I.
SIGMUND FREUD VÀ “LIBIDO”
PHẦN II. ĐỐI CHIẾU HIỆN TƯỢNG
Trên
đây là những ý niệm chủ chốt trong lý thuyết phân tâm học của Freud. Có
nhiều người không thỏa mãn và cũng có nhiều người bất bình về lối giải thích
cực đoan của Freud, hoặc về phương diện tâm lý. Tuy nhiên mọi người đều phải
công nhận ba sự thật sau đây, được xem như là khám phá mới mẻ và giá trị
mà Freud đã đóng góp cho nhân loại:
Một
là, sự hiện hữu của thực tại vô thức trong đời sống tâm linh. W.James
cho rằng đây là khám phá lớn nhất của tâm lý học hiện đại. Khám phá này đã mở
lối cho Tâm lý học chiều sâu.
Hai
là, sự quan trọng của tuổi thơ ấu, hoặc diễn tả theo kiểu nói bóng bảy
của nhà văn Anh Wordsworth “Trẻ con là cha người lớn.” Khám phá này, bất cứ bậc
cha mẹ hay nhà giáo dục nào cũng phải đặc biệt quan tâm đến.
Ba
là, tầm quan trọng đặc biệt và ảnh hưởng quyết liệt của libido trong đời
sống con người không miễn trừ ai. Khám phá này làm ta nhớ câu nói của Pascal
“Nếu bạn biết hết tội lỗi của bạn, bạn sẽ mất lòng tin ngay”.
Chúng
ta thử kiểm chứng lại khẳng định thứ 3 này,
xem cái libido kia có thực sự giữ vai trò chi phối trong đời sống con người
không? Nó thể hiện thế nào trong nếp sống của người tu sĩ, linh mục? Phân tích
như thế vì chúng có liên quan dới đời sống tu đức, mục vụ. Dĩ nhiên chúng ta sẽ
nhìn theo cập mắt của một nhà phân tâm, của một freudiste.
1.
Nơi trẻ em, nơi
người đời
Khi
chủ trương libido xuất hiện rất sớm ngay từ tuổi ấu thơ, Freud có nói
đến hai thời kỳ, gọi là thời kỳ cửa miệng và thời kỳ hậu môn. Chủ trương này đã
gây nhiều dị nghị nơi các nhà đạo đức, ngay cả nơi các nhà tâm lý học sau
Freud. Tuy nhiên, từ thời kỳ ẩn kín, stade de latence, rồi thời kỳ dậy thì,
stade de puberté, libido lại được biểu lộ khá rõ ràng, có khi rõ ràng đến độ,
không phải là chuyên gia phân tâm học người ta cũng có thể nhận diện được.
Trẻ
nam thích chơi những trò chơi hành hạ, đấm đá,
hoặc những trò chơi tạo thú như chơi đáo cõng: bên thua phải cõng bên thắng một
vòng; chơi nhảy cừu, thích leo trèo v.v. Trẻ nữ ưa những trò chơi nhẹ
nhàng, như ẵm búp bê, ôm gấu nhồi bông, thích ru em, đi chợ, nấu cơm v.v. Có
thể gọi đó là những “trò chơi libido” hay trò chơi phái tính.” Thời
kỳ này, từ 7-8 tuổi, trẻ em thích xem, đùa khi thú vật như gà, heo, bò, chó…
giao hợp. Cũng thời kỳ này trẻ em đã biết “ghép đôi ghép lứa”, “thằng Tèo lấy
con Mẹt”, hoặc nói những lời “hoa tình tục tĩu”.
Từ
12 tuổi, tức những năm trước dậy thì, có một thời gian
dường như libido ngủ yên, Freud gọi thời kỳ này là thời kỳ ẩn kín. Tới tuổi
dậy thì, tức lúc có khủng hoảng tâm sinh lý, người thiếu niên, thiếu nữ
thường hay mơ mộng, gần như thường xuyên bị những “tư tưởng xấu”, tư tưởng giới
tính ám ảnh. Xã hội và tôn giáo không cho phép những tư tưởng như thế được tự
do công khai xuất hiện, dạy phải dồn nén, chôn những đòi hỏi mới này vào cõi vô
thức; nếu không dồn nén được thì đương sự sẽ trở về giải quyết một mình bằng
cách thủ dâm, hoặc giải quyết một cách vô thức trong các giấc mơ giới tính.
Ở
cái tuổi này họ tò mò muốn biết những gì liên hệ tới tính dục. Vì đây là
những vấn đề bị tôn giáo, xã hội, đặc biệt là xã hội Đông phương, cấm kỵ,
“chuyện khó nói”, chuyện “em biết hỏi ai.” Họ thích lén lút xem sách báo, hình
ảnh, liên hệ tới phái tính, để tự tìm hiểu hoặc để tìm thú vui. Trên 18 tuổi,
hoặc đã có gia đình: khi có môi trường thuận lợi, họ ngoại tình, chơi bời, dù
vợ chồng không có điều gì xích mích, trục trặc.
Như
thế, những trò chơi phái tính, những lời “hoa tình tục tĩu”, “lời hai ý”, “ý
tưởng xấu”, “ước ao chẳng nên”, thủ dâm, chiêm xấu, chơi bời, ngoại tình v.v.
là những dạng khác nhau của libido, có mặt thường xuyên trong cuộc đời, có khi
cả trong đời sống của những bậc già lão, đặc biệt là nam giới. (Dù không có
thống kê, nhưng kinh nghiệm ngồi tòa linh mục thấy rất rõ).
2.
Nơi người tu sĩ
Những
dạng khác nhau đó của libido không đứng ngoài cổng tu viện mà vẫn “đeo bám”
những con người đã vào sống trong tu viện. Tuy nhiên, tại môi trường mới,
libido lại khoác những bộ áo mới.
Trong
môi trường những người cùng phái sống tập thể với nhau này, như nội trú,
cư xá, tu viện, tập viện, chủng viện, đặc biệt nơi những môi trường khép kín,
người ta thường thấy xuất hiện những mối tình tôi xin gọi là “lạc điệu”, thường có
tên là yêu riêng, amour particulier; hoặc muốn nói đúng theo danh từ của tâm lý
học, đó là hiện tượng “đồng tính luyến ái”, cùng một giới tính luyến ái nhau.
Cậu Ất thích cậu Giáp, cô Đào thích cô Mận. Chữ “đồng tính” ở đây chưa được
hiểu cách triệt để như trong cụm từ “hôn nhân đồng tính.” Tại sao có hiện tượng
Sodoma này? Phải chăng đó là những người bất bình thường, hay tại người nam,
người nữ “sống một mình không tốt”, non est bonum? Chỉ có nhà tâm lý học chiều
sâu mới giải trình được thắc mắc đó cho chi tiết.
Đi
sâu vào đời sống tu sĩ, người ta thấy các tu sĩ có rất nhiều hoạt động xã
hội. Các nam tu sĩ, các frères, hăng hái mở trường, chuyên lo việc giáo
dục, đứng đầu các ký túc xá… Các nữ tu có những hoạt động xã hội khác: mở ký
nhi viện, nuôi trẻ cho cha mẹ chúng đi làm, lập cô nhi viện, chăm sóc các cháu
không còn được hưởng tình thương của bố mẹ, mở nhà trẻ, tiếp nhận trẻ em để dạy
dỗ, săn sóc…
Việc
giáo dục, điều khiển các trường, các đoàn thể của các nam tu sĩ, việc chăm sóc,
yêu thương trẻ nhỏ của các nữ tu sĩ trên đây, theo Freud, chính là những hiện
tượng thăng hóa, chuyển hóa từ bản năng làm cha, làm mẹ sang lý tưởng vị tha,
bác ái. Vì lý tưởng, họ không thể có một gia đình để điều khiển, không thể có
những người con để chiều chuộng, nâng niu… Cội nguồn của những hành vi
lý tưởng này vẫn là cái libido trong con người của cả nam lẫn nữ.
Có
một hiện tượng cũng hay xảy ra; chuyện “ông cha-bà phước” thường xuyên xuất
hiện chung với nhau. Trong các chuyến du lịch, tham quan, hành hương, hay đi
cứu trợ, làm việc từ thiện, bác ái… thường các cha hay có các soeurs đi cùng.
Các soeurs đi cùng thì đầy đủ lắm, trên xe: khăn mặt lạnh, nước đóng chai, cam quít, bánh kẹo
nhấm nháp… Đến nơi, đến bữa thì… “omnia parata sunt, mọi sự đã sẵn sàng”, các
cha chỉ việc làm dấu.
Phải
chăng đó là việc làm của bản năng? Người nội trợ, người vợ, người mẹ, lo cho
chồng cho con. Rất tự nhiên, làm như chiếc máy đã được lên dây cót, đã được cài
đặt sẵn. Có vẻ như các cha xem việc được phục vụ như vậy là bình thường, là
đương nhiên. Các cha, các soeurs trên xe, trong chuyến đi chung, có khác gì
người cha, người mẹ trong gia đình?
Hiện
tượng này không phải chỉ có trong công giáo. Ở tôn giáo khác cũng thấy như vậy:
mấy thầy chùa, mấy ni cô cũng thường đi chung, hoạt động chung với nhau. Như
trước đây có một sư ông ở nước ngoài (NH) kéo cả đại đoàn có đến hàng trăm tăng
ni Tây, Hoa, Việt… về Việt Nam cầu siêu, mở trai đàn, làm rộn lên cả nước. Điều
người ta để ý là luôn luôn có một sư bà (CK) bên cạnh. Sư bà chăm lo những
chuyện nội bộ để sư ông rảnh trí thuyết pháp. Dư luận đàm tiếu nhiều về việc sư
ông – sư bà gắn bó bên nhau như vậy.
Dư
luận có khắt khe quá không? Thiết nghĩ không nên trách cứ dư luận. Dư luận thấy
gì chướng tai gai mắt thì phê phán. Người công giáo nghĩ gì, xầm xì gì khi thấy
mấy ông cha đi đâu cũng có bà xơ bên cạnh? Chủ quan có thể là trong sáng, là
siêu nhiên, nhưng khách quan thì đàm tiếu, dị nghị, phê phán là chuyện luôn có
thể xảy đến. Không cứ gì những người không cùng tôn giáo mới phê phán nhau, mới
đàm tiếu chê bai nhau.
Lấy
thí dụ, chuyện một vị hòa thượng (TKT) đi với mấy ni cô ra Hà Nội ủy lạo dân
oan khiếu kiện. Một nhà trí thức (Ts NTG, 04/9/07) đã thẳng thắn phê phán:
“Riêng tôi, việc HT TKT ra Hà Nội, tôi quyết định không gặp dù có báo trước cho
tôi, vì HT TKT không phải đi cùng với các HT hay các thầy tu mà lại đi Hà Nội
mang theo “02 ni sư phục vụ ổng”, “giống như “Vua chúa” ngày xưa vi hành có các
“tì nữ theo hầu, phục vụ” vậy. Nếu đi một mình hoặc với các thầy tu thì tôi có
thể tiếp hoặc ủng hộ… chưa thoát khỏi cái Tham-Sân-Sy.” (xin thêm: chưa thoát
khỏi cái vòng cương tỏa của libido trong họ).
Phải
chi khi phục vụ, các ngài (lm. nt.) nói được như thánh Phaolô: “Phần chúng tôi,
chúng tôi chẳng làm gì gây cớ cho ai vấp phạm, để không người nào có thể đàm
tiếu về công việc phục vụ của chúng tôi” (2Cr 6,3).
Kết
luận cho hiện tượng này chỉ có thể là câu: Đừng nên cớ vấp phạm cho người khác,
cũng đừng để cho “cái cường lực tâm sinh kia” giật dây, xô đẩy, dầu không thấy.
Có
một hiện tượng khác cũng rất đáng cho nhà phân tâm để mắt nhìn vào. Đó là hiện
tượng dòng nam, dòng nữ, hay diễn tả cho rõ ràng hơn, dòng có nam có nữ.
Từ những tu hội mới nhất, gần nhất, đến những dòng xưa nhất, xa nhất, đều có
một điểm khá giống nhau, là có nam có nữ:
-
Dòng (tạm gọi) Tận
Hiến nam có Tận Hiến nữ.
-
Dòng Đồng Công (hình
như cũng) có Trinh vương.
-
Trường Thầy Giảng có
Dòng Mến Thánh Giá tiếng cổ gọi là Nhà Thầy, Nhà Mụ.
-
Dòng Tiểu Đệ có Tiểu
Muội.
-
Dòng Chúa Cứu Thế nam
có Chúa Cứu Thế nữ.
-
Dòng Lasan nam có
Lasan nữ. (NB. Saint Francois de Sales và
Sainte Jeanne de Chantal)
-
Dòng Nữ Tử Vinh sơn có
Lazariste.
-
Dòng Nazarien nam có Nazareth nữ.
-
Dòng Đức Bà, ở Việt Nam gọi là Dòng
Oiseaux, cũng có nam có nữ. (NB. Sáng lập do Cha Pierre Fourier và Mẹ Alix le
Clerc, 1597)
-
Dòng Phanxicô có
Phanxica. (NB. Saint Francois d' Assise và
Sainte Claire)
-
Dòng Đaminh nam có
Đaminh nữ.
-
Dòng Biển Đức nam có
Biển Đức nữ.
-
Nghe đâu ĐHY Tụng cũng
đang “lập dòng.” Tu hội ngài lập gọi là “Cộng đoàn anh em Nhà Chúa” và lập tiếp
luôn “Cộng đoàn Con Đức Mẹ hiệp nhất.” Y như những chuyện chúng ta vừa nói!
Tại
sao có hiện tượng này? Nhà phân tâm không biết và cũng không muốn nghe nói vế ý
hướng của Đấng lập Dòng. Nhưng, nếu muốn dùng chính ngôn ngữ của tôn giáo thì
ông sẽ giải thích thế này: Khi lập Dòng, Đấng sáng lập cũng hành động giống như
Thượng Đế khi sáng tạo, thấy “người nam ở một mình không tốt” (St 1,27), nên
“lúc ban đầu người đã dựng nên có nam có nữ: ab initio masculinum et deminum
fecit” (Mt 19,3)!
Libido
không hiện diện trong hành vi sáng tạo của Thượng Đế, nhưng hiện diện trong tác
phẩm của bàn tay Ngài sáng tạo, khiến cho giữa người nam và người nữ luôn có
một hấp lực, một sợi dây vô hình, không thấy được, nhưng luôn hiện hữu, có
độ bền xuyên suốt. Sợi dây đó, dầu có nhuộm màu gì (màu xám của Đức Bà Truyền
Giáo, màu nâu của Phanxicô, màu trắng của Đaminh, màu đen của Biển Đức, màu
xanh xám của Chúa Quan Phòng, của Nữ Tử Bác Ái hay màu gì đi nữa) thì dường như
bên dưới các màu đó, vẫn ẩn núp cái libido mà Freud muốn truy tầm, muốn kéo ra
ánh sáng.
3.
Nơi linh mục
Dường
như nơi đời sống của bậc tu trì cấp cao – hàng giáo phẩm, giáo sĩ –
Libido phải mang những mặt nạ tế nhị hơn, phải có những thông hành cạo sửa tinh
vi hơn. Dĩ nhiên vì linh mục, theo diễn tả trong thư Do Thái, là kẻ “được chọn
giữa những người phàm, assumptus ex hominibus” nên linh mục cũng “bị những yếu
đuối vây hãm, circumdatus infirmitate”, cũng bị những ám ảnh dằn vặt, cũng có
những giấc chiêm bao không dám kể cho ai nghe, - kể cả cha linh hướng, - cũng
ưa đùa giỡn bằng những lời hai ý rất đáng đỏ mặt, cũng có những đụng chạm vụn
vặt để tìm xúc cảm qua đường v.v. Tuy
nhiên, do chức vụ và địa vị trong cộng đồng, linh mục còn có những quan hệ
khác, nên libido cũng sẽ phải thích nghi theo những quan hệ mới ấy.
Một
số trường hợp, nhìn ngoài thì “nhỏ bé thôi”, nhưng thực chất rất nguy hiểm, có
thể gây tai nạn. Ngòi nổ nào cũng nhỏ, nhưng không tháo ngòi thì bom, mìn có
thể phá tung cả tòa nhà. Có nên nói chăng, chuyện một vài vị hay nhờ phái nữ
dọn nhà, làm phòng, hoặc dạy đàn, dạy vi tính, dạy ngoại ngữ cho họ, thậm chí
có khi nhờ tẩm quất, bắt gió hay cạo gió v.v. hoặc có những cử chỉ thân mật
chắc chắn sẽ không diễn ra nếu có người thứ ba xuất hiện. Chính xác đó là những
lỗ xì nguy hiểm của “bình nén libido.” Những gần gũi như vậy luôn là cơ hội
để có thể “sinh chuyện”.
Diễn
tả theo kiểu nói hình ảnh, bình dân, thì những chuyện như thế, xưa các cụ gọi
là “lửa gần rơm”, nay xin đề nghị một hình ảnh mới, gọi chúng là những “nguy
cơ chập điện.” Chập điện là hai điện cực âm dương chạm nhau. Nam nữ
cũng là âm dương. “Chập điện nhẹ” thì xẹt lửa, đen tường, cháy cầu chì, mất điện…
thiêng liêng mà nói, là tách khỏi Chúa, mất ơn thánh, để lại một vệt tối trong
linh hồn. Còn “chập điện nặng” thì sẽ gây cháy nhà, về phương diện thiêng liêng
cũng “cháy”, cháy cả cuộc đời dâng hiến, dù đã bao năm gìn giữ, vun đáp. Thực
tế cho thấy đây đó đã có nhiều vụ “chập điện nặng”! Gương xấu về đàn bà con gái
bao giờ cũng tai hại hơn gương xấu về tiền bạc, của cải. Một khi tai tiếng đã
nổ ra thì uy tín, ảnh hưởng sẽ tan theo mây khói, không thể ngửng mặt nhìn ai.
Nghe
mấy cha già kể rằng Đức Cha Khuê Hà Nội cấm các cha không được cho phụ nữ vào
phòng riêng; Đức Cha Bắc (Eloi) địa phận Vinh, cấm các cha không được nuôi “bà
bõ” (người nấu ăn, chị nuôi) dưới 60 tuổi. (Các cha kể thêm chuyện vui rằng
Đức cha Bắc, người Pháp, nói với các cha: “Còn các bà trên 60 tuổi, các cha…
“lấy” bà nào Thầy cũng cho phép!”). Về nguy cơ “chập điện” chúng ta đang
nói, Giáo luật có một khuyến cáo không thể nào rõ ràng hơn: “Các giáo sĩ phải
hết sức thận trọng khi giao tiếp với những người mà việc năng lui tới có thể
gây nguy hại cho nghĩa vụ giữ đức khiết tịnh của mình hoặc sinh gương xấu cho
các tín hữu” (Can. 277,2). Phải xem đó là một số biện pháp “phòng cháy chữa
cháy” cụ thể, không phải là không hữu hiệu cho đời sống độc thân, trinh
khiết.
Một
hiện tượng khác cũng đem lại nhiều lý thú và chứng liệu cho nhà phân tâm, đó là
sự kiện bố con thiêng liêng, đặc biệt là con thiêng liêng khác phái, đôi
khi chẳng phải để cho đi tu! “Chẳng phải để cho đi tu” thì nhận “bố-con” những
cô gái sáng sủa ở ngoài đời, để làm gì? Giải thích thế nào cho nghe được đây?
Trong vấn đề này có nhiều chi tiết rất đáng chú ý theo khía cạnh phân tâm.
Điều
đáng nói là các linh mục trẻ thích nhận con hơn các linh mục già. Tại
sao? Là vì với cái tuổi 30, 40 là tuổi lập gia đình. Còn khi mới trên 20, đang
là chủng sinh, thì không thể công khai nhận con được. Một đàng thì sợ Bề trên
biết, đàng khác cũng chưa có danh nghĩa mà xã hội chấp nhận. Vậy mà hình như
cũng đã có những “anh em thiêng liêng”, “chị em thiêng liêng”, khi hai người
nói chuyện riêng với nhau, hay để giải thích với người nào thắc mắc hỏi đến.
Khoảng
50 tuổi trở lên, linh mục lại thích có con cái, cháu chắt bên cạnh trong
những ngày lễ gia đình, lễ bổn mạng, con cái trong thân tộc hay linh tộc cũng
được. Tại sao như vậy? Tại vì với cái tuổi ấy, nếu sống ngoài đời, ngài cũng đã
là chủ một gia đình, đã có đông con cái, đã có các cháu nội ngoại, đã có thể
hưởng cái thú sum vầy với con cháu, “xum xuê quanh mâm bàn người”.
Mục
đích của việc nhận con thiêng liêng là gì? Không
thấy tài liệu tu đức nào qui định cả, ngoại trừ những ý tưởng mơ hồ “để hướng
dẫn thiêng liêng”, “để nâng đỡ tinh thần.” Nếu chấp nhận mục đích này thì người
ta vẫn có thể hỏi tiếp: tại sao các cô không tìm về với những linh mục lớn
tuổi, là những vị mà cứ sự thường, có lòng đạo đức và kinh nghiệm linh hồn hơn
hẳn lớp linh mục trẻ, mới “hành nghề” chưa bao lâu? Vâng, tại sao rất ít thấy
các linh mục trẻ “nâng đỡ tinh thần, hướng dẫn thiêng liêng” cho những cô
nghèo, nhất là xấu dạng? Dường như những câu trả lời vẫn có cái gì gượng gạo,
không thỏa đáng.
Tuy
nhiên nếu hỏi nhà phâm tâm thì câu trả lời sẽ khác đi. Ông sẽ gọi đúng tên của
sự việc: đó là hiện tượng thăng hóa chưa thành, une sublimation
inachevée. Không vơ đũa cả nắm, không tổng quát hóa, tuyệt đối hóa vấn đề,
nhưng trong một số trường hợp, - tôi dè dặt nói chỉ “trong một số trường hợp” –
chúng ta có thể nói: “Con thiêng liêng”, “bố thiêng liêng”, hay “chị thiêng
liêng”, “em thiêng liêng” rất có thể chỉ là những thương hiệu đẹp dán trên
các mặt hàng kém chất lượng, là giấy tờ giả mà libido dùng trong các tu
viện, trong đời sống tu trì.
Không
hề phủ nhận hiệu quả tích cực của việc hướng dẫn thiêng liêng. Phân tâm học chỉ
cảnh tỉnh chúng ta về “hàng thật”, “hàng giả” mà thôi.
Chúng
ta cũng nên nhìn thêm và nhìn thẳng vào một hiện tượng khác, thường thấy trong
hàng giáo sĩ, cả trong hàng giáo phẩm: hiện tượng “sủng ái con cháu,
népotisme”, Larousse chú thích nepos, nepotis, tiếng la tinh là cháu. Là
những ai thích dùng “người nhà”, thích có bên cạnh những người bà con ruột
thịt. Sau khi trưng dẫn những trường hợp có Giám mục đã cất nhắc cháu chắt mình
lên những địa vị quan trọng như cha sở nhà thờ Chính tòa, đặt làm Tu viện
trưởng những tu viện lớn, nhiều bổng lộc, hoặc các chức vị then chốt khác, có
khi làm giám mục phó sẽ kế vị mình, v.v. (Trong Giáo Hội ta có tình trạng
“cha truyền con nối”, “con ông cháu cha”, như Larousse giải thích không nhỉ?!)
Freud
cho rằng đó là thể hiện của một nhu cầu rất tự nhiên: không có con thì
yêu cháu, không có vợ để an ủi nâng niu thì tìm nâng niu yên ủi nơi những người
thân thuộc. Mà đã là nhu cầu thì cách này hay cách khác, nhất định phải thỏa
mãn, không dính tình thì tiền, không tiền thì danh, không danh, không tiền,
không tình thì cũng dính bén những điều nhỏ nhặt khác.
Còn
một hiện tượng nữa tưởng không cần phân tích nhiều, chúng ta cũng thấy rõ được
tầm quan trọng của libido trong cuộc sống: Đó là hiện tượng sa ngã về vấn đề
tình dục trong giới tu hành. Ở BMT, KT, ĐL, NT, XL, CT, H, V, PD v.v. Nói
tổng quát theo kiểu Trịnh Công Sơn thì: “Huế – Sài Gòn – Hà Nội, quê hương
ta” vùng miền nào, giáo phận nào cũng có. Dòng Biển Đức, dòng Phanxicô,
dòng Tên, dòng Đaminh, dòng Chúa Cứu Thế, dòng Lasan… dòng nào cũng có. Ở Pháp,
ở Mỹ, ở Canada, ở Madagascar…
nước nào cũng có. Ở Mỹ, từ đầu năm 2002 vừa rồi thì ôi thôi, kinh khủng! Chủng
sinh, tu sĩ, linh mục, giám mục… giới nào cũng có. Hai, ba mươi tuổi; bốn, năm
mươi tuổi; sáu, bảy mươi tuổi,… tuổi nào cũng có.
Đó
là những chuyện buồn, nhưng là những câu chuyện buồn có thật, đau lòng cho mọi
người tin Chúa, những người con của Giáo Hội!
Có
thể tới một tuổi nào đó, libido sẽ mất đi sức chi phối của nó không? Một linh mục giáo sư người Pháp, trên 90 tuổi, có lần đã nói với
học trò “Than lửa ủ càng kỹ thì càng lâu tàn!” Một linh mục người Việt, từng là Giám
đốc Đại chủng viện, trên 80 tuổi, rất giàu kinh nghiệm, cũng đã khẳng định bằng
một câu nói đùa “Chết rồi, năm phút sau nó vẫn còn sống!”
Sức
công phá của libido quả thật là dai dẳng và khủng khiếp! Nó phá đổ cả những
thành trì mà có nhiều vị đã kiên trì bảo vệ hàng ba, bốn chục năm trời đằng
đẵng! Có ai dám chắc mình nhất định sẽ đứng vững đến cùng không? Ai cũng phải
nghĩ đến câu đã học trong văn phạm la tinh: “Cave ne cadas, hãy ý tứ kẻo vấp
ngã.” Hay như lời cảnh báo quan trọng của thánh Phaolô: “Ai tưởng
mình đang đứng vững thì hãy coi chừng kẻo ngã.” (1Cr 10,12)
Vấn
đề chỉ có thể được đặt ra cho chúng ta theo một chiều hướng khác. Rằng, tình
dục là nguyên nhân của sa ngã, hay chính tinh thần đã lung lay trước nên mới sa
ngã về tình dục sau? Nói cách tượng trưng, đó phải chăng là hậu quả tất
nhiên của chiếc bàn quì đã phủ quá dày bụi bặm?”
Kết
luận
Chúng
ta dừng lại ở đây để khỏi phải đi sâu vào những hiện tượng và những phân tích
bi đát gây thêm nhiều nghĩ ngợi, áy náy. Tuy thế, những điều vừa trình bày cũng
đã có thể dẫn người nghe đến một trong hai thái độ: hoặc bất bình hoặc
hoang mang.
-
Người bất bình sẽ cho rằng “chỉ có những cặp mắt bẩn mới nhìn tất cả mọi
sự là bẩn. Freud đã đi đến cực đoan, gần như đã chủ trương phiếm tình chủ
nghĩa, pansexualisme.” Nhận định này thường được các nhà đạo đức và tâm lý phê
bình thuyết Freud chia sẻ.
-
Ngược lại, người hoang mang sẽ đặt vấn đề: nếu thực chất của một số hiện
tượng tôn giáo nơi các bậc tu trì là libido, nếu động lực chính trong các hoạt
động tông đồ là cái cường lực sinh tâm vô thức kia thì còn đâu là giá trị đạo
đức, còn đâu là giá trị cứu rỗi?!
Ở
đây chúng ta không có ý phê bình thuyết phân tâm, dù về phương diện đạo đức,
tâm lý hay y thuật. Chúng ta chỉ muốn dọi ánh sáng phân tâm học vào các quan hệ
“nghề nghiệp” của chúng ta, nghĩa là sử dụng chúng theo chiều hướng mục vụ
và tu đức mà thôi:
1.
Khía cạnh mục vụ (hay là thái độ đối với người khác)
Trong
tòa cáo giải hay khi hướng dẫn linh hồn, linh mục không thể không biết đến
những điều kiện hay là cơ cấu tâm lý cụ thể của đời sống con người, trong đó libido
thường xuyên giữ vai trò trội hơn các khuynh hướng khác.
Ta
cũng không ngạc nhiên hoặc quá khắt khe đối với những gì đang xảy ra nơi
các tu sĩ, đặc biệt là đối với những anh em linh mục, tu sĩ đã nửa đường bỏ rơi
lý tưởng.
2.
Khía cạnh tu đức (hay là đối với bản thân)
Với
chính mình cần thiết phải có một sự thanh luyện trường kỳ và thường xuyên
cảnh giác, bởi vì “thần bóng tối cũng có thể mang bộ áo của ánh sáng.” Sống
trinh khiết gần như là một sứ mệnh vô phương, une mission impossible. Nhưng
chúng ta là những kẻ mà Chúa nói, “quibus datum est”, đã lãnh nhận một ân huệ.
Một ân huệ quí hiếm thì lại càng mong manh, cần phải giữ gìn hết sức cẩn trọng.
Có
thể nói rằng: suồng sã và cô đơn đều nguy hiểm như nhau:
-
Nếu suồng sã, linh
mục, tu sĩ, sẽ không thể phân định rõ được lằn mức giữa tội và không tội, lằn
mức vốn dĩ đã rất nhỏ, rất tinh vi, rất tế nhị. Nhà văn Thạch Lam (Tự Lực Văn
Đoàn) gọi lằn mức đó “mong manh như sợi tóc, không hơn không kém”.
-
Còn cô đơn thì
thật ra lên rừng hay xuống biển, con người vẫn luôn có libido bên cạnh, trong
mình. Đàng khác, biến đời sống tu trì thành một cành cây khô không thể là lý
tưởng của người tu hành được
Ngắn
gọn, chúng ta có thể khẳng định rằng: Freud đã lầm khi muốn giản lược
con người thành một mớ những bản năng. Nhưng quan niệm đạo đức cổ điển cũng đã
lầm khi quên rằng con người cũng là một con vật. Thật ra con người không phải
là vật cũng chẳng phải là thần, ni bête ni ange, đúng như Pascal đã từng định
nghĩa.
Nếp
sống tu đức chân chính phải là nếp sống phấn khởi, hy vọng và triển nở trong
niềm hạnh phúc tràn đầy. Nếp sống đó không thể bị bóp chết do một sự khắc kỷ
tàn bạo, cũng không thể thả lỏng buông tuồng, nhưng phải hướng về một cứu cánh
cao đẹp, như nguồn thác được tích lũy để dồn về một hướng duy nhất: sự sống đời
đời!
I.
SIGMUND FREUD VÀ “LIBIDO”
II.
ALFRED ADLER VÀ “CHÍ HÙNG BÁ”