Chính
việc con người tìm kiếm sự công nhận của người khác như thước đo giá trị, như nền
tảng của lòng tự tin và tự tôn đã mở đường cho những sợ hãi, hoảng loạn trong đời
sống... Và sau đó, họ lại băn khoăn vì sao họ không thực sự cảm thấy hạnh phúc.
Thế
nào là một người sống thứ sinh? Đấy là người sống với mục đích gây ấn tượng với
người khác, lấy sự đánh giá của người khác làm thước đo bản thân.
Mục
đích cuộc đời anh ta là gì? Là sự vĩ đại trong mắt người khác. Là danh vọng, sự
ngưỡng mộ, sự ghen tị của người khác, của công chúng. Công chúng quyết định giá
trị của anh ta và anh ta hài lòng với những gì người ta nghĩ là anh ta có. Công
chúng là động lực sống của anh ta, là mối quan tâm lớn nhất của anh ta. Anh ta
không muốn giỏi, mà muốn được nghĩ là giỏi. Anh ta không muốn lao động, mà muốn
tỏ vẻ lao động và được người ta nghĩ là lao động giỏi. Anh ta vay mượn giá trị
và ảnh hưởng của người khác để gây ấn tượng với những người khác nữa. Chính anh
ta mới thực sự là kẻ không vị kỷ bởi vì anh ta hoàn toàn không quan tâm tới
mình muốn gì hay nghĩ gì, mà chỉ quan tâm đến người khác nghĩ gì về anh ta và
hành động theo ảo tưởng đó.
Chúng
ta thường hỏi nguồn gốc của mọi hành vi ti tiện, xấu xa trong xã hội là gì? Thực
ra không phải là sự vị kỷ, ích kỷ như người ta vẫn nghĩ. Trái lại, nó thủ tiêu
hoàn toàn sự vị kỉ, như trường hợp của những kẻ sống thứ sinh. Hãy nhìn vào những
kẻ sống thứ sinh. Họ tự biết là mình dối trá nhưng bằng lòng với việc người
khác nghĩ là họ chân thật và họ tạo lập lòng tự trọng cho bản thân trên nền tảng
đó. Họ tự ảo tưởng bản thân dựa vào những gì họ cho là người khác nghĩ về họ và
hoàn toàn không đếm xỉa tới việc họ thực sự nghĩ gì. Họ nhận về mình những
thành quả mà họ không tạo ra. Họ tự biết mình là tầm thường, kém cỏi, nhưng hài
lòng với việc đã tạo được cho mọi người ấn tượng rằng họ giỏi giang.
Những
kẻ sống thứ sinh không hề quan tâm tới sự thật, tới dữ kiện, tới ý tưởng, tới sự
sáng tạo hay lao động. Họ không hỏi “Điều đó có đúng không nhỉ?” Họ hỏi “Không
biết mọi người có nghĩ điều này là đúng không nhỉ?” Họ không bao giờ tự đánh
giá, phán xét mà chỉ lặp lại những gì người khác đánh giá, phán xét. Họ không
lao động mà chỉ muốn làm ra vẻ lao động. Họ không sáng tạo, mà chỉ muốn khoe
khoang và gọi tên những thứ trang sức phù phiếm có thể đánh bóng cho tên tuổi họ.
Họ không quan tâm tới năng lực, mà chỉ quan tâm tới quan hệ. Họ không nghĩ giá
trị, mà chỉ quan tâm tới ảnh hưởng. Thế giới sẽ ra sao nếu chỉ có toàn những kẻ
sống thứ sinh, những kẻ không lao động, không tư duy, không sản xuất, không
sáng tạo?
Người
ta không thể tư duy bằng não của người khác, cũng như không thể lao động bằng
tay của người khác. Nếu một người tự nguyện chối bỏ khả năng đánh giá và tư duy
độc lập của mình, anh ta đã chối bỏ sự nhận biết, sự tỉnh thức, tức là sự tồn tại
của anh ta như một thực thể riêing biệt, độc lập. Anh ta chỉ còn tồn tại thông
qua người khác như mọt thực thể phản ánh, sống thứ yếu. Những kẻ sống thứ sinh,
vì thé, không hề có được cảm nhận đúng đắn, xác thực về thực tại. Thực tại đối với
họ không nằm trong nhận thức của họ, do họ xác định, mà nằm đâu đó trong cái
khoảng không gian phân cách các cá thể khác ở bên ngoài họ. Thực tại với họ
không phải là một thực thể khách quan, mà chỉ là một hệ thống các quan hệ - tức
là một thứ không được neo vào đâu cả. Nói cách khác, nó là một sự trống rỗng,
vô hình và vô nghĩa thực sự.
Thảm
hoạ của thế giới là gì? Là sự đầy rẫy những kẻ không có cái tôi độc lập của
mình. Là sự đầy rẫy những ý kiến được phát biểu không thông qua quá trình tư
duy độc lập. Là sự tràn ngập các hành vi thiếu động cơ và cân nhắc. Là việc quyền
lực không đi kèm với trách nhiệm. Những kẻ sống thứ sinh hành động, nhưng động
lực hành động của họ lại nằm rải rác ở trong các cá thể khác. Chúng ở khắp nơi
mà lại không ở đâu. Bạn không thể nói lí với một kẻ sống thứ sinh. Anh ta không
hề biết tới lí lẽ. Anh ta không bao giờ có thể hiểu bạn đang nói gì vì anh ta
có cơ chế tư duy hoàn toàn thứ sinh. Nói lí với anh ta cũng giống như là bị đấu
tố bởi một toà án khống vậy. Một đám đông vô hình và mù quáng hậu thuẫn anh ta
và sẽ đè bẹp bạn không thương tiếc bằng sự vô hướng trong hành vi.
Những
kẻ sống thứ sinh sợ hãi một thứ duy nhất: những người tư duy độc lập. Họ có thể
tha thứ cho bọn tội phạm, ngưỡng mộ những kẻ độc tài, nhưng họ không thể dung
thứ cho những người tư duy độc lập. Bởi vì với những người tư duy độc lập, họ
không thể tồn tại; mà đó lại là thứ tồn tại duy nhất họ biết tới – tồn tại
trong người khác và bằng sự công nhận của người khác. Cứ nhìn vào thế giới này,
có thể thấy dấu hiện của sự thù ghét đó ở việc những kẻ sống thứ sinh nhạo báng
và cố gắng chối bỏ bất cứ tư tưởng nào biểu hiện sự độc lập. Họ phỉ báng, bôi
nhọ, và cố gắng vùi dập những người tư duy độc lập, những người sống với sự nhất
quán trong tư tưởng.
Chính
việc con người tìm kiếm sự công nhận của người khác như thước đo giá trị, như nền
tảng của lòng tự tin và tự tôn đã mở đường cho những sợ hãi, hoảng loạn trong đời
sống. Người ta phàn nàn rằng người ta cố gắng tìm kiến hạnh phúc mà không bao
giờ thấy. Giá như họ chỉ cần nghĩ một chút xem họ đã từng bao giờ có một mong
muốn thực sự nào của mình chưa, họ sẽ biết câu trả ời cho sự khốn khổ của họ. Họ
sẽ nhận thấy rằng những ước muốn, nỗ lực, ước mơ, tham vọng của họ đều có động
lực là người khác. Họ thậm chí không muốn làm giàu và kiếm tiền như một mục
đích rốt ráo, tự thân và chân chính; mà chỉ muốn kiếm tiền như công cụ để có
danh vọng và gây ấn tượng với người khác. Họ coi thanh thế như một thứ huân
chương. Do đó họ không cảm thấy niềm vui trong những gì họ làm và họ cũng không
thể cảm thấy niềm vui trong những gì họ làm và họ cũng không thể vui vẻ hưởng
thụ thành quả của mình. Họ hầu như không thể tự nhủ “Đây là điều tôi muốn bởi
vì tôi muốn, chứ không phải vì điều đó làm cho người khác ghen tị, ngưỡng mộ tôi”.
Và sau đó, họ lại băn khoăn vì sao họ không thực sự cảm thấy hạnh phúc.
Tất
cả các dạng thức của hạnh phúc đều có tính riêng tư. Những giây phút hạnh phúc
nhất là những giây phút thực sự riêng tư, tự tạo, và về bản chất là không thể
chia sẻ. Những thứ mà chúng ta thực sự coi là thiêng liêng là những thứ chúng
ta sẽ không mang ra trước thị phi. Thế mà bây giờ đa số chúng ta có ý nghĩ rằng
hạnh phúc là phải ở giữa mọi người; và chúng ta tìm kiếm hạnh phúc trong đám
đông, các phòng tiệc ồn ào. Chúng ta không biết rằng chúng ta thiếu cái phẩm chất
duy nhất để có hạnh phúc thực sự: đó là sống tự thân (về tư tưởng). Không có sự
sống tự thân, mọi thứ khác đều chỉ là ước lệ và ảo ảnh.
"Suối Nguồn" là
một tác phẩm đồ sộ có sự tác động mạnh mẽ đến độc giả Mỹ trong thế kỷ 20 và được
liên tục tái bản hằng năm.
Suối nguồn là câu chuyện
về Howard Roard, một kiến trúc sư tài năng nhưng chưa bao giờ có bằng cấp.
Howard Roard đã đi hết hành trình sáng tạo thăng trầm nhưng đầy đam mê của mình
với một niềm tin mạnh mẽ: Từ những thứ thiết yếu đơn giản nhất cho đến những
khái niệm tôn giáo trừu tượng cao nhất, từ cái bánh xe cho đến các tòa nhà chọc
trời, tất cả những gì mà chúng ta đại diện và tất cả những gì chúng ta có đều đến
từ một thuộc tính của con người – đó là khả năng tư duy.
Cũng giống như số phận của
Howard Roard, cuốn tiểu thuyết Suối nguồn cũng đã trải qua nhiều thăng trầm khi
từng bị 12 nhà xuất bản từ chối vì họ cho rằng cuốn sách "quá triết lý”,
“quá nhạy cảm” và sẽ không thể bán được vì không có độc giả. Nhưng cuối cùng Suối
nguồn đã được độc giả đón nhận một cách nồng nhiệt vì nó tái khẳng định tinh thần
của tuổi trẻ, nó tuyên bố về chiến thắng của con người, nó chỉ ra người ta có
thể làm được những gì (lời phát biểu của tác giả Ayn Rand trong dịp lễ kỷ niệm
25 năm Suối nguồn được xuất bản).