Chuyện thành Na-im
(Lc 7:11-17)
Một buổi sáng khi mặt trời đã vắt vẻo trên đỉnh đồi cao, nắng bình minh chiếu chan hòa xuyên qua những kẽ lá đầu cổng thành Na-im, một thành nhỏ miền Galilê nước Do thái, tiếng chim hót ríu rít chào mừng một ngày mới bắt đầu. Trời trong veo lững lờ vài đám mây xanh biếc hứa hẹn một ngày đẹp. Quyện trong tiếng chim hót là tiếng lao xao của một đám đông đang theo chân một cỗ quan tài. À, một đám tang buồn! Thật ra có đám tang nào mà không buồn? Có cuộc tiễn biệt nào mà không nước mắt, đau thương? Có mất mát nào mà không gây đau lòng cho kẻ còn sót lại? Nhưng đám tang này lại buồn hơn mọi đám tang khác bởi lẽ người nhắm mắt xuôi tay còn quá trẻ. Anh chưa làm nên công danh sự nghiệp, chưa có gì để lại cho đời ngoài một bà mẹ goá nghèo xơ xác. Gia tài duy nhất của mẹ anh cũng chính là anh. Vậy mà anh nỡ lòng ra đi mang theo bao niềm hy vọng cậy trông của người mẹ tuổi đã về chiều. Người chết xong phận mình nhưng người còn ở lại thì sao?
Đám tang nghèo quá, tiêu điều quá! Đám tang đi trong thinh lặng buồn tênh: không kèn, không trống, không vành khăn tang, chỉ có tiếng khóc nỉ non của bà mẹ già thay cho tiếng kèn đưa tiễn người đi. Giọt lệ buồn chảy dài trên đôi má nhăn nheo hốc hác đang khóc thương cho người con bạc phận hay khóc than cho chính thân mình? Ôi, số phận sao khắc nghiệt thế! Sao người nằm đó lại là con tôi? Hai bàn tay khốn khổ xưa đã chôn chồng, nay lại chôn con, đến phiên mẹ ra đi thì bàn tay nào sẽ chôn mẹ? Con ơi…..! Tiếng lá vàng khóc lá xanh rơi nghe não nề mủi lòng làm sao! Hòa theo tiếng kể lể của người mẹ già là những tiếng sụt sùi cảm thông của bà con láng giềng. Người ta tới để tiễn biệt chàng thanh niên về nơi chín suối, đến để chia sẻ số phận hẩm hiu của người mẹ già góa bụa từ nay bơ vơ không nơi nương tựa ủi an.
Đám tang lặng lẽ u buồn ra đi đến gần cửa thành gặp một đám đông khác đông hơn, ồn ào hơn, náo nhiệt hơn đang ùn ùn kéo vô thành. Đám đông đang hăm hở theo chân một người mang tên Giêsu, là người nổi tiếng thời bấy giờ, một ngôn sứ đầy uy thế trong lời nói cũng như việc làm trước mặt Thiên Chúa và toàn dân. Một đám đông buồn gặp đám đông vui! Đám đông ồn ào vui nhộn dạt ra để dành chỗ cho đám tang đi qua với những cặp mắt tò mò hiếu kỳ. Đám tang à? Vài người nhún vai:
- Có gì lạ đâu!
Đám tang của một thanh niên trẻ ư? Vài cái chép miệng xót thương:
- Ừ, đáng thương thiệt, nhưng mà… phận bạc vắn số thì chịu thôi, rồi ai cũng phải chết, không sớm thì muộn!
Để lại một bà mẹ già goá bụa không nơi tựa nương sao? Thêm đôi ba cái lắc đầu tội nghiệp:
- Ừ, tội quá, nhưng chắc có lẽ tại tội của bà ta hay tội của cha mẹ bà ta nên bây giờ bà phải lâm cảnh đáng thương như thế!
Những người khiêng xác kẻ chết lặng im tiếp tục cuộc hành trình. Người mẹ khổ đau không màng gì đến thế giới bên ngoài, không để ý gì đến những lời nói vô tình độc địa bên tai, thân già như cành lá liễu trong gió thu chiều, cứ rũ xuống đất mà không sao đứng thẳng lên được. Những người làng xóm tốt bụng đi xung quanh xốc vào hai bên nách đỡ cho bà khỏi té quỵ xuống đường và dìu bà kéo lê trên cát đằng sau cỗ quan tài cho đến nơi chôn cất người con thân yêu!
Cảnh đau lòng ai oán đó đập vào mắt vị ngôn sứ, Ngài bàng hoàng đứng sững lại người như chết trân, khuôn mặt đầy xúc động với cặp mắt nhắm nghiền như không dám chứng kiến thêm cảnh mẹ khóc con. Với đôi môi cắn chặt vào nhau tím ngắt như cố nén tiếng thở dài não ruột đang xiết chặt trái tim tan nát, Ngài loạng choạng tiến lại gần người mẹ khổ đau. Mọi người tò mò ngạc nhiên không hiểu vì sao vị ngôn sứ lại xúc động đến thế! Ngài đã nhìn thấy trước cảnh gì rồi chăng?
- Đứng lại!
Một giọng nói trầm ấm vang lên mang nhiều âm chất ra lịnh. Cả hai đám đông cùng ngỡ ngàng nhìn nhau không hiểu chuyện gì xảy ra. Ai đứng lại? Người chết hay kẻ sống? Những người khiêng quan tài như bị thôi miên tự động dừng chân. Bước chân người đàn bà đau khổ cũng khựng lại, bà ngước khuôn mặt dại khờ với hai hàng lệ chưa khô nhìn lên. Ánh mắt già nua chớp chớp. Qua làn nước mắt nhạt nhoè bà nhìn thấy khuôn mặt hiền từ nhân hậu mập mờ trước mắt. Ai thế? Bà không hề quen biết người này! Bà lắc đầu đưa tay dụi mắt. Bạn của con trai bà ư? Không thể nào. Bà biết mặt những đứa bạn của con trai dấu yêu. Một vị kinh sư hay Pharisêu đại diện tôn giáo đến đây để chia buồn với bà ư? Không đời nào. Có bao giờ họ đoái hoài đến nỗi đau của những người nghèo cùng đinh trong xã hội như mẹ con bà.
Mặt bà ngây ra, ánh mắt ngơ ngác. Như đoán được tâm trạng của bà, đám đông lao nhao lên với những câu trả lời mà bà nghe tiếng được tiếng mất:
- Giêsu! Giêsu Nadarét! Giêsu con vua Đavít!
À, bà nhớ ra rồi, cách đây không lâu trong dân chúng có đồn về một người mang tên Giêsu, người Nadarét xứ Galilê, Người đã trừ quỷ, chữa lành nhiều bệnh tật, đả phá những lề luật cứng ngắc trong xã hội, rao giảng về Tình Yêu, Nước Thiên Chúa và niềm hạnh phúc vĩnh cửu Thiên Chúa hứa ban cho nhân loại khổ đau. Bà nghe nói ông Giêsu đó có một trái tim nhân hậu, thương yêu trẻ thơ, những người nghèo và đặc biệt là những người bất hạnh cô nhi quả phụ như bà. Bàn tay ông chạm đến ai là cuộc đời người đó đổi thay! Ánh mắt ông đi liền với trái tim! Là ông ta đây sao? Tuy chưa hề được gặp mặt ông lần nào nhưng bà đã nghe về ông ta rất nhiều. Bây giờ con người nổi tiếng đó đang đứng trước mặt bà đây, bằng xương bằng thịt. Nhưng để làm gì cơ chứ? Con bà đã chết rồi, chết thật rồi! Bà đang đi chôn nó đây, còn gì nữa đâu để mà xin! Còn gì nữa đâu để mà chữa lành!
Vị ngôn sứ tiến đến bên bà, ông đưa tay nhè nhẹ lau những giọt lệ trên khuôn mặt gầy guộc đầy những nếp nhăn. Khuôn mặt Giêsu lộ đầy vẻ xúc cảm thương mến, đôi môi run run mấp máy như muốn thốt nên lời an ủi mà không sao thoát ra thành lời. Rồi bất chợt Giêsu dang rộng hai cánh tay ôm choàng bà vào lòng bất kể tục lệ khắt khe thời đó không cho phép người đàn ông ôm hôn người đàn bà ngoài đường phố, bất kể quần áo bà tang thương rách nát dơ bẩn, bất kể đến thân phận hèn kém nghèo khó của bà. Có lẽ Giêsu biết vết thương lòng bà sâu quá không lời nào có thể xoa dịu được. Bà nhắm mắt lặng im bất động để cho Giêsu ôm mình vào lòng, vỗ về như người cha vỗ về đứa con thơ. Rồi bà nấc lên thành tiếng, nước mắt trào ra, dòng lệ tưởng đã cạn khô sau khi khóc chồng và sau mấy ngày ngồi bên xác con nay có người khơi dậy, lại ào ào tuôn trào như hai dòng suối. Bà gục đầu vào vai Giêsu oà khóc, khóc thật to như đứa con nít, khóc như chưa bao giờ được khóc, khóc cho vơi đi những sầu khổ chất chứa trong lòng, khóc như sợ từ nay sẽ không còn ai lau khô giọt nước mắt cho bà nữa. Hai tay bà vòng ra sau ôm choàng lấy Giêsu chặt cứng như ôm đứa con trai thân yêu vào lòng, như sợ Giêsu sẽ vuột mất khỏi tầm tay bà. Chưa ai ôm bà như thế bao giờ! Chưa ai an ủi bà bằng cách này! Chưa có ai rung cảm với nỗi đau bà đang thấu chịu như ông Giêsu này! Bà nức nở thì thầm:
- Giêsu ơi, ông có biết tôi đau khổ lắm không? Ngài có cảm nhận được nỗi đau của tôi không?
Đáp trả lại lời bà là những tiếng nhịp tim đập thổn thức trong lòng Giêsu mà bà cảm nhận được qua cánh tay hùng mạnh đang xiết chặt lấy bà. Nhịp tim đó đang hòa chung nhịp với trái tim tan nát của bà, hai con tim cùng chung một nhịp đập! Ôi, sao mà ngọt ngào quá! Đây là gì nếu không phải là tình thương? Ông Giêsu này là ngôn sứ ư? Nếu đúng thế thì ông ta quả là ngôn sứ của tình thương!
Rồi vẫn giọng nói trầm ấm đó nhẹ nhàng thì thầm bên tai bà những lời an ủi dịu ngọt:
- Thôi, bà đừng khóc nữa! (Lc 7:13b)
Đợi vài phút cho những xúc cảm lắng xuống nơi cung lòng người mẹ đau khổ, Đức Giêsu buông bà ra, chậm rãi tiến về phía quan tài, sờ vào đó và nói:
- Này người thanh niên, tôi bảo anh: hãy trỗi dậy! (Lc 7:14a)
Người chết liền ngồi lên và bắt đầu nói. Người mẹ kinh hãi trợn tròn đôi mắt giật lùi ra phía sau mấy bước. Đám đông hoảng hốt ồn ào láo nháo:
- Chuyện gì thế, chuyện gì thế? Người chết sống lại ư? Ôi, Lạy Chúa tôi!
Và họ bắt đầu náo loạn xô đẩy chen lấn về phía trước để coi cho được khuôn mặt người chết, để chính mắt kiểm chứng phép lạ hi hữu trong đời: người chết chuẩn bị đem chôn nay được sống lại.
Đức Giêsu dìu anh thanh niên đứng dậy, gỡ anh ra khỏi những băng vải liệm quấn quanh người, cầm tay anh dắt về phía người mẹ, trao anh lại cho bà và nói:
- Bà xem, con bà đang sống đây!
Bà ấp úng ngỡ ngàng trước một niềm vui bất ngờ ngoài sức tưởng tượng như thế, miệng bà ú a ú ớ trước món quà quá lớn lao được trao ban lần thứ hai từ tay Thượng Đế. Tim bà như ngừng đập, lưỡi bà cứng đơ không thốt lên được một lời cám ơn! Bà có xin đâu mà được nhận lãnh một phép lạ cả thể như thế! Đúng hơn bà không dám xin, không dám mơ đến khi đối diện với Giêsu vì bà biết con bà chết đã được mấy ngày rồi. Đó là điều “không thể được” khi xin cho một kẻ chết sống lại. Trong nỗi đau, bà quên đi rằng đã có lần vị đại ngôn sứ Elia đã kêu xin cùng Thiên Chúa cho con trai một bà goá sống lại. Đối với Thiên Chúa, không có gì là “không thể” làm được.
Thấy bà góa cứ đứng trân trân như hóa đá, Đức Giêsu dịu dàng cầm lấy tay người thanh niên đặt trong lòng bàn tay sần sùi nhăn nheo của người mẹ. Ngài xiết chặt hai bàn tay một già một trẻ trong lòng bàn tay mình âu yếm đưa lên môi hôn, mắt Ngài thương mến nhìn hai mẹ con như chúc phúc cho cảnh vui vầy đoàn tụ của gia đình bà. Hai mẹ con bà goá ôm chầm lấy nhau mừng mừng tủi tủi, hạnh phúc trào dâng! Bà thầm thì bên tai con:
- Quả thật, ông Giêsu này đích thực là Con Thiên Chúa.
Quay về phía Giêsu và đám đông, bà đứng thẳng người mạnh mẽ tuyên xưng:
- Vâng, bây giờ tôi biết ông chính là Giêsu, Con Thiên Chúa Hằng Sống, và lời Đức Chúa do miệng ông phán ra là đúng!
Đám đông và những người hàng xóm tốt bụng sau giây phút ban đầu kinh sợ giờ đây họ bu xung quanh hai mẹ con bà goá la hét mừng rỡ trước cảnh đoàn viên, họ nhẩy lên hò reo chúc tụng Thiên Chúa:
- Một vị ngôn sứ vĩ đại đã xuất hiện giữa chúng ta, và Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người (Lc 7:16).
Lời này về Đức Giêsu được loan truyền khắp cả miền Giu-đê và vùng lân cận thời đó. Họ lại tiếp tục hò la lớn tiếng:
- Chúc tụng Thiên Chúa của Tình Yêu, Đấng đã làm cho kẻ chết sống lại, Đấng đã lau khô những giọt lệ chảy trong bóng đêm. Chúc tụng Thiên Chúa của Tình Yêu, Đấng đã luôn an ủi vỗ về những người đau khổ. Chúc tụng Thiên Chúa Tình Yêu, Alleluia, Alleluia!
Những lời này về Đức Giêsu sau được loan truyền khắp tứ phương thiên hạ cho loài người được nhận biết chúng ta có một người Cha yêu thương ở trên trời, đó là Thiên Chúa Tình Yêu! Alleluia, Alleluia!
Lang Thang Chiều Tím