PHẢI TỪ BỎ CHÍNH MÌNH
Thi hào La Fontaine có kể câu truyện ngụ ngôn: Một bác tiều phu đi đốn củi. Đốn được một bó củi
to sắp sửa mang về thì bác bỗng nghĩ đi nghĩ lại thấy đời mình sao khổ
quá, tuổi đời cứ tăng lên, sức khoẻ sa sút, mà gánh nặng gia đình vẫn không đổi
thay, lại thấy nhiều người chẳng phải lo đến chuyện cơm áo gạo tiền. Bác mới
kêu lớn lên: “Ước gì tôi được gặp Thần Chết!”
Vừa nói xong bác thấy Thần Chết đứng ngay trước
mặt, tay cầm lưỡi hái, miệng hỏi bác: “Ông lão muốn điều gì?” Bác lập cập
trả lời: “Bó củi to nặng quá!, nhờ ngài đưa giùm lên vai tôi”.
Thế mới hay dù khổ đến đâu, sự sống vẫn luôn được
mọi người yêu quý hơn mọi giá. Nhưng dù quý trọng sự sống đến đâu, cái chết vẫn
là một sự thực không ai có thể phủ nhận được: “Mạng người dù giá cao mấy nữa,
thì rồi ra cũng chấm dứt đời đời. Nào phàm nhân sống mãi được sao mà chẳng phải
đến ngày tận số?” (Tv 49,9-10)
Mới thoáng nhìn, sự chết là một thực tại cay đắng
của phận người, nó đập tan mọi bảo đảm bền vững nhất, mọi dự tính khôn ngoan nhất
của trần gian.
Nhưng phải cám ơn Thần Chết! Vì đó là người thổi
tiếng kèn đánh thức con người khỏi mê ngủ bởi những quyến rũ hào nhoáng của thế
gian để đi tìm một ý nghĩa cao đẹp cho thân phận cát bụi, để nhận ra và sống
tình yêu thương, điều duy nhất đem lại cho con người sự sống thực sự và vĩnh cửu
mà Thiên Chúa đã ban tặng khi dựng nên con người theo hình ảnh Ngài: “Căn cứ
vào điều này, chúng ta biết được tình yêu là gì: đó là Đức Ki-tô đã thí mạng vì
chúng ta. Như vậy, cả chúng ta nữa, chúng ta cũng phải thí mạng vì anh em”
(1Ga 3,16)
Vâng, ai cũng dễ kính phục một người sẵn lòng
chết vì yêu, dù người đó có địa vị thấp hèn đến đâu đi nữa: “Không có tình
thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của
mình” (Ga 15,13). Mà kìa, trên cây thập tự, Chúa nâng mọi người lên cao khi
gọi họ là bạn hữu, và yêu thương chịu chết cho tội của họ.
Tình yêu Thiên Chúa hướng con người đến một
giá trị không chịu phai tàn với thời gian, và làm cho mọi bóng tối trong cuộc đời
khổ cực được tràn đầy ánh sáng phục sinh: “Những thử thách đó nhằm tinh luyện
đức tin của anh em là thứ quý hơn vàng gấp bội, - vàng là của phù vân, mà còn
phải chịu thử lửa. Nhờ thế, khi Đức Giê-su Ki-tô tỏ hiện, đức tin đã được tinh
luyện đó sẽ trở thành lời khen ngợi, và đem lại vinh quang, danh dự. Tuy không
thấy Người, anh em vẫn yêu mến, tuy chưa được giáp mặt mà lòng vẫn kính tin. Vì
vậy, anh em được chan chứa một niềm vui khôn tả, rực rỡ vinh quang, bởi đã nhận
được thành quả của đức tin, là ơn cứu độ con người” (1Pr 1,7-9)
Năm 1861, khoảng 2300
giáo dân Bà Rịa đang yên ổn sống đạo thì đến tháng 8 quan tuần vũ Biên Hoà ra
chỉ thị cho phủ Bà Rịa lập danh sách người có đạo. Dân có đạo phải “khắc tự”
hai bên má, một bên chữ Biên Hoà, một bên chữ tả đạo. Đến tháng 9, có khoảng
700 người Kitô hữu bị giam trong bốn nhà giam được thiết lập tại phủ Bà Rịa.
Lính gác nghiêm nhặt ngày
đêm, không cho ai ra ngoài. Đại tiện, tiểu tiện đều tại chỗ, may lắm mới có được
một đứa nhỏ ở ngoài được cho vào hốt đổ đi. Thời tiết mùa mưa ẩm thấp, phải nằm
ngủ dưới nền đất, lại không phên bạt che nắng mưa nên nhiều người lâm bệnh chết
rũ tù.
Dù vậy, chẳng có ai bỏ đạo.
Có một ông bị nhốt trong ngục, vợ và con ở ngục khác trốn thoát được ra ngoài mới
tìm chạy được 30 quan tiền định lo lót cho chồng được tha. Nhưng ông nhất định
không chịu vì coi đó là việc không chính đáng, và sẵn sàng ở lại để chịu chết
vì Chúa.
Cuối tháng 12, Biên Hoà thất thủ, quân nhà
Nguyễn chạy đến Bà Rịa nhưng thấy không đủ sức địch lại quân Pháp nên phải rút đi.
Trước khi rút, ngày 07/01/1862, họ phóng hoả đốt cả bốn nhà giam các tín hữu.
Người bị giam cố gắng thoát ra, có lính canh ở
ngoài đâm chết, có lính thấy đàn bà trẻ con thì thương tình phá cửa cho họ chạy,
một cai đội chặn họ lại cướp của. Số người tử vì đạo là 444 người.
Được sinh ra, sống, chết và chịu đau khổ là những
định luật tự nhiên không ai tránh được. Nhưng mọi đau khổ trong cuộc sống sẽ nở
hoa cho những ai để tình-yêu-đến-bỏ-mình của Chúa dẫn đường và thúc đẩy: ““Bởi
ân tình Ngài quý hơn mạng sống, miệng lưỡi này xin ca ngợi tán dương” (Tv
63,4)