Các ca đoàn Phụng vụ
sau Công đồng Vatican II
sau Công đồng Vatican II
Có nhiều ca đoàn trong các nhà thờ tại
Việt Nam.
Những ca đoàn này đã góp phần đáng kể trong công việc thờ phượng Chúa. Nhưng tất
cả đã là những ca đoàn phụng vụ chưa thì tôi chưa dám quyết, mà chỉ muốn đưa ra
một mô hình ca đoàn phụng vụ sau Công Đồng Va-ti-ca-nô II trong bài viết dưới
đây, dựa theo một số tài liệu trong tạp chí Maison-Dieu, Célébrer và một bài nhận
định của linh mục Nguyễn Hữu Triết về hiện tình Thánh Nhạc Việt Nam.
Những tạp chí và tài liệu đó càng làm
cho tôi thêm xác tín về sự cần thiết và vai trò của các ca đoàn phụng vụ trong
việc tôn vinh và thờ phượng Thiên Chúa. Vì vậy, tôi xin chia bài này làm hai phần:
phần I nói chung về các ca đoàn, phần II nói về các ca đoàn phụng vụ sau Công Đồng
Va-ti-ca-nô II ở bên ta cũng như bên Tây, để đi tới kết luận rằng ca đoàn là một
bộ phần cần thiết và đắc dụng của cộng đoàn, nên cần được chăm sóc và huấn luyện
về cả hai phía ca đoàn cũng như cộng đoàn, đặc biệt nơi những người có trách
nhiệm riêng như cha sở và ca trưởng.
I. Nói
chung về ca đoàn
1,1 Ca
đoàn là gì?
Ca đoàn là một từ mới được sử dụng trong
những năm gần đây. Ngày trước những người hát trong nhà thờ thường được gọi là
hội hát hay ban ca vịnh, gồm toàn nam giới và hoạt động cũng khá hạn chế, nghĩa
là chỉ hát lễ và hát chầu bằng tiếng la tinh.
Trước năm 1945, ngoài các bài hát bằng
tiếng la tinh là các bài hát bằng tiếng Pháp trong cuốn Cantique de la
jeunesse. Một số bài trong cuốn này cũng như một số bài bằng tiếng la tinh như
Veni Creator, Jesus dulcis memoria v.v… được đặt lời Việt vào để hát. Ngoài ra
lại có cả một cuốn sách hát Tây lời Việt đề là Thanh Niên Kinh Nhạc, do ông
Nguyễn Đức Lợi sưu tầm và xuất bản, nhưng không biết xuất bản năm nào[1], và một
cuốn khác do cha già Vượng, giáo phận Hà nội sưu tầm và đặt lời. Thỉnh thoảng
có một số bài do mấy chủng sinh Đại Chủng Viện Liễu Giai-Hà-nội[2] sáng tác
nhưNguyện xin Mẹ rất từ bi của thày Hùng Lân và Ôi thiêng liêng cao quí vô cùng
của thày Phương Linh trước 1945, nhưng ít được ai biết đến. Vào tháng 10 năm
1945, nhạc đoàn Lê Bảo Tịnh ra đời và cho phát hành Cung Thánh I. Thánh ca Việt
Nam phát khởi từ đây và lan rộng khắp nơi. Ngoài ra, trong Nam trước đó đã có
những bài rất nổi tiếng như Nửa đêm mừng Chúa ra đời và Nguyện xin Chúa Thánh
Thần của limh mục Phao-lồ Đạt cũng như mấy bài của thầy Mạc Khanh ở Thanh Hóa
như Chói lói Con Chúa nơi cửu trùng và Hải tần v.v…
Vậy ca đoàn là gì? Thưa là một tổ hợp
thanh niên thiếu nữ hát lễ trong các nhà thờ ngày Chúa nhật cũng như ngày thường
và các ngày lễ cưới, lễ an táng, chầu Mình Thánh Chúa v.v… hay một hội, một
nhóm đồng ca, hát những bài ca phụng vụ[3].
Từ ca đoàn không có trong tự điển tiếng
Việt. Thông thường hiện nay, người ta hiểu ca đoàn là những người đi hát lễ. Hiểu
như vậy không sai, nhưng chưa đủ. Vì vậy, cần phải nói thêm về vai trò và nhiệm
vụ của ca đoàn nữa.
1,2 vai
trò của ca đoàn
Ca đoàn có một vai trò và nhiệm vụ cao
quí. Điều này chính ĐGH Phao-lô VI đã nói như sau: “Nếu đọc kỹ các tài liệu về
Thánh Nhạc, người ta sẽ thấy rõ, ngay cả bây giờ, nhiệm vụ Hội thánh giao cho
Thánh Nhạc, những người sáng tác cũng như các nhạc công, các ca đoàn và những
người hát trong nhà thờ thật là cao quí và hệ trọng, như từ trước đến nay vẫn
thế. Khi cử hành phụng vụ, phải liệu phô diễn những hình thức nghệ thuật sao
cho thật hay, thật đẹp, như kèm theo các nghi thức là những cử điệu khoan thai,
đẹp mắt, xứng hợp, trang trọng, cung giọng trong sáng dễ nghe, dễ đáp ; như đi
đôi với lời cầu nguyện của Hội thánh là những bài hát vừa hay vừa cảm động, lại
có sức nâng tâm hồn người nghe lên cùng Thiên Chúa và giúp cầu nguyện. Âm nhạc
tỏa chiếu trên cộng đoàn họp nhau lại nhân danh Chúa Ki-tô một thứ ánh sáng rực
rỡ như chính gương mặt của Người vậy. Nhờ sức mạnh vô hình của nghệ thuật, các
ca đoàn dễ bay lên vùng ánh sáng rạng ngời của chân lý, tìm gặp Thiên Chúa là Đấng
thanh tẩy và thánh hóa. Như thế, họ có thể giúp cộng đoàn cử hành mầu nhiệm cứu
độ trong những điều kiện thuận lợi khi chính họ thông phần mật thiết vào các ơn
ích của mầu nhiệm đó.
Nhằm mục đích này, những tài liệu tôi vừa
trưng dẫn, nhằm cổ võ các ca đoàn, từnhững ca đoàn trong các đại giáo đường,
các nhà thờ chánh tòa, các đan viện nổi tiếng cho tới các ban hát trong các nhà
nguyện, nhà thờ nhỏ, say sưa tập luyện và chuyên cần trau dồi nghệ thuật. Huấn
thị về Thánh Nhạc muốn rằng không một buổi cử hành phụng vụ nào mà không có
hát, nên đã yêu cầu trong trường hợp không có ban hát nhỏ, thì phải có ít là
hai hay ba người biết hát và được huấn luyện vừa đủ, đểcó thể giúp giáo dân
tham dự thánh lễ và các nghi thức bằng những bài hát đơn sơ dễhát, lại biết điều
khiển và làm điểm tựa cho họ dựa vào để hát[4].
Qua những lời lẽ trên, Hội Thánh tỏ ra
săn sóc đặc biệt đến các ca đoàn, kêu mời họ đạo và cha sở lưu tâm đến ca đoàn.
Lý do của sự quan tâm này là vì các ca đoàn góp phần vào việc tôn vinh thờ phượng
Chúa, một nhiệm vụ hàng đầu của Hội Thánh.
Đó là bản chất và lý hữu của ca đoàn.
Bây giờ xin nói đến nhiệm vụ của ca đoàn.
1,3 Nhiệm
vụ của ca đoàn
Ca đoàn có nhiệm vụ yểm trợ và làm nền
cho cộng đoàn hát, hay hát đối đáp với cộng đoàn, và đảm nhận những phần hát
khó và đòi hỏi hơn. Riêng đối với bản thân, mỗi ca viên có bổn phận phải lo cho
mình được huấn luyện về đường thiêng liêng, tìm cách để được hiểu Kinh Thánh ,
Phụng Vụ và các tài liệu Thánh Nhạc. Ngoài ra là tuân hành nội qui và nhịp độ
sinh hoạt của ca đoàn, vì vào ca đoàn là làm một công tác thuộc đức thờ phượng,
và ở trong ca đoàn là làm một tông đồ nhằm phổ biến vẻ đẹp của nghệ thuật cả về
nội dung lẫn hình thức, qua lời ca tiếng hát để tôn vinh Thiên Chúa và thánh
hóa các tín hữu. Đây là lý tưởng cần phải nhắm tới, còn thực tế thì phải nói là
khó, vì vấn đề không được các vị hữu trách lưu tâm đến bao nhiêu, cứ để cho ca
đoàn và ca trưởng tự do xử lý, dù đã có những thông cáo hướng dẫn[5].
Năm 1987 Ban Thánh Nhạc Giáo Phận Thành
Phố đã ra các tập in ronéo về Mùa Vọng, Mùa Chay, Tam Nhật Vượt Qua, nhưng
không lấy gì làm phấn khởi, vì các linh mục quản xứ không lưu tâm, giới trẻ
không thích nhạc phụng vụ. Sở dĩ như vậy vì phần đông không hiểu Thánh Nhạc là
nhạc dùng trong nhà thờ để tôn vinh Thiên Chúa và thánh hóa tín hữu, nên có qui
luật riêng về nghệ thuật là phải hay, phải thánh thiện và mang tính phổ quát,
nghĩa là ở đâu và thời nào cũng hay.
Vì vậy, muón giúp ca đoàn thi hành nhiệm
vụ này, các vị hữu trách nên nhắc cho ca trưởng và ca đoàn luật hát xướng của Hội
Thánh trong nhà thờ, kiểm tra bài hát về nội dung và nhạc điệu, chỉ cho cách chọn
bài hát, nhấn mạnh đến tính cầu nguyện, cổ vũ và cho người đi học các lớp thánh
nhạc và đệm đàn.
2. Thế
nào là ca đoàn phụng vụ?
Ca đoàn phụng vụ là ca đoàn chuyên lo ca
hát ở nhà thờ theo qui luật của Thánh Nhạc cũng như các chỉ dẫn và đòi hỏi của
Phụng Vụ. Là phụng vụ, khi ca đoàn hát các bài ca phù hợp với từng phần trong thánh
lễ, theo từng thể loại như đáp ca, đối ca, tung hô, ca vịnh, cung đọc, ca khúc,
nghĩa là từ vị trí, thể loại cho đến nội dung lời ca, tất cả đều nằm trong mục
đích tôn vinh Thiên Chúa và thánh hóa các tín hữu. Những ca đoàn như thế này
tương đối còn ít ở nước ta, vì những lý do như nói ở trên, lại gặp hoàn cảnh
không thuận lợi, không có phương tiện, không sẵn người chuyên môn, tuy có nhiều
ca đoàn hát hay nhưng chưa phải là phụng vụ. Có chăng thì mới chỉ có Ban Hợp Xướng
Pio X từ 17 năm nay đã luôn theo sát các qui luật của Thánh nhạc mà hát theo phụng
vụ, đúng như các phần đoạn trong thánh lễ cũng như hình thức, thể loại và lời
ca lấy từ các bản văn phụng vụ và Kinh Thánh. Còn bên Âu Mỹ, người ta có nhiều
chuyên viên, lại sẵn phương tiện và truyền thống lâu đời nên thấy khác. Hơn nữa,
kỷ luật về Thánh Nhạc nơi họ được áp dụng và tuân hành chặt chẽ hơn. Các thứ loại
nhạc mới phát xuất từ nơi họ, nhưng họ phân biệt rất rõ nhạc ngoài đời với nhạc
trong nhạc thờ. Trong nhà thờ, người ta không hát và đệm đàn như trong các nhà
thờ Việt Nam.
Nói đúng ra là người ta hiểu và thì hành kỷ luật một cách nghiêm túc. Có lẽ vì
vậy mà những người xuất thân từ các học viện thánh nhạc như Viện thánh nhạc
Rô-ma, bài hát họ làm ra không phải kiểm duyệt, vì họ đã kiểm duyệt trước theo
những điều đã được học biết và cũng vì lương tâm nghề nghiệp và tinh thần tự trọng
nữa.
Nói gọn lại, có thể căn cứ vào những
tiêu chuẩn sau đây để xác nhận một ca đoàn là phụng vụ:
1,3,1 Ca
tụng tôn vinh Chúa
Ca đoàn ấy theo đuổi mục đích chính là
ca tụng tôn vinh Chúa và thánh hóa các tín hữu.
1.3.2
Phân biệt nhạc đạo với nhạc đời
Ca đoàn ấy phân biệt rõ nhạc đạo với nhạc
đời. Nhạc nào là đời thì chơi ở ngoài đời, nhạc nào là đạo mới đem vào nhà thờ
1,3,3 Cầu
nguyện thật sự
Ca đoàn ấy cầu nguyện và giúp cầu nguyện
thật sự, trong khi hát và giúp người ta cầu nguyện, bằng những bài hát mà tâm
tình và ý tưởng phát xuất từ những bản văn Kinh Thánh và Phụng vụ, lại được thể
hiện với một cung cách đưa tâm hồn người nghe, người hát lên cao và mang đến cho
tâm hồn họ, những tâm tình sốt mến, nghĩa là nghe hát và hát xong, người ta thấy
có một cái gì đó và cũng còn để lại một cái gì đó.
1.3.4
Không theo lối đời
Lối đời là hát để được tiếng cho cá nhân
cũng như đoàn thể. Ca đoàn ấy hát không phải để đề cao cá nhân như ca sĩ hay tự
đề cao mình như ca đoàn vượt trội. Ở đây không có cơ hội cho cá nhân trở thành
ngôi sao và không biến người lĩnh xướng thành ca sĩ như ở phòng trà, các tụ điểm
ca nhạc hay trên màn hình.
1.3.5 Thi
hành đúng phần việc
Khi hát, điều khiển ca đoàn hay chơi nhạc
cụ, ai cũng chỉ thi hành công việc cần thiết và không ai chơi trội để lấy tiếng
cho mình.
II Các ca
đoàn phụng vụ sau Công Đồng Va-ti-ca-nô II
1. Ban
Hát Nhà Thờ Chánh Tòa Đức Bà Paris.[6]
Tôi nói mà không dám giới thiệu, vì giới
thiệu thì phải biết rõ, đàng này tôi mới dự có một buổi Kinh Chiều vào đầu
tháng 2, năm 1993. Bởi vậy, tôi chỉ nói những điều mắt thấy tai nghe.
Tôi thấy có vài chục ca viên gồm người lớn,
thanh niên,thiếu nữ, nhi đồng mặc đồng phục mầu xanh đậm. Họ đứng hai bên các
hàng ghế được dành cho các kinh sĩ hay tu sĩ hát kinh phụng vụ.[7] Mỗi khi hát
thì ca trưởng ra đứng ở giữa đánh nhịp cho họ. Người đánh nhịp hôm đó là một
thiếu nữ. Cô đánh nhịp không đẹp và không có gì hấp dẫn bằng phần đông các cô
đánh nhịp trong các ca đoàn của chúng ta. Tôi chỉ thấy nhịp của cô làm cho người
ta hát được, hát đều và hát đúng cũng như mấy cô đầm đánh nhịp ở nhà thờ Mai
Khôi cho người Pháp vào các lễ Chúa Nhật lúc 10g30 sáng. Ca đoàn hát đối đáp với
cộng đoàn, mỗi bên chu toàn đúng phần việc của mình. Các bài hát được in sẵn và
để tại chỗ người tham dự. Chiều nào người ta cũng hát như thế tùy theo bậc lễ.
Những người hát trong ban này là những thành phần chuyên nghiệp được huấn luyện
và được trả lương. Tuy vậy, họ không hát như những người hát thuê mà hát như những
người có trách nhiệm. Tiền lương họ nhận được là mối dây buộc họ phải làm cho
chu đáo. Đó là điều công bằng về cả hai phía. Kể cũng đáng đối với một nhà thờ
như nhà thờ Đức Bà Paris, nơi có nhiều du khách đến thăm viếng và tham dự các
giờ kinh mỗi ngày.
2. Ca
Đoàn Nhà Thờ Chánh Tòa Thánh Phao-lô ở Lyon
[8]
2,1 Vài
dòng lịch sử
Nguồn gốc Ban Hát của nhà thờ này có từ
rất lâu đời. Năm 800, ĐC Leitrade mở một trường dạy hát ở gần nhà thờ chánh
tòa, theo lời yêu cầu của bạn ngài là hoàng đế Charlemagne. Trường này tồn tại
mãi cho đến thế kỷ XVIII. Hiện nay còn ngôi nhà rất đẹp tên là Mécanterie, nơi lưu
trú của các em ca viên thời xưa. Cuộc Cách Mạng năm 1789 làm cho mọi sinh hoạt
của trường bị gián đoạn lần đầu tiên. Nhờ sự kiên trì của ĐC de Bonald trường
mau chóng phục hồi các sinh hoạt vào giữa thế kỷ XIX. Ban Hát bấy giờ trở thành
tổ chức âm nhạc đầu tiên của thành phố. Cuộc gián đoạn thứ hai xẩy ra vào năm
1969, khi tiểu chủng viện, nơi tuyển mộ các ca viên nhỏ bị đóng cửa,.
Đến năm 1974, theo lời khuyên sáng suốt
của linh mục Marcel Godard, quản nihệm nhà thờ chánh tòa. Linh mục
Jean-Francois Duchamp, giáo sư trường Saint Bernard bắt đầu luyện tập cho những
em thích hát. Dần dần nhóm nhỏ này phát triển và lấy tên là Les Petits
Chanteurs de Saint Bernard rồi sau thành Les Petits Chanteurs de Lyon.
Năm 1982, ĐHY Albert Decourtray vừa từ
Dijon đến, tặng cho nhóm này danh hiệu Ban Hát Trẻ. Năm 1984, ngài đặt linh mục
Duchamp làm quản nhiệm nhà thờ chánh tòa. Thế là bắt đầu một thời kỳ phát triển
rực rỡ. Thời kỳ này Ban Hát hợp tác với trường Sainte Marie cho đến năm 1991
thì mở trường đào tạo ca viên hát trong nhà thờ.
2,3 Cấu
trúc
Ban Hát Nhà Thờ được đặt dưới quyền vị
quản nhiệm thánh đường. Vị này được ĐC giáo phận bổ nhiệm. Ban Hát được điều
hành theo qui chế một hiệp hội chiếu theo bản luật năm 1901. Ban có một Hội Đồng
Quản Trị gồm các vị đại diện của Tòa Tổng Gíám Mục, nhà thờ chánh tòa, nhà trường
và các thành viên được tuyển chọn trong số các phụ huynh. Chủ tịch Hiệp Hội,
ông Jacques Dumont điều hành toàn bộ công việc với sự hợp tác chặt chẽ của ông
Giám Đốc. Hội có hai phó chủ tịch đặc trách việc liên lạc với gia đình các ca
viên và với bên ngoài, một thư ký và một thủ quỹ lo sổ sách tiền bạc. Từ năm
1996, thêm một cô thư ký làm việc bán thời gian, lo tiếp khách và một số công
việc khác.
Việc điều hành Ban Hát về mặt nghệ thuật
được giao cho linh mục Duchamp. Có một Hội Đồng Âm Nhạc gồm một số người liên hệ
đến công việc đào tạo hỗ trợ. Hiện nay Ban hát có 150 thanh thiếu niên chia làm
bốn ca đoàn:[9]
Ca đoàn 4: lớp 10-11, 6,7 tuổi, bậc khai
tâm
Ca đoàn 3: lớp 7-8, chừng 7-8 tuổi, giai
đoạn dự bị
Ca đoàn 2: lớp 6-7, chừng 8-9 tuổi, bậc
trung cấp
Ca đoàn 1: từ lớp 6 trở đi, chừng 10 tuổi
hoặc trên 10 tuổi là lớp lớn.
Ca đoàn nam giới gồm các ca viên kỳ cựu.
Việc huấn luyện chia thành nhiều ban do
nhiều huấn luyện viên phụ trách:
Huấn luyện âm nhạc: ông Francois
Terrieux
Huấn luyện thanh nhạc: ông Emmanuel
Magat
Lịch sử âm nhạc: bà Paule Delorme
Hợp xướng: linh mục Francois Duchamp.
2,3 Trang
bị
Có hai phòng tập hát ngay trước nhà thờ
chánh tòa, hai phòng hội, một phòng để sổ sách và một làm văn phòng. Ngoài ra,
Ban Hát còn được sử dụng hai phòng nữa để giảng dạy trong khuôn khổ đào tạo. Có
4 dương cầm loại thông thường và một cái có “đuôi”, một quản cầm có 4 hàng
phím, hai đàn điện tử và một dương cầm điện tử, một dàn âm thanh và dụng cụ
vidéo cao cấp.
2,4 Cơ
quan bảo trợ
Cơ quan bảo trợ chính yếu là giáo phận
dưới quyền ĐTGM với sự trợ giúp của cha sở nhà thờ chánh tòa. Vị quản nhiệm
thánh đường cũng là Giám Đốc Ban Hát, thành viên BTN giáo phận và Ban Quản Trị
Viện Thánh Nhạc Lyon.
2,5 Các dịch
vụ âm nhạc
2,5,1 Phụng
vụ
Ban Hát nhận hát các buổi lễ của nhà thờ
chánh tòa với các ca đoàn hỗn hợp: ca đoàn người lớn và ca đoàn chỉ gồm toàn
thiếu nữ. Ít khi hay đặc biệt lắm các ca đoàn mới cùng có mặt chung trong một
buổi lễ. Mỗi tháng hai lần Ban Hát nhận hát lễ Chúa Nhật ở nhà thờ chánh tòa.
Khi nào ĐTGM tới cử hành lễ Giáng Sinh, Tuần Thánh, Hiện Xuống, lễ Các Thánh,
Ban hát phải có mặt. Các chiều thứ ba hàng tuần, Ban Hát hát Kinh Chiều có giáo
dân tham dự. Buổi hát này buộc phải được chuẩn bị chu đáo, ca viên phải có mặt
đông đủ, bài hát được chọn lọc kỹ lưỡng và tập luyện công phu. Ngoài ra, Ban
hát cũng tới các gia đình giúp việc hiếu hỷ. Đó cũng là một cách thế mang lại
cho các gia đình niềm vui và sự an ủi.
Les Petits Chanteurs de Lyon là một Ban
Hát được tổ chức qui mô và được sự bảo trợ chính thức của giáo phận. Khi giới
thiệu Ban Hát này, tôi chỉ muốn nói một điều là Ban Hát dù nhỏ hay lớn cần được
sự quan tâm và hỗ trợ của các cơ quan chức năng, đồng thời bản thân các ca đoàn
cũng phải tổ chức và chấn chỉnh nội bộ không ngừng, nếu muốn là một ban hát có
giá trị đích thật. Chúng ta chưa thể sánh được với những ban hát lâu đời và có
tầm cỡ lớn như người ta ở nước ngoài. Chúng ta nhỏ và ít khả năng cũng như
phương tiện thì hãy tổ chức và hoạt động theo khả năng mình có.
Xin dừng lại về các ca đoàn bên Tây để
nói về các ca đoàn bên ta.
3. Các ca
đoàn bên ta
Thời kỳ này có thể chia làm hai giai đoạn:
giai đoạn I từ cuối năm 1975 đến sau lễ Giáng sinh năm 1980 và giai đoạn II từ
1980 đến nay
3,1 Giai
đoạn I
Có thể nói giai đoạn này là thời kỳ nở rộ
của các ca đoàn. Nhiều nhà thờ như Chúa Cứu Thế, Huyện Sĩ, Đắc Lộ, Tân Định, Thị
Nghè vô hình trung trở thành nơi tụ họp và gặp gỡ của giới trẻ, nhất là nhà
nguyện Đắc lộ ở đường Yên Đổ.[10] Người trẻ hồi đó đi nhà thờ chưa hẳn vì lòng
tin hay đạo đức mà có lẽ vì vui, có đông người, có ca đoàn hát hay, có người mặc
quần áo đẹp, hợp thời trang v.v… Đàng khác thời đó ít có chỗ nào để vui chơi giải
trí, lại đang phải sống trong nỗi lo sợ. Bấy giờ các ca đoàn hát nhiều bài mới
lạ mà lời ca và nhất là nhịp điệu gần với nhạc đời hơn là nhạc đạo. Ngoài ra,
có nơi hát cốt cho người ta nghe thôi, chứ ít để ý đến hát để cầu nguyện và
giúp cầu nguyện. Rốt cuộc, đi những lễ này, dường như người ta chỉ muốn nghe
hát cho thích thôi. Vì vậy, có nơi trong phần đáp ca, hát hai bài hợp xướng một
lúc và những bài đó chẳng ăn nhằm gì với đáp ca, cả về nội dung lẫn hình thức.
Thời kỳ này có thể nói ai muốn hát gì thì hát, hát làm sao cũng được, chẳng ai
lên tiếng hay đưa ra nhận xét nào, có chăng thì cũng riêng tư thầm kín vậy
thôi.
3,2 Giai
đoạn II từ sau 1980 đến nay
Một phần vì mấy ca đoàn tên tuổi như
Cung Chiều, Y Nhã, Thái Hòa không còn sinh hoạt nữa, sau vụ Trung Tâm Đắc Lộ bị
dẹp năm 1980, phần khác vì một số thanh niên thiếu nữ vượt biên, đi làm hay đi
học, nên các ca đoàn thiếu người hoặc nếu có thì lại vướng vào nhiều công vệc
khác, không có thời giờ rảnh rỗi bao nhiêu. Hơn nữa ca đoàn cũng không còn là
nơi hấp dẫn và thu hút như trước. Nhiều nhà thờ bắt đầu hát cộng đồng và tỏ ra
ít cần ca đoàn và ca đoàn cũng không còn đóng một vai trò quan trọng như xưa. Rồi
vào năm 1987, có nhiều lời than phiền về việc hát xướng trong các nhà thờ đến
tai Đức Cố Tổng Giám Mục Phao-lô Nguyễn văn Bình, khiến ngài lưu tâm và ra những
thông cáo về Thánh Nhạc nhằm chấn chỉnh lại tình trạng nói trên.[11] Đây mới chỉ
là một tiếng chuông báo động nhưng chưa đạt tới kết quả mong muốn, vì thiếu một
sự hiểu biết về Thánh Nhạc nơi các ca đoàn và ca trưởng. Gần đây đã có một vài
biến chuyển về việc hát đáp ca, nhưng các bài hát vẫn chưa được chọn lọc hoàn
toàn chính xác và việc đệm đàn còn là một vấn đề nhức nhối. Vào nhiều nhà thờ
bây giờ, người ta cảm thấy đau đầu nhức óc vì tiếng đàn và kiểu đệm đàn, khiến
cho rất khó cầu nguyện và dường như không cầu nguyện đươc, vì sự ồn ào náo động
của tiếng đàn và giọng hát. Vì thế, hiện BTN giáo phận đã mở những khóa dạy đàn
dạy nhạc trong Trung Tâm Mục Vụ. Từ mấy năm qua, nhiều cuộc Đại Hội Thánh Nhạc
toàn quốc đã được tổ chức tại Trung Tâm này, dưới sự chủ tọa của Đức Cha Chủ Tịch
Ủy Ban Thánh Nhạc trực thuộc HĐGMVN, và sự điều hành tích cực của Ban Tổng Thư
Ký, cùng với sự tham gia của các linh mục Trưởng Ban Thánh Nhạc các giáo phận
và đông đảo nhạc sĩ sáng tác, ca trưởng, ca viên các ca đoàn. Sau mỗi cuộc Đại
Hội là một đặc san Hương Trầm đúc kết các điều bản thảo và đưa ra những hướng dẫn
thiết thực cho công việc hát xướng. Nhờ vậy, tình hình Thánh Nhạc đã được cải
tiến và đang hướng tới một giai đoạn tốt đẹp hơn.
Dù thế, công việc hát xướng ở nhà thờ vẫn
còn cần được các cha sở quan tâm và góp phần chấn chỉnh luôn mãi, vì đây là việc
thờ phượng có liên hệ trực tiếp đến đời sống cầu nguyện của các tín hữu. Các ca
viên cũng cần được động viên, hướng dẫn về Phụng Vụ và Thánh Nhạc như Ban Thánh
Nhạc Việt Nam đã khởi xướng và thúc đẩy từ nhiều năm qua và nhũng cố gắng của Ban
Thánh Nhạc thành phố qua 97 số báo Hát Lên Mừng Chúa, Tài liệu Thánh Nhạc, các
lớp dẫn vào Thánh Nhạc, những băng nhạc Tam Nhật Vượt Qua, Thánh ca Mùa Giáng
Sinh v.v…
Ca đoàn cũng như một cái cây. Cây không
được tưới nước bón phân thì cây sẽ chết. Nếu được tưới nước bón phân mà không
chăm sóc thường xuyên thì lá không đẹp và trái cũng chẳng ngon. Vì vậy, muốn ca
đoàn phục vụ tốt thì họ đạo, đứng đầu là cha sở, cũng phải phục vụ tốt ca đoàn
bằng sự lưu tâm, săn sóc, giúp đỡ, cổ võ, khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi
cho ca đoàn phát triển về mặt kỹ thuật, hiểu biết chuyên môn cũng như tinh thần
phục vụ. Không thể bỏ mặc ca đoàn mà lại đòi ca đoàn đáp ứng các yêu sách về Phụng
Vụ và Thánh Nhạc. Phần đông các ca đoàn rất có thiện chí và tinh thần phục vụ.
Sở dĩ còn những hạn chế và thiếu sót là vì ca đoàn chưa được huấn luyện và quan
tâm cho đúng mức ; các ca trưởng cũng chưa đóng đúng vai trò của mình và nhiều
cha sở viện cớ không biết hát, biết nhạc nên phó mặc cho ca đoàn xoay xở.
Kết luận
Nói tóm lại, các ca đoàn là những bộ phận
không thể thiếu để phục vụ công việc thờ phượng. Muốn thế, các vị hữu trách cần
quan tâm cho đúng mức và các ca viên cũng phải ý thức về sự cao quí của công việc
này, vì đó thuộc phạm vi nhân đức thờ phượng, một dịch vụ bác ái và một sinh hoạt
nghệ thuật. Vậy từ nay, ước mong các vị hữu trách quan tâm, huấn luyện, dìu dắt
về phụng vụ và công việc thiêng liêng đạo đức cho các ca đoàn. Các ca viên cũng
cần phân biệt nhạc đạo với nhạc đời và tuân hành giáo huấn cũng như kỷ luật của
Hội Thánh về Thánh Nhạc để việc ca hát vừa làm đẹp cho buổi lễ, vừa nuôi dưỡng
đời sống đức tin của các tín hữu. Làm thế nào để khi vào nhà thờ nghe hát, người
ta không có cảm giác là vào một phòng trà hay một tụ điểm ca nhạc mà đến một
nơi cầu nguyện, để tâm hồn được thanh thoát và tai được nghe những tiếng hát có
sức biến đổi tâm hồn.
L.m. An-rê Đỗ Xuân Quế o.p.