bộ sách Living Philosophiers, NXB New York, Mỹ...
Lạ
thường biết bao loài hữu tử chúng ta! Mỗi chúng ta đã ghé thăm nơi đây trong một
kiếp ngắn ngủi; cho một mục đích ta không hay biết, dù đôi khi ta nghĩ là ta cảm
nhận được nó. Nhưng khi nhìn từ cuộc sống đời thường, mà không đi sâu hơn, lẽ tồn
tại của chúng ta nằm ở những người anh em – trước hết là những người mà ta đặt
niềm vui của mình vào nụ cười và hạnh phúc của kẻ đó, kế đến là những người
không quen nhưng vận mệnh của họ đã nối với ta bằng mối dây đồng cảm. Hàng trăm
lần mỗi ngày tôi tự nhắc mình rằng cuộc sống bên trong và bên ngoài của tôi đều
nhờ vào công sức lao động của những người khác, dù họ còn sống hay đã chết, và
tôi phải tận hiến chính mình để trao đi đúng mức tôi đã nhận và đang nhận. Tôi
có nhu cầu sống giản tiện và có những lúc thấy dằn vặt bởi cảm giác mình đang
chiếm giữ một lượng dư thừa công sức lao động của những người anh em. Với tôi,
sự khác biệt đẳng cấp là bất công và luôn phải dựa trên cường quyền. Đồng thời
tôi cũng cho rằng một lối sống giản dị là tốt cho tất cả mọi người, cả về vật
chất lẫn tinh thần.
Tôi
không tin vào tự do của con người theo nghĩa triết học. Mọi người hành xử không
chỉ dưới sức ép ngoại lực mà còn phải thuận theo những nhu cầu nội tại. Câu nói
của Schopenhauer, “một người có thể làm như anh ta muốn, nhưng không thể cứ muốn
“muốn” là được” (a man can do as he will, but not will as he will) đã luôn là
nguồn cảm hứng của tôi từ thời trẻ, nó cũng là sự an ủi vô hạn và dòng suối bất
tận của lòng kiên nhẫn, để từ đó đối mặt với những thử thách của cuộc đời, của
tôi, và của những người khác. Cảm xúc này đã nhân từ xoa dịu đi ý thức trách
nhiệm, vốn rất dễ khiến ta tê liệt; nó giúp ta không quá khắt khe với chính
mình và người khác; nó đưa ta đến một góc nhìn cuộc sống mà tại đó, trên tất cả,
sự hài hước có vị trí xứng đáng của nó.
Từ
góc nhìn khách quan, việc truy nguyên ý nghĩa hay mục tiêu tồn tại của ai đó cụ
thể hay của sự sáng tạo nói chung khá vô nghĩa đối với tôi. Thế nhưng mỗi người
đều có những lý tưởng riêng để định hướng những nỗ lực và phán xét của mình. Và
như thế, tôi chưa bao giờ tìm kiếm sự thỏa mãn và êm ấm như là điểm đến cuối
cùng – một nền tảng luân lý mà tôi cho rằng hợp với một đàn lợn hơn. Những lý
tưởng đã thắp sáng lối đi của tôi, và ngày qua ngày trao cho tôi can đảm để đối
mặt với cuộc sống một cách hân hoan, chính là Chân, Thiện, Mỹ. Nếu không có cảm
thức về sự đồng điệu với những người cùng chí hướng, không có sự đau đáu về cái
khách quan, cái mãi mãi cao vời trong nghệ thuật và khoa học, cuộc sống với tôi
sẽ trở nên trống rỗng. Với tôi, những mục đích tầm thường mà người đời theo đuổi
– của cải, sự thành đạt, sự xa hoa – luôn là những điều đáng khinh bỉ.
Ý
thức nhiệt thành của tôi dành cho lẽ công bằng và trách nhiệm xã hội luôn đối
nghịch một cách cố hữu với việc tôi không có nhu cầu kết nối trực tiếp với các
cá nhân hay cộng đồng người. Với trọn trái tim, tôi đích thực là một kẻ sống
thu mình, kẻ chưa bao giờ thuộc về đất nước, mái nhà, bạn bè, hay thậm chí gia
đình tôi. Trong sự ràng buộc với những mối quan hệ này, tôi chưa bao giờ đánh mất
cảm giác cố hữu về sự tách biệt và nhu cầu cần được cô độc – cảm giác này tăng
dần theo tuổi tác. Ta có thể ý thức một cách sâu sắc, mà không hề hối tiếc, về
những giới hạn trong tương giao và đồng cảm với người khác. Có thể một người
như thế sẽ đánh mất phần nào sự hồn nhiên vô tư, nhưng bù lại, anh ta luôn độc
lập trước các quan điểm, thói quen, và sự phán xét của người khác, và không để
mình bị chao đảo trên cái nền không lấy gì làm vững chắc đó.
Lí
tưởng chính trị của tôi là lý tưởng dân chủ. Hãy để mỗi người được tôn trọng
như một cá nhân và không ai được thần tượng hóa. Số phận quả là trớ trêu khi
chính tôi lại là đối tượng nhận được quá nhiều sự ngưỡng mộ và trọng thị từ những
người anh em, dù tôi chẳng làm gì xứng đáng hay làm chi nên tội. Điều này có lẽ
bắt nguồn từ sự khát khao bất thành của nhiều người trong việc thấu hiểu vài ba
ý tưởng mà tôi, những ý tưởng mà tôi đã tìm được bằng chút sức mọn của mình qua
nỗ lực không ngừng nghỉ. Thực ra tôi cũng biết rằng, để đạt được một mục đích tập
thể nào đó, nhất thiết phải có ai đó đứng ra nghĩ, tổ chức và chịu trách nhiệm
chung. Nhưng sự lãnh đạo không thể là bắt buộc, người ta phải có quyền chọn cho
mình người cầm lái. Một hệ thống chuyên quyền bằng áp bức, theo tôi, sẽ sớm
thoái hóa. Vì bạo lực luôn hấp dẫn những kẻ thấp kém về đạo đức, và tôi tin vào
một quy luật bất biến rằng những gã bạo chúa thiên tài rồi sẽ được nối ngôi bởi
những tên vô lại. Đó là lí do vì sao tôi quyết liệt chống lại những hệ thống
như ta đang thấy ở Ý hay Nga hiện nay. Cái làm cho hình thức dân chủ hiện hành
của Châu Âu mất tín nhiệm không nằm ở bản thân lý tưởng dân chủ, mà ở sự thiếu ổn
định của bộ phận lãnh đạo cao cấp và tính phi nhân của hệ thống bầu cử. Về mặt
này tôi cho rằng Hợp chủng quốc Hoa Kỳ đã tìm ra lối đi đúng đắn: họ có một tổng
thống có trách nhiệm, được bầu cho một thời gian đủ dài và có đủ quyền lực đủ để
thực sự đảm nhận được trọng trách. Mặt khác, điều tôi đánh giá cao trong hệ thống
chính trị của chúng ta là phúc lợi rộng rãi dành cho các cá nhân trong trường hợp
đau ốm hay khó khăn. Giá trị thật sự trong hoạt động sống của loài người với
tôi chẳng phải ở các nhà nước hay quốc gia, mà nằm ở các cá thể sáng tạo, hữu
tri, là các nhân cách; chỉ cá nhân mới có thể tạo ra những giá trị chân quý và
cao cả, trong khi bầy đàn tự nó vẫn mãi tù đọng trong tư duy và trì độn trong cảm
xúc.
Nhân
đây tôi muốn đề cập đến quái thai kinh tởm nhất của bản tính bầy đàn: hệ thống
quân sự. Chỉ cần kẻ nào cảm thấy thích thú khi đứng vào đoàn duyệt binh theo tiếng
quân nhạc là đủ để tôi coi khinh hắn rồi. Anh ta được trời phú nhầm cho bộ não
lớn, bởi với anh ta, chỉ cần cột xương sống thôi là đã quá đủ. Bệnh dịch này của
nền văn minh cần bị loại trừ càng sớm càng tốt. Chủ nghĩa anh hùng phục tùng mệnh
lệnh, bạo lực mù quáng, và những tấn trò hề vô nghĩa lý nhân danh lòng ái quốc:
tôi kinh tởm chúng làm sao! Chiến tranh với tôi là một thứ xấu xa đáng khinh bỉ:
tôi thà bị băm vằm ra muôn mảnh còn hơn dự phần vào tấn trò khốn nạn đó. Dù sao
tôi vẫn luôn nghĩ tốt về nhân loại, và tôi tin rằng, lẽ ra bóng ma này đã có thể
biến đi từ lâu nếu lý trí lành mạnh của dân chúng không bị những tham vọng về
kinh tế và chính trị, thông qua trường học và báo chí, làm cho bại hoại. Điều đẹp
đẽ nhất mà chúng ta có thể trải nghiệm được là cái bí ẩn. Đó là cảm thức nền tảng
trong cái nôi của nghệ thuật và khoa học chân chính. Kẻ nào không biết đến nó,
không còn khả năng tự vấn hay kinh ngạc, kẻ đó có thể coi như đã chết, chết như
một cây nến tàn. Trải nghiệm cái bí ẩn – dù có pha trộn cảm giác sợ hãi – đã
sinh ra tôn giáo. Biết về sự hiện hữu của cái mà ta không thể nhìn thấu, của những
biểu hiện của lý trí sâu thẳm nhất và cái đẹp rực rỡ nhất, tức về những cái chỉ
có thể đến với tâm trí chúng ta trong những hình thức sơ khai nhất; chính cái
biếtvà cái cảm này làm nên tính tín ngưỡng đích thực; theo nghĩa đó và chỉ theo
nghĩa đó, tôi thuộc về những người có tín ngưỡng sâu xa. Còn một thượng đế theo
nghĩa là kẻ ban phát phần thưởng và trừng phạt những tạo vật do chính mình tạo
ra, kẻ gần như có một ý chí như người trần thế chúng ta, thì tôi không thể nào
hình dung ra được. Tôi không muốn và cũng không thể tưởng tượng ra những cá
nhân sống lâu hơn cái chết thể xác; mặc cho những tâm hồn yếu đuối, vì sợ hãi
hay vị kỉ lố bịch, tìm đến những suy nghĩ như vậy. Với tôi, sự huyền nhiệm
trong tính vĩnh cửu của sự sống, cùng với sự thức nhận và tiên cảm về cấu tạo kỳ
diệu của tạo vật cũng như nỗ lực nhẫn nại để nắm bắt lấy một phần dù rất nhỏ bé
của cái lý tính tỏa rạng trong cõi tạo hóa này, đã là đủ rồi.