SUY NIỆM LỜI CHÚA CN 3 TN A
MỤC LỤC
1. Ánh sáng
2. Ánh sáng thế gian
3. Ơn gọi.
4. Galilê, vùng dân ngoại.
5. Hiệp nhất trong Đức Kitô - Lm Bùi Quang Tuấn
6. "Miền Galilê ngoại giáo"
7. Ánh Sáng huy hoàng – Anmai
8. Lựa chọn của Chúa Giêsu Tgm Ngô Quang Kiệt
9. Suy niệm của Lm. Giuse Trương Đình Hiền
10. Được cứu độ bằng tình yêu – Lm. HK
11. Hãy hối cải, vì nước Trời đã gần đến
12. Ơn cứu độ phổ quát – R. Veritas.
13. Phẩm chất đầu tiên của người môn đệ
14. Đừng ngủ mê trong tội – Lm Giuse Tạ Duy Tuyền
15. Chúa Kitô là ánh sáng – Lm Jos. Tạ Duy Tuyền
16. Suy niệm của Lm. Nguyễn Bình An
17. Nước Trời đã đến gần – Jos. Hồng Ân
18. Ánh sáng hiệp nhất – Lm Phạm Quốc Hưng
19. Ơn gọi đâu dành để riêng ai!
20. Mọi người là con Chúa cả!
21. Được gọi – Mar. Phạm Hoàng Đăng
22. Suy niệm của André Sève.
23. Nước Trời đang đến
24. Đức Kitô gọi đích danh Charles E. Miller
25. Trung tín với Chúa và trung tín với con người
26. Tiếng gọi của Chúa
27. Ánh sáng muôn dân
28. Ánh sáng
29. Ngư phủ
30. Sống đức tin
31. Sám hối
32. Sám hối
33. Khởi điểm
34. Họ đã bỏ mọi sự mà theo Chúa
35. Ánh sáng bừng lên trong bóng tối của tử thần - JS
36. Chương trình hoạt động của Đức Giêsu
37. Lập tức đi theo Người Noel Quession
38. Sám hối để biết mình và biết Chúa
Bình minh của một thời đại mới ... L. M. Carôlô Hồ Bặc Xái
Anh em hãy sám hối Lm Giuse Đinh lập Liễm
Vầng đông đem lại ơn cứu độ Linh mục Inhaxiô Trần Ngà
Ánh sáng giữa đêm đen Lm. Mark Link S.J.
Mau mắn chấp nhận Suy niệm của JKN
Các môn đồ đầu tiên Học Viện Đà Lạt
Tức khắc họ bỏ thuyền ... Fiches Dominicales
Cứu độ phổ quát R. Veritas
Đấng cứu độ chúng con André Sève
Tiếng gọi lên đường Thiên Phúc
Hãy sám hối vì nước trời đã gần đến Catholic.org.tw
Thánh vịnh & Đáp ca
Đáp trả ơn gọi Lm, Gioan M. Nguyễn Thiên Khải, CMC
Vầng đông cứu độ Linh mục Inhaxiô Trần Ngà
1. Ánh sáng
2. Ánh sáng thế gian
3. Ơn gọi.
4. Galilê, vùng dân ngoại.
5. Hiệp nhất trong Đức Kitô - Lm Bùi Quang Tuấn
6. "Miền Galilê ngoại giáo"
7. Ánh Sáng huy hoàng – Anmai
8. Lựa chọn của Chúa Giêsu Tgm Ngô Quang Kiệt
9. Suy niệm của Lm. Giuse Trương Đình Hiền
10. Được cứu độ bằng tình yêu – Lm. HK
11. Hãy hối cải, vì nước Trời đã gần đến
12. Ơn cứu độ phổ quát – R. Veritas.
13. Phẩm chất đầu tiên của người môn đệ
14. Đừng ngủ mê trong tội – Lm Giuse Tạ Duy Tuyền
15. Chúa Kitô là ánh sáng – Lm Jos. Tạ Duy Tuyền
16. Suy niệm của Lm. Nguyễn Bình An
17. Nước Trời đã đến gần – Jos. Hồng Ân
18. Ánh sáng hiệp nhất – Lm Phạm Quốc Hưng
19. Ơn gọi đâu dành để riêng ai!
20. Mọi người là con Chúa cả!
21. Được gọi – Mar. Phạm Hoàng Đăng
22. Suy niệm của André Sève.
23. Nước Trời đang đến
24. Đức Kitô gọi đích danh Charles E. Miller
25. Trung tín với Chúa và trung tín với con người
26. Tiếng gọi của Chúa
27. Ánh sáng muôn dân
28. Ánh sáng
29. Ngư phủ
30. Sống đức tin
31. Sám hối
32. Sám hối
33. Khởi điểm
34. Họ đã bỏ mọi sự mà theo Chúa
35. Ánh sáng bừng lên trong bóng tối của tử thần - JS
36. Chương trình hoạt động của Đức Giêsu
37. Lập tức đi theo Người Noel Quession
38. Sám hối để biết mình và biết Chúa
Bình minh của một thời đại mới ... L. M. Carôlô Hồ Bặc Xái
Anh em hãy sám hối Lm Giuse Đinh lập Liễm
Vầng đông đem lại ơn cứu độ Linh mục Inhaxiô Trần Ngà
Ánh sáng giữa đêm đen Lm. Mark Link S.J.
Mau mắn chấp nhận Suy niệm của JKN
Các môn đồ đầu tiên Học Viện Đà Lạt
Tức khắc họ bỏ thuyền ... Fiches Dominicales
Cứu độ phổ quát R. Veritas
Đấng cứu độ chúng con André Sève
Tiếng gọi lên đường Thiên Phúc
Hãy sám hối vì nước trời đã gần đến Catholic.org.tw
Thánh vịnh & Đáp ca
Đáp trả ơn gọi Lm, Gioan M. Nguyễn Thiên Khải, CMC
Vầng đông cứu độ Linh mục Inhaxiô Trần Ngà
Trong một cuộc oanh
tạc miền Bắc Việt Nam, một chiến đấu cơ đã bị bắn rớt, và anh phi công bị bắt.
Trong 6 tháng đầu, anh bị biệt giam trong một căn phòng hoàn toàn tối tăm. Chỉ
sau 2 tuần, anh bắt đầu cảm thấy như mất trí, và hầu như không còn nghị lực để
sống. Ngày kia, anh tình cơ nhìn thấy một tia sáng lờ mờ chiếu qua một lỗ rất
nhỏ trên tường. Nhờ tia sáng lờ mờ đó, tâm trí anh từ từ trở lại bình thường,
và anh tìm lại được sức mạnh để sống.
Ánh sáng rất cần thiết
cho con người, đặc biệt cho con người ngày nay. Những ai đã từng pải chịu cảnh
mất điện sau những cuộc động đất hay những trận bão mới cảm thấy khó chịu đến
thế nào, nhất là phải chịu cảnh tối tăm khi màn đêm buông xuống.
Xét về mặt tự nhiên,
con người đã cần ánh sáng, sự cần thiết ấy còn mãnh liệt hơn trong đời sống
siêu nhiên. Từ khi con người phạm tội, nhân loại bị chìm sâu trong bóng đêm của
tội lỗi và những hậu quả của tội. Họ mãi chờ mong cho đến ngày được giải thoát.
Nhưng khi sự giải thoát đến trong Đức Kitô, thì con người lại chối từ ánh sáng
Chúa ban, vì con người thích sống trong bóng tối tội lỗi hơn trong ánh sáng ơn
nghĩa Chúa (Ga 3,19).
Ngày Adong và Evà phạm
tội là khởi đầu của một lịch sử con người trốn tránh Thiên Chúa, thay vì tìm
đến Ngài để được ơn tha thứ. Ma quỷ tinh khôn trong vấn đề kìm kẹp con người
dưới xích xiềng của tội lỗi. Lúc đầu, hắn cám dỗ cho con người phạm tội. Sau
khi phạm tội rồi, hắn gieo vào lòng tội nhân những tư tưởng thất vọng, vì cảm
thấy không xứng đáng được ơn tha thứ hay không thể thoát vòng tội lỗi. Rồi từ
đó, hắn làm cho tội nhân không còn cảm thấy áy náy khi phạm tội. Lần đầu đánh
bạc, mất mấy chục đã cảm thấy chua xót, nhưng rồi từ từ mất xe, mất nhà cũng
chẳng thấy áy náy là bao. Chính vì thế, để tiến vào ánh sáng, việc đầu tiên là
phải nhận ra thực trạng tội lỗi và bất toàn của mình. Vì chỉ khi đó, con người
mới được tận hưởng sự tự do của con cái Chúa, vì không những họ sẽ được giải thoát
khỏi tội lỗi, mà còn được ánh sáng huy hoàng của Chúa đem hy vọng cho tâm hồn,
đem ý nghĩa đến cho cuộc đời, và sau cùng, được dự phần vĩnh phúc quê trên
trời.
Trước hết, ánh sáng
Chúa Kitô giải thoát con người khỏi tội lỗi. Nhân loại từ nay đã đổi chủ. Trước
kia, con người làm nô lệ cho tội lỗi; nay nhờ sự chết và phục sinh của Chúa
Kitô, Thiên Chúa đã bẻ gãy xiềng xích tội lỗi, để tuỳ nay con người có Thiên
Chúa là Cha. Tin Mừng cứu độ của Chúa soi sáng cho con người biết đâu là thiện
là ác, vì Chúa Kitô là Đường, là Sự Thật và Sự Sống. Trong mọi cảnh huống của
cuộc đời, Chúa soi sáng cho tâm hồn biết chọn điều thiện và tránh điều ác.
Chính Chúa cũng là sức mạnh giúp con người chiến thắng tội lỗi. Ánh sáng Chúa
cũng đem lại niềm hy vọng cho những ai đang bị đè bẹp bởi những đau khổ của
cuộc đời. Thế kỷ 21 này đem lại nhiều tiện nghi vật chất cho con người, nhưng
những cảnh khổ đau, chiến tranh, hận thù, đói khát, vẫn còn xuất hiện khắp nơi.
Chúa Kitô luôn kêu mời con người hãy đến với Người: “Hỡi những ai mỏi mệt và
gánh nặng hãy đến cùng Ta, Ta sẽ bổ sức cho các ngươi” (Mt 11,28). Chúa ban
niềm hy vọng cho những ai phải đón nhận số phận phải chết, vì Chúa hứa ban phúc
trường sinh cho họ (Ga 6,40). Trong những giây phút khổ sầu này, chính ánh sáng
Chúa sẽ đem lạ sự bình an và ý nghĩa cho cuộc đời con người.
Cũng như một tia sáng
nhỏ cũng đủ đem lại hy vọng và sức sống cho một tù nhân, ước chi ánh sáng Chúa
Kitô giải thoát chúng ta khỏi bỏ đàng tội lỗi, và đem lại nguồn hy vọng và sức
sống cho cuộc đời của chúng ta.
2. Ánh sáng thế gian
Chiều hôm ấy, hai cậu
bé rủ nhau vào rừng chơi. Thế rồi một trận mưa bất thần đổ xuống. Mưa dai dẳng
suốt hai tiếng đồng hồ. Đến lúc tạnh thì trời đã tối. Hai cậu bé vừa lạnh lại
vừa sợ. Nỗi sợ hãi càng gia tăng khi hai cậu bé không còn tìm thấy con đường
dẫn về nhà. Nhưng rồi một ánh sáng bỗng xuất hiện từ xa. Hai cậu bé khấp khởi
mừng thầm. Cả hai đều cố gắng vừa kêu vừa gọi. Thì ra người anh đang cầm chiếc
đèn đi tim hai cậu bé. Và cuối cùng đã đưa hai cậu bé trở về an toàn.
Từ câu chuyện trên,
chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng hôm nay và chúng ta có thể xác quyết: Đức Kitô
chính là người anh của chúng ta. Vâng lệnh Chúa Cha, Ngài đã xuống thế, thắp
lên một ngọn lửa hầu dẫn đưa chúng ta trở về quê trời. Chính vì thế mà từ ngàn
xưa, các tiên tri đã nói: Dân ngồi trong tối tăm đã nhìn thấy ánh sáng huy
hoàng. Ánh sáng đã xuất hiện cho những người ngồi trong bóng sự chết.
Thế giới như đang chìm
trong tăm tối và nhân loại đã quên mất con đường để trở về nhà. Nhưng rồi Đức
Kitô đã đến như một thứ ánh sáng chói loà, xé tan bóng tối hầu soi sáng cho tâm
hồn chúng ta. Ngài chính là ánh sáng, như chúng ta đã nghe Kinh Thánh xác
quyết: Dân đi trong tối tăm đã nhìn thấy một ánh sáng. Trong phần đáp ca, chúng
ta đã thưa lên: Chúa là sự sáng và là Đấng cứu độ tôi. Và cũng theo Kinh Thánh,
thì ánh sáng được tựng trưng cho chính Thiên Chúa, như chúng ta vốn thường
tuyên xưng: Tôi tin kính một Chúa Giêsu Kitô, Con Một Thiên Chúa, Người là
Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, Ánh Sáng bởi Ánh Sáng. Chính Ngài cũng đã từng tuyên
bố với dân chúng: Ta là ánh sáng thế gian. Ai theo Ta, sẽ không đi trong tối
tăm, nhưng sẽ nhận được ánh sáng ban sự sống.
Đức Kitô là ánh sáng
cho mỗi người chúng ta như thế nào? Xin thưa: Tất cả những khó khăn của đời
sống đều được giải quyết trong ánh sáng của Đức Kitô. Điều gì là thật và điều
gì là giả. Điều gì là thiện và điều gì là ác. Làm thế nào để đạt tới niềm hạnh
phúc vĩnh cửu? Thế giới này là gì? Bản thân chúng ta là ai? Chúng ta bởi đâu mà
đến và rồi sẽ đi về đâu? Chúa Giêsu sẽ giúp chúng ta tìm kiếm, Ngài soi sáng và
hướng dẫn để chúng ta hiểu được những điều đã nêu lên. Với ánh sáng của Đức
Kitô, chúng ta sẽ tìm thấy giải đáp thoả đáng.
Ai trong chúng ta cũng
đều có những khó khăn, chẳng hạn như: sức khoẻ, kinh tế, cô đơn, tình yêu. Đưa
ra vấn nạn thì dễ, nhưng giải quyết được những vấn nạn ấy mới là sự khó và đáng
nói. Thế nhưng, một khi chúng ta bước theo Đức Kitô, chúng ta sẽ tìm thấy con
đường phù hợp, bởi vì Chúa là đường, là sự thật và là sự sống. Hơn thế nữa, Ngài
chính là ánh sáng soi đường dẫn lối cho chúng ta.
3. Ơn gọi.
Như chúng ta đã biết
nỗi ưu tư số một trong cuộc sống công khai của Chúa Giêsu là tìm những người
cộng tác với mình trong công cuộc rao giảng Tin Mừng và cứu độ trần gian. Chính
vì thế mà ngay khi bắt đầu cuộc sống công khai, Ngài đã chọn cho mình những môn
đệ.
Bài Tin Mừng hôm nay
cho thấy, đang lúc đi dọc theo bờ biển, Ngài đã gọi Phêrô và Andrê: Các anh hãy
theo tôi. Tôi sẽ làm cho các anh trở thành những kẻ lưới người như lưới cá.
Liền sau đó, Ngài cũng đã gọi Giacôbê và Gioan. Thái độ của những môn đệ đầu
tiên này thật là mau mắn và dứt khoát. Các ông đã bỏ chài lưới, bỏ ghe thuyền,
bỏ cha già mà đi theo Chúa.
Còn chúng ta thì sao?
Ngày hôm nay Chúa không hiện ra để kêu gọi chúng ta hay truyền dạy chúng ta
phải làm điều nọ, điều kia, nhưng tiếng Chúa vẫn âm thầm gởi đến với chúng ta
qua các sự kiện, qua các biến cố cuộc đời. Bởi vì mỗi biến cố là một dấu chỉ
của thánh ý Chúa. Mỗi sự việc là một bài toán mà đáp số là sứ điệp Chúa muốn
chúng ta đón nhận. Vì thế, cần phải tỉnh thức để nhận ra ý Chúa và sứ điệp của
Ngài.
Thực vậy có nhiều
người đã nghe được tiếng Chúa, một thứ tiếng vọng lên từ bên trong, tuy âm thầm
nhưng rất rõ, mời gọi nhưng không kém phần thúc thách. Đáp lại tiếng Chúa là bước
vào một khúc quanh mới của đời mình và từ đó bản thân được đổi khác.
Ơn gọi của Mẹ Têrêsa
Calcutta là một thí dụ. Mẹ sinh năm 1910 tại Nam Tư. Năm 18 tuổi Mẹ nhập dòng
Đức Bà Lorettô ở Ái Nhĩ Lan. Sau đó được cử sang Ấn Độ để vào tập viện. Mẹ đã
cống hiến gần 20 năm trời cho việc dạy môn địa lý tại một trường của nhà dòng
dành cho các thiếu nữ thuộc những gia đình khá giả. Nếu Chúa không lên tiếng
gọi, thì chắc cuộc đời Mẹ sẽ trôi đi êm đềm bên đám học trò giàu có. Thế rồi
vào một ngày nọ, nhân đi qua một đường phố ở Calcutta, Mẹ bắt gặp một người đàn
bà đang hấp hối trên vỉa hè. Chuột và kiến đã kéo đến gặm nhấm con người bất
hạnh đó. Mẹ liền vực người thiếu phụ tới nhà thương. Mẹ nhất định cứ đứng ở
trước cổng cho đến khi người ta mở cửa đón nhận bệnh nhân sắp chết. Từ biến cố
này Mẹ cảm nhận được lời mời gọi của Chúa, muốn Mẹ hiến mình cho những kẻ bị bỏ
rơi. Và thế là Mẹ xin ra khỏi dòng, đến sống ở một khu vực tăm tối của thành
phố. Chắc hẳn lúc đó, Mẹ không ngờ mình sẽ là người sáng lập một hội dòng mới
chuyên lo việc bác ái, giúp đỡ những người nghèo khổ.
Lắng nghe và tìm biết
ý Chúa qua các biến cố, qua các sự kiện đã đành. Điều quan trọng hơn là có dám
đáp trả lời mời gọi của Ngài hay không. Nhiều khi chúng ta đắp tai ngoảnh mặt
làm ngơ như không hề nghe thấy tiếng Chúa, để khỏi phải đáp trả, khỏi phải từ
bỏ. Bởi vì chúng có quá nhiều những sợi dây vấn vương quấn chặt lấy cuộc đời và
bản thân, khiến chúng ta không dễ gì tháo gỡ được. Những sợi dây vấn vương ấy
là tiền bạc, địa vị, vui thú... Từ bỏ là đặt mọi sự dưới Chúa, coi Chúa là giá
trị tuyệt đối, vượt lên trên tất cả. Và như thế phải có tình yêu mãnh liệt mới
có thể từ bỏ lập tực những gì chúng ta đang ôm ấp bởi vì từ bỏ là thước đo tình
yêu của chúng ta đối với Chúa.
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Khi Gioan bị bắt, Đức
Giêsu đã lánh qua Galilê.
Galilê là vùng ven, ít
nguy hiểm cho Ngài. Dân cư ở đây phần đông là dân ngoại. Người Do Thái ở đây bị
coi là những kẻ sống bên lề Dân Chúa. Nhưng Galilê lại là nguyên quán của Ngôi
Lời làm người, và là nơi Đức Giêsu chọn để bắt đầu thi hành sứ vụ.
Từ Galilê, Ngài sẽ sai
môn đệ đi khắp thế gian (Mt 28,19).
Đức Giêsu rời bỏ
Nadarét, để đến cư ngụ tại Caphácnaum. Caphácnaum là địa bàn hoạt động được
Ngài ưa thích. Có lúc nó được gọi là thành của Ngài (9,1), dù bất xứng (11,23).
Galilê, Nadarét,
Caphácnaum chẳng có chút tiếng tăm (Ga 1,46), nhưng Đức Giêsu vẫn là một ngôn
sứ xuất thân từ đó (Mt 21,11).
Hãy ngắm nhìn Đức
Giêsu trên những nẻo đường.
Ngài rút về Galilê,
Ngài đến Caphácnaum, đi dọc theo bờ biển. Khắp miền Galilê in dấu chân của Ngài
(Mt 4,23), Ngài không vào hoang địa như Gioan, rồi gọi người ta đến. Ngài đích
thân đến với con người ngay giữa đời thường. Ngài cứ đi không nghỉ, không đóng
đô ở một chỗ. Nhu cầu quá lớn không cho phép Ngài dừng lại (Mc 1,38). Đức Giêsu
chuyển động và kéo người ta chuyển động theo Ngài.
Những người đầu tiên
là các ngư phủ mà Ngài quen biết. Tuy là những người ít học, không giàu có hay
địa vị, nhưng đối với Ngài, họ có đủ tố chất cần thiết để trở nên những người
cộng sự của Ngài.
Sự kiên trì khi thả
lưới giúp họ biết nhẫn nại chờ đợi. Sự hòa đồng giúp họ chấp nhận nhau và làm
việc chung. Sự can đảm trước sóng gió giúp họ đối diện với nghịch cảnh. Khả
năng nhận ra khi nào và chỗ nào nên thả lưới sẽ giúp họ khám phá những vùng
truyền giáo màu mỡ.
"Các anh hãy theo
Tôi": một
lời mời gọi lên đường. Hãy gắn bó với Tôi và chia sẻ thao thức của Tôi.
Để lên đường cần bỏ
lại cái êm ấm được phép, êm ấm bên gia đình, bên vợ con như Phêrô, êm ấm bên
khoang thuyền, cạnh người cha đang vá lưới.
Theo Chúa là chấp nhận
ra khơi hay đúng hơn là chấp nhận lên bờ, bóc mình ra khỏi khung cảnh sống quen
thuộc. Chấp nhận bấp bênh, không nhà cửa, không nghề nghiệp, là để có thể đi
đến mọi nhà, gặp mọi người, và tận tụy cho sứ mệnh loan báo Nước Thiên Chúa.
Đức Giêsu đã đi rao
giảng Tin Mừng về Nước Trời gần bên.
Để đón lấy quà tặng
đó, cần sám hối, hoán cải.
Hoán cải là để Ngài
kéo vào một chuyển động, là quay lại, là bỏ con đường mình đã quen từ lâu, để
đi cùng chiều với Chúa và ngược chiều với cái tôi ích kỷ.
Đức Giêsu gieo rắc
niềm vui khắp nơi.
Niềm vui cho người
nghe, niềm vui cho người khỏi bệnh. Bước chân không mỏi, lời nói thiết tha,
trái tim gần gũi?
Hôm nay Hội Thánh vẫn
sống giữa những Galilê dân ngoại.
Chúng ta có đủ niềm
vui để làm Galilê bừng sáng không?
Gợi Ý Chia Sẻ
Đi kèm với lời giảng,
Đức Giêsu đã chữa bệnh và trừ quỷ. Theo ý bạn, người rao giảng Lời Chúa hôm nay
cần phải làm gì kèm theo, để dễ được người nghe đón nhận?
Đức Giêsu đã gọi bốn
bạn trẻ khi họ đang tất bật với cuộc sống. Có khi nào Chúa gọi bạn lúc bạn đang
vất vả kiếm sống không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, các
sách Tin Mừng chẳng khi nào nói Chúa cười, nhưng chúng con tin Chúa vẫn cười
khi thấy các trẻ em quấn quýt bên Chúa. Chúa vẫn cười khi hồn nhiên ăn uống với
các tội nhân. Chúa đã cố giấu nụ cười trước hai môn đệ Emmau khi Chúa giả vờ
muốn đi xa hơn nữa.
Nụ cười của Chúa đi
đôi với Tin Mừng Chúa giảng. Nụ cười ấy hòa với niềm vui của người được lành
bệnh.
Lạy Chúa Giêsu, có
những niềm vui Chúa muốn trao cho chúng con hôm nay. Có sự bình an sâu lắng
Chúa muốn để lại.
Xin dạy chúng con biết
tươi cười, cả khi cuộc đời chẳng mỉm cười với chúng con.
Xin cho chúng con biết
mến yêu cuộc sống, dù không phải tất cả đều màu hồng.
Chúng con luôn có lý
do để lo âu và chán nản, nhưng xin đừng để nụ cười tắt trên môi chúng con.
Ước gì chúng con cảm
thấy hạnh phúc, vì biết mình được Thiên Chúa yêu thương và được sai đi thông
truyền tình thương ấy. Amen.
5. Hiệp nhất trong Đức Kitô - Lm Bùi Quang Tuấn
Chuyện kể một nhà buôn
nọ rất sùng đạo. Mặc dầu vất vả làm ăn nhưng anh ta không bao giờ bỏ việc khấn
vái với thần thánh. Gặp kỳ cạnh tranh gay gắt trong công việc, anh ta càng gia
tăng lời khẩn cầu gấp bội.
Động lòng trắc ẩn, một
hôm thần tiên hiện ra với anh và nói: "Thấy nhà ngươi thành tâm cầu xin
nên ta không nỡ chối từ. Thôi thì bây giờ cứ cho ta biết ngươi muốn gì, ta sẽ
ban cho... và đồng thời để tỏ cho nhân gian biết lòng quảng đại của ta thì hễ
ban cho ngươi điều chi, ta cũng ban cho đồng nghiệp hay hàng xóm của ngươi như
thế... và có khi gấp đôi luôn".
Nghe thần phán, lòng
anh thương gia chuyển từ vui mừng hân hoan qua sầu buồn lo lắng. Anh tự nhủ:
"Nếu bây giờ mình xin một chiếc Lexus thì mấy thằng bạn...chúng nó sẽ được
hai chiếc. Ái dà, thế thì không được! Nhưng nếu mình xin cho được trúng số 5
triệu thì mấy nhà hàng xóm... họ sẽ được tới 10 triệu. Thế lại càng không được!
Còn nếu mình xin cho có vợ đẹp con khôn thì coi chừng đồng nghiệp sẽ có vợ đẹp
gấp đôi vợ mình, con khôn gấp đôi con mình. Đó là chưa nói tới chuyện chúng nó
được hai vợ, trong mình chỉ có một... Thời buổi cạnh tranh như thế này thì phải
làm sao cho hơn người chứ. Nhưng xin như thế thì làm sao mà hơn được".
Chàng thương gia nhíu
mày đắn đo. Một lát sau, chợt anh ta reo lên như vừa tìm ra điều gì thú vị. Anh
đến quì xuống và thưa với thần: "Lạy ngài, xin vui lòng cho tôi đui một
con mắt".
Quả là một lời khẩn
cầu quái lạ! Không xin cho mình được may mắn vì sợ người khác trỗi hơn. Song
lại xin cho mình rủi ro để kẻ khác sẽ bị tổn hại nhiều hơn. Xin cho mình đui
một con mắt để kẻ khác mù luôn. Đây quả là tiểu nhân và quá dã tâm.
Thế nhưng, nếu thành
thật rà soát lòng mình thì không chừng tính chất dã nhân và tiểu tâm kia, tức
là những đố kỵ, ghen ghét, nhỏ nhen, tàn bạo lại đang ẩn nấp đâu đó trong người
tôi, để rồi nếu được thành công may mắn hơn ai thì nó sẽ nằm im bất động. Thảng
hoặc, nó còn tỏ ra "quảng đại" và "thương xót" kẻ không
may. Nhưng nếu ai đó trổi vượt hơn mình thì cái chất tiểu tâm và dã nhân kia sẽ
bùng lên khó lòng dập tắt.
Chính cái chất đố kỵ,
ghen tương, so bì kia đã là mầm mống của boa chia rẽ, bè phái, tranh chấp, phân
ly, giận hờn, đui chột, mù loà trong cộng đồng nhân loại. Lắm người chẳng chịu
nhường bước ai; điều gì của mình cũng đúng hơn, đẹp hơn, tốt hơn, và như thế kẻ
khác tất phải sai hơn, xấu hơn, và dở hơn.
Tình trạng hơn thua
làm nảy sinh phe nhóm bè phái, cùng với bao tranh chấp ghét ghen, không chỉ xảy
ra ngoài đời, trong các đoàn thể chính trị xã hội, nhưng phải đau lòng mà nói:
có khi nó còn xuất hiện trong những tổ chức manh danh có đạo, hay thuộc về Giáo
hội.
Và đâu phải chỉ có
trong Giáo hội của thời đại hôm nay, nhưng từ thời sơ khai, hiện tượng tranh
chấp, phe nhóm, cũng đã xảy ra: "Tôi, tôi về phe Appolo. Tôi, tôi về phe
Phaolô. Còn tôi, tôi về phe Kêpha Phêrô".
Sự phân chia phe nhóm
trong cộng đoàn thế kia, một phần là do các sở thích và tình cảm cá nhân quá
nặng. Một số thấy Phaolô là con người cương trực, ăn thẳng nói ngay, nên phục
và mến lắm. Nhưng số khác thì không chịu nổi tính khí đó, nên đã chạy theo
Phêrô, vị này vừa là thủ lãnh tông đồ lại vừa "dễ dãi, sao cũng
được". Thơ Galat có kể rằng khi vắng mặt các thành viên Do thái trong cộng
đoàn thánh Giacôbê, Phêrô đã ngồi ăn chung, uống chung với dân ngoại, nhưng khi
thấy họ đến thì ông lại tránh đi. Thế nên một lần kia Phaolô đã trách Phêrô
trước mặt mọi người: "Nếu ông, một người Do thái, ông còn sống như người
ngoại chứ không như người Do thái, thì làm sao ông lại thúc bách người ngoại
sống như Do thái được?" (Gal 2:14).
Có lẽ vì Phêrô
"dễ dãi" như thế nên nhiều người thích và đi theo ủng hộ. Trong khi
đó một số người khác lại khoái Apollo. Ông này ăn nói lưu loát, có khả năng
diễn thuyết hùng hồn, bao biện luận để minh chứng Chúa Giêsu là Đức Kitô thật
là sắc bén và chí lý. Thế nên họ thích nghe hơn, và rồi cái gì Apollo nói cũng
đúng, cũng hay; còn Phaolô thì cứng quá, và Phêrô lại mềm mỏng quá.
Những khuynh hướng lưu
luyến và tình cảm nặng tính cá nhân đó đã tạo nên phân rẽ trầm trọng trong cộng
đồng Dân Chúa thời sơ khai, đến nỗi Phaolô đã kêu lên: "Nhân danh Đức
Giêsu Kitô, tôi nài xin anh em hãy lo cho được đồng tâm hiệp ý với nhau. Đừng
chia rẽ, nhưng hãy đoàn kết trong cùng một thần trí và một tâm tình". (1
Cor 1:10).
Thiết tưởng, lời kêu
gọi đó vẫn còn vang vọng cho đến hôm nay, trong mọi cơ cấu tổ chức của giáo xứ,
cộng đoàn, và gia đình. Hãy đồng tâm ý hiệp với nhau. Đừng vì khuynh hướng, sở
thích, quan điểm, hay tình cảm cá nhân chi phối mà ủng hộ, hợp tác với người
này người nọ hoặc chống đối, chê bai, lạnh lùng với người kia.
Lời thánh Phaolô vẫn
còn đó: Đức Kitô bị phân chia rồi sao? Chân lý và Tin mừng của Đức Kitô bị xé
mãnh rồi sao? Và Tin mừng làm sao có được trong ghen ghét, tị hiềm, đố kỵ, phân
ly, xâu xé. Có chăng chỉ là tin buồn thôi.
"Nhân danh Đức
Kitô, tôi nài xin anh em hãy liên kết trong cùng một thần trí và một tâm
tình". Thần trí đó là thần trí yêu thương, và tâm tình đó là tâm tình
khiêm hạ. Chớ ao ước những điều bất chính, khổ đau cho kẻ khác. Đừng muốn mình
chột để người ta bị mù. Nhưng hãy cầu cho nhau những sự may lành. Hãy "vui
với người vui", vì điều đó đôi khi còn khó hơn "khóc với người
khóc". Hãy tạ ơn Thiên Chúa cho nhau. Và điều quan yếu, hãy hiệp nhất với
nhau.
Hiệp nhất chính là
tinh thần và sứ mạng của Chúa Giêsu mà những ai tự xưng là môn đệ của Ngài phải
tiếp nối. Bởi lẽ Chúa Giêsu đến thế gian không mục đích nào khác hơn là gieo
trồng hiệp nhất: hiệp nhất con người lại với Thiên Chúa, hiệp nhất con người
lại với nhau, hiệp nhất bao tan vỡ tâm hồn hầu qua đó tình thương của Thiên
Chúa, bình an từ trời cao, và niềm vui ơn cứu độ được tuôn trào đến khắp trần
gian.
Tình thương, bình an,
và niềm vui đó cũng chính là phần thưởng muôn đời cho những ai can đảm bước
trên con đường mà Đức Giêsu đã đi.
6. "Miền Galilê ngoại giáo"
(Suy niệm của Lm Giuse
Nguyễn Hữu An)
Địa dư Palestine có
ranh giới:
- Đông giáp sa mạc
Syria và Ả rập. - Tây giáp Địa Trung Hải. - Bắc giới hạn từ thung lũng núi
Liban chạy đến núi Hermon. - Nam giáp ranh Iđumê, miền đất hoang vu Bersabê và
Biển Chết.
Cựu ước thường dùng
kiểu nói "từ Đan đến Bersabê" để chỉ miền đất Do thái cư ngụ. Chiều
dài từ chân núi Liban tới Bersabê là 230 km; chiều rộng từ Địa Trung Hải đến
sông Giođan là 37-150km. Diện tích phía tây Giođan là 15.643 km2, phía Đông
(Transjordanie) là 9482km2. Tổng cộng là 25.124km2.
Palestina thời Chúa
Giêsu chia làm bốn miền:
- Galilêa có thành
Capharnaum, Nazareth.
- Samaria nằm giữa xứ
Palestina với những con đường nối liền Nam-Bắc.
- Giuđêa là miền núi
có thủ đô Giêrusalem và Pêrêa bên kia sông Giođan.
- Phía Bắc là miền
Decapolis nơi dân cư phần nhiều thuộc văn hoá Hylạp.
Palestina có địa lý
đặc biệt: Thung lũng Giođan chia Palestina làm hai miền: Palestina và
Transjordanie. Thung lũng này là hiện tượng địa lý duy nhất trên địa cầu: bắt
đầu từ núi Taurus, ngang qua Celesyria, đến Palestina, rồi tiếp tục theo phía
Đông bán đảo Sinai tới Biển Đỏ. Phía Bắc (thành Đan) cao hơn Địa trung hải
550m; càng về phía Nam càng thấp xuống. Tibêriade thấp hơn Địa trung hải 208m;
tới Biển Chết mực nước thấp hơn 392m. Sông Giođan phát nguồn từ núi Hermôn,
chạy qua hồ El-Hule (dài 6000m, sâu từ 3-5m), rồi qua hồ Tibêriade, đổ vào Biển
chết. Hồ Tibêriađê (gọi là Giênêzarét) dài 21km, rộng 12 km, sâu 45m, nước
trong xanh và nhiều cá. Biển chết dài 85km, rộng 16km, nước biển nhiều độ mặn
nên không vật nào có thể sống được. Miền Duyên hải từ núi Libanô đến núi
Camêlô, rộng từ 2-6km. Từ núi Camêlô đến Gaza phía Nam, bờ biển rộng đều và
thẳng với các hải cảng Akko, Haifa và Jaffa (Joppé). Giữa Haifa và Jaffa, vua
Hêrôđê xây thêm hải cảng Cêsarêa. Từ núi Camêlô đến Jaffa là bình nguyên Sharon
phì nhiêu. Từ Jaffa xuống phía nam là bình nguyên Sêphêla thuộc xứ Pelistin
(danh xưng Palestina xuất phát từ chữ này). Bình nguyên Esdrelon từ phía Bắc
núi Camêlô chạy theo hướng Đông Nam, chia phần đất phía Tây sông Giođan làm hai
phần: Galilê phía Bắc, Samaria và Giuđêa phía Nam. Miền Galilê: phía bắc nhiều
núi, nam là bình nguyên Esdrelon, miền duyên hải là đồng bằng, giữa là đối núi
thấp dần về phía sông Giođan.
Bên kia sông
Giođan(Transjordanie)là miền đồi núi, chia làm 3 phần:
- Trachonitide thuộc
Đông-Bắc hồ Tiberiade.
- Miền Thập tỉnh phía
đông-nam hồ.
- Pêrêa thuộc phía
đông sông Giođan và Biển chết, đối diện với Samaria và Giuđêa.
Người Do thái không
chiếm cứ hoàn toàn miền bên kia sông Giođan. Trước thời kỳ Hy hóa, đã xuất hiện
tại mạn Bắc nhiều bộ lạc Aram. Thời Hy hóa, từ sau cuộc chinh phục của
Alexandre đại đế, nhiều người Hy lạp đến đây cư ngụ. Thời Đức Giêsu, họ lập
thành miền Thập tỉnh, có khoảng 10 thành liên minh với nhau. Các thành nổi tiếng
hơn cả là Damascô, Hippos, Gadara, Gerasa, Pella, Philadelphia.
Thủ đô Giêrusalem là
trung tâm chính trị và tôn giáo. Vua Hêrôđê đóng đô ở Giêrusalem. Đền thờ
Giêrusalem là trái tim của Dân tộc Do thái. Hàng năm, khắp mọi miền đất nước
người ta đổ về Giêrusalem để dự lễ. Đây cũng là nơi quy tụ quyền lực tôn giáo,
có dinh của Thầy Cả Thượng phẩm, có các luật sĩ, biệt phái, văn nhân. Dân chúng
ở Giuđê coi Giêrusalem là đền thờ duy nhất, đạo ở Giuđêa là chính thống. Họ tẩy
chay người Samari là dân ngoại vì dân Samari xây cất đền thờ trên núi Garizim.
Dân Giuđê không bao giờ đi lại tiếp xúc với dân Samari. Họ cũng khinh miệt dân
Galiê vì đó là nơi pha tạp mọi sắc dân là đất của dân ngoại. Giuđê là vùng có
đạo toàn tòng, là trung tâm của đạo Do Thái, còn Galilê là miền giáp ranh giữa
ranh vùng có đạo và vùng ngoại đạo. Quả thực đây là vùng xôi đậu. Về mặt chính
trị, vùng này chịu ảnh hưởng ngoại bang thật sâu đậm. Về mặt chủng tộc, ở đây
người Do Thái sống lẫn lộn giữa dân ngoại. Về mặt tôn giáo, Galilê thua xa Giuđê,
bị coi là ở bên lề của cộng đồng dân Chúa. Đối với dân thủ đô, Galilê chỉ là
tỉnh lẻ, nhà quê. Đối với người mộ đạo sùng tín, miền Bắc thật đáng ngờ vực. Đó
là miền hầu như thuộc ngoại bang, nơi hội tụ dân ngoại. Một dân cư pha tạp,
nông dân và ngư dân có giọng nói nặng chịch vốn là đề tài phong phú cho các câu
chuyện diễu cợt hằng ngày...
Khởi đầu sứ vụ công
khai, Chúa Giêsu không chọn rao giảng ở Giêrusalem mà chọn Galilê.
Galilê không rộng lắm,
từ bắc chí nam dài khoảng 60 cây số, dân cư sống đông đúc. Đất hẹp người đông.
Thời Josephus làm tổng trấn, ông đếm được 294 làng, mỗi làng không dưới 15.000
dân. Galilê không những là khu đông dân cư nhưng dân ở đó cũng có một cá tính
đặc biệt. Galilê sẵn sàng mở cửa đón những ý niệm mới. Josephus nói về dân Galilê
như sau: "Bao giờ họ cũng thích cải cách, bản tính họ thích thay đổi và
thích bạo động. Họ luôn sẵn sàng theo một thủ lãnh và phát khởi một cuộc nổi
dậy. Họ nổi tiếng là người nóng tính và thích cãi vã. Tuy nhiên, họ cũng là
những người hào hùng nhất".
Đặc tính bẩm sinh của
người Galilê giúp việc truyền giáo cho họ rất thuận lợi. Thái độ cởi mở đón
nhận những tư tưởng mới cũng góp phần cho việc truyền giáo trở nên dễ dàng. Có
lẽ vì những yếu tố này mà Chúa Giêsu chọn Galilê làm trung tâm truyền giáo.
Những tín đồ chính thống ở kinh đô chiêm ngưỡng sự siêu việt của mình, chế diễu
và tránh xa những người bị loại trừ ở phía Bắc. Chúa Giêsu rao giảng tại
Galilê, xa thói ngạo mạn, tính tự tôn và sự mù quáng của dân thành đô. Chúa
chọn Galilê vì ở đây mọi người biết chấp nhận nhau chung sống hoà bình.
Galilê là khởi điểm
Kitô giáo. Chính tại đây, Chúa Giêsu bắt đầu cuộc rao giảng Tin mừng, chọn gọi
các Tông đồ, tuyên bố Luật mới. Các Tin mừng Nhất Lãm đã kết thúc thời kỳ đầu
rao giảng tại Galilê của Chúa Giêsu bằng lời tuyên xưng của Phêrô "Thầy là
Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống" (Mt 16). Sự chọn lựa miền đất Galilê
có một ý nghĩa quan trọng theo Tin mừng Matthêu. Để ứng nghiệm lời ngôn sứ
Isaia nói: "Này đất Dơvulun, và đất Náptali, hỡi con đường ven biển, và
vùng tả ngạn sông Giođan, hỡi Galilê, miền đất của dân ngoại! Đoàn dân đang
ngồi trong cảnh tốt tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng. Những kẻ đang ngồi
trong vùng bóng tối của tử thần nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi".
Matthêu khi trích dẫn Isaia, có ý nói rằng Chúa Giêsu vâng phục theo ý muốn của
Chúa Cha; Người làm điều mà Thiên Chúa đã nói. Đây là sự vâng phục cao cả, to
lớn và kỳ diệu được đảm nhận với tự do và tình yêu. Thánh sử cũng nhấn mạnh đến
sự liên tục của Chúa Giêsu với toàn bộ lịch sử của dân Người. Cuộc phiêu lưu vĩ
đại đã khởi đi từ một miền đất bị nguyền rủa. Thế giới mới đã ăn rễ sâu vào
vùng đất nhơ uế nhưng cởi mở đón tiếp mọi bất ngờ của Thánh Thần. Chúa Giêsu là
ánh sáng bừng lên giữa thế gian. Ngài muốn soi sáng tất cả mọi người, kể cả các
anh em ly khai, những người lạc giáo, những lương dân và những người vô thần.
Bài Phúc âm Chúa nhật
hôm nay kể lại cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và bốn môn đệ đầu tiên ở biển hồ
Galilê.
Chúa Giêsu đã gọi và
chọn các tông đồ là những người chài lưới tầm thường. Đáng lý Chúa phải chọn
những người ưu tú trong đám trí thức và được coi là đàng hoàng ở Giuđê mới
phải. Tại sao Chúa lại chọn những người làm nghề chài lưới? Phải chăng Người
ngụ ý dạy các môn đệ phải luôn luôn sẵn sàng rời bỏ đất liền và thế giới riêng
của mình, nghĩa là rời bỏ cái khung cảnh an toàn và đóng kín của mình để ra
khơi, giữa đại dương mênh mông vô bờ bến và đầy gian nguy, tức là đến với thế
giới rộng lớn và xa lạ để cứu vớt thế giới?
Chúa Giêsu kêu gọi các
tông đồ không phải trong khuôn khổ một lễ hội tôn giáo hoặc một hoạt động tâm
linh... nhưng ở giữa đời sống thường ngày của họ, trong lúc họ đang làm công
việc nghề nghiệp. Các môn đệ ngư phủ tuy là những người ít học, không giàu có,
không địa vị, nhưng đối với Chúa, họ có đủ tố chất cần thiết để trở nên những
người cộng sự của Người. Chẳng hạn, sự kiên trì khi thả lưới giúp họ biết nhẫn
nại chờ đợi; sự hòa đồng giúp họ chấp nhận nhau và làm việc chung; sự can đảm
trước sóng gió giúp họ đối diện với nghịch cảnh; khả năng nhận ra khi nào và
chỗ nào nên thả lưới sẽ giúp họ khám phá những vùng truyền giáo màu mỡ. Cuộc
gặp gỡ này đã làm thay đổi số phận của những con người lênh đênh trên biển hồ
ngày trước. Cuộc gặp gỡ này là khởi đầu cho công cuộc thay đổi thế giới. Cuộc
gặp gỡ làm nên những huyền diệu trong lịch sử nhân loại.
Các ngài gặp gỡ và
bước theo Chúa để học nơi Chúa. Họ nhận ra rằng: Chúa Giêsu, Thầy Dạy của các
bậc thầy, không những chỉ dạy Lời Chúa nhưng chính Người là Lời Chúa. Người
không những chỉ dạy cho cách sống mới mà chính Người là Sự Sống. Người không
những chỉ cho biết ý nghĩa của "Đường sự Sống", mà chính Người là
Đường Sự Sống, là Ánh Sáng.
Chúa Giêsu đã kêu gọi
các môn đệ. Các ngài đáp trả chân tình. Các ngài được sống thân mật với Chúa.
Các ngài ra đi làm chứng cho tình yêu Chúa. Đó là hành trình ơn gọi của các
Tông Đồ. Đó cũng là hành trình ơn gọi của mỗi Kitô hữu.
Truyền giáo ngày nay
trong thế giới nói chung và trong xã hội Việt Nam nói riêng không nhắm trước
tiên hay chủ yếu vào việc "chinh phục các linh hồn" cho Chúa càng
nhiều càng tốt, (chúng ta không chạy theo số lượng) nhưng đem tinh thần Phúc Âm
thấm nhuần vào con người và vào mọi thực tại nhân sinh. Vì thế, để thi hành sứ
mạng cao cả đó, chúng ta không nhất thiết phải đi tới một vùng địa lý nào khác,
mà lấy chính môi trường sống của mình làm "vùng đất ngoại bang", và
noi gương của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, chúng ta hãy coi các lĩnh vực
chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội là những vùng giáp ranh, những vùng biên
giới, những "vùng Galilê, miền đất của dân ngoại" mà Chúa sai chúng
ta đến. Và hơn nữa "miền Galilê ngoại giáo" của ta là chính bản thân
ta vì vẫn còn những vùng tăm tối ngay trong tâm hồn và cuộc sống của ta chưa
được ánh sáng Chúa Kitô soi chiếu và biến đổi. Chính Người vẫn còn nói với ta
hôm nay, những kẻ đã tin theo Người: "Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh
em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng." (Mc 1, 15).
Chuyện kể rằng vào
thời vua Akhát, con vua Giotham, cháu vua Útdigiahu, trị vì Giuđa, thì vua Aram
là Rơxin, và vua Israel là Pecác, con ông Romangiahu, lên đánh Giêrusalem,
nhưng không thể tấn công được. Tin dữ đến với nhà Đavít rằng: "Aram đã
đóng quân ở Épraim." Khi nghe được tin dữ ấy lòng vua cũng như lòng dân
đều rung động như cây rừng rung rinh trước gió.
Thiên Chúa, mãi mãi
yêu thương dân của Ngài nên rồi Ngài ra tay cứu dân. Ngài bảo với Isaia:
"Ngươi hãy cùng với Sơa Giasúp, con ngươi, ra đón vua Akhát ở cuối kênh
dẫn nước của hồ trên, phía đường dẫn tới cánh đồng Thợ Nện Dạ. Ngươi hãy nói với
nhà vua: "Ngài hãy coi chừng, cứ bình tĩnh, đừng sợ, chớ sờn lòng trước
hai cái đầu que củi chỉ còn khói đó, trước cơn giận sôi sục của Rơxin, vua
Aram, và của người con Rơmangiahu. Vì Aram cùng với Épraim và người con
Rơmangiahu đã mưu tính hại ngài và nói: "Ta hãy lên đánh Giuđa, làm cho nó
khiếp sợ ta, và đặt con ông Tápên làm vua ở đó."
Thiên Chúa không chỉ
cứu dân Israel thoát khỏi bàn tay của Aram nhưng còn làm vẻ vang dân của Ngài ở
miền bên kia sông Giođan - vùng đất của dân ngoại. Lời hứa ấy chúng ta vừa nghe
Isaia thuật lại: “Thời đầu, Người đã hạ nhục đất Dơvulun và đất Náptali, nhưng
thời sau, Người sẽ làm vẻ vang cho con đường ra biển, miền bên kia sông Giođan,
vùng đất của dân ngoại. Ơn giải thoát.
Dân đang lần bước giữa
tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng; đám người sống trong vùng bóng tối, nay
được ánh sáng bừng lên chiếu rọi. Chúa đã ban chứa chan niềm hoan hỷ, đã tăng
thêm nỗi vui mừng. Họ mừng vui trước nhan Ngài như thiên hạ mừng vui trong mùa
gặt, như người ta hỷ hoan khi chia nhau chiến lợi phẩm. Vì cái ách đè lên cổ
dân, cây gậy đập xuống vai họ, và ngọn roi của kẻ hà hiếp, Ngài đều bẻ gãy như
trong ngày chiến thắng quân Mađian”.
Có lẽ thời vua Akhát
là thời mà dân cảm thấy hạnh phúc nhất vì lẽ không chỉ sống trong cảnh anh bình
thịnh vượng mà còn được niềm vui. Niềm vui ấy tăng lên khi thắng trận mà còn
được chia nhau chiến lợi phẩm, ách nặng không còn đè lên cổ và không phải chịu
đòn roi của kẻ hà hiếp nữa. Và, hạnh phúc lớn nhất của họ là từ nay họ đã được
ơn giải thoát, ơn cứu độ.
Hạnh phúc của dân thời
ấy phải chăng cũng là hạnh phúc của vua Đavít? Ở Thánh Vịnh 27 – Thánh Vịnh đáp
ca mà chúng ta vừa đọc, vừa nghe lại chính là tâm tình, là nỗi niềm hạnh phúc
của Đavít khi ông nhận ra Chúa chính là nguồn ánh sáng và ơn cứu độ của đời
ông.
Chúa là nguồn ánh sáng
và ơn cứu độ của tôi,
tôi còn sợ người nào?
Chúa là thành luỹ bảo
vệ đời tôi,
tôi khiếp gì ai nữa?
Khi ác nhân xông vào,
định nuốt sống thân tôi,
ai ngờ chính đối
phương, chính những thù địch ấy,
lại lảo đảo té nhào.
Dù cả một đạo quân vây
đánh, lòng tôi chẳng sợ gì.
Dù có phải lâm vào
chiến trận, tôi vẫn cứ cậy tin.
Một điều tôi kiếm tôi
xin,
là luôn được ở trong
đền Chúa tôi
mọi ngày trong suốt
cuộc đời,
để chiêm ngưỡng Chúa
tuyệt vời cao sang,
ngắm xem thánh điện
huy hoàng.
Cuối tâm tình ấy của
Thánh Vịnh 27, Đavit đã thốt lên:
Tôi vững vàng tin
tưởng
sẽ được thấy ân lộc
Chúa ban trong cõi đất dành cho kẻ sống.
Hãy cậy trông vào
Chúa, mạnh bạo lên, can đảm lên nào!
Hãy cậy trông vào
Chúa.
Quả thật, nhìn lại
cuộc đời của Đavít, chúng ta thấy hết sức hay và hết sức đặc biệt. Mang trong
mình thân phận hết sức yếu đuối của con người, đã phạm trọng tội nhưng ông đã
quay trở về với Thiên Chúa là Tình Yêu. Cảm nhận hay nói đúng hơn là xác tín
của ông về một Thiên Chúa là nguồn ánh sáng và ơn cứu độ là một xác tín mà
chúng ta cần phải học hỏi, cần phải cảm nhận để nhìn nhận Chúa chính là nguồn
ơn cứu độ và là nguồn ánh sáng thật của đời chúng ta chứ không phải là ai khác.
Thiên Chúa vẫn yêu
thương, Thiên Chúa vẫn cứu độ con người bằng cách này cách khác. Thiên Chúa đã
bày tỏ Tình Yêu của Ngài cho con người mọi lúc mọi nơi có thể được.
Một “ánh sáng” mà
Thiên Chúa gửi đến cho cuộc đời đang lui vào bóng tối đó là Gioan Tẩy Giả thì
một “ánh sáng” khác đó là Đấng Cứu Độ trần gian đã được gửi đến cho nhân loại.
Sau khi “ánh sáng”
Gioan đến và làm chứng cho Ánh Sáng, cho Sự Thật đã bị thế gian đẩy lùi và thủ
tiêu thì ánh sáng Giêsu đã đến để tiếp tục làm chứng cho Ánh Sáng thật, cho Sự
Thật trên thế gian này.
Trước khi Chúa Giêsu
nhập thể, thế gian ở trong tình trạng tối tăm và đáng sợ. Nhưng giữa tình trạng
hãi hùng này đã vọng lên tiếng nói trấn an của Isaia, là vị tiên tri đã hứa với
dân chúng rằng chẳng bao lâu nữa một ánh sáng vĩ đại sẽ xuất hiện để phá tan
đêm tăm tối. Và lời hứa của tiên tri Isaia đã được thực hiện viên mãn khi Chúa
Giêsu nhập thể.
Matthêu so sánh Chúa
Giêsu đến và xuất hiện giữa cuộc đời như một ánh sáng huy hòang chiếu soi mọi
người đang sống trong bóng đêm sâu thẳm. Matthêu thấy Chúa Giêsu là sự hòan
thành lời tiên tri cao cả của Isaia: “Đoàn dân đang ngồi trong cảnh tối tăm đã
thấy một ánh sáng huy hòang, những kẻ ngồi trong vùng bóng tối của tử thần nay
được ánh sáng bừng lên chiếu soi”. Chúa Giêsu đã từng vẽ nên sứ vụ của Ngài
bằng những lời tương tự khi Ngài nói: “Ta là ánh sáng thế gian”.
Con người cũng như vạn
vật cần có ánh sáng để sống, riêng với con người thì không những ánh sáng cần
cho sự sống của thân xác mà còn giúp cho con người khỏi cô đơn. Bóng tối thường
làm cho con người cảm thấy cô đơn và sợ hãi. Có nhiều thứ bóng tối trong cuộc
đời chúng ta: bóng tối của ích kỷ, của ganh ghét, của hận thù, của đam mê. Càng
giam mình trong những bóng tối ấy, chúng ta càng cảm thấy cô đơn và càng trở
nên bệnh họan. Người nào càng sống ích kỷ, và người nào càng nghiền ngẫm đắng
cay hận thù, người đó càng hạ giảm nhân tính của mình. Vì thế, chúng ta cần có
ánh sáng để sống, để lớn lên trong tình người như để chữa trị những băng họai
trong tâm hồn.
Lời của ngôn sứ Isaia
nói xưa đã được Chúa Giêsu làm nên hiện thực. Chúa Giêsu chính là ánh sáng.
Ngài đến để soi sáng cho kẻ ngồi trong bóng tối, ban niềm vui, niềm hy vọng
sống cho tất cả mọi người. Chúa cũng muốn chúng ta khám phá ánh sáng của Ngài.
Chúa mời gọi chúng ta cũng trở nên ánh sáng cho những người mà chúng ta gặp gỡ.
Trong cuốn Justs for
today người ta có kể lại: ông J. Keller, một nhà diễn thuyết nổi tiếng, đang
nói truyện trước trăm ngàn thính giả tại vận động trường Los Angeles, Hoa kỳ,
đang diễn thuyết, ông bỗng dừng lại và nói: “Bây giờ xin các bạn đừng sợ, tôi
sắp cho tắt tất cả các đèn điện trong sân vận động này”. Ông vừa dứt lời thì cả
sân vận động chìm trong bóng tối. Nhà diễn thuyết nói tiếp: “Bây giờ tôi xin
đốt một que diêm, những ai nhìn thấy que diêm tôi đốt, xin kêu lên: “Đã thấy”.
Cả sân vận động vang dội tiếng: “Đã thấy”. Rồi tất cả đèn điện lại được bật
sáng. Diễn giả giải thích: “Ánh sáng của một nghĩa cử sẽ chiếu sáng trong đêm
đen của nhân lọai như thế. Một lần nữa, tất cả đèn điện lại tắt. Một giọng nói
vang lên ra lệnh: “Tất cả những ai ở đây có đem theo diêm quẹt hãy bật lửa, xin
hãy đốt cháy lên”. Bỗng chốc, cả sân vận động rực sáng. Diễn giả kết luận như
sau: “Nếu tất cả chúng ta cùng hiệp lực với nhau, chúng ta có thể chiến thắng
bóng tối của sự dữ, hận thù bằng những đốm sáng nhỏ của tình thương và lòng tốt
của chúng ta”.
Ánh sáng Giêsu đến
trần gian để xóa tan mọi hận thù, chia rẽ, tranh giành. Ánh sáng Giêsu đến thế
gian để quy tụ tất cả mọi người nên hiệp nhất, nên một trong Tình Yêu của Ngài.
Hiệp nhất, yêu thương cũng chính là tâm tình mà Thánh Phaolô mời gọi cộng đoàn
Côrintô mà chúng ta vừa nghe: Thưa anh em, nhân danh Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng
ta, tôi khuyên tất cả anh em hãy nhất trí với nhau trong lời ăn tiếng nói, và
đừng để có sự chia rẽ giữa anh em, nhưng hãy sống hoà thuận, một lòng một ý với
nhau. Thật vậy, thưa anh em, người nhà của bà Khơlôe cho tôi hay tin có chuyện
bè phái giữa anh em. Tôi muốn nói là trong anh em có những luận điệu như:
"Tôi thuộc về ông Phao-lô, tôi thuộc về ông Apôlô, tôi thuộc về ông Kêpha,
tôi thuộc về Đức Kitô." Thế ra Đức Kitô đã bị chia năm xẻ bảy rồi ư? Có
phải Phaolô đã chịu đóng đinh vào khổ giá vì anh em chăng? Hay anh em đã chịu
phép rửa nhân danh Phaolô sao?
Tâm tình Thánh Phaolô
để lại hôm nay cũng là tâm tình hết sức dễ thương mà chúng ta phải học hỏi,
phải bắt chước. Một khi đã nhận ra ánh sáng Giêsu trong đời mình thì khi ấy
chúng ta cũng phải sống yêu thương, hiệp nhất, một lòng một ý với anh chị em
đồng loại.
Hãy bắt đầu là ánh
sáng của Giêsu ngay từ trong môi trường nhỏ bé là gia đình, là chòm xóm, là
công sở, nơi xứ đạo của chúng ta.
Nguyện xin ánh sáng
Giêsu đến và ở lại trên mỗi người chúng ta để ngày mỗi ngày chúng ta cũng chiếu
tỏa ánh sáng Giêsu trong cuộc đời của mỗi người chúng ta.
(Suy niệm của ĐTGM. Giuse
Ngô Quang Kiệt)
Địa lý nước Do Thái
chia làm ba miền. Miền Nam được gọi là Giuđêa. Miền Trung là Samaria. Miền Bắc
là Galilêa. Thủ đô Giêrusalem thuộc về miền Nam. Đây là trung tâm chính trị và
tôn giáo. Vua Hêrôđê đóng đô ở Giêrusalem. Đền thờ Giêrusalem là trái tim của
dân tộc Do Thái. Hằng năm người ở mọi miền tuốn về Giêrusalem dự lễ. Đây cũng
là nơi quy tụ quyền lực tôn giáo. Có dinh thầy cả thượng phẩm. Có các luật sĩ,
biệt phái, văn nhân. Người ở Giuđêa coi Giêrusalem là đền thờ duy nhất, đạo ở
Giuđêa là chính thống. Họ tẩy chay người ở Samaria, coi Samaria là ngoại đạo vì
người ở Samaria xây cất đền thờ riêng trên núi Garidim. Người ở Giuđêa không
bao giờ đi lại tiếp xúc với người Samaria. Còn miền Galilêa ở phía Bắc, tuy
không có đền thờ đối nghịch với Giuđêa, nhưng bị Giuđêa khinh miệt vì đó là nơi
pha tạp đủ mọi sắc dân, là đất của dân ngoại.
Khởi đầu sứ vụ công
khai, Chúa Giêsu đã không chọn rao giảng tại Giêrusalem. Bởi vì Giêrusalem là
vùng toàn tòng theo đạo, nhưng lại kiêu căng hợm mình, loại trừ người khác. Khi
mới sinh ra, Chúa Giêsu đã phải chạy trốn bạo vương Hêrôđê. Hôm nay Hêrôđê con
ông lại ra lệnh giết thánh Gioan Baotixita chỉ để thỏa mãn ước vọng ngông cuồng
của một phụ nữ. Chúa Giêsu đã không chọn Giêrusalem làm điểm xuất phát, bởi vì
các thày thượng tế, các văn nhân, luật sĩ, biệt phái đã chai đá, luôn tìm cách
bắt bẻ, chứ không biết mở rộng tâm hồn đón nhận giáo lý của Người.
Người đã chọn Galilêa
vì Galilêa là vùng quê nghèo khiêm tốn, nhưng dân cư thuộc đủ mọi chủng tộc đã
biết mở lòng đón nhận giáo lý của Người. Người đã chọn Galilêa vì ở đây không
có loại trừ, mọi người biết đón nhận nhau, chung sống hòa thuận. Người đã chọn
Galilêa vì Galilêa là vùng đất bị khinh miệt, dân cư bị gạt ra ngoài lề xã hội.
Ngay từ buổi ban đầu Chúa Giêsu đã không để giáo lý của Người bị đóng khung
trong bốn bức tường đền thờ, bị giới hạn trong một khung cảnh địa lý và dành
riêng cho một giai cấp. Ngay từ buổi ban đầu Chúa Giêsu đã vạch ra cho Giáo Hội
một đường hướng. Đó là ra đi, ra đi không ngừng nghỉ, ra đi
đến những chân trời xa lạ, ra đi đến với mọi người thuộc đủ mọi chủng tộc, ngôn
ngữ, màu da. Đó là đi đến với những người bị bỏ rơi, bị khinh miệt, bị gạt ra
ngoài lề xã hội.
Việc lựa chọn môn đệ
của Chúa Giêsu cũng rất độc đáo. Người không lựa chọn môn đệ trong đền thờ,
nhưng lựa chọn môn đệ giữa chợ đời. Người không lựa chọn những kẻ nhàn hạ rảnh
rang, nhưng lựa chọn những người đang tất bật làm việc. Người không chọn những
người trí thức uyên thâm, thông kinh hiểu luật, nhưng lựa chọn những anh thuyền
chài, đơn sơ, cục mịch. Ý định truyền giáo của Người là rất rõ ràng. Người lựa
chọn những người dám ra đi, dám mạo hiểm, sẵn sàng từ bỏ, không ngần ngại,
không do dự. Người lựa chọn những con người có trái tim mở rộng, biết hy sinh
quên mình, không bám víu vào bất cứ một điểm tựa nào, dù là lề luật, dù là đền
thờ, dù là kiến thức. Buông tất cả để chỉ nắm lấy Thiên Chúa. Bỏ tất cả để chỉ
đi theo Chúa.
Những lựa chọn của
Chúa Giêsu khiến tôi hiểu rằng: Người yêu thích những tâm hồn rộng mở biết sống
hài hòa, biết đón nhận anh em. Người yêu thích những tâm hồn đơn sơ nhỏ bé, ưa
thích sống đời khiêm nhường bình dị. Người yêu thích những tâm hồn nồng nàn yêu
thương. Đó là những tâm hồn dễ dàng đón nhận và chia sẻ Tin Mừng. Đó là những
thửa đất tốt cho hạt giống Tin Mừng nảy mầm, đơm bông kết trái.
Lạy Chúa Giêsu, xin mở
lòng con để con đón nhận được Lời Chúa và để Lời Chúa sinh nhiều bông hạt.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1) Chúa Giêsu có những
lựa chọn khác với thường tình. Tại sao?
2) Tại sao Chúa không
bắt đầu rao giảng tại thủ đô Giêrusalem, nhưng lại bắt đầu từ Galilêa, vùng đất
dân ngoại?
3) Tại sao Chúa lại
chọn tông đồ giữa đám thuyền chài thất học?
9. Suy niệm của Lm. Giuse Trương Đình Hiền
Dẫn nhập đầu lễ:
Kính thưa ông bà anh
chị em,
Nếu Chúa Nhật tuần
trước phụng vụ giới thiệu cho chúng ta một Đức Kitô là Tôi Tớ khiêm hạ của
Thiên Chúa, là Đấng đến để phục vụ chương trình cứu độ trong tư thế của một
Người Con khiêm nhu, vâng phục, hy sinh…, thì Chúa Nhật hôm nay, Phụng vụ giới
thiệu cho chúng ta một Đức Kitô Ngôn Sứ, một Đức Kitô loan báo Tin Mừng, một
Đức kitô truyền giáo, một Vị Thừa Sai, một Nhà Giải Phóng. Vâng, Đức Kitô đến
để giải phóng chúng ta, để giải phóng nhân loại khỏi vòng tăm tối của quỉ ma,
tội lỗi và sự chết, để đem tất cả vào sự sáng của niềm vui ơn cứu độ. Niềm tin
của chúng ta vào Đức Giêsu-Kitô là như thế; và đó cũng chính là niềm hy vọng,
là lẽ sống, là chân lý vĩnh hằng mà chúng ta sẽ không gặp được ở bất cứ một nơi
nào khác.
Giảng Lời Chúa:
1. Một thế giới luôn
có bóng tối
Sau biến cố Tổ tông
loài người sa ngã, cửa địa đàng đóng lại, có thiên thần cầm gươm lửa đứng canh,
tổ tông loài người bị đuổi ra khỏi vườn địa đàng để lầm lũi bước đi trong
thương đau khổ lụy… để rồi sau đó phải chứng kiến nào bạo lực, nào sẻ chia, nào
hồng thủy, nào chiến tranh loạn lạc…
Mấy lời kinh thánh đơn
sơ đó đã diễn tả thân phận loài người và thế giới mà loài người sinh sống ngay
từ đầu đã mang dấu vết của bất toàn, của đổ vỡ, của lầm than của bóng tối.
Và mỗi ngày, trên hành
tinh nầy, chúng ta chứng kiến bao nhiêu chuyện đáng buồn cứ liên tục xảy ra,
liên tục phát triển: khủng bố, chiến tranh, phá thai, ly dị, cướp bóc, hận thù,
và bao nhiêu tội ác ngập tràn… Quả thật, thế giới của chúng ta hôm qua, hôm nay
và ngày mai là một thế giới đã hằn sâu vết thương của tội nguyên tổ, một thế
giới đang bị những thế lực của bóng tối, của tội lỗi và ma quỷ quậy phá, lũng
đoạn.
2. Một thế giới được
nâng lên, được cứu chuộc:
Nhưng chính trong thế
giới nầy, chứ không một thế giới nào khác, Con Thiên Chúa đã xuống thế làm
nguời, đã cắm lều cư ngụ giữa chúng ta:
- Ngài sinh ra trong
chế độ của một bạo chúa: Hêrôđê.
- Ngài lớn lên trong
một đất nước đang bị ngoại bang xâm lăng: It-ra-en đang thời bị đế quốc Rôma đô
hộ.
- Ngài sống trong một
xã hội mà tôn giáo đang xuống cấp và phân rẽ, bạo lực gia tăng, giàu nghèo cách
biệt, bệnh hoạn tật nguyền tràn ngập khắp nơi…
Chính Tin mừng Matthêô
hôm nay đã ấn chứng thêm điều đó khi tường thuật việc Chúa Giêsu đến với vùng
dân ngoại bên kia bờ sông Giođan, dân Náp-ta-li, dân Dơ-vu-lon, để loán báo tin
Mừng cho họ. Phải chăng đó cũng chính là điều mà bài đọc 1 hôm nay, I-sa-ia đã
tiên báo: “Dân đang lần bước giữa tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng, đám
người sống trong vùng bóng tối, nay được ánh sáng bừng lên chiéu rọi…”
Chính trong bối cảnh
đó, Đức Giêsu thành Na-da-rét đã công bố một Tin Vui: “Nước Thiên Chúa đã đến
đây rồi”, “lời ngôn sứ hứa hẹn tiên báo ngày xưa nay đã trở thành hiện thực”.
Và điều kiện để gặp được, để đi vào Vương Quốc đó lại chính là một cuộc “cách
mạng nội tâm”, một cuộc “đổi đời từ căn bản”, một cuộc hoán cải trở lại,
metanoia dứt dạc, tận cùng từ trái tim đến hành động, từ quan niệm đến thực
hành:
- Thay vì ích kỷ thủ
lợi cho mình hãy biết quảng đại cho đi
- Thay vì tham lam thu
vén cho đầy túi hãy biết gạt bỏ để sống siêu thoát, khó nghèo giản đơn.
- Thay vì nhầy nhụa
vẫn đục dâm ô, hãy vươn cao với cõi lòng thanh tao trong sáng.
- Thay vì khao khát
nắm quyền để đàn áp bóc lột, cầm quyền sinh sát, hãy biết quỳ xuống khiêm hạ
rửa chân và phục vụ anh em.
- Thay vì bạo loạn,
gây hấn, chuốc oán hận thù, hãy làm lành làm phúc, xây dựng hòa bình…
Cứ chấp nhận những đòi
hỏi ấy đi, cứ thực hành các nguyên tắc của “Tám Mối phúc thật” đi, tức khắc một
thế giới mới sẽ được khai sinh, một nhân loại mới sẽ được cứu chuộc.
Kể từ buổi chiều Thứ
Sáu cách đây 2000 năm trên ngọn đồi Can-Vê ngoại thành Giê-ru-sa-lem, khi Đức
Kitô công bố Tin Vui cuối cùng: “Hôm nay ngươi sẽ ở trên thiên đàng với ta”,
thì mỗi giờ, mỗi ngày đều có một thế giới mới được khai sinh, một “vương quốc
của sự thật, sự sống, công bình và yêu thương” dần dần ló dạng ở cuối chân
trời.
- Vâng, một thế giới
mới khai sinh cùng với Hội Thánh khi Hội Thánh họp nhau cử hành phụng vụ.
- Một thế giới mới
được khai sinh cùng với bao tâm hồn thánh thiện đã sống trọn vẹn con đường của
Phúc âm.
- Một thế giới mới sẽ
tiếp tục được khai sinh với bao thế hệ chứng nhân tông đồ hăng say lên đường
thực thi sứ vụ truyền giáo.
- Và một thế giới được
khai sinh cùng với bao cuộc đời âm thầm khiêm hạ chắt chiu từng giọt mến Chúa,
từng giây yêu người trong những tăm tối đời thường nhưng vẫn hân hoan trong
niềm tin yêu hy vọng.
Vâng, bao lâu còn có
những người Kitô hữu, còn có những con người biết sống xả kỷ yêu thương, biết
phục vụ quên mình, biết trung thành với ơn gọi và sứ mệnh là bấy lâu bóng tối
của sự dữ sẽ bị đẩy lùi để nhường chỗ cho một thế giới mới tràn ngập ánh vinh
quang của Thiên Chúa.
Sứ điệp phụng vụ hôm
nay không cho phép chúng ta sống tiêu cực và nản lòng trước một thế giới đầy
thương tích, một cuộc sống vẫn dở dang…Bởi vì Thiên Chúa không thể cứu độ con
người theo kiểu “mì ăn liền”, mà Ngài gọi mời chúng ta cọng tác, dấn thân và
lao mình về phía trước. Điều quan trọng cũng cần chúng ta lưu ý mà thư thánh
Phaolô gởi giáo đoàn Cô-rinh-tô trong bài đọc hôm nay đang nhắc khéo đó chính
là: phải hiệp nhất, yêu thương, nên một, phải liên kết như cành nho trong thân
nho, như chi thể trong thân thể, để làm nên một sức mạnh tổng hợp, một thế đứng
mạnh mẽ. Bởi vì không phải A-pô-lô hay Phaolô nhưng chính Thiên Chúa và công cuộc
cứu độ của Ngài mới là cùng đích.
Sau hết, nếu chúng ta
đã cố gắng hết mình mà sao thấy cuộc đời nầy, thế giới nầy vẫn chưa có gì
chuyển biến, thì ta hãy học kinh nghiệm này của Ludovic Giraud qua mấy dòng
cuối của lời kinh của ông:
Và khi trên cánh đồng
truyền giáo
Con đã không ngừng
gieo vãi
Thế mà không thấy gì
mọc lên,
Thì xin Chúa cho con
giữ trọn niềm vui,
Xác tín rằng một ngày
nào đó,
Vào giờ của Chúa
Nhờ lời nói và những
cố gắng của con,
Rốt cuộc thì Chúa sẽ
thống trị trên vũ hoàn. Amen.
10. Được cứu độ bằng tình yêu – Lm. HK
Epictète là một triết
gia - nô lệ tại xứ Syracuse . Ông vua độc tài của Syracuse đọc sách của
Epictète viết, thấy hay quá nên mới ra quyết định cho Epictète không phải làm
nô lệ nữa. Epictète trả lời:
- Vua hãy tự giải thoát
chính mình đi.
- Nhưng ta là vua mà,
ông vua độc tài ngạc nhiên.
- Một nhà độc tài là
kẻ phải làm nô lệ cho các dục vọng của mình, còn một người nô lệ làm chủ được
các dục vọng của mình mới là một người tự do. Hỡi Đức Vua, hãy tự giải thoát
chính mình đi.
Ai cũng thấy rõ sức
mạnh rất lớn của các dục vọng trong lòng mình, như cổ nhân đẽ khéo ví von: “Vũ
vô kiềm toả năng lưu khách, sắc bất ba đào dị nịch nhân” (Mưa không xiềng xích
vẫn lưu được khách, sắc chẳng ba đào dễ đắm lòng người).
Có dục vọng tốt nhưng
cũng có dục vọng xấu lôi kéo con người và xích chặt tâm hồn họ vào tội lỗi.
Trong Thánh Kinh, các dục vọng tội lỗi được diễn tả như bóng tối mịt mù ràng
buộc và ngăn cản nhân loại trên đường tìm đến hạnh phúc đời đời: “Họ phải sống
trong cảnh tối tăm mù mịt, kiếp lầm than xiềng xích gông cùm; vì họ chống cưỡng
lời Thiên Chúa, dám khinh nhờn lệnh Đấng Tối Cao” (Tv 107,10).
Các dục vọng xấu là dư
âm của cuộc sa ngã đầu tiên, khi người ta bị cám dỗ bước vào con đường vị kỷ,
qui ngã, muốn trở nên Thiên Chúa.
Cái mất lớn nhất tính
vị kỷ đã gây ra cho con người là làm cho họ mất khả năng nói lời yêu thương,
tiếng nói của thần tính mà Thiên Chúa ban tặng cho loài người. Sau khi sa ngã,
Ađam và Eva đã quên đi tình liên đới, không còn biết đến niềm vui của sự cho
đi: Ađam đã đổ tội cho Eva: “Người đàn bà Ngài cho ở với con, đã cho con trái
cây ấy, nên con ăn” (St 3,12).
Để hoàn toàn loại trừ
xu hướng vị kỷ, là bóng tối dẫn đến sự chết và là cái ách đè nặng lên cuộc sống
con người, Đấng Cứu thế đã chiếu sáng thế gian bằng một tình yêu tuyệt đối, một
tình yêu trút bỏ chính mình vì người khác: “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa
mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng
đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân
sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng
chịu chết, chết trên cây thập tự.” (Pl 2,6-8).
Tình yêu Đức Kitô là
ánh sáng phá tan gông cùm của bóng tối sự chết luôn đè nặng lòng người. “Cái
ách đè lên cổ dân, cây gậy đập xuống vai họ, và ngọn roi của kẻ hà hiếp, Ngài
đều bẻ gẫy” (Is 9,1). Tình yêu đó làm thoả mãn được cái đói từ sâu thẳm trong
lòng người, nên có sức lôi cuốn người ta bỏ tất cả đi theo Ngài … không hề có
việc trả giá: “Lập tức hai ông bỏ chài lưới mà theo Người… Lập tức các ông bỏ
thuyền, bỏ cha lại mà theo Người” (Mt 4,20.22).
Thế nhưng giữa người
tin vào Đức Kitô vẫn còn đó những bóng tối vị kỷ ngay trong việc truyền bá tình
yêu cứu độ. Thánh Phaolô đã cảnh báo về một tình yêu đã bị đánh mất vẻ đẹp, nơi
những người muốn rao giảng một Tin Mừng của riêng mình: “Tôi muốn nói là trong
anh em có những luận điệu như: ‘Tôi thuộc về ông Phaolô, tôi thuộc về ông
Apôlô, tôi thuộc về ông Kêpha, tôi thuộc về Đức Kitô”!
Vì thế, thánh Phaolô
coi tình yêu quên mình của Đức Kitô chịu đóng đinh mới là tất cả những gì cần
được rao giảng: “Đức Kitô … sai tôi đi rao giảng Tin Mừng, và rao giảng không
phải bằng lời lẽ khôn khéo, để thập giá Đức Kitô khỏi trở nên vô hiệu” (1Cr
1,12.17).
Đúng thế, thập giá Đức
Kitô cũng có thể ra vô hiệu khi bị che chắn bởi bóng tối của lòng vị kỷ, tình
yêu tinh tuyền của Đức Kitô bị lu mờ bởi sự chia rẽ giữa các Kitô hữu. Vì thế
mà thánh Phaolô tha thiết nài xin: “Đừng làm chi vì ganh tị hay vì hư danh,
nhưng hãy lấy lòng khiêm nhường mà coi người khác hơn mình. Mỗi người đừng tìm
lợi ích cho riêng mình, nhưng hãy tìm lợi ích cho người khác” (Pl 2,2-4).
Khi làm việc trong
bóng tối, điêu khắc gia đại tài Michelangelo thường gắn một cây nến nhỏ trên
nón mình để cái bóng của ông không đổ lên bức tranh đang vẽ, lên pho tượng đang
đắp. Điều đó làm cho F.L.McKean suy nghĩ: “chúng ta cũng phải hết sức cẩn thận,
đừng để cho cái bóng của mình, những kẻ tìm kiếm tư lợi, đổ trên điều mà chúng
ta đang làm cho Chúa Kitô”.
“Lạy Chúa Giêsu, xin
dạy con biết ở nhiệt thành, biết mến Chúa cho xứng đáng, biết thi ân mà không
xá kể, biết chiến đấu mà không sợ đau thương, biết hoạt động mà không tìm an
nghỉ. Tận tình với chức vụ mà không mong phần thưởng nào khác, một biết mình
làm theo ý Chúa luôn. Amen” (thánh Ignatiô Loyôla).
11. Hãy hối cải, vì nước Trời đã gần đến
(Suy niệm của Lm.
Antôn Nguyễn Văn Độ)
Bước vào Chúa nhật thứ
III thường niên, chúng ta thấy Chúa Giêsu sau khi chịu phép rửa tại sông
Giorđan, được Gioan giới thiệu cho mọi người biết Ngài là: "Chiên Thiên
Chúa, Đấng xóa tội trần gian " (Ga 1, 29). Điều các ngôn sứ đã báo trước
nay được thực hiện: "Tại Galilêa các dân tộc và dân chúng thấy một ánh
sáng vĩ đại" (Is 9, 1-4 (Hr 8, 23b - 9, 3). Ánh sáng vĩ đại ấy là ai nếu
không phải là Chúa Giêsu. Thật thế, Chúa Giêsu xuất hiện giữa dân chúng, như
ánh bình minh rạng ngời buổi sáng, xua tan bóng tối đêm đen. Dân chúng thấy
Ngài như thấy ánh sáng huy hoàng... xuất hiện cho người ngồi trong bóng tối sự
chết " (Mt 12, 16), ánh sáng ấy nay tỏ rạng công khai khi rao giảng:
" Hãy hối cải, vì nước Trời đã gần đến" (Mt 12, 17).
Ánh sáng ấy là Chúa
Giêsu
Matthêu giải thích,
Chúa Giêsu "rời bỏ thành Nadarét, đến ở miền duyên hải, thành Capharnaum,
giáp ranh đất Giabulon và Nepthali". Với địa danh chính xác như thế, nhưng
mục đích của tác giả không phải là cung cấp cho chúng ta những chỉ dẫn du lịch.
Ý tưởng thần học của Matthêu được giải thích ngay: " để ứng nghiệm lời đã
phán bởi miệng tiên tri Isaia " (Bài đọc I).
Ứng nghiệm điều gì?
Giabulon và Nepthali là hai vùng thuộc miền Bắc lúc ấy đang bị sát nhập vào
vương quốc A-sy-ri. Thật là hổ người khi nhớ lại quá thất bại và bị đuổi ra
ngoài. Tuy nhiên, vị tiên tri với niềm tin vững mạnh đã tuyên bố: "Dân
ngồi trong tối tăm đã thấy ánh sáng huy hoàng". Nói cách khác, Isaia muốn
khơi lên niềm hy vọng nơi những người tin cậy Chúa, Đấng giải thoát họ, nên ông
không ngần ngại nói về ơn cứu rỗi. Đó là sức mạnh của Lời Chúa, Lời thực hiện
những gì đã tuyên bố, Isaia gợi lên niềm vui đến từ đức tin:" dân chúng
vui mừng trước nhan Chúa như nhà nông vui mừng trong mùa gặt. " Thánh Vịnh
một lần nữa vang lời động viên: "Tôi tin rằng tôi sẽ được nhìn xem những
ơn lành của Chúa trong cõi nhân sinh. Hãy chờ đợi Chúa, hãy sống can trường,
hãy phấn khởi tâm hồn và chờ đợi Chúa". Niềm tin này khiến chúng ta vui
mừng vì lời hứa của Thiên Chúa được thực hiện: "Chúa là sự sáng và là Đấng
cứu độ tôi ". Sự sáng ấy nay cụ thể hóa nơi con người Đức Giêsu Kitô,
thánh Matthêu xác định: "Chúa Giêsu lui về Galilêa. Người rời bỏ thành Nadarét,
đến ở miền duyên hải, thành Ca-pharnaum, giáp ranh đất Giabulon và Nepthali, để
ứng nghiệm lời đã phán bởi miệng tiên tri Isaia rằng: "Hỡi đất Giabulon và
đất Nepthali, đường dọc theo biển, bên kia sông Giođan, Galilêa của ngoại bang!
Dân ngồi trong tối tăm đã thấy ánh sáng huy hoàng; ánh sáng đã xuất hiện cho
người ngồi trong bóng sự chết".
Bước theo Chúa Giêsu
cần phải hối cải
Ánh bình minh đã ló
rạng, từ trên cao chiếu soi dân ngồi trong bóng tối là chính Chúa Giêsu Kitô.
Ai bước vào trong ánh sáng ấy cần phải: " Hối cải"nghĩa là đi từ bóng
tối ra ánh sáng, từ tội lỗi sang đời sống là con cái Chúa, từ tuyệt vọng đến hy
vọng, từ chán nản đến vui mừng. Và Chúa muốn ánh sáng ấy chiếu soi mọi người;
nên Chúa đã chọn các môn đệ như những người phụ tá.
Khi Chúa Giêsu gọi các
môn đệ của mình "Hối cải". Thánh Phaolô nhắc nhở chúng ta rằng, dù
thuộc về Phaolô, Phêrô hay Apôlô cũng chỉ có một Đức Kitô. Mọi con mắt phải
hướng về Ngài, chính Ngài cứu chuộc chúng ta. Vì thế, khi gọi các môn đệ, là để
các ông trở nên những chứng nhân của Tin Mừng, nên Thánh Phaolô có thể nói:
" Đức Kitô không sai tôi đi rửa tội, mà là đi rao giảng Tin Mừng, không
phải bằng lời nói khôn khéo, kẻo thập giá của Đức Kitô ra hư không. "
Phaolô được chọn, để loan báo một Đấng Cứu Thế bị đóng đinh cho thế gian.
Ngày nay Chúa cũng mời
gọi chúng ta mang vào thế giới sứ điệp sự thật và tình thương của Ngài. Chúng
ta hãy sẵn sàng tham gia vào sứ mạng này và nhất là cầu nguyện xin Chúa đừng để
những chia rẽ và tranh chấp giữa các tín hữu Kitô làm lu mờ khả năng chiếu tỏa
của Tin Mừng.
Hối cải để hiệp nhất
Lời Chúa mời gọi chúng
ta: "Hãy hối cải, vì nước Trời đã gần đến", vẫn luôn có tính chất
thời sự của Tin Mừng. Sự quyết tâm hoán cải, trở về cùng Chúa Kitô là con đường
dẫn đưa Giáo Hội đến sự hiệp thông hữu hình trọn vẹn vào thời kỳ Thiên Chúa
thiết định. Các cuộc gặp gỡ đại kết trong thời gian gần đây gia tăng trên thế
giới là một dấu chỉ chứng tỏ điều đó.
Trước giờ Kinh Truyền
Tin trưa Chúa nhật 23/1/2011, Đức nguyên Giáo hoàng Bênêđictô XVI đưa ra lời
kêu gọi sau đây: "Ngày nay cũng vậy, để trở thành dấu chỉ và phương thế
kết hiệp sâu xa với Thiên Chúa trong thế giới, các tín hữu Kitô chúng ta phải
xây dựng cuộc sống trên 4 cột trụ, đó là: cuộc sống trên nền tảng đức tin của
các Tông Đồ được chuyển lại trong Truyền Thống sinh động của Giáo Hội, tình
hiệp thông huynh đệ, Thánh Thể và kinh nguyện. Có thế, Giáo Hội mới được kết
hiệp bền vững với Chúa Kitô và chu toàn sứ mạng của mình, dù có những chia rẽ
nhưThánh Phaolô Tông Đồ nói đến: "Hỡi anh em, tôi khuyên nhủ anh em tất cả
hãy đồng tâm hiệp ý trong lời nói, để không có sự chia rẽ nơi anh em, nhưng hãy
kết hiệp trọn vẹn trong tư tưởng và cảm thức" (1 Cr 1,10). Thực ra Thánh
Tông Đồ đã biết trong cộng đoàn Kitô ở Côrintô, đã nảy sinh những bất thuận và
chia rẽ; vì vậy, ngài nghiêm nghị viết thêm rằng: "Phải chăng Chúa Kitô bị
chia rẽ sao?" (1,13). Ngài quả quyết mọi chia rẽ trong Giáo hội là làm xúc
phạm đến Chúa Kitô, Thủ Lãnh duy nhất và là Chúa, chúng ta luôn luôn có thể tái
hiệp nhất, nhờ sức mạnh vô tận của ơn thánh Chúa.
Theo giáo huấn của
thánh Phaolô, chúng ta được mời gọi loại bỏ gương mù chia rẽ nơi chúng ta để
mang sứ điệp của Chúa Kitô Phục Sinh cho tất cả mọi người. Chúng ta hãy cầu
nguyện xin Chúa cho sớm đến ngày Giáo Hội được hoàn toàn hiệp nhất. Amen.
12. Ơn cứu độ phổ quát – R. Veritas.
Đức Thánh Cha Phaolô
II đã có lần mạnh mẽ lên tiếng kêu gọi toàn thể Giáo Hội tại Mỹ Châu, hãy tìm
giải pháp cho những vấn đề trầm trọng đang tác hại tại lục địa này. Chúng ta
hãy cùng lắng nghe một đoạn trong bài giảng của Đức Thánh Cha trong Thánh Lễ cử
hành tại Guadalupe, Mexico:
Giáo Hội đã có Tin
Mừng sự sống và sự can đảm của tiên tri, Giáo Hội lại có các nền văn hoá của
chết chóc. Ước gì đại học của hy vọng này cũng là đại học của sự sống, đấy là
tiếng báo động lớn của chúng ta, hãy kiến tạo một cuộc sống mới xứng đáng cho
tất cả mọi người, cho các thai nhi đã được cưu mang trong lòng mẹ, cho những
trẻ em bụi đời sống ngoài đường phố, cho những người dân bản xứ, cho những
người dân Phi Châu, cho những người di dân vì tị nạn, cho những người trẻ chiếm
nhiều cơ hội để thăng tiến đời mình, cho những người già cả, cho tất cả những
ai đang nếm trải sự nghèo khổ hay bị loại ra bên lề xã hội.
Đã đến lúc chúng ta
phải nhất quyết loại trừ ra khỏi đại học Mỹ Châu này bất cứ sự tấn công nào
chống lại sự sống. Xin đừng bao giờ có bạo lực, đừng bao giờ có khủng bố và
buôn bán ma túy, đừng bao giờ có nạn tra tấn, hay những hình thức lạm dụng
khác, cần phải chấm dứt việc kết án tử hình, đừng bao giờ có nạn khai thác bóc
lột những kẻ yếu thế, đừng bao giờ có nạn kỳ thị chủng tộc, đừng bao giờ có
những khu ổ chuột cùng khổ, đừng bao giờ có những tệ nạn như vậy. Đó là những
tệ nạn không thể dung chấp được, những tệ nạn này kêu thấu đến tận Trời cao và
mời gọi các tín hữu Kitô hãy có một nếp sống khác, hãy dấn thân vào trong xã
hội, mục kích phù hợp hơn với đức tin của mình".
Những lời trên đây của
vị chủ chăn Giáo Hội hoàn vũ là một tiếng vang của chính Tin Mừng mà Chúa Giêsu
đã mang đến cho nhân loại cách đây hơn hai ngàn năm. Hiện nay tại các nhà thờ
Anh Giáo bên Anh Quốc, người ta đang thấy trưng bày những tấm bích chương có vẽ
hình Chúa Giêsu giống hệt dung mạo của nhà cách mạng nổi tiếng Thêghê Bara, ông
là một bác sĩ, đã từng là bạn của chủ tịch Fidel Castro, người Cuba. Ông muốn
quảng bá lý tưởng cách mạng bạo động cho toàn thể Châu Mỹ Latinh, thế nhưng ông
đã ngã gục vào giữa thập niên sáu mươi.
Chúa Giêsu quả thật là
một nhà cách mạng nhưng Ngài không hề có chủ trương dùng bạo động để thực hiện
cách mạng. Hơn nữa, cuộc cách mạng mà Chúa Giêsu đã thực hiện càng không có
tính cách chính trị, kinh tế hay xã hội. Cuộc cách mạng mà Chúa Giêsu thực hiện
qua chính cuộc sống của Ngài và được Giáo Hội tiếp tục giảng dạy và thể hiện
thiết yếu là cuộc cách mạng bản thân. Tính cách mạng ấy được Chúa Giêsu thốt
lên khi bắt đầu khai mạc sứ vụ công khai của Ngài: "Hãy hối cải vì Nước
Trời đã đến gần".
Trong chương trình
cách mạng ấy của Chúa Giêsu, chúng ta bắt gặp lẽ khôn ngoan nghìn đời của các
nhà hiền triết Đông Tây: "Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ".
Có tu thân nghĩa là cố sống cho ra người thì người ta mới có thể lãnh đạo gia
đình, cai trị đất nước và mang lại thái bình cho thế giới.
Khi nghe lời kêu gọi
hòa bình của Giáo Hội, nhà độc tài Stalin đã thách thức, thử hỏi xem Giáo Hoàng
có bao nhiêu sư đoàn? Có thể Stalin đã quên lời nhận xét của người sáng lập ra
chủ nghĩa cộng sản là Lênin như sau: "Chỉ cần mười người như thánh
Phanxicô nghèo, thì cũng đủ để cải tạo xã hội Nga".
Quả thật ở bất cứ thời
đại nào, thế giới cần nhiều vị thánh hơn là những con người tài ba. Khoa học và
kỹ thuật đang tiến bộ với tốc độ nhanh chóng khiến chúng ta phải chóng mặt, các
tiện nghi ngày càng tối tân, con số các nhà tỷ phú trên thế giới ngày càng gia
tăng, của cải do con người tạo ra ngày càng ứ đọng, vậy mà tình hình thế giới
được các phương tiện truyền thông đưa lên vẫn là một bức tranh xám xịt. Chiến
tranh, chết chóc và nhất là đói khổ vẫn còn bao phủ phần lớn địa cầu của chúng
ta. Bên này bán cầu thừa mứa của cải vật chất, thì bên kia bán cầu còn tới
không biết bao nhiêu người đang lâm cảnh chết đói. Trong một quốc gia, một
thiểu số nhỏ kẻ nắm giữ trong tay phần lớn của cải, còn số đông phải quằn quại
trong khốn khổ. Nguyên nhân của sự chênh lệch ấy giải pháp cho vấn đề nằm ngay
trong chính lòng con người, bao lâu vẫn còn có những người chiếm giữ quyền hành
trong tay và chối bỏ những quyền cơ bản nhất của người khác thì bấy lâu vẫn còn
có một số người phải quằn quại đói khổ. Bao lâu con người chưa hối cải và sống
cho ra người thì bấy lâu thế giới vẫn không bao giờ có được hòa bình thật sự.
Hãy hối cải, hãy sống
cho ra người, nếu chúng ta quyết tâm thực hiện mệnh lệnh này của Chúa Giêsu
trong môi trường sống của chúng ta hằng ngày, thì không những chúng ta đóng góp
vào cuộc cải tạo xã hội mà còn chứng tỏ cho mọi người thấy được rằng, Nước Trời
thực sự đang đến.
Đó là niềm xác tín, đó
là niềm tin của chúng ta, giờ đây chúng ta hãy cùng nhau nài xin Chúa ban cho
chúng ta niềm tin này.
13. Phẩm chất đầu tiên của người môn đệ
(Suy niệm của Lm.
Ignatiô Trần Ngà)
(Để minh họa cho sứ
điệp của Tin Mừng hôm nay, chúng ta thử phác hoạ tâm trạng của Simon Phêrô khi
được gọi làm tông đồ và được Chúa Giêsu trao trọng trách trong Giáo Hội)
Hôm ấy, tại thành
Xêdarê Philípphê, sau khi Simon Phêrô tuyên xưng Đức Giêsu là Đấng Kitô, Con
Thiên Chúa hằng sống và được Chúa Giêsu long trọng tuyên bố trước mặt các môn
đệ: "Simon, Anh là Tảng Đá, và trên Tảng Đá nầy, Thầy sẽ xây Hội Thánh của
Thầy... Thầy sẽ trao cho Anh chìa khoá Nước Trời. Những gì Anh cầm buộc dưới
đất, trên trời cũng cầm buộc, những gì Anh tháo cởi dưới đất, trên Trời cũng
tháo cởi" (Mt 16, 13-19)... thì liền sau đó, Simon Phêrô đâm ra đăm chiêu
nghĩ ngợi. Simon vẫn nghĩ rằng một người thuyền chài quê mùa chất phác như mình
thì chẳng làm được gì khác ngoài việc quăng chài hay kéo lưới.
Đêm ấy, trằn trọc
không ngủ được vì những lời Thầy vừa công bố và trong thinh lặng của màn đêm,
Simon hồi tưởng lại buổi sáng đẹp trời cách đó không lâu trên biển hồ Galilê,
đang khi ông và An-rê đang quăng chài dưới biển thì Thầy tiến đến. Thầy giơ tay
vẫy chào và cất tiếng gọi mời: "Các Anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các
Anh thành những kẻ lưới người như lưới cá!"
Lời Thầy có sức cuốn
hút nhiệm mầu. Thế là hai anh em bỏ thuyền bỏ lưới theo Thầy.
Đi một quãng nữa, Thầy
gặp hai anh em khác con ông Dêbêđê, là ông Giacôbê và người em là Gioan. Hai
ông này đang cùng với cha là ông Dêbêđê vá lưới ở trong thuyền. Thầy lại cất
tiếng mời gọi, lập tức các ông bỏ thuyền, bỏ cha lại mà theo Thầy. (Mt 4, 18-22)
Thế là bốn bạn chài
quê mùa xứ Galilê bỗng nhiên trở thành những môn đệ đầu tiên của Thầy Giêsu,
được gọi lên đường chinh phục thế giới...
Đang mơ màng với dòng
suy tưởng, Simon chợt thấy Thầy mới trở về sau giờ cầu nguyện, Anh liền mời
Thầy ra ngoài góc sân và nói:
"Thầy ơi! Tại sao
sáng nay Thầy lại đề cao con quá vậy? Con đáng sá gì mà Thầy đặt con làm Đá
Tảng cho Thầy xây Hội Thánh, con có là gì mà nắm giữ chìa khoá Nước Trời! Thầy
không nhớ con xuất thân từ một gã thuyền chài ư? Sao Thầy không chọn những luật
sĩ uyên bác? Sao Thầy không tìm người lãnh đạo nơi hàng ngũ những người biệt
phái uy tín và đạo đức mà lại chọn dân chài như chúng con?
Chúa Giêsu ôn tồn vỗ
vai Simon: "Simon, đừng lo! Đây không phải là việc của con người mà là
việc của Thiên Chúa. Rồi đây các Anh sẽ là những người thay đổi bộ mặt thế
giới".
* * *
Để chinh phục thế
giới, Thiên Chúa đã chọn bốn người thuyền chài làm những môn đệ đầu tiên và lại
giao cho ngư phủ Simon Phêrô thay Ngài lãnh đạo Hội Thánh.
Tại sao Chúa Giêsu lại
trao cho hạng ngư phủ đảm nhận những cương vị hết sức hệ trọng nầy?
Phải chăng tiêu chí
đầu tiên của Chúa Giêsu khi tuyển chọn môn đồ và những người kế vị mình trong
sứ mạng cao cả và đầy gian truân là phải dạn dày sương gió, là không ngại khó,
sẵn sàng đối đầu với bão tố cuồng phong? Ngư phủ là những người vốn có những tố
chất như thế trong máu thịt mình.
Nếu không có những con
người dạn dày sương gió như thánh Phanxicô Xavie vượt đại dương đi đến với các
dân tộc xa lạ trên lục địa châu Á mênh mông, không có những người xâm mình mạo
hiểm như các nhà thừa sai Paris đến rao giảng Tin Mừng tại Việt Nam trong thời
kỳ cấm cách và bắt bớ... thì làm gì có hạt giống đức tin triển nở dồi dào trên
các vùng đất Á Châu cũng như ở Việt Nam!
Và hôm nay, Giáo Hội
Việt Nam đang khựng lại trên con đường truyền giáo, số lượng những người theo
Chúa không thể tăng lên trong suốt nhiều thập kỷ qua, cũng chỉ vì thiếu những
con người dạn dày sương gió bất chấp nguy khó để loan báo Tin Mừng.
* * *
Lạy Chúa Giêsu, Giáo
Hội Việt Nam cũng như Hội Thánh Chúa trên khắp hoàn cầu đang cần những con
người nhiệt thành, mạo hiểm, cần đến những người dám lìa bỏ bờ bến an toàn để
dấn bước ra khơi.
Xin Chúa tiếp tục rảo
bước trên quê hương chúng con và kêu gọi thêm nhiều tâm hồn thiện chí để bổ
sung vào đội ngũ các môn đệ tiên phong của Chúa ngày xưa.
Xin cho ngọn lửa của
Chúa Thánh Linh trong ngày lễ Ngũ Tuần tiếp tục cháy lên trong lòng các môn đệ
Chúa để cho Tin Vui, Tin cứu độ của Chúa được loan báo cho hết mọi người.
14. Đừng ngủ mê trong tội – Lm Giuse Tạ Duy Tuyền
Tiếng bà vợ dịu ngọt
nói chồng: Anh ơi đi xưng tội đi. Lâu rồi không thấy anh xưng tội.
Anh chồng đáp: Xưng
xong có chừa được đâu mà xưng.
Cô vợ: Thế thì hôm nay
anh đừng ăn nhé
Anh chồng: Không ăn mà
chết đói à!
Cô vợ: Vì ăn xong rồi
cũng đói, thế thì ăn làm gì cho mệt.
Anh chồng!
Con người thường ít
muốn thay đổi. Cho dù cuộc sống của họ đang chìm ngập trong tội lỗi. Họ vẫn
ngại đến với tòa giải tội. Họ sợ phải đối diện với sự thật. Vì sự thật sẽ phơi
bầy toàn bộ hành vi bất chính, tội lỗi của họ. Họ vẫn sống chai lỳ trong điều
gian ác mà vẫn không áy láy lương tâm. Chính vì lối sống mất ý thức về tội lại
không dám đối diện với sự thật khiến họ lao mình vào cuộc sống với những đam mê
hưởng thụ bất chấp luân thường đạo lý, hay lao vào tìm kiềm danh lợi thú bất
chấp thủ đoạn tàn bạo. Điều này đã làm cho xã hội tội lỗi tràn lan đến mức độ
chưa bao giờ tội pham nhiều như ngày nay.
Ngày 03.01.2014 một
phiên tòa lưu động có số bị cáo đông nhất Việt Nam từ trước đến nay đã diễn ra
tại sân trại giam của công an tỉnh Quảng Ninh tổng cộng đến 89 bị cáo dính đến
4 đường dây mua-bán, vận chuyển trên 4,400 bánh heroin hiện diện tại phiên tòa
dự tính kéo dài ba tuần lễ.
Theo báo Tiền Phong,
phiên tòa nói trên cũng quy tụ số luật sư biện hộ đông nhất từ trước đến nay:
41 người. An ninh phiên tòa lưu động được xiết chặt, vì người ta dự đoán có thể
tới 66 bản án tử hình sẽ được tuyên.
Án tử hình rất nhiều
nhưng xem ra không ý thức về tội, không có lòng sám hối nên tội phạm vẫn gia
tăng. Ngay cả các tội nhân tại tòa cũng thường ít nói lời xin lỗi vì mình đã
gây nên những đau khổ cho xã hội bởi hành vi bất chính của mình. Thậm chí cả
người nhà tội nhân còn bênh vực cho hành vi tội lỗi của con cái mình.
Mới đây trong một
phiên tòa khi tòa tuyên án kẻ cầm đầu bọn cướp chuyên nghề chặt tay cướp xe thì
tiếng la hét đanh đảnh của một người mẹ đã hét lên không chấp nhận sự thật ấy.
Bà quát to rằng: con tôi không giết người sao lại tử hình con tôi? Bà còn quay
lại chỗ những người bị hại mà con bà chặt tay để cướp của nói rằng: Biết con
tao tử hình thì tao đã cho người giết chết chúng mày! Xen lẫn tiếng bà là tiếng
người chị gái bảo rằng: “ai bảo chúng này đi xe đẹp đeo nhẫn vàng làm gì?”
Hóa ra đi xe đẹp, đeo
nhẫn vàng cũng có tội? Có phải tình yêu thì chẳng cần quan tâm đến đạo đức.
Người ta nhân danh tình yêu để hại người, để vào hùa và bênh đỡ nhau như gia
đình bị can “chặt tay cướp SH” chăng?
Là người đều có những
lầm lỗi hay có những lần vấp ngã, điều quan yếu là biết nhận lỗi và đứng lên
làm lại cuộc đời. Không nhận ra sai lỗi. Không cảm nhận sự vấp ngã. Con người
cũng mất ý thức về tội. Con người càng mất lòng sám hối ăn năn. Thực ra, nhân
vô thập toàn. Con người cần biết giới hạn của mình để sám hối từng ngày, để
canh tân từng phút. Có sám hối, có canh tân con người mới thăng tiến từ tinh
thần đến vật chất.
Lời rao giảng đầu tiên
của Chúa Giêsu không kêu gọi chống bất công hay đòi quyền lợi mà là kêu gọi sám
hối canh tân. Chúa kêu gọi con người phải sám hối vì cội rễ của bất công, của
sa đọa, tội lỗi là con người mất ý thức về giá trị cuộc sống. Con người không
tuân theo luân thường đạo lý thì làm sao có một xã hội văn minh tình thương.
Con người cần phải sám hối để nhận ra những lỗi lầm của mình đã gây nên thiệt
hại tinh thần lẫn vật chất cho tha nhân. Chính hành vi tội lỗi mình đã làm cho
sự dữ lan tran, xã hội loạn lạc lầm than.
Nhưng đáng tiếc nhân
loại ngày hôm nay không ý thức việc mình làm đã gây nên đau khổ cho tha nhân.
Con người vẫn nhân danh tự do cá nhân để hành xử thiếu văn hóa, thiếu trách
nhiệm với tha nhân. Con người vẫn nhân danh hạnh phúc cá nhân để loại trừ hạnh
phúc cuả tập thể, của xã hội. Nếu ai cũng biết sống mình vì mọi người thì sẽ
không có những vụ tham nhũng lớn như Dương Chí Dũng, Bầu Kiên hay Huyền Như ..
. Tất cả vì lợi ích cá nhân mà gây nên biết bao hậu quả tai hại cho xã hội và
đất nước.
Ước gì là người ky-tô
hữu chúng ta hãy biết xét mình hằng ngày, hãy ăn năn từng giờ để đừng ngủ mê
trong tội lỗi, nhưng biết thay đổi đời sống cho phù hợi với tin mừng. Xin đừng
vì quyền lợi cá nhân mà gây thiệt hại cho xã hội. Xin đừng đề cao tự do cá nhân
để làm mất trật tự cho xã hội và cộng đồng. Xin Chúa giúp chúng ta luôn biết
khiêm tốn nhìn nhận sự yếu đuối của bản thân để nhờ ơn Chúa mà canh tân đời
sống mỗi ngày một tốt hơn. Amen.
15. Chúa Kitô là ánh sáng – Lm Jos. Tạ Duy
Tuyền
Có lúc nào đó trong
cuộc sống chúng ta tự hỏi lòng mình: Tôi là ai? Tôi sinh ra trong cuộc đời này
để làm gì? Chết rồi đi đâu? Đây là những câu hỏi quyết định hướng đi của đời
người, nó quyết định phận số của một con người. Đau khổ hay bất hạnh. Lạc quan
hay bi quan. Sống có trách nhiệm hay lười biếng, buông thả? Sống có ích hay trở
thành gánh nặng cho xã hội đều tùy thuộc vào chọn lựa căn bản này của từng
người chúng ta.
Nhìn vào xã hội hôm
nay chúng ta thấy, có người chủ trương cho rằng con người là loài vật nên chẳng
cần luân thường đạo lý, chẳng cần tự chủ bản thân, sống buông thả theo đam mê
nhục dục như muôn loài sống theo bản năng của mình. Có người chủ trương cho
rằng sống là để hưởng thụ nên luôn tranh giành lẫn nhau, luôn lấn áp với nhau
theo kiểu "cá lớn nuốt cá bé". Họ chà đạp lên nhau chỉ vì danh lợi
thú trần gian. Có người chủ trương cho rằng chết là hết nên chẳng cần ăn ngay ở
lành, chẳng cần tích đức đời sau nên sinh ra đạo tặc, dâm ô và biết bao tệ nạn
đau buồn khác. Hằng ngày trên truyền hình, truyền thanh vẫn luôn cập nhật những
thông tin đáng buồn như cướp dật, hoang dâm, xì ke, ma tuý, tham nhũng, giết
người... Tại sao vậy? Tại sao xã hội có luật pháp mà vẫn còn đó những tội phạm?
Tại sao bóng tối của sự dữ vẫn còn đầy rẫy trong xã hội văn minh hôm nay? Tại
sao lương tâm không bằng lương thực? Tại sao nhân phẩm không bằng nhu yếu phẩm?
Tại sao tình người không bằng đồng tiền? Tại sao vì tiền, vì quyền, vì tình mà
nhiều người đã đánh mất nhân tính của mình? Có lẽ chỉ vì đã nhìn nhận sai về
căn tính con người, về ý nghĩa cuộc đời nên dẫn đến biết bao hệ luỵ khổ đau cho
con người.
Có câu chuyện ngụ ngôn
kể rằng: loài người thuở xa xưa khi chưa biết soi gương trang điểm nên dường
như cũng chẳng hề biết khuôn mặt mình tròn méo thế nào. Vì thế mới có chuyện
đau lòng xảy ra giữa đôi vợ chồng trẻ miền quê hẻo lánh. Một lần anh chồng có
việc phải lên kinh thành, người vợ dặn chồng nhớ mua cho mình một cái trâm cái
đầu. Nhưng khốn nỗi anh chàng nhà quê chưa một lần nhìn thấy cái trâm cài đầu
nó như thế nào? Cô vợ nhìn lên bầu trời đêm thấy ánh trăng lưỡi liềm liền nói:
"Cái trâm nó giống như ánh trăng kia, nếu anh quên, anh cứ nhìn lên ánh
trăng thì sẽ nhớ". Người chồng đã ra đi. Kinh đô quả thật khác lạ so với anh.
Cái gì cũng mới. Cái gì cũng hay. Anh chồng đã say sưa, mải miết tham quan
những cảnh lạ ở kinh thành cả mười ngày sau mới về. Lúc này anh mới chợt nhớ
lời vợ dặn, anh liền nhìn lên bầu trời và thấy ánh trăng tròn trịa của đêm
trăng rằm. Anh vào cửa hàng tạp hoá và anh mua một cái gương soi mặt vì nó hình
tròn giống như ánh trăng. Lòng vui rộn ràng anh quay trở về với vợ hiền. Anh
vui mừng trao món quà cho cô vợ bé nhỏ của mình. Cô vợ mở quà ra xem. Ngạc
nhiên tại sao lại là hình ảnh của một cô gái ở trong món quà. Bởi lẽ, cả đời cô
chưa hề biết gương là gì, nên khi thấy bóng dáng một người con gái trong gương
cô đã tức giận và quát tháo nên rằng: "Tôi dặn anh mua cái trâm cài đầu,
tại sao anh đem về cho tôi một đứa con gái nào đây?". Anh chồng lúc này mới
nhìn vào gương và thấy khuôn mặt một người đàn ông trông giống như bố mình ngày
xưa, nên anh cãi rằng: "Không phải, đây là bố tôi". Và anh dành lại
cái gương, miệng không ngớt kêu lên: "Ơ bố ơi! Quả thực là bố hiện về với
con". Cô vợ tức quá giựt lại và bảo: "Bố ông bao giờ, đây là con nào
rõ ràng mà ông còn chối cãi được sao?". Anh chồng xem ra không cãi nổi vợ,
bèn buồn bã bỏ đi. Mẹ chồng thấy vậy đến an ủi nàng dâu, và người con dâu đã
đưa cho mẹ chồng xem bằng chứng về sự dan díu của chồng mình. Mẹ chồng xem qua
rồi đi đến kết luận: "Thôi đừng ghen tương làm chi cho khổ, tao thấy con
này nó cũng già quá rồi!"
Vâng, xem ra cái nhìn
tiên tri của ngôn sứ Isaia vẫn đúng cho thời đại hôm nay, vì "đoàn dân
đang ngồi trong bóng tối" cũng chính là hình ảnh của nhân loại hôm nay.
Một thế giới đầy những bong tối của tội lỗi, của sa đoạ, của ích kỷ và hưởng
thụ đã làm cho nhiều người mù quáng chạy theo những đam mê lầm lạc và dìm mình
trong bong tối của danh lợi thú trần gian. Họ đã lạc mất hướng đi đời người. Họ
chẳng cần biết mình là ai? Họ chỉ cần tiền. Họ không cần đạo đức hay phẩm giá
con người. Điều họ cần là làm sao có tiền để hưởng thụ. Vì có "tiền mua
tiên cũng được". Vì mải miết chạy theo đồng tiền họ đã đánh mất hướng đi
đời người. Cuộc sống không có định hướng, không có mục đích là nguyên nhân dẫn
đến những tệ nạn: cướp giật, tham nhũng, xì ke ma tuý và mại dâm cùa thời đại
hôm nay.
Lời Chúa hôm nay mời
gọi chúng ta: "Hãy sám hối". Sám hối để bước ra khỏi bóng đêm của tội
lỗi, ghen tương, đố kỵ, chia rẽ để bước vào ánh sang của yêu thương và hiệp
nhất. Sám hối để bước ra khỏi vũng lầy của đam mê nhục nhục, của tha hoá đạo
đức để sống cao thượng theo đúng phẩm giá con người là "nhân linh hơn vạn
vật". Sám hối để nhìn nhận những sai trái của mình đã gây nên những bất
công, những khổ đau cho anh em và quyết tâm thay đổi đời sống theo đúng đòi hỏi
của Tin mừng mà Chúa Kitô đã loan báo. Vì Chúa Kitô chính là ánh sáng đã chiếu
giãi trên thế gian. Từ nay Tin mừng cứu độ của Chúa sẽ soi sáng cho con người
biết đâu là thiện, là ác, vì chính Ngài là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống, ai
bước theo Ngài sẽ không phải đi trong tối tăm nhưng bước đi trong tự do của con
cái sự sáng.
Thế nhưng, nhân loại
hôm nay vẫn thích bóng tối hơn ánh sáng. Người ta sợ ánh sáng của Tin mừng sẽ
phơi bầy bộ mặt thật của mình nên họ luôn tìm cách che dấu bằng thủ đoạn, lừa
đảo và giả hình và dần dần đánh mất ý thức về tội. Tỗi lỗi vẫn tràn lan. Con
người tự làm khổ mình, làm khổ nhau bởi chính những điều gian ác, bất công của
mình gây nên.
Xin Chúa Kitô là
Đường, là Sự Thật và là Sự sống giải thoát chúng ta khỏi làm nô lệ của danh lợi
thú trần gian để chúng ta sống trong tự do của con cái Chúa. Xin Chúa Kitô là
ánh sáng trần gian dẫn dắt chúng ta đi theo chân lý vẹn toàn ngõ hầu chúng ta luôn
sống đúng với phẩm giá cao quý của con người là hình ảnh của Chúa. Xin cho mỗi
người chúng ta cũng trở thành ánh sáng để dẫn dắt anh chị em chúng ta bước đi
trong ánh sáng lề luật và phúc âm của Chúa. Amen.
16. Suy niệm của Lm. Nguyễn Bình An
Khủng hoảng là cơn
bệnh da diết và trường kỳ của mọi người, mọi gia đình, mọi tôn giáo, mọi quốc
gia và trong mối bang giao quốc tế. Khủng hoảng kinh tế khi gia đình hay cộng
đồng hoặc quốc gia thiết hụt vì chi trội hơn thu và nạn thất nghiệp cao. Khủng
hoảng tinh thần khi gia đình, xã hội có những cuộc tranh cãi, chia rẽ và hận
thù. Khủng hoảng an ninh khi tranh chấp xẩy ra và hai nước cùng động binh chuẩn
bị chinh chiến. Khủng hoảng đức tin khi tín hữu coi nhẹ luật mến Chúa và yêu
tha nhân để dấn thân vào công tác chống đối, chỉ trích, xuyên tạc, tạo tị hiềm,
và gây chia rẽ từ hạ tầng cơ sở là cộng đoàn và giáo xứ, lên đến giáo phận và
giáo đô Rôma. Khủng hoảng tu trì khi cảnh "cá đối bằng đầu" thịnh
hành theo thuyết tự do cá nhân; khi mục đích tối thượng là "nên thánh theo
lời khuyên Phúc âm" bị sao nhãng và đặt nhẹ; khi tam đức như đức khó
nghèo, vâng phục và trinh khiết không còn được tôn trọng và tuân giữ. Khủng
hoảng mầu da hay sắc tộc khi các sắc dân đứng lên tranh đấu, bạo động, chém
giết.
Mỗi năm vào ngày thứ
Năm tuần thánh tại một số nhà thờ Chính toà trên nước Mỹ, đang khi Giám mục và
các linh mục đồng tế bên trong thì bên ngoài, phong trào tranh đấu biểu tình và
đòi quyền cho phái nữ được tham dự vào chức linh mục thừa tác như nam giới
trong Giáo hội hò la và giận dữ. Cuộc khủng hoảng này đang được đội lốt dưới
chiêu bài "trọng nam khinh nư "và "đòi bình đẳng" trong
Giáo hội. Nhiều lần Đức Giáo hoàng đã kiên nhẫn lắng nghe, giải thích và dùng
hình ảnh tuyệt vời và thế đứng đặc biệt của Đức Maria như mẫu mực và hướng đi
cho phụ nữ. Maria không là linh mục, nhưng là mẹ của linh mục. Maria là phàm
nhân, nhưng là Mẹ Thiên Chúa. Maria không là Cứu Chúa, nhưng là Đấng Đồng công
cứu chuộc. Maria không dám tự nhận hay đòi một danh xưng cao sang nào, trái lại
Maria khiêm tốn thưa "này tôi là tớ nữ Chúa, tôi xin vâng nhận Thiên
ý." Khủng hoảng trong lòng Maria như thế được giải kết trong vâng phục ý
Chúa và trong ý thức thân phận hèn mọn của mình.
Thánh Phaolô trong bài
đọc thứ hai đã vạch mặt chỉ tên những người lạm dụng và thao túng tôn giáo. Họ
tạo cuộc khủng hoảng bè phái và dùng tôn giáo như khí cụ đấu tranh. Họ chia
thân thể mầu nhiệm Đức Kitô ra những phái nhóm khác nhau để thủ lợi. Họ dùng
tên các tông đồ để gây thanh thế cá nhân và tạo mâu thuẫn, đối kháng và chia rẽ
trong cộng đồng và giáo hội. Cơn khủng hoảng giáo phái từ đó tiến triển theo
cấp số nhân và hôm nay trong cộng đồng Kitô hữu (Tin lành, Công giáo và Chính
thống) có khoảng chừng 400 giáo phái khác nhau. Trong Giáo hội Công giáo, tuy
sự hợp nhất còn duy trì được, nhưng cũng có khoảng vài trăm dòng nam nữ biệt
lập. Tất cả đều vì Chúa và các linh hồn. Tất cả đều được nuôi sống nhờ lòng hảo
tâm và dâng cúng của các tín hữu. Cơn khủng hoảng muôn đời sẽ không giải quyết
được vì tín hữu thì cầu cho được "hằng ngày dùng đủ", và họ xử dụng
cái dùng đủ ấy để cung cấp sự giầu sang và xây dựng các lâu đài, cơ sở cho các
dòng. Từ đó các dòng trở nên gánh nặng cho tín hữu. Thế hệ nầy sang thế hệ khác
tiếp nối nhau giúp đỡ, và dâng cúng cho Giáo hội nói chung và làm giàu cho các
dòng nói riêng mà vẫn không sao dập tắt cơn khát.
Thần học cứu rỗi của
Đức Kitô khai mạc bằng lời "hãy hối cải vì nước Trời đã gần" quả thật
đang bị khủng hoảng do sự thiếu khả năng và thiện chí rao giảng. Đồng thời hình
ảnh nước Trời đang lu mờ và mất hút trong cơn sốt vật chất miên man và vô độ
của con người. Tiên tri Isaia đã phóng lên không trung ánh sáng vĩ đại của Đức
Kitô (bài đọc1). Ánh sáng ấy đáng lẽ phải giải thoát nhân loại và đưa nhân loại
vào cõi sống. Nhưng khủng hoảng là ách đang đè trên vai họ, là gậy của kẻ lạm
thu họ chưa bị bẻ gẫy và đang thao túng nên ánh sáng chưa tỏ rạng đủ cỡ. Ánh
sáng ấy sẽ chỉ thực sự tỏ soi khi những giầy trận, những áo choàng rướm máu,
những ách gông nặng hay nói chung là các khủng hoảng trở thành mồi lửa. Khi ấy
mọi dân và cả những ai đang ngồi trong bóng tối sự chết mới thấy một ánh sáng
vĩ đại và huy hoàng. Hoa trái của ánh sáng huy hoàng sẽ là "đồng tâm hiệp
nhất... "và kết đoàn trong một thần trí và một tâm tình (bài đọc 2). Thiếu
đồng tâm, hiệp nhất, một thần trí và một tâm tình thì tứ phương còn đang bị
thiêu đốt bởi khủng hoảng!!!
17. Nước Trời đã đến gần – Jos. Hồng Ân
Loan báo Tin Mừng Nước
Trời là sứ điệp quan trọng, nên Chúa Giêsu đã quên ăn, quên ngủ, không quản chi
mệt nhọc, vất vả đi khắp các làng mạc, thành thị loan báo Tin Mừng, mời gọi mọi
người ăn năn sám hối, đón nhận Nước Trời để được ơn cứu độ. Chúa còn chọn gọi
và sai các môn đệ ra đi rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa cho muôn dân nước.
Khởi đầu sứ vụ rao
giảng Tin mừng, Chúa Giêsu đã kêu gọi: “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến
gần” (Mt 4, 17). Chúa Giêsu muốn cho thấy tầm quan trọng của Nước Trời, điều
kiện căn bản để đón nhận Nước Trời là phải sám hối, không sám hối thì không thể
vào được Nước trời, Nước Trời chỉ dành cho những ai biết sám hối, nhìn nhận tội
lỗi của mình, sửa đổi đời sống để nên hoàn thiện và cầu xin Chúa tha thứ. Điệp
khúc này được lặp đi lặp lại rất nhiều lần trong các lời giáo huấn của Ngài. Có
trở về, có thay đổi, có sám hối con người mới vào được Nước Thiên Chúa. Sám hối
là khởi điểm của cuộc hành trình đức tin Kitô giáo. Sám hối còn là chìa khoá để
vào Nước Trời.
Chúa Giêsu dạy chúng
ta phải ưu tiên tìm kiếm Nước Thiên Chúa trước hết, còn mọi thứ khác Ngài sẽ
ban cho sau (x. Lc 12, 31). Ngài còn dạy: “Hãy bán của cải mình đi mà bố thí.
Hãy sắm lấy những túi tiền chẳng bao giờ cũ rách, một kho tàng chẳng thể hao
hụt ở trên trời, nơi kẻ trộm cắp không bén mảng, mối mọt cũng không đục phá”
(Lc 12, 33). Nước Thiên Chúa là cùng đích đời người nên có giá trị tuyệt đối,
phải đặt lên trên hết mọi sự, phải sẵn sàng hy sinh tất cả và bằng mọi giá để
vào được Nước Trời (x. Mt 13, 44-46). Thánh Phaolô nói: “Những đau khổ chúng ta
chịu bây giờ sánh sao được với vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mạc khải nơi chúng
ta” (Rm 8,18). Vì vậy, để vào được Nước Trời, chúng ta cần phải sám hối, từ bỏ
những gì là xấu xa tội lỗi, từ bỏ những gì ngăn cản ta tìm kiếm Nước Trời. Từ
bỏ những gì nước trần gian, nước của sa tan lôi kéo chúng ta như: tiền của vật
chất, danh vọng địa vị, thú vui xác thịt. Chúng ta phải luôn chiến đấu với ba
thù: ma quỷ, thế gian và xác thịt.
Sau khi kêu gọi dân
chúng sám hối để đón nhận Nước Trời, Chúa Giêsu mời gọi các môn đệ, để các ông
đi theo Người, cộng tác với Người rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa. “Người
đang đi dọc theo biển hồ Galilê, thì thấy hai anh em kia, là ông Si-môn, cũng
gọi là Phê-rô, và người anh là ông An-rê, đang quăng chài xuống biển, vì các
ông làm nghề đánh cá. Ngài bảo các ông: “Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho
các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá” (Mt 4, 18-19). Các ông không so
đo tính toán, không ngần ngại lên đường đi theo Chúa: “Lập tức hai ông bỏ chài
lưới mà đi theo Người” (Mt 4, 20). Chúa gọi các ông đi theo Người, không phải
để thành lập một tập đoàn kinh tế hay chính trị. Nhưng là để các ông học hỏi
nơi Người cách sống và làm việc, tất cả vì công cuộc loan báo Tin Mừng Thiên
Chúa, tất cả vì hạnh phúc, vì phần dỗi của con người.
Chúa đi rao giảng Tin
Mừng Nước Trời, Ngài không chỉ rao giảng trên môi miệng, mà còn bằng việc làm
cụ thể, “Đức Giêsu đi khắp miền Galilê, giảng dạy trong các hội đường, rao
giảng Tin Mừng Nước Trời, và chữa hết mọi kẻ bệnh hoạn tật nguyền trong dân”
(Mt 4, 23). Chúa rao giảng và chữa lành bệnh hoạn, tật nguyền phần hồn, phần
xác, để giúp con người nhận ra giá trị đích thực của Nước Trời là được bình an
hạnh phúc, không còn đau khổ, bệnh tật, không phải bom chen, cạnh tranh… Vì đó
là sứ điệp quan trọng, nên trước khi về trời, Đức Giêsu đã truyền cho các tông
đồ: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ
tạo” (Mc 16, 15).
Ngày nay, tiếng Chúa
nói “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần” vẫn còn vang vọng bên tai của
chúng ta. Chúa vẫn kêu gọi, vẫn chữa lành để ta nhận ra chân giá trị của Nước
Trời. Vậy mà ta vẫn bưng tai bịt mắt không nghe cũng chẳng nhìn, cho là Nước
Trời còn xa tít trên chín tầng mây, nên không quan tâm, không để ý, không xem
xét, vẫn mặt dày mày dạn, lòng chai dạ đá, không đáp lại lời mời gọi của Chúa,
không chịu sám hối, vẫn tiếp tục đi trên con đường tội lỗi, vẫn tìm kiếm khoái
lạc, tìm hưởng thụ, sống bất công, điêu ngoa, gian dối, lừa lọc, giận hờn ghen
ghét, mưu mô sảo quyệt, đội trên đạp dưới làm hại anh em. Nhiều khi đi làm tông
đồ cũng dựng bè kéo cánh, cũng tranh giành sự ảnh hưởng, tranh giành chỗ đứng,
tranh giành nơi làm việc, dèm pha, nói xấu đủ điều…
Là Kitô hữu, chúng ta
hãy đáp lại lời mời gọi của Chúa, biết sám hối, nhìn nhận tội lỗi của mình, từ
bỏ tất cả những gì là tội lỗi xấu xa, quay trở về với Chúa, cầu xin Người thứ
tha, để ta đón nhận Tin Mừng Nước Thiên Chúa và hưởng ơn cứu độ Người ban.
Chúng ta cũng hãy cộng tác với Chúa ra đi loan báo Tin Mừng, kêu gọi mọi người
ăn năn sám hối để đón nhận Nước Trời.
18. Ánh sáng hiệp nhất – Lm Phạm Quốc
Hưng
"Dân ngồi trong
tối tăm đã thấy ánh sáng lớn lao; và kẻ ngồi trong bóng tối sự chết, một ánh
sáng đã rạng lên".
Ngày nọ, một vị linh
sư gọi các đệ tử của mình lại và hỏi họ: "Khi nào thì ta biết đêm chấm dứt
và ngày bắt đầu?" Các đệ tử liền lần lượt trả lời: "Khi ta có thể
thấy được sự khác biệt được giữa con trâu và con bò"; "Khi ta có thể
phân biệt được con vịt và con ngan"; "Khi ta có thể nhận dạng được
trái cam và trái táo." Vị linh sư gật gù và nói: "Các con đang nói về
ánh sáng tự nhiên như yếu tố phân biệt ngày và đêm. Nhưng chúng con có biết khi
nào thì chúng ta có ánh sáng tâm linh để ra khỏi bóng đêm của tâm hồn
không?" Thấy họ bối rối, ngài liền nói: "Khi chúng ta nhận ra những
người xung quanh thực sự là anh chị em của mình để yêu thương và giúp đỡ
họ".
Trong Tin mừng hôm
nay, khi thuật về việc Chúa Giêsu bắt đầu cuộc đời truyền giáo công khai và kêu
gọi các tông đồ đầu tiên, thánh Matthêô đã giới thiệu Chúa Giêsu như Đấng đã
làm trọn lời ngôn sứ Isaia đã nói trước đây: " Dân ngồi trong tối tăm đã
thấy ánh sáng lớn lao; và kẻ ngồi trong vùng bóng tối sự chết, một ánh sáng đã
rạng lên" (Mt 4:16 & Is 9:1).
Theo đó, Chúa Giêsu
chính là ánh sáng đem lại sự sống thần linh và tình yêu hiệp nhất cho nhân
loại, ánh sáng tâm linh mà vị linh sư muốn nói đến trên đây, như chính Chúa đã
tuyên bó sau này: "Sự sáng thế gian, chính là Ta! Ai theo Ta sẽ không phải
đi trong tối tăm, nhưng nó sẽ có ánh sáng sự sống" (Jn 8:12) Thực vậy,
Chúa Giêsu đã dạy mọi người nhận biết Thiên Chúa là Cha duy nhất và hết thảy
mọi người là anh chị em của nhau nên phải thực sự yêu thương hiệp nhất với
nhau.
Sứ điệp đầu tiên của
Chúa Giêsu thực là ngắn ngủi vì được tóm gọn trong một câu: "Hãy hối cải
vì Nước Trời đã gần bên" (Mt 4:17)
Sự hối cải mà Chúa
Giêsu muốn mói đến ở đây chính là việc chúng ta phải bước ra khỏi bóng đêm của
tội lỗi, ganh tương, đố kỵ, chia rẽ để bước vào ánh sáng ban ngày của yêu
thương và hiệp nhất. Vì tội lỗi suy cho cùng chính là sự phá hủy liên hệ yêu
thương hiệp nhất giữa Thiên Chúa và con người, để từ đó dẫn đến sự chia rẽ rạn
nứt nơi chính nội tâm con người và giữa con người với nhau.
Chúa Giêsu đến trần
gian không có mục đích gì khác hơn là khôi phục lại sự hiệp nhất hài hòa giữa
Thiên Chúa và nhân loại, giữa con người với nhau, và chính nơi tâm hồn mỗi
người. Sự hiệp nhất trong tình yêu này chính là lý tưởng của Chúa Giêsu và là
điều Ngài hằng tha thiết cầu xin cùng Chúa Cha để trở nên hiện thực như lời cầu
nguyện hiến tế của Ngài: "để hết thảy chúng nên một" (Jn 17:21)
Và Chúa Giêsu đã phải
trả giá cho sứ mạng này bằng sự sống, sự chết và sự sống lại của chính Ngài.
Ngài đã trở thành chính sự hiệp nhất giữa Thiên Chúa và con người, cũng như là
nguyên lý tạo thành sự hiệp nhất giữa con người với nhau và nơi chính bn thân
mỗi người. Chấp nhận Chúa Giêsu có nghĩa là chấp nhận ánh sáng sự sống, ánh
sáng dẫn ta bước đi trên con đường yêu thương hiệp nhất.
Các môn đệ đầu tiên
được Chúa kêu gọi trong Tin mừng hôm nay là những người được mời gọi sống tinh
thần yêu thương hiệp nhất ấy. Thời gian các ông theo Chúa là thời gian các ông
được Chúa huấn luyện để hối cải từ một lối sống chia rẽ, ghen tương, đố kỵ đến
một cuộc sống yêu thương hiệp nhất. Dấu chỉ của người môn đệ Chúa Kitô cũng
không gì khác hơn là tình yêu hiệp nhất: "Chính nơi điều này mà mọi người
sẽ biết các ngươi là môn đồ Ta: ấy là nếu các ngươi có lòng yêu mến lẫn
nhau" (Jn 13:35). Cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi cũng được đánh dấu bằng
tình yêu hiệp nhất này: "Ngày ngày họ đồng tâm nhất trí chuyên cần lui tới
Đền thờ, bẻ bánh ở nhà, cùng nhau chia sẻ của nuôi thân, lòng hân hoan, dạ đơn
thành" (Acts 2:46)
Theo gương Chúa Giêsu,
trong bài học hai của thánh lễ hôm nay, thánh Phaolô - vị tông đồ dân ngoại -
đã kêu gọi các tín hữu tiên khởi sống tinh thần yêu thương hiệp nhất trong đời
sống cộng đoàn và tỏ dấu quan tâm về sự chia rẽ bè phái đang diễn ra nơi họ.
Thánh Tông đồ viết: "Hỡi anh em, nhân Danh Chúa chúng ta, Đức Giêsu Kitô,
tôi nài xin anh em hãy lo cho được đồng ý với nhau hết thảy, đừng để có sự chia
rẽ trong anh em, nhưng hãy đoàn kết trong cùng một tâm trí, cùng một quan
điểm" (1 Cor 1:10).
Trong ánh sáng của
Chúa Kitô, thánh Phaolô nhận ra tất cả tín hữu đã liên kết chặt chẽ với nhau và
làm nên một thân thể duy nhất nơi Chúa Kitô nhờ Thần khí Người. Tất cả mọi sự
chia rẽ trong cộng đoàn Hội thánh đều là những hành động chia cắt chính Chúa
Kitô. Sự chia rẻ bè phái xảy ra trong Hội thánh ở Corinthô là vì các tin hữu
không đặt trọn niềm tin vào Chúa Kitô nhưng lại dựa vào uy thế của các vị lãnh
đạo khác nhau. Đây là dấu chỉ cho thấy đức tin của các tín hữu ở đây còn là một
đức tin ấu trĩ què quặt, một đức tin chưa trưởng thành vì không dựa vào Chúa
Kitô mà chỉ bám vào tình cảm cá nhân dành cho người này hay người khác.
Mới đây, một giáo dân
ở một giáo xứ nọ cho tôi hay là bà và gia đình cảm thấy chán nản buồn rầu bỏ cả
xưng tội chịu lễ như muốn mất đức tin chỉ vì có sự thay đổi cha xứ, vì linh mục
ở giáo xứ bà không làm gương về sự yêu thương hiệp nhất như các ngài thường
giảng, và vì có sự chia rẽ bè phái trong giáo xứ.
Tâm sự của bà đã cho
thấy niềm tin của bà chưa phải là một niềm tin trưởng thành vì còn lệ thuộc quá
nhiều vào tư cách của các chủ chăn mà chưa đặt trọn nơi Chúa Kitô. Nhưng sự
kiện này cũng cho thấy sự yêu thương hiệp nhất là yếu tố vô cùng quan trọng
trong đời sống của một cộng đoàn Kitô hữu. Thiếu yêu thương hiệp nhất, đời sống
cộng đoàn trở nên buồn nản và có thể dẫn đến sự tan rã của cộng đoàn. Vì vậy,
bổn phận của mỗi người trong cộng đoàn Kitô hữu là phải dấn thân hy sinh để xây
dựng tình thương và hiệp nhất trong gia đình và cộng đoàn, phải quên mình và từ
bỏ những ý riêng để gìn giữ sự hiệp nhất trong Chúa với tha nhân.
Khi thấy sự hiệp nhất
yêu thương của gia đình, cộng đoàn hay giáo xứ bị suy thoái và tổn thương, mỗi
người cần phải xét mình và cố gắng từ bỏ tất cả những gì có thể làm thiệt hại
đến sự hiệp nhất yêu thương. Việc bỏ bê các việc đạo đức hay các sinh hoạt
trong cộng đoàn và nhất là việc nói hành nói xấu nhau lúc này không giúp ích gì
mà chỉ gây thêm tội trước mặt Chúa. Trái lại, đây là lúc mỗi người trong cộng
đoàn càng phải khiêm nhường và khoan dung nhẫn nại hơn trong cách đối xử với
nhau, phải nỗ lực tha thiết hơn trong đời sống cầu nguyện, và phải siêng năng
đến với Chúa Giêsu Thánh thể là nguyên lý của sự hiệp nhất trong cộng đoàn để
xin Ngài tái tạo và củng cố sự hiệp nhất nơi cộng đoàn.
Lạy Chúa Giêsu là ánh
sáng tái tạo hiệp nhất giữa Thiên Chúa và con người cũng như hiệp nhất giữa con
người chúng con với nhau, nhờ lời Mẹ Maria chuyển cầu, xin Chúa giúp chúng con
được ơn hối cải đểtừ bỏ tất cả những cảm nghĩ, lời nói và hành động nào có thể
làm tổn thương sự hiệp nhất của chúng con với Chúa và với nhau. Xin Chúa giúp
chúng con biết nỗ lực xây dựng sự hiệp nhất trong mọi môi trường chúng con
sống. Xin soi sáng cho chúng con nhận biết rằng mọi người chúng con là anh chị
em với nhau vì có cùng một Cha trên trời, và cùng là chi thể của nhau, để chúng
con luôn sống như những người con thảo của Chúa Cha và những chi thể đích thực
của Nhiệm thể của Chúa. Amen.
19. Ơn gọi đâu dành để riêng ai!
(Suy niệm của Lm Giuse
Lê Quan Trung)
Có lẽ do khởi đầu sứ
vụ rao giảng công khai về Tin Mừng Nước Trời, Đức Giêsu đã tuyền chọn bốn môn
đệ đầu tiên: Simon Phêrô-Anrê-Giacôbê-Gioan, mà sau này cả bốn vị đều trở thành
Đức Giám Mục với vị đứng đầu là Đức Giáo Hoàng tiên khởi Phêrô, mà từ đó rất
nhiều người, hễ nghe nói tới ơn gọi, là họ nghĩ ngay đến ơn thiên triệu, ơn gọi
giáo sĩ, tu sĩ, ơn gọi dâng hiến, ơn gọi “độc thân vì nước trời”!
Cũng từ đó, nhiều thảm
cảnh đã xảy ra trong các gia đình, họ tộc: không chấp nhận những đứa con đã đi
dự tu, đã vào chủng viện, đã vô nhà dòng, mà còn dám cả gan bỏ Chúa, dám trở
lại thế gian để lấy chồng, lấy vợ!
Họ coi đó là một nỗi ô
nhục, một vết chàm tím bầm mà muôn đời không cách nào tẩy xóa được. Giận cho họ
mà cũng thương cho họ biết bao!
Ý Chúa nào phải chỉ
tuyển một ơn gọi đóng khung! Một ơn gọi tách biệt! Một ơn gọi riêng lẻ! Chúa
muốn tất cả mọi người đều trở thành người thợ trong vườn nho của Chúa tùy theo
khả năng, tùy theo tấm lòng, tùy theo sự lựa chọn của tự mỗi người mà! Không
hiểu đúng ơn gọi sẽ không chọn đúng ơn gọi. Không chọn đúng, không thể nào sống
đúng! Và nỗi bất hạnh chắc chắn sẽ xảy ra,chỉ là sớm hay muộn thôi!
1) Hạnh phúc đâu chỉ
trong đời dâng hiến:
Lựa chọn nào cũng có
mất mát. Tuyển lọc nào cũng có rụng rơi. Hạnh phúc nào phải cũng trả giá. Mộng
mơ một hạnh phúc vẹn tuyền, toàn hảo, không đau đớn, không đánh đổi, không hy
sinh, là một ảo vọng! Ngay bước khởi đầu khi được Chúa gọi mời,với bản chất tự
nhiên và nhân bản,ai dám bảo bốn môn đệ tiên khởi đều thanh thản, vui vẻ, phấn
khởi lên đường liền? Cũng phải đớn đau từ giã mẹ cha. Cũng phải đắng lòng rời
con xa vợ. Cũng phải bịn rịn chia tay bạn hữu. Tình người chia cắt, phải dễ đâu
một sớm một chiều! Trình thuật của thánh Matthêu ngắn gọn (Mt 4, 18- 4,22),
nhưng sự lựa chọn của các ngài, quyết tâm theo Chúa của các ngài, bỏ lại sau
lưng tất cả thân bằng quyến thuộc của các ngài, thật không đơn giản chút nào
nếu ta đọc hết cả bốn tin mừng mà bốn thánh sử Matthêu, Maccô, Luca và Gioan đã
ghi lại. Không ít lần họ đã bị thử thách mà thử thách đến tận cùng: bằng chính
cái chết để thể hiện, để bảo vệ, để giữ trọn và để phát triển niềm tin của
mình.
Chúa gọi nhiều, chọn
ít! Ai cũng biết điều đó. Nhưng “ít” đây không có nghĩa là loại trừ nhóm không
được chọn! Với Chúa, mỗi người Chúa giao những nén bạc riêng, trong những hoàn
cảnh riêng, môi trường riêng, khả năng riêng. Hạnh phúc nhất chính là khi ta
tìm gặp niềm vui nơi chính ơn gọi, vị trí, chổ đứng của mình trong ý định của
Thiên Chúa với sự cộng tác tích cực của mình. Khi mình yêu thích công việc ấy
và biết chắc, dẫu lựa chọn đó sẽ có thể một lúc nào đó gây cho mình nhiều đớn
đau, nhiều buồn tủi, nhiều cam go, nhưng rồi mình sẽ đủ sức vượt qua vì tình
yêu và niềm vui đã đủ lớn để trợ lực cho sự lựa chọn của mình.
2) Hạnh phúc đâu chỉ
nếp sống hôn nhân:
Chỉ những ai đã từng
nếm trải cuộc sống hôn nhân mới cảm nghiệm rõ một điều: hôn nhân không chỉ toàn
là đóa hoa hồng hạnh phúc! Mà trong đó cũng có đủ vị cay đắng ngọt bùi! Không
ít người đã quyết tâm hiến dâng đời mình để phục vụ Chúa và tha nhân trong nếp
sống tu trì, nhưng rồi nữa đường gãy gánh, vì không lường trước hết cái giá
phải trả của nếp sống ấy. Bởi một chút nản chí sờn lòng vì nhiệt tình phục vụ
của mình không được đón nhận hay đáp ứng một cách tích cực, không cậy nương vào
Chúa, không đủ tình với Chúa… Bến bờ tựa nương của họ sẽ là những luật bù trừ:
đặt tình yêu của mình vào một đối tượng khác! Để rồi khi cơn khủng hoảng dịu
lại,qua đi, hiểu được chuyện thì đã muộn màng! Bởi họ không lường trước được:
hôn nhân đâu chỉ là những đóa hồng tươi! Gặp lúc nắng, hồng tươi cũng héo!
Ngay thuở ban đầu,
Chúa đã liên kết con người bằng tình yêu giới tính, bằng kết hợp âm dương, bằng
tình yêu nam nữ. Chính ơn gọi đó đã dẫn dần đến ơn gọi hiến dâng. Ai sống đúng
ơn gọi của mình, người đó sẽ tìm thấy hạnh phúc đích thực! Dù ơn gọi gia đình
hay ơn gọi dâng hiến, cái nào cũng có niềm vui và nỗi buồn, đắng cay và ngọt
dịu, khó khăn và dễ dàng của nó. Miễn là ta thực sự yêu chính đời sống của ơn
gọi đó, thì mầm hạnh phúc không ở đâu xa.
3) Hạnh phúc còn ở
nhiệm vụ Chúa trao:
Ơn gọi hiến dâng, ơn
gọi gia đình, là những ơn gọi đặc biệt mà Chúa trao ban và ta tự đón nhận để
tìm hạnh phúc cho đời mình. Đã chọn, đừng luyến tiếc! Đã chọn, đừng “bắt cá hai
tay”! Đã chọn, đừng ngậm ngùi tủi phận, đừng ân hận dày vò, đừng đắn đo ngó
lại! Hạnh phúc nhất là hiểu đúng lời Chúa dạy! Sống đúng lời Chúa trao! Làm
đúng lời Chúa dặn! Không dễ, cũng không khó, nếu ta biết: hạnh phúc thật của
đời ta không có điểm dừng, điểm tận cùng, điểm kết thúc ở đời này, mà là ở cuộc
đời mai hậu.
Làm tròn bổn phận và
tìm được niềm vui trong bổn phận, đó đã là hạnh phúc!
Chu toàn nhiệm vụ được
giao,là ta đã đáp ứng thật tâm lời mời gọi của Chúa: “Các anh hãy theo tôi, tôi
sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá” (Mt 4,19). Bài ca sứ
vụ loan báo Tin Mừng Nước Trời của một ngư phủ chuyên nghiệp, của một thợ vườn
nho lành nghề chính là đời sống tỏa rạng niềm vui và hạnh phúc trong chính đời
sống chứng nhân nơi ơn gọi mà mình đang sống, làm tròn những bổn phận: chủ chăn
nơi cộng đoàn đức tin, cha mẹ con cái trong gia đình, ban mục vụ, ban hành
giáo, ca đoàn, lễ sinh, giáo dân trong giáo xứ và thấy mình luôn bình an, luôn
hạnh phúc dù gặp không ít những trắc trở khi sống khi thực hiện những nhiệm vụ
đó, là mình đã không bị lệch hướng trên con đường đáp lại lời Người!
20. Mọi người là con Chúa cả!
(Suy niệm của Lm.
Antôn Nguyễn Văn Tiếng)
Những chuyến đi của
con người …
Thuở ban đầu, Thiên
Chúa tạo dựng con người có nam có nữ, Ngài đặt tên cho họ là Adam và Eva. Đó là
cộng đồng Dân Chúa đầu tiên, là xã hội đầu tiên của nhân loại. Con người được
sống trong một môi trường bình an và hạnh phúc.
Nhưng con người đã bỏ
Chúa mà đi.
“Người đàn bà thấy
trái cây đó: ăn thì phải ngon, trông thì đẹp mắt, và đáng quý vì làm cho mình
được tinh khôn. Bà liền hái trái cây mà ăn, rồi đưa cho cả chồng đang ở đó với
mình; ông cũng ăn. Bấy giờ mắt hai người mở ra, và họ thấy mình trần truồng: họ
mới kết lá vả làm khố che thân.
Nghe thấy tiếng Đức
Chúa là Thiên Chúa đi dạo trong vườn lúc gió thổi trong ngày, con người và vợ
mình trốn vào giữa cây cối trong vườn, để khỏi giáp mặt Đức Chúa, là Thiên
Chúa. (St.36-8).
Đó là chuyến đi đầu
tiên của con người rời xa Chúa. Chuyến đi nội tâm đầy bất an và bất hạnh. Chúa
vẫn ở bên con người, nhưng lòng con người đã khác, khoảng cách với Thiên Chúa
đã xa. Và những ngày đầm ấm hạnh phúc bên Thiên Chúa đã lùi vào dĩ vãng.
“Đức Chúa là Thiên
Chúa đuổi con người ra khỏi vườn Ê-đên để cày cấy đất đai, từ đó con người được
lấy ra. Người trục xuất con người, và ở phía đông vườn Ê-đên, Người đặt các
thần hộ giá với lưỡi gươm sáng lóe, để canh giữ đường đến cây trường sinh. (St.3,23-24).
Và dòng đời cứ thế
trôi đi …
Con người lại tiếp tục
vương những lỗi lầm, tiếp tục có những chuyến đi lìa xa Tình Chúa. Mầm móng
kiêu căng và tham vọng tiếp tục sinh sôi nẩy nở trong thế giới nội tâm con
người, Máu và nước mắt, khổ đau và tuyệt vọng tiếp tục tràn lan trong kiếp sống
nhân sinh!
Đức Chúa phán với
Ca-in: “Aben em ngươi đâu rồi?” Ca-in thưa: “Con không biết. Con là người giữ
em con hay sao?” Đức Chúa phán: “Ngươi đã làm gì vậy? Từ dưới đất, tiếng máu
của em ngươi đang kêu lên Ta! Giờ đây ngươi bị nguyền rủa bởi chính đất đã từng
há miệng hút lấy máu em người, do tay ngươi đổ ra” (St.4,9-11).
Con người càng lúc
càng lún sâu vào những suy nghĩ và hành động đen tối, tiến dần đến thái độ chối
từ và chống lại Thiên Chúa. Và cũng vì thế, con người càng chia rẻ, phân tán.
Không còn một nhân loại hiệp nhất, đệ huynh, quây quần bên Thiên Chúa.
“Nào! Ta hãy xây cho
mình một thành phố và một tháp có đỉnh cao chọc trời. Ta phải làm cho danh Ta
lẫy lừng, để khỏi bị phân tán trên khắp mặt đất”.
Đức Chúa xuống xem
thành và tháp con cái loài người đang xây. Đức Chúa phán “Đây, tất cả chúng nó
họp thành một dân, nói một thứ tiếng. Chúng mới khởi công mà đã như thế thì từ
nay, chẳng có gì chúng định làm mà không làm được. Nào! Ta xuống và làm cho
tiếng nói của chúng phải xáo trộn, khiến chúng không ai hiểu ai nữa”. Thế là
Đức Chúa phân tán họ từ chỗ đó ra khắp nơi trên mặt đất, và họ phải thôi không
xây thành phố nữa. Bởi vậy, người ta đặt tên cho thành ấy là Ba-ben, vì tại đó,
Đức Chúa làm cho xáo trộn tiếng nói của mọi người trên mặt đất, và cũng từ chỗ
đó, Đức Chúa đã phân tán họ ra khắp nơi trên mặt đất”. (St.11,3-9).
Và, con người mất dần
hình ảnh Thiên Chúa trong lòng họ. Dần dần họ là trở thành Dân Ngoại, không còn
niềm tin vào Thiên Chúa.
Cũng có những cuộc tìm
về Thiên Chúa, nhưng hình ảnh Thiên Chúa đã bị hiểu sai lầm, lệch lạc, mờ ảo,
nhạt nhòa.
Cũng có những cuộc tìm
về Thiên Chúa với tấm lòng thành tâm, thiện chí, nhưng không biết con đường,
không nhận ra hướng đi.
Cũng có những cuộc tìm
về Thiên Chúa, nhưng niềm tin hòa lẫn cùng lợi lộc thế tục. Trắng đen, hư thực
pha trộn, không biết đâu là chánh, đâu là tà!
Những chuyến đi của
Thiên Chúa…
Ngay từ buổi ban đầu,
sau khi con người sa ngã, Thiên Chúa vẫn yêu thương con người, dù rằng con
người đã phản bội Thiên Chúa với quyền tự do chọn lựa của mình.
“Ta sẽ đặt hận thù
giữa ngươi và người đàn bà, giữa dòng giống ngươi và dòng giống nó. Dòng giống
nó sẽ đạp đầu ngươi, còn ngươi sẽ táp lại gót chân” (St.3,15).
Để thực hiện chương
trình cứu chuộc con người, Thiên Chúa đã chọn cho mình một “Dân riêng” để chuẩn
bị một chuyến đi viếng thăm nhân loại. “Thiên Chúa xuống thế làm người và ở
cùng chúng ta”.
Hạnh phúc thay quốc
gia được Chúa làm Chúa Tể. Hạnh phúc thay dân nào Người chọn làm gia nghiệp.
(Tv.33,12).
Và, Ơn Cứu Độ đã đến
với mọi nước, mọi dân, khởi đi từ Do Thái, dân riêng của Chúa.
Vì Ơn Cứu Độ là của
mọi dân tộc, là của con người, Chúa Giêsu không thể chấp nhận sự tự hào đến mức
kiêu căng tự phụ của Do Thái, đặc biệt là những người Pha-ri-sêu về việc họ là
dân riêng của Chúa. Thái độ ấy dẫn đến hình ảnh một Thiên Chúa chỉ biết đến họ
vì chỉ có họ mới xứng đáng và loại trừ tất cả mọi dân tộc khác, những dân tộc
mà người Do Thái liệt vào dân ngoại và không được Thiên Chúa đoái thương.
“Thưa ông, tôi thấy
ông thật là một ngôn sứ… Cha ông chúng tôi đã thờ phượng Thiên Chúa trên
núi này; còn các ông lại bảo: Giê-ru-sa-lem mới chính là nơi phải thờ phượng
Thiên Chúa”. Chúa Giêsu phán:“này chị, hãy tin tôi: đã đến giờ các người sẽ thờ
phượng Chúa Cha không phải trên núi này hay tại Giê-ru-sa-lem. Các người thờ
Đấng các người không biết; còn chúng tôi thờ Đấng chúng tôi biết, vì ơn cứu độ
phát xuất từ dân Do Thái. Nhưng đã đến giờ - và chính là lúc này đây – giờ
những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự
thật, vì Chúa Cha tìm kiếm những ai thờ phượng người như thế. (Ga 4,19-23).
Chúa Giêsu đã đến với
mọi người. Thiên-Chúa-làm-người cứu độ tất cả mọi chúng sinh tin tưởng vào
Ngài. Ngài là ánh sáng muôn dân. Ngài đem đến cho nhân loại hình ảnh Thiên Chúa
là Cha và rất mực yêu thương con người.
Hỡi Galilê, miền đất
của dân ngoại! Đoàn dân đang ngồi trong cảnh tối tăm đã thấy một ánh sáng huy
hoàng, những kẻ đang ngồi trong vùng bóng tối của tử thần nay được ánh sáng
bừng lên chiếu rọi. (Mt.4,15-16).
Và, Chương Trình Cứu
Độ được tiếp tục mãi cho đến ngày Chúa đến. Chúa Giêsu đã tuyển chọn 12 môn đệ
tiếp tục sứ mạng loan báo Tin Mừng Tình Thương của Thiên Chúa đối với con
người. Sứ mạng ấy cũng chính là sứ mạng đem mọi người về với Chúa, đem mọi
người trở về địa vị cao cả nhất và nhân bản nhất, đó là được làm con Thiên
Chúa.
Có một chuyến đi quyết
định, đó là chuyến đi của “Thiên Chúa viếng thăm dân người”. Đó là chuyến đi
khởi đầu cho những chuyến đi trên mọi miền đất nước Do Thái.
“Đức Giêsu đi khắp các
thành thị, làng mạc, giảng dạy trong các hội đường của họ, rao giảng Tin Mừng
Nước Trời và chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền. Đức Giêsu thấy đám đông, Người
chạnh lòng thương, vì họ lầm than vất vưởng, như bầy chiên không người chăn
dắt. Bấy giờ Người nói với các môn đệ rằng: “Lúa chín đầy đồng, mà thợ gặt thì
ít. Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về”. (Mt. 9,35-38).
Và, bước theo Thầy Chí
Thánh, các môn đệ tiếp nối sứ mạng của Chúa Giêsu, nhân danh Ngài, các ông đã
thực hiện những chuyến đi đến khắp cùng bờ cõi trái đất để làm chứng nhân cho
Giêsu, Đấng quy tụ nhân loại về một mối.
“Anh em hãy đi khắp tứ
phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo” (Mc.16,15).
Tất cả, là vì mục
đích: “muôn dân được thuộc về Chúa”, con người được trở về thuở ban đầu: “được
làm con cái Chúa”.
Cuộc hành trình niềm
tin chỉ cần sám hối và tin vào Chúa Giêsu, Đấng dẫn dắt chúng ta về với Chúa
Cha, bến bờ hạnh phúc trong Vương Quốc Tình Yêu của Thiên Chúa.
“Thầy đã được trao
toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành
môn đệ, làm làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con, và Chúa Thánh
Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở
cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”(Mt.28, 18-20).
Cuộc trở về của con
người.
Vườn Địa Đàng ngày
nào, sau bao nhiêu năm “lưu lạc”, con người được quay trở về, được sống trong
Tình Cha - Miền Đất Hứa - sau một đời lâm lụy ở trần gian.
Không còn là Dân
Ngoại, Dân Riêng, tất cả là một trong Tình Yêu Thiên Chúa, nhờ Đức Giêsu Ki-tô,
con người được quay quần trong thế giới yêu thương huynh đệ. Không có con đường
nào khác ngoài con đường Tình Yêu mà Thiên Chúa đã vạch ra cho loài người.
Tất cả chúng ta, dầu
là Do Thái hay Hy Lạp, nô lệ hay tự do, chúng ta đều chịu phép rửa trong cùng
một thần khí để trở nên một thân thể (1Cr.17,21).
Đó là ước mơ của cả
nhân loại sống hòa bình, hiệp nhất trong một Chân Lý Tình Yêu. Đó là Vườn Địa
Đàng tìm thấy, hạnh phúc vô biên mà con người đã đánh mất ngày nào.
Chỉ một Chúa, một đức
tin, một phép rửa. Chỉ có một Thiên Chúa, Cha của mọi người, Đấng ngự trên mọi
người và trong mọi người. (Ep.4,5-6).
Lạy Chúa,
Xin cho niềm tin vào
Giêsu được lan tràn khắp địa cầu,
Xin cho mọi người
chúng con
can đảm loan truyền
niềm tin vào Thiên Chúa,
Xin hiệp nhất chúng con
nên một,
trong tình yêu của
Ngài. Amen.
21. Được gọi – Mar. Phạm Hoàng Đăng
Bài Tin Mừng ngày hôm
nay được chia làm ba phần khác nhau, nhưng đều có mối liên kết cuối mỗi phần để
tạo nên một bức tranh đẹp trong sứ vụ của người mục tử đang trên hành trình tìm
kiếm đàn chiên của mình.
- Chúa Giêsu rao giảng
– Ngài bắt đầu sứ vụ của Ngài
- Chúa Giêsu gọi các
môn đệ đầu tiên – Ngài chọn những trợ tá xứng đáng cho Ngài.
- Và Chúa Giêsu tiếp
tục rao giảng – nhưng thêm một chi tiết nữa, đó là chữa bệnh và trừ quỷ.
Cả ba phần đều chứa
đựng nhiều cảm xúc của nguời đọc về lòng nhân từ, yêu thương của Chúa. Mọi
người bị cuốn vào phần đầu tiên và phần thứ ba nhiều hơn khi Chúa rao giảng,
chữa bệnh và trừ quỷ. Nhưng điểm chính trong bản văn Tin Mừng hôm nay lại ở phần
giữa, phần mà Chúa gọi những môn đệ đầu tiên.
Lẽ dĩ nhiên không đơn
giản mà đường đột Chúa đến gọi các vị ngư phủ mà họ theo, dễ gì phải không.
Chúa Giêsu, Ngài biết rõ những nguời mình sẽ gọi là ai, gia cảnh thế nào. Đơn
giản là trong những thời gian rao giảng xung quanh vùng biển hồ Galilê này,
Người đã quan sát, đã nhận biết đối tượng mà Người sẽ chọn lựa là ai. Và dĩ
nhiên ở chiều ngược lại, các ngư phủ cũng biết rõ về cái ông tên Giêsu mà hay
đi lang thang dọc bờ biển rao giảng điều tốt lành đó như thế nào, ra sao,…hai
bên đã hiểu nhau và giờ chỉ còn chờ một mẫu số chung nữa mà thôi.Rồi thì một
ngày đẹp trời nọ, giữa họ đã có mẫu số chung, một mẫu số hoàn hảo.
Bản văn của Matthew
không chỉ được đọc và nhìn như là việc gọi đơn thuần, nhưng cần phải được mỗi
người để ý và khoanh tròn những động từ có sức cuốn hút mãnh liệt dành cho
chính bản thân mỗi người đọc.
“ Thấy, gọi, bỏ, theo”
Những động từ dứt
khoát, không do dự từ nơi người gọi và cả người được gọi. nhữngđộng từ đọng lại
những suy tư trăn trở cho bất kỳ người Kitô hữu nào, trong bất kỳ bậc sống nào
khi đã hiểu những động từ này gắn liền với cuộc đời mình.
Vợ chồng được Chúa
thấy và mời gọi họ vào đời sống hôn nhân, và họ cần dám từ bỏ những ích kỷ,
ghen tương, mâu thuẫn gia đình mà theo lẫn nhau. Theo với lời hứa chung thuỷ mà
họ từng cầm tay nhau thề hứa trước Chúa. Theo để tha thứlầm lỗi cho nhau, để
yêu thương và tôn trọng nhau mọi ngày suốt đời nhau.
Ở ơn gọi tu trì hay
đời sống độc thân thì lời mời gọi nơi những động từ ở bài đọc hôm nay càng đuợc
hiểu và đáp trả mãnh liệt hơn. Chúa đã thấy và mời gọi, Ngài gọi bằng tình yêu,
bằng cái nhìn êm ái…và sự đáp trả để được nên thánh cũng bằng những động từ dứt
khoát “Bỏ và Theo”. Bỏ -bỏ mọi sự- như ta biết rằng Thánh Phêrô cũng có gia
đình, có vợ, con. Nhưng trong bản văn hôm nay thì ta thấy được một cụm từ “ lập
tức bỏ” sự từ bỏ không lưu luyến, không vấn vương mà là “ lập tức”- rất
dứt khoát.
Cũng có thể là đằng
sau đó là một cuộc chia tay, cuộc gặp gỡ ngắn gọn, nhẹ nhàng “ em ở lại, anh đi
nhé…”của Thánh Phêrô. Nhưng thực tế cho thấy một sự quyết định dứt khoát theo
Chúa của Thánh nhân. Tương tự như với anh em của Giacôbê và Gioan, lại cụm từ “
lập tức bỏ” xuất hiện. hai anh em ông này cũng dứt khoát bỏ thuyền- vật
chất thế gian, bỏ cha- tình thân ruột thịt mà đi theo Chúa.
Gần như chắc chắn sẽ
có nhiều người phản ánh sự dứt bỏ phũ phàng của các ông. Nhưng điều cốt yếu ở
đây và sự khẳng định cụ thể là các ông đã từ bỏ, từ bỏ thật sự để bôn ba cùng
Thầy Giêsu. Sự bôn ba bắt nguồn từ việc họ đã được thấy và được gọi. Ánh mắt
nhìn mãnh liệt và lời gọi êm ái nhưng dứt khoát.
Ngày nay, những động
từ trên cũng vẫn tiếp tục được nhắc đến trong mỗi bậc sống của mỗi người chúng
ta. Mỗi người được gọi, gọi từ ngàn xưa vì tình yêu bao la của Chúa. Người được
gọi không có gì- không cần phải là đại gia, quan chức, nhưng là bất kỳ ai và vì
họ xứng đáng được gọi. Lời mời gọi và đáp trả là của mỗi cá nhân. Chỉ khi bỏ và
theo từ khi họ được thấy và được gọi thì họ mới nhận ra rằng họ được Thiên Chúa
mời gọi. Cứ như càng học, càng quên, khi theo –khi đáp trả thì mới ngộ ra rằng
mình đã theo. Và sự theo được thể hiện nơi lòng trung tín, yêu thương và tha
thứ cho nhau trong mỗi bậc sống của mỗi người.
ĐỨC KITÔ Ở NƠI NÀO MÀ
KHÔNG CÓ AI BỊ LOẠI TRỪ CẢ
Matthêu thích tạo nên
những toàn thể. Trước khi cống hiến cho chúng ta Bài Giảng Trên Núi đầy ấn
tượng, ngài tổng hợp công việc truyền giáo của Chúa Giêsu trong cái bước đầu
nhiều sóng gió, trong đó cái nhìn khám phá ra những chân trời càng ngày càng
rộng lớn hơn. (Tôi đọc đến đoạn 23 bởi vì cắt đứt một bố cục hoàn toàn như vậy
là điều đáng tiếc).
Động thái thứ nhất: Chúa Giêsu lui
về Galilê, rời Nagiarét để lấy Caphanaum làm cơ sở hoạt động và bắt đầu giảng
dạy.
Động thái thứ
hai: Chúa Giêsu đi trên bờ hồ và nói với bốn người: “Hãy theo Ta, Ta
sẽ làm cho các con trở thành những kẻ đánh lưới người. Từ bỏ tất cả, họ theo
Ngài”. Thế là khai sinh một Giáo Hội có bản chất truyền giáo.
Động thái thứ ba: Ngài rảo “khắp”
miền Galilê. “Khắp” là từ mấu chốt. “Danh tiếng của Chúa Giêsu đồn ra khắp miền
Syri; người ta đem đến cho Ngài tất cả những ai đau ốm; rất nhiều người theo
Ngài”. Tầm nhìn không ngừng mở rộng ra và lời trích dẫn tiên tri Isaia rất có ý
nghĩa: “Galilê của các dân tộc!”.
Galilê là ngã ba đường
nơi có nhiều người qua lại, người ngoại giáo sống lẫn lộn với người Do Thái.
Trong khi xác định rằng Chúa Giêsu chọn Galilê để truyền giáo, Matthêu muốn lưu
ý ngay tầm vóc của sự cứu độ của Đấng Cứu Thế. Trước tiên được dành riêng cho
người Do thái, sự cứu độ sẽ lan tỏa tới tất cả mọi người.
“Ánh sáng đã xuất hiện
trên những người ngồi trong bóng tối và sự chết”.
Trước khi lắng nghe
chi tiết những lời nói của Chúa Giêsu trước khi xem Ngài hành động, sự suy niệm
của chúng ta cần phải có tầm cỡ cần thiết để không bao giờ thu hẹp bất cứ cái
gì thuộc về sự cứu độ. Tôi không biết đã đọc ở đâu: “Chúa Kitô ở nơi nào mà
không có gì đóng kín, nơi mà không có người nào bị loại trừ”. Tôi vui mừng,
nhưng sau đó cảm thấy nực cười: trong lịch sử, nhân danh chính Chúa Kitô, có
biết bao nhiêu là bức tường và biết bao nhiêu sự loại trừ.
Những người trẻ tuổi
khó mà hiểu được những chia rẽ giữa những người Kitô hữu và những hình thức
loại trừ. Ít nhất trên đểm này họ là những người thầy của chúng ta do sự cảm
nhận Tin Mừng tế nhị hơn của họ. Biết bao lần tôi đã nghe những người Kitô hữu
ở tuổi trưởng thành tỏ ra khinh bỉ một loại người nào đó. Họ nói “Bọn họ!”.
Giống như thể có những người được Chúa thương riêng, những người Công Giáo và
nhất là những người hành đạo, sau đó là vô số người bị Chúa quên lãng, những
người mọi rợ, những quái nhân, những kẻ vô luân, những kẻ không tin có Chúa.
Không, “không tin có
Chúa” chỉ có nghĩa khi nói về những người từ chối Thiên Chúa (nhưng họ từ chối
Thiên Chúa nào?). Trước mặt Chúa, chỉ có những con cái của Ngài mà thôi. Điều
này có khó chấp nhận hay không? Do đâu mà có sự loại trừ cuồng nhiệt như thế?
Có thể là do quan niệm
“dân tộc được chọn” ít được giải thích cho sáng tỏ. Ở đây, tôi sẽ không tránh
né một câu hỏi làm tôi luôn bối rối: ‘tại sao có sự chọn lựa của Thiên Chúa’.
Tôi thường gặp câu hỏi này trong những bài phỏng vấn tôi, khi thì dưới dạng một
sự khắc khoải, khi thì đầy tức giận. Người ta nói với tôi: ‘Bạn được sinh ra
trong một gia đình Công Giáo, còn tôi được sinh ra trong một gia đình cộng sản
triệt để vô thần. Do đó bạn có đức tin, còn tôi thì không. Tại sao Chúa của bạn
cho những người này tất cả còn những người khác thì không cho gì hết?’. Tôi
không trả lời được. Tôi không biết tại sao thế giới được chia ra thành người Do
Thái, người Kitô hữu, người Hồi Giáo, người Phật Giáo, người theo thuyết không
thể biết và người vô thần.
Tôi có thể nói lên hai
điều. Trước hết khẳng định rằng Chúa ban tất cả hoặc không ban gì hết là sai.
Những điều Ngài cho thì khác nhau và Ngài để cho những khác biệt đó hoạt động.
Tạo vật của Ngài là một thế giới những sự khác biệt. Những nơi nào có con người
hiện hữu thì nơi đó Chúa để mắt nhìn đến người đó. Ngài ban cho người đó những
ơn sủng phù hợp với điều người đó làm nhằm hoàn thành nhiệm vụ làm người của
họ, cho dù người đó sống vào thời kỳ nào, ở đâu và có nền văn hoá nào.
Tiếp đến, tất nhiên đã
có một dân tộc được chọn: dân tộc Do Thái. Và một dân tộc thứ hai được chọn, đó
là những người Kitô hữu nối tiếp dân tộc Do Thái (Matthêu nhấn mạnh rất nhiều
trên sự liên tục này). Chúa Giêsu là Đấng Cứu thế được các sứ ngôn loan báo.
Ngài là Môisê mới của một dân tộc không biên giới. Người Kitô hữu chỉ được cứu
độ để trở thành những kẻ cứu độ, để trở thành những dấu chỉ của sự cứu độ của
Chúa Giêsu Kitô được trao ban và được sống bằng nhiều cách mà không có kẻ nào
bị loại trừ cả.
Ý tưởng Thiên Chúa là
Cha của tất cả mọi người sẽ giúp chúng ta tránh được việc co mình lại cố thủ và
loại trừ. Chúng ta chỉ có quyền gọi Chúa Giêsu là “Đấng Cứu độ chúng con” nếu
điều đó muốn nói với chúng ta: Đấng Cứu độ mọi người. Trong miền Galilê của các
dân tộc đã bắt đầu một sự quy tụ mà không ai có quyền giới hạn cả.
23. Nước Trời đang đến
(Suy niệm của Lm Giuse
Nguyễn Văn Nghĩa)
Không thể phủ nhận một
trong những chủ đề chính của lời rao giảng của Chúa Kitô đó là “hãy ăn năn sám
hối” (x.Mt 4,17; Mc 1,15). Sám hối ăn năn không chỉ là nhìn nhận sự sai lầm
trong thái độ, hành vi của mình, cũng không chỉ là ân hận về những lầm lỗi mình
đã phạm, nhưng còn là một sự thay đổi tận căn lối sống của mình. Các nhà chú
giải Kinh Thánh thường phân tích hạn từ “Metanoia”, nghĩa là nghĩ khác trước,
đổi ý, đổi tâm tình, đổi não trạng…để khẳng định ăn năn sám hối là thay đổi
cách ăn, nếp ở, thay đổi hướng đi, để trở về với Thiên Chúa, sống theo đường
lối Thiên Chúa chỉ dạy.
Làm cho một người thay
đổi lối sống quả là không dễ chút nào, nhất là khi lối sống ấy đã trở thành nếp
do một quá trình hình thành từ lâu. Tuy nhiên, với Thiên Chúa thì mọi sự đều là
có thể. Và một phương thế Thiên Chúa đã thực thi đó là chiếu giải ánh sáng tình
yêu diệu kỳ. Sứ ngôn Isaia đã loan báo xưa: “Dân đang lần bước giữa tối tăm đã
thấy một ánh sáng huy hoàng…”(Is 9,1). Ánh sáng ấy chính là tình yêu, là ân
sủng mà Thiên Chúa đổ xuống trên họ, khi cho họ thoát khỏi ách gông cùm nô lệ.
Thánh sử Matthêu đã lấy lại lời của sứ ngôn Isaia để áp dụng vào trường hợp dân
chúng vùng Capharnaum, những người đang hưởng phúc lành của Chúa Giêsu, Đấng đi
đến đâu thì giáng phúc thi ân đến đó (x.Cvtđ 10,38).
Để mời gọi các nhà lãnh
đạo cũng như dân chúng sám hối ăn năn, thay đổi đời sống, thì các ngôn sứ ngày
xưa thường nghiêng chiều việc cảnh báo về các tai hoạ do Thiên Chúa sẽ đoán
phạt nhiều hơn là tình yêu và lòng từ nhân của Thiên Chúa. Vị ngôn sứ cuối cùng
của Cựu ước là Gioan tẩy giả cũng như vậy. Ngài nghiêm nghị cảnh báo nhiều
người thuộc phái Pharisiêu và phái Sađốc: “Hỡi nòi rắn độc kia, ai đã chỉ cho
các anh cách trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống…cái rìu đã đặt
sát gốc cây: bất cứ cây nào không sinh quả tốt đều bị chặt đi và quẳng vào lửa”
(Mt 3,7-10, x.Lc 3,7-18).
Chúa Giêsu thì trái
lại, Người chủ yếu mạc khải về tình yêu vô bờ của Thiên Chúa để con người cảm
mến, tin tưởng trở về. Các Tin Mừng Nhất lãm tường thuật lời rao giảng của Chúa
Giêsu khi Người khởi đầu sứ vụ như sau: “Thời kỳ đã mãn, và Triều đại Nước
Thiên đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” (Mc 1,15); “Anh em
hãy sám hối vì Nước Trời đã đến gần” (Mt 4,17); “Hôm nay ứng nghiệm lời Kinh
Thánh quý vị vừa nghe đó là: ‘Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu
tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người sai tôi đi công
bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả
lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Thiên Chúa” (Lc
4,18-19). Tin Mừng thứ tư thì tuờng thuật việc Chúa Giêsu hoá nước thành rượu
ngon tại một tiệc cưới ở Cana cho dù trước đó Người nói rằng giờ của Người chưa
đến (x.Ga 2,1-12).
Trời càng sáng thì
những chỗ bẩn, chỗ nhơ càng lộ rõ. Ân phúc của Thiên Chúa là ánh sáng giúp con
người nhận ra thân phận tội lỗi của mình. Hơn thế nữa, tình yêu của Thiên Chúa
chính là ánh sáng dẫn đưa con người quay bước trở về. Khi biết mình được yêu,
được tha thứ, được đón nhận thì tội nhân sẽ can đảm chỗi dậy và đổi thay. Trên
con đường chiếu giải ánh sáng thiên linh, Chúa Giêsu mời gọi một số người cộng
tác là các tông đồ, các môn đệ. Người đã sai các vị đi rao giảng Tin Mừng Nước
Trời bằng việc chữa lành bệnh tật, xua trừ ma quỷ và chia sẻ ơn bình an (x.Mt
10,1-16).
Thiên Chúa yêu thế
gian đến nỗi đã ban và sai Con của Người đến thế gian không phải để luận phạt
thế gian nhưng để những ai tin vào Con của Người thì được sống muôn đời (x.Ga
3,16-17). Đến thế gian, một trong những sứ mạng chính yếu của Chúa Kitô đó là
mạc khải chân dung Thiên Chúa là Cha toàn năng, Đấng đầy quyền năng và cũng là
Đấng toàn thiện, toàn hảo, Đấng không chỉ “không dập tắt tim đèn còn khói,
không bẻ gảy cây lau bị giập” mà còn “cho mưa rơi đều trên người lành lẫn kẻ
bất lương, cho mặt trời mọc lên soi sáng người công chính lẫn tội nhân”, Đấng
khộng chỉ sẵn sàng bỏ chín mươi chín con chiên trên núi để đi tìm một con chiên
lạc đàn mà còn sẵn sàng giang rộng cánh tay đón nhận đứa con đi hoang trở về,
cho dù lý do nó trở về là để kiếm chút cơm canh lót dạ mà thôi (x.Mt 6,43-45;
Lc 15).
Có thể nói rằng đường
lối của Thiên Chúa chủ yếu là tỏ bày tình yêu để con người cảm mến, tin tưởng
mà hoán cải, đổi thay. Tuy nhiên chúng ta cũng có thể nhận ra đây là đường lối
chung của Thiên Chúa dành cho người bé mọn, kẻ yếu đuối, người tội lỗi, thấp
hèn. Còn với một số ít người xem ra cố chấp, tự hào về tài năng, chức quyền hay
về chút công trạng của mình mà ở lỳ trong tội, thì Chúa Kitô có vẻ nghiêm khắc
cách khác thường. Nhiều người biệt phái, luật sĩ hay tư tế Do Thái thời bấy giờ
ở trong trường hợp này. Và Chúa Kitô đã dùng những kiểu nói đanh thép để cảnh
tỉnh họ như “khốn cho các nguơi”, hay “vô phúc cho các ngươi” (x.Lc 6,24-26;
11,37-52; Mt 23,1-36).
Cũng như các môn đệ
năm xưa, chúng ta hôm nay được Chúa Kitô mời gọi làm kẻ chài “lưới người như
lưới cá”. Để mời gọi tha nhân hoán cải ăn năn không gì hơn là hãy cho họ thấy
Nước Trời đang ở giữa họ (x.Lc 17,21), tức là nỗ lực dệt xây một môi trường
sống trong tình thương và chân lý, trong bình an và sự liên đới hiệp thông,
thoát khỏi vòng kiềm tỏa của thần dữ. “Nếu Tôi dùng ngón tay Thiên Chúa mà trừ
quỷ thì quả là Triều Đại Thiên Chúa đã đến giữa các ông” (Lc 11,21). Khi chúng
ta tích cực gieo rắc ân tình, thì một cách nào đó, chúng ta làm cho người yếu đuối,
kẻ tội lỗi nhận biết họ vẫn được yêu thương, được đón nhận. Tuy nhiên, chúng ta
cũng đừng quên mạnh mẻ cảnh báo những ai vì quá tham danh, hám lợi hay vì cao
ngạo mà cố chấp và cố tình ở lỳ trong tội, đồng thời gây cớ vấp phạm cho kẻ bé
mọn, gây thiệt hại cho những người cô thân, phận bé. Nước Trời thường được Chúa
Giêsu ví như bữa tiệc đầy sơn hào hải vị mà Thiên Chúa ban cách nhưng không
(x.Mt 22,1-10), nhưng Nước Trời cũng được ví như tấm lưới kéo từ biển lên, cá
tốt thì cho vào giỏ, còn cá xấu thì bị vứt ra ngoài (x.Mt 13,47-48).
ĐỨC KITÔ GỌI ĐÍCH DANH
TÊN CỦA CHÚNG TA NƠI PHÉP RỬA TỘI
(Trích trong ‘Mở Ra
Những Kho Tàng’ - Charles E. Miller)
Ngày hôm nay thánh
Matthêu thuật lại cho chúng ta việc Chúa Giêsu kêu gọi một số tông đồ. Ngài có
thể kể câu chuyện này cách chung chung, nghĩa là chỉ thông báo cho chúng ta
biết Chúa Giêsu tụ họp một số môn đệ ở chung quanh Người, thay vì ngài trình
bày như thế, thánh Matthêu đã cho chúng ta biết tên của các vị tông đồ được Chúa
Giêsu kêu gọi. Các tông đồ đó là Simon (sau này tên là Phêrô) và Andrê em của
ông. Giacôbê và Gioan em ông. Có một điều gì đó đặc biệt nơi cái tên của chúng
ta.
Trên một “sô” diễn
trên tivi, có một bài hát diễn tả tình cảm thật đẹp khi chúng ta đi đến một nơi
mà mọi người đều biết tên của bạn. Thật hồi hộp và cảm động biết bao khi bốn
người dánh cá nghe thấy Chúa Giêsu gọi tên họ, mời gọi họ đi theo Người. Họ
phải bịn rịn lắm khi từ bỏ nghề nghiệp, gia đình và nhà cửa để đi theo Chúa
Giêsu. Họ đã thấy nơi Chúa Giêsu có điều gì đó rất khác với những chứng nhân
trước đó. Phải có ánh sáng đức tin trợ giúp họ, để họ nhìn thấy Chúa Giêsu thật
sự là Con Thiên Chúa. Nhưng lúc ban đầu ánh sáng ấy không mạc khải cách kỳ diệu
như tiên tri Isaia đã tiên tri khi ông viết: “Dân chúng đi trong tối tăm nay đã
thấy ánh sáng lớn lao”. Nhưng đó mới chỉ là một ánh sáng mờ nhạt, một ánh sáng
cho phép họ có những lúc vẫn còn nghi ngờ ở Chúa Giêsu, có lúc còn chối Chúa,
hay bỏ rơi Chúa trong cuộc thương khó của Người. Nhưng ánh sáng đó không hề tắt
bao giờ. Đúng hơn, nó đang dần dần lớn lên và khi Chúa Thánh Thần ngự đến vào
ngày lễ Hiện Xuống, ánh sáng đó đã trở thành một ngọn lửa chiếu sáng và ấm áp.
Sự tận tuỵ đã thay đổi sự nghi hoặc.
Những điều đó cũng đã
xảy ra cho chúng ta như thế. Qua Giáo Hội, lúc chúng ta chịu phép rửa tội, Đức
Kitô đã gọi đích danh tên của mỗi người chúng ta. Người nói qua giọng vị linh
mục: “Anna (hoặc Anrê) Linh (hoặc Long) (hay bất cứ tên nào) Cha rửa con nhân
danh Cha và Con và Thánh Thần”. Chúng ta được trao cho một ngọn nến cháy sáng,
biểu hiện cho đức tin của chúng ta. Cho dù lúc đó chúng ta là những đứa bé hay
những người đã trưởng thành, chúng ta lãnh nhận ánh sáng đức tin. Đầu tiên ánh
sáng ấy chỉ là một đốm sáng mờ nhạt nhưng với bí tích Thêm Sức, bí tích này
kiện toàn phép rửa tội, ánh sáng đó trở nên sáng rực.
Với đức tin chúng ta
nhìn thấy Chúa Giêsu thật sự là Con Thiên Chúa, là Đấng mà Chúa Cha đã sai đến
trong thế gian, được thụ thai trong cung lòng Đức Trinh Nữ Maria bởi quyền năng
của Chúa Thánh Thần. Chúng tôi tin Chúa Giêsu đã đi rao giảng Tin Mừng của Nước
Thiên Chúa, Tin Mừng mà chúng ta vẫn tiếp tục lắng nghe Thánh Kinh và những lời
giáo huấn khác của Giáo Hội. Chúng ta biết rằng sứ vụ truyền giáo đã dẫn Người
lên Giêrusalem, nơi mà Người phải chịu đau khổ, chịu chết và sống lại để cứu
chuộc chúng ta. Đức tin của chúng ta dạy rằng nhờ việc chúng ta thông dự vào
tiệc Thánh Thể, chúng ta được chia sẻ sự kỳ diệu của sự chết và sự sống lại của
Con Thiên Chúa.
Chúng ta theo Đức Kitô
bởi chúng ta là thành phần của thân xác Người, thân thể mầu nhiệm của Người là
Giáo Hội. Chúng ta có thể cảm nghiệm được tâm tình của Thánh Vịnh 27: “Chúa
là ánh sáng và là Đấng Cứu Độ tôi, tôi còn sợ chi ai? Chúa là nơi nương ẩn của
đời sống tôi, tôi còn sợ gì ai?”
Thánh Vịnh viết tiếp:
“Một điều tôi xin Chúa, một đều tôi kiếm tìm, đó là được cư ngụ trong nhà
Chúa suốt đời tôi”. Chúng ta phải luôn luôn trung thành với ơn gọi phép Rửa
của chúng ta, để được ở lại trong nhà Chúa là Giáo Hội của Người và đừng bao
giờ nghi hoặc, hoặc bỏ rơi Chúa Giêsu Kitô, Đấng đã kêu gọi đích danh tên chúng
ta để chúng ta trở nên những người tiếp bước của Người.
(Trích trong ‘Lương
Thực Ngày Chúa Nhật’)
Bài này cho thấy Chúa
Giêsu khởi sự rao giảng Tin Mừng. Người bắt đầu loan báo Tin Mừng về Nước Trời.
Việc này làm nổi rõ ngay từ đầu điều mà ta có thể gọi là lòng trung tín của Đức
Kitô, trung tín với Chúa Cha và trung tín với con người. Thật vậy, Chúa Giêsu
loan báo Tin Mừng về Nước Trời, chớ không phải một sứ điệp giới hạn về một thứ
giải phóng trần gian nào. Làm như thế, Người trung tín với Chúa Cha với chính
mình, với Thánh Thần. Đàng khác, Người đi khắp Galilêa, nghĩa là tìm đến với
con người tại nơi họ ở và như họ là, Người khai thông những khả năng tốt nhất
của họ (kể cả khả năng trở nên Tông đồ). Trong điểm này, Người đã trung tín với
con người. Ở đây ta gặp một vấn đề lớn lao, vấn đề này đã được đặt ra cho Giáo
Hội trong suốt lịch sử. Đó là: làm thế nào cống hiến tất cả sự phong phú nhân
loại cho Phúc Âm và làm thế nào sống toàn bộ Phúc Âm trong thực tại con người?
Người Kitô hữu phải hoàn toàn thuộc về Đức Kitô, đồng thời trọn vẹn là con
người, hay nói đúng hơn, trọn vẹn con người bởi vì trọn vẹn thuộc về Đức Kitô.
Phải dùng tinh thần Phúc Âm hoàn lại tất cả đời sống con người cho chân lý của
nó sự trong sáng, sự sung mãn của nó. Vì Tin Mừng về Nước Trời được loan báo
cho toàn bộ đời sống con người.
Đâu là những con đường
mà việc loan báo này đi theo?
1) Hãy trở lại, vì Nước
Trời đã đến gần. Trở lại đi đôi với Nước Chúa điều đó có nghĩa gì? Phải
chăng có nghĩa rằng Tin Mừng là lời loan báo về một cuộc thay đổi ách thống trị
trên con người? Thật vậy, nếu theo bản chất con người được tự do chọn lựa ông
chủ thống trị mình, thì nó luôn luôn có một ông chủ. Nếu nó không chọn Nước
Chúa, nó tự buộc mình phải chịu những ách nô lệ (như bản năng, lòng ích kỷ, -
tiền tài, quyền lực ma quỷ v, v…). Đức Kitô loan báo cho ta biết chọn lựa những
điều giải phóng ta. Người gọi ta chọn lựa Thiên Chúa, tức là sự thống trị của
Tình Yêu. Để phục hồi đời sống con người lại tình trạng nguyên vẹn của nó, phải
từ bỏ ách nô lệ của sự ác và chọn lựa Chúa làm Đấng thống trị của Tình Yêu. Để
phục hồi đời sống con người lại tình trạng nguyên vẹn của nó, phải từ bỏ ách nô
lệ của sự ác và chọn lựa Chúa làm Đấng thống trị ta.
2) Chữa lành mọi bệnh
tật. Đức Kitô dùng
quyền năng của lòng nhân hậu để hỗ trợ lời rao giảng của Người. Những vụ chữa
bệnh phần xác, ngoài giá trị riêng biệt nó có, còn biểu thị sự hồi phục con
người tinh thần, tức là con người tự gốc rễ của nó. Hành động Đức Kitô nhằm
phục hồi trọn vẹn điều mà tội lỗi đã muốn làm hư hỏng, tổn thương yếu nhược,
phá huỷ. Đức Kitô trung tín với con người ở chỗ Người hành động để con người
trở lại tình trạng nguyên vẹn đầu tiên như Thiên Chúa đã nghĩ tưởng, và như thế
Người cũng trung tín với Thân Phụ Người, Đấng đã muốn cho tất cả mọi người khởi
đầu từ đó mà trở nên con cái Người.
(Trích trong ‘Niềm Vui
Chia Sẻ’)
Năm 1950, một hội nghị
đại diện 17 quốc gia đã bầu Albert Schweitzer làm “người hùng của thế kỷ”. Hai
năm sau (1952). Albert Schweitzer được giải thưởng Nobel hoà bình. Schweitzer
được toàn thế giới tuyên dương là một thiên tài đa dạng: Ông vừa là một triết
gia lừng danh, một nhà thần học nổi tiếng, một sử gia đáng kính, một nhạc công
sôlô trong dàn nhạc và còn là một bác sĩ thừa sai nữa.
Nhưng điểm nổi bật
nhất nơi ông là niềm tin Kitô giáo sâu sắc. Chính niềm tin này đã khiến ông
thành “người hùng của thế kỷ”: Năm 21 tuổi, Schweitzer tự hứa với mình là sẽ
nghiên cứu nghệ thuật và khoa học cho đến năm 30 tuổi, rồi sẽ cống hiến cuộc
đời còn lại cho những người thiếu thốn bằng một hình thức phục vụ trực tiếp nào
đó. Và thế rồi, vào sinh nhật thứ 30 của ông, nhằm ngày 13/10/1905, ông đến một
hộp thư ở Paris gởi một số thư về cho bố mẹ và bè bạn thân thiết nhất, báo cho
họ biết ông sắp sửa ghi tên vào đại học để lấy bằng y khoa, sau đó ông sẽ đi
Phi Châu sống như một bác sĩ thừa sai để phục vụ đám dân nghèo.
Những lá thư của ông lập
tức bị phản đối ngay. Bà con và bè bạn ông đồng loạt phản đối dự tính mà họ cho
là điên rồ của ông. Họ bảo ông là một người đem chôn dấu tài năng đã được uỷ
thác cho ông… Tuy nhiên, Schweitzer vẫn khăng khăng thực hiện những ý định của
mình. Năm 38 tuổi, ông trở thành một bác sĩ y khoa thực thụ. Năm 43 tuổi, ông
đến Phi Châu mở một bệnh viện cạnh bờ rừng của khu vực gọi là Phi Châu xích
đạo. Tại đây, ròng rã suốt hơn bốn mươi năm trời, ông đã dùng hết tài năng và
sức lực để đêm ngày tận tuỵ săn sóc những người dân bản xứ nghèo nàn bệnh tật,
với tất cả tình yêu thương và lòng nhân ái. Sau cùng ông đã chết ở đó vào năm
1965, hưởng thọ 90 tuổi.
Thưa anh chị em, động
lực nào đã khiến ông Albert Schweitzer quay lưng lại với danh vọng và của cải
trần gian để dấn thân làm việc cho đám dân cùng khổ nhất trong đám dân nghèo ở
Phi Châu như thế?
Theo lời ông, thì một
trong những động cơ thôi thúc ông làm điều đó chính là do ông suy gẫm Tin Mừng
của Chúa Giêsu. Ông đã lắng nghe tiếng gọi của Ngài và quyết tâm đáp lại bằng
cách dấn thân phục vụ dân nghèo ở Phi Châu. Ông nói: “Tôi không thể hiểu được
tại sao tôi lại được phép sống một cuộc đời hạnh phúc như thế đang khi chung
quanh tôi còn biết bao nhiêu người đang quằn quại trong đau khổ”.
Ngày nay, Chúa Giêsu
vẫn tiếp tục lên tiếng kêu gọi và đòi hỏi những ai đã nghe tiếng kêu gọi của
Ngài phải có một đáp trả dấn thân cụ thể: Hãy sám hối! Hãy sống Tin Mừng Nước
Trời! Hãy loan báo Tin Mừng cho đồng bào, cho nhân loại! Có nhiều người đã nghe
được tiếng Chúa gọi. Một thứ tiếng vang lên từ bên trong, nhẹ nhàng nhưng rõ
nét, mời gọi nhưng không kém phần thúc bách. Đáp lại tiếng Chúa là bước vào một
khúc quanh của đời mình, và tứ đó đời mình đổi khác.
Chúa Giêsu gọi tôi như
xưa Ngài đã gọi các môn đệ đầu tiên bên bờ hồ Galilê. Chúa vẫn hay gọi con
người một cách bất ngờ. Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy điều đó. Phêrô và Anrê,
Giacôbê và Gioan, bốn vị này đã từng quen biết ít nhiều với Chúa Giêsu, nghe
lời Ngài giảng và thấy Ngài làm phép lạ, nhưng họ không ngờ là một ngày nào đó,
Ngài sẽ gọi họ làm Tông đồ. Đức Giêsu đi dọc theo bờ biển như một sự tình cờ.
Ngài tình cờ thấy bốn anh em đang làm việc, kẻ quăng chài, người vá lưới. Tất
cả ở trong một bầu khí êm đềm và huynh đệ. Đức Giêsu biết việc Ngài sắp làm.
Ngài gọi những người Cha muốn. Tiếng gọi của Ngài vang lên thật bất ngờ. Tiếng
gọi đưa đến những chia cắt không thể nói là không đau đớn. Các môn đệ đầu tiên
đã phải từ giã nghề chài lưới, nghề đã nuôi sống gia đình họ và đã giúp họ
trưởng thành, nghề đã đem lại cho họ biết bao kỷ niệm vui buồn. Chấp nhận bỏ
nghề là chấp nhận bấp bênh. Các ngư phủ nay phải sống trên bờ, để đi theo một
ông thợ mộc cũng đã bỏ nghề! Hơn nữa, họ còn phải từ giã gia đình và họ hàng
thân thuộc. Họ đã coi Chúa Giêsu hơn cha mẹ, vợ con, nghề nghiệp, tương lai.
Thái độ của các môn đệ đầu tiên thật đáng phục. Đó là thái độ lý tưởng của
người nghe Chúa gọi, và sẵn sàng theo Ngài ngay lập tức.
Anh chị em thân mến,
Chúa Giêsu vẫn tiếp
tục gọi mỗi người chúng ta hôm nay. Không phải một người đã chết từ 20 thế kỷ
gọi chúng ta, nhưng là một Đấng đang sống. Ngài gọi đúng tên từng người trong
chúng ta và Ngài muốn giao cho chúng ta một công tác đặc biết. Chúa Phục Sinh
hôm nay vẫn cứ mời gọi từng người chúng ta cộng tác với Ngài trong chương trình
vĩ đại, đó là chương trình cứu độ toàn thế giới. Tôi có nghe tiếng Ngài không?
Tôi có muốn nghe được tiếng của Ngài không?
Nhiều khi chúng ta giả
vờ không nghe tiếng Chúa để khỏi phải đáp lại, khỏi phải từ bỏ và đoạn tuyệt.
Có nhiều tạo vật đang quấn lấy đời ta, không dễ gì gỡ được: Tiền bạc, sự ổn
định, sự thoải mái tiện nghi, chút tiếng tăm địa vị, chút thoả mãn nơi thân
xác… Từ bỏ là đặt mọi sự dưới Chúa, coi Ngài như giá trị cao nhất vượt trên mọi
giá trị. Phải có tình yêu lớn lao mới có thể từ bỏ lập tức những gì chúng ta
đang ôm ấp. Từ bỏ trở thành thước đo tình yêu của ta đối với Thiên Chúa. Đời
người Kitô hữu là một cuộc lắng nghe không ngừng những tiếng gọi mời của Chúa.
Chỉ những ai biết yêu mới nghe thấy và dám thực hiện ý Chúa tỏ lộ qua từng
ngày, từng biến cố của đời mình.
Có thể nói, một trong
những hoạt động chính của Chúa Phục Sinh là cất tiếng gọi con người. Ngài không
ngừng mời gọi với một sự kiên nhẫn lạ lùng. Ngài gọi con người dưới trăm ngàn
hình thức. Không phải chỉ là gọi ai đó đi tu, nhưng Ngài còn gọi cả giáo dân
theo Ngài, theo Ngài bằng cách ở lại gia đình và môi trường xã hội để làm chứng
cho Ngài, như một Albert Schweitzer, một Kitô hữu, một triết gia, một nhà thần
học, một sử gia, một nhạc công sôlô và là một bác sĩ thừa sai. Chúa Giêsu vẫn
cứ gọi và lay động trái tim mọi người, kể cả những kẻ chưa biết Ngài. Đời chúng
ta là một chuỗi những tiếng gọi của Chúa. Tiếng gọi nào cũng mới mẻ và cụ thể.
Nếu chúng ta đáp lại, Ngài sẽ đưa chúng ta đi xa hơn trong tình bạn, qua những
tiếng gọi mới.
Các môn đệ đã đáp lại
tiếng gọi của Chúa, không phải bằng lời nói, nhưng bằng hành vi từ bỏ thực sự.
Chúa không mời gọi mọi người từ bỏ gia đình để sống đời thánh hiến, nhưng Chúa
lại mời gọi tất cả chúng ta bỏ tính ích kỷ và cứng cỏi của mình để sống yêu
thương tha nhân. Bỏ cái gì ngoài mình, không phải là điều quá khó. Nhưng bỏ
chính bản thân mình với những dự tính, ước mơ, điều đó khó hơn nhiều.
Thưa anh chị em, nghe
tiếng Chúa, đáp lại bằng cách từ bỏ và đi theo, đó là chu trình mà người tín
hữu phải sống nhiều lần trong ngày, trong đời: “Hãy theo Thầy”. Chúa cứ nói với
tôi câu đó hoài trong suốt đời tôi, và tôi hiểu rằng theo Chúa là được triển nở
trong tự do yêu mến.
Thiên Chúa là Ánh
Sáng. Đúng thế, sách Sáng Thế Ký kể lại rằng: ngày thứ tư, Thiên Chúa dựng nên
các tinh tú trên bầu trời. Ngài xếp đặt chúng để chiếu tỏa ánh sáng cho địa cầu
và phân chia ngày đêm. Và như vậy, ngay từ đầu Thiên Chúa đã dựng nên ánh sáng.
Trong Cựu ước, ánh
sáng vốn thường được dùng để nói lên vinh quang của Thiên Chúa.
Thực vậy, Thiên Chúa
đã hiện ra với ông Maisen trong bụi gai bốc cháy:
- Bấy giờ ông Maisen
nhìn thấy bụi cây cháy bừng, nhưng không bị thiêu rụi. Ông tự bảo: mình phải
lại xem cảnh tự kỳ lạ này mới được, vì sao bụi cây lại không cháy rụi?
Thiên Chúa cũng đã
hiện diện giữa dân Ngài qua áng mây và cột lửa. Sách Xuất Hành ghi lại:
- Khi ra khỏi Ai Cập,
Đức Chúa đi đằng trước họ, ban ngày thì ở trong cột mây để hướng dẫn, ban đêm
thì ở trong cột lửa để soi sáng, nên họ có thể đi cả ban ngày lẫn ban đêm. Ban
ngày cột mây đi trước dân không rời, ban đêm cột lửa cũng vậy.
Ngày Thiên Chúa ký kết
với dân Do thái giao ước tại Sinai, lúc bấy giờ ngọn núi rực sáng như bốc cháy.
Sách Xuất Hành ghi lại:
- Bấy giờ mây bao phủ
núi…Vinh quang Đức Chúa xuất hiện trên đỉnh núi trông giống như ngọn lửa thiêu,
trước mắt con cái Israel.
Thế nhưng, Thiên Chúa
không phải chỉ là ánh sáng tự nhiên bên ngoài, con mắt chúng ta có thể trông
thấy, mà hơn thế nữa, Ngài còn là ánh sáng siêu nhiên bên trong để soi dẫn bước
đường chúng ta đi và ban cho chúng ta sự sống.
Thực vậy, Thiên Chúa
đã dùng luật pháp và lời các tiên tri để hướng dẫn đường đi nước bước cho con
người. Ngài chính là đèn soi lối cho họ. Ngài là ánh sáng và là ơn cứu độ của
họ.
Khi mở mắt chào đời,
chúng ta nhìn thấy ánh sáng và chúng ta chính thức bước vào cuộc sống. Cũng
vậy, nếu bước đi trong ánh sáng của Chúa, nếu bước đi dưới sự soi dẫn của Ngài,
chắc chắn chúng ta sẽ được vào cõi sống với vinh quang bất diệt.
Đối với chúng ta ngày
hôm nay, Đức Kitô chính là nguồn sáng duy nhất.
Thực vậy, trong đêm
Giáng Sinh, ánh sáng của Chúa đã bao phủ khi sứ thần loan báo tin vui. Thánh
Luca ghi nhận:
- Kìa sứ thần Chúa
đứng bên họ và vinhquang của Chúa chiếu tỏa chung quanh, khiến họ kinh khiếp
hãi hùng.
Tiếp đến, ánh sáng của
ngôi sao lạ cũng đã chiếu soi để dẫn đưa ba nhà đạo sĩ phương đông đến tìm gặp
và thờ lạy Hài Nhi Giêsu nơi máng cỏ Bêlem.
Khi Chúa biến hình
trên đỉnh Tabôrê, khuôn mặt Ngài sáng ngời và y phục Ngài trở nên trắng tinh
như tuyết. Đây phải chăng chính là một hình ảnh báo trước vinh quang phục sinh
của Ngài, bởi vì Ngài chính là ánh sáng thế gian.
Sau cùng, Ngài đã dùng
luồng ánh sáng chói lòa để quật ngã thánh Phaolô trên con đường Đamas, biến
thánh nhân từ một kẻ thù địch trở thành một tông đồ nhiệt thành đem Tin mừng
đến cho muôn dân.
Thế nhưng, điều quan
trọng hơn nữa Đức Kitô chính là ánh sáng chiếu soi tâm hồn, dẫn bước chúng ta
trên con đường tìm gặp Chúa.
Thực vậy, ngày hôm nay
khi Ngài bắt đầu cuộc sống công khai, thánh Matthêu đã áp dụng lời tiên tri
Isaia sau đây cho Ngài:
- Đoàn dân ngồi trong
cảnh tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng, những kẻ đang ngồi trong vùng bóng
tối của tử thần nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi.
Chính Ngài cũng đã xác
nhận:
- Ta là ánh sáng thế
gian, ai tin Ta sẽ không đi trong tối tăm.
Ánh sáng ấy sẽ dẫn
chúng ta tới vùng đất của sự sống vĩnh cửu, nếu chúng ta biết bước theo sự soi
dẫn của Ngài, có nghĩa là nếu chúng ta biết tuân giữ những điều Ngài truyền
dạy.
Hẳn chúng ta không thể
nào quên được một hình ảnh sống động vào đêm thánh vọng Phục sinh, khi cây nến
cháy được rước và tiến lên từ cuối nhà thờ trong bóng tối dày đặc, vị linh mục
đã xướng:
- Ánh sáng Chúa Kitô.
Phải, ánh sáng Chúa
Kitô đã chiếu dọi vào tâm hồn mỗi người, thế nhưng chúng ta có tiếp nhận ánh
sáng ấy hay chúng ta lại ưa thích sự tối tăm? Giống như người đau mắt ghét bỏ
ánh sáng, thậm chí có kẻ còn ra sức dập tắt ánh sáng ấy.
Cuộc đời chúng ta là
một tấm bi kịch, một cuộc chiến đấu giữa ánh sáng và bóng tối. Chúng ta phải có
thái độ chọn lựa dứt khoát và quyết liệt:
- Chọn ánh sáng hay
bóng tối? Cố gắng trở nên con cái Thiên Chúa hay con cái thế gian?
Mỗi người phải thành
thực trả lời với Chúa và chính câu trả lời ấy sẽ ảnh hưởng tới tương lai và ấn
định số phận đời đời của chúng ta.
Dân ngồi trong tăm tối
đã nhìn thấy ánh sáng huy hoàng.
Nhìn vào lịch sử,
chúng ta thấy ngày xưa có những nhân vật khôn ngoan và thông thái, tuy đã chết
từ lâu, nhưng vẫn còn được người đời nhắc đến, chẳng hạn như Aristote, Platon,
César…Đồng thời, có những dân tộc đã trải qua những thời đại hoàng kim của
mình, chẳng hạn người Hy Lạp nổi tiếng về văn hóa, người La Mã nổi tiếng về
binh đội…
Còn hôm nay, chúng ta
cũng có những nhà bác học với những phát mình làm đảo lộn cách thức suy nghĩ và
hành động thường tình, chẳng hạn như máy hơi nước, máy vô tuyến, điện lực,
nguyên tử…Đồng thời cũng có những quốc gia giàu mạnh nắm giữ vai trò của một
siêu cường như Hoa Kỳ, Nga…
Thế nhưng, tất cả mới
chỉ nổi tiếng, mới chỉ giỏi giang về những sự việc trước mắt và ở đời này. Còn
nhụ sự việc thiêng liêng về đời sau, về linh hồn, về Thiên Chúa, thì họ lại
hoàn toàn chẳng biết gì và không hề nói tới. Không nói tới, bởi vì có biết đâu
mà nói.
Chevreul, một khoa học
gia, đã phát biểu:
- Các bạn khoa học của
tôi thật tài giỏi trong những lãnh vực chuyên môn, thế nhưng trong lãnh vực tôn
giáo, họ không hơn gì những em nhỏ mới được xưng tội rước lễ lần đầu. Miệt mài
vào công việc nghiên cứu trong những lãnh vực chuyên môn ấy, họ không cho tôn
giáo là quan trọng, nên không chịu tìm hiểu cũng như không chịu sống theo những
tiêu chuẩn của tôn giáo.
Đúng thế, lãnh vực của
khoa học là lãnh vực của thực nghiệm. Khoa học khởi đi từ những hiện tượng,
những sự việc cụ thể, để rồi dẫn tới những định luật và áp dụng những định luật
ấy vào đời sống thực tế.
Còn quốc gia thì bận
rộn với vấn đề chính trị, quân sự, ngoại giao và kinh tế, chỉ có tôn giáo mới
lo đến linh hồn, đến đời sau, đến Thiên Chúa và đem lại lời giải đáp cho những
vần đề đã từng làm chúng ta băn khoăn và thắt mắc.
May áo, chúng ta phải
đến với thợ may. Đóng giày, chúng ta phải đến với thợ giày. Bắt điện, chúng ta
phải đến với thợ điện. Về những sự đời này, chúng ta phải đến với những chính
trị gia, những vị tướng lãnh, những nhà kinh tế…Còn về những sự đời sau, chúng ta
phải đến với tôn giáo. Làm khác đi là đến với những nơi không có thẩm quyền,
hoặc không đủ khả năng. Làm khác đi là đến lầm địa chỉ.
Một số vấn đề then
chốt đã từng làm cho chúng ta băn khoăn và thắt mắc, chẳng hạn: Tôi bởi đâu mà
đến? Tôi sống ở trên đời để làm gì? Và chết rồi tôi sẽ ra làm sao? Kẻ bất lương
và người lành thánh có gì khác nhau ở bên kia cái chết?
Đứng trước những vấn
đề này, chỉ có tôn giáo và nhất là Kitô giáo mới đưa ra được những lời giải đáp
thỏa đáng. Bởi đó, thánh Tôma tiến sĩ đã có lý khi nói:
- Một bà lão thuộc
giáo lý có khi còn am hiểu hơn những nhà bác học tài giỏi.
Đạo là đường, là ánh
sáng. Không có đạo và nhất là không sống đạo, thì dù có thông thái và khôn
ngoan tới đâu chăng nữa cũng vẫn là những kẻ đáng thương còn ngồi trong tăm
tối.
Tuy nhiên, có điều
thật bẽ bàng và cay đắng, đó là ánh sáng đã chiếu trong u tối, nhưng u tối lại
không tiếp nhận ánh sáng. Sở dĩ như vậy vì họ không muốn bước đi trong ánh
sáng. Họ giống như những người đau mắt, luôn ghét bỏ ánh sáng.
Vì thế, khôn ngoan về
những sự việc ở đời này mà thôi chưa hẳn đã là khôn ngoan thực sự, trái lại
nhiều khi còn dại đột và kém sáng suốt, bởi vì như lời Chúa đã xác quyết:
- Được lời lãi
cả thế gian mà mất linh hồn thì có ích lợi chi.
Hãy đón nhận ánh sáng
của Chúa, có nghĩa là hãy lắng nghe và thực thi những điều Chúa truyền dạy, bởi
vì lời Chúa chính là đèn soi đường dẫn lối cho chúng ta đi.
Hôm nay Chúa Giêsu gọi
bốn tông đồ đầu tiên trong số 12 vị: Simon Phêrô, Andrê, Giacôbê và Gioan. Đây
chính là bước khởi sự thành lập Giáo Hội với sứ mạng phúc âm hóa. Một khởi điểm
cho sự thành lập mầu nhiệm Vương Quốc Thiên Chúa như Tông Huấn Evangelii
Nuntiandi của Đức Giáo Hoàng Phaolô VI gửi cho thế giới ngày nay: “Giáo Hội có
một nhận thức sâu xa về lời của Đấng Cứu Chuộc “Ta phải công bố Tin Mừng về
Vương Quốc của Thiên Chúa”.
Năm 1998, tại hội nghị
có tên là “Thi Hành Công Lý” (Doing Justice), một trong những thuyết trình viên
đã dùng bức tượng “Kẻ Nô Lệ Dở Dang” (Unfinished Slave) hay “Người Tù Tỉnh Thức”
(Awakening Prisoner) của nhà nghệ sĩ vĩ đại Michelangelo để minh họa cho bài
nói chuyện của mình. Bức tượng miêu tả một con người đang phấn đấu để được tự
do thoát ra khỏi những giới hạn của một tảng đá cuội lớn mầu xám. Hình ảnh của
con người được biểu lộ dần dần, qua những nhát búa đục đẽo đầy ân huệ của người
nghệ sĩ. Nó bùng phá ra khỏi khối đá lao tù để đi vào sự tự do bằng việc trở
nên làm con người hoàn toàn… Bình phẩm về kiệt phẩm này, thuyết trình viên đã
nói:
“Hình ảnh của người nô
lệ đang được giải thoát này xác định vị trí của chúng ta trong vai trò căn bản
của Giáo Hội hôm nay: sứ mạng phúc âm hóa của Giáo Hội… Từ ngữ “phúc âm hóa”
được rút ra từ tên gọi được ban cho một người nô lệ trong nước Hy Lạp cổ xưa.
Người nô lệ được giao trọng trách mang tin mừng chiến thắng về cho dân chúng
đang chờ mong ở nhà khi chiến trận xảy ra. Để đáp lại công lao loan báo tin
mừng chiến thắng này của người nô lệ, dân chúng ban thưởng cho người nô lệ ân
huệ được tự do”.
Người nô lệ thời Hy
Lạp ngày xưa đã diễn tả cho chúng ta thấy rằng sự tự do không phải chỉ hệ tại
một lời công bố, nhưng là một sự biến đổi ở chính bản thân con người. Bản thân
người nô lệ được giải thoát khỏi sự lệ thuộc, được tự do chính là Tin Mừng.
Ngay từ ban đầu, các
tông đồ đã không đi theo Chúa với cùng một mục đích như Chúa muốn. Họ theo Chúa
Giêsu với những tư tưởng, ước mơ, và dự định riêng tư của mỗi người. Người muốn
bỏ Giêrusalem để lên Rôma bằng mọi cách. Người khác muốn nhìn thấy vương quốc
Israel được tái tạo theo như dòng tộc của nhà Đavid. Kẻ muốn ngồi bên hữu Chúa
Giêsu trong nước Giêrusalem mới… Nhưng Ngài đã giúp họ vượt thoát ra khỏi những
ý định riêng tư đó mà mang lấy sứ mạng làm “ngư phủ bắt người”, đi rao
truyền Tin Mừng cứu độ của Đức Giêsu Kitô.
Các tông đồ đã trung
thành với sứ mạng của mình. Sách Công vụ Tông đồ đã nói với chúng ta tất cả
những điều họ đã làm: “Họ chuyên cần nghe các tông đồ giảng dạy, hiệp thông
với nhau, tham dự lễ bẻ bánh, và cầu nguyện… Tất cả các tín hữu hợp nhất với
nhau, và để mọi sự làm của chung… Họ đồng tâm nhất trí…”
“Giáo Hội đã gắn bó
với chương trình phúc âm hóa từ trong bản chất thâm sâu”. Giáo Hội chỉ có một
chương trình, một sứ mạng, và một mục đích duy nhất: “Trong Chúa Giêsu Kitô,
con của Thiên Chúa làm người, đã chết, và sống lại từ cõi chết: sự cứu rỗi được
trao ban cho mọi người, như là một ân sủng và lòng từ bi của Thiên Chúa”. Và
ngày nay, mỗi người Kitô hữu, chúng ta cũng được mời gọi đến để tiếp tục bước
theo con đường của Chúa Giêsu đã đi qua và đã dạy chúng ta.
Vị linh mục tuyên úy
hỏi người thủy thủ trẻ tuổi: “Ai đã dẫn đưa bạn tới Chúa Giêsu Kitô?” Anh ta
chần chừ suy nghĩ, vì nghĩ rằng phải sử dụng tên tuổi của những nhà giảng
thuyết trứ danh, bèn hỏi lại vị tuyên úy: “Thưa cha, chắc không cần phải là
người giảng thuyết chứ?” Rồi anh nói tiếp: “Đó là sự thực hành của mẹ con”. Hầu
hết chúng ta đã đón nhận đức tin từ cha mẹ. Khi lớn lên không bao giờ thắc mắc
rằng chúng ta đã không phải là Kitô hữu. Chúng ta giữ đức tin trong khi được
dạy cách làm dấu, đọc kinh Lạy Cha, đi nhà thờ dự lễ… học cách thức chào
hỏi, lễ phép bởi cha mẹ, thầy cô nơi trường học. Do đấy, tất cả mọi người trong
gia đình, cộng đoàn hay xã hội đều được mời gọi đóng góp vào sứ mạng “ngư phủ
bắt người”. Bạn có tin được không, ngay cả con chó cũng có thể dẫn đưa một
người về với Đức Kitô.
Một ông lão không bao
giờ để ý gì tới Thiên Chúa, hay đời sống tinh thần, nhưng vợ ông lại là một
Kitô hữu rất đạo đức. Bà đã cầu nguyện cho chồng nhiều năm, nhưng dường như lời
cầu xin của bà chưa được đáp trả vì ông không bao giờ chịu đến nhà thờ chung
với bà. Người đàn bà đạo hạnh đáng thương này đi lễ hằng tuần với một con chó
già. Nó đi theo bà vào nhà thờ, rồi phủ phục nằm im dưới gầm ghế ngồi. Khi
người đàn bà chết, con chó có vẻ buồn bã lắm. Một vài lần, lão già chú ý thấy
con chó rời nhà vào một giờ nhất định, rồi trở về đúng giờ. Một buổi sáng Chúa
nhật, ông lão đi theo con chó xem nó đã đi đến đâu. Con chó dường như có vẻ
hứng khởi và vui vẻ khi có người cùng đi với nó dọc theo lối bộ hành cho đến cửa
nhà thờ. Ông lão ngừng lại khi thấy nó nhanh nhẹn nhẩy lên những bậc thềm rồi
đứng chờ ông ở cửa nhà thờ. Sau khi đứng lại nghỉ ngơi giây lát, chưa quyết
định phải làm gì, ông lão tự nhủ: “Vào nhà thờ theo con chó cũng được. Đâu có
hại gì!” Ông đã vào nhà thờ, đi theo con chó đến ngay chỗ vợ ông vẫn thường
ngồi. Nhớ đến vợ, ông ngồi xuống và lắng nghe. Chúa nhật kế tiếp, ông lão lại
đi đến nhà thờ với con chó trung thành của ông. Dần dần, người ta đã thấy ông ở
trong nhà thờ ngay chỗ vợ ông vẫn thường ngồi với con chó nằm thinh lặng dưới
gầm ghế. Sau cùng ông đã tham gia cộng đoàn và cho phép Tin Mừng thấm nhập vào
cuộc đời ông.
Phúc âm hóa là công
trình biến đổi con người trở nên giống hình ảnh của Chúa Kitô. Đó là công việc
giải thoát con người khỏi tội lỗi. Sách Giáo lý Công giáo số 900 mời gọi chúng
ta trong vai trò “ngư phủ bắt người” này như sau: “Cũng như tất cả các tín hữu
đều được Thiên Chúa ủy nhiệm cho việc tông đồ, vì đã lãnh nhận phép rửa tội và
phép thêm sức, các giáo dân có nghĩa vụ và có quyền lợi làm việc, từng cá nhân
hoặc từng nhóm lại thành các hiệp hội, để sứ điệp cứu độ của Thiên Chúa được
mọi người trên trái đất biết tới và đón nhận”.
Có một vị ẩn sĩ nọ,
sau bao nhiêu năm tu luyện bỗng thấy hương thơm sự thánh thiện của mình bay tỏa
khắp nơi, nhiều người tiến đến vấn ký cũng như để xin ông cầu nguyện cho. Từ đó
vị ẩn sĩ thường hãnh diện về tiếng tăm của mình. Một buổi sáng nọ, ông đến thăm
một ngôi nhà thờ nằm bên cạnh một dòng sông. Đi dọc theo bờ sông, ông thấy có
một người đàn ông đang ngồi khóc lóc thảm thiết. Đến gần, vị ẩn sĩ mới nhận ra
đó là người đàn ông mà khi nghe nhắc đến tên tất cả mọi người dân trong vùng
đều phải run sợ, vì hắn là một tên cướp giết người không gớm tay.
Vị ẩn sĩ định làm ngơ
bỏ đi, nhưng người đàn ông tiến đến quì gối xuống trước mặt ông và xưng tội.
Nghe xong một danh mục những tội mà cả đời ông không dám nghĩ tới, và khi so
sánh với cuộc sống hoàn toàn trong sạch của mình, vị ẩn sĩ tự nhiên nổi giận.
Ông nghĩ đến cơn giận thánh của Chúa Giêsu khi vào Đền thờ Giêrusalem, thế là
thay vì đưa tay ban phép giải tội, vị ẩn sĩ lại to tiếng quát bảo người đàn ông
như sau: “Một tên đầu trộm đuôi cướp như ngươi mà hy vọng được Chúa tha thứ
sao? Ta nói thật cho ngươi: cây gậy ta đang cầm trên tay đây trở thành bông còn
dễ hơn là việc Chúa tha thứ cho ngươi”.
Nói xong những lời đó,
vị ẩn sĩ bỏ mặc cho tội nhân chìm đắm trong thất vọng và ông tiếp tục cất bước.
Thế nhưng ông chưa kịp đi được mười bước thì cây gậy của ông đang cầm trong tay
bỗng bị cắm sâu xuống đất. Ông dùng tất cả sức lực của mình để kéo nó lên khỏi
đat nhưng cây gậy vẫn không nhúc nhích. Và lạ lùng thay, từ thân cây gậy, lá,
cành và hoa trái từ từ mọc lên. Rồi nhà ẩn sĩ lại nghe có tiếng phán bảo: “Sự
tha thứ của Chúa dành cho một tội nhân sám hối còn dễ hơn một cây gậy trổ bông.
Một người có tội biết ăn năn trở lại được tha thứ còn dễ dàng hơn là một kẻ
kiêu hãnh”.
Quả thực, trọng tâm
của bài Tin mừng hôm nay chính là lời kêu gọi sám hối của Chúa Giêsu: “Hãy sám
hối vì Nước Trời đã gần đến”. Đó cũng là mệnh lệnh đầu tiên của Chúa Giêsu khi
Ngài bắt đầu sứ vụ công khai rao giảng Tin Mừng. Ơn cứu độ mà Chúa Giêsu loan
báo và thực hiện chính là việc giải phóng con người khỏi tội lỗi. Tất cả những
bệnh hoạn, tật nguyền mà Chúa Giêsu thuyên chữa khi bắt đầu sứ vụ công khai là
một dấu hiệu của tội lỗi. Cứu chữa con người khỏi những tật bệnh trong thân
xác, Chúa Giêsu muốn cho con người thấy Ngài đến để giải thoát con người khỏi
tội lỗi và tất cả những hệ lụy của nó. Nhưng tất cả những phép lạ mà Chúa Giêsu
thực hiện không phải là những ảo thuật, bùa chú mà là sự gặp gỡ giữa con người
với quyền năng Thiên Chúa, là một sự thi thố tình yêu không giới hạn của Ngài.
Do đó, con người chỉ
có thể chứng kiến được phép lạ khi tuyên xưng quyền năng của Chúa Giêsu: “Chính
lòng tin của con đã chữa con”. Chúa Giêsu đã không ngừng lập đi lập lại câu
đó mỗi lần thuyên chữa một bệnh nhân. Lòng tin của con người được thể hiện qua
việc con người tuyên xưng niềm tin của mình nơi quyền năng của Chúa Kitô.
Thiên Chúa mời gọi chứ
không áp đặt. Ngài luôn chờ đợi sự ưng thuận của con người. Do đó, bước đầu
tiên mà Thiên Chúa đòi hỏi nơi con người chính là sám hối, nghĩa là nhìn nhận
thân phận tội lỗi yếu hèn của mình, và đó cũng là thái độ cơ bản và thường hằng
trong cuộc sống con người. Bao lâu con người còn nhận ra thân phận yếu hèn của
mình thì bấy lâu con người còn nhận ra sự cần thiết của ơn cứu rỗi mà Đức Kitô
đã tặng ban. Trái lại, nếu con người phủ nhận thân phận tội lỗi của mình thì
con người cũng sẽ khước từ ơn cứu rỗi của Thiên Chúa.
Sám hối không chỉ là
một tiếng khóc của thất vọng, mà phải là một sức bật mới giúp cho con người
vươn lên: “Hãy sám hối vì nước trời đã gần đến”. Nước trời chính là động lực
của lòng sám hối. Lòng sám hối đích thực là phải quyết tâm hướng về thực tại
của nước trời và những thực tại đó chính là hòa bình, bác ái, yêu thương, quảng
đại, cảm thông, tha thứ. Thể hiện lòng sám hối chính là thực thi những giá trị
ấy. Hãy sám hối vì nước trời đã gần đến, hay đúng hơn hãy sám hối để cho nước trời
được đến giữa mọi người.
Khi nghe tin Gioan tẩy
giả bị bắt, Chúa Giêsu biết cuộc đời công khai của Ngài bắt đầu ý định cứu rỗi
của Chúa Cha muốn thực hiện qua Ngài. Ngài rời bỏ Nagiarét, nơi Ngài sinh ra và
lớn lên từ thời thơ ấu, đến miền duyên hải thành Caphácnaum, thuộc địa hạt
Dơvulun và Náptali; và Ngài khởi sự rao giảng rằng: “Anh em hãy ăn năn sám
hối, vì nước trời đã đến gần”.
“Hãy ăn năn sám
hối”, lời kêu mời của Chúa Giêsu nhắc lại lời mời gọi sám hối của Gioan
Tẩy giả. Thiên Chúa đã nhập thể làm người và đã đích thân rảo qua các nẻo đường
để rao giảng Tin Mừng. Là ánh sáng, Chúa không thể giấu mình được, Ngài cần
chia sẻ chính mình. Ngài đã đến không như một ánh lửa leo lét, nhưng như ánh
sáng huy hoàng để soi lối cho những ai đang ngồi trong bóng tối tử thần tìm về
ơn cứu độ.
Nhưng để nhận ra ánh
sáng đó, cần phải có lòng ước muốn. Ánh sáng cũng vô ích cho những ai không
muốn thấy, bởi vì đối với người mù, ngay cả mặt trời chính ngọ cũng chẳng khác
gì đêm tối. Ánh sáng chỉ thuận lợi cho những ai muốn và có thể sử dụng nó.
Thiên Chúa tôn trọng tự do của con người. Ngài đến để giải thoát con người khỏi
đêm tối tội lỗi, nhưng con người chỉ vui hưởng ơn cứu độ khi sẵn lòng đón nhận
ánh sáng là Chúa Kitô. Ơn phúc nhưng không vẫn có đó, nhưng hiệu nghiệm hay
không là tùy từng người. Điển hình là phản ứng của dân chúng thời đó: trong khi
những người bình dân tin vào Tin mừng được lành bệnh thể xác và tinh thần, thì
cũng có người như nhóm biệt phái, thay vì đón nhận ơn phúc, họ lại tìm cách bắt
bớ Chúa.
Nguyện cho lời Chúa
hôm nay hoán cải tâm hồn chúng ta, để ánh sáng Chúa lan tỏa trong chúng ta,
đánh tan mọi ảnh hưởng của tội lỗi.
Chúng ta hết thảy đểu
đã nghe những nhà bình luận thể thao la lên: Đây là một khởi điểm! Dù là một
cuộc đua ngựa, trượt tuyết, chạy đường dài, người ta đều la lên: Đây là một
khởi điểm! Chúng ta đã trông thấy những lực sĩ giương bắp thịt lên và mặt mày
căng thẳng chờ dấu hiệu khởi hành, vì việc khởi hành là quan trọng. Khởi hành
tốt tạo điều kiện cho phần còn lại của cuộc chạy đua.
Hôm nay, Tin Mừng kể
lại cho chúng ta khởi điểm của Chúa Giêsu, bắt đầu sứ vụ của Ngài. Khởi điểm
quan trọng vì nó cho hoạt động của Chúa Giêsu ý nghĩa của nó.
Ba nét nêu lên đặc
điểm của bản văn này: chuyển động, những cuộc cắt đứt, một sứ điệp.
Việc Gioan Tẩy Giả bị
bắt giam giống như một dấu hiệu khởi điểm đối với Chúa Giêsu. Chúa Giêsu chuyển
động: Ngài rút lui về Galilê rồi từ giã Nagiarét để đến Capharnaum, rồi Ngài đi
dọc theo bờ hồ và kêu gọi các môn đệ đầu tiên. Ngài kêu gọi họ bước theo Ngài.
Những cuộc di chuyển
này của Chúa Giêsu gây ra những sự cắt đứt. Bước đi, bao giờ cũng để lại sau
lưng mình những phong cảnh, những sự vật và những con người. Chúa Giêsu cắt đứt
với ngôi làng thời thơ ấu của Ngài: Nagiarét, để đi đến một môi trường mới mẻ:
thành phố Capharnaum quốc tế. Các môn đệ cũng cắt đứt với môi trường của họ để
theo đuổi một cuộc mạo hiểm mới với Chúa Giêsu. Họ để lại đằng sau họ ngôi
làng, nghề nghiệp, gia đình. Tất cả những chuyển động này không chỉ là di
chuyển đơn thuần mà thôi. Chúng được hướng về một sứ điệp phải loan truyền. Một
sứ điệp của Thiên Chúa: “Hãy sám hối vì nước trời đã đến gần”.
Nói cách khác, Thiên
Chúa đến, Ngài đến gần anh em, Ngài mang đến cho anh em sự sống và hạnh phúc.
Thiên Chúa mang ánh sáng đến cho những người xứ Galilê, Do thái và ngoại giáo,
đến cho những người ngồi trong bóng tối. Thiên Chúa mang sự sống và hạnh phúc
đến cho tất cả những ai ngồi trong bóng sự chết. Hết thảy mọi người đều được
mời gọi hoán cải, đứng dậy, đón nhận hồng ân của Thiên Chúa. Đứng dậy, thay đổi
cuộc sống vì Thiên Chúa làm những điều mới mẻ nơi Chúa Giêsu Kitô.
Những cuộc di chuyển
này của Chúa Giêsu, những sự cắt đứt này, sứ điệp một Thiên Chúa gần gũi này có
liên quan đến chúng ta hôm nay không? Dĩ nhiên rồi. Vì nếu Chúa Giêsu đã bước
đi trên những nẻo đường xứ Galilê, là vì chúng ta. Nếu Ngài đã cắt đứt với ngôi
làng của Ngài là vì chúng ta. Sứ điệp của Ngài liên quan đến chúng ta và không
chỉ nhắm những người ở xứ Galilê mà thôi.
Bởi sự nối kết những
thế hệ tín hữu, sứ điệp của Chúa Giêsu đã đến với chúng ta và chúng ta đã trở
thành môn đệ của Chúa Giêsu. Trở thành môn đệ không phải là chỉ đón nhận Chúa
Giêsu Kitô, mà còn trở nên trách nhiệm về sứ điệp của Ngài, tức là di chuyển để
loan truyền nó. Sứ điệp này không phải là một quả bóng chúng ta giữ trong tay
chúng ta, ta phải ném nó lại cho những người khác.
Làm sao di chuyển hôm
nay vì Thiên Chúa và sứ điệp của Ngài? Bằng cách thực hành những giá trị của
Tin mừng. Đây là ba giá trị khiến chúng ta phải di chuyển và dẫn đưa chúng ta
đến những sự cắt đứt với các giá trị của thế gian này.
Thực thi tính nhưng
không. Đây là một giá trị quan trọng của Tin mừng: Nếu anh em làm ơn cho những
kẻ làm ơn cho anh em, nếu anh em chỉ cho những kẻ trả lại cho anh em… thì anh
em bắt chước những kẻ tội lỗi. Chúa Giêsu mời gọi chúng ta cắt đứt với những
thái độ tìm lợi nhuận, hoán cải theo tinh thần nhưng không.
Tha thứ. Chúa Giêsu đã
tha thứ cho những kẻ giết Ngài. Ngài nói với chúng ta: “Hãy thương yêu kẻ
thù, hãy cầu nguyện cho những kẻ bách hại các con”. Có lẽ chúng ta không có
kẻ thù, cũng không có những kẻ bách hại, nhưng một số người làm tổn thương
chúng ta, tấn công chúng ta bởi lời nói, cử chỉ, thái độ của họ. Chúng ta phải
cắt đứt với ước muốn trả thù của chúng ta, hoặc đơn giản hơn với sự khinh bỉ
của chúng ta đối với kẻ khác.
Hủy bỏ những khoảng
cách. Trong Tin mừng, Chúa Giêsu lo lắng hủy bỏ những khoảng cách: “Ngài
ngồi ăn với những kẻ tội lỗi và người thu thuế, Ngài để cho những người phong
cùi đến gần Ngài”, tóm lại Ngài lui tới với những kẻ bên lề xã hội, đủ
loại, vì sứ điệp của Ngài nhắm tới hết thảy mọi người như các môn đệ của Chúa
Giêsu, chúng ta phải vượt các rào cản ngăn cách chúng ta với tha nhân, những
người nhập cư, da đen, mắc bệnh Sida, người nghèo.
Những việc thực hành
Tin Mừng này làm cho chúng ta trở thành những người di chuyển. Đi đến với những
kẻ mà chúng ta không trông mong họ đền đáp gì cả, đi đến với những người làm ta
đau khổ, đi đến với những kẻ khác với chúng ta.
Hôm nay, ta đừng sợ xét
xem chúng ta có phải là những môn đệ di chuyển vì Thiên Chúa không. Vì Thiên
Chúa không có đôi chân nào khác ngoài chân của chúng ta.
Vào ngày nắng hạ kia,
có cậu bé ra đường tình cờ nhìn thấy một đồng xu nhấp nhoáng dưới chân mình.
Cậu bé nhặt đồng xu lên nắm chặt trong tay và khuôn mặt cậu bé tỏ lộ rất là vui
mừng. Đồng xu kia thuộc về chú bé mà không phải làm gì hết! Kể từ ngày đó cứ hễ
ra đường là đầu chú bé cúi xuống với đôi mắt mở to liếc nhìn khắp chỗ để may ra
vớ được thêm đồng tiền nào chăng. Suốt cuộc đời chú bé kiếm được 302 đồng một
xu, 24 đồng năm xu, 41 đồng 10 xu, 8 đồng 25 xu, 3 đồng 50 xu, và tờ một đô-la
bị rách, tổng cộng tất cả là 12 đồng 80 xu. Tất cả số tiền thuộc về chú bé mà
không phải mất gì hết. Song chú bé ấy đã mất đi 35.127 lần nhìn xem hoàng hôn,
327 lần ngắm nhìn cầu vồng, những cảnh huy hoàng rực rỡ của lá phong đổi mầu
vào mùa thu, những áng mây trắng trôi lang thang trên bầu trời xanh ngắt, chim
bay thú chạy, ánh mặt trời cùng những nụ cười chào hỏi của những đi qua lại.
Còn biết bao điều khác nữa mà chú bé đã bỏ quên. Ý câu chuyện muốn nói là trên
thế giới này cũng có biết bao người như chú bé đã đi qua cuộc sống trong tâm
thức bị tù đầy, bỏ qua không biết bao nhiêu chuyện lý thú có thể khám phá qua
cuộc sống dương gian này.
Trong bài Tin Mừng hôm
nay, Thánh Matthêu thuật lại rằng: Chúa Giêsu đang đi bộ dọc theo bờ biển
Galilê, chợt Ngài nhìn thấy hai anh em là Simon cũng gọi là Phêrô, và em là
Anrê. Cả hai anh em đều là dân thuyền chài. Chúa Giêsu gọi họ, "Hãy
theo Ta, Ta sẽ làm cho các ngươi thành những kẻ lưới cá người" (Mt
4,19). Ngài kêu mời họ vào cuộc thám hiểm kỳ bí lý thú trong chính đời sống
mới, vào sự cảm nghiệm đời sống tình yêu của chính Ngài. Và ngay lập tức họ đã
bỏ mọi sự, tầu bè, cha mẹ, để theo Chúa như Thánh Matthêu đã kể.
Simon Phêrô, và các
tông đồ khác theo Chúa để học nơi Chúa. Chẳng bao lâu, họ nhận ra rằng Đức
Giêsu, Thầy Dạy của các bậc thầy, không những chỉ dạy Lời Chúa nhưng chính Ngài
là Lời Chúa. Ngài không những chỉ dạy cho cách sống mới mà chính Chúa Giêsu là
Sự Sống. Ngài không những chỉ cho biết ý nghĩa của “Đường sự Sống", mà
chính Ngài là Đường sự Sống, là Ánh Sáng.
Ông Thomas Carlyle
không những là sử gia mà còn là một nhà văn nổi tiếng của Scottish, có lần ông
nhận được lá thư của một sinh viên trẻ muốn trở thành thầy giáo viết cho ông
như vầy: "Thưa ông Carlyle, tôi muốn trở thành một giáo viên. Ông có thể
chỉ cho tôi biết cách làm sao để nên một thầy giáo thành công không?" Ông
Carlyle trả lời: "Hãy nên như là một học trò, như anh muốn người khác trở
nên". Còn mọi cách khác chỉ là trò đùa vô lý!" Và đó chính là cách
thức Kitô hữu dạy dỗ. Điều gì Chúa Giêsu dạy chúng ta làm thì chính Ngài đã làm
trước. Chỉ có một cách chắc chắn chúng ta có thể "liên kết với Ngài"
là hãy sống như Ngài đã sống theo như Thánh Gioan Tông đồ đã viết (1Ga 1,5-6).
Hơn nữa, chúng ta phải hối cải nếu như chúng ta muốn sống giống Chúa Giêsu vì
đó là cách duy nhất.
"Để trở nên môn
đệ Ta, thực hành điều Ta dạy, đón nhận Ta là gương mẫu sống, ôm ấp Đời Sống Mới
mà Ta ban cho, biến đổi không chỉ đạo giáo của con nhưng là toàn bộ cuộc sống
từ thói quen đến tương lai, con phải biến đổi-- đặc biệt mọi cách thức của con
nếu như con muốn theo Ta".
Chúng ta đã biết Thánh
Kinh, những lời giáo huấn của Chúa, và những cách thức Ngài đã làm gương...
Bạn có chúc lành cho
những người chúc dữ mình không? (Lc 6,28).
Bạn có bố thí cho
những ai xin bạn không? (Lc 6,30).
Bạn có làm điều tốt
cho kẻ ghét bạn không? (Lc 6,27).
Bạn có thương kẻ thù
bạn không? (Lc 6,27).
Bạn có từ bi với mọi
người không? (Lc 6,36).
Khi thấy tha nhân cần
giúp đỡ, bạn có nhìn nhận Chúa Giêsu trong họ không? (Mt 25,31-64).
Hãy để những vấn đề kể
trên thành hành động và lối sống của bạn.
Chúa Giêsu đã sống
giữa dân tộc Ngài, và rao truyền Tin Mừng về một Thiên Chúa Yêu Thương sẽ đem
họ đến sự toàn hảo. Hình ảnh một Thiên Chúa Tình Yêu được biểu lộ qua Chúa
Giêsu và những việc Ngài làm. Ngài tỏ lộ chính mình Ngài như một Gương Mẫu
Tuyệt Hảo cho dân chúng noi theo để đáp trả Thiên Chúa đáng kính yêu của họ.
Nhưng dân tộc Ngài lại ra án lệnh Ngài phải chết. Họ không chấp nhận giáo
thuyết có một Thiên Chúa Yêu Thương ở giữa họ. Chúa Giêsu đã tuyên bố rõ ràng
là nếu họ muốn theo Ngài thì phải thay đổi tất cả từ tâm linh đến cách sống của
họ. Họ phải thay đổi cách đối xử với tha nhân cũng như người ngoại bang; và họ
đã không thể chấp nhận những giáo huấn ấy.
Họ không muốn thay đổi
những gì họ đang nắm giữ, vì thay đổi là đụng chạm đến an ninh, lòng tự ái,
giáo điều và tinh thần nghiêm khắc của họ. Chúa Giêsu đến rao giảng một Thiên
Chúa Yêu Thương đã ban tặng cho họ một cách thức tốt hơn. Đời sống sẽ được
phong phú hơn bởi một tinh thần và một hệ thống giá trị mới hoàn toàn. Tất cả
những điều ấy sẽ ban tặng cho ai thống hối và đi theo Ngài. Nhưng họ không thể
chấp nhận lời kêu gọi để tiến tới sự cao siêu hơn; bởi đó họ đóng đinh Ngài và
Ngài đã chết trong chính sự u mê của họ.
Vị ngôn sứ cuối cùng
của Cựu Ước đã bị giao nộp. Số phận của ông Gioan cũng không hơn gì các ngôn sứ
đi trước. Ông dám lên tiếng và đã trả giá cho sự thật. Ánh sáng chân lý tưởng
chừng bị dập tắt để rồi mọi sự lại rơi vào bóng đêm của tử thần.
Đức Kitô chợt xuất
hiện nơi miền Galilê dân ngoại. Người là ánh sáng đã bừng lên giữa những nhiễu
nhương của tăm tối tội lỗi trần gian. Người đến công bố triều đại Thiên Chúa,
đem đến ơn giải thoát cho những ai "đang ngồi trong vùng bóng tối của tử
thần".
Đức Kitô đến công bố
sự thật về một "Nước Trời đã gần đến". Lời Người làm vang vọng những
lời của ông Gioan. Người xác định lại điều Gioan đã loan báo về Nước Trời đã
gần đến. Người công bố với uy tín của Đấng "đến sau" nhưng "có
trước", "trổi vượt hơn", vì Người là "Đấng Thiên Chúa tuyển
chọn".
Ngài mời gọi mọi người
hãy có thái độ chuẩn bị tích cực nhất: "anh em phải sám hối". Tính
cấp bách của lời này không thua gì của Gioan. Người ta phải trở về với Chúa sớm
nhất, không trì hoãn. Những ai không dứt khoát với con đường tối tăm, thỏa hiệp
với sự dữ thì chẳng bao giờ xứng đáng với Nước Thiên Chúa. Do đó, lòng dạ của
Biệt phái, của? Hêrôđê rất xa vắng với Nước Thiên Chúa gần bên, nhất là khi họ
bắt nộp và âm mưu giết hại Gioan. Chúa Giêsu không phải ngẫu nhiên mà đến rao
giảng ở miền Galilê dân ngoại. Xứ Giuđê quá cứng lòng, đã khước từ sứ điệp của
Gioan. Điều đó đã buộc Đức Giêsu đến ngỏ lời với dân ngoại miền Galilê.
Dọc biển bờ hồ Galilê
đã có những tâm hồn mở ra cho Nước Thiên Chúa. Họ chỉ là những anh chài lưới
nghèo nàn chất phác. Nhưng con tim họ thì quảng đại mạnh mẽ khác thường. Vậy là
giữa khoảng không thinh lặng không lời đáp trả đã có những con người biết lắng
nghe lời mời gọi của Đức Kitô. Họ không chỉ là những công dân mới của Nước
Thiên Chúa. Họ còn mang lấy sứ mạng rao giảng Tin Mừng Nuớc Thiên Chúa cho muôn
dân. Từ đây, thế gian tăm tối phải mở mắt thấy rằng nó có thể bịt miệng giết
Gioan, hay đóng đinh Đức Kitô, nhưng chẳng thể ngăn nổi ánh sáng Lời Chúa chiếu
tỏa trên môi miệng môn đệ Người.
Phêrô, Anrê, Giacôbê,
Gioan đã bỏ lại tất cả để theo Chúa. Hẳn là Đức Kitô phải hấp dẫn lắm và sự
nghiệp Nước Thiên Chúa phải cao đẹp lắm mới khiến các chàng ngư phủ mau mắn
theo Người như vậy. Vậy mà Chúa Giêsu chẳng hứa hẹn điều dễ dãi. Rồi số phận
của Chúa Giêsu và các môn đệ cũng chẳng khác gì Gioan. Nhưng các ông và tất cả
các môn đệ thuộc về Đức Kitô sẽ nhận ra cái logic của Tin Mừng khác với trần
gian: "trong mọi thử thách, chúng ta toàn thắng nhờ Đấng đã yêu mến chúng
ta" (Rm 8, 37).
Mọi người chúng ta
đang mang lấy ánh sáng Đức Kitô trong mình. Ánh sáng của Người đến xua tan
những ngóc ngách tăm tối để lòng ta không ngừng thuộc trọn về Người. Chúng ta
hãy mở cửa tâm hồn mình cho ánh sáng chân lý Chúa chiếu soi. Phải sám hối thật
lòng để xứng đáng với Nước Thiên Chúa đến.
Như các môn đệ, Chúa
mời gọi ta đem ánh sáng cứu độ Chúa cho mọi người. Nếu thế gian không có ánh
sáng Chúa chiếu rọi thì sẽ mãi ở trong lầm lạc, vô phương giải thoát. Và nếu
ánh sáng trong lòng ta đã tắt lịm thì sẽ chẳng thể thắp sáng cho ai được. Ta
hãy xin Chúa ban cho ta ánh sáng của Người và mau mắn đáp trả sứ mệnh loan báo
Tin Mừng cứu độ cho muôn dân.
36. Chương trình hoạt động của Đức Giêsu
(Chú giải của Lm. FX.
Vũ Phan Long)
1.- Ngữ cảnh
Nói tổng quát, bốn
chương đầu của Mt là Mở đầu cho toàn Tin Mừng I.
Về ngữ cảnh của đoạn
văn chúng ta đọc hôm nay, chúng ta có thể xác định như sau: Trong ch. 1–2, sau
khi đã dùng một thứ Diễn văn ngôn sứ rút ra từ Cựu Ước mà cho thấy làm thế nào
Lời Chúa đưa lại ý nghĩa cho “xuất xứ của Đức Giêsu Kitô, con cháu vua Đavít,
con cháu tổ phụ Abraham” (1,1-17) và thực hiện chương trình của Người xuyên qua
lịch sử loài người (1,18-25), sang ch. 3–4, Mt cho chúng ta thấy rằng, khi đến
tuổi trưởng thành, Đức Giêsu đã đảm nhận trách nhiệm về sứ mạng của Người trước
nhan Thiên Chúa Cha, Đấng đã sai phái Người. Những gì Kinh Thánh đã nói về
Người, Người sẽ hoàn tất cách ý thức và tự do. Được đầy Thánh Thần, Người sắp
được Chúa Cha bổ nhiệm làm Đấng Mêsia chân chính đi đáp ứng nỗi niềm chờ mong
của dân chúng.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia
thành bốn phần:
1) Galilê, địa bàn
hoạt động của Đức Giêsu (4,12-16);
2) Đối tượng chính của
lời Đức Giêsu rao giảng (4,17);
3) Những người đầu
tiên được nhận lời rao giảng (4,18-22);
4) Các hình thái chính
của hoạt động của Đức Giêsu (4,23).
3.- Vài điểm chú giải
- Khi Đức
Giêsu nghe tin ông Gioan đã bị nộp (12): Trong các đoạn Mt 10,4;
17,22; 20,18-19; 26,2, tác giả cũng nói rằng Con Người “bị nộp” (paredothê);
như thế, Gioan Tẩy Giả và Đức Giêsu có chung mộtsố phận. Dạng bị động hàm ý
biến cố thuộc về ý muốn của Thiên Chúa: chương trình của Thiên Chúa đã được
hoàn tất trong cuộc đời Gioan, cũng như sau này, sẽ được hoàn tất trong cuộc
đời Đức Giêsu. Hơn nữa, hai sứ vụ được liên kết với nhau trong chương trình của
Thiên Chúa: Đức Giêsu bắt đầu hoạt động công khai vào lúc Thiên Chúa cho chấm
dứt sứ vụ của Gioan.
- Người
lánh qua (anachôreô, “lui về”) (12): Miền Giuđê là pháo đài của
Do-thái giáo chính thức, với hai nhóm bảo vệ là Pharisêu và Xađốc. Đã bắt được
Gioan, hẳn là họ sẽ tìm cách loại trừ cả Đức Giêsu. Vì thế, Người quyết định
khởi đầu sứ vụ tại miền Galilê, nơi mà ảnh hưởng của Thượng Hội Đồng và của
nhóm Pharisêu không mạnh bao nhiêu. Khi sử dụng động từ anachôreô ở đây như ở
2,12 (x. 9,24; 12,15; 15,21;…), rất có thể Mt cho hiểu rằng chính thái độ cứng
tin của miền Giuđê (dưới ảnh hưởng của phái Pharisêu, tỏ ra bằng việc loại trừ
Gioan) đã khiến Đức Giêsu phải ngỏ lời với “Galilê, miền đất của dân ngoại”.
- bỏ
Nadarét (13): Không phải là Người bỏ rơi, nhưng là không chọn
Nadarét làm khởi điểm cho sứ vụ. Đức Giêsu chọn Caphácnaum: Mt chuẩn bị đưa vào
sấm ngôn Is 8,23–9,1. Caphácnaum chính là miền đất xưa kia hai chi tộc Dơvulun
và Náptali đã cư ngụ (x. Gs 19,10-16.32-39). Mt trích sấm ngôn Isaia này là để
trả lời vấn nạn vì sao Đức Giêsu chọn miền Galilê làm nơi sân khấu chính để khởi
đầu hoạt động của Người: điều đó nằm trong chương trình của Thiên Chúa (như sấm
ngôn Is đã loan báo).
- Dơvulun …
Náptali (15-16): Hai chi tộc này chiếm phần lớn miền Galilê, đã bị
đế quốc Átsua thôn tính vào năm 734, và sau đó bị hy-hóa vào thời các triều vua
dòng họ Sêlêukhô. Từ đó họ đã bị Dân Ngoại tràn ngập. Ngôn sứ Isaia (ch. 8 và
9) đã loan báo ngày giải phóng. Mt thấy chính Đức Giêsu sẽ giải phóng họ, không
phải về phương diện chính trị quân sự, mà là về tôn giáo.
- Galilê,
đất của dân ngoại (15): Đối lại với Giuđê tinh tuyền về giống nòi,
Galilê trở thành biểu tượng của cuộc quy tụ phổ quát: đây là Đất Hứa đang mở ra
với Đức Giêsu, là Israel chân chính, sau khi Người đã ở trong hoang địa và vượt
qua sông Giođan. Chúng ta gặp mộtđề tài quen thuộc của Mt: Đức Giêsu ngỏ lời
trước tiên với các chiên lạc nhà Israel (x. 10,6; 15,24).
- một ánh
sáng huy hoàng (16): Ánh sáng này sẽ xuất hiện ra với các môn đệ
vào cuộc Hiển Dung (x. 17,2) và còn xuất hiện huy hoàng rực rỡ hơn nữa vào Ngày
Phục Sinh.
- Anh em
hãy hối cải, vì Nước Trời đã đến gần (17): Công thức này tương tự
với công thức ở 3,2 (Gioan Tẩy Giả) và 10,7 (các môn đệ). Bằng cách đó, tác giả
Mt khẳng định sự tiếp nối của các sứ mạng: việc rao giảng của Gioan chuẩn bị
cho việc rao giảng của Đức Giêsu, và việc rao giảng của các môn đệ nối dài sứ
điệp của Đức Giêsu.
- Nước Trời (17):
Đây là cách Mt nói quanh để tránh gọi tên Thiên Chúa, nên “Nước Trời” chính là
“Nước Thiên Chúa” (nhưng cũng có bốn lần ông dùng cụm từ “Nước Thiên Chúa”:
12,28; 19,24; 21,31.43). Basileia có thể dịch ra là “triều đại, vương quyền,
vương quốc”. Còn “trời” (tôn ouranôn) không có nghĩa là “Nước” này thuộc về
thiên giới, nhưng có nghĩa là Đấng đang ở trên trời (5,48; 6,9; 7,21) thì đang
trị vì trên thế giới. Do trung thành với truyền thống Cựu Ước, Mt biết rằng
vương quyền luôn luôn thuộc về Thiên Chúa (x. Tv 22,29; 103,19; 145,11-13). Đây
là sứ điệp chính của Đức Giêsu: Người loan báo “Nước” (Triều Đại) này đang/đã
đến và chính Người thực hiện trong tư cách là Con Người (x. 26,64; Đn 7,13-14
[LXX]: Mt 28,18). Trong Mc và Lc, có những chỗ Đức Giêsu đã công bố Nước Thiên
Chúa như là mộtthực tại thuộc về tương lai (x. Mc 14,25; Lc 11,2; …), và có
những chỗ Người lại bảo đó là mộtthực tại đang có trong hiện tại nơi sứ vụ và
nơi bản thân Người (x. Lc 7,18-23; 10,23t…). Do dựa trên loạt bản văn thứ nhất
hoặc thứ hai mà có hai lý thuyết ở hai đối cực: “thời cánh chung đã đến” và
“thời cánh chung đang đến”.
- đã đến
gần (eggiken, 17): Eggiken là thì hoàn thành của động từ eggizô,
“đến gần”. Đây là mộttừ vẫn đang gây nhiều tranh luận. Các bản dịch khá khác
nhau: “est tout proche” (BJ), “s’est approché” (TOB), “is at hand” (King James
1611; NAB 1988), “is fast approaching” (để nêu bật tính cấp bách: x. Albright
trong Anchor Bible), “is near, is at hand” (Zerwick). C.H. Dodd cho rằng
eggiken được dịch từ mộtđộng từ a-ram có nghĩa là “đạt tới; đến”. Vì thế, ông
dịch là “Nước Trời đã đến”. Nhưng eggizô (do tính từ eggys, “gần”) có nghĩa là
“đến sau; tiến lại gần”; do đó, đa số các nhà chú giải chọn cách dịch là “Nước
Trời đã gần (đến)”.
- Cc.
16-22: Truyện Đức Giêsu kêu gọi các môn đệ đầu tiên được kể theo
mẫu các ơn gọi ngôn sứ trong Cựu Ước (x. Êlisa: 1 V 19,19). Bài này không nói
đến chiều kích tâm lý, nhằm làm nổi bật lời kêu gọi của Đức Giêsu và lời đáp
gắn bó bằng đức tin hơn. Lược đồ này diễn tả tương quan tiêu biểu giữa Đức
Giêsu và người môn đệ lý tưởng: Thầy vừa lên tiếng gọi, môn đệ bỏ mọi sự mà đi
theo ngay, không lưỡng lự, không thắc mắc. Đức Giêsu chỉ yêu cầu các ông đi
theo Người và sống với Người, và chỉ sai phái các ông đi loan báo Tin Mừng sau
Phục Sinh (khác với Mc 6,12-13 và Lc 9,6). Khi viết như thế, có lẽ Mt muốn ưu
tiên nêu thật rõ dung mạo có một không hai của Thầy.
- những kẻ
lưới người như lưới cá (19): Phải chăng đây là một ám chỉ đến sách
Êdêkien (47,10)? Bản dịch TOB bảo hiểu Mt 4,19 và Lc 5,10 theo Mc 1,17 (chú
thích c): hình ảnh tiêu cực và như đe dọa (x. Kb 1,15.17; Gr 16,16) để diễn tả
rằng các tông đồ sẽ đi rao giảng Tin Mừng hầu quy tụ người ta lại mà chịu phán xét
và được vào Nước Thiên Chúa (x. Mt 13,47-50). Nhưng nếu hiểu theo Lc 5,10, thì
ý nghĩa tích cực hơn nhiều: động từ zôgreô (do zôos, “sống”, và agreô, “bắt”)
có nghĩa là “bắt (mà cứu sống)” (Zerwick). Có lẽ cũng nên hiểu Mt 13,47-50 theo
hướng này.
Dù sao, có thể nói
rằng Nước Trời như đã được thiết lập khi Đức Giêsu kêu gọi các môn đệ, bởi vì
Nước Trời chủ yếu là mộtcộng đoàn gồm những con người quy tụ quanh Đức Giêsu
trong sự hiệp thông với Chúa Cha.
- khắp miền
Galilê (23): Đức Giêsu đến nhắm ngỏ lời với toàn thể dân Người
trong khắp xứ (chứ không như các kinh sư Do-Thái).
- giảng dạy
… chữa … (23): “Đức Giêsu đi khắp miền Galilê / các thành thị,
làng mạc / giảng dạy (didaskôn, participle) trong các hội đường của họ, rao
giảng (kêryssôn, part.) Tin Mừng Nước Trời, và chữa (therapeuôn, part.) hết các
bệnh hoạn tật nguyền của dân” (4,23 và 9,35). Câu này đóng khung khối từ ch. 5
đến ch. 9. Năm chương này làm thành một đơn vị về văn chương và đề tài. Nội
dung của đơn vị này sẽ nhắc lại và triển khai ba phân-từ (participle) chứa
trong câu tổng hợp này.
Giáo huấn của Bài
Giảng trên núi (ch. 5–7) và những cuộc chữa bệnh (ch. 8–9: 10 phép lạ) là hai
hình thái của Tin Mừng về Nước Trời. Đức Giêsu công bố Nước Trời bằng lời nói
(ch. 5–7) và bằng hành động (ch. 8–9). Bài Giảng trên núi minh họa đặc biệt
những điều kiện để gia nhập và phát triển trong Nước Trời. Có thể nói Bài Giảng
này nối dài câu “Anh em hãy sám hối (hoán cải)”, Bài Giảng này như là lời đáp
của con người khi Nước Trời đến (x. 4,23).
- chữa hết
mọi kẻ bệnh hoạn tật nguyền trong dân (23): Nền văn chương khải
huyền thời Đức Giêsu (x. Các Thánh vịnh Salômôn) đầy những ý tưởng về Thiên
Chúa là Đấng che chở người công chính và tránh cho họ khỏi bệnh hoạn và những
nghịch cảnh. Hoạt động chữa bệnh của Đức Giêsu đáp ứng mộtniềm chờ mong nơi dân
chúng, nhất là thực hiện lời sấm Is về Người Tôi Trung của Đức Chúa mang lấy
bệnh tật của dân (x. Is 53,4), mà ông đã áp dụng cho Đức Giêsu (x. Mt 8,17).
Còn toàn bộ Tin Mừng
cho thấy rằng Đức Giêsu không chọn nguyên tắc là chữa tất cả các bệnh nhân, y
như thể Người muốn cho người ta hưởng nhờ tối đa khả năng làm phép lạ của
Người. Người chỉ thực hiện mộtsố phép lạ chữa bệnh có ý nghĩa liên hệ đến Nước
Trời và quyền bính của riêng Người.
4.- Ý nghĩa của bản
văn
* Galilê,
địa bàn hoạt động của Đức Giêsu (12-16)
Đức Giêsu đã đến sông
Giođan để được Gioan ban phép rửa cho; Người đã dừng lại ở phía nam Thánh Địa
(x. 3,13–4,11). Thế rồi tại sao Người lại trở về để hoạt động tại miền Galilê,
là miền không được coi là quê hương của Đấng Mêsia (x. Ga 7,41.42.52)? Tại sao
Người không ở lại miền Giuđê và Giêrusalem, là trung tâm của dân Thiên Chúa? Mt
cho biết là Đức Giêsu rút lui (lánh đi), Người cảm thấy bị đe dọa và nhường
bước cho áp lực của những hoàn cảnh bên ngoài. Sự đe dọa đã khiến cha nuôi
Người phải đổi chỗ ở vào đầu đời Người (2,13.14.22) và sẽ còn bó buộc Người
liên tục rút lui cả trong thời gian hoạt động công khai (12,15; 14,13). Với các
môn đệ sau này, Người dạy họ trốn sang thành khác, khi bị bách hại (10,23). Cũng
như Người, họ phải bố trí đời sống dựa theo những hoàn cảnh bên ngoài. Nơi số
phận của Gioan, đã bị vua Hêrôđê cho bắt và sẽ cho giết chết theo ngẫu hứng (x.
14,3-12), kết cục cuộc đời Đức Giêsu đã được loan báo: Người cũng sẽ bị giao
nộp vào tay loài người (17,22), cho sự gian tà và độc ác của họ. Như thế, ngay
trên bước khởi đầu hoạt động của Đức Giêsu, bóng tối của kết cục bi thảm đã
được trương ra. Hoạt động của Người được triển khai dưới dầu chỉ là cuộc Khổ
Nạn của Người. Tuy nhiên, tất cả những điểm này đều thuộc về chương trình của
Thiên Chúa: chính Thiên Chúa đã để cho Gioan và sẽ để cho Đức Giêsu “bị nộp”;
sự kiện Gioan bị nộp là như tín hiệu Thiên Chúa dùng để báo cho Đức Giêsu biết
đã đến lúc Người hoạt động.
Cũng như Người đã đến
cư ngụ tại Nadarét (2,22t), nay Đức Giêsu đến hoạt động tại Galilê và
Caphácnaum, do bị bó buộc bởi các biến cố bên ngoài. Trong cả hai trường hợp,
tác giả ghi nhận là như thế, ý muốn của Thiên Chúa do các ngôn sứ loan báo được
thể hiện. Cho dù nhiều lần phải điều chỉ do các bó buộc bên ngoài, hành trình
của Đức Giêsu vẫn hoàn toàn ở dưới sự hướng dẫn của Thiên Chúa. Người đi về
vùng ngoại biên Israel, vào “Galilê, đất của dân ngoại”, tại đó cũng có người
ngoại cư ngụ và chung quanh là các miền đất Dân ngoại. Hoạt động của Người nhắm
đến dân Israel (15,24), nhưng tại đây cũng lan tỏa ra các Dân ngoại và được họ
nhận biết (x. 4,24t). Điều đã được loan báo bởi cuộc viếng thăm của các hiền sĩ
(2,1-12) và điều sẽ được công bố trong sứ mạng cuối cùng của các môn đệ trong
liên hệ với muôn dân (28,19), nay cũng được tỏ hiện tại các nơi chính mà Người
hoạt động: Người cũng là ánh sáng cho Dân ngoại nữa. Tại nơi đã chỉ có bóng tối
của tử thần, đã bừng lên mộtánh sáng. Đối với loài người chúng ta, mặc dù chúng
ta biết nhiều, kết cục và ý nghĩa của đời sống hoàn toàn vô phương dò thấu và
mờ mịt. Bằng sứ điệp của Người về Thiên Chúa, Đức Giêsu mang ánh sáng và khai
mở sự sống viên mãn.
* Đối tượng
chính của lời Đức Giêsu rao giảng (17)
Các lời “Anh em hãy
hối cải, vì Nước Trời đã đến gần” tóm tắt toàn thể sứ điệp của Đức Giêsu. Tiếng
gọi đi trước, nhưng hoàn toàn lệ thuộc lời loan báo, vì dựa trên lời này
(“vì”). Thuật ngữ “Nước Trời” chỉ có trong Mt, tương ứng với “Nước Thiên Chúa”
trong phần còn lại của Tân Ước. Theo cách dùng của người Do-thái, họ tránh từ
“Thiên Chúa” và thay thế bằng “trời” (x. 21,25; Lc 15,18). “Nước Trời” chính là
triều đại hoặc quyền chủ tể của Thiên Chúa như là vua. Tất cả hoạt động của Đức
Giêsu quy chiếu về Triều Đại. Triều Đại không có nghĩa là mộtđiều gì khác và
tách biệt với Thiên Chúa, nhưng là chính Thiên Chúa trong tư cách Chúa Tể và
Vua của dân Người, cùng với các hậu quả của quyền chủ tể trên dân. Dân thì luôn
luôn thuộc về nhà vua; quyền chủ tể vương giả có nghĩa là dấn thân với lòng tốt
và sự quan tâm mà lo lắng cho đời sống của dân, như một mục tử lo lắng cho đời
sống của đàn chiên (x. Tv 23,1).
Triều Đại này đã đến
gần, chứ chưa hoàn toàn hiện diện. Đức Giêsu sẽ dạy họ cầu nguyện “xin triều
đại Cha ngự đến” (6,10). Tuy nhiên, Triều Đại này đã đến gần vĩnh viễn. Thiên
Chúa đã quyết định giương cao Vương quyền này trước mặt tất cả các thế lực khác
và thực hiện Vương quyền này cách công khai và hết sức hữu hiệu. Không còn có
thể quay lui, mà chỉ có thể bước tới cho đến khi Triều Đại này được tỏ hiện trọn
vẹn. Thiên Chúa sẽ không trì hoãn và cứ ẩn mình mãi. Người sẽ không bỏ rơi loài
người cho các thế lực của thiên nhiên và lịch sử, cũng như cho hoàn cảnh trong
đó họ phải quy phục lẫn nhau. Người sẽ chấm dứt tất cả các thế lực này và chính
Người sẽ trực tiếp là Vua và Chúa. Đức Giêsu sẽ làm sáng tỏ bản chất của Triều
Đại này đặc biệt trong sứ điệp của Người về Thiên Chúa như là Cha và trong hoạt
động bác ái của Người để chữa lành và giúp đỡ.
Trước lời công bố là
lời mời gọi: “Hãy hối cải!”. Đức Giêsu mời các thính giả quay về với Thiên
Chúa. Họ phải quay mặt về Người, chăm chú lắng nghe, với lòng tin tưởng và hy
vọng. Con người chỉ có thể hoán cải nếu Thiên Chúa quay về cách nhưng-không với
con người. Tuy nhiên, lời kêu gọi hoán cải được đặt ở đầu, bởi vì lời đáp của
chúng ta với Thiên Chúa là điều tuyệt đối cần thiết, và có thể thất bại nếu
không được nói ra. Hành động của Thiên Chúa thì đã chắc chắn; vì thế, Đức Giêsu
đã nhấn mạnh nhiều trên sự cần thiết phải hoán cải.
* Những
người đầu tiên được nhận lời rao giảng (18-22)
Một trong những điều
kiện căn bản đề Đức Giêsu có thể hoạt động là Người có quanh mình mộtsố người
để họ đi đường với Người thường xuyên, thiết lập với Người mộtsự hiệp thông đời
sống và có thể trải nghiệm trọn vẹn hoạt động của Người. Đức Giêsu không hoạt
động tùy hứng hay theo ngẫu nhiên, cũng không bắt hoạt động của Người lệ thuộc
những cuộc gặp gỡ tình cờ và chóng qua. Người có mộtcộng đoàn môn đệ bao quanh.
Lời kêu gọi “Hãy hối cải!” được nhắc lại và được làm sáng tỏ bởi tiếng gọi “Hãy
đi theo tôi!”. Đức Giêsu đã gọi bốn môn đệ đầu tiên là Simôn và Anrê, Giacôbê
và Gioan đi theo Người. Ta sống sự hoán cải trong khi đi theo Đức Giêsu. Ai
theo Người thì tin tưởng vào Người, bởi vì Người biết kết cuộc và biết con
đường phải theo. Ai đi theo Người thì gắn bó với Người và chấp nhận được Người
hướng dẫn. Khi đi theo Người, các môn đệ được đưa vào trong sứ điệp về Nước
Trời và vào trong việc hoán cải như là câu trả lời đúng đắn với sứ điệp này.
Những ai đi theo Đức
Giêsu thì phải ra khỏi hoàn cảnh sống trước đó và gắn bó với Người. Tuy nhiên,
dây liên kết này không tách họ khỏi những người khác, trái lại phải chuẩn bị họ
cho mộtnhiệm vụ mới nơi loài người. Đức Giêsu gọi đi theo Người, đồng thời cho
biết ý định của Người: “Tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như
lưới cá”(4,19). Xuyên qua cuộc cộng đồng sinh tử với Người, Đức Giêsu chuẩn bị
họ tiếp nối sứ mạng của Người, trong tư cách là những sứ giả của Người (x.
9,36–10,42; 28,16-20).
* Các hình
thái chính của hoạt động của Đức Giêsu (23)
Hoạt động của Đức
Giêsu được triển khai khắp miền Galilê và được thực hiện qua giáo huấn, lời
giảng và các phép lạ chữa bệnh (4,23). Lời dạy về sự hoán cải đúng đắn, lời
loan báo và giải thích Tin Mừng về Nước Trời, và sự xác nhận các điều đó nhờ
các cuộc chữa bệnh là những điểm chìa khóa của hoạt động của Đức Giêsu.
+ Kết luận
Là vị Tiền Hô của Đấng
Mêsia, Gioan đã dừng chân tại hoang địa và ở tại sông Giođan mà làm phép rửa
cho những ai đến với ông. Còn Đức Giêsu, Đấng Mêsia, đã sống đời “du thuyết”;
Người rảo khắp miền Galilê mà công bố rằng Nước Trời đang đến. Ngay từ đầu,
Người đã tỏ ra là vị Mục Tử tốt lành đi tìm “các chiên lạc của nhà Israel”. Và
vì quan tâm bảo đảm cho hoạt động của Người được hữu hiệu lâu dài, Người đã quy
tụ các “ngư phủ lưới người” đầu tiên, để họ sống với Người và với nhau. Sau
này, các ông sẽ nối tiếp Người, đi loan báo Nước Trời khắp nơi, không phải chỉ
cho dân Israel, mà cho mọi người thuộc mọi thời đại.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Vào ngày hôm nay,
Đức Giêsu vẫn còn công bố sứ điệp về Nước Trời giữa lòng cộng đoàn cử hành
Phụng vụ. Lời Người vẫn cấp bách như thuở nào: “Hãy hối cải, vì Nước Trời đã
gần đến”. Thiên Chúa vẫn đang tìm cách hiển trị trong đời sống chúng ta mộtcách
rõ nét hơn; Người có thể áp đảo chúng ta, nhưng Người không muốn, vì Người tôn
trọng tự do của chúng ta. Do đó, chúng ta được mời gọi xét lại tâm hồn mình, bỏ
đi những trở ngại khiến trái tim chúng ta không mở rộng ra được với các viễn
tượng phổ quát của Thiên Chúa. Nếu chúng ta không loại bỏ được những trở ngại
đó, là chúng ta như đang bị bệnh tật. Khi đó, chúng ta có thể xin với Đức Giêsu
và Người sẽ chữa chúng ta lành.
2. Các hoàn cảnh bên
ngoài không phải chỉ là những bó buộc, nhưng thường cũng là những chỉ dẫn Thiên
Chúa ban để chúng ta đi đúng đường lối của Người. Đức Giêsu đã chứng tỏ như
thế. Các thánh cũng đã hiểu như thế, qua các cuộc mò mẫm tìm kiếm ý Chúa. Hôm
nay, chúng ta được mời gọi lưu ý đến các hình thái này mà Thiên Chúa đang dùng
để hướng dẫn chúng ta.
3. “Hãy hối cải!”.
Loài người không được quay lưng lại với Thiên Chúa, rời xa Người và tìm hạnh
phúc và ơn cứu độ ở chỗ khác. Hành động Thiên Chúa đến với loài người đòi buộc
họ đáp trả bằng cách di chuyển về phía Thiên Chúa. Họ không thể được Người đến
gặp và nhận được các phúc lành của Triều Đại Người, nếu họ quay về với những
người khác. Ngay từ đầu, lời rao giảng của Đức Giêsu đã nêu bật hai đề tài
chính này: Người nói rõ là chúng ta có thể chờ đợi gì nơi Nước Thiên Chúa và
đồng thời, Người trình bày cho thấy đâu là các hình thái của sự hối cải chân
thật. Cả hai yếu tố này được trình bày rõ ràng trong các Mối Phúc (5,3-12).
4. Đức Giêsu xuất hiện
là đưa lại ánh sáng và niềm vui. Hôm nay, chúng ta có nhận ra Người vẫn đang
hiện diện trong thế giới, giữa lòng cuộc sống chúng ta, để chúng ta tiếp tục
đón nhận được niềm vui và ánh sáng? Đàng khác, chúng ta đã được chọn để nối
tiếp sứ mạng của Người. Chúng ta đang chu toàn sứ mạng đó thế nào? Đức Kitô vẫn
đang đến gặp chúng ta ngay giữa những sinh hoạt, những niềm vui và những nỗi
phiền sầu của chúng ta, để mời gọi chúng ta đi theo Người. Có lẽ Người không
lôi kéo chúng ta theo Người về mặt thể lý cho bằng về mặt thiêng liêng: chúng
ta được thúc bách rời bỏ chính mình, bỏ tính ích kỷ, bỏ đi sự cứng cỏi, để sống
với Người mỗi ngày trong sự từ bỏ và trong tình yêu.
5. “Hãy theo tôi”.
Tiếng gọi của Đức Giêsu nhằm mời gọi các môn đệ đầu tiên cũng là mộtlời mời
hoán cải liên tục. Chúng ta được mời gọi lấy mộtquyết định cương quyết đầu
tiên, đôi khi là mộtđoạn tuyệt đau đớn nào đó, rồi ngày qua ngày, kiên trì bước
theo giáo huấn của Người, chúng ta sẽ thực hiện những bước hối cải mới để càng
trở nên môn đệ hơn.
37. Suy niệm của Noel Quession
Khi Đức Giêsu nghe tin
ông Gioan đi bị nộp...
Chúng ta luôn nghĩ
rằng thời đại của chúng ta là một thời đại xáo trộn nhất với những vụ bạo lực,
bắt cóc tin, giết người tấn công có vũ trang. Vả lại, Tin Mừng của Matthêu giới
thiệu với chúng ta thời đại của Đức Giêsu như một thời đại bi đát. Đúng vào lúc
mà chính quyền bắt giam người anh họ của Người, không cho ông giảng dạy nữa,
Đức Giêsu quyết định tiếp lục sự giảng dạy đó! Phải có lòng can đảm, Đức Giêsu
mới dám lao vào một cuộc phiêu lưu cũng sẽ đưa Người đến cùng một số phận bi
thảm. Ở đây Matthêu sử dụng cùng một từ ngữ như trong cuôc khổ nạn: "Nghe
tin ông Gioan đã bị nộp". Trong vài tuần lễ nữa, Đức Giêsu sẽ nói:
"Này chúng ta lên Giêrusalem. Con Người sẽ bị nộp cho các thượng tế và
kinh sư; họ kết án tử hình Người và nộp Người cho dân ngoại" (Mt 20,18 -
26,2).
Đời sống của tôi cũng
thế, có lẽ khó sống. Những cuộc xung đột mà tôi phải sống chẳng phải là cơ hội
để tôi hiệp thông với Đức Giêsu sao?
Người lánh qua miền
Galilê...
Từ "lánh qua” lui
về, là từ đặc biệt của Tin Mừng Matthêu. Thánh sử nhấn mạnh rằng Đức Giêsu (vốn
là Thiên Chúa!) là một hạng người bị cấm cách, lưu đày lúc nào cũng phải chạy
trốn, và bị những kẻ thù ghét truy nã (Matthêu 12,15 - 14,13 - 15,21). Cũng với
những công thức ấy Matthêu đã cho thấy Giuse chạy trốn khỏi miền Giuđê lui về
miền Galilê vì Áckêlao nguy hiểm đã kế vị vua cha (Mt 2, 22-23).
Rồi Người bỏ Nadarét,
đến ở Caphácnaum. Một thành ven biển hồ Galilê. thuộc địa hạt Dơvulun và
Náptali.
Đức Giêsu dời chỗ.
Người rời bỏ ngôi làng nhỏ nơi Người đã sống thời thơ ấu. Nói đến ở một
"thành phố trong thế kỷ cơ động của chúng ta, tôi thích nghĩ rằng Đức
Giêsu cũng đã phải làm quen với những láng giềng mới, tạo ra các mối quen hệ
mới, thay đổi môi trường! Vậy, Đức Giêsu đã chọn thành phố nào để ở như sau này
người ta sẽ nói "thành phố của Người” (Matthêu 9,1). Caphácnaum! Đó là
thành phố của Simon Phêrô. Nhưng sự khai quật gần đây đã khám phá ra ngôi nhà
khiêm tốn của người ngư dân đó, rất gần cảng... Đức Giêsu đã đến cư ngụ trong
ngôi nhà đó. Caphácnaum là một thành phố biên giới, nằm trên đường biên giới
của hai quốc gia của Hêrôđê và của Philípphê. Thành phố này có một trạm thu
thuế, rnột đội quân La mã đồn trú. Khác với Nadarét là một thị trấn nhỏ, nằm ẩn
khuất sau những đồi núi, Caphácnaum là nơi qua lại và tụ tập nhiều dân là địa
điểm quan trọng trên con đường ven biển nối liền Đamát, cửa vào sa mạc, đến
Xêsarê cửa ra biển Địa Trung Hải. Đức Giêsu không dời chỗ mà không có lý do. Sự
chọn lựa này có một ý nghĩa.
“Để ứng nghiệm lời
ngôn sứ Isaia nói: "Này đất Dơvulun, và đất Náptali, hỡi con đường ven
biển, và vùng tả ngạn sông Giođan, hỡi Galilê, miền đất của dân ngoại! Đoàn dân
đang ngồi trong cảnh tốt tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng. Những kẻ đang ngồi
trong vùng bóng tối của tử thần nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi".
Matthêu khi trích dẫn
Isaia, có ý nói rằng Đức Giêsu vâng phục theo ý muốn của Chúa Cha: Người làm
điều mà Thiên Chúa đã nói. Đây là sự vâng phục cao cả, to lớn và kỳ diệu được
đảm nhận với tự do và tình yêu. Thánh sử cũng nhấn mạnh đến sự liên tục của Đức
Giêsu với toàn bộ lịch sử của dân Người: vì thế có sáu mươi sáu lời trích dẫn
của Cựu Ước trong Tin Mừng của Matthêu. Nhưng chúng ta có thể thấy ở đây một ý
chí có cân nhắc Đức Giêsu: Người đi đến với những người xa Thiên Chúa
nhất.
Miền đất Galilê là một
tỉnh pha trộn nhiều sắc dân, một sứ sở mở rộng cho các đoàn thương nhân. Đức
Giêsu đến ở đó! Người không định rao giảng trước tiên cho thành Giêrusalem, và
miền đất thánh Giuđê... nhưng trong miền đất phía Bắc, mở ra cho các ảnh hưởng
ngoại giáo và do đó bị giới lãnh đạo Do Thái nghi ngờ và khinh bỉ như miền đất
lạc giáo không nhiều thì ít. Giáo Hội ngày nay có mang tính chất truyền giáo
như Đức Giêsu không?
Phần tôi thì sao?
Những phản ứng sâu xa của tôi là gì? Có phải tôi chỉ lui tới thân mật với những
người suy nghĩ giống tôi? Có phải tôi tránh tiếp xúc với những người ngoại giáo
và vô thần? Có phải theo bước Đức Giêsu. Tôi đến chỗ ngã tư đường chỗ giao lưu
với dân ngoại? Có phải tôi sẽ mạnh dạn đến xứ sở của “bóng tối và sự
chết", để đưa vào đó một chút “ánh sáng"?
Tôi chiêm ngắm Đức
Giêsu rời bỏ ngôi làng nhỏ của người... đến cư ngụ ở Caphácnaum...
Từ lúc đó Đức Giêsu
bắt đầu rao giảng, và nói rằng: "Anh em hãy sám hối vì Nước Trời đã đến
gần".
Đức Giêsu tiếp tục
việc rao giảng của Gioan Tẩy Giả không thay đổi một lời (Mt 3,2) Và Đức Giêsu
đến lượt mình bị giết chết, Phêrô sẽ lặp lại cùng một sứ điệp (Cv 2,38).
"Anh em hãy sám hối, hãy thay đổi!”. Chúng ta có xác tín rằng chúng ta một
sự đổi hướng phải thực hiện không? Chúng ta không tự phát quay hướng Thiên
Chúa, Tha Thể tuyệt đối cũng như về người khác… Theo tính tự nhiên, chúng ta
lấy mình làm trung tâm. Nếu chúng ta sáng suốt, chúng ta phải thừa nhận rằng
chúng ta có một sự đổi hướng hoàn toàn phải thực hiện… để Thiên Chúa thật sự
ngự trị trong lòng chúng ta... để Nước Thiên Chúa được ở đây trong đời tôi.
Một cách cụ thể, sự
sám hối, hoán cải nào mà Thiên Chúa đòi hỏi tôi trong lúc này?
Người đang đi dọc theo
biển hồ Galilê, thì thấy hai anh em kia, là ông Simon, chúng gọi là Phêrô, và
người anh là ông Anrê, đang quăng chài xuống biển vì các ông làm nghề đánh cá.
Người bảo các ông: "Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành
những kẻ lưới người như lưới cá".
Cảnh nầy lầ một cảnh
tầm thường và hoàn toàn đơn giản theo thể cách của Matthêu. Không có gì là phi
thường, đặc biệt. Theo Matthêu, hành động đầu tiên của Đức Giêsu không phải là
một phép lạ nhưng là một lời kêu gọi. Cuộc phiêu lưu của Giáo Hội, cuộc cách
mạng đã thay đổi bộ mặt của trời đất, đã bắt đầu như thế... trong hoàn cảnh tầm
thường của các ngư dân làm công việc mỗi ngày của họ. Chúng ta hãy lưu ý tầm
quan trọng đó: Đức Giêsu “kêu gọi" các tông đồ của Người không phải trong
khuôn khổ một lễ hội tôn giáo hoặc một hoạt động tâm linh... nhưng ở giữa đời
sống mỗi ngày của họ, trong lúc họ đang làm công việc nghề nghiệp!
Quả Đức Giêsu có sự
táo bạo? Chính Người đã khởi xướng, chính Người đã kêu gọi. Xem ra Người hoàn
toàn biết rõ Người muốn đi đến đâu! Người lôi kéo người ta đi theo Người. Người
điềm nhiên nói rằng mọi người được dựng nên cho Người, phải đi đánh lưới họ,
như người ta đi lưới cá.
Lập tức hai ông bỏ
chài lưới mà đi theo Người.
Ngày nay, có sự thiếu
ơn gọi. Tin Mừng ngày hôm nay phải thức tỉnh chúng ta. Chắc chắn, Chúa vẫn tiếp
tục gọi. Ai sẽ chấp nhạn sống cuộc phiêu lưu trong hoạt đọng tông đồ như trong
thời kỳ đó? Lúc đó, những người được gọi đã đáp lại vô điều kiện... Còn tôi?
Đi một quãng nữa:
Người thấy hai anh em khác con ông Dêbêđê, là ông Giacôbê và người em là ông
Gioan. Hai ông này đang cùng với Cha lã ông Dêbêđê vá lưới ở trong thuyền.
Người gọi các ông, lập tức các ông bỏ thuyền, bỏ cha lại mà theo Người.
Sự đáp lại ơn gọi quả
mau lẹ đối với chúng ta xem ra như không có thật. Chúng ta chớ nên quên rằng
những người như Gioan và Giacôbê đã được Gioan Tẩy Giả chuẩn bị về mặt tâm lý
và lịch sử. Vả lại đây không phải là lần đầu tiên họ gặp Đức Giêsu. Họ đã gặp
Người ở bờ sông Giođan (Ga 1,35-50). Tuy nhiên, chúng ta không nên giảm nhẹ
những yêu sách triệt để của Đức Giêsu: Câu chuyện được xây dựng trên sơ đồ ngôn
sứ Êlisa cũng đã đốt cày của ông, nướng bò của ông "để không bao giờ còn
quay lại đàng sau. Chúng ta không đơn thuần trong một quan hệ “bình
thường" của môn đệ với rápbi hay giáo trưởng của họ. Không phải Giacobê và
Gioan, cũng không phải Phêrô và Anrê đã tìm kiếm Đức Giêsu mà chính Đức Giêsu
với sự cao cả của Người đã có sáng kiến mời gọi họ.
Và nếu đó là Thiên
Chúa mời gọi tôi? Tôi sẽ làm gì?
Thế rồi Đức Giêsu đi
khắp miền Galilê, giảng dạy trong các hội đường của họ, rao giảng Tin Mừng Nước
Trời, và chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền của dân.
Matthêu tóm lược ở đây
mọi hoạt động của Đức Giêsu. Thánh sử nói lại nguyên văn câu này trước lúc Nhóm
Mười Hai bắt tay vào việc truyền giáo (Mt 9,35). Tôi phải dành thời gian để
chiêm niệm trong thinh lặng và kéo dài về Đức Giêsu. Tôi tưởng tượng Người,
đang bước đi trên mọi nẻo đường, từ làng này sang làng khác.
Người rao giảng Tin
Mừng. Ở đây có từ ngữ "kêrussôn" mà nghĩa theo mặt chữ là cao rao
(kêu gào) Tin Mừng. Từ này gợi ý một anh mõ làng (một người rao tin) đến gần để
công bố một tin: Nước Thiên Chúa đã đến! Người cũng giáo huấn dạy dỗ. Từ dùng ở
đây là "didaskôn" gợi ý một hoạt động được triển khai nhiều hơn và
mang tính sư phạm nhiều hơn. Giờ đây chúng ta tưởng tượng Đức Giêsu được vây
quanh bởi những kẻ mà người kể cho nghe những dụ ngôn, ví dụ là như thế. Một số
nhà chú giải Kinh Thánh nghĩ rằng Đức Giêsu đã sử dụng các phương pháp giảng
dạy của các giáo trưởng thời đại Người... tức là bắt họ học thuộc lòng những
bản văn mà họ không được quên. Sau cùng, Người chữa lành. Và chúng ta còn ghi
nhận từ ngữ Hy Lạp mà người nào biết tiếp Pháp sẽ nhận biết dễ dàng:
"thérapeuôn". Đức Giêsu là một người đầy lòng nhân hậu, Người luôn
chạnh lòng thương vì tất cả những đau khổ mà Người gặp trên con đường Người đi
qua.
Lạy Chúa, xin chữa
lành chúng con! Xin cứu chúng con! và làm cho chúng con thành những người cứu
độ với Chúa.
38. Sám hối để biết mình và biết Chúa
(Suy niệm của
Jos.Vinc. Ngọc Biển)
Trong tiến trình phát
triển của con người, bình thường khi đã đến tuổi trưởng thành, chúng ta sẽ lựa
chọn cho mình một định hướng làm động lực để chúng ta phấn đấu. Ước mơ đó có
thể là bác sĩ, kỹ sư, nhà giáo... và chúng ta đều hy vọng cho ước mơ đó được
thành hiện thực, để cuộc đời tương lai có ý nghĩa hơn.
Hôm nay, thánh Mátthêu
thuật lại cho chúng ta biết Đức Giêsu khởi đầu sứ vụ công khai, Ngài đã kêu gọi
dân chúng: "Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần" (Mt 4, 17);
đồng thời Đức Giêsu cũng mời gọi các môn đệ đầu tiên để huấn luyện và sai các
ông ra đi loan báo về Triều Đại đó của Thiên Chúa. Nước Thiên Chúa hay Triều
Đại của Ngài chính là mơ ước hay mục đích của mỗi chúng ta.
1. "Anh em hãy
sám hối, vì Nước Trời đã đến gần"
Khi nói đến Nước Trời
hay Triều Đại của Thiên Chúa, nhiều người cứ nghĩ đó là một nơi chốn được định
vị rõ ràng, nhưng không phải vậy, đây là một tình trạng. Tình trạng đó là con
người được hạnh phúc, bình an và tràn ngập yêu thương. Như vậy, cũng có thể
chúng ta đã đạt được hay đang trên đường đi tìm kiếm. Dấu chỉ của những người
đã đạt được chính là hạnh phúc vì có Chúa ở cùng. Khi có Chúa là nguồn hạnh
phúc thì lúc ấy, chúng ta mới có “sổ đỏ”, và “hộ khẩu thường trú” để trở thành
“công dân của Nước Trời” đúng nghĩa.
Tuy nhiên, để được
nhận tấm thẻ căn cước, giấy thông hành để được Nước Trời thì điều kiện cần phải
có, đó là “sám hối”.
Khi Đức Giêsu rao
giảng Tin Mừng và nói: "Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần"
(Mt 4, 17), lời mời gọi này như một động lực thôi thúc mạnh mẽ hơn sứ điệp mà
Gioan đã mời gọi trước đó. Điều này cũng có nghĩa là Thiên Chúa chấm dứt họat
động của Gioan Tẩy Giả (ông bị bắt cầm tù). Sứ vụ của Đức Giêsu được gạnh nối
từ Gioan. Nếu Gioan loan báo về Đấng Mêsia, Ngài là Cứu Chúa, thì khi Đức Giêsu
đến, Ngài đã chứng minh cho mọi người thấy, Ngài chính là Đấng mà Gioan đã loan
báo. Gioan chỉ đóng vai trò giới thiệu, còn Đức Giêsu thì chính là nội dung của
lời giới thiệu đó. Vì thế khi Gioan bị bắt và bị cầm tù, nhiệm vụ của ông đã
xong, vai phụ phải lui vào hậu trường để nhân vật chính xuất hiện.
Tại sao, hai con
người, nhưng cùng chung một sứ vụ và đều mời gọi dân chúng sám hối vì Triều Đại
Thiên Chúa đang đến gần?
Thưa, vì thái độ sám
hối là điều kiện cần để được cứu độ, nên tự nó cho thấy tầm quan trọng của hành
vi sám hối. Quan trọng là vì: sám hối để biết Chúa là chân lý, là ánh sáng, là
lẽ sống, là sự thật. Sám hối cũng chính là ý thức mình cần đến Chúa, đi theo
Chúa và chọn Chúa là lý tưởng, là mục đích tối hậu của cuộc đời. Qua hành vi
sám hối, con người dễ nhận biết mình yếu đuối, bất toàn, mong manh và mỏng dòn.
Ý thức được điều đó, nên một triết gia lỗi lạc là Socrate đã mở đầu triết thuyết
của ông bằng câu châm ngôn nổi tiếng: “Anh hãy tự biết mình” (Connais-toi, toi
même).
Sám hối còn là để xác
định đúng hướng và đi đúng đường, nhằm trách đi lạc và không đạt được mục tiêu.
Triết gia Platon, đã nói: “Người chạy thì bao giờ cũng phải tới đích. Nếu không
tới đích thì chạy mau lẹ đến đâu cũng bằng vứt đi”. Thánh Augustinô khen những
người như vậy là những người “bene currit, sed extra viam - chạy nhanh đấy
nhưng lạc đường”.
Thật vậy, người xưa
thường nói: “Khôn chết, dại chết, biết là sống”. Sám hối chính là để biết mà
được sống.
Sám hối cũng là điều
kiện cần để ta lên đường đi tìm một cái gì đó tốt hơn, ý nghĩa và đảm bảo hơn.
Nếu bốn môn đệ đầu tiên trong bài Tin Mừng hôm nay, các ông không có hy vọng,
không khiêm tốn thì không thể nào ngay lập tức, bỏ cha, bỏ lưới để đi theo Đức
Giêsu được.
Nếu có sám hối và tin
vào Đức Giêsu thì mới dứt khoát và sẵn sàng ra đi để trở thành những kẻ lưới
người như lưới cá. Có sám hối thì mới không bị vướng bận vào những chuyện phụ
thuộc để toàn tâm toàn ý lo những việc chính yếu của sứ mạng.
Thật vậy, nếu không
sám hối thì chúa tể của con người chính là cái bụng! Chỉ lo tìm kiếm những sự
trần tục nhằm thỏa mãn xác thịt, cuốn theo những khuynh hướng thấp hèn, sa đọa,
nhục dục mà quên đi Hạnh Phúc Vĩnh Hằng, còn sám hối và ý thức được thân phận
giới hạn của con người thì mới biết:“ái mộ những sự Trên Trời”.
2. Sống sứ điệp Lời
Chúa
Linh mục nhạc sĩ Ân
Đức đã sáng tác bài hát “Biết Chúa, biết con”, trong đó có đoạn viết như sau:
“Biết Chúa là Thiên
Chúa độc nhất là Cha là Chúa trời đất.
Biết Chúa Vua muôn
loài, biết Chúa thương con người.
Biết Chúa là tạo hóa
là Đấng sinh thành nên con.
Biết con là tạo vật,
một đời sống kiếp con người.
Biết con không là gì,
chỉ là bụi cát mà thôi.
Biết con thân phàm
hèn, mỏng giòn, muôn vàn yếu đuối.
Biết con bao tội tình
để lòng xao xuyến khôn nguôi”.
Khi biết Chúa là Đấng
yêu thương như vậy, thì còn đâu chuyện chia rẽ, ghen ghét, còn đâu chuyện tôi
nhóm nọ, anh nhóm kia... bởi vì trong những yếu đuối, lỗi lầm của anh em, thì
chính mình cũng đều mắc phải hết. Vì thế, chính mình cần phải sám hối trước và
xây dựng tình hiệp nhất huynh đệ trong yêu thương. Thấy được bản chất của con
người là hiếu thắng, nên trong cộng đoàn của ngài có những chuyện gây chia rẽ,
nên thánh Phaolô đã nói: “Thưa anh em, nhân danh Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta,
tôi khuyên tất cả anh em hãy nhất trí với nhau trong lời ăn tiếng nói, và đừng
để có sự chia rẽ giữa anh em, nhưng hãy sống hòa thuận một lòng một ý với nhau”
(1Cr 1,10). Khi cùng chung nhau một lý tưởng, một mục đích thì đâu còn có
chuyện: “Tôi thuộc về Phaolô, tôi về phe Apôlô, còn tôi về phe Phêrô, và tôi
thuộc về phe Chúa Kitô. Vậy Chúa Kitô bị phân chia rồi sao?” (1Cr 1,12-13a).
Và, thánh Phaolô khuyên họ hãy hướng về Đức Giêsu để tìm ra con đường của mình
mà đi tới chứ không phải nơi người này hay người kia.
Vậy, điều trước tiên,
sám hối là quay trở về với Chúa, lấy Chúa làm mục đích cho cuộc đời mình mà
vươn tới. Sám hối cũng là để xin ơn tha thứ và từ bỏ con đường tội lỗi, là một
động tác gột rửa tâm hồn, để sống cho hợp với ý Chúa, đem lại bình an nội tâm
và liên đới với mọi người.
Thứ đến, sám hối là
làm mới lại tinh thần, canh tân đời sống và thay đổi não trạng cũ để đổi lấy
tâm tình mới. Sám hối còn là trở nên trong sạch từ ý nghĩ đến hành động. Sám
hối để xây dựng tình hiệp nhất, bác ái và yêu thương.
Cuối cùng, sám hối còn
là để gắn bó với Chúa, hầu sẵn sàng ra đi loan báo Triều Đại của Thiên Chúa,
trở thành những người chinh phục lưới người như lưới cá.
Lạy Chúa, xin cho
chúng con biết đáp lại lời mời gọi của Chúa để sống tinh thần sám hối thật
lòng, hầu có thể đón nhận Triều Đại của Thiên Chúa đến với chúng con cách trọn
vẹn và sẵn sàng ra đi loan báo sứ mạng ấy cho mọi người. Amen.