BÀI 9. HỌC TẬP CHỮ DŨNG
TỰ CHỦ
1. Ý nghĩa:
Theo nghĩa chữ, tự chủ là mình tự làm chủ lấy mình, không phải lệ thuộc ai, không bị ai điều khiển... nhưng thường thì chữ tự chủ được hiểu như là một đức tính giúp con người có đủ nghị lực để chi phối, khắc phục và điều khiển dục vọng của mình. Đó là người:
- Đối với dục vọng: người tự chủ chế ngự và trấn át được dục vọng và những bản năng thấp hèn của mình.
- Đối với miệng lưỡi: nguời tự chủ là người trầm tĩnh, nghe nhiều nói ít, không nói những lời vô ích, không quá lời.
- Đối với bộ thần kinh: người tự chủ có thể giữ được tỉnh táo khi đứng trước cảnh nguy nan, nhờ đó làm cho người dưới an tâm vững dạ. Không bao giờ để lộ ra vẻ mặt lo sợ, buồn bã, lính quýnh, luống cuống..., vì chỉ làm cho công việc ra tệ hại hơn.
- Đôi với quả tim: người tự chủ nhân từ, khoan dung, hiểu biết và không bao giờ để cho sở thích hoặc đố kỵ điều khiển mình. Không hành động theo cảm tình, mà chỉ theo lý trí sáng suốt.
2. Ích lợi của đức tính tự chủ:
a. Người tự chủ là người luôn luôn điều khiển được sinh hoạt của mình. Họ cũng có những tình cảm, dục vọng và mọi thị hiếu như những người khách, nhưng không nô lệ cho chúng; họ cũng hăng say hoạt động với mọi thứ thị hiếu và khuynh hướng riêng, nhưng bao giờ cũng hành động có ý thức và đầy đủ cương quyết.
Vì hành động theo lý trí, nên họ là người có lý tưởng và làm việc theo chương trình hẳn hoi, và luôn giữ một nếp sống họ tự đề ra cho mình, bất kể sự thay đổi của hoàn cảnh chung quanh.
b. Còn người không biết tự chủ, thì tâm trí họ như mảnh vườn hoang mặc cho dục vọng, tính mê tật xấu đua nhau tung hoành, rồi: giận quá mất khôn, lo quá rối trí, mừng quá sinh ảo tưởng v.v... không thể kể hết thiệt hại.
3. Tự chủ theo quan niệm thần học:
Theo quan niệm thần học, tự chủ là tái lập sự quân bình tiên khởi nơi bản tinh loài người đã bị đánh mất bởi tội nguyên tổ.
Thuở ban đầu, trước khi phạm nguyên tội, thì các hoạt động tâm linh hạ đẳng nơi bản tính con người như cảm tình, bản năng, khuynh hướng, giác quan v .v... đều tùng phục các tài năng thượng đẳng là trí tuệ và ý trí của ta, và lý trí lệ thuộc Thiên Chúa.
Ta có sơ đồ:
THIÊN CHÚA
LÝ TRÍ
GIÁC QUAN
Ý nghĩa: Nơi nguyên tổ trước khi phạm tội, các giác quan lệ thuộc lý trí, còn lý trí lại lệ thuộc Thiên Chúa. Vì thế, con người làm chủ hoàn toàn mọi hoạt động của mình và qui hướng mọi hoạt động đó theo ý Thiên Chúa, khi lý trí con người không muốn tùng phục Thiên Chúa, trật tự trên đã bị đảo lộn, lý trí không còn làm chủ được mọi hoạt động của con người nữa trong suy tư, phán đoán, yêu thương, giận ghét, ăn uống, học hành, ngủ nghỉ v.v...
Do đó, tự chủ chính là tái lập lại thế quân bình của con người lúc ban đầu, là rèn luyện cho giác quan tùng phục lý trí, và lý trí tùng phục thiên Chúa.
4. Phương thế luyện tập đức tính tự chủ:
- Tập trầm tĩnh, suy nghĩ nhiều hơn và nói ít hơn.
- Năng đọc hạnh các thánh, gương danh nhân, các sách học làm người v.v...
- Tập cho mình có thói quen chịu đựng những sự khó chịu nhỏ nhặt mà không kêu ca, như kêu trời nóng, lạnh, cơm khê, nhức đầu v.v..
- Nên thường xuyên cầu nguyện và lãnh nhận các bí tích để có được sức mạnh nội tâm và ân sủng Chúa.