THỨ HAI SAU CHÚA NHẬT I THƯỜNG NIÊN
NĂM LẺ
Dt 1, 1-6; Mc 1,14-20
BÀI ĐỌC: Dt 1, 1-6
1 Thuở
xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn
sứ;2 nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua
Thánh Tử. Thiên Chúa đã nhờ Người mà dựng nên vũ trụ, đã đặt Người làm Đấng
thừa hưởng muôn vật muôn loài.3 Người là phản ánh vẻ huy hoàng, là
hình ảnh trung thực của bản thể Thiên Chúa. Người là Đấng dùng lời quyền năng
của mình mà duy trì vạn vật. Sau khi đã tẩy trừ tội lỗi, Người lên ngự bên hữu
Đấng Cao Cả trên trời.4 Danh hiệu Người được thừa hưởng, cao cả hơn
danh hiệu các thiên thần bao nhiêu, thì Người lại trổi hơn họ bấy nhiêu.
5 Thật vậy, có bao giờ Thiên Chúa đã phán cùng
vị thiên thần nào: Con là Con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con hoặc là:
Ta sẽ là Cha Người, và chính Người sẽ là Con Ta.6 Khi đưa Trưởng Tử
vào thế giới loài người, Thiên Chúa lại nói: Mọi thiên thần của Thiên Chúa,
phải thờ lạy Người.
ĐÁP CA: Tv 96
Đ. Chư thần chư thánh, phục bái Chúa đi. (x.
c 7c)
1
CHÚA là Vua hiển trị, hỡi địa cầu, hãy nhảy mừng lên, vui đi nào, ngàn muôn hải
đảo! 2b Bệ ngai rồng là công minh chính trực.
Trời xanh tuyên
bố Người là Đấng chính trực, hết mọi dân được thấy vinh quang Người. 7c Chư thần chư thánh, phục bái Chúa đi!
9
Chính bởi vì Ngài, muôn lạy CHÚA, là Đấng Cao Cả trên khắp địa cầu, Ngài trổi
vượt chư thần hết thảy.
TUNG HÔ TIN MỪNG: Mc 1,15
Hall-Hall: Chúa nói: Triều đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh
em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng. Hall.
TIN MỪNG: Mc 1,14-20
14 Sau khi ông Gio-an bị nộp, Đức Giê-su đến
miền Ga-li-lê rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa.15 Người nói:
"Thời kỳ đã mãn, và Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và
tin vào Tin Mừng."
16 Người đang đi dọc theo biển hồ Ga-li-lê, thì
thấy ông Si-môn với người anh là ông An-rê, đang quăng lưới xuống biển, vì họ
làm nghề đánh cá.17 Người bảo họ: "Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ
làm cho các anh thành những ngư phủ bắt
người" (Bản dịch của NTThuấn).
18 Lập tức hai ông bỏ chài lưới mà đi theo Người.
19
Đi xa hơn một chút, Người thấy ông Gia-cô-bê, con ông Dê-bê-đê, và người em là
ông Gio-an. Hai ông này đang vá lưới ở trong thuyền.20
Người liền gọi các ông. Và các ông bỏ cha mình là ông Dê-bê- đê ở lại trên
thuyền với những người làm công, mà đi theo Người.
HIỀN
THÊ CỦA ĐỨC KI-TÔ PHẢI “ĐẺ”
(x. Mk 1,2)
Khát vọng sinh con
của một phụ nữ có chồng là bản năng của họ, cụ thể như bà Anna, dù được chồng
là ông Encana yêu bà hơn người vợ thứ của ông là bà Pơ-nin-na, dù bà này được
Chúa cho sinh con, còn bà Anna thì vẫn son sẻ. Thế nên lúc nào bà Anna cũng
khóc, không chịu ăn uống, đến nỗi ông chồng phải dỗ ngọt: “Anna, sao em khóc? Sao em không chịu ăn? Sao lòng em rầu rĩ vậy? Vì đối
với em, anh lại không hơn mười đứa con trai hay sao?” (1Sm 1,8: Bài đọc năm
chẵn).
Ngày hôm qua,
chúng ta mới mừng lễ Chúa Giê-su chịu Phép Rửa, nhắc cho ta trong Bí tích Thánh
Tẩy ta đã được trở nên Hiền Thê của Chúa Ki-tô (x. 2Cr 11,2). Thì khát vọng sự
sống của người Ki-tô hữu cũng phải sinh con cho Thiên Chúa hơn nhu cầu của bà
Anna.
Để xứng đáng là
Hiền Thê của Chúa Ki-tô “đẻ” con cho Ngài, ta phải ý thức sống ba điều sau:
-
Vượt qua mọi rào cản loan báo Lời Chúa để
diễn tả sức bật của Tin Mừng.
-
Đón nhận Tin Mừng do Hội Thánh rao giảng,
là được trực tiếp gặp Chúa Giê-su.
-
Ai thuộc về Chúa Ki-tô, phải quy tụ muôn
dân về cho Chúa để họ được giải phóng.
1/ VƯỢT QUA MỌI RÀO CẢN LOAN BÁO LỜI CHÚA ĐỂ DIỄN TẢ SỨC BẬT
CỦA TIN MỪNG.
Thánh sử Marco ghi:
“Sau
khi ông Gioan bị nộp, Đức Giê-su đến miền Ga-li-lê rao giảng Tin Mừng của Thiên
Chúa” (Mc 1,14: Tin Mừng).
Động từ nộp được dùng ở đây nhằm nói về cái
chết của ông Gioan Tẩy Giả can đảm cảnh cáo vua Hê-rô-đê đã cướp vợ anh mình,
nên ông bị vua cắt đầu! (x. Mc 6,17t). Cái chết của Gioan Tẩy Giả đã trở thành
biến cố tiên tri cho mọi người biết Đức Giê-su cũng như các môn đệ của Ngài đều
phải chết vì chân lý.
Thực vậy, khi Đức
Giê-su báo trước cái chết của Ngài cho các môn đệ, Ngài cũng dùng động từ nộp:
-
Con Người sẽ bị nộp cho người đời (x. Mc 8,31).
-
Con Người bị nộp cho các thượng tế và ký lục (x. Mc 10,33).
-
Giu-đa, môn đệ phản Thầy, cũng nộp Thầy cho dân ngoại với giá 30$ mua
tên nô lệ (x. Mc 14,21).
Vậy mà khi Đức
Giê-su vừa nghe tin ông Gioan bị vua Hê-rô-đê Antipa cắt đầu, sự cố kinh hoàng
ấy đã không làm cho Ngài run sợ chạy trốn; trái lại Ngài đến miền Ga-li-lê bắt
đầu giảng Tin Mừng. Hành động đó như một người nhảy vào “đống kiến lửa”, bởi vì
miền Ga-li-lê đang bị đặt dưới quyền cai trị của Hê-rô-đê Antipa, một kẻ rất
độc ác, ông này là em của vua Hê-rô-đê An-kê-laus. Ông An-kê-laus được đế quốc
Roma đặt cai trị miền trung Samari và miền nam Giu-đê-a nước Do-Thái vào năm thứ
4 trước công nguyên, đến năm thứ 6 sau công nguyên, ông bị Roma truất chức và
trao quyền cho Phi-la-tô làm tổng trấn. Mà ta biết ông Phi-la-tô không phải là
kẻ ác như Hê-rô-đê Antipa, bằng chứng là trong cuộc xử án Đức Giê-su, ông chỉ
muốn tha, ông biết những đầu mục Do-Thái chỉ vì ghen tức mà nộp Ngài cho ông (x.
Ga 19). Thế mà khi Đức Giê-su nghe tin ông Gioan mới bị Hê-rô-đê Antipa cắt
đầu, Ngài không lui về miền Nam dưới quyền Phi-la-tô để giảng dạy, mà Ngài lại
can đảm lên miền Bắc Ga-li-lê. Điều này tác giả Tin Mừng xác quyết cho chúng ta
rằng: Ông Gioan chỉ là “cây đèn cháy sáng” (x. Ga 5,35), cây
đèn đã bị người ta thổi tắt, thì Đức Giê-su là “Mặt Trời Công Chính” tất
yếu ló rạng chiếu sáng (x. Lc 1,78). Đức Giê-su dù là Thiên Chúa toàn năng, thế
mà Ngài mới thi hành sứ mệnh ba năm đã bị giết! Sau cái chết của Đức Giê-su,
các Tông Đồ lại nhiệt tình rao giảng, dù phải ra tù vào khám như cơm bữa, mà họ
vẫn không sợ! (x. Cv 4,1-22) Cả đến những kẻ không tin theo Đức Giê-su, như ông
Sau-lô ôm áo động viên nhiều người ném đá Stê-pha-nô đến chết, rồi sau đó ông
xông vào các tư gia bắt được ai theo đạo Chúa, là ông xiềng xích đưa về
Giê-ru-sa-lem (x. Cv 7.8.9), nhưng nhờ lời cầu nguyện của Stê-pha-nô, ông Sau-lô
đã trở nên Tông Đồ Phao-lô xuất sắc của Chúa Giê-su, mà hơn 20 thế kỷ nay chưa
ai sánh bằng (x. 2Cr 11,5).
Những chứng từ
trên đây đã nói lên sức bật của Tin Mừng
như một lò xo càng bị nén, sức bật càng mạnh. Bởi vì nhờ Tin Mừng của Chúa
mà làm cho con người thực sự được giải phóng, và được chan chứa niềm vui, đến
nỗi tử thần không cướp mất sự sống hạnh phúc của họ, vì “kẻ nào sợ chết, suốt đời làm nô lệ” (Dt 2,15), và “lòng mến trọn hảo thì xua đuổi sợ hãi ra
ngoài, vì sợ hãi có liên quan đến hình phạt” (1Ga 4,18).
Vậy sức bật của
Tin Mừng làm cho những Hiền Thê trung tín của Đức Ki-tô, họ giống như thác nước
đổ xuống (người Ki-tô hữu bị bách hại), nó vẫn tiếp tục chảy, nếu gặp khối đá
chặn, nước tụ lại dâng lên vượt chướng ngại chảy tiếp; hoặc người Ki-tô hữu
nhiệt tình sống Tin Mừng cũng giống như cây lúa xạ, nước lũ càng dâng lên, lúa
càng trồi cao, nước lũ dù mạnh cũng không vùi dập được cây lúa xạ yếu ớt! Đúng
như Lời Kinh Thánh nói: “Dân Chúa càng bị hành hạ, họ càng thêm đông
đúc và lan tràn khắp nơi, khiến những kẻ đã gây ra tai họa, phải khiếp sợ”
(Xh 1,12).
2/ ĐÓN NHẬN TIN MỪNG DO HỘI THÁNH RAO GIẢNG, LÀ ĐƯỢC TRỰC TIẾP
GẶP CHÚA GIÊ-SU.
Trong thư Do Thái
(1, 1-6), Bài đọc năm lẻ đã xác tín cho chúng ta: Mỗi khi ta tham dự Phụng Vụ,
đặc biệt là dự Lễ, ta được “trực tiếp nghe Chúa Giê-su lên tiếng giảng dạy,
người giảng chỉ là cái loa Chúa dùng. Chúa Giê-su là Đấng dùng Lời quyền năng
của mình mà duy trì vạn vật. Bởi vì chính Ngài đã dựng nên vũ trụ”. Thì chắc
chắn các phép lạ Đức Giê-su làm mà tác giả Marco ghi lại chỉ là hình bóng ơn
cứu độ vô cùng phong phú, Chúa ban cho những ai có tấm lòng biết nghe và đem ra
thực hành rồi loan báo cho đồng loại.
Đó là lý do khi Đức Giê-su bắt đầu thi hành sứ
mệnh ngôn sứ, Ngài lên tiếng kêu gọi mọi người: “Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” (Mc 1,15: Tung Hô Tin Mừng). Đúng
lý ra Ngài phải kêu gọi mọi người: “Hãy
tin vào tôi là Đấng Cứu Độ như các ngôn sứ đã loan báo trước”. Nhưng Tin
Mừng còn là cơ thể thứ hai của Chúa Ki-tô, âm thầm và dễ dàng len lỏi vào hết
mọi tâm hồn con người; còn nếu Ngài nói: “Tin
vào tôi”, thì lúc ấy chỉ có một số người đồng thời với Ngài được biết; ngày
nay, chỉ có những người Công Giáo được rước Lễ mới có quyền gặp Chúa Giê-su
Phục Sinh trong Bí tích Thánh Thể mà thôi. Nhưng “tin vào Tin Mừng” thì bất cứ loại người nào cũng đón nhận được.
Vì Tin Mừng là cơ thể thứ hai của Chúa Giê-su, nên
giáo huấn của Hội Thánh trong Hiến Chế Mạc Khải số 21 dạy: “Phải
tôn kính Thánh Kinh như chính thân thể Chúa Ki-tô, đặc biệt là Lời Chúa trong
Phụng Vụ”, vì “Chúa Giê-su hiện
diện cách thiết thực khi chúng ta đọc Thánh Kinh trong Hội Thánh, nhất là trong
Phụng Vụ” (Hiến Chế Phụng Vụ số 7).
3/ AI THUỘC VỀ CHÚA KI-TÔ, PHẢI QUY TỤ MUÔN DÂN VỀ CHO CHÚA ĐỂ
HỌ ĐƯỢC GIẢI PHÓNG.
Nhìn vào cơ cấu
của Tin Mừng Marco trong chương 1: Sau khi Đức Giê-su thắng satan: “Ngài ở giữa các dã thú, chúng không làm hại
được Ngài, và các Thiên thần đến hầu hạ Ngài” (x. Mc 1,12-13: Tin Mừng).
Tin Mừng chiến thắng đó, Đức Giê-su muốn chia sẻ cho cả loài người, vì loài
người đang bị quyền lực sự ác thống trị, cụ thể sau khi vua Hê-rô-đê cắt đầu
ông Gioan, thì Đức Giê-su lớn tiếng kêu gọi mọi người: “Thời buổi đã mãn, và Nước Thiên Chúa đã gần bên, hãy hối cải và tin vào
Tin Mừng” (Mc 1,15: Tin Mừng).
Để làm cho Tin
Mừng giải phóng sớm bao trùm tâm hồn mọi người, Đức Giê-su muốn mọi người phải tiếp
tay với Ngài là làm Tông Đồ cho Ngài, khởi đi từ Bí tích Thánh Tẩy (x. Mt 28,
18-19), nên Ngài chọn một số người, Ngài không chọn những người nhàn rỗi, nhưng
là những người đang vất vả làm việc chính đáng để nuôi sống gia đình, phục vụ
xã hội, cụ thể như ông Simon và ông An-rê, đang quăng chài bắt cá; cả hai anh
em Gia-cô-bê và Gioan đang vá lưới, tất cả phải bỏ nghề, bỏ việc đi theo Ngài
để “bắt” muôn người về cho Ngài (x. Mc 1,16-20: Tin Mừng).
Chính vì vậy mà
giáo huấn của Công Đồng Vat.II dạy chúng ta: “Giáo dân có thể và phải có một hoạt động cao quý là truyền bá Tin Mừng
cho thế giới, cả những lúc họ bận tâm lo lắng việc trần thế” (Hiến Chế Hội
Thánh số 35).
Việc loan báo Tin
Mừng đem lại hiệu quả tuyệt vời. Cụ thể:
-
Chỉ cần Lời Chúa được công bố là thần ô uế
bị xua trừ (x. Mc 1,23t).
-
Đức Giê-su có mặt tại nhà mẹ vợ ông Phê-rô,
Ngài động đến bà, tức khắc cơn sốt nặng biến mất, bà trỗi dậy phục vụ các Ngài
(x. Mc 1,29).
-
Thế rồi đủ các bệnh nhân đến với Ngài, tất
cả đều được lành mạnh (x. Mc 1,32t).
Đức Giê-su nói với
những người Ngài tuyển chọn: “Các anh hãy
theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh trở thành ngư phủ đi bắt người” (Mc 1,17:
Tin Mừng).
Đức Giê-su hữu ý
sử dụng động từ “bắt”, tiếng Hy-Lạp
là “zogreo”. Bởi vì ai có quyền bắt, thì người ấy cũng có quyền tha. Như vậy,
các môn đệ của Đức Giê-su dùng Lời để quy tụ, để “bắt” người ta quay về
với Chúa. Ai tin vào Chúa Giê-su mà biết sám hối và xin theo Ngài, thì các môn
đệ có quyền mở cửa Thiên Đàng cho họ vào, như lời Chúa Giê-su đã nói với các
môn đệ: “Dưới đất, anh em cầm buộc những
gì, trên trời cũng cầm buộc như vậy;dưới đất, anh em tháo cởi điều gì, trên
trời cũng tháo cởi như vậy” (Mt 18,18).
Vậy khi ta đã ý thức mình là Hiền Thê của Chúa
Ki-tô, thì ta phải làm ứng nghiệm lời ngôn sứ Mikha 1,2: “Đến thời “Đẻ” phải sinh con” (Bản dịch Linh mục NTT), không phải là
những người sống bậc gia đình mới đẻ con Thiên Chúa, vì “Người làm cho đàn bà son sẻ
thành mẹ đông con vui cửa vui nhà” (Tv
113/112,9). Cũng vì lý do đó mà Chúa đã dùng miệng ngôn sứ Isaia nói: “Nếu ngươi chỉ làm tôi trung của Ta, để tái
lập các chi họ Gia-cóp, để dẫn đưa những người Israel sống sót (sau lưu đày)
trở về, thì vẫn còn quá ít, vậy Ta
đặt ngươi làm ánh sáng muôn dân, đem ơn cứu độ của Ta đến tận cùng trái đất”
(Is 49,6). Có như thế ta mới “làm người
phục vụ Đức Giê-su Ki-tô giữa các dân ngoại, lo việc tế tự là rao giảng Tin
Mừng của Thiên Chúa, để các dân ngoại được Thánh Thần thánh hóa, mà trở nên một
lễ phẩm đẹp lòng Thiên Chúa” (Rm 15,16). Bởi vì ta đã cất lời kêu gọi: “Chư thần chư thánh phục bái Chúa đi” (Tv
97/96, 7c: Đáp ca năm lẻ), và thưa cùng Chúa rằng: “Lạy Chúa, con sẽ dâng lễ tế tạ ơn Ngài” (Tv 116/115,17a: Đáp ca năm
chẵn).
THUỘC LÒNG
Đức
Giê-su nói: “Mẹ và anh em Ta là những người nghe và làm theo Lời Thiên Chúa”
(Lc 8,21)