(1840 - 1889)
Cha Damien sống với người
cùi -- ăn uống với họ, đụng chạm đến họ, chào đón họ... Tâm hồn của cha vẫn ở với
tất cả các nạn nhân của bệnh Hansen, dù Công Giáo hay không Công Giáo.
Chân Phước Damien, tên thật là Giuse "de
Veuster", sinh ở Bỉ ngày 3 tháng Giêng 1840, trong một gia đình mà cha là
một nông dân cần cù và bà mẹ tận tụy dạy dỗ đức tin cho tám người con.
Ngay từ nhỏ, cậu Giuse mạnh khoẻ và tráng kiện, đã phải
thôi học để giúp cha trong công việc đồng áng. Cậu chăm chỉ giúp đỡ gia đình
trong nhiều năm, nhưng tâm hồn cậu vẫn ở một nơi nào đó. Vào lúc 19 tuổi, theo
gương anh mình, Giuse gia nhập Tu Hội Thánh Tâm Chúa Giêsu và Mẹ Maria, và lấy
tên là Damien. Vì nhất quyết theo đuổi việc học và để hết tâm hồn trong đời sống
tu trì, chẳng bao lâu Damien đã bù đắp được sự thiếu hụt trong việc giáo dục
trước đây.
Vào năm 1863, Cha Pamphile, anh ruột của Thầy Damien, chuẩn
bị đến quần đảo Hạ Uy Di trong công tác truyền giáo. Nhưng cha lâm bệnh nặng,
và Thầy Damien tình nguyện thế chỗ. Sau năm tháng dòng dã trên biển, thầy đến hải
cảng Honolulu. Trong vòng hai tháng tiếp đó, thầy được thụ phong linh mục và được
bổ nhiệm phục vụ ở Ðại Ðảo của Hạ Uy Di. Sự phục vụ của Cha Damien được ghi nhận
là hăng say và tính tình dễ dãi của ngài thu hút được nhiều người. Sau khoảng một
thập niên, ngài tình nguyện đến Molokai để phục vụ các người bị mắc bệnh
Hansen, thường gọi là bệnh cùi. Vào lúc Cha Damien đến đây, những người mắc bệnh
cùi bị đầy ra đảo này đã hơn mười năm qua.
Cha Damien, lúc ấy 33 tuổi, đến Molokai vào tháng Năm 1873
với hành trang là cuốn sách kinh và một ít quần áo. Theo dự định ban đầu của tu
hội, ngài chỉ ở đây một vài tháng rồi sau đó có các linh mục khác lần lượt ra
thay thế. Nhưng sau khi đến đây được ít lâu, ngài đã viết thư xin cha bề trên
cho phép ngài vĩnh viễn ở lại Molokai.
Có thể nói, ngài sống với người cùi -- ăn uống với họ, đụng
chạm đến họ, chào đón họ. Cha Damien được giao cho trông coi một cộng đồng Công
Giáo. Hàng ngày, cha như chìm đắm trong sự cầu nguyện, suy gẫm và đọc sách
thiêng liêng, do đó ngài lôi cuốn được hàng trăm người trở lại đạo. Nhưng tâm hồn
của cha vẫn ở với tất cả các nạn nhân của bệnh Hansen, dù Công Giáo hay không
Công Giáo. Ngài chăm sóc người bệnh, mai táng kẻ chết, lắng nghe những tâm sự
đau lòng. Ngài giúp cải tiến hệ thống dẫn nước cũng như nơi ăn ở của họ. Ngài
trông coi việc xây cất một trường học, một cô nhi viện và tổ chức sinh hoạt thiếu
nhi cũng như ca đoàn. Ngài là người đào huyệt cũng như chủ sự lễ an táng.
Người ta không rõ khi nào thì Cha Damien bị lây bệnh cùi,
nhưng chắc chắn là một ngày trong năm 1884 khi ngài bị phỏng ở chân mà không thấy
đau. Căn bệnh tấn công ngài như bất cứ người nào khác: từ từ, chân tay và mặt
mũi ngài biến dạng, tai ngài sưng to và méo mó. Vào ngày 15 tháng Tư 1889, ngày
thứ Hai Tuần Thánh, căn bệnh đã chấm dứt cuộc đời Cha Damien, khi mới 49 tuổi.
Lúc ấy được 16 năm sau khi ngài đến Molokai, và 25 năm kể từ khi ngài đến Hạ Uy
Di để bắt đầu công việc truyền giáo.
Trong những ngày cuối đời, Cha Damien được Mẹ Bề Trên
Marianne Cope chăm sóc, là người đã hứa sẽ tiếp tục công việc mà cha đã khởi sự.
Và sơ đã thể hiện điều đó trong 30 năm kế tiếp với sự cộng tác của các sơ trong
tu hội.
Theo lời yêu cầu, ngài được chôn cất ở Kalaupapa, nhưng
vào năm 1936, chính phủ Bỉ đã thành công trong việc đưa thi hài của ngài về Bỉ.
Một phần thân thể của Cha Damien được đưa về Hạ Uy Di sau lễ phong chân phước
năm 1995.
Khi Hạ Uy Di trở thành một tiểng bang của Hoa Kỳ, tiểu
bang này đã chọn Cha Damien là một trong hai đại diện của quốc gia có tượng đặt
trong Statuary Hall ở trụ sở Quốc Hội Hoa Kỳ.
Lời Trích
Trong bài giảng lễ phong chân phước, Ðức Giáo Hoàng Gioan
Phaolô II nói: "Sự thánh thiện không phải là sự tuyệt hảo theo tiêu chuẩn
con người; sự thánh thiện cũng không dành riêng cho một ít người đặc biệt. Sự
thánh thiện là cho mọi người; chính Chúa là người đưa chúng ta đến sự thánh thiện
khi chúng ta sẵn sàng cộng tác trong công trình cứu độ thế giới vì sự vinh hiển
của Thiên Chúa, bất kể tội lỗi của chúng ta hay tính khí bất thường của chúng
ta."
(Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ)