Luận bàn về Pháp luật
Đạo đức và pháp luật về bản chất hoàn
toàn khác nhau. Đạo đức là các giá trị, còn pháp luật là các công cụ để điều chỉnh
các giá trị. Chỉ có đạo đức được luật hoá chứ không có sự đạo đức hoá luật.
Nguyễn Trần Bạt, Chủ tịch / Tổng giám đốc, InvestConsult
Sách Văn hóa và Con người
chungta.com
Sách Văn hóa và Con người
chungta.com
Vai trò định hướng ứng xử không chỉ
thuộc về đạo đức mà còn thuộc về pháp luật. Những nhà triết học ngay từ thời cổ
đại, cả ở phương Đông lẫn phương Tây, đều nói đến vai trò to lớn của pháp luật.
Hàn Phi Tử cho rằng mặc dù có những bậc
hiền nhân, nhìn chung con người có bản tính ác và cần phải dùng pháp luật để điều
chỉnh hành vi của họ. Thực ra, cái lệch lạc của con người cũng tự nhiên như cái
đúng đắn của nó. Pháp luật và nhà nước là nhu cầu tự nhiên của cuộc sống, không
phải là phi tự nhiên. Con người sinh ra làm cả việc đúng lẫn việc sai, cả những
việc chính đáng và những việc lệch lạc.
Con người, dù muốn hay không, phải sống
chung, với cáe nhu cầu của cá thể và các nhu cầu mang tính công cộng khác nhau.
Vì thế, cần phải có một sự dàn xếp, phải có trọng tài, có người kiểm soát các
giá trị công cộng hay phòng ngừa sự xâm phạm vào các giá trị công cộng bởi một
số cá thể. Nhà nước và pháp luật là những công cụ không thể thiếu. Vấn đề ở chỗ
cần nhà nước nào, pháp luật nào và các giới hạn của nó là gì.
Chúng ta cần phải phân biệt hai khái
niệm đạo đức và pháp luật cùng với mối tương quan biện chứng của hai khái niệm
này. Đạo đức và pháp luật về bản chất hoàn toàn khác nhau. Đạo đức là các giá
trị, còn pháp luật là các công cụ để điều chỉnh các giá trị. Chỉ có đạo đức được
luật hoá chứ không có sự đạo đức hoá luật. Đó là hai khái niệm có chức năng xã
hội và bản chất tự nhiên khác nhau. Tất cả các khái niệm trên đều thuộc về con
người, tuỳ trạng thái giác ngộ của con người mà trở nên hợp lý hay không hợp
lý.
Chừng nào con người cảm thấy rằng nếu
không có pháp luật thì sẽ xảy ra tình trạng hỗn loạn thì pháp luật đóng vai trò
thống trị. Nếu con người cảm thấy pháp luật bóp chết tự do, bóp chết năng lực
sáng tạo của con người thì vai trò của pháp luật sẽ bớt đi. Khi đó các hành vi
của con người sẽ được điều chỉnh nhiều hơn bằng đạo đức. Không có mô hình chung
cho đời sống con người mà chỉ có mô hình phù hợp cho trạng thái giác ngộ của
con người hay trình độ phát triển của con người. Một trò chơi mà luật lệ chặt
chẽ quá sẽ làm giảm bớt đi sự bay bướm. Con người sống tuân theo pháp luật
nhưng con người sáng tạo theo qui luật của tâm hồn. Nói cách khác đạo đức và
pháp luật, mặc dù về mặt bản chất khác nhau, đều có nghĩa vụ xã hội là tạo ra
môi trường sống tốt đẹp cho con người. Nếu pháp luật trở thành công cụ để hạn
chế tự do và làm giảm thiểu năng lực sống của con người thì pháp luật trở nên
phản động.
Nhà nước nào có pháp luật đó, pháp luật
ấy thô sơ, độc tài hay dân chủ là tuỳ thuộc vào chất lượng của nhà nước và chất
lượng của xã hội. Xã hội đủ năng lực để kiềm chế nhà nước và tác động ngược hấp
dẫn và rằng phương Tây đang hướng về những giá trị đó như là "trở về cội nguồn".
Ở Việt Nam ,
hiện nay có phong trào hương ước hoá các qui tắc sống, các qui tắc sinh hoạt ở
các làng xã. Việc này, theo tôi, là một sai lầm. Thực ra, hương ước chính là bằng
chứng về tình trạng chậm phát triển.
Châu Á không hề có giá trị gì đặc biệt
so với phương Tây. Nguồn gốc của việc xem trọng hương ước, bản sắc, giá trị
châu Á là kết quả của bệnh tự ty, kết quả của tình trạng kém hay thiếu phát triển.
Văn hoá nào, pháp luật nào, quan điểm chính trị nào thì cũng để phục vụ cho sự
phát triển con người. Sự phát triển cá nhân con người, chứ không phải hương ước,
không phải luật pháp quốc gia hay luật pháp toàn cầu là mục tiêu. Ở đâu nền văn
hoá kìm hãm sự phát triển thì nền văn hoá ấy có vấn đề, pháp luật ấy có vấn đề.
Con người là khái niệm, không phải là
một cá nhân. Cái hay của phương Tây là dung hoà được giá trị của cá thể và giá
trị của cộng đồng. Pháp luật phải dung hoà giữa quyền lợi cá thể và quyền lợi cộng
đồng, tạo ra tự do cá nhân chứ không phải tạo ra sự vi phạm các lợi ích công cộng.
Đó mới là pháp luật lý tưởng.
Muốn có pháp luật lý tưởng, trước hết
phải nâng cao dân trí chứ không phải là bắt đầu bằng việc biên soạn luật. Nâng
cao dân trí đến lượt nó lại phải bắt đầu bằng nâng cao mức sống. Con người phải
đạt đến một mức độ phát triển vật chất nào đó mới có quyền tự do để nhận thức
được các giá trị tinh thần. Một khi còn bị trói buộc vào miếng ăn, vào nhà ở
thì con người chưa thể có tự do. Con người mà chưa tự do, chưa được giải phóng
ra khỏi những yêu cầu tối thiểu của đời sống vật chất thì không thể có hứng thú
để bước sang lĩnh vực thưởng thức các giá trị tinh thần và do đó chưa thể có
thói quen tôn trọng các giá trị pháp luật. Cho nên, nhiệm vụ đầu tiên của các hệ
thống chính trị là nâng cao mức sống của con người và giải phóng con người khỏi
những ràng buộc vật chất tối thiểu để họ được tự do. Càng tự do bao nhiêu con người càng tôn trọng pháp luật bấy nhiêu. Các hiện tượng vi phạm pháp luật là kết
quả của sự thiếu tự do.
Khi nghiên cứu pháp luật, người ta thường
đề cập đến hai mô hình: pháp trị và đức trị. Thực ra pháp trị và đức trị là hai
trào lưu tư tưởng chứ không phải là hai mô hình pháp luật. Mặc dù luôn luôn nằm
giữa trung tâm của những cuộc tranh luận lớn về bản chất của pháp luật, không ở
đâu có pháp trị hoàn toàn và cũng không ở đâu có đức trị hoàn toàn, dù là ở
phương Tây hay ở phương Đông. Sự phát triển không phải là do dùng pháp trị hay
đức trị, mà chính là cách thức sử dụng các phương pháp cũng như cán cân Trị Vì
và Quyền Lợi.
Giá trị của phương Tây là biến xã hội
thành cấu trúc của các Quyền. Pháp luật là văn kiện, là công cụ để người ta qui
định các Quyền. Và chỉ khi người ta qui định các Quyền thì mới tạo ra sự phát
triển. Lẽ đơn giản là một khi có quyền, dù hẹp đến đâu chăng nữa, thì con người
cũng cố gắng tận dụng không gian chính đáng là các Quyền của họ. Không nên nhầm
rằng pháp trị thì hạn chế sự phát triển còn đức trị thì tăng cường sự phát triển
hay ngược lại. Ở nơi nào con người bắt đầu có các quyền hiến định, các quyền luật
định của mình, thì ở đấy có sự phát triển.
Có một hiện tượng đáng suy ngẫm là phần
lớn các quốc gia đang phát triển đạt được thành tựu kinh tế cao trong những thập
niên vừa qua (trừ các quốc gia thành phố như Singapore, Hong Kong...) đều là những
nước mà ở đó quyền con người bị bóp nghẹt, thậm chí là những đất nước của các bạo
chúa. Có thể kể: Chile , Indonesia , Hàn
Quốc... Hiện tượng này cần phải được lý giải từ bản chất. Trước tiên, cần phân
biệt phát triển và phát triển bền vững. Tạo ra một nhà nước thật mạnh, tập
trung tất cả các ý chí hành động, huy động một cách cưỡng bức tất cả các năng lực
để tạo ra sự phát triển quốc gia thì đó cũng là một biện pháp tạo ra sự phát
triển. Nhưng sự phát triển đó có bền vững không? Một quốc gia có thể phát triển
bằng cách đổ chất thải của mình sang các nước lân cận hay không? Và liệu các quốc
gia lân cận có cho phép nước đó đổ chất thải sang không?
Trong một thế giới đã toàn cầu hoá, quốc
gia nào sẽ hứng chịu rác rưởi của quốc gia khác? Hiện nay, với sự thức tỉnh của
các dân tộc sau chiến tranh lạnh, các quốc gia buộc phải điều chỉnh lại chính
sách của mình. Không quốc gia nào có thể làm như trước đây được nữa. Giai đoạn
tập trung ý chí hành động bằng nhà nước đã qua, giai đoạn hiện nay là giai đoạn
thức tỉnh các lực lượng khác nhau trong mỗi dân tộc và vì thế hình thức nhà nước
mạnh không còn là hình thức hợp lý.