SUY NIỆM LỜI CHÚA
CHÚA NHẬT 4 MÙA VỌNG A
CHÚA NHẬT 4 MÙA VỌNG A
MỤC LỤC
1. Trời can thiệp
2. Emmanuel
3. Chúa ở cùng chúng ta
4. Ơn Cứu Độ – Lm. Giuse Trần Việt Hùng
5. Dòng tộc – Radio Veritas Asia
6. Emmanuel, Thiên Chúa Ở Cùng Chúng Ta
7. Giuse, người công chính
8. Sự công chính của Thánh Giuse
9. Tâm tình của Giuse với biến cố nhập thể – Anmai
10. Hạnh phúc khi có Thiên Chúa ở cùng
11. Vâng theo Ý Chúa – R. Veritas
12. Hãy làm sáng danh Chúa Lm.Jos Tạ Duy Tuyền
13. Đừng ngại
14. Ngài từ đâu đến? – Lm. Antôn Nguyễn Văn Tiếng
15. Truyền tin cho ông Giuse
16. Thánh Giuse, mẫu gương Mùa Vọng
17. Thiên Chúa ở cùng chúng ta
18. Emmanuel: Thiên Chúa Ở Cùng Chúng Ta
19. E sợ
20. Chúa Cứu Thế giáng sinh – R. Veritas
21. Điều kiện đón tiếp Chúa ĐTGM Giuse Ngô Quang Kiệt
22. Vâng phục trong trách nhiệm
23. Giải quyết một vấn đề nhờ đức tin
24. Mùa Vọng: Mùa trong veo – ĐGM Vũ Duy Thống
25. Giuse im lặng
26. Mộng báo
27. Đức Trinh Nữ Maria
28. Công chính
29. Người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emanuel
30. Chúa bước vào đời tôi
31. Thiên Chúa làm gì cho chúng ta?
32. “Ông Giuse là người chính trực”
33. Emmanuel
34. Emmanuel- Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta
35. Đừng sợ – Lm. Nguyễn Minh Hùng
36. Điều xảy đến bất ngờ - Lm Nguyễn Ngọc Long
37. "Giuse, con Vua Đavit" – Lm. Nguyễn Hùng
38. Khởi đầu mới phát xuất từ Thiên Chúa
39. Thiên Chúa ở cùng chúng ta Noel Quesson
40. Chúa ở cùng chúng ta – Lm Jos Tạ Duy Tuyền
41. Emmanuel Thiên Chúa ở cùng chúng ta Linh Mục Inhaxiô Trần Ngà
42. Truyền tin cho ông Giuse
43. Thiên Chúa ở cùng chúng ta
44. Tuân theo ý Chúa
45. Theo gương Mẹ Maria sống tâm tình Mùa Vọng
46. Rước Đức Maria về nhà – Lm Phạm Quốc Hưng
Đức Giêsu Kitô chính là ...L. M. Carôlô Hồ Bặc Xái
Ngài là Đấng Emmanuel Lm Giuse Đinh lập Liễm
Thánh Vịnh & Đáp Ca Nhóm Thánh Vịnh Nauy
Thiên Chúa ở cùng chúng ta PM. Cao Huy Hoàng
Tiếng gọi tình yêu AM Trần Bình An
Thiên Chúa ở cùng chúng ta JM. Lam Thy ĐVD
Đừng sợ Lm. Nguyễn Minh Hùng
Thiên sứ báo tin cho Giuse Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
Báo tin cho Giuse Fiches Dominicales
Chúa Kitô bước vào thế gian William Barclay
Emmanuel - Thiên Chúa ở cùng chúng ta Niềm Vui Chia Sẻ
Đấng Cứu thế được ban tặng Lm. Phêrô Lê văn Chính
Đừng ngại Lm Giuse Đinh tất Quý
Thiên Chúa ở cùng chúng ta Catholic.org.tw
Chúa cứu thế giáng sinh Sưu tầm
Gia đình mẫu mực Suy niệm của JKN
Dòng tộc Sưu tầm
1. Trời can thiệp
Maria biết rằng mình
đang mang thai khi chưa về chung sống với chồng sẽ đem lại nhiều hậu quả không
hay: Cha mẹ sẽ buồn, người chồng sẽ nghi ngờ, thiên hạ sẽ dị nghị, bản thân sẽ
bị chê cười, nhưng Maria luôn tin vào Chúa và mọi sự đều do sự an bài của Ngài,
vì thế Maria luôn bình tĩnh, âm thầm để mặc cho Chúa tự do hành động.
Còn Giuse cũng vậy,
thấy người bạn của mình như thế, Giuse không vội vã tức giận, hành động mù
quáng và buộc tội gắt gao. Vì không được Maria giải thích, Giuse không hiểu ra
làm sao, mặc dù thế Giuse vẫn trao phó mọi sự trong tay Chúa, còn mình thì sẽ
trở lại cuộc sống độc thân cao đẹp thuở trước. Nhưng Chúa đã can thiệp, khiến
cho Giuse và Maria đều hài lòng, trở lại đời sống vợ chồng và không còn thắc
mắc chi nữa.
Nhìn vào lịch sử Giáo
Hội chúng ta thấy, nhiều khi Giáo Hội cũng lâm vào những hoàn cảnh đen tối,
những trường hợp khó khăn, nhưng rồi bàn tay Chúa cũng đã can thiệp, để Giáo
Hội thoát khỏi những hiểm nguy mà phát triển, mà vươn lên. Tôi xin đưa ra những
thí dụ điển hình.
Giáo Hội thuở ban đầu
rất cần người lãnh đạo và Phêrô đã là người lãnh đạo, đã là vị Giáo hoàng đầu
tiên, thế nhưng ngay từ khi bắt tay vào sứ mạng, Phêrô đã bị gông cùm, xiềng
xích và tù đày. Ai cũng nghĩ rằng, làm sao Phêrô có thể thoát nổi. Nhưng rồi
Chúa đã can thiệp, sai thiên thần xuống tháo rời xiềng xích, dẫn qua đám lính
canh và Phêrô được giải thoát.
Tiếp đến là những thế
kỷ đầu, Giáo Hội đã phải trải qua những cơn bách hại khủng khiếp dưới thời
những bạo vương Lamã. Ai cũng tưởng con thuyền Giáo Hội sẽ bị vùi dập dưới
những trận cuồng phong dữ dội nhất của lịch sử. Nhưng rồi kết cuộc ra sao?
Hoàng đế Constantinople đã hoán cải, bóng cờ thánh giá đã tung bay và Giáo Hội
bước vào một thời đại hoàng kim. Còn những bạo vương Lamã đã phải rơi vào một
số kiếp bẽ bàng: Valerio thì thua trận, bị bắt làm tù binh và bị nhục nhã cho
đến chết. Diocletiano thì bị bắt giam và bị nhịn đói cho chết. Maxilino thì
thắt cổ tự tử, còn Galerio thì bị chứng lở lói đau đớn, không một vị lang y nào
chữa nổi.
Qua những chứng tích
kể trên, chúng ta hãy thêm tin tưởng vào quyền năng của Chúa, như tục ngữ ca
dao vốn diễn tả: Thiên bất dung gian, ác giả ác báo, Trời xanh con mắt là
gương, người ghét ít ngó người thương ngó hoài.
Hãy tin tưởng và phó
thác cho Chúa vì mọi sự đều do sự an bài đầy quyền năng và tình thương của
Chúa.
Đối với người Do Thái,
thì có con là một sự chúc lành của Thiên Chúa, còn son sẻ là dấu của kẻ bị
Thiên Chúa bỏ rơi. Hơn thế nữa, son sẻ còn là một tình trạng tương đương với sự
chết chóc. Thực vậy, chết là hết sống. Son sẻ là hết dòng sự sống. Tên tuổi sẽ
bị dứt khỏi trần gian.
Quan niệm về đời sau
của người Do Thái lúc bấy giờ còn rất mù mờ. Mọi hy vọng của họ là cuộc sống
trần gian. Phần thưởng chính là dòng dõi nối tiếp mãi trên mặt đất này. Bởi đó
việc tiếp tục có dòng dõi sau tai ương khốn quẫn đã được diễn tả bằng sức sống
lại.
Thế nhưng, như lời
Kinh Thánh đã xác quyết về Thiên Chúa: Tư tưởng của Ta không giống với tư tưởng
của các ngươi và đường nẻo của Ta cũng không giống với đường nẻo của các ngươi.
Như trời cao hơn đất bao nhiêu thì tư tưởng và đường nẻo của ta cũng cao hơn tư
tưởng và đường nẻo các ngươi bấy nhiêu.
Chính vì thế, Thiên
Chúa thường ghé mắt nhìn đến sự yếu hèn và bất lực, bởi đó mới nảy sinh những
điều đáng ngạc nhiên trong hành động của Thiên Chúa. Ngài đã tỏ lộ quyền năng
của Ngài trong sự bất lực. Đúng thế, sự đồng trinh của Đức Mẹ cũng là một cái
chết, nhưng cái chết đó đã được Thánh Thần Chúa đem lại một sự sống mới. Đó
cũng là điều diễn ra nơi thập giá với cái chết của Chúa Giêsu. Bởi vì sự phục
sinh và sự sống mới, một sự sống dồi dào đã nẩy sinh từ cái chết đau thương của
Ngài trên thập giá.
Đã từ lâu, Thánh Thần
vẫn được giới thiệu như là nguyên nhân của sự sống. Khởi đầu, khi Thiên Chúa
tạo dựng vũ trụ, thì thần khí đã bay lượn trên nước và làm cho mọi sự được
thành hình. Adong được nặn từ bùn đất, nhưng nhờ Thần Khí của Thiên Chúa mà có
sự sống. Thần Khí cũng trở thành sự sống của Adong mới. Một trinh nữ thụ thai
bởi quyền phép Chúa Thánh Thần đã nói lên sự can thiệp của Thiên Chúa.
Phụng vụ ngày Chúa
nhật hôm nay cho chúng ta cải cảm tưởng rằng Chúa Giêsu đang đi vào lịch sử
nhân loại. Ngài chính là Emmanuel, Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Ngài ở giữa
chúng ta để cứu chuộc, để giải phóng, để dẫn chúng ta ra khỏi ách nô lệ tội
lỗi.
Giáo Hội hôm nay chính
là sự nối tiếp sự hiện diện hữu hình của Chúa giữa con người trong thế giới,
một sự hiện diện cứu chuộc và giải thoát không phải chỉ về mặt thiêng liêng
bằng cách trao ban các bí tích, mà hơn nữa một sự giải thoát toàn diện, khỏi
tất cả những gì cản trở sự phát triển của con người và xã hội bằng sự dấn thân
và liên đới với mọi nỗ lực xây dựng tình thương và công lý.
3. Chúa ở cùng chúng ta
Tại Việt Nam và nhất
là tại Trung Hoa, người ta có tục tảo hôn, cha mẹ định liệu việc vợ chồng cho
con cái từ khi chúng còn nhỏ. Trong tác phẩm “Vượt khỏi Đông và Tây”, tác giả
John Wu đã mô tả như sau: “Trước đám cưới, vợ tôi và tôi chả bao giờ thấy mặt
nhau. Cả hai chúng tôi đều được giáo dục theo đường lối cổ xưa của người Trung
Hoa. Bố mẹ đã đính hôn chúng tôi với nhau khi chúng tôi mới lên sáu. Đến năm
mười mấy tuổi tôi mới biết được nhà nàng ở đâu. Tôi khao khát được thoáng nhìn
nàng thử xem, nên thỉnh thoảng lúc tan học về, tôi cố tình đi ngang qua nhà
nàng, thế nhưng chả bao giờ tôi được may mắn nhìn thấy nàng”.
Từ đoạn văn trên chúng
ta sẽ dễ dàng hiểu được mối liên hệ giữa thánh Giuse và Mẹ Maria trước lúc Chúa
chào đời. Theo tập tục Do Thái, mỗi cuộc hôn nhân thường trải qua ba giai đoạn:
Giai đoạn thứ nhất là
đính hôn. Việc
này thường do cha mẹ hay người mai mối thực hiện, còn đôi bạn trẻ thường chẳng
hề biết trước về cuộc đính hôn này.
Giai đoạn thứ hai là
hứa hôn. Giai
đoạn này thường kéo dài một năm để đôi bạn có dịp quen biết nhau... Khi đã hứa
hôn, thì mọi người đều xem đôi bạn như là vợ chồng, mặc dù họ chưa thực sự
chung sống với nhau. Lễ hứa hôn này được tổ chức rất long trọng, nên chỉ có sự
ly dị mới xoá bỏ được nó.
Giai đoạn thứ ba là
kết hôn theo đúng nghĩa. Thánh Giuse hay tin Mẹ Maria có thai khi hai
người ở trong giai đoạn thứ hai, tức là đã hứa hôn với nhau.
Tuy nhiên tôi muốn
chia sẻ về một điểm khác quan trọng hơn, đó là việc Thiên Chúa ở cùng chúng ta.
Thánh Matthêu đã khởi đầu Phúc Âm bằng việc trích dẫn lời tiên tri Isaia: Một
trinh nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên Con Trẻ là
Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Đồng thời thánh Matthêu cũng đã
kết thúc Phúc Âm bằng lời hứa của Chúa Giêsu: Này đây Ta sẽ ở cùng các con mọi
ngày cho đến tận thế. Vậy thì Thiên Chúa, Ngài đã ở cùng chúng ta như thế nào?
Trước hết, Ngài hiện
diện giữa chúng ta qua việc sáng tạo, và đặc biệt qua quyền năng nâng đỡ của
Ngài, bởi vì Ngài không phải chỉ tạo dựng mà còn gìn giữ nó được tồn tại trong
một trật tự lạ lùng cho đến ngày hôm nay.
Tiếp đến, Ngài còn
hiện diện giữa chúng ta qua lời Ngài trong Kinh Thánh. Chúng ta có thể sánh ví
Kinh Thánh như là một bức thư của người cha gởi cho con cái mình. Người cha
biểu lộ ý nghĩ của mình cho con cái trong bức thư như thế nào thì Thiên Chúa
cũng mạc khải ý nghĩ của Ngài cho chúng ta trong Kinh Thánh như vậy.
Cuối cùng Ngài hiện
diện giữa chúng ta một cách đặc biệt qua Đức Kitô, Con Một của Ngài. Cùng với
việc giáng sinh của Đức Kitô, Thiên Chúa đã bước thêm một bước khổng lồ để đến
và cư ngụ giữa chúng ta. Đồng thời nhờ đó chúng ta có thể nhìn ngắm, lắng nghe
chính Thiên Chúa. Hay nói một cách khác với mầu nhiệm Giáng Sinh, Thiên Chúa
hiện diện giữa chúng ta qua một cách cụ thể và sống động qua một con người bằng
máu thịt của Đức Kitô.
4. Ơn Cứu Độ – Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Đốt lên cây nến thứ tư
của Vòng Hoa, chúng ta sắp kết thúc 4 tuần Mùa Vọng. Theo truyền thống lâu đời
từ Bắc Âu, trong khí lạnh của mùa Đông, người ta đã đốt lên những cây nến trên
những cành cây xanh uốn vòng. Khung vòng tròn và cành cây xanh là biểu tượng
của sự sống tiếp diễn. Người ta đã đốt nến trong những đêm tối nhất trong năm,
khi mọi người trông chờ những ngày dài hơn của mùa Xuân sẽ xuất hiện. Theo
truyền thống, trên Vòng Hoa Mùa Vọng bao gồm có 4 cây nến. Ba cây nến mầu tím
và một cây màu hồng. Bốn cây nến của Vòng Hoa biểu tượng ánh sáng dần dần được
dọi chiếu vào thế gian. Ba cây nến mầu tím là biểu tượng của hy vọng, bình an
và tình yêu. Ba cây nến tím này được đốt vào các Chúa Nhật thứ nhất, thứ nhì và
thứ bốn của Mùa Vọng. Cây nến mầu hồng biểu trưng sự vui mừng được đốt vào Chúa
Nhật thứ ba. Đôi khi có cây nến thứ năm mầu trắng được đặt ở giữa Vòng Hoa. Cây
nến trắng này được đốt lên vào Lễ Giáng Sinh. Mầu trắng biểu trưng sự tinh
trắng như các thiên thần và ngày sinh nhật của Chúa Giêsu. Giáo Hội Công Giáo
thường dùng các mầu đặc biệt theo từng mùa, như Mùa Vọng, Mùa Giáng Sinh, Mùa
Quanh Năm, Mùa Chay và Mùa Phục Sinh để tôn vinh danh Chúa Giêsu.
Tiên tri Isaia đã xuất
hiện rao giảng tại Giêrusalem khoảng năm 742-701 trước Công Nguyên. Trong sự
mong đời mịt mù giữa bao thử thách, Isaia đã loan báo một tin vui cho dòng dõi
Dân Do-thái: Vì thế, chính Chúa sẽ cho các ngươi một dấu: Này đây một trinh nữ
sẽ thụ thai, hạ sinh một con trai và tên con trẻ sẽ gọi là Emmanuel, nghĩa là
Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta" (Is 7, 14). Đọc lịch sử ơn Cứu Độ, chúng ta
nhận biết Thiên Chúa đã thực hiện công trình cứu chuộc qua cả ngàn năm. Một
diễn tiến rất chậm rãi qua biết bao nhiêu thế hệ và trải qua nhiều biến cố.
Thiên Chúa đã sai tiên tri loan tin mừng cứu độ qua một nhóm nhỏ trung tín còn
sót lại. Biết rằng xưa kia, người ta không có in ấn sách vở, truyền thanh,
truyền hình hay một phương tiện kỹ thuật văn minh nào để phổ biến. Các sứ điệp
chỉ được truyền miệng và ghi chép vào các cuốn sách (papyrus) lưu giữ qua nhiều
đời.
Dấu chỉ: Một trinh nữ
sẽ thụ thai và hạ sinh một con trai là một sứ điệp cao trọng. Sứ điệp này đã từ
từ khai mở về ý nghĩa mầu nhiệm Con Chúa giáng trần. Thiên Chúa sẽ thực hiện
lời hứa với tổ tiên loài người sau khi đã phạm lỗi. Thiên Chúa phán với con rắn
là ma quỉ: Ta sẽ gây mối thù giữa mi và người đàn bà, giữa dòng dõi mi và dòng
dõi người ấy, dòng giống đó sẽ đánh vào đầu mi và mi sẽ cắn gót nó (Stk 3, 15).
Chúng ta là hậu sinh được học biết nhiều về qúa trình lịch sử bốn, năm ngàn
năm. Đã có biết bao dòng dõi và thế hệ con người liên đới trong công cuộc cứu
rỗi này, đặc biệt là Dân Do-thái, dân được tuyển chọn. Dân sống giữa một thế
giới đa dân tộc từ Đông sang Tây, từ Bắc xuống Nam, từ khắp các vùng văn hóa.
Đọc lịch sử tôn giáo, chúng ta nhận biết có rất nhiều các tôn giáo cổ đã xuất
hiện từ rất sớm trong thời kỳ này như các đạo Hindu, Balamôn, Do-thái Giáo,
Phật Giáo, Khổng Giáo, Lão Giáo và vô số đạo thờ các Thần ngoại. Hiện nay, trên
thế giới có khoảng 4, 200 tôn giáo lớn nhỏ khác nhau.
Trong cuộc lữ hành của
người Do-thái, họ đã va chạm với rất nhiều nhóm người với truyền thống tôn giáo
và văn hóa khác nhau. Sứ điệp loan báo về Đấng Cứu Thế cũng dễ bị lu mờ qua
thời gian năm tháng. Chỉ có một dòng dõi rất nhỏ đã cưu mang sứ mệnh đón chờ
con Chúa giáng trần. Thánh Matthêô đã ghi lại gia phả Đức Kitô, con cháu của
Đavít và con cháu tổ phụ Abraham. Matthêo tóm gọn lich sử: từ tổ phụ Abraham
đến vua Đavít là mười bốn đời; từ vua Đavít dến thời lưu đầy ở Babylon là mười
bốn đời và từ thời lưu đầy ở Babylon đến Đức Kitô cũng là mười bốn đời (Mt 1, 17).
Chúng ta suy tư về sứ điệp tin mừng đã được thực hiện nơi dòng dõi Dân tộc đã
được Thiên Chúa tuyển chọn.
Trong thơ gởi cho tín
hữu thành Rôma, thánh Phaolô đã viết: Tin mừng ấy Thiên Chúa đã hứa trước bằng
lời các tiên tri trong Kinh Thánh về Con của Người (Rm 1, 2). Khi thời gian đã
mãn, Thiên Chúa thực hiện ý định nhiệm mầu của Người để cứu độ trần gian. Đây
là biến cố nhiệm mầu duy nhất xảy ra trong thời gian và không gian. Sự linh
thiêng kết hợp giữa thần thánh và con người. Ngôi Lời Nhập Thể trong cung lòng
của Đức Trinh Nữ: Chúa Kitô giáng sinh trong hoàn cảnh sau đây: Mẹ Người là
Maria đính hôn với Giuse, trước khi về chung sống với nhau, đã thụ thai bởi
phép Chúa Thánh Thần (Mt 1, 18). Sự kiện cao siêu nhiệm mầu vượt trên mọi trí
hiểu của loài người. Cho dù đã được các tiên tri loan báo, được các thế hệ
truyền rao chuẩn bị cả ngàn năm nhưng cho tới ngày hôm nay, nhiều người vẫn
chưa thể chấp nhận sự kiện lạ lùng này. Họ không thể tin và chấp nhận Ngôi Hai
Thiên Chúa giáng trần làm người như chúng ta.
Nhiều người không tin
vào Đấng Cứu Thế giáng trần nhưng họ vui mừng vì dịp Giáng Sinh sắp đến. Cứ mùa
Giáng Sinh về, chúng ta thấy phố xá rộn rã, thiệp chúc mừng trao đổi, chuẩn bị
qùa cáp, ánh sáng nhấp nháy mọi nơi và chăng hoa kết đèn mọi góc phố. Cho dù
con người có niềm tin hay không, đều mừng vui và hớn hở. Ít ra đây cũng là một
tin vui cho mọi người trần thế. Một cơ hội tốt để mọi người giao lưu trao đổi
tâm tình. Chúa Giêsu vẫn âm thầm đi vào lòng người qua nhiều cách thế. Có biết
bao nhiêu nhà hảo tâm chia sẻ món qùa nho nhỏ cho những người kém may mắn. Ánh
sáng của niềm hy vọng chiếu tỏa cùng khắp khiến lòng người nao nức mừng vui.
Một điều rất lạ là ai cũng muốn sự bình an, giải thoát và được hưởng nhờ ơn cứu
độ nhưng lại không muốn chấp nhận Đấng ban ơn cứu độ.
Chúa Giáng Sinh mang
lại niềm vui lớn cho nhân loại vì Thiên Chúa sẽ ở cùng chúng ta. Thánh Matthêo
diễn tả: Tất cả sự kiện này đã được thực hiện để làm trọn lời Chúa dùng miệng
Tiên tri phán xưa rằng: "Này đây một trinh nữ sẽ mang thai và hạ sinh một
con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là
Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta" (Mt 1, 22-23). Chúa sẽ đến với từng tâm hồn.
Chúng ta có can đảm mở rộng tâm hồn đón Chúa hay không? Chúa có thể sẽ đến với
chúng ta qua hình dáng của một trẻ thơ bọc trong khăn hay một trẻ mồ côi đầu
đường xó chợ và không nơi nương tựa. Chúa sẽ đến như một người vô gia cư không
có nơi gối đầu hoặc một người bị đánh dầm bập tả tơi ngoài phố chợ. Vì khi đón
nhận một người cùng khổ là chúng ta đang đón nhận chính Chúa trong đời sống của
chúng ta.
Suy tới đây, dừng lại
đôi phút để suy nghĩ và cầu nguyện xem chúng ta đang chọn thái độ nào. Đôi khi
chúng ta chỉ mong muốn có một lễ Giáng Sinh hoành tráng bên ngoài, một hang đá
tuyệt đẹp và một món qùa đáng giá. Chúng ta tìm mua tượng Chúa Hài Nhi thật dễ
thương đặt nằm trong máng cỏ với các mục đồng và súc vật bao quanh. Nếu chúng
ta chỉ chú ý chuẩn bị những hình thức tổ chức trang trí bên ngoài mà không dọn
tâm hồn thật sự để đón Chúa, thì chúng ta cũng đâu khác gì những người ngoại
không tin vào Chúa.
Lạy Chúa, xin cho
chúng con biết mở rộng trái tim yêu thương để đón Chúa. Xin Chúa ở lại với
chúng con và ban ơn cứu độ. Xin tẩy sạch tâm hồn chúng con khỏi những sự hoen
ố, ích kỷ, tham lam và thơ ơ nguội lạnh. Xin Chúa sưởi ấm tâm hồn với ngọn lửa
yêu thương để chúng con biết chia sẻ cuộc sống với tha nhân.
(Trích từ ‘Suy Niệm
Phúc Âm Hằng Ngày’ - RVA)
Có một vị vua kia đã
già cả nhưng lại không có con nối dõi tông đường, nên nhà vua đã ra lệnh mời
các chàng trai trẻ đến cung vua để chọn một người làm dưỡng tử mà sau này sẽ
lên ngôi cai trị. Điều kiện thật đơn giản, chỉ cần người đó biết mến Chúa và
yêu mến anh em hết lòng.
Từ một vùng quê xa
xôi, một chàng thanh niên cũng biết đến việc chọn này của nhà vua. Chàng muốn
đến cung vua ứng thi nhưng khốn nỗi chàng chẳng có một bộ áo quàn nào xứng cho
buổi triều yết. Sau một thời gian dành dụm, cuối cùng chàng củng cố gắng sắm
cho mình một bộ đồ tạm xứng với lối triều yết.
Đến gần hoàng cung,
chàng gặp một ông lão xá lạy bên vệ đường trong bộ quần áo rách rưới. Ông lão
ngửa tay xin bộ đồ chàng đang mặc.
Động lòng thương,
chẳng chút ngần ngừ chàng đổi cho ông già bộ quần áo của mình.
Khi đến gần cửa thành,
lòng chàng lại hoang mang chẳng biết lính canh có cho chàng vào với quần áo tả
tơi như vậy không. May mắn thay chẳng một ai hạch hỏi về quần áo của chàng và
khi đến trước ngai rồng chàng càng ngạc nhiên hơn nữa, vị vua đang ngồi trên
ngai chính là ông già ăn xin đã được chàng giúp cho bộ quần áo. Chàng không tin
vào mắt mình. Nhưng kìa, vua đang mỉm cười nhìn chàng: “Hỡi con yêu dấu, hãy
đến đây, ta đang chờ con”
Chàng thanh niên đã
được chọn làm dưỡng tử và làm thừa kế nhờ tấm lòng quảng đại bao dung của anh.
Hôm nay thánh sử Matthêu cũng tường thuận việc Vua trời đất chọn lựa một người
Cha cho mình trước khi Ngài đến ở với con người.
Xết về nguồn gốc,
thánh Giuse đích thực thuộc dòng dõi David, hậu duệ của vua David. Đấng Cứu Thế
sẽ sinh ra trong dòng dõi này để ứng nghiệm lời các tiên tri đã báo trước: “Này
đây đã tới ngày Ta gây cho David một mầm giống công chính, mầu giống này sẽ làm
Vua thống trị, sẽ là người khôn ngoan thực hiện công lý và công bình trên đất
nước”. Hoặc ở một chỗ khác: “Chúa sẽ lập cho David một nhà. Nhà của Người và
triều đại Người sẽ vững bền mãi mãi”.
Tuy nhiên, hậu duệ của
David không phải chỉ có một mình Giuse nhưng đã có hàng trăm hàng ngàn hậu duệ
David. Đồng thời với Giuse, dù với hậu duệ ấy Giuse đã được chọn làm dưỡng tử
của Con Thiên Chúa, vì Ngài quảng đại và bao dung.
Một gia đình sống đời
vợ chồng ai lại chẳng mơ ước đến chuyện chung chăn gối, thế mà Giuse lại ký kết
hôn ước với một người đã thề hứa suốt đời không biết đến người Nam. Và rồi
người Nữ mà Ngài hết lòng yêu mến và quí trọng ấy bỗng dưng lại mang thai. Nàng
là người đức hạnh đoan trang sao lại bụng mang dạ chửa cách lén lút?
Theo luật Do thái,
Giuse có thể tố cáo người Nữ ấy trước Hội Trường Do Thái để nàng bị ném đá vì
tội ngoại tình. Nhưng do tấm lòng bao dung ngãi đã không làm thế. Ngài chỉ muốn
âm thầm rút lui, không cãi vã to tiếng. Ngài tôn trọng nàng, ngái muốn để mặc
cho nàng tự phận xử.
Đang khi định tâm như
vậy thì Thiên Chúa đã ra tay can thiệp, vì ngần ấy diễn tiến cũng đủ để cho
Giuse làm dưỡng tử của Ngôi Hai Thiên Chúa làm người. Lời của sứ thần đã soi
sáng giải đáp thắc mắc bấy lâu đang dày vò tâm hồn Giuse. Hơn thế nữa, sứ thần
đả trao cho Giuse nhiệm vụ đặt tên cho con trẻ mới sinh. Với người Do thái chỉ
có người cha là người có quyền tối hậu trong việc đặt tên cho đứa trẻ, dù cho
bà con thân thuộc có muốn gì đi nữa thì khi chưa có ý kiến của người cha thì
việc đặt tên cũng không mang lại giá trị gì.
Như chúng ta đã thấy
buổi lễ đặt tên cho Gioan Tẩy Giả cũng phải do người cha đặt tên. Ở đây cũng
vậy, Giuse được Thiên Chúa ra tay can thiệp để lòng yêu thương nơi Ngài không
bị rạn nứt, sứt mẻ mà từ đây lòng yêu thương đã có dịp bộc lộ trọn vẹn. Giuse
đã đón nhận người bạn đời về nhà mình và hết òng yêu thương chăm sóc cho nàng
cũng như cho người con đang cưu mang.
Thật thế, cuộc đời của
mỗi người cũng có lúc căng thẳng, phân vân, đau khổ vì phải chọn lựa quyết
định, nhưng Thiên Chúa Ngài đã thông suốt tất cả những giai cấp này thế nhưng
Ngài vẫn im lặng chờ đợi. Ngài chờ phản ứng nơi mổi người chúng ta do yêu
thương hay dận ghét, nếu chúng ta xử sự với tấm lòng yêu thương quảng đại thì
chắc chắn Ngài sẽ kịp thời trợ giúp và chẳng bao giờ Ngài để cho lòng yêu
thương bị rạn nứt sứt mẻ. Trong mùa đón chờ vị vua tình yêu giáng thế, ước mong
rằng mỗi người trong chúng ta sẽ luôn dùng thái độ bao dung quảng đại làm kim
chỉ nam hứng dẫn các suy tưởng và hành động của mỗi người chúng ta.
6. Emmanuel, Thiên Chúa Ở Cùng
Chúng Ta
Anh chị em thân mến.
Thời gian gần đây có
một bộ phim đã đi vào trong lòng người, đó là phim Hoàng Châu Công Chúa. Khi
xem qua bộ phim, mọi người đều có cảm tình với nhân vật chính, một người có
lòng nhân ái, nhưng vì thẳng thắng nên thường gặp những đều trắc trở. Mọi người
càng thỏa mản hơn khi những trở ngại đó dần dần cũng bị phá vở và an bình lại
đến. Đó là vì cô công chúa nhờ có bùa hộ mệnh. Vị thần hộ mệnh rất đắc lực,
ngài là một vị vua công minh, một người cha nhân hậu. Khi nào có Ngài ở bên
cạnh thì vị công chúa và những người thân không còn phải lo sợ gì hết. Chỉ khi
vắng bóng ngài, mọi thế lực thù nghịch mới tìm cách hảm hại. Nhưng tất cả đều
được hóa giải khi có ngài ở cùng, khi đó những nguy hiểm, những khổ đau không
còn tồn tại được nữa.
Giuse lo sợ vì chưa
hiểu được Thánh Ý Chúa. Ông đã có những toan tính riêng tư của mình, những toan
tính của sự sợ hãi, những toan tính của con người không có Thiên Chúa Ở Cùng.
Ông lo âu bối rối không biết giải quyết như thế nào. Nhưng khi ông tỉnh dậy,
ông hành động không do dự nữa, hành động cách can đảm, hành động trong sự bình
an và vui mừng. Vì ông đã được biết Thánh Ý Chúa, ông biết có Thiên Chúa Ở Cùng
ông, ông biết ông không còn hoạt động cách cô đơn nữa. Khi đó mọi thắc mắc đã
được tháo cởi, mọi lo âu đã được cất đi, mọi nguy hiểm mà ông nghĩ tới không
còn tồn tại nữa. Ông chỉ còn biết vâng phục trong vui mừng, trong hân hoan, vì
Có Thiên Chúa Ở Cùng.
Trong cuộc sống đời
người không thiếu những lo âu sợ hãi. Có những điều do hoàn cảnh khách quan đưa
đến, cũng có những cái do chủ quan từ bên trong con người. Nếu xét từ nguyên
nhân, thì tất cả mọi lo âu sợ hãi trong đời sống đều phát xuất từ cảm giác cô
đơn, từ lòng ích kỷ, từ những việc chỉ nghĩ đến bản thân mà quên đi người khác.
Quan trọng hơn, đó là vì không thấy Chúa hiện diện ở trong con người của mình,
cùng hành động với mình, mà chỉ hành động cách đơn lẻ.
Mỗi người trong chúng
ta cũng đã từng trải qua cảm giác cô đơn sợ hãi. Chúng ta cũng đã từng giải
quyết nhiều vấn để khúc mắc. Nhưng đã giải quyết như thế nào? Chúng ta đã vượt
qua cách khổ sở như lần từng bước đi trong đêm tối, để rồi niếm mùi chua cay
thất bại và trải qua nỗi thất vọng ê chề. Chúng ta đã trải qua với sự lo âu
thắp thỏm, cùng với những toan tính hại người, nên sợ sẽ bị trả thù. Hay chúng
ta đã vượt qua với những bực tức và khó chịu vì không được như ý muốn. Đó là vì
chúng ta đã hành động cách cô đơn, hành động mà không Có Chúa Ở Cùng, hành động
trong cơn mê, hành động trong đêm tối.
Nếu khi nào chúng cảm
thấy bình an thư thái, cho dù bao tai vạ ập đến, những khổ đau cứ dồn vào,
những bất hạnh cứ tiếp diễn, mà chúng ta vượt qua cách an toàn, không để lại
chút vương vấn trong lòng. Đó là vì chúng ta đang Có Chúa Ở Cùng. Đó là vì
chúng ta đã được bừng tỉnh dậy. Nếu chúng ta nhìn thấy được ích lợi chung, nhìn
thấy được nhu cầu của bao nhiêu người chung quanh, để sẵn sàng hành động theo
tiếng gọi của con tim chân chính, hành động không còn ỷ lại vào con người riêng
tư của mình nữa, mà hành động với Chúa Ở Cùng. Nếu được như thế, chúng ta mang
được tâm trạng của Hoàng Châu Công Chúa khi có Vua Cha ở Cùng. Quang trọng hơn
nữa chúng đang đi trên con đường mà Thánh Giuse đã đi vì vâng nghe Lời Chúa,
bởi Ngài đã nhận ra được Có Thiên Chúa Ở Cùng.
Chúng ta cùng nhau cầu
xin Chúa ban ơn cho mỗi người được sáng suốt, để nhận ra Chúa Ở Cùng Chúng Ta
trong hoàn cảnh sống, trong những người chúng ta gặp hằng ngày, trong những
công việc chúng ta đã và đang làm, để biết sống và hành động theo Thánh Ý Chúa.
7. Giuse, người công chính
(Suy niệm của Lm. JB.
Hoàng Văn Khanh)
Mở đầu sách Tin Mừng
bằng bản gia phả (Mt 1,1-17), thánh sử Mátthêu muốn giới thiệu nguồn gốc lai
lịch của Chúa Giêsu: Người là người con của nhân loại, thuộc dòng tộc vua
Đavít, được sinh ra bởi Đức Maria. Nhưng do đâu mà Chúa Giêsu thuộc dòng tộc
Đavít, vì theo phong tục Do Thái, người ta không kể phụ nữ để xác định gia phả.
Vậy Maria thụ thai bởi đâu và đâu là vai trò của Giuse. Trình thuật truyền tin
cho Giuse nhằm minh tỏ Đức Maria thụ thai do quyền năng Chúa Thánh Thần và Đức
Giêsu chính là Đấng Thiên Sai, con vua Đavít, ứng nghiệm sấm ngôn Isaia (Is
7,14). Giuse có nhiệm vụ nhận Đức Giêsu vào tông tộc của mình, nhờ đó Chúa
Giêsu thuộc dòng vua Đavít. Qua trình thuật này, Mt cũng giới thiệu cho ta một
mẫu gương sống tinh thần vâng phục trong đức tin : Giuse, người công chính.
1. Giuse, người công
chính
Giuse đính hôn với
Maria như các thanh nam nữ từ thời bấy giờ. Theo phong tục Do Thái, khi hai
người nam nữ đính hôn, thì đã thành vợ chồng trước luật pháp, nhưng chưa sống
chung; một năm sau đính hôn, chồng rước vợ về chung sống. Thời gian đính hôn,
muốn bỏ nhau phải ra toà xin ly dị. Nếu vợ ngoại tình, phải bị xử ném đá theo
luật.
Sự kiện xảy ra là
trước khi về sống chung, Maria đã có thai. Giuse thật khó xử. Tin Mừng viết:
“Giuse, chồng bà là người công chính và không muốn tố giác bà, nên định tâm bỏ
bà cách kín đáo”. Giuse được Tin Mừng gọi là “người công chính” theo nghĩa nào
? Trước hết, công chính có nghĩa là vâng phục lề luật (Rm 4,2; Gl 3,6). Công
chính còn được hiểu là lòng xót thương nhân hậu (St 12,19; Tv 37,21; Tv 112,4).
Theo luật, Giuse phải tố cáo Maria. Nhưng Giuse lại là người nhân hậu, có lòng
thương xót, không muốn làm nhục người phụ nữ mà ông rất tin tưởng, mến yêu và
kính trọng; ông không muốn Maria bị xử phạt theo luật, nên quyết định âm thầm
ra đi.
Thứ đến, công chính là
hành động phù hợp với ý Thiên Chúa. Giuse không hề hồ nghi Maria, nhưng không
thể nhận bào thai. Một mặt, giả như ông chưa biết là Maria thụ thai do quyền
năng Thánh Thần, thì cũng nghĩ rằng đây là một mầu nhiệm. Do đó lời sứ thần
nhằm thông tin sự thật về bào thai và trao phó cho ông trách nhiệm đặt tên và làm
cha đứa trẻ trước pháp luật. Mặt khác, giả như ông đã biết là Maria thụ thai do
Thánh Thần, ông cảm thấy mình bất xứng để đón nhận hài nhi, nên muốn âm thầm
rút lui. Và như thế, lời sứ thần nhằm xác nhận là thật điều ông đã biết (dĩ
nhiên qua tâm sự của Maria) và trao cho ông trách nhiệm đón nhận hài nhi vào
dòng tộc của mình.
Dù giải thích cách nào
thì lời truyền tin của sứ thần cũng nhắm mục đích giải thích cho biết Chúa
Giêsu được thụ thai do quyền năng Chúa Thánh Thần; Giuse được trao sứ mệnh đón
nhận Người vào dòng tộc vua Đavít; và Người là Đấng Thiên Sai con vua Đavít,
ứng nghiệm lời ngôn sứ Isaia đã từng loan báo: “ Này đây, Trinh nữ sẽ thụ thai
và sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là
Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta” (Mt 1,23).
Trước lời truyền của
sứ thần, Giuse chỉ biết vâng phục. Ông không nói lời nào mà chỉ tuân theo cách
triệt để. Tin là vâng phục và dấn thân hành động. Giuse, cũng như Maria với lời
xin vâng, đã hành động theo mẫu gương của tổ phụ Abraham : vâng phục trong đức
tin.
2. Chúa Giêsu, Đấng
Thiên Sai cứu độ
Sứ thần trao cho Giuse
quyền đặt tên cho hài nhi là Giêsu. Quyền đặt tên đồng nghĩa với việc đón nhận
Giêsu vào dòng tộc của mình và trở nên cha của đứa trẻ trước pháp luật. Giuse
trở nên bạn trăm năm của Maria và dưỡng phụ của Chúa Giêsu.
Tên “Giêsu” có nghĩa
là Thiên Chúa cứu độ. Danh xưng này bao hàm căn tính và sứ mệnh của Chúa Giêsu.
Người được Chúa Cha sai đến trong thế gian như là Emmanuel,
Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta, để thi hành chương trình cứu độ nhân loại. Đây
chính là sợi chỉ đỏ chạy dài suốt Tin Mừng Mátthêu. Cuối cùng, Mt tuyên xưng
Người đã chết và sống lại để chu toàn sứ mệnh cứu thế, và Người hằng hiện diện
mỗi ngày với Giáo Hội cho đến tận thế (Mt 28,20).
Các nhà chú giải Kinh
Thánh còn nhận thấy một tương đồng trong cấu trúc giữa trình thuật về nguồn gốc
lai lịch Chúa Giêsu với hai chương đầu Sáng thế (St 1,1-2,4a // Mt 1,1-17; St
2,4b-25 // Mt 1,18-24). Sự tương đồng ấy nhằm cho thấy việc xuất hiện của Chúa
Giêsu như một Ađam mới, khởi đầu một sáng tạo mới.
Kết luận
Hãy đến với thánh
Giuse với tất cả niềm tôn kính mến yêu và học tập dưới mái trường của ngài tinh
thần vâng phục ý Chúa, lòng khiêm tốn, tính tự chủ và tâm hồn nhiệt thành quảng
đại phục vụ.
Tin Mừng nói rất ít về
Giuse. Tuy nhiên, qua ít đoạn vắn vỏi ấy, ta cũng cảm nhận được một tương đồng
giữa Giuse và Đức Maria. Nếu Thiên Chúa đã chọn Đức Maria làm mẹ Ngôi Hai Thiên
Chúa nhập thể, Ngai cũng đã tuyển chọn Giuse làm dưỡng phụ để chăm nom săn sóc.
Trước đề nghị của Thiên Chúa, Giuse và Maria đã sẵn sàng vâng phục ý Chúa. Cũng
như Maria, Giuse sống thánh thiện, khiêm tốn, yêu thương và hoàn toàn tín thác
vào Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh.
8. Sự công chính của Thánh Giuse
(Suy niệm của Lm.
Giuse Nguyễn An Khang)
Chúa nhật hôm nay,
trước lễ Giáng Sinh, Giáo hội đề nghị chúng ta nghe "loan báo việc sinh
Đức Giêsu cho Giuse".
Mátthêu viết: "Mẹ
Người là bà Maria đã đính hôn với Giuse" Đính hôn hay thành hôn có nghĩa
là "đến với, phối hợp với một người nào đó," chỉ việc chung sống vợ
chồng. Cô thiếu nữ Dothái được đính hôn vào khoảng tuổi 12, thoát khỏi quyền
giám hộ của người cha để ở dưới quyền giám hộ của người chồng vào lúc 13-14
tuổi. Theo phong tục và hôn nhân của người Dothái, đính hôn đã là thành vợ
chồng trước pháp luật, nhưng việc rước dâu thường cách xa lễ đính hôn, có khi
cả năm trời. Thường thì hai người không chung sống trước khi rước dâu, nhưng
giả thiết có con với nhau trong giai đoạn này, đứa con vẫn là con hợp pháp.
Maria đã đính hôn với
Giuse, nghĩa là cả hai như các cặp hôn nhân khác, có dự tính thành vợ chồng.
Nhưng trước khi hai ông bà về chung sống, bà đã có thai do quyền năng Chúa
Thánh Thần. Người ta đặt câu hỏi: Ông Giuse có biết việc Đức Maria thụ thai bởi
quyền năng Thánh Thần, trước khi Thiên thần báo tin không? Sự công chính của
Giuse ở chỗ nào?
Theo nhiều nhà chú
giải, Giuse công chính không theo nghĩa vâng lời lề luật. Vì chẳng có luật nào
buộc phải ly dị người mới đính hôn (Đnl 22,13-21; 23-27), luật chỉ dạy ly dị
khi hôn nhân đã hoàn hợp (Đnl 24,1). Đàng khác âm thầm ly dị, Giuse lại càng
bất tuân lề luật. Vì chứng thư ly dị chỉ có giá trị pháp lý, khi mang tính cách
chính thức công khai. Vả lại, ly dị âm thầm như thế không thể giữ bí mật được
lâu, trong một ngôi làng nhỏ bé như Nadarét. Đàng khác, nếu Giuse coi Maria vô
tội, ta không thể hiểu được tại sao ông lại nghĩ đến chuyện ly dị bà, vì pháp
luật đâu cho phép. Xét như là hôn phu, ông có bổn phận bảo vệ hôn thê vô tội,
chống lại mọi nghi ngờ vô bằng cứ của kẻ khác.
Hơn nữa, trong Tin
mừng của Mátthêu, chỉ duy nhất Giuse được gọi là công chính, tựa như Abel người
công chính. Abel công chính không phải theo luật, vì lề luật chỉ được công bố
với Maisen, nhưng vì kính sợ Thiên Chúa. Vì thế, không thể cắt nghĩa đức công
chính của Giuse " theo luật" được, nhưng công chính vì kính sợ Thiên
Chúa.
Nhiều nhà chú giải cho
rằng: Trước khi Thiên sứ loan báo, Giuse đã biết Maria có thai bởi quyền năng
Thánh Thần, có thể do chính Maria tiết lộ, tâm sự với người mình đính hôn, hay
đúng hơn mẹ của Maria, theo tập quán Đông phương. Vì thế, điều làm cho Giuse
băn khoăn, không phải vì tiết hạnh của Maria, song là sự thụ thai huyền nhiệm
của nàng. Trước mầu nhiệm ấy, Giuse nghĩ: Ông không có quyền đem về nhà một kẻ,
Đức Giavê đã dành riêng cho Người, ông không có quyền làm cha đứa con không
phải là của ông. Ông nhận ra quyền làm Cha của Trẻ này là chính Thiên Chúa, còn
ông, không được coi như cha của đứa con đó.
Thật thiêng thánh!
Trước mầu nhiệm ấy, Giuse muốn rút lui và cẩn thận không muốn tiết lộ mầu nhiệm
thiên linh ấy nơi Maria (Theo Origène và Eusèbe, từ "deigmatisai" =
tiết lộ, không bao hàm ý nghĩa xấu: tố giác, bêu nhục như từ Paradeigmatisai;
Touon cũng dịch là tiết lộ, bầy tỏ). Giuse phản ứng như hết thảy mọi kẻ công
chính trong Kinh thánh, trước việc Thiên Chúa can thiệp vào đời họ: như Maisen
cởi giầy trước bụi gai rực cháy, như Isaia khiếp đảm trước việc xuất hiện của
vị Thiên Chúa ba lần thánh (Is 6,3-4), như Êlisabét hỏi tại sao mình được Mẹ
Thiên Chúa đến thăm (Lc 1,39-45), như Phêrô cúi mình thưa: "Lạy Chúa, xin
hãy xa con vì con là kẻ tội lỗi." Tuy nhiên, "đang khi Giuse toan
tính lìa bỏ Maria, thì kìa sứ thần Chúa hiện đến báo mộng cho ông rằng:
"Này ông Giuse, con cháu Đavít, đừng ngại đón bà Maria vợ ông về."
Giuse kính sợ Thiên Chúa, không phải vì lề luật.
9. Tâm tình của Giuse với biến cố nhập
thể – Anmai
Con người, dù quyền
cao chức trọng đến mức nào đi chăng nữa vẫn mang trong mình những giới hạn của
phận người. Cảm thức trước giới hạn đó con người thường tìm đến vị thần linh,
vị cứu tinh của đời mình để kêu cứu.
Thiên Chúa là Chúa, là
vị cứu tinh của dân tộc Do Thái để rồi Ngài luôn dõi mắt theo nhìn hành trình
đời người của đám dân Ngài chọn. Lúc ẩn, lúc hiện, lúc đồng hành, lúc khuất
bóng nhưng mà hình như lúc nào Thiên Chúa cũng ở bên cạnh dân riêng của mình.
Thiên Chúa luôn can thiệp trong hành trình cứu độ, hành trình đi trong sa mạc
của dân Do Thái để cứu họ thoát khỏi sự dữ, sự chết.
Hôm nay, chúng ta được
nghe Isaia thuật lại câu chuyện hết sức hấp dẫn. Thời ấy, người ta báo cho nhà
Đavít rằng quân Aram đã đóng quân ở Épraim. Với cái tin rùng rợn ấy, Akhát rúng
động như cây rừng rung rinh trước gió như sách ngôn sứ Isaia diễn tả. Akhát
rúng động và không hề biết rằng Thiên Chúa sẽ ra tay cứu ông cũng như cứu dân.
Qua Isaia, Thiên Chúa hứa rằng sẽ làm cho dân Giuđa phải khiếp sợ. Khi nghe
Isaia nói như vậy, nhà vua cảm thấy bình an vì có Thiên Chúa ở bên ông, ở bên
dân của ông.
Thiên Chúa thương dân
Do Thái, Thiên Chúa thương Akhát đến độ còn hỏi vua: "Ngươi cứ xin Đức
Chúa là Thiên Chúa của ngươi ban cho ngươi một dấu dưới đáy âm phủ hoặc trên
chốn cao xanh." Đứng trước tình yêu bao la, sự chở che, sự quan phòng của
Thiên Chúa Vua Akhát trả lời: "Tôi sẽ không xin, tôi không dám thử thách
Đức Chúa."
Nếu tiếp tục theo dõi
những trang sách Isaia tiếp theo, chúng ta sẽ thấy một cách hết sức thiết thực
về tình yêu mà Thiên Chúa dành cho vua Akhát cũng như cho dân. Thiên Chúa đã
cho dân chiến thắng và qua miệng của Isaia còn hứa ban Đấng Cứu Độ như chúng ta
vừa nghe: Chính Chúa Thượng sẽ ban cho các ngươi một dấu: Này đây người thiếu
nữ mang thai, sinh hạ con trai, và đặt tên là Emmanuen.
Tâm tình của vua Akhát
quả là một tâm tình dễ thương. Được Thiên Chúa yêu thương, được Thiên Chúa cho
đòi hỏi nhưng ông lặng lẽ trước ân huệ, trước ơn cứu độ mà Thiên Chúa hứa ban
cho dân Người. Giữa dòng người ồn ào và náo nhiệt, rúng động trước những biến
cố của cuộc đời thì lại có những người bình tâm để nghe tiếng Chúa nói, nghe
lời Chúa hứa trên cuộc đời của mình.
Giữa mùa Vọng này,
hình ảnh hết sức đẹp của một người trông chờ Chúa đã hiện lên một cách hết sức
dễ thương. Hình ảnh ấy đó chính là hình ảnh của Thánh Cả Giuse. Nhà nhà náo
động, người người náo động thì Giuse hoàn toàn lặng lẽ. Thái độ lặng lẽ trước
ơn cứu độ của Thiên Chúa của Thánh Cả Giuse chúng ta vừa nghe Thánh Matthêu
thuật lại. Thánh Matthêu thuật lại cho chúng ta “gốc tích” của Đấng Cứu Độ trần
gian.
“Đây là gốc tích của
Đức Giêsu...”. Sau quyển sách gốc tích của Đức Giêsu Kitô, thì đây là một nguồn
gốc khác được trình bày cho chúng ta. Chúa Giêsu, bám rễ sâu vào một lịch sử,
trong một dân tộc, cũng là Đấng đến từ nơi khác. Giacob sinh Giuse, chồng của
Maria, từ nơi bà, Chúa Giêsu sinh ra... Giuse đã đưa đứa trẻ sắp sinh nhập vào
trong dòng dõi tổ tiên mình một cách hợp pháp một cách xác tín, một cách âm
thầm và lặng lẽ. Từ ngày báo mộng, Thánh Giuse bước vào, nhập cuộc vào chương
trình cứu độ mà Thiên Chúa mời gọi Ngài.
Để Con Thiên Chúa làm
người, cần tiếng Xin Vâng của Maria, nhưng cũng cần tiếng Xin Vâng khiêm tốn
của Giuse. Nhận Maria đang mang thai về nhà mình, và đặt tên cho Hài Nhi trong
tư cách một người cha: những hành động ấy đã cho Giuse một chỗ đứng đặc biệt
trong lịch sử cứu độ. Chúng ta không thể đoán được điều gì sẽ xảy ra, nếu như
Giuse cứ cương quyết bỏ Đức Maria.
Nhờ Giuse, Chúa Giêsu
đã là người thuộc nhà Đavít. Những lời hứa của Thiên Chúa đã ứng nghiệm (x. 2Sm
7,13).
Thánh Giuse có thể tố
cáo Maria dựa trên luật Israel lúc đó, nhưng Ngài không làm như vậy. Giuse muốn
trốn đi vì việc này có thể được mọi người xung quanh hiểu như là một hành động
bỏ trốn trách nhiệm làm cha và trên bình diện siêu nhiên thì có thể được hiểu
như là việc chối từ cộng tác với chương trình cứu rỗi của Thiên Chúa. Nhưng
Thiên Chúa đã muốn cho Giuse một cơ hội, nên đã sai sứ thần đến xác nhận cho
Giuse biết là: “Đừng ngại nhận Maria về làm Bạn mình, vì Maria mang thai là bởi
phép Chúa Thánh Thần”, và thiên thần mạc khải thêm về thân thế của Đấng Cứu Thế
đang được cưu mang trong cung lòng Mẹ Maria và mời gọi Giuse cộng tác và Ngài
sẽ đặt tên cho Con Trẻ là Giêsu. Việc đặt tên cho con là quyền của người cha,
như vậy khi mời gọi Giuse đặt tên cho Con Trẻ không do chính máu huyết của
mình, có nghĩa là mời gọi Giuse chấp nhận quyền hay đúng hơn sứ mạng làm cha
của Con Trẻ trên bình diện pháp lý.
Thánh Giuse có thể từ
chối, nhưng Ngài đã không từ chối mà vâng phục lời thiên thần truyền, Ngài chu
toàn vai trò Thiên Chúa muốn trong việc cứu rỗi. Khi Mẹ Maria sinh Con Trẻ thì
Giuse đặt tên Con Trẻ là Giêsu. Ngoài mẫu gương hành động của Giuse, Phụng vụ
Lời Chúa hôm nay nơi bài đọc II nhắc chúng ta nhớ đến một mẫu gương hành động
trước mầu nhiệm Nhập Thể của Con Thiên Chúa, đó là mẫu gương của thánh Phaolô
tông đồ, một khi chấp nhận mầu nhiệm Nhập Thể của Con Thiên Chúa, thì con người
không thể nào có thái độ dửng dưng được nữa, nhưng phải để cho Con Thiên Chúa
Nhập Thể là Chúa Giêsu Kitô chiếm lấy, biến mình trở thành môn đệ, thành người
cộng tác với Chúa để mang ơn cứu độ đến cho mọi người, mọi dân tộc.
Thực tế, Hài Nhi Giêsu
đến từ một Đấng khác: đứa con bà sinh ra là bởi Chúa Thánh Thần. Vai trò là cha
nuôi của Chúa Giêsu với Thánh Cả Giuse không phải là chuyện đơn giản. Phải hết
sức trầm lắng mới có thể hiểu được ý muốn của Thiên Chúa trên cuộc đời của
Ngài. Giuse, người công chính, sẽ đặt tên cho Hài Nhi: bà sẽ sinh một con trai
mà ông sẽ đặt tên là Giêsu. Tên gọi có ý nghĩa, cho biết Hài Nhi không phải là
hậu duệ như những người khác, đóng kín trong những giới hạn của khả năng loài
người: bởi chính Ngài sẽ cứu dân Ngài khỏi tội lỗi. Ai có thể giải thoát khỏi
tội lỗi, nếu không phải là Thiên Chúa? Lời ngôn sứ nhận lấy đầy đủ tất cả ý
nghĩa: người ta sẽ gọi tên Ngài là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng
tôi. Chúa Giêsu ghi tên vào một gia phả, nhưng Ngài làm nổ tung gia phả đó.
Chính Thiên Chúa bước vào trong thế giới loài người chúng ta.
Khi đón nhận Đấng Cứu
Độ trần gian rồi, Giuse vẫn giữ một thái độ sống hết sức mẫu mực và lặng lẽ để
làm gương sáng cho đứa con yêu của Ngài bởi lẽ Ngài hiểu được tầm quan trọng
của hình ảnh người cha đối với việc tạo thành nhân cách của Hài Nhi. Chính nhờ
gần gũi với Giuse mà Chúa Giêsu sẽ học biết người cha là gì. Chính nơi Giuse,
Chúa Giêsu nhìn thấy phản ánh nhân loại tình phụ tử của Thiên Chúa. Biết nói
với chúng ta rõ ràng về Cha của Ngài, phải chăng khi đã nhìn thấy Giuse mà Ngài
đã có kinh nghiệm về sự âu yếm của cha: “Ai trong các anh, nếu đứa con xin bánh
mà lại cho một hòn đá ư? Hay, nếu nó xin một con cá, mà lại cho nó một con
rắn?” (7,9-10). Ngài đã học biết rằng, các người cha dưới đất biết cho con cái
mình những sự tốt lành. Ngài đã học biết điều đó nơi thánh Giuse. Qua bài học
lặng thầm của Thánh Giuse để lại, Chúa Chúa Giêsu như được củng cố thêm tình
thương của Cha để Ngài bước vào cuộc khổ hình thập giá một cách hiên ngang hơn,
một cách quyết liệt hơn.
Đối diện với những thử
thách cam go của cuộc đời, thánh Giuse vẫn luôn giữ thái độ im lặng. Một thái
độ thầm lặng để vâng theo ý Chúa. Người không lên tiếng, ăn to nói lớn, Người
không bào chữa cho những hành động của Người, nhưng tất cả đều theo ý Thiên
Chúa. Thánh Giuse đã im lặng, chấp nhận dù rằng người cũng rất trăn trở, băn
khoăn, bồn chồn, lo lắng. Mọi biến cố xẩy đến trong cuộc đời của thánh Giuse
đều được Người chấp nhận với lòng tin thâm sâu: Người hy sinh lợi ích riêng cho
kế hoạch, cho chương trình cứu độ của Thiên Chúa.
Sự thinh lặng thánh,
sự ngụp lặn âm thầm theo Thánh ý Chúa của thánh Giuse gợi lên cho nhân loại,
cho mỗi người chúng ta bài học hết sức ý nghĩa. Vì chỉ có sự phó thác thẩm sâu
nơi bàn tay nhân từ của Thiên Chúa với tất cả đức tin sâu xa, con người mới
nhận ra đôi mắt nhân hiền, trái tim quảng đại và tình thương vô biên của Thiên
Chúa đối với từng người. Thánh Giuse đã có mặt trong mọi lúc nguy biến mà Chúa
Giêsu và Đức Mẹ cần đến, nhưng tới thời Chúa Giêsu bắt đầu sứ vụ công khai thì cuộc
đời của thánh Giuse cũng bắt đầu chấm dứt nơi trần gian này. Sự thinh lặng kéo
dài suốt cuộc đời của thánh Giuse từ lúc Người được sinh ra cho đến ngày Người
nhắm mắt xuôi tay. Sự thinh lặng thánh của thánh Giuse diễn tả cuộc đời của một
con người hoàn toàn thuộc về Chúa, cho Chúa và vì Chúa và như thế, thánh Giuse
là mẫu gương tuyệt vời cho mọi người noi theo.
Những ngày chờ đón
Đấng Cứu Độ đến trần gian ắt hẳn mở ra nhiều tâm tình, nhiều thái độ, nhiều
tình cảm nhưng chắc có lẽ tâm tình âm thầm và trầm lắng của Thánh Giuse là tâm
tình, là thái độ hết sức dễ thương mà Thiên Chúa muốn nơi chúng ta. Chỉ trong
âm thầm, chỉ trong chịu đựng những đau khổ chúng ta mới có thể hiểu được Thánh
ý tuyệt vời mà Thiên Chúa tô vẽ trên cuộc đời mỗi người chúng ta.
10. Hạnh phúc khi có Thiên Chúa ở cùng
(Suy niệm của Lm.
Antôn Nguyễn Văn Độ)
Lộ trình phụng vụ mùa
Vọng đã mời gọi chúng ta chuẩn bị tâm hồn để sẵn sàng tiếp đón, đồng thời tỉnh
thức để nhận ra và chiêm ngưỡng biến cố Chúa Cứu Thế bước vào trần gian. Nên thời
gian trước lễ Giáng sinh mang tính đặc thù của nó là chờ đợi với niềm vui, mong
muốn gặp gỡ Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên chúa làm người sống giữa chúng ta. Chúng
ta thấy ông Dacaria và bà Êlisabét, đặc biệt là Mẹ Maria và thánh Giuse, là
những người đầu tiên đã cảm thấy vui mừng khi đối với mầu nhiệm Giáng sinh.
Toàn bộ lời hứa trong Cựu Ước được thực hiện với biến cố Con Thiên Chúa, Vị Cứu
Tinh giáng trần. Như thế bên cạnh sự chờ mong của các nhân vật trong Thánh Kinh
cũng có sự chờ mong của chúng ta nữa...
Isaia loan báo:
"Này đây, Chúa toàn năng đến: Người sẽ được gọi là Emmanuel, Thiên Chúa ở
cùng chúng tôi". Đó là các lời chúng ta thường lặp lại trong các ngày này,
đặc biệt Chúa nhật thứ IV và cũng là Chúa nhật cuối cùng của Mùa Vọng hôm nay.
Toàn bộ phụng vụ xoay
quanh lời ngôn sứ: "Này đây một trinh nữ sẽ mang thai và hạ sinh một con
trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là
Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta". (Is 7,14; Mt 1,23). Nếu bài đọc I, ngôn sứ
tuyên sấm lời Thiên Chúa hứa "sẽ cho các ngươi một dấu: này đây một trinh
nữ sẽ thụ thai..." ((Is 7,14), thì lời hứa ấy được thực hiện trong Bài Tin
Mừng: Tất cả sự kiện này đã được thực hiện để làm trọn lời Chúa dùng miệng Tiên
tri phán xưa rằng: "Này đây một trinh nữ sẽ mang thai ..." Mt 1,23).
Câu này tiếp tục lặp lại trong phần alleluia và cả phần Ca hiệp lễ nữa.
Chân trời ơn cứu độ
phổ quát hôm nay nhằm vào đối tượng cụ thể trong lịch sử và thời gian là: Gia
Đình Thánh Gia Nazarét, trong đó Đức Maria là đối tượng của lời ngôn sứ, thánh
Giuse, người công chính được sứ thần hiện đến trong giấc mơ, và Đức Giêsu Đấng
phải đến đã nhận được hai tên: Giêsu, nghĩa là "Thiên Chúa cứu độ";
và "Em-ma-nu-el", theo Thánh Kinh nghĩa là "Thiên Chúa ở cùng
chúng ta".
Bước vào Chúa nhật thứ
IV Mùa Vọng, người ta có cảm thấy bầu khí nhẹ nhàng và thân thiện của Giáng
sinh; máng cỏ được trưng ra với bò, lừa, tất cả sẽ được trang trí ở đó, đưa
chúng ta đến gần với máng cỏ đã dọn sẵn.
Bằng cách giới thiệu
bản văn Tân Ước, Isaia (7,14) chứng tỏ lời hứa đã được thực hiện, hoàn tất lời
Thiên Chúa phán qua miệng các tiên tri: 'Này đây Trinh Nữ sẽ thụ thai' (Mt
1,22-23). Vì niềm tin của dân Israel mà lời Thiên Chúa hứa được thi hành. Đó là
ý nghĩa đích thực của sự mong chờ trong Mùa Vọng. Thiên Chúa không từ trời
xuống, như một giải pháp kỳ bí cho sự tuyệt vọng của con người, Ngài đến để lấp
đầy khát vọng từ con tim của Abraham, Isaac, Giacob, và của toàn dân Israel, vì
ước muốn này "tin vui mà Thiên Chúa đã hứa qua các ngôn sứ trong Thánh
Kinh" (Rm 1,2). Cần phải đón nhận Thiên Chúa đến trong "Thần
Khí", nghĩa là như một hồn ân nhưng không của Thiên Chúa ban cho con
người, chứ không phải "theo xác thịt" (Rm 1,3-4).
Kết quả là những lời
hứa cứu độ phổ quát dành cho dân Do thái do miệng các ngôn sứ loan báo nay hoàn
tất trong biết cố Giáng sinh. Không có gì là chiến thắng hết: còn qui chiếu nào
đơn giản hơn là một người nam và một thiếu nữ đang sẵn sàng sinh em bé không?
Nhưng con trẻ là đối tượng của lời hứa: Thiên Chúa cứu độ nay đến ở cùng chúng
ta.
"Emmanuel"
nghĩa là, "Thiên Chúa ở cùng chúng ta." Vâng, Người là Thiên Chúa ở
trên chúng ta, nhưng hôm nay Người đến ở cùng chúng ta! Người là Thiên Chúa ở
với chúng ta trong nhân tính và trong ân sủng của Người, Người ở với chúng ta
trong sự yếu hèn của chúng ta và tốt lành của Người, Ngài ở với chúng ta trong
đau khổ của chúng ta với tình thương của Người để đưa chúng ta vào trong tình
yêu dịu dàng và từ bi của Người đối với chúng ta.
Thiên Chúa ở với chúng
ta! Tác giả thư Do thái viết: Anh em là con cái Adam đã không thể lên trời ở
với Thiên Chúa "Mệnh lệnh đó không ở trên trời, khiến anh (em) phải nói:
"Ai sẽ lên trời lấy xuống cho chúng tôi và nói cho chúng tôi nghe, để
chúng tôi đem ra thực hành?" (x. Dt 30,12) Thiên Chúa từ trời xuống là
"Emmanuel", Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Người đến nhà chúng ta, chúng
ta đến với Chúa để được ở với Người ! "Phàm nhân hỡi, cho đến bao giờ lòng
vẫn còn chai đá ưa thích chuyện hư không, chạy theo điều giả dối? "(Tv
4:3) Ở đây có sự thật: "Sao lại yêu mến sự hư vô? " Và đây lời chân
thật và bền vững: "Tại sao tìm kiếm sự dối trá?"
Đây là Thiên Chúa ở
với chúng ta. Nhỏ bé như ta, yếu đuối như ta, trần truồng như ta, nghèo khó như
ta, trong mọi sự, Người đã trở nên giống tôi, mặc lấy tôi và hiến mình cho tôi.
Tôi nằm chết, không có tiếng nói, không có ý nghĩa, thậm trí ánh sáng cũng
không còn trong mắt tôi. Hôm nay Thiên Chúa đã hạ mình xuống làm người như ta
vậy. Ôi ! còn sung sướng và hạnh phúc nào hơn nữa. Thiên Chúa đến cứu thoát
chúng ta khỏi tội lỗi và cái chết, sau khi Adam và Eva phạm tội, Người đã tái
ôm hôn chúng ta và mở toang cửa dẫn chúng ta tới sự sống đời đời.
Thánh Ireneo giải
thích rằng "Chính Con Thiên Chúa đã xuống trong một xác phàm giống xác
phàm của tội lỗi" (Rm 8,3) để lên án tội lỗi và sau khi đã lên án nó, Ngài
hoàn toàn loại trừ nó khỏi loài người. Ngài kêu gọi con người giống chính mình,
Ngài làm cho nó bắt chước Thiên Chúa, và dẫn nó đi trên con đường Thiên Chúa
Cha đã chỉ, để nó có thể trông thấy Thiên Chúa và ban tặng chính Thiên Chúa Cha
cho nó" III, 20,2-3). Ireneo khẳng định rằng: với Chúa Giêsu Hài Nhi,
Thiên Chúa mời gọi chúng ta trở nên giống Người. Chúng ta thấy Thiên Chúa như
Người là. Và như thế Người nhắc nhở cho chúng ta biết chúng ta phải giống Thiên
Chúa, và phải bắt chước Người. Thiên Chúa đã tự hiến cho chúng ta, trong tay
chúng ta.
Thánh Ireneo còn khẳng
định như sau: "Ngôi Lời của Thiên Chúa đến ở giữa loài người và làm Con
của loài người, để tập cho con người nhận biết Thiên Chúa và làm cho Thiên Chúa
quen sống trong con người theo ý Thiên Chúa Cha. Vì thế, Thiên Chúa đã ban cho
chúng ta như "dấu chỉ" ơn cứu rỗi của chúng ta, Đấng được sinh ra từ
Đức Trinh Nữ, là Emmanuel". Xin Đức Trinh Nữ Maria và thánh Giuse giúp
chúng ta sống Mầu Nhiệm Giáng Sinh với lòng biết ơn được canh tân. Amen.
(Trích từ ‘Mỗi Ngày
Một Tin Vui’)
Thiên Chúa là Đấng
toàn năng, nếu Ngài đã tạo dựng thế giới chỉ bằng một lời quyền năng của Ngài,
thì Ngài cũng có thể cứu chuộc con người một cách dễ dàng bằng một lời tha thứ.
Nhưng Thiên Chúa đã không làm thế. Ngài tôn trọng tự do của con người và muốn
chính con người sử dụng tự do của mình để cộng tác vào công trình cứu độ. Nhưng
bằng cách nào? Thưa, đó là luôn vâng theo ý Chúa như Đức Maria và thánh Giuse
đã sống.
Thật vậy, Đức Maria
chỉ là một thiếu nữ bình thường như bao thiếu nữ khác, sống trong một làng quê
nhỏ bé, âm thầm; chỉ có một điều khác biệt là người đã luôn vâng theo ý Chúa
trong mọi sự. Người đã thưa xin vâng, dù chưa biết rõ chương trình lạ lùng của
Thiên Chúa. Cũng thế, thánh Giuse chỉ là bác thợ mộc nhà quê, nghèo hèn, nhưng
có điều khác biệt là ngài đã luôn tuân theo ý Chúa, điển hình là ngài đã rước
Đức Maria về nhà mình sau khi được sứ thần cho biết là Đức Maria thụ thai là
bởi quyền năng Chúa Thánh Thần.
Mỗi kitô hữu chúng ta
cũng có thể là một Giuse hay một Maria khác. Mặc dù chỉ là những con người bé
nhỏ, tầm thường, tội lỗi, chúng ta cũng có thể góp phần vào chương trình cứu độ
của Thiên Chúa nếu chúng ta biết thể hiện cuộc sống hàng ngày của chúng ta
trong sự tuân phục thánh ý Chúa, được biểu lộ qua luật Phúc âm, qua giáo huấn
của Giáo Hội và của các vị Bề trên… Cuộc sống tốt đẹp của chúng ta sẽ trở thành
một dấu hỏi cho người chung quanh: Tại sao người Công giáo lại vui tươi, bình
an như thế; gương sống đạo của chúng ta sẽ tác động những người khô khan và là
một khuyến khích nâng đỡ cần thiết cho những anh em đồng đạo của chúng ta.
Ước gì chúng ta ý thức
được phần đóng góp tuy nhỏ bé, nhưng hữu hiệu của chúng ta, trong việc làm cho
mầu nhiệm Nhập thể của Chúa Giêsu được mọi người nhận biết, và làm cho nhiều
tâm hồn trở thành nơi an bình cho Chúa giáng sinh.
(Suy niệm của Lm.
Giuse Tạ Duy Tuyền)
Có một em bé về kể với
mẹ: Mẹ ơi, hôm nay khi một chiếc xe chở bia bị lật, con thấy nhiều người ra hôi
bia về uống.
Mẹ nói: Vì họ là người
tham lam. Họ phạm tội ăn cắp một cách công khai đáng bị lên án.
Đứa bé: Nhưng con thấy
có cả chú tư, cô ba gần nhà mình cũng vui vẻ bưng một thùng bia về nhà.
Mẹ: Vì chú tư, cô bà
đã bán sĩ diện mình bằng vài lon bia.
Đứa bé: Con thấy không
một ai nhặt giúp bia cho người bị nạn mà ai cũng tranh thủ chộp một vài lon hay
vài thùng rồi lên xe chạy hết.
Mẹ: Vì họ sống theo
bản năng đói thì ăn, khát thì uống mà không còn xét về luân lý được ăn hay
không?
Đứa bé: Vậy nếu xã hội
mà con người chỉ biết sống theo bản năng thì xã hội sẽ ra sao?
Mẹ: Thì xã hội sẽ
chẳng còn luật lệ, người ta sẽ mạnh ai người ấy sống, hay “cá lớn nuốt cá bé”.
Xã hội sẽ loạn lạc, chẳng còn ai tin vào ai.
Đứa bé: Vậy sống trong
một xã hội mà con người không còn thân thiện, giúp đỡ nhau thì mình phải làm
sao?
Mẹ: Mình phải là một
ánh sáng cho thế gian bớt u tối bằng việc làm tốt, không hùa theo đám đông làm
chuyện xấu. Dù chỉ là ánh sáng lẻ loi nhưng vẫn phá tan những đêm tối của lòng
người. Nhất là mình là người Công giáo phải sống chứng nhân cho Chúa qua dấu
chỉ yêu thương để người ta nhận biết chúng ta là môn đệ của Chúa, và đừng bao
giờ vì một vài lon bia mà làm ô danh đạo thánh của chúng ta.
Cách đây hơn hai ngàn
năm giữa một khung trời đầy những bóng tối của tội lỗi, của sự ích kỷ lòng
người Ngôi Hai Thiên Chúa đã ngự xuống trần gian. Ngài là Emanuel ở cùng chúng
ta. Ngài đến để thắp sáng trên trần gian ánh sáng của tình bác ái, của sự hiệp
thông. Ngài là ánh sáng cho trần gian. Ngài soi chiếu ánh sáng chân lý để đầy
lùi bóng tối gian tà. Ngài thắp sáng ánh sáng tình yêu để xua tan bóng đêm của
ích kỷ, lạnh lùng. Ngài đi vào trần đời để ném ngọn lửa yêu thương, lửa bác ái,
lửa tin yêu cho trần gian.
Thế nhưng, vẫn có
những con người khước từ ánh sáng. Họ thích sống trong tăm tối. Họ thích sống
theo bản năng, nuông chiều tính xác thịt. Họ ngồi trong u tối nhưng không muốn
ra ánh sáng. Vì theo ánh sáng phải bỏ bóng tối. Bóng tối của ích kỷ, của dửng
dưng, của gian tà. Nhưng tiếc thay, con người lại thích sống theo bản năng nên
họ khước từ ánh sáng.
Ngày nay cũng có nhiều
người không muốn theo một đạo nào. Không phải là họ không tin mà điều quan yếu
là họ sợ phải sống đạo, phải giữ đạo. Họ thà không theo đạo để sống theo bản
năng của mình. Thế nhưng, bản năng thường ích kỷ, thường lầm lỗi và hẹp hòi nên
vẫn còn đó những việc làm thiếu tình liên đới, hiệp thông yêu thương trong tình
người.
Ngày nay Thiên Chúa
vẫn đang cần chúng ta hãy trở thành ánh sáng cho trần gian. Hãy chiếu sáng cho
thế gian ánh sáng của yêu thương, của tình liên đới và hiệp thông. Hãy dẫn dắt
con người đến cùng ánh sáng đích thực là chính Chúa Giê-su là nguồn mạch ánh
sáng.
Thánh Giu-se và Đức
Maria năm xưa đã cộng tác với Chúa để mang ánh sáng vào trần gian. Mẹ đã cộng
tác bằng hai tiếng xin vâng để đón nhận hài nhi ngự trong cung lòng Mẹ. Thánh
Giuse đã cộng tác bằng hai tiếng xin vâng để trở thành cha nuôi của Chúa
Giê-su. Cả hai cùng thưa xin vâng như lời dâng hiến cuộc đời để trở thành khí
cụ của Chúa mang ánh sáng vào trần gian. Ngôi Hai Thiên Chúa đã có thể cư ngụ
giữa chúng ta là nhờ tấm lòng hy sinh của hai thánh nhân. Chính các ngài đã từ
bỏ ý riêng, từ bỏ nếp sống của mình để hành xử theo ý Thiên Chúa.
Nếu cuộc đời mà ai
cũng biết từ bỏ ý riêng của mình để làm theo ý Chúa thì cuộc đời tốt đẹp biết
bao. Nếu dòng đời ai cũng biết chế ngự bản thân để sống cho tha nhân thì dòng
đời sẽ không còn vẫn đục bởi hôi của, bởi dưng dưng trước khốn khó của đồng
loại mà ai cũng sẵn sàng giúp đỡ nhau.
Mùa Noel nữa lại đến
như mời gọi chúng ta hãy là ánh sáng cho trần gian. Xin đừng vì những quyến
luyến trần tục, những tham lam bất chính mà bản rẻ lương tâm, nhân phẩm của
mình. Nhưng mỗi người hãy là những vì sao sáng trên bầu trời loan báo tin vui
Chúa giáng sinh cho nhân trần. Xin Đấng Emaul mãi ở lại trong tâm hồn chúng ta
ban niềm vui và hạnh phúc để chúng ta cũng ra đi xây dựng tình yêu và hạnh phúc
cho nhân trần. Amen.
(Trích từ ‘Manna’)
Suy Niệm
Tin Mừng Luca nói đến
việc truyền tin cho Đức Mẹ, còn Tin Mừng Mátthêu lại nói đến việc truyền tin
cho Giuse. Sứ thần Chúa giải tỏa nỗi lúng túng và bối rối của ông, khi báo cho
ông hay thai nhi nơi người vợ chưa cùng ông chung sống là do quyền năng Thánh
Thần. Sứ thần mời gọi ông cứ đón nhận Maria làm vợ, và chấp nhận thai nhi như
con mình.
Giuse đã nói tiếng Xin
Vâng. Ông đón lấy những mầu nhiệm mà ông không hiểu hết.
Maria là một mầu
nhiệm. Người con sắp sinh ra bởi Thánh Thần cũng là mầu nhiệm. Giuse đã để cho
các mầu nhiệm vây bọc mình.
Cả cuộc đời Giuse là
chiêm ngắm các mầu nhiệm diễn ra một cách bình thường, sát bên ông. Và chính
cuộc đời của ông cũng là một mầu nhiệm.
Giuse chấp nhận ý định
của Thiên Chúa dù nó phá vỡ ước mơ ông ấp ủ từ lâu. Ông muốn làm chồng cô
Maria, người ông yêu mến, nhưng Thiên Chúa lại muốn ông làm bạn của cô thôi.
Ông muốn là cha của một đàn con đông đúc, nhưng ông chỉ là cha nuôi của Đức
Giêsu.
Bề ngoài, Giuse vẫn
gánh trách nhiệm làm chồng, làm cha, nhưng căn tính sâu xa của ông, ít ai biết.
Ông sống một mình mầu
nhiệm đời ông trước Thiên Chúa.
Giuse đã mau mắn nói
tiếng Xin Vâng.
Ông luôn bị đánh thức
vào lúc đang an nghỉ. Sứ thần Chúa bảo ông chỗi dậy để làm điều gì đó. Ông bỏ
dở giấc ngủ và lên đường giữa đêm khuya. Từ Nadarét lên Bêlem, từ Bêlem đi Ai
cập, rồi lại trở về. Giuse chịu trách nhiệm về những kho báu Chúa giao.
Vâng phục một cách đơn
sơ: đó là thái độ của Giuse.
Hôm nay có thể Chúa
không nói với tôi qua giấc mơ, nhưng qua bao con đường khác, rất riêng tư, mà
chỉ mình tôi cảm nhận được. Nếu tôi mau mắn nói tiếng Xin Vâng như Giuse, tôi
sẽ góp phần vào việc cứu độ cả thế giới.
Để Con Thiên Chúa làm
người, cần tiếng Xin Vâng của Maria, nhưng cũng cần tiếng Xin Vâng khiêm tốn
của Giuse. Nhận Maria đang mang thai về nhà mình, và đặt tên cho Hài Nhi trong
tư cách một người cha: những hành động ấy đã cho Giuse một chỗ đứng đặc biệt
trong lịch sử cứu độ. Chúng ta không thể đoán được điều gì sẽ xảy ra, nếu như
Giuse cứ cương quyết bỏ Đức Maria.
Nhờ Giuse, Đức Giêsu
đã là người thuộc nhà Đavít. Những lời hứa của Thiên Chúa đã ứng nghiệm (x. 2Sm
7,13).
Cùng với Giuse, xin
được gọi tên Con Thiên Chúa là GIÊSU.
Cùng với cả vũ hoàn,
xin gọi tên Ngài là EMMANUEL. GIÊSU là Thiên-Chúa-ở-với-ta cho đến tận thế.
Gợi Ý Chia Sẻ
Theo kinh nghiệm của
bạn, Thiên Chúa thường nói với bạn bằng những cách thức nào? Có khi nào bạn xin
vâng khi dự tính của bạn bị tan vỡ không?
Con Thiên Chúa được
gọi bằng nhiều tên: Giêsu, Kitô, Con vua Đavít, Emmanuel. Bạn thích tên nào hơn
cả? Tại sao?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, sống
cho Chúa thật là điều khó. Thuộc về Chúa thật là một thách đố cho con.
Chúa đòi con cho Chúa
tất cả để chẳng có gì trong con lại không là của Chúa.
Chúa thích lấy đi
những gì con cậy dựa để con thực sự tựa nương vào một mình Chúa.
Chúa thích cắt tỉa con
khỏi những cái rườm rà để cây đời con sinh thêm hoa trái.
Chúa cương quyết chinh
phục con cho đến khi con thuộc trọn về Chúa.
Xin cho con dám ra
khỏi chính mình, ra khỏi những bận tâm và tính toán khôn ngoan để sống theo
những đòi hỏi bất ngờ của Chúa, dù phải chịu mất mát và thua thiệt.
Ước gì con cảm nghiệm
được rằng trước khi con tập sống cho Chúa và thuộc về Chúa thì Chúa đã sống cho
con và thuộc về con từ lâu. Amen.
14. Ngài từ đâu đến? – Lm. Antôn Nguyễn Văn Tiếng
Bắt đầu bài trích Phúc
Âm hôm nay, Thánh Mátthêu đã giới thiệu: “Sau đây là gốc tích Đức Giêsu
Kitô...”. (Đức Giêsu Kitô sinh ra thế này - Et voici comment Jésus Christ fut
engendré...bản dịch của Cha Thuấn, La Bible de Jérusalem) (Mt 1,18).
Khi thánh sử Mátthêu
mở đầu Phúc Âm của ngài, ngài đã trang trọng viết: “Đây là gia phả Đức Giêsu
Kitô, con cháu vua Đa-vít, con cháu ông Áp-ra-ham”. (Gia phả Đức Giêsu Kitô,
con Đa-vít, con Abraham. – Généalogie de Jésus Christ, fils de David, fils
d’Abraham. Bản dịch của Cha Thuấn, La Bible de Jérusalem). (Mt.1,1-17).
Người xưa có câu: “vô
tri bất mộ”. Không biết không yêu.Trong cuộc sống, cũng không ai đặt niềm tin
vào người mà mình không hề biết “gốc tích” người đó. Làm sao ta có thể an lòng
đặt niềm Tin Yêu vào một người mà ta không biết gì về “lý lịch”?
Nên, không phải vô
tình mà thánh Mátthêu mở đầu sách Tin Mừng, ngài đề cập đến hai lần “gốc tích”
của Chúa Giêsu Kitô. Bởi vì, để dọn đường cho Đức Tin độc giả, thánh Mátthêu
muốn độc giả hiểu rõ về Chúa Giêsu. - Đức Giêsu, Ngài từ đâu đến?
Đức Giêsu: nhân vật
lịch sử.
Không một sử gia nào
ngày hôm nay còn nghi ngờ tính chất lịch sử của Chúa Giêsu, khái niệm Ngài
không phải là một nhân vật đã sống thực sự trong lịch sử không còn giá trị gì
trên phương diện sử học.
Ngay cả những tranh
luận thời xưa, Celse ở thế kỷ thứ hai, Porphyre ở thế kỷ thứ ba đã qui tụ nhiều
lập luận chống lại Kitô giáo, dựa trên sự nghiên cứu sâu rộng về kinh Thánh, về
truyền thống truyền miệng; nhưng các ông không hề nghi ngờ gì về thực tại của
những lời chứng do các môn đệ đã biết Chúa Giêsu tuyên xưng, hay những lời của
Phao-lô, chứng nhân và văn sĩ Kitô hữu đầu tiên. Sự sống lịch sử của Chúa Giêsu
cũng không bị đặt nghi vấn bởi truyền thống Do Thái, và ngay cả kinh Coran cũng
coi Ngài như một vị tiên tri loan báo đấng Mahomet của Hồi Giáo.
Trong những văn kiện
ngoài Kitô giáo, chiến tranh Do Thái (la guerre Juive) và những Cổ truyền Do
Thái (les antiquités Judaiques), được soạn thảo bởi sử gia Do Thái Flavius
Josèphe, có nói hai lần đến sự hiện hữu của Chúa Giêsu.
Trong những cổ truyền
Do Thái (XX & 200), Flavius nhắc đến cuộc tử đạo của Jacques năm 62: Vị
giáo quyền Anan triệu họp đại hội những thẩm phán để xử án jacques, anh em của
Giêsu còn gọi là Kitô, và một phạm nhân khác. Họ bị kết tội đã vi phạm Luật
Thánh và bị kết án tử hình bằng ném đá. Bản văn này cần hai chú thích sau: thứ
nhất là chữ dịch anh em phải được hiểu theo nghĩa của ngôn ngữ nguyên văn
(acception sémitique), nó được dùng để chỉ những người cùng gia đình, họ hàng,
bạn bè; thứ hai là chữ Kitô, dưới ngòi bút của tác giả ngoại giáo và thân Roma
này, được dùng theo nghĩa xấu để chỉ những người hay gây rối loạn ở vùng Judée
thời đấy.
Trong chiến tranh Do
thái (Flavius Josèphe XVIII, &63-64), ông có viết: Trong thời đó có Giêsu,
một người khôn ngoan, nhưng có nên gọi như thế hay không, bởi vì đó là một
người làm nhiều điều phi thường, một bậc thầy đối với nhiều người muốn tìm chân
lý. Nhiều người Do Thái và Hy lạp theo ông. Đó là Đức Kitô. Khi ông bị tố cáo
và bị Philatô kết án đóng đinh trên thập giá, những người theo ông vẫn không từ
bỏ. Bởi vì ông sống lại trong ngày thứ ba; nhiều vị tiên tri thần linh đã nói
về những điều này và muôn vàn những điều kỳ diệu khác về ông. Cho tới bây giờ,
nhóm người Kitô vẫn còn tồn tại. (Theo Le Figaro Magazine, 01.10.1999, Nguyễn
Văn Thành chuyển ngữ).
Còn rất nhiều bằng
chứng, để có thể tin chắc một người mang tên Giêsu như Tân Ước ghi lại, đã từng
có mặt trong lịch sử nhân loại. Đó không phải là một nhân vật huyền thoại, được
tưởng tượng ra để phục vụ cho những lý do trần tục của nhân loại.
Vì Giêsu, Ngài là một
nhân vật từng có mặt trong lịch sử nhân loại, nên Ngài phải có “gia phả”, có
“gốc tích” rõ ràng, Ngài là con ai, cha mẹ là ai, sinh ra ở đâu, quê hương,
cuộc đời và sự nghiệp Ngài như thế nào. Đó là “nhân tính” của Đức Giêsu.
Nhưng, Chúa Giêsu
không chỉ là một nhân vật lịch sử bình thường. Ngài không phải chỉ là một vĩ
nhân. Ngài còn là: Thiên-Chúa-làm-người.
Đức Giêsu:
“Thiên-Chúa-làm-người”.
“Sau đây là gốc tích
Đức Giêsu Kitô: bà Maria, mẹ Người, đã thành hôn với ông Giuse. Nhưng trước khi
hai ông bà về chung sống, bà đã có thai do quyền năng Chúa Thánh Thần.”
(Mt.1,18).
Lý lịch của Chúa Giêsu
rất hợp lệ theo thủ tục của con người, nhưng không tự nhiên theo kiểu con
người, vì Ngài là Thiên Chúa. Ngôi Hai xuống thế làm người, Ngài là Thần Linh
Sự Sống, là nguồn sống, Ngài là Đấng ban phát sự sống, Ngài đến để tái tạo sự
sống cho con người, Ngài không thể được hình thành từ máu huyết phàm nhân.
Thánh Giuse là “người
công chính”, chắc chắn đã được Thiên Chúa mạc khải chương trình huyền nhiệm về
Chúa Cứu Thế Giáng Sinh mà ngài có bổn phận nuôi dưỡng, nhưng, trong sự hiểu
biết hạn hẹp của một phàm nhân, hẳn ngài luôn cần Thiên Chúa soi sáng hướng dẫn
thêm, qua việc Thiên Thần đến với ngài trong giấc mơ, để ngài an tâm thực thi
sứ mạng cao cả của ngài, là cha nuôi của Đấng Cứu Thế.
“Này đây, Trinh Nữ sẽ
thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuen,
nghĩa là "Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta." Khi tỉnh giấc, ông Giuse làm
như sứ thần Chúa dạy và đón vợ về nhà.” (Mt.1,23-24).
Emmanuen,
Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta, đây mới đích thực là “gốc tích” của Giêsu. Giêsu,
không phải chỉ là một “vĩ-nhân-ở-cùng-chúng-ta”, nhưng là
“Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta”. Và nhân loại phải nhận ra “gốc tích” đích thực
này của một con người lịch sử mang tên Giêsu.
Con người mang tên
Giêsu ấy, có “gia phả” từ ngọn nguồn của mọi sự sống. Con người ấy là Thiên Chúa đã
lặng lẽ đến với nhân loại để “ở với nhân loại”, “đồng hành với nhân loại”, mà
nhân loại đã không nhận ra “gốc tích” thật sự của Ngài. Đó là “Thiên Tính” của
Đức Giêsu.
“Ngôi Lời là ánh sáng
thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người. Người ở giữa thế gian, và
thế gian đã nhờ người mà có, nhưng lại không nhận biết Người. Người đã đến nhà
mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận. Còn những ai đón nhận, tức là những
ai tin vào danh Người, thì Người cho họ quyền làm con Thiên Chúa” (Ga.1,12).
“Ngôi Lời đã trở nên
người phàm và cư ngụ giữa chúng ta” (Ga.1,14).
Đón tiếp Thiên Chúa
Giáng Sinh.
Lễ Giáng Sinh ngày nay
tưng bừng đèn hoa ngày hội và gần như cả cộng đồng nhân loại biết đến. Nhưng
phần lớn nhân loại mừng Sinh Nhật Chúa Giêsu khi chỉ được biết Chúa Giêsu như
một nhân vật lịch sử và dừng lại ở sự kính trọng Ngài như một vĩ nhân. Nhưng,
ngày lễ Giáng Sinh chỉ thật sự đúng ý nghĩa khi con người chào đón Ngài là
“Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta”. Niềm Tin ấy chỉ có
được khi con người nhận ra “gốc tích Đức Giêsu là Thiên Chúa”.
Và, như thế, đón mừng
Giáng Sinh, là đón mừng Tình Yêu Thiên Chúa dành trọn vẹn cho con người với Mầu
Nhiệm Nhập Thể.
“Emmanuen, Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta”
(Mt.1,23); hay “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta”
(Ga.1,14), đó là hồng ân lớn lao vô bờ bến mà không một ai trong kiếp nhân sinh
đầy khổ ải này lại không mong mỏi đợi chờ.
Yêu nhau trăm sự chẳng
nề. Một trăm chỗ lệch cũng kê cho bằng. Cao vời nào cao vời như Thiên Chúa, thấp hèn nào như thấp hèn
kiếp bụi tro, nhưng “một trăm chỗ lệch” ấy đã được “kê bằng” để Thiên Chúa đến
với con người, ở giữa con người, sống như con người, chỉ trừ tội lỗi. Chỉ có
Đức Giêsu Kitô với hai bản tính Thiên Chúa và con người, Ngài mới thật sự là
nhịp cầu nối trời và đất. Thiên Chúa cúi xuống với con người để con người được
vươn lên tới Thiên Chúa.
Không có Tình Yêu nào
không đòi hỏi sự đồng hành, và sự đồng hành của Thiên Chúa dành cho con người
gần gũi và chia sẻ đến mức không thể hơn thế được.
Đức Giêsu Kitô vốn dĩ
là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với
Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên
giống phàm nhân sống như người trần thế. (Pl.2,6-7).
Quả thực, chỉ có Tình
Yêu ngự trị vũ hoàn này, sức sống mới thật sự hồi sinh, và hạnh phúc mới tìm
lại được trong mọi con tim nhân thế.
Vì Chúa đến, không
phải đem lại cho con người những cuộc vui chóng tàn hay những lợi lộc chóng
qua, nhưng Ngài đến để đem lại cho con người những giá trị vĩnh cửu mà nếu
không có Ngài, tất cả chỉ là khát vọng.
Lòng chúng ta sẽ trống
rỗng nếu chúng ta không tiếp đón Ngài là Thiên Chúa Nhập Thể trong chính tâm
hồn chúng ta. Ngài đến để đi vào mọi ngõ ngách tâm hồn chúng ta, nơi mà chúng
ta chưa bao giờ dám chia sẻ cùng ai, đồng hành cùng ai. Và điều kỳ diệu sẽ đến
với chúng ta khi mỗi bước đi của chúng ta là mỗi bước an bình và đầy hoan lạc
trong ánh sáng Tình Yêu của Ngài. Vì như thế mới đúng với danh xưng của Ngài:
Em-ma-nu-el: Thiên Chúa ở cùng chúng ta.
Hiểu được Đức Giêsu
Kitô là ai, Ngài từ đâu đến, con người mới biết cách tiếp đón Ngài và đón tiếp
Ngài với trọn vẹn niềm Tin Yêu và hạnh phúc.
Lạy Chúa,
Này đây Máng Cỏ lòng
con,
xin Ngài ngự đến.
Nghèo hèn và bé nhỏ,
không xứng với Vua
Trời Đất,
nhưng con tin rất vừa
với Chúa Tình Thương.
Amen.
15. Truyền tin cho ông Giuse
(Trích ‘Sống Lời Chúa’
– Damiano)
Việc Chúa Ngôi Hai đến
trong thế gian là một khởi đầu cho một kỷ nguyên mới. Tuy nhiên cái mới nối
tiếp cái cũ chứ không hủy bỏ. Vì Cựu Ước đã chuẩn bị cho Tân Ước. Sự hiện diện
của Giuse là bản lề cho sự nối kết này. Nhờ Giuse mà Chúa Giêsu được thuộc dòng
dõi Đavít: “Đây là gốc tích của Chúa Giêsu... Đức Kitô con vua Đa-vít, con của
Abraham... Giacob sinh Giuse, chồng Maria, từ nơi bà sinh ra Đức Giêsu, cũng
gọi là Đức Kitô...”
Để cắt nghĩa vai trò
tế nhị của Giuse: Sở dĩ thánh Giuse nhận là chồng của bà Maria và cha của Chúa
Giêsu cách hợp pháp mà không phải là bất đắc dĩ là vì ông là người công chính.
Công chính là người sống theo thánh ý Thiên Chúa. Giai đoạn này được coi như
một màn kịch: một hoàn cảnh bế tắc: sinh ra mà không có cha (người mẹ sẽ bị ném
đá chết, chương trình Thiên Chúa sẽ bị bế tắc hay sao?). Việc Giuse nhận làm cha
nuôi theo lời Thiên Thần truyền tin cho ông , đã gỡ rối cho sự bế tắc nầy (thế
là Chúa Giêsu ra đời một cách hợp pháp). Bây giờ chỉ còn việc thực hiện sứ mạng
nữa thôi: Khi thức dậy, Giuse đã thực hiện điều Thiên Chúa truyền: ông rước vợ
về nhà mình. Vì thế, trong chương trình của Thiên Chúa, Giuse có một chỗ đứng
rất quan trọng: vừa làm vai trò bản lề giữa Cựu và Tân Ước, vừa là công tác
viên tích cực không thể thiếu được trong chương trình cứu chuộc của Thiên Chúa.
Nhưng trọng tâm bài
Tin Mừng hôm nay không phải là ông Giuse mà chính Chúa Giêsu gọi là Emmanuel
(Thiên Chúa-ở-cùng-chúng-tôi). Ngài có hai nguồn gốc: nhờ Giuse và Maria mà
Ngài là con Đa-vít cách hợp pháp, nhưng đồng thời Ngài cũng ra đời bởi phép
Chúa Thánh Thần. Qua câu: Đây là nguồn gốc... Thánh sử Mátthêu muốn cho thấy
nơi Đức Giêsu có hai bản tính rõ ràng. Trong Ngài đất trời đã được nối lại với
nhau; Thiên Chúa và con người lại được giao hòa. Vì thế Chúa Giêsu gọi ông
Giuse là cha đồng thời Ngài cũng là con Đấng tối cao.
Giuse là cha nuôi của
Chúa Giêsu, điều đó nói gì với chúng ta hôm nay? nếu Giuse đã săn sóc giữ gìn
Chúa Giêsu, thì ngày nay ngài cũng đóng vai trò trước mặt Thiên Chúa cho chúng
ta, vì chúng ta là Kitô hữu, thuộc Nhiệm Thể Chúa Kitô. Ngài tiếp tục là cộng
tác viên của Thiên Chúa trong việc cứu rỗi chúng ta. Biết bao nhiêu lần trong
lịch sử Giáo Hội, thánh Giuse đã tỏ ra thật sự là cha tinh thần của rất nhiều
con cái, khi họ kêu cầu người.
Thánh Giuse đưa người
lầm lạc trở về.
Một cha xứ ở Pháp kể
rằng: Từ 17 năm rồi, có một người lạc đạo đến cư ngụ trong giáo xứ của ngài, và
ngài đã lui tới khuyên nhủ, nhưng vô hiệu.
Sau đó một thời gian
anh ấy lâm trọng bệnh. Nghe tin, cha lại đến khuyên bảo, nhưng cũng vô hiệu.
Đến giờ dâng lễ, cha phải trở về. Trước khi mặc áo lễ, cha ra quỳ trước bàn thờ
thánh Giuse, cầu nguyện cho kẻ lầm lạc. Lễ xong, cha lại trở lại thăm anh ta.
Và kỳ lạ thay, lần này, anh ta đã thay đổi rõ ràng. Cha vừa lên tiếng chào thì
anh đã vui vẻ đáp lại và tỏ dấu sám hối ăn năn thật lòng. Anh đã xin chịu các bí
tích cần thiết và sau nửa ngày thì anh ta qua đời cách bình an.
16. Thánh Giuse, mẫu gương Mùa Vọng
(Suy niệm của Lm.
Giuse Nguyễn Hữu An)
Tin Mừng Luca kể
chuyện truyền tin cho Đức Mẹ.Tin Mừng Matthêu tường thuật câu chuyện truyền tin
cho Thánh Giuse. Thánh nhân được mạc khải cho biết mầu nhiệm Con Thiên Chúa
Nhập Thể trong cung lòng Đồng Trinh của Mẹ Maria, do quyền phép của Chúa Thánh
Thần. Ngài được mời gọi tích cực tham dự vào chương trình cứu độ của Thiên
Chúa. Giuse đã sống lời "Xin Vâng" trọn cuộc đời.
Ngày Sứ thần Gabriel
truyền tin, sau khi Đức Maria nói lời "Xin Vâng", Con Thiên Chúa đã
làm người trong cung lòng của Mẹ. Biết tin chị họ Êlisabeth có thai, Mẹ đã mau
mắn lên đường đến viếng thăm và giúp đỡ suốt 3 tháng.
Trong thời gian này,
Giuse ở nhà lo lắng chuẩn bị cho ngày thành hôn sắp tới. Thật bất ngờ, khi trở
về Maria có dấu hiệu mang thai. Tâm hồn Giuse hoang mang bối rối khi bà con lối
xóm xầm xì to nhỏ: Maria có thai. Làm sao tin nổi đó là sự thật? Maria một
thiếu nữ nết na đức hạnh kia mà! Dù cố biện minh cho Maria, nhưng Giuse không
khỏi xao xuyến. Làm sao đây, khi mà Maria cũng không thể tự biện hộ cho mình là
bào thai này do quyền phép của Thiên Chúa chứ không phải người phàm! Giuse có
thể tin được không? Phần Maria vẫn thinh lặng suy niệm trong lòng.
Về phần Giuse, chiếu
theo luật có thể truy tố Maria trước pháp luật.Là người công chính, dù ghi nhận
ít nhiều dấu hiệu chuyển biến nơi Đức Maria, Giuse cũng chẳng dám nghi ngờ mà
chỉ một thoáng băn khoăn, để rồi định chọn cho mình giải pháp âm thầm rút lui.
"Đào vi thượng sách" là giải pháp an toàn nhất. "Trong lúc định
tâm như thế, thì Thiên Thần hiện đến với ông trong giấc mơ" và nói rõ về ý
định của Thiên Chúa chọn Maria làm Mẹ Đấng Cứu Thế. Thiên Thần trấn an Giuse:
" Chớ ngại nhận Maria làm bạn, vì Con bà đang cưu mang là do quyền năng
Chúa Thánh Thần. Bà sẽ sinh con trai và ông sẽ gọi tên con trẻ là Giêsu: vì
chính Người sẽ cứu dân mình khỏi tội" (Mt 1,20-21). Sứ thần nhắc cho Giuse
lời tiên tri Isaia (bài đọc 1). Là người Công Chính, Giuse đã đọc Kinh Thánh
Cựu Ước và biết về sấm ngôn này. Lời Thiên Thần khai mở đã trút được gánh nặng
đang đè trên tâm hồn Giuse bấy lâu. Chính lúc này, được tỏ nguồn cơn, Giuse đã
tiếp nhận ý Chúa và tiếp đón Đức Maria về nhà mình bằng một tình yêu trong
sáng, mà người trần mắt thịt dẫu có bản lĩnh cách mấy cũng khó mà dám xâm mình
mạo hiểm (Mt 1,24).
Thánh Giuse luôn lắng
nghe và mau mắn thi hành thánh ý Chúa. Ngài trở nên Thánh Cả và là mẫu gương
cho mọi tín hữu.
1. Mẫu gương công
chính
Tổ phụ Abraham nài xin
với Thiên Chúa: "Thưa Chúa, nếu tìm thấy trong thành có 50 người công
chính thì với 50 người chính chính ấy Chúa có tha cho cả thành không ?".
Giavê Thiên Chúa đã chấp thuận điều kiện Abraham đặt ra. Abraham đã kỳ kèo bớt
dần bớt dần xuống con số 10 người công chính, Giavê cũng chấp nhận (x.St
18,16-33). Chờ đợi đến giai đoạn sau này, Abraham mới vui mừng vì hiểu được
rằng chỉ với một người công chính duy nhất chính hiệu thì Thiên Chúa cũng ban
ơn tha thứ cho cả nhân loại (x.Ga 8,56). Người công chính là người lôi kéo ân
lộc trời cao cho nhân trần, là người trung gian hòa giải đất với trời, là người
thể hiện tình yêu nhưng không của Thiên Chúa và là người nối kết mối dây giao
hòa giữa nhân loại với Đấng tác thành mọi sự mọi loài.
"Giuse là người công
chính". Nơi Thánh Giuse, "sự công chính nội tâm" trùng với
"tình yêu". Tình yêu dâng hiến luôn hướng về người khác, sẵn sàng hy
sinh để làm người mình yêu có giá trị hơn và được hạnh phúc hơn. Chấp nhận chịu
thiệt thòi để người yêu được hưởng lợi, chấp nhận đau khổ để người mình yêu
hạnh phúc. Sẵn sàng thông cảm và tha thứ cho người mình yêu khi có lầm lỗi.
Giuse đã yêu Maria bằng tình yêu dâng hiến như thế.
Giuse luôn mở lòng
lắng nghe Lời Chúa trong cầu nguyện. Thiên thần giải thích cho Giuse biết:
"Người sinh bởi Đức Maria là do Chúa Thánh Thần", theo lời ngôn sứ
phán xưa: "Này đây: Trinh nữ sẽ thụ thai", và Giuse sẵn sàng tiếp
nhận những ý định của Chúa, những ý định vượt quá những giới hạn của loài
người.
Giuse như là một con
người đích thực sống đức tin. Đức tin liên kết với sự công chính và cầu nguyện,
đó là thái độ phù hợp để gặp Đấng Emmanuel. Tin có nghĩa là sống trong lịch sử
mở lòng đón nhận sáng kiến của Thiên Chúa, đón nhận sức mạnh sáng tạo của lời
Người.
2. Mẫu gương luôn vâng
theo thánh ý Chúa.
Thánh Giuse là người
công chính như Kinh Thánh đã khen tặng. Trong suốt cuộc đời, Giuse hằng luôn
vâng theo Thánh Ý Thiên Chúa (x. Mt 1,18-25; 2,13-23; Lc 2,1-7.22).
Thánh ý Chúa được Sứ
thần truyền đạt đến cho thánh Giuse, vừa xoá tan mọi nghi ngờ đang dằn vặt ngài
vừa mạc khải cho ngài về lai lịch và sứ mạng của thai nhi đang được cưu mang.
Đó là Đấng Thánh vì được thụ thai do quyền năng của Thiên Chúa. Đó cũng là Đấng
sẽ giải phóng dân tộc của ngài khỏi ách đô hộ của ngoại bang. Sứ thần xác nhận "Maria
mang thai do Chúa Thánh Thần" và bảo ông đừng rút lui mà hãy đưa Maria về
với mình, bởi Chúa đã giao cho ông một sứ mạng. Giuse sẵn sàng làm bất cứ điều
gì Chúa muốn để hoàn tất chương trình của Người. Dự tính muốn ra đi âm thầm
không phải chỉ do sự tôn trọng luật pháp hay tôn trọng danh dự Maria thúc đẩy,
nhưng còn có cái gì sâu xa hơn nữa. Có thể ví với thái độ của những người đối
diện với một mầu nhiệm cao cả: họ thụt lại vì kính sợ, tựa như ông Môsê đã cởi
dép khi tiến gần bụi gai đang cháy rực (St 3,5), tựa như Isaia thất kinh khi
diện kiến Thiên Chúa cực thánh(Is 6,5), tựa như Simon sau khi chứng kiến mẻ cá
lạ lùng (Lc 5,8). Giuse đựoc biết là Maria "có thai do quyền năng Chúa
Thánh Thần", vì thế ông không dám chiếm hữu người con không phải là của
mình. Vì thế ông toan tính rút lui. Để cũng cố thêm cho sự giải thích vừa rồi,
cha Ignace de La Potterie nhận xét rằng cần phải xét lại các bản dịch cổ
truyền. Thay vì "ông Giuse là người công chính không muốn tố giác
bà", cần phải dịch là "ông Giuse là người công chính không muốn tiết
lộ 'mầu nhiệm', quyết định rời bỏ bà cách kín đáo". Động từ deigmatisai
(ít được sử dụng trong tiếng Hy lạp) tự nó chỉ có nghĩa là thông báo, nói cho
biết, đưa ra ánh sáng), và tuỳ theo mạch văn mà thay đổi ý nghĩa: có thể là
"tố cáo, tố giác" (điều xấu), "bày tỏ, tiết lộ" (điều tốt).
Ông Giuse đựơc bà Maria tâm sự về sự cưu mang do quyền năng Thánh Thần, và ông
không dám tiết lộ mầu nhiệm này. (x. Lm Phan tấn Thành, Thánh Giuse trong cuộc
đời Chúa Kitô và Hội thánh).
Như một khí cụ ngoan
ngoãn trong tay người sử dụng, thánh Giuse đã được Thiên Chúa "chọn mặt
gởi vàng", chọn làm người bảo trợ Đấng Thiên Sai. Ngài cùng với Đức Maria
thực hiện mọi quyết định của Thiên Chúa, dầu có phải trải qua biết bao thử
thách gian nan cả vật chất lẫn tinh thần.
Người Công Chính Giuse
suốt cuộc đời luôn luôn thức tỉnh trước thánh ý Thiên Chúa, thức tỉnh ngay cả
trong giấc ngủ.
- Ở Bêlem: "Sứ thần Chúa
hiện ra báo mộng cho ông Giuse rằng: "Này ông, dậy đem Hài Nhi và mẹ Người
trốn sang Aicập, và cứ ở đó cho đến khi tôi báo lại, vì vua Hêrôđê sắp tìm giết
Hài Nhi!' Ông Giuse liền chỗi dậy, và đang đêm, đưa Hài Nhi và mẹ Người trốn
sang Aicập." (Mt 2,13-14) .
- Ở Aicập: "Sứ thần Chúa lại
hiện ra với ông Giuse bên Aicập, báo mộng cho ông rằng: "Này ông, dậy đem
Hài Nhi và mẹ Người về đất Ítraen, vì những kẻ tìm giết Hài Nhi đã chết rồi.
"Ông liền chỗi dậy đưa Hài Nhi và mẹ Người về đất Ítraen" (Mt
2,19-21).
- Ở Giuđê: "Vì nghe biết
Áckhêlao đã kế vị vua cha là Hêrôđê, cai trị miền Giuđê, nên ông Giuse sợ,
không dám về đó. Rồi sau khi được báo mộng, ông lui về miền Galilê, và đến ở
tại một thành kia gọi là Nadarét" (Mt 2, 22-23) .
Giuse luôn thao thức
lắng nghe tiếng Thiên Chúa, và khi nghe được rồi thì đáp lại không chần chừ, dù
cho phải trả giá.
Một câu ngạn ngữ của
người Nigêria nói rằng: Hãy lắng nghe và bạn sẽ nghe đựoc những bước chân của
các con kiến. Chúng ta được mời gọi để lắng nghe những bước chân âm thầm của
Thiên Chúa trong cuộc đời mình.
Thánh Giuse là mẫu
gương sống tâm tình đạo đức Mùa Vọng. Học với Thánh Giuse, bài học lắng nghe và
thi hành Lời Chúa, trong tinh thần khiêm tốn, vâng phục, tin tưởng và phó thác,
chúng ta sẽ trở nên người công chính Tân Ước như thánh nhân.
17. Thiên Chúa ở cùng chúng ta
Bản văn này khơi lên
nhiều câu hỏi. Chẳng hạn, chúng ta có thể thắc mắc tại sao Matthêu, ngược lại
với Luca, đã trình bày khuôn mặt của Giuse chứ không phải của Maria như là
người đón nhận tin báo của Thiên Chúa về cuộc sinh hạ Đấng Cứu Độ Israel. Chúng
ta có thể tự hỏi đâu là những động lực thúc đẩy Giuse muốn lìa bỏ hôn thê của
mình (vì bản văn không nêu rõ những động lực này). Chúng ta một lần nữa có thể
đặt vấn đề (rất phổ biến gần đây) về sự trình bày các chi tiết lịch sử ở đây
nhằm mô tả cuộc sinh hạ đồng trinh và về ý nghĩa của cuộc sinh hạ đó đối với
niềm tin của chúng ta. Chúng ta có thể xem xét ý nghĩa của việc đặt tên và ý
nghĩa của cái tên Giêsu -”Chúa Cứu Thế”- chúng ta cũng có thể đặt vấn đề đâu là ý định ban đầu của vị
ngôn sứ qua trích dẫn Isaia 7,14 -một câu trích dẫn mang ý nghĩa rất gây tranh
luận ở đây.
Song đó là những vấn
đề không thuộc phạm vi mà bài suy niệm ngắn này muốn đề cập đến.
Ở đây chúng ta dành
quan tâm đến cái tên “Emmanuel” -cái tên công bố rằng “Thiên Chúa ở cùng
chúng ta” nơi con người Giêsu này.
Rất đáng đề cập một
hàm nghĩa khác nữa của “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”, một hàm nghĩa không hề vu vơ hay vô căn cứ.
Khi chúng ta nói rằng con người –trong tư cách là một tạo vật- chắc chắn có mối
quan hệ với Thiên Chúa, rằng Thiên Chúa là Chúa và là cùng đích của con người
-và nếu gạt Ngài ra thì cuộc sống của chúng ta sẽ mất hết ý nghĩa, rằng Ngài là
Đấng phù trợ và là Đấng Cứu Độ của chúng ta- chúng ta ở trong sự quan phòng
hồng phúc của Ngài, rằng Ngài với lòng nhân hậu sẽ thứ tha tội lụy chúng ta,
rằng chúng ta phải trả lời về trách nhiệm của mình trước toà phán xét của Ngài,
rằng đối với những ai tin vào Ngài, trông cậy vào Ngài và yêu mến Ngài, Ngài
dọn sẵn cho họ cuộc sống hạnh phúc vĩnh cửu… Khi nói như thế là chúng ta đã
giải thích “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” theo đúng chiều hướng và đã vận dụng sự
thực ấy vào các chiều kích khác nhau. Thật hồng phúc tuyệt vời biết bao nếu tất
cả mọi người có thể nhận ra ý nghĩa “Thiên Chúa ở cùng
chúng ta” ấy trong cuộc sống của họ. Tất cả những giải thích ấy cuối cùng đều
được quy hướng –trong niềm hy vọng- về một mầu nhiệm thâm sâu hơn nữa của
“Thiên Chúa ở cùng chúng ta”.
Nhưng không một giải
thích nào trong những giải thích nói trên lột tả được cảm thức tuyệt đối Kitô
giáo về ý nghĩa “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”. Nếu cho rằng Thiên Chúa gần gũi
chúng ta chỉ trong những ân huệ hữu hạn của Ngài, chỉ trong việc Ngài đặt chúng
ta –là những hữu thể có năng lực sáng tạo- vào trong thực tại riêng của mình và
trong việc Ngài hướng dẫn thực tại ấy tới sự hoàn thành định mệnh của nó xuyên
qua sự thứ tha tội lụy chúng ta và sự chuẩn nhận chung cuộc tình trạng hiện hữu
trưởng thành của chúng ta; nếu cho rằng Thiên Chúa gần gũi chúng ta chỉ trong
mức độ bởi vì tất cả những thực tại thụ tạo của con người đều xuất phát từ Ngài
và quy chiếu về Ngài đồng thời nhắc nhở chúng ta quy hướng về Ngài trong thái
độ nhận hiểu và biết ơn, trong thái độ cầu nguyện chan hoà cảm mến… nếu chỉ thế
thì quả chúng ta đã sai lầm về bản chất nền tảng của nhận thức Kitô giáo về
“Thiên Chúa ở cùng chúng ta”.
Chính Thiên Chúa ở
cùng chúng ta. Ngài ở cùng chúng ta bằng chính bản thân Ngài chứ không chỉ bằng
trung gian của những ân sủng hữu hạn ban cho một tạo vật hữu hạn. Thánh Kinh và
Truyền Thống làm chứng cho bản chất rất độc đáo của huyền nhiệm chung cục của
cuộc hiện sinh chúng ta, đó là, Thiên Chúa thông ban chính bản thân Ngài cho
chúng ta trong chính thực tại vô hạn và bất khả thấu hiểu của Ngài. Ngài trao
ban cho ta Thánh Thần của Ngài, Đấng thể hiện tư tưởng của Thiên Chúa, Đấng
chính là sự sống nội tại của Thiên Chúa. Vì thế Chúa Cha và Chúa Con đến cư ngụ
trong chúng ta, như Chúa Con là một với Chúa Cha từ đời đời. Chúng ta tham dự
vào thiên tính, chúng ta không còn chỉ là tôi tớ nhưng đích thực là con ruột
của Thiên Chúa, chúng ta sẽ nhìn thấy và yêu mến Thiên Chúa –không phải lờ mờ
trong gương kiểu như một trung gian tạo vật- nhưng là một cách trực tiếp diện
đối diện. Vì thế, thần học truyền thống –nhằm bảo vệ cho bản chất nền tảng của
giáo huấn Thánh Kinh này khỏi bị giảm trừ dần về sau- đã nói về “ơn phi tạo” của việc cảm nhận trực
tiếp Thiên Chúa không thông qua trung gian một thực tại thụ tạo. Thần học cổ
điển nói về sự cư ngụ trực tiếp của Thiên Chúa Ba Ngôi trong con người nhân
loại và về sự tự thông truyền của Ngài.
Tất cả những điều này
thoạt nghe có vẻ trừu tượng. Song đó là sự thật cuối cùng về con người chúng
ta, dù chúng ta đã đạt đến nó và nhận ra nó trong cuộc hiện sinh bình dị hằng
ngày của mình hay chưa. Là những hữu thể hữu hạn, khi chúng ta sống đóng kín
nơi mình mà thôi, chúng ta dễ hàng phục một xu hướng bất khả kháng để suy nghĩ
một cách thuần tuý hữu hạn về chính mình và về sự hoàn thành của mình. Chúng ta
có khuynh hướng đánh giá sai lầm về tiềm năng nơi mình và từ đó thoả mãn với
những gì mà mình trông thấy và sờ thấy được. Nếu đây chỉ là vấn đề quan điểm
riêng của mình mà thôi thì hẳn chúng ta không có gì sai trái khi cảm thấy hài
lòng với một hạnh phúc hữu hạn. Nhưng mọi tội lỗi trên trần gian đều có chung
một đặc tính là tuyệt đối hoá cái tương đối –do đó cho thấy sự hài lòng nói
trên của chúng ta là một thái độ sai lầm, một sai lầm ta không dễ gì bứt ra.
Chúng ta không được
phép dễ dãi hài lòng như thế, đây không chỉ bởi một quy luật ngoại giới nào đó
không cho phép ta (luật này còn khá xa lạ với chúng ta), mà còn bởi sự kiện rằng
Thiên Chúa –trong bản tính vô hạn của Ngài và với lòng khoan dung nhân hậu siêu
việt của Ngài, đã tự làm cho chính Ngài trở thành luật nội tại khắc ghi trong
bản tính chúng ta, trước khi ta ý thức về chính mình và sợ hãi không dám gieo
mình vào cõi vô hạn bất khả thấu hiểu ấy- cái vô hạn vốn lấp đầy chúng ta tận
trong cốt lõi thâm sâu của hữu thể mình, rồi chúng ta đi tìm náu ẩn trong những
vành đai hữu hạn của cuộc hiện sinh và cố tìm kiếm hạnh phúc của mình ở đó.
Tuyên bố rằng Thiên Chúa ở cùng chúng ta (như các Kitô hữu nhận thức một cách
đầy đủ) là nói rằng chúng ta khao khát mấy cũng không vừa trong nỗi khát khao
mà chính Thiên Chúa đã ban tặng cho ta, trong khát vọng tự do, hạnh phúc, trong
khát vọng gần gũi thân tình, khát vọng hiểu biết, an bình và khát vọng thành
toàn ở chung cuộc. Ngẫm cho kỹ, mọi sự thái quá mang dấu ấn tội luỵ trong đời
ta chung quy chỉ là một tình trạng thiếu kiểm soát dẫn ta đến chỗ coi một thực
tại hữu hạn nào đó là cái không thể thiếu cho hạnh phúc của mình. Một người như
vậy là một người ở trong tội, bởi vì người ấy không dám thực hiện bước nhảy
–bước nhảy của niềm tin, của lòng trông cậy và của tình yêu- vào trong cõi hạnh
phúc đích thực khôn cùng và bất khả thấu hiểu, là chính Thiên Chúa và chỉ là
Ngài mà thôi.
Sự diễn giải có tính
trừu tượng như thế về ý nghĩa “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” của bản văn Tin Mừng
hôm nay thật ra không xa xăm như ấn tượng có thể có lúc ban đầu. Sở dĩ ta cảm
thấy xa xăm bởi vì ta vốn xa xăm với “siêu nhiên tính” của chính mình, tức xa
xăm với chính Thiên Chúa. Bất cứ khi nào chúng ta nghe trong chính mình tiếng
gào réo bất tận đòi tồn sinh, ta cảm thấy không chấp nhận điều kiện hay giới
hạn nào nữa ngoài một điều rằng ta là cái vô hạn đang ở chặng khởi đầu chứ chưa
phải ở mức hoàn thành; bất cứ khi nào ta khắc khoải muốn yêu thương vô điều
kiện bằng một tình yêu rộng mở hướng về người khác đến độ dám liều bỏ mình; bất
cứ khi nào đứng trước thật gần bóng tối mịt mù của sự chết và ta vẫn tin rằng
chính cái chết cũng chỉ là một cái gì hữu hạn –còn niềm hy vọng sống vĩnh cửu
mới là vô cùng… Trong những cảm nghiệm như thế về cuộc nhân sinh, ta cảm nghiệm
niềm hy vọng và niềm tin rằng chỉ có Thiên Chúa –chứ không phải bất cứ một thực
tại hữu hạn nào- mới là sự lấp đầy cho một kiếp người hữu hạn.
Đó là ý nghĩa của “ơn
phi tạo”. Ân sủng này được thông ban nơi Đức Giêsu Kitô, tuy nhiên nó vẫn hoạt
động xuyên suốt giòng lịch sử thế giới và lịch sử nhân loại –biểu hiện nơi tiềm
năng hiện thực hoá thâm sâu nhất của chính ân sủng này. Vì thế, nó là cốt lõi nền
tảng của mọi cuộc hiện sinh.
Nhưng giáo thuyết về
“ơn phi tạo” không đóng khung ở chỗ chỉ nói lên một niềm phấn khích khôn tả về
tương lai loài người. Với ơn sủng này, chúng ta đạt đến chiều sâu nhất của nhận
thức Kitô giáo về con người. Vị “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” không còn chỉ là một
mầu nhiệm mông lung, một mầu nhiệm cứ mãi còn là mầu nhiệm tuyệt đối ngay cả
trong nỗ lực trực tiếp nắm bắt Ngài; và con người chỉ có thể cảm nhận được điều
ấy khi chính nhận thức của họ được đổ tràn tình yêu. Vâng, chỉ tình yêu mới có
thể làm cho chúng ta hiểu ra rằng Thiên Chúa (Đấng là tình yêu) vĩ đại hơn cả
cõi lòng mình, một cõi lòng luôn luôn bỏng cháy niềm khát khao giác ngộ.
Vị “Thiên Chúa ở cùng
chúng ta” này không phải chỉ là Thiên Chúa của sự tự do tuyệt đối (của
những quyết định không còn có thể bị phủ định, và của những sự sắp đặt tất yếu
phải được nhận chịu trong sự hàng phục vô điều kiện của tình yêu –một tình yêu
biết cảm mến sự tự do thần linh này đến mức đó). Đúng hơn, chính sự gần gũi kỳ
diệu của Thiên Chúa là nhân tố đặt nền tảng căn bản cho nền “luân lý” Kitô
giáo. Với số cuộc đổi thay diễn ra trong lịch sử loài người và trong cuộc đời
riêng mỗi người được thấy như là không thích đáng nếu lấy bản tính của con
người và của thế giới hữu hạn này làm thước đo –vì thế, những đổi thay ấy bị
tẩy chay một cách khách quan bởi những nguyên tắc đạo đức của con người, nhưng
chúng không thực sự phá đổ mối tương quan tích cực cuối cùng với Thiên Chúa là
Đấng tự trao ban chính Ngài và –do đó, gần gũi chúng ta đến mức không ngờ. (Có
nhiều tội “khách quan” không bao hàm chút “sai quấy chủ quan” nào và do đó
không gây cản ngại cho ơn cứu độ –thần học kinh viện đã khẳng định như thế).
Tuy nhiên, sự tự do
của con người (là cái tác động đến cơ cấu những nguyên tắc đạo đức thế trần)
không ngừng chống cưỡng lại Thiên Chúa là Đấng vô cùng gần gũi, cho dù nó không
tự đặc tả nó như vậy. Thế là chúng ta có tội (“tội trọng”) theo nghĩa Kitô
giáo. Tội không chỉ là đi ngược lại cơ cấu khách quan của con người và thế giới
và qua đó đi ngược lại các lệnh truyền của Thiên Chúa là Đấng muốn có những cơ
cấu ấy (dĩ nhiên ý muốn của Thiên Chúa không mâu thuẫn với bản tính hữu hạn và
có điều kiện của những cơ cấu này); tội còn là nói “không” với chính Thiên Chúa,
Đấng vô cùng gần gũi chúng ta. Đó là lời nói “không” của sự tự do của con
người, qua đó nó chối từ cuộc phiêu lưu liều lĩnh của tình yêu Thiên Chúa và
tình yêu của chính mình.
Sống trong sự gần gũi
kỳ diệu của Thiên Chúa là một cái gì vừa rất khủng khiếp vừa đầy sức ủi an.
Được chính Thiên Chúa yêu thương cũng thế –đến nỗi quà tặng đầu tiên và cuối
cùng mà ta nhận được chính là cái vô cùng vượt ngoài khả năng thấu hiểu của ta.
Nhưng ta đâu còn có sự chọn lựa nào khác. Vì Thiên Chúa ở cùng chúng ta đây
rồi!.
18. Emmanuel: Thiên Chúa Ở Cùng
Chúng Ta
(Trích trong ‘Niềm Vui
Chia Sẻ’)
Ngày xưa, có một chú
bé Phi Châu tên là Emmanuel. Chú ta luôn tò mò thắc mắc. Ngày nọ, chú hỏi thầy
giáo: “Thiên Chúa nói bằng thứ tiếng nào?”. Thầy giáo chỉ biết gãi đầu và nói:
“Nói thực là thầy không biết”. Sau đó Emmanuel đi hỏi các nhà trí thức trong
làng cũng như các vùng lân cận: “Thiên Chúa nói bằng thứ tiếng nào?”. Nhưng họ
cũng chỉ biết lắc đầu mà thôi.
Tuy nhiên, Emmanuel
vẫn tin chắc có người biết được điều ấy. Vì thế chú lên đường đến các quốc gia
và cả những lục địa khác để tìm hỏi, nhưng ở đâu chú cũng chẳng nhận được câu
trả lời. Một đêm nọ sau khi bị kiệt sức vì đi quá nhiều nơi. Chú cố tìm một chỗ
nghỉ đêm trong các nhà trọ, nhưng tất cả các nơi đều không còn chỗ. Vì thế chú
quyết định tìm một cái hang ngoài trời để trú đêm. Cuối cùng quá nửa đêm chú
mới tìm được một cái hang. Nhưng khi
bước vào hang, chú nhận ra đã có một đôi vợ chồng và một hài nhi đang trú ngụ.
Nhìn thấy chú, bà mẹ trẻ liền nói: “Hân hạnh đón chào Emmanuel, chúng tôi đang
mong chờ con”.
Chú bé quá sửng sốt:
Làm sao bà này biết tên mình? Và chú càng ngạc nhiên hơn khi nghe bà ấy nói:
“Đã từ lâu, con đi tìm kiếm khắp thế giới để hỏi xem Thiên Chúa nói bằng thứ
tiếng nào. Giờ đây cuộc hành trình của con kể như đã đến đích. Đêm nay chính
mắt con đã thấy được Thiên Chúa nói bằng thứ tiếng nào. Ngài nói bằng “ngôn ngữ
của tình yêu” – “Thiên Chúa đã quá yêu thương thế gian đến nỗi đã ban cho thế
gian chính Con Một của Ngài” (Ga 3,16).
Trái tim Emmanuel trào
dâng niềm xúc động, chú vội quỳ gối xuống trước Hài nhi và mừng rỡ khóc lên.
Giờ đây chú đã biết rằng Thiên Chúa nói bằng thứ tiếng của tình yêu, thứ tiếng
mà mọi người thuộc bất cứ dân tộc hay thời đại nào cũng đều có thể hiểu được.
Và thế là Emmanuel ở lại đó vài ngày để giúp đỡ Đức Maria và Thánh Giuse. Sau
đó đến lúc chú phải chia tay để đi loan báo cho mọi người Tin Mừng về ngôn ngữ
Chúa dùng: “Thiên Chúa nói bằng thứ tiếng của tình yêu”.
Lủi thủi một mình,
Emmanuel vừa rảo bước vừa suy nghĩ: “Nếu tôi muốn kẻ cho mọi người biết Thiên
Chúa dùng thứ tiếng nào để nói, thì chính tôi cũng phải nói bằng thứ tiếng Chúa
nói, tức là ngôn ngữ của tình yêu. Bởi vì đó chính là thứ tiếng nói duy nhất mà
mọi người trên thế giới đều hiểu được”.
Thưa anh chị em,
“Thiên Chúa là Tình
Yêu” (1Ga 4,8). Khi trao ban cho thế gian Con Một của Ngài, Thiên Chúa đã
muốn dạy cho mọi người nói chung một thứ ngôn ngữ tức là ngôn ngữ của tình yêu.
Chính vì thế mà Ngài đã mang tên gọi là EMMNUEL, nghĩa là “Thiên -Chúa - ở
–cùng – chúng - ta”, tên gọi được báo trước qua lời Ngôn sứ Isaia cũng như
qua lời Thiên Sứ báo tin cho ông Giuse: “Này đây, Trinh nữ sẽ thụ thai và
sinh hạ con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên- Chúa
– ở – cùng – chúng - ta”. Ngài đến ở cùng chúng ta để làm gì, nếu không
phải là để nói cho chúng ta về tình yêu vô biên của Thiên Chúa bằng cả cuộc
sống yêu thương đến tột cùng của Ngài, từ lúc sinh ra trong hang đá Bêlem đến
cái chết treo trên thập giá. Đó là tất cả tiếng nói của tình yêu Thiên Chúa.
Thiên Chúa yêu thương
chúng ta, nên đã làm người như chúng ta. Ngài đã đến tận nơi chúng ta sinh
sống, trong nhà, trong làng mạc, trong xứ sở, trên trái đất của chúng ta, để
chung sống, đồng hành, chia sẻ cuộc đời với chúng ta. Ngài là Thiên Chúa, nhưng
đã trở thành anh em với nhân loại. Ngài đã nhập cuộc liên đới với toàn thể nhân
loại để đưa cả loài người chúng ta lên với Thiên Chúa.
Hơn nữa, Ngài còn muốn
làm người nghèo giữa những người nghèo khổ, bị áp bức và bỏ rơi. Ngài muốn cho
ngày Giáng Sinh trở thành ngày trời đất giao hoà, để cho Thiên Chúa và loài
người gặp gỡ yêu thương, cho hoà bình chớm nở trên trái đất. Ngài muốn cho ngày
Giáng Sinh trở thành ngày Đấng Tối Cao xa lạ trở thành thân quen, thành bạn hữu
của loài người, để kêu gọi loài người hãy nhận nhau là anh em, là bạn hữu. Ngài
muốn cho ngày Giáng Sinh trở thành ngày Đấng giàu sang khôn sánh trở thành
người nghèo khó, để cho người nghèo khó nhất cũng được trở nên ngang hàng với
Con Thiên Chúa. Và như vậy để loài người biết yêu thương và tôn trọng người
nghèo, như yêu thương và kính trọng chính Thiên Chúa.
Vì vậy, thưa anh chị
em, vấn đề quan trọng không phải là ăn lễ Giáng Sinh hay là mừng lễ Giáng Sinh,
cho dù là sốt sắng đến đâu đi nữa, mà là hiểu sống và thực hiện bài học Giáng
Sinh: đó là cùng với Chúa nhập cuộc liên đới với những anh em nghèo hèn trong
nhân loại. Và một khi chúng ta biết mở rộng tâm hồn đón tiếp và yêu thương
những ai bé nhỏ, khó hèn, coi họ ngang hàng với Con Một Thiên Chúa, thì khi ấy,
chính tâm hồn chúng ta sẽ trở thành hang đá Bêlem, và ánh sao Noel sẽ bừng lên
trong ánh mắt chúng ta.
Anh chị em thân mến,
EMMNUEL, Thiên Chúa đã làm người và ở cùng chúng ta. Ngài đã nói với loài người
chúng ta bằng ngôn ngữ của tình yêu và Ngài muốn dạy cho mọi người nói chung
một ngôn ngữ của tình yêu này. Ngài còn biết rằng một khi người ta bắt đầu nói
bằng ngôn ngữ của tình yêu thì những điều kỳ diệu sẽ lập tức xuất hiện khắp
nơi: các quốc gia sẽ chia sẻ nguồn lợi và tài nguyên cho nhau, mọi chủng tộc sẽ
tôn trọng nhau, mọi gia đình sẽ hoà thuận thương yêu nhau, khắp nơi mọi người
sẽ xiết chặt tay nhau trong tình thân hữu. Và như thế, “vinh quang Thiên
Chúa trên trời, hoà bình dưới thế cho loài người Chúa yêu”.
Chuyện xưa kể lại
rằng: Đức Khổng Tử thấy người giăng lưới chim sẻ, chỉ đánh được các chim sẻ
con, còn non, vàng mép. Ngài liền hỏi rằng: "Không đánh được chim sẻ già
là làm sao?". Chim sẻ già bíết sợ nên khó được, sẻ non ham ăn cho nên dễ
bắt. nếu sẽ non mà theo sẻ già thì bắt sẻ non cũng khó. Nhưng nếu sẽ già mà
theo sẽ non thì bắt sẽ già cũng dễ. Đức Khổng Tử nghe vậy hỏi học trò rằng biết
sợ để tránh tai hại tham ăn mà quên nguy vong . Điều đó là tính tự nhiên vậy.
Qua câu chuyện trên ta
thấy những con chim sẻ già biết sợ nên sống, đó là một cái sợ khôn ngoan, cái
sợ của một con chim có nhiều năm kinh nghiệm, nên nó biết chọn chỗ nào nguy
hiểm chỗ nào không nguy hiểm, có thể nói con chim sẽ già biết sợ để được sống
chứ không phải là bị sợ vì nó hoàn toàn chủ động chứ không phải vào thế bị
động.
Trong tâm lý học cho
thấy, có rất nhiều cái làm cho người ta sợ. Sợ có thể là do bị mặc cảm tự ti,
sợ không bằng người khác, sợ không thể làm được trước một công việc mà họ cho
là quá lớn lao. Cái sợ thứ hai gần giống như sự xao xuyếnbăn khoăn thổn thức,
nội tâm cảm thấy bất an sâu xa mà không có nguyên do khách quan nào. Họ sợ bị
bất hạnh ập đến, một tai nạn gần kề trí tưởng tượng sẽ xảy ra cho họ rằng có
những biến động bất ngờ đôi khi rất kinh sợ mà họ không tài nào xua đuổi được.
Bài Tin Mừng hôm nay
cho ta thấy một cái sợ mới, rất độc đáo. Nó không giống cái sợ từng trải của
con chim sẻ già, cũng không giống một cái sợ mặc cảm tự ti, cũng không xao
xuyến bất an, một cái sợ thật dễ thương biết mình là thụ tạo được tuyển chọn,
biết mình để mà sợ sống phó thác, sống vâng lời. Đó chính là cái sợ của Đức mẹ
Maria cô trinh nữ làng Nazareth và anh chàng thợ mộc Giuse nghèo nàn, ít nói và
luôn sống âm thầm.
Không phải tự nhiên ta
có thể khẳng định Đức Meria sợ hãi. Điều đó đã được chứng minh qua việc khi sứ
thần truyền tin. "Maria đừng sợ, Bà đã được Thiên Chúa sủng ái" Chắc
Maria lại càng sợ hơn khi nghe nói mình sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai và
đặt tên là Giêsu . Không phải chỉ có Đức Mẹ khi nghe lời đó sợ hãi mà hầu hết
tất cả các thiếu nữ Do Thái khi nghe đều sợ. Vì theo lật Do Thái người phụ nữ
nào có chồng mà có con trong khi Đức Mẹ lại là người phụ nữ đẹp nết đẹp người,
Hơn nữa Đức Maria lại là con ông Gioan Kim và Anna sống tốt lành thánh thiện
thì lại càng sợ hơn nữa. Nhưng cái sợ của Đức Maria khi nghe truyền tin không
giống như cái sợ của những người phụ nữ Do thái khác. Sợ vì có một chút bất ngờ
một chút bỡ ngỡ, vì không ngờ một thụ tạo hèn kém như mình lại được Chúa chọn,
được Chúa ban cho hồng ân to lớn đến thế. Có thể nói cái sợ của Mẹ Maria như
lời tạ ơn đơn sơ đẹp lòng Chúa nó cũng chứng tỏ nơi Mẹ một tâm hồn phó thác vì
biết sợ trong Chúa vì biết tin tưởng nới Thiên Chúa mà Mẹ đã biến nỗi sợ hãi
bằng lời thưa trong sự can đảm và vâng phục thánh ý Thiên Chúa
Khi nói đến Thánh
Giuse, người ta nghĩ ngay đến một người công chính, ngay thẳng sống âm thầm, ít
nói. Suốt cuộc đời trong Kinh Thánh không ghi lại một lời nào của ông nhưng ta
biết được ông cảm thấy e ngại khi biết Đức Maria có thai, ông không hề nói cho
ai biết điều làm ông e ngại đó, nhưng Thiên Chúa đã thấy và biết được sự lo
lắng trong lòng ông. Do đó Thiên Thần đã đến với ông trong giấc mơ và nói với
ông hỡi Giuse đừng sợ đón nhận Maria về nhà làm vợ vì nàng đã thụ thai bởi phép
Chúa Thánh Thần. sau khi tỉnh giấc Giuse đã tin tưởng vào Thiên Chúa và đường
lối hành động của người. Do đó ông cũng vượt qua được nỗi sợ hãi và làm theo ý
Chúa. Tất cả chúng ta đều đã đụng chạm đến nỗi sợ hãi và chắc chắc cũng còn gặp
nhiều nỗi sợ hãi nhưng đường để nỗi sợ hãi đó làm ta không thể đến được với
Chúa nhưng hãy biết chuyển đổi nỗi sợ hãi để thành niềm tin.
Trong mùa giáng sinh
này hãy biến nỗi sợ hãi thành lòng khao khát đợi Chúa đến, và chỉ có Chúa ta
mới nhận được niềm vui lớn lao như Đức Mẹ và thánh Cả Giuse đã nhận hơn 2000
năm trước.
(Trích từ ‘Sống Tin
Mừng’)
Chúa nhật IV Mùa vọng
hướng tâm trí chúng ta đến thật gần mầu nhiệm Nhập Thể của Con Thiên Chúa, mầu
nhiệm mà mỗi người con của Giáo Hội được mời gọi đón nhận với tâm hồn được
chuẩn bị kỹ lưỡng trong suốt bốn tuần Mùa vọng. Tất cả ba bài đọc trong Phụng
vụ Lời Chúa hôm nay đều hướng về sự kiện căn bản này: “Con Thiên Chúa Nhập Thể
và sinh ra bởi Người Nữ Đồng Trinh, nhờ quyền năng của Chúa Thánh Thần”, theo
như lời hứa của Thiên Chúa trong lịch sử dân Chúa.
Bài tường thuật biến
cố Con Thiên Chúa Giáng Sinh nơi Phúc Âm thánh Luca sẽ được dùng trong Thánh Lễ
Giáng Sinh vào Chúa nhật IV Mùa vọng, Giáo Hội nhắc đến biến cố căn bản qua bài
tường thuật của Phúc Âm thánh Mátthêu (x. Mt 1,18-24). Dĩ nhiên, tác giả Phúc
Âm theo thánh Mátthêu không tường thuật biến cố Nhập Thể và Giáng Sinh của Con
Thiên Chúa trong cùng một cách thức như Phúc Âm thánh Luca. Tác giả Phúc Âm
thánh Mátthêu nhắc đến biến cố trong vai trò của thánh Giuse, thánh nhân được
mạc khải cho biết mầu nhiệm Ngôi Lời Nhập Thể, tức Con Thiên Chúa được sinh ra
trong cung lòng Đồng Trinh của Mẹ Maria, do quyền phép của Chúa Thánh Thần.
Thánh Giuse được mạc khải cho biết và đồng thời mời gọi Ngài tích cực tham dự
vào chương trình đó, là người cha nuôi của Con Thiên Chúa, là Đấng bảo vệ cho
Mẹ Maria và Chúa Giêsu.
Qua đó, Thánh Giuse
được mạc khải cho biết nguồn gốc thần linh của Đấng được Mẹ Maria cưu mang.
Trong mạc khải đó, Thánh Giuse được nhắc lại cho biết lời tiên tri được loan
báo trong dân Israel và được ghi chép lại trong sách Isaia nơi chương VII mà
bài đọc I Chúa nhật IV Mùa vọng đã nhắc lại, đó là lời tiên tri được loan báo
gần 8 thế kỷ trước khi biến cố thực sự xảy ra. Là một người Công Chính như
thánh Giuse, chắc chắn Ngài đã đọc Kinh Thánh Cựu Ước và biết về lời tiên tri
này như bao thành phần tốt của dân Israel thời đó. Tuy nhiên, khi biến cố thực
sự xảy đến trước mắt mình và có liên quan đến chính mình, thì thánh Giuse có
phản ứng đầu tiên là không chấp nhận, như Phúc Âm thánh Mátthêu ghi lại như
sau: “Thánh Giuse định tâm lìa bỏ Maria cách kín đáo”. Luật Do Thái phạt nặng
nề một người phụ nữ đã đính hôn mà đi ngoại tình với kẻ khác. Giuse có thể đi
tố cáo Mẹ Maria, vì khi thấy Bạn mình chưa về chung sống mà đã mang thai. Phúc
Âm không nói gì, nhưng người ta có thể hiểu là Maria có thể đã kể cho Giuse
biết biến cố thiên thần truyền tin và việc mang thai là do quyền phép Chúa
Thánh Thần như lời thiên thần loan báo, nhưng có thể thánh Giuse không hiểu,
không tin hoặc tin lời Maria nói nhưng lại cảm thấy mình không xứng đáng, không
muốn tham dự vào chương trình cao cả của Thiên Chúa, vì thế mà Ngài định tâm
rút lui.
Thánh Giuse có thể tố
cáo Maria dựa trên luật Israel lúc đó, nhưng ông không làm như vậy, Ông muốn
trốn đi, vì việc này có thể được mọi người xung quanh hiểu như là một hành động
bỏ trốn trách nhiệm làm cha, và trên bình diện siêu nhiên thì có thể được hiểu
như là việc chối từ cộng tác với chương trình cứu rỗi của Thiên Chúa. Nhưng
Thiên Chúa đã muốn cho Giuse một cơ hội, nên đã sai sứ thần đến xác nhận cho
Giuse biết là: “Đừng ngại nhận Maria về làm Bạn mình, vì Maria mang thai là bởi
phép Chúa Thánh Thần”, và thiên thần mạc khải thêm về thân thế của Đấng Cứu Thế
đang được cưu mang trong cung lòng Mẹ Maria và mời gọi Giuse cộng tác và Ngài
sẽ đặt tên cho Con Trẻ là Giêsu. Việc đặt tên cho con là quyền của người cha,
như vậy khi mời gọi Giuse đặt tên cho Con Trẻ không do chính máu huyết của
mình, có nghĩa là mời gọi Giuse chấp nhận quyền hay đúng hơn sứ mạng làm cha
của Con Trẻ trên bình diện pháp lý.
Thánh Giuse có thể từ
chối, nhưng Ngài đã không từ chối mà vâng phục lời thiên thần truyền, Ngài chu
toàn vai trò Thiên Chúa muốn trong việc cứu rỗi. Khi Mẹ Maria sinh Con Trẻ thì
Giuse đặt tên Con Trẻ là Giêsu. Ngoài mẫu gương hành động của Giuse, Phụng vụ
Lời Chúa hôm nay nơi bài đọc II nhắc chúng ta nhớ đến một mẫu gương hành động
trước mầu nhiệm Nhập Thể của Con Thiên Chúa, đó là mẫu gương của thánh Phaolô
tông đồ, một khi chấp nhận mầu nhiệm Nhập Thể của Con Thiên Chúa, thì con người
không thể nào có thái độ dửng dưng được nữa, nhưng phải để cho Con Thiên Chúa
Nhập Thể là Chúa Giêsu Kitô chiếm lấy, biến mình trở thành môn đệ, thành người
cộng tác với Chúa để mang ơn cứu độ đến cho mọi người, mọi dân tộc.
Mùa Giáng Sinh sắp
đến, mầu nhiệm của Con Thiên Chúa làm người được người đồ đệ suy niệm bắt
chước, nhưng không dừng lại hưởng niềm vui cứu rỗi nơi mình, nhưng cần để cho
ơn Chúa chiếm lấy nơi mình và dấn thân mang ơn cứu rỗi đến cho mọi người. Chúng
ta cầu chúc cho mọi người được ân sủng và bình an của Thiên Chúa Cha. Amen.
ĐIỀU KIỆN ĐỂ ĐÓN TIẾP
CHÚA
Ngày 17 tháng 12 vừa
qua, ta đã đọc bài Phúc Âm nói về gia phả Đức Giêsu, trong đó Chúa Giêsu sinh
bởi dòng dõi vua Đavít. Hôm nay, Phúc Âm lại trình bày cho ta một gốc tích khác
của Người: Chúa Giêsu sinh ra bởi Đức Maria do quyền năng của Chúa Thánh Thần.
Phải chăng thánh sử Matthêu mâu thuẫn khi đưa ra hai gốc tích khác nhau như
thế?
Thánh sử Matthêu không
mâu thuẫn, nhưng khi trình bày cho ta hai gốc tích khác nhau của Chúa Giêsu,
thánh sử có một dụng ý thần học. Chúa Giêsu là Thiên Chúa, nên việc thụ thai
phải do quyền năng của Chúa Thánh Thần. Nhưng Chúa Giêsu cũng là người nên phải
sinh ra bởi một con người. Thiên Chúa ban Con Một cho loài người. Đức Maria đã
đại diện loài người lãnh nhận. Nhưng quyền năng Chúa Thánh Thần tác động trên
Đức Maria chỉ diễn ra trong riêng tư, âm thầm. Chính thánh Giuse đưa Chúa Giêsu
ra công khai khi nhận Ngài vào dòng tộc Đavít. Qua trung gian của thánh Giuse,
Chúa Giêsu đã chính thức gia nhập gia đình nhân loại, trong một đất nước, trong
một dân tộc, trong một dòng họ. Tên tuổi của Người được ghi trong lịch sử của
dân tộc, của dòng họ, của gia đình. Vận mệnh của Người gắn chặt với dân tộc,
dòng họ, gia đình ấy. Người thực là Emmanuel, là “Thiên Chúa ở với chúng ta”.
Nhờ đâu mà thánh Giuse
và Đức Maria được diễm phúc là những người đầu tiên, đại diện nhân loại tiếp
đón Đấng Cứu Thế. Qua bài Phúc Âm Truyền Tin và bài Phúc Âm hôm nay, ta thấy
thánh Giuse và Đức Maria có những đặc điểm sau đây.
1) Các Ngài có tâm hồn
khiêm nhường sâu xa.
Đức Maria là một thiếu
nữ có tâm hồn khiêm nhường. Từ nhiều thế kỷ qua, lời sấm về Đấng Cứu Thế vẫn
được truyền tụng trong dân Do Thái. Thiếu nữ nào cũng mong được làm mẹ Đấng Cứu
Thế. Đó là một hạnh phúc, một vinh dự không chỉ cho cá nhân mà còn cho cả gia
đình, cho dòng họ, cho đất nước. Vậy mà khi nghe thiên thần loan báo tin làm mẹ
Đấng Cứu Thế, Đức Maria chỉ khiêm tốn thưa: “Này là tôi tớ Chúa,
tôi xin vâng như lời thiên thần truyền”. Khi bà Êlisabeth ca tụng Ngài, Đức Maria đã đáp lại: “Vì Chúa đã đoái
thương phận tôi tớ thấp hèn. Người nâng cao những người bé nhỏ”. Đức Maria nhận ra sự
thật là: Nếu Ngài được ơn Chúa ban thì không phải vì công trạng của mình, nhưng
do lòng từ bi thương xót của Chúa. Vì khiêm tốn, nên Đức Maria âm thầm ghi nhớ
tất cả mọi việc Chúa làm, mọi lời Chúa phán. Ghi nhớ để suy gẫm trong lòng.
Càng suy gẫm lại càng thêm khiêm nhường. Càng khiêm nhường lại càng kín đáo.
Thánh Giuse cũng có
tâm hồn khiêm nhường không kém. Đọc Phúc Âm, ta có cảm tưởng là thánh Giuse
luôn tự rút lui vào trong bóng tối. Ngài luôn sống âm thầm khiêm tốn trong công
việc tầm thường của thợ thuyền. Sự khiêm tốn ấy đặc biệt thể hiện trong bài
Phúc Âm hôm nay. Khi biết tin Đức Mẹ đang mang thai Đấng Cứu Thế, thánh Giuse
đã âm thầm bỏ đi. Ngài không dám tự cho mình cái vinh dự được làm cha Đấng Cứu
Thế. Ngài không dám chiếm hữu quyền làm cha của Thiên Chúa. Ngài không dám mạo
nhận công việc của Chúa Thánh Linh. Ngài là người công chính vì khiêm tốn sống
đúng thân phận của mình. Ngài là người công chính vì trả lại cho Thiên Chúa
những gì thuộc về Thiên Chúa.
2) Các Ngài mau mắn
vâng lời Thiên Chúa.
Các Ngài có chương
trình cho đời sống. Chương trình ấy được suy nghĩ kỹ lưỡng vì được thực hành
nghiêm chỉnh. Đức Maria khấn giữ mình đồng trinh. Thánh Giuse muốn sống âm thầm
trong bóng tối. Nhưng khi nghe biết thánh ý Thiên Chúa các Ngài đã mau mắn xin
vâng, bỏ dở chương trình riêng tư, chuyển hướng cuộc đời để thi hành thánh ý
Thiên Chúa. Đức Maria đã thưa “xin vâng” bất chấp những đau khổ, khó khăn đang
chờ đón. Thánh Giuse đã mau mắn vâng lời dù thánh ý Thiên Chúa chỉ mơ hồ giữa
bóng đêm dày đặc, trong một giấc mộng lãng đãng mơ hồ.
Vì Chúa, các Ngài đã
từ bỏ ý riêng mình. Vì Chúa, các Ngài đã thay đổi toàn bộ đời sống. Thay đổi
quyết liệt. Từ bỏ dứt khoát. Vâng lời mau mắn.
Thái độ của các Ngài
rất gần với thái độ của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu xuống trần trong một thái độ tự
hạ mình thẳm sâu. Dù là Thiên Chúa, Người đã không đòi cho mình quyền được
ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã tự hạ làm một người bé nhỏ nghèo hèn. Người
luôn vâng lời Đức Chúa Cha, vâng lời cho đến chết trên thập giá.
Đồng thanh tương ứng,
đồng ý tương cầu. Giống nhau thì tìm đến nhau. Chúa Giêsu xuống trần trong một
thái độ khiêm hạ và vâng phục thánh ý Chúa Cha đã tìm được nơi cư trú tâm đắc
nơi Đức Maria và thánh Giuse, hai tâm hồn khiêm nhường và tuyệt đối vâng lời.
Lạy Chúa Giêsu bé nhỏ,
bây giờ thì con đã hiểu biết phải dọn một máng cỏ như thế nào cho Chúa. Chúa
muốn con khoét một hang sâu khiêm nhường trong lòng con, trải trên đó những sợi
cỏ vâng lời mau mắn. Như thế con sẽ được hạnh phúc đón tiếp Chúa, Đấng rất
khiêm nhường và rất vâng lời. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1) Ngày càng có nhiều
người mừng lễ Chúa Giáng Sinh. Nhưng Lễ Giáng Sinh đã bị thương mại hóa. Bạn sẽ
chuẩn bị Lễ Giáng Sinh thế nào cho phù hợp với tinh thần của Chúa?
2) Sống khiêm nhường
và vâng lời trong xã hội hôm nay có dễ không?
3) Bạn nghĩ gì về việc
Chúa Giêsu tự nguyện xuống thế, làm một người, làm con trong một gia đình?
22. Vâng phục trong trách nhiệm
Học cùng buổi, là anh
lớn, tôi được cha mẹ giao cho trách nhiệm quản lý chiếc xe và đưa rước em út
học ở trường mầm non gần trường tôi. Tôi chẳng thích tí nào, vì như thế tôi
chẳng bao giờ được đi chơi cùng đám bạn mỗi khi tan học. Nhưng tôi chẳng còn
cách nào khác vì cha mẹ phải đi làm, em út thì chưa thể tự đi được.
Lần nọ, cô giáo bị
bệnh đột ngột. Chúng tôi được nghỉ tiết cuối. Tôi theo đám bạn ra sân vận động
chơi đá banh. Mãi chơi quên cả giờ giấc phải đón em. Chờ mãi không thấy tôi đến
rước, cô giáo nhà trẻ đưa luôn em tôi về nhà cô và điện qua nhà tôi bảo mẹ tôi
qua rước em. Còn tôi, khi chơi chán thì đã trễ giờ, đến trường của em thì được
biết em đã được cô đưa về. Tôi đành lững thững về nhà chịu tội. Về đến nhà, đứa
em út nhìn tôi khóc tức tưởi: "Anh hai đi đâu không đón em!".
Phúc Âm ngày hôm nay
giới thiệu cho chúng ta một khuôn mặt - một người thầm lặng, thầm lặng nhưng
rất vâng phục; ít nói nhưng đầy trách nhiệm. Thánh sử gọi ngài là người công
chính. Đó là thánh Giuse.
Trình thuật bài Phúc
Âm cho biết Giuse đã đính hôn với Maria, nhưng trước khi về chung sống thì
Maria đã mang thai bởi phép Chúa Thánh Thần. Giuse thì lòng bối rối như tơ vò,
"bỏ thì thương vương thì tội". Tố cáo thì Maria sẽ chết, bởi luật lệ Do
thái thời ấy rất khắt khe với những phụ nữ chửa hoang. Rước nàng về chung sống
thì sao quá bất công cho mình. Cuối cùng Giuse đã chọn giải pháp âm thầm ra đi.
Đành chấp nhận dang dở một cuộc tình đẹp... Nhưng có phải vì sự âm thầm đó mà
Giuse được gọi là người công chính? Hay là vì lòng nghĩa hiệp không muốn phanh
phui ra ánh sáng một bào thai đang lớn lên từng ngày trong bụng Maria?
Nếu chỉ đơn giản như
thế thì cần gì phải nêu ra cho mọi người học hỏi làm gì! Vì thực tế mẫu anh
hùng như thế không phải làm hiếm.
Mặc dù Phúc Âm không
nói gì về cuộc đời thánh Giuse, nhưng chắc rằng ngài là một người tốt lành, có
đạo đức, có học thức. Sự công chính của Giuse được các nhà chú giải cho rằng:
Giuse đã biết được thai nhi trong bụng Maria là ai, ngài cũng hiểu được rằng Thiên
Chúa đã chọn Maria cho công trình cứu rỗi của Người. Giuse tự thấy mình không
có quyền giành Maria với Thiên Chúa, càng không xứng đáng tham dự vào công
trình quá cao vời của Thiên Chúa. Giuse chấp nhận hy sinh tình yêu của mình để
ý định của Thiên Chúa được thành sự. Giuse công chính là vì ngài đã nhận ra
được điều Chúa muốn ngài phải hy sinh và vâng theo điều đó với cả ý thức và
trách nhiệm.
Cho tới khi suy nghĩ
của Giuse được xác nhận bởi lời của sứ thần, thì sự vâng phục của Gisue được
chuyển sang hướng khác và nâng lên cao hơn. Giuse không là kẻ đứng ngoài công
trình cứu rỗi. Rối rắm trong lòng Giuse được hoá giải. Trách nhiệm của Giuse
giờ đây là công nhận người con Giêsu trong tư cách pháp lý cũng như cho Giêsu
được đứng vào hàng con cháu Đavit. Giuse không hề đắn đo hối tiếc trong vai trò
cha nuôi của mình. Ngược lại, ngài còn vui mừng vì đã được cộng tác, vì đã được
mời gọi. Việc nầy xem ra quan trọng hơn so với việc chấp nhận người khác đứng
vào dòng tộc mình. Giuse đã hoàn toàn để ý Chúa "được như lời sứ thần
truyền".
Là người Công giáo,
chắc hẳn phải hơn một lần bạn nghe nói về sự vâng phục của thánh Giuse, hay của
Đức Maria, hay của một vị thánh nào đó. Thế bạn nghĩ gì về điều nầy? Các ngài
không phải vâng phục lề thói xã hội không đâu, mà là vâng phục ý Chúa. Và khi
đã chấp nhận xin vâng như vậy, các ngài cũng phải đảm đương một trách nhiệm đi
cùng.
Như câu chuyện tôi đã
kể ở phần đầu, tôi đã miễn cưỡng vâng phục. Tôi không phản ứng nhưng tôi không
làm tròn trách nhiệm. May là hôm ấy em tôi không xảy ra sự cố gì rắc rối. Nếu
không chắc tôi phải ân hận suốt đời.
Cuộc sống đòi buộc bạn
phải dấn thân, đòi buộc bạn phải đáp trả lời mời gọi cộng tác. Bạn không thể ăn
bám gia đình mãi. Bạn không thể ngồi đó oán trách số phận đen đũi. Bạn càng
không thể trốn chạy trước tương lai của chính đời bạn. Khi bạn chưa bắt tay vào
làm bất cứ điều tốt nào thì bạn không được quyền nói bạn không có khả năng. Bạn
đã thấy thánh Giuse cũng nghĩ rằng ngài không thể, nhưng với lòng tin vào Chúa
và vào chính mình, ngài đã làm được.
Hãy đến chiêm ngắm sự
vâng phục của Giêsu - Maria - Giuse nơi hang đá trong đêm Giáng Sinh và nguyện
cầu để được các Ngài hướng dẫn cuộc đời bạn. Chúc bạn Giáng Sinh an lành.
(Trích trong ‘Lương
Thực Ngày Chúa Nhật’ – Achille Degeest)
Nếu đây không phải là
một bài Thánh Kinh, người ta sẽ có thể rút ra từ bài tường thuật của thánh
Matthêu những yếu tố của một thảm kịch lạ lùng. Song ở Thiên Chúa gọi ta suy
nghĩ sâu xa, một suy tư vượt quá óc phân tích, vượt quá nghệ thuật. Những cõi
lòng đơn sơ, nghĩa là những ai không vướng mắc vào một hệ thống tư tưởng phiền
phức, nhận ra trong biến cố tường thuật lại đây một ‘phát minh’ của tình yêu
Thiên Chúa. Một trong những hậu quả lớn lao nhất của mọi mối tình, và dấu hiệu
của nó, là làm cho trí khôn phải sửng sốt. Ở đây là tình yêu của Thiên Chúa; nó
còn làm trí khôn sửng sốt gấp bội. Nó làm cho trí khôn chưng hửng không phải để
hạ thấp trí khôn, song là để nâng cao nó lên nếu nó biết khiêm tốn.
Tác giả Phúc Âm báo
trước Chúa Giêsu sẽ sinh ra bởi một người mẹ đồng trinh. Sự kiện đó không phải
là không gây ra vấn đề cho hai người trong cuộc, là Maria và Giuse. Thánh Giuse
bị đặt ở điểm then chốt của một hoàn cảnh bi đát. Trước hết, cũng như Maria,
Người được Chúa mời giải quyết vấn đề của mình, từ ‘trên cao’ nghĩa là bởi một
hành vi đức tin. Điều đã nói về Maria: bà có phúc vì đã tin, cũng áp dụng cho
Giuse.
Thử rút ra từ đoạn
Phúc Âm này hai ý tưởng:
1) Maria đã để cho
Thiên Chúa làm việc báo tin cho Giuse biết tình trạng của Người.
Có những kinh nghiệm
tinh thần liên quan tới kẻ khác mà người ta vẫn không thể nói tới, bởi vì chúng
xảy ra ở một bình diện quá sâu xa. Chúng tôi không nói: Maria và Giuse không hề
nói với nhau về việc thụ thai lạ lùng, chẳng hạn sau khi Thiên Chúa can thiệp
với Giuse, nhưng Đức Trinh Nữ phó thác cho Chúa việc khai triển ‘cái lý’ của
biến cố và các phương tiện của biến cố. Ở những trình độ khiêm tốn hơn nhiều,
cũng xảy ra như vậy trong đời sống, nhất là đời sống giữa vợ chồng Kitô hữu. Mọi
Kitô hữu ý thức, đều có những ơn sủng riêng tư, nhưng không ơn nào chỉ dành cho
mình mà thôi; ơn sủng của Chúa, dù riêng tư nhất, vẫn có một chiều kích hiệp
thông huynh đệ. Tuy thế loại ơn này cần phải được giữ gìn kín đáo. Vừa phải đón
nhận nó trọn vẹn, vừa phải phó thác cho Chúa công việc làm cho kẻ khác hiểu
biết, nhìn nhận nó. Người ta có thể mang trong mình một ơn Chúa làm cho người
khác thắc mắc: nếu đó là ơn đích thực, phải để mặc cho Chúa phương tiện giải
đáp thắc mắc ấy, hay nói đúng hơn: hãy giao cho Chúa trước đã; phần việc ta có
thể sẽ tới sau.
2) Ta nên lưu ý tới
tình hình rất cao đẹp của thánh Giuse.
Người đã có thể chiều
theo luật lệ sơ đẳng của xã hội đương thời mà tố giác Maria. Một sự ngay thẳng
căn bản khiến người hành động cách khác. Qua hành động này ta thấy một giá trị
nhân bản sâu xa, vượt xa mặt chữ của lề luật. Lúc đó Thiên Chúa can thiệp. Sự
kiện này gợi cho ta một câu hỏi: ta có xác tín rằng các hồng ân cao cả nhất
Chúa ban, cái mà ta gọi là các ơn siêu nhiên, cần được dựa trên nền móng các
nhân đức tự nhiên như: tính ngay thẳng, lương thiện, can đảm, tinh thần phục
vụ, tấm lòng cởi mở… hay không? Sau Đức Mẹ, thánh Giuse nêu cho ta tấm gương đầu tiên
trong Hội Thánh về sự thánh thiện được phát triển từ những nền tảng nhân bản
rất cao quý.
Trên chuyến xe xuôi
miền lục tỉnh, người ta chuyển đến tôi một cuốn truyện cũ đã mất bìa để đọc cho
quên đường dài. Truyện kể lại mối tình giữa một chàng trai là con sĩ quan học
tập và một cô gái là con cán bộ chức quyền. Họ thương nhau và muốn kết hôn với
nhau, nhưng khi công khai ý định ấy, họ đã gặp phải những lực cản từ hai phía
gia đình. Đã có nhiều nghi ngờ từ phía cha chàng trai và cũng có lắm nghi ngại
từ phía cha cô gái. Giải pháp phải chọn là chia xa đôi lứa.
Đành lòng làm thế,
nhưng họ vẫn âm thầm chờ đợi nhau, cho đến khi cha chàng trai mãn hạn học tập
về nhà và cha cô gái đã đến tuổi về hưu. Hai người cha có dịp gần gũi cảm thông
làm chất keo thân ái cho tình yêu đôi trẻ có điều kiện gắn hàn. Kết truyện là
đám cưới.
Truyện có hậu và có
nét hấp dẫn riêng của thể loại, nhưng điều hấp dẫn hơn hết đối với tôi không
phải là cốt truyện cho bằng chính tựa đề “Tình yêu trong veo”: trong veo giữa
hai người cha biết xoá tan ngờ vực để thêm gần gũi; trong veo giữa hai bạn trẻ
biết vượt qua thử thách để giữ vững tình yêu. Xin mượn tựa đề “Tình yêu trong
veo” ấy để gọi tên Mùa Vọng là mùa trong veo một tình yêu.
1) Bằng tình yêu trong
veo, Thiên Chúa trao thân cho con người.
Trong khi người Do
Thái còn đang mải miết với một vì Chúa ở trên cao và dường như say sưa về một
Đấng ở xa con người, đến nỗi trong quan hệ nguyện cầu, thay vì xin những biểu
tỏ gần gũi để dễ dàng nắm bắt, họ lại chỉ dám xin một dấu lạ điềm thiêng mãi
tận trời cao vượt quá tầm nhìn; và trong niềm mong chờ Đấng Cứu Thế, vốn là
mạch sống hy vọng cho cả dân tộc, họ những tưởng nghĩ rằng Người sẽ đến, nhưng
là đến trong cung cách của một vị Chúa oai phong lẫm liệt, cho muôn dân nếu
không phải cúi đầu sợ hãi thì cũng phải bái phục tôn thờ. Có ngờ đâu, khi Chúa
đến, Người lại chọn cho mình một cách đến rất khác lạ.
Người đến thật gần:
trong thân phận của một con người để làm người giữa muôn người trần thế. Người
đến thật thấp: thấp đến nỗi chọn cho mình cách sống của một người cùng khổ dưới
đáy xã hội. Người yêu thương con người để sẵn sàng trao thân cho họ, chấp nhận
phải điều đình, chấp nhận được cưu mang, chấp nhận được sinh hạ, chấp nhận được
làm người: “Ngôi Lời đã làm người và cư ngụ giữa chúng ta” (Ga 1,14)
Phải chăng khi trao
thân cho con người như thế, Thiên Chúa sẽ được thêm vinh quang? Phải chăng nếu
không trao thân cho nhân loại, Thiên Chúa vẫn là Chúa, nhưng là một vị Chúa
không được ai biết đến hay là một vị Chúa bị kết án phải cô đơn? Thưa không
phải thế. Chính khi trao thân cho con người trong mầu nhiệm Nhập Thể, Thiên
Chúa không còn úp mở như trong thời Cựu Ước nữa, Người đã dứt khoát cho thấy
mình là Đấng giải cứu con người và sẵn sàng làm hết cách để thực hiện bằng được
chương trình của Người mà không đợi chờ mảy may vinh quang nào ngoài lợi ích
cứu độ cho người trần gian. Để độ thế, Thiên Chúa đã nhập thể; để cứu người,
Thiên Chúa đã làm người.
Chính hai Danh xưng
được nêu lên trong phần Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay đã nói lên tất cả. Danh xưng Emmanuel khẳng định “Thiên Chúa ở cùng
chúng ta”, Danh xưng Giêsu bộc lộ “Thiên Chúa là Đấng
Cứu Độ” (Mt 1,23-25). Nối kết hai Danh xưng ấy nơi Đấng Cứu Thế, ta sẽ
thấy một tình yêu trong veo Thiên Chúa dành cho con người: Người là Thiên Chúa
ở cùng ta để cho ta ơn cứu rỗi, và Người là Thiên Chúa cứu độ ta bằng cách ở
cùng ta.
2) Bằng tình yêu trong
veo, con người gửi phận cho Thiên Chúa.
Nếu bằng tình yêu
trong veo cứu độ, Thiên Chúa trao thân cho con người, thì Chúa Nhật thứ tư Mùa
Vọng cho thấy những nhân vật gần gũi với mầu nhiệm Giáng Sinh nhất là Đức Maria
và thánh Giuse đã bằng tình yêu trong veo tự nhiên gửi phận mình cho Thiên
Chúa.
Đối với Đức Maria, tình yêu trong veo
đã rõ qua tín điều Vô Nhiễm Nguyên Tội, mà Phụng Vụ hữu ý mừng kính ở đầu Mùa
Vọng. Tình yêu ấy đã rõ trong việc Mẹ dâng mình vào Đền Thánh, nhưng tình yêu
ấy còn rõ ràng hơn khi tiếp cận với mầu nhiệm Nhập Thể của Con Thiên Chúa. Ngày
Truyền Tin, mới gặp sứ thần, Đức Maria đã bối rối, thứ bối rối của một tình yêu trong sạch buổi đầu gặp gỡ. Rồi,
lúc được đề xuất làm Mẹ Đấng Cứu Thế, Đức Maria đã băn khoăn, thứ băn khoăn của
một tình yêu trong sáng muốn được giải thích đôi câu. Và chính lúc thưa “Xin vâng” (Lc 1,38) là cả một
tình yêu trong veo như chưa bao giờ trong đến thế, Đức Maria đã gửi trọn phận
mình vào tay Thiên Chúa, bất chấp đó là một mạo hiểm chết người: trinh nữ mà
lại mang thai, phải ăn nói ra sao với thánh Giuse? Mới đính hôn thôi mà sắp
thành mẹ, phải dàn xếp thế nào cho hợp luật pháp?
Còn thánh Giuse, con người lặng thầm
nhất của Mùa Vọng, đã được đặt vào một tình huống khó xử đến độ ray rứt, nhất
là trong những ngày trước lúc Đấng Cứu Thế giáng sinh như Phúc Âm hôm nay mô
tả. Nhưng chính ở đây ông đã chứng minh bằng những nét đẹp kín đáo hào hùng về
một tình yêu trong veo từ lâu đã dệt nên đời sống qua những lựa chọn xé lòng.
Là người công chính, dù ghi nhận ít nhiều dấu hiệu chuyển biến nơi Đức Maria,
ông cũng chẳng dám nghi ngờ mà chỉ một thoáng băn khoăn, để rồi định chọn cho
mình giải pháp âm thầm rút lui. “Đào vi thượng sách” là giải pháp an toàn nhất.
Nhưng chính lúc ấy, được tỏ nguồn cơn, ông đã tiếp nhận ý Chúa và tiếp đón Đức
Maria về nhà mình bằng một tình yêu trong veo, mà người trần mắt thịt dẫu có
bản lĩnh cách mấy cũng khó mà dám xâm mình mạo hiểm (Mt 1,24).
Nhìn như thế, tình yêu
trong veo đã liên kết Đức Maria và thánh Giuse, để mái nhà chung sống không chỉ
là nơi che nắng trú mưa cho qua ngày đoạn tháng, mà đã trở thành một mái ấm của
những tấm lòng biết mở ra cưu mang Con Thiên Chúa và sẵn sàng để sinh Người ra
cho dương thế, cho dẫu tình yêu trong veo ấy trên đường cứu độ như một bản
trường ca sẽ không thiếu những quãng nghịch, mà việc khó xử hôm nay trong Phúc
Âm mới chỉ là những nốt nhạc mở đầu.
3) Cũng bằng tình yêu
trong veo, ta đón mừng lễ Giáng Sinh.
Hiểu như trên, Chúa
Nhật thứ tư Mùa Vọng rõ ràng là một tình yêu hai chiều trao gửi: Thiên Chúa
trao thân cho con người để con người biết gửi phận mình cho Thiên Chúa. Đồng
thời cũng là Chúa Nhật trong veo của những tấm lòng biết gửi trao tấm lòng
trong ơn cứu độ.
Trên nền tảng ấy, tình
yêu trong veo đã trở nên tinh thần phải có để đón Chúa Giáng Sinh. Trong những ngày
này, đi ra phố xá, đã nghe vang lên những bài ca Giáng Sinh quen thuộc; ngang
qua nhà thờ, đã thấy trưng bày những bộ Noel với hang đá, cây thông, đèn sao
đẹp mắt; và đi tới chỗ nào cũng thấy thấp thoáng Giáng Sinh với muôn màu lấp
lánh. Nhưng có một màu được xem là không thể quên hay không bao giờ quên đối
với mọi tín hữu mừng lễ Giáng Sinh, màu đó không ở trên áo quần giầy dép, môi
mép tóc tai, hoa cài áo khoác, mà là ở trong tấm lòng kìa! Đó là màu trong veo
của những tâm hồn trinh trong biết cưu mang ý Chúa và biết sinh hoa kết trái
trong cuộc sống công minh chính trực của mình.
Nếu ngày xưa trong
khúc hát quan họ Sion, câu xướng “Ai được lên Núi
Chúa?” đã nhận được lời đáp “Chỉ những người thật
thà ngay chính tay sạch lòng thanh mới được bước tới Thánh Cung”(Tv 23,3-4), thì hôm
nay cũng thế, trong bài ca cuộc sống ai cũng nôn nao xôn xao ồn ào huyên náo
tiếp cận lễ Giáng Sinh cả, kẻ tiếp thị, người tiếp tân; nhưng chỉ có những tấm
lòng trinh trong mới xứng đáng trở nên Hang đá tiếp đón Chúa sinh vào. Chúa chỉ
một lần đến sinh ra trên trần thế là đủ để cứu chuộc muôn người, nhưng giả như
Người có đến sinh ra nhiều lần hơn nữa cũng vẫn thiếu, nếu lòng người chưa sẵn
sàng một tình yêu trong veo mở ra đón nhận. Liệu ta hôm nay đã sẵn có một tâm
hồn như thế trước lễ Giáng Sinh?
Hơn nữa, tình yêu
trong veo cũng là tiếng nói cuối cùng của Mùa Vọng thúc đẩy ta đến với
những người xung quanh. Không thể có Mùa Vọng đầy đủ nếu bỏ quên chiều kích tha nhân
trong tình yêu của mình, và cũng chẳng tiếp đón Chúa cho đủ nếu từ chối tiếp
nhận anh chị em gần gũi với mình trong những sinh hoạt hằng ngày.
Trong Phúc Âm, Giuse
biết tiếp nhận ý Chúa “qua giấc mơ”, để rồi sau đó “tỉnh dậy” ông mau mắn đón
Đức Maria nên bạn đường bạn đời của mình, cho dẫu hậu thế có kẻ điều ong tiếng
ve xem ông như kẻ “vô tư”. Nhưng đó lại là bước đột phá của một tình yêu trong
veo biết nhận ra rằng: Thiên Chúa đã ân cần trao thân cho mình qua mầu nhiệm
Nhập Thể, thì mình cũng tín thác gửi phận mình trong mầu nhiệm quan phòng của
Thiên Chúa. Đó là hai chiều gặp gỡ của tình yêu Giáng Sinh.
Tóm lại, tình yêu
trong veo là động lực khiến Chúa đến với con người và là nguồn lực thúc đẩy con
người tiếp đón Chúa, để trong cuộc sống cụ thể trở thành nỗ lực của mọi tín hữu
đón lễ Giáng Sinh. Trong khi còn chuẩn bị và chưa thực sự được tiếp đón Chúa,
hãy bắt đầu bằng cách thực tập tiếp đón những hình ảnh sống động của Chúa là
những người ta gặp hoặc những người gặp ta bằng một tình yêu trong veo luôn
thăng tiến. “Nếu không gặp Ngài trong nghèo khổ, sẽ chẳng gặp Ngài giữa cao
sang. Nếu không gặp Ngài ở dưới đất, sẽ chẳng gặp Ngài chốn Thiên Đàng” (thơ
Xuân Ly Băng).
Đến đây, xin được khép
lại những chia sẻ Mùa Vọng năm nay. Xin cám ơn Mùa Vọng đã đem đến những ý nghĩ
đẹp màu. Xin cám ơn cộng đoàn đã vui lòng lắng nghe. Hy vọng những tâm tình
chia sẻ cũng cung cấp chút ý tưởng giúp mỗi người hình thành được Máng Cỏ tâm
hồn. Và cám ơn đứa cháu nhỏ đã tình cờ viết lộn chữ Mùa Vọng thành chữ “Màu
Vọng” để có được bốn sắc màu chia sẻ nơi đây. Qua xanh đến tím gặp hồng, dìu ta
đón Chúa với lòng trong veo.
Chúng ta cùng nhau tìm
hiểu về bài học thinh lặng và đợi chờ trong đức tin của thánh Giuse.
Thông thường khi bản
thân hay gia đình gặp phải những tai ương hoạn nạn, bị người khác hiểu lầm và
chà đạp lên danh dự, chúng ta có khuynh hướng trả đũa, bằng cách bêu xấu đối
phương và phân trần với người khác về nỗi bực tức của mình. Thậm chí, chúng ta
còn tức giận và tìm đủ mọi cách thức để phản pháo theo kiểu mắt đền mắt, răng
đền răng.
Thế nhưng, những người
tin Chúa thì phản ứng một cách khác. Thay vì rêu rao phân trần với những người
chung quanh, họ sẽ thưa lên với Chúa, tha thiết xin Chúa giải oan cho mình khỏi
những chước mốc thiên hạ. Khi chúng ta kêu lên với Chúa, chúng ta hãy ghi nhớ
một điều mà chúng ta thường hay quên đó là sự thinh lặng.
Phải, thinh lặng cũng
là một cách cầu nguyện rất hữu hiệu. Kinh thánh nói rằng:
- Khi cõi lòng chất
nặng nỗi ưu tư, khi ngôn ngữ không nói lên được nỗi sầu buồn của mình, thì
chính Chúa Thánh Thần sẽ lấy những điều đang đè nặng tâm hồn chúng ta mà trình
lên cùng Chúa Cha, cầu khấn thay cho chúng ta.
Bởi đó sự thinh lặng
là điều rất cần thiết. Đúng thế, trước hết sự thinh lặng sẽ giúp chúng ta bình
tĩnh lại để có thể lắng nghe được tiếng nói của Chúa và giúp chúng ta tập trung
niềm tin tưởng vào Ngài.
Thứ đến, sự thinh lặng
sẽ làm rung động Chúa Thánh Thần, khiến Ngài sẽ cầu nguyện thay cho chúng ta.
Liệu có lời cầu nguyện nào linh ứng hơn lời van xin của Chúa Thánh Thần? Ngài
hiểu rõ ý muốn của Chúa Cha và biết rõ nhu cầu của chúng ta.
Thánh vịnh 37 đã
khuyên chúng ta:
- Hãy thinh lặng và
đợi chờ, chớ buồn lòng.
Vậy những lý do ấy đã
đủ làm cho chúng ta thinh lặng và đợi chờ hay chưa? Nhiều khi chúng ta thêm
buồn vì thấy kẻ làm khổ chúng ta lại được nhiều may mắn.
Dưới con mắt trần
gian, một người dù làm điều xấu mà vẫn thu hoạch được những kết quả tốt đẹp thì
đó là thành công. Nhưng dưới con mắt đức tin, thì đó không phải là thành công
thật. Thành công hay không là tùy vào kết quả sau này. Khi kẻ làm điều xấu mà
được may mắn thì nên biết rằng Thiên Chúa muốn tỏ lòng tốt đối với họ, trước
khi trừng phạt họ một cách xứng đáng.
Trên đời này không
thiếu gì những trường hợp ác giả ác báo nhãn tiền. Thiên bất dung gian. Trời
xanh con mắt là gương, người ghét nó ít, người thương nó nhiều.
Nhưng cũng có những
trường hợp Thiên Chúa chưa làm ngay mà lại để dành đời sau hay dòng dõi của kẻ
ác. Dù sao những hình phạt chúng ta nghe được vẫn là nhẹ lắm, nếu đem so với án
phạt của ngày phán xét. Thiên Chúa có luật công bình và thánh thiện của Ngài.
Ngài không bao giờ quên người công chính bị oan khiên. Hãy xác tín Ngài luôn
can thiệp thật đúng lúc. Hãy ghi nhớ trường hợp của thánh Giuse hôm nay để thấy
được bàn tay Thiên Chúa quan phòng luôn sẵn sàng thi ơn giáng phúc.
Là con cái Thiên Chúa,
chúng ta phải biết yên lặng chờ đợi và trao phó mọi khó khăn oan trái cho Ngài
phân xử, chứ đừng nóng lòng khi thấy kẻ dữ được sống thảnh thơi. Nhưng vấn đề
là chung cuộc ai mới là người chiến thắng thật sự. Hãy can đảm yên lặng và chờ
đợi ý Chúa và thời giờ của Chúa. Ý Chúa thì cao vời và Ngài có một chương trình
tốt đẹp.
Tin rằng khi Thiên
Chúa giải quyết thì sẽ không trí óc nào suy tưởng nổi. Cho nên nếu giờ đây gia
đình chúng ta còn đang hoạn nạn hoặc người ngoài làm nhục thì bí quyết để thành
công, đó là yên lặng trong đức tin, hoàn toàn phó thác cho tình thương của
Chúa. Đó cũng chính là bí quyết giúp chúng ta sống vui, sống mạnh giữa những đổ
vỡ của đời mình.
Lạy thánh Giuse, là
gương sự nhịn nhục, xin giúp đỡ chúng con.
(Trích trong “Như Thầy
Đã Yêu” của Thiên Phúc)
Chuyện kể rằng: có một
cô gái hàng ngày cầu nguyện đã nhiều năm qua, xin thánh Giuse tìm cho được tấm
chồng tốt, nhưng chẳng kết quả gì. Cô bắt đầu cảm thấy thất vọng.
Một sáng Chúa nhật,
sau khi đi lễ về, cô quì trước tượng thánh Giuse nài xin ngài ban cho điều cô
khấn nguyện. Nhưng mười phút sau cô bỗng phát cáu vì thánh nhân không chịu đáp
lời. Cô liền cầm tượng thánh Giuse ném ra ngoài cửa sổ. Tượng rơi trúng đầu anh
thanh niên vừa đi ngang qua đó làm cho anh bị thương. Anh vội chạy đến gõ cửa
xin cô giúp đỡ.
Cô gái rất ân hận
thành thật xin lỗi anh và ao ước được chăm sóc vết thương cho anh. Họ trở nên
đôi bạn thân thiết và sáu tháng sau đám cưới được tổ chức rất trọng thể.
Qua câu chuyện vui hi
hữu trên đây, thánh Giuse đã giải quyết khá là ngoạn mục cho đôi tân hôn tưởng
như không may lại hóa ra may mắn. Còn hôm nay, chuyện trăm năm của Ngài với Đức
Mẹ phải tính sao đây? Thánh Kinh viết: “Trước khi hai ông bà về chung sống, bà
đã có thai do quyền năng Chúa Thánh Thần” (Mt 1,18). Đính hôn là thời kỳ hạnh
phúc nhất, là lúc đôi bạn yêu nhau dệt nên bao giấc mộng vàng. Thế mà, giờ đây
giấc mơ ấy, bỗng tan thành mây khói. Maria thục nữ 15 tuổi, đạo hạnh, kiều diễm
lại có thai trước khi về nhà chồng. Thật là bối rối, khó xử.
Để rồi cuối cùng,
Giuse cũng phải đi tới một quyết định “Đào vi thượng sách”: “Ông Giuse, chồng
bà là người công chính và không muốn tố giác bà nên mới định tâm bỏ bà cách kín
đáo” (Mt 1,19). Bỏ mặc cho số phận một người vợ đang mang thai mà Thánh Kinh
gọi là “người công chính” được sao? Có lẽ Đức Maria, hay nói đúng hơn là bà
thánh Anna mẹ của Đức Maria đã tiết lộ nguồn gốc của thai nhi, chính là bởi tác
động của Chúa Thánh Thần. Biết được ý định mầu nhiệm của Thiên Chúa nơi Đức
Maria nên Giuse rất mực tôn trọng chương trình của Người. Vì thế, ông đã quyết
định âm thầm rút lui, không dám nhận “quyền làm cha” đứa trẻ. Giuse quả thật là
“người công chính”.
Nhưng chính lúc Giuse
khước từ “Đứa con theo xác thịt” thì ông lại nhận được “đứa con của lời hứa”.
Cũng như tổ phụ Abraham hy sinh Isaac con trai mình, thì ông xem đứa con ấy như
“của lễ” dâng cho Thiên Chúa. Chính vì dòng dõi vua Đavid mà Thiên Chúa đã muốn
Giuse đổi ý để “đón Maria vợ ông về”, và “đặt tên cho con trẻ là Giêsu”. Theo
ngôn ngữ Sêmit trong Kinh Thánh, việc đặt tên có nghĩa là “nhận lấy quyền làm
cha pháp lý” cho đứa trẻ. Chính qua dòng họ Giuse mà Đức Giêsu mới trở nên “con
vua Đavid, để hoàn tất mọi lời hứa của Thiên Chúa”. Kết thúc Tin Mừng hôm nay,
Matthêu viết: “Khi tỉnh giấc, ông Giuse làm như sứ thần Chúa dạy và đón vợ về
nhà” (Mt 1,24). Khép lại những giấc mơ của Giuse, là mở ra một thế giới tình
yêu mới. Dù biết tình yêu rồi cũng không thoát khỏi những gian nan vất vả.
Như Maria, Giuse cũng
phải mò mẫn trong đêm tối của đức tin, đến miền ánh sáng của thiên ý. Và khi
nhận ra chương trình nhiệm mầu của Thiên Chúa, mặc dù chưa hiểu hết sự việc,
các ngài vẫn mau mắn đáp lời xin vâng, với trọn niềm kính tin và phó thác. Các
ngài nhìn tất cả chỗ nào cũng là hồng ân.
Thật đáng mừng là
trong thế giới thực dụng và hưởng thụ của chúng ta ngày nay, vẫn còn hàng trăm
ngàn các bạn trẻ nam nữ, tuổi 16 – 30 từ Mỹ và Pháp tình nguyện gia nhập hội
Ava với bản hợp đồng “không sinh hoạt tình dục trước ngày cưới”. Đó là một lối
sống mới tích cực trong hiểm họa AIDS hiện nay.
Sau khi “cam kết”, các
thành viên Ava sẽ đến các trường học, các nơi công cộng… để nói với các thanh
niên khác về hậu quả tai hại từ việc quan hệ tình dục bừa bãi, tuyên truyền
chống lại loại phim ảnh khiêu dâm, bạo lực và cả những nhóm nhạc có phong cách
quá khích.
27. Đức Trinh Nữ Maria
Một khuôn mặt nổi bật
trong những ngày cuối cùng của mùa vọng, đó là khuôn mặt của Đức Trinh Nữ
Maria. Chúng ta có thể nói được rằng Mẹ là người đầu tiên được diễm phúc đón
nhận Chúa. Tại sao thế? Vì tâm hồn Mẹ vô cùng trong trắng, không vướng mắc tội
lỗi, đã trở thành chiếc nôi hồng ấm áp và tuyệt vời nhất cho Chúa ngự trị. Từ
đó, chúng ta đi tới một kết luận: tội lỗi chính là chướng ngại vật ngăn cản
không cho Chúa đến với chúng ta, cũng như không chúng chúng ta đến cùng Chúa.
Đúng thế, Thiên Chúa
là Đấng thánh thiện, còn tội lỗi thì xấu xa, nên không thể đội trời chung với
nhau, trái lại luôn đối kháng nhau như trắng với đen, như lửa với nước, như ánh
sáng với đêm tối. Giữa Thiên Chúa thánh thiện và tội lỗi xấu xa là cả một vực
thẳm ngàn trùng ngăn cách, không thể có được một nhịp cầu cảm thông. Nơi nào có
Thiên Chúa ngự trị, thì nơi đó phải quét sạch mọi bóng dáng của tội lỗi. Trái
lại, nơi nào tội lỗi ngập tràn, thì chắc chắn sẽ không có được sự hiện diện đầy
yêu thương của Thiên Chúa. Chính vì thế, tâm hồn tội lỗi sẽ không thể nào đón
nhận Chúa mỗi khi Ngài viếng thăm, bởi vì Ngài luôn ghét bỏ tội lỗi, dù rất mực
yêu thương các tội nhân.
Thực vậy, tội lỗi là
một sự xúc phạm đến Thiên Chúa, người cha toàn năng và giàu lòng nhân ái. Từng
giây và từng phút, chúng ta đã nhận được biết bao ơn lành của Ngài. Chẳng hạn
nếu không có khí trời, thì chỉ trong dăm ba phút, chúng ta sẽ không thể nào
sống được. Nếu không có cơm ăn và nước uống, thì chỉ trong dăm ba ngày, chúng
ta cũng sẽ không thể nào tồn tại. Vì thế, tội lỗi chính là một sự vô ơn bạc
nghĩa đối với Chúa. Khi phạm tội, chúng ta giống như chàng trai phung phá trong
Phúc Âm, đã bỏ mặc ngoài tai những lời khuyên nhủ, những lời van xin của người
cha.
Hơn thế nữa, tội lỗi
còn là một sự phản bội lại tình thương của Chúa. Vì khi phạm tội, chúng ta đã
dùng những ân huệ Ngài ban để chống lại Ngài. Chẳng hạn Chúa ban cho chúng ta
cặp mắt là để chúng ta chiêm ngưỡng những kỳ công của Ngài mà lên tiếng ca
tụng, thế nhưng khi phạm tội, chúng ta lại dùng để nhìn vào những sự xấu xa,
khả dĩ làm cho tâm hồn bị hoen ố.
Chúa ban cho chúng ta
đôi bàn tay là để chúng ta lao động sản xuất, kiếm tìm chén cơm manh áo cũng
như cộng tác với Ngài trong công cuộc sáng tạo, thế nhưng khi phạm tội, chúng
ta lại dùng để đánh đập người khác và thực hiện những hành động gian tham trộm
cắp.
Chúa ban cho chúng ta
một trái tim là để chúng ta kính mến Ngài và yêu thương anh em, thế nhưng khi
phạm tội, chúng ta lại dùng để chất chứa những hận thù ghen ghét.
Cũng vậy, chính vì tội
lỗi chúng ta mà Chúa đã phải sinh ra nghèo túng nơi máng cỏ Bêlem và đã phải
chết một cách tủi nhục trên thập giá Canvê. Bởi đó, mỗi khi phạm tội là một lần
chúng ta hò hét như dân Do Thái ngày xưa:
- Đóng đinh nó đi,
đóng đinh nó vào cây thập giá.
Mỗi khi phạm tội là
một lần chúng ta giết Chúa, là một lần chúng ta đóng đinh Ngài vào thập giá.
Đồng thời, mỗi tội chúng ta phạm là một lằn roi, là một gai nhọn, là một khạc
nhổ chúng ta đổ xuống trên thân xác Chúa. Như thế, sống trong tội lỗi là chúng
ta đã làm cho những khổ đau Chúa phải chịu và những giọt máu Chúa đã chảy ra
trở nên vô ích.
Có một tên sát nhân âm
mưu giết hại hoàng tử. Rất may hoàng tử chỉ bị thương nặng và được cứu sống.
Hoàng tử đã xin vua cha tha tội chết cho tên sát nhân. Cảm động trước tấm lòng
khoan dung ấy,, vua cha đã dẫn tên sát nhân tới gặp hoàng tử và hỏi hắn:
- Ngươi sẽ làm gì để
đền đáp tấm lòng khoan dung tha thứ của hoàng tử?
Tên sát nhân không
ngần ngại trả lời:
- Tôi sẽ tìm cách để
giết chết hoàng tử một lần nữa.
Đức Kitô đã xuống thế
và đã chết trên thập giá để cứu chuộc chúng ta, thế nhưng khi phạm tội, chúng
ta cũng nói như tên sát nhân:
- Tôi sẽ tìm cách để
giết chết Ngài một lần nữa.
Sau cùng, tội lỗi làm
cho tâm hồn chúng ta trở nên nhơ bẩn, không còn xứng đáng làm nơi cho Chúa cư
ngụ. Trong ngày lãnh nhận bí tích Rửa tội, vị linh mục xức dầu dự tòng cho
chúng ta và nói:
- Hời thần ô uế, hãy
ra khỏi người này để nhường chỗ cho Thiên Chúa ngự trị.
Thế nhưng, khi phạm
tội, chúng ta nói ngược lại với những lời ấy:
- Hỡi Thiên Chúa, hãy
ra khỏi tâm hồn tôi, để nhường chỗ cho ma quỉ và tội lỗi ngự trị.
Tội lỗi sẽ biến tâm
hồn chúng ta trở thành một hang trộm cướp, nếu Chúa có ghé thăm, chắc chắn Ngài
sẽ phải nổi nóng, rút dây lưng mà xua đuổi, như ngày xưa Ngài đã từng xua đuổi
phường buôn bán ra khỏi đền thờ Giêrusalem.
Vì thế, để đón mừng
Chúa, để tìm gặp Chúa, cũng như để được Chúa ngự trị, điều kiện đầu tiên chúng
ta phải có đó là một tâm hồn trong sạch. Muốn được như vậy, chúng ta phải ra
sức chống trả những cám dỗ, xa tránh những dịp tội, là những hoàn cảnh thúc đẩy
chúng ta vấp ngã. Vì lửa gần rơm lâu ngày cũng cháy, chơi dao có ngày đứt tay.
Sống trong dịp tội mà không vấp phạm, thì đó là một phép lạ cả thể mà chắc chắn
Chúa sẽ không bao giờ thực hiện cho chúng.
Có khử trừ tội lỗi,
thì tâm hồn chúng ta mới sẽ trở nên một hang đá máng cỏ sống động cho Chúa ngự
đến.
Qua phần chia sẻ hôm
nay, chúng ta cùng nhau tìm hiểu về thánh cả Giuse.
Trước hết thánh cả là người tin tưởng nơi
cha mẹ và truyền thống. Tin mừng giúp chúng ta hiểu sự liên hệ giữa thánh Giuse và Đức
Maria trước khi Chúa Giêsu sinh ra. Theo phong tục Do Thái, đám cưới gồm ba
giai đoạn:
Giai đoạn thứ nhất là
sự cam kết. Sự cam kết được thực hiện bởi cha mẹ hai bên hay bởi ông bà mai
mối. Thường thường cả hai người bạn trẻ đã không biết nhau trước khi cam kết.
Giai đoạn thứ hai là hứa hôn. Thời gian này kéo dài cả năm để cho đôi trai gái
có cơ hội quen biết nhau. Sau khi hứa hôn họ được coi như vợ chồng, mặc dù
không được sống chung với nhau. Nhưng nếu không muốn tiến tới hôn nhân nữa, họ
phải xin ly dị. Giai đoạn thứ ba là đám cưới: xảy ra vào cuối năm của giai đoạn
hứa hôn. Chính trong giai đoạn thứ hai của đám cưới Do Thái, Giuse biết Maria đã
có thai như bài Phúc âm hôm nay tường thuật.
Tiếp đến, thánh cả
Giuse là người tin tưởng bạn mình, Maria. Trong thời gian hứa
hôn, nếu người vợ ngoại tình và bị tố cáo, sẽ bị xử tội “ném đá”. Sự kiện Maria
đã có thai làm Giuse phải đau khổ, bối rối, nghi ngờ và khó xử lắm! Nhưng với
tình yêu, sự khoan dung và lòng nhân từ Giuse “không muốn tố giác bà”, nhưng
chỉ “định tâm bỏ bà cách kín đáo”. Trong hoàn cảnh khó khăn này, chính tình yêu
đã hòa giải sự đối nghịch giữa luật lệ và con người để khám phá ra sự quan
phòng của Thiên Chúa. Tình yêu đã dẫn tới niềm tin.
Maria đã xác tín rằng,
mặc dù nàng đồng trinh, nàng “đã thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần” như lời
thiên thần đã loan báo. Khi được sứ thần báo trong giấc mơ phù hợp với điều bạn
mình đã nói, Giuse liền tin tưởng vào tấm lòng thành thật của Maria và “nhận
Maria về nhà làm vợ mình”. Họ đã thành thật tin tưởng nhau.
Một trong những điều
sợ hãi và kinh khủng nhất của con người là phải sống trong nghi ngờ và đố kỵ.
Đó là hỏa ngục trần gian. Và một trong những khó khăn nhất của cuộc sống ở mọi
thời đại là sự tin tưởng lẫn nhau.
Sau cùng, thánh cả
Giuse là người tin tưởng nơi Thiên Chúa. Người Do Thái quan
niệm Chúa Thánh Thần là người mang sự thật đến cho con người. Chúa Thánh Thần
đã dạy cho các tiên tri trong Cựu Ước phải nói gì và làm gì. Và cũng chính Chúa
Thánh Thần sẽ hướng dẫn con người nhìn nhận ra sự thật khi gặp thấy. Bởi Giuse
là người công chính, nên đã được Chúa Thánh Thần mang sự thật đến. Ông đã nhận
ra sự thật và tin tưởng vào sự thật được mạc khải đó, cho dù cách thức mạc khải
chỉ là trong giấc mơ.
Một câu ngạn ngữ của
người Nigeria nói rằng, “Hãy lắng nghe, và bạn sẽ nghe được những bước chân của
các con kiến”. Chúng ta cũng được mời gọi để lắng nghe những bước chân âm thầm
của Thiên Chúa đến trong cuộc đời qua những cách thức không ngờ tới. Chính ở
nơi Chúa Thánh Thần, chúng ta đón nhận được sự thật: “Chính ở nơi Người mà
chúng ta sống, cử động, và hiện hữu”.
Chúng ta ca tụng thánh
Giuse là “Đấng công chính” đã nêu cao tấm gương nhân từ, thánh thiện và vâng
phục thánh ý Thiên Chúa, Giuse là tôi tớ trung tín. Vì thế trong kế hoạch mầu
nhiệm của Thiên Chúa, ngài được chọn làm bạn của Đức Trinh Nữ Maria, và dưới
dòng họ của ngài, Con Thiên Chúa đã làm người thuộc dòng tộc Đavid, đã âu yếm
gọi ngài là “Cha”.
Với lòng nhân hậu,
thánh Giuse luôn phù trợ cho các con cái của ngài như thánh Têrêsa Avila đã nói
với chúng ta: “Tôi thấy không lần nào xin sự gì cùng thánh Giuse mà không được
như ý. Dường như Thiên Chúa ban ơn cho các thánh giúp ta việc này việc nọ,
nhưng kinh nghiệm cho tôi biết thánh Giuse giúp chúng ta trong mọi trường hợp.
Tôi lấy danh Chúa mà xin những ai không tin lời tôi hãy thử mà xem”.
29. Người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emanuel
(Suy niệm của Lm.
Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
Emmanuel: Thiên Chúa ở
cùng chúng ta quả là một niềm mơ ước bất tận của con người có niềm tin vào
Thiên Chúa. Trong cuộc sống, nhất là trong cử hành Phụng Vụ Thánh Thể, không
biết bao lần ta chúc nhau đuợc Thiên Chúa ở cùng: "Chúa ở cùng anh chị em
- Và ở cùng cha". Xin được chia sẻ đôi nét về sự biểu hiện của tình trạng
được có Thiên Chúa ở cùng và một vài điều kiện để được Thiên Chúa ở cùng.
I. Sự biểu hiện của
tình trạng có Chúa ở cùng: "Kính chào bà đầy ân sủng, Thiên Chúa ở cùng
bà" (Lc 1,28).
Dựa trên lời chào chúc
của sứ thần Gabriel với mẹ Maria ta có thể chắc chắn rằng Mẹ chính là người
được Chúa ở cùng. Tình trạng được Chúa ở cùng này được trình bày như là tình
trạng "đầy ân sủng". Một tâm hồn đầy ân sủng Chúa là tâm hồn được
"rợp bóng" Thánh Thần, là Tình Yêu bản vị giữa Chúa Cha và Chúa Con,
một Tình yêu hoàn toàn "hướng tha". Chính vì thế người đầy ân sủng
luôn lấy lợi ích của tha nhân làm mục đích của lẽ sống, của mọi hành vi của
mình.
Tương tự một số nam
nhân thời bấy giờ, chẳng hạn nhóm "tu trì" ở Qumrân, khi tự nguyện
sống đời trinh khiết, Mẹ Maria đã tự nguyện hiến dâng đời mình, tự nguyện hy
sinh hạnh phúc cá nhân để góp phần cầu mong Đấng Thiên Sai mau đến. Sự cao cả
của tấm lòng vị tha của Mẹ hiện rõ qua việc Mẹ tự nguyện chọn lấy tình cảnh như
bị Thiên Chúa chúc dữ trước mặt người đời. Người Do Thái xưa và thời bấy giờ
vẫn xem những phụ nữ không sinh con là đồ bị chúc dữ. Đã đính hôn với thánh
Giuse, nghĩa là vẫn lập gia đình, thế mà Mẹ tự nguyện sẽ không có con thì quả
là một quyết định anh dũng trong tình yêu vị tha. Không sinh con trong đời độc
thân tự hiến đã là một hành vi cao cả, còn lập gia đình mà quyết định sẽ không
có con thì có thể nói rằng đó là trường hợp ngoại thường. Căn cứ vào quy định
của Giáo Luật về hôn nhân Công giáo thì đây là trường hợp kết hôn không thành
sự vì loại bỏ một trong hai mục đích của hôn nhân.
Khi Sứ Thần truyền tin
cho Mẹ rằng Mẹ sẽ thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần và sinh một con trai thì
tiếng thưa "xin vâng" của Mẹ bày tỏ rõ nét tâm hồn tràn đầy tình yêu
vị tha cách hoàn hảo. Các nhà chú giải Thánh kinh cho ta hay nội hàm của hai từ
xin vâng không phải là thái độ thụ động mà ngược lại đó chính là tâm tình tích
cực trong hân hoan. Vì tha nhân, vì hạnh phúc của nhân loại, Mẹ Maria đã chọn
con đường Thiên Chúa vạch ra. Rất có thể bị Giuse hiểu lầm, rất có thể chuốc
lấy nhuốc nhơ cho danh giá giá của mình và số phận Mẹ có thể bị kết liễu dưới
những viên đá vô tâm vô tình theo luật pháp thời bấy giờ. Mẹ hân hoan đón nhận
tất cả chỉ vì hạnh phúc của đồng loại. Đúng là một trái tim tràn đầy ân sủng
Chúa.
II. Một vài điều kiện
để có Chúa ở cùng:
1. "Đừng ngại
nhận Maria về nhà làm bạn mình... người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel (Mt
1,20-23).
Đón nhận nhau là một
trong những nghĩa cử yêu thương. Đã yêu thì không chỉ đón nhận những gì dễ yêu,
những gì đáng thương hay thích hợp với mình mà còn đón nhận cả những gì khó
yêu, những điều mình chẳng muốn. "Thương cả đuờng đi" thì mới là
thương yêu thật sự. Đón nhận cả những gì mà lòng mình không mong và nhiều khi
chưa hiểu rõ thì mới là tình yêu không tính toán, không tham vọng cách ích kỷ.
Dù chỉ được Sứ Thần tỏ
bày qua một giấc mơ thế mà Giuse đã mau mắn "tiếp nhận bạn mình".
Động thái tiếp nhận nhau như là bạn hữu đòi hỏi ta từ bỏ mình và tự hủy mình
một cách nào đó. Khi đón nhận các môn đồ thành bạn hữu của mình Đức Kitô đã từ
bỏ tước vị là Thầy, đã tự hủy thân phận là Chúa của mình (x.Ga 13). Khi đón
nhận Maria và Con trẻ trong dạ về nhà, Giuse đã tự nguyện từ bỏ vị thế làm cha
của Ngài. Nét cao cả của Giuse còn thể hiện qua việc Ngài đón nhận cả sự hiểu
lầm của họ hàng, dòng tộc, xóm giềng khi họ nghĩ rằng Ngài chính cha ruột của
con trẻ.
Việc thánh Giuse đón
nhận Maria về nhà làm bạn cũng chính là việc Ngài đón nhận chương trình của
Thiên Chúa. Dĩ nhiên đây là chương trình ngoài dự kiến, ngoài ý định của Ngài.
Tin mừng tường thuật "khi tỉnh dậy, Giuse đã thực hiện như lời Sứ Thần
truyền" (Mt 1,24). Sự mau mắn, không đắn đo này nói lên thái độ tin tưởng
trong an bình của chính Ngài. Đón nhận tha nhân với toàn bộ hiện trạng tha nhân
đang có, đang là trong sự tin tưởng và an bình đó là một trong những điều kiện
tuyệt hảo để được Thiên Chúa ở cùng.
2. "Bà sẽ hạ sinh
một con trai mà ông sẽ đặt tên là Giêsu"(Mt 1,21).
Theo Thánh kinh, việc
đặt tên có ý nghĩa rất quan trọng. Tên là người và tên cũng là sứ mạng. Vì thế
người đặt tên là người có trách vụ hướng dẫn, đào tạo. Khi dẫn các con vật đến
với Ađam để Ađam đặt tên cho chúng, Thiên Chúa đã trao phó trách nhiệm cai
quản, huớng dẫn muôn loài cho con người (x.St 2,19). Khi đặt tên cho Abram
thành Abraham, Thiên Chúa đã huấn luyện một người bán du mục cao niên, son sẻ
đang chăn nuôi súc vật trong tư thế tìm sự bảo đảm, an toàn thành một người cha
của đoàn lũ con cái đông đúc trong niềm tin phó thác (x.St 17,5). Khi đặt tên
cho Giacop thành Israel, Thiên Chúa cũng đã huấn luyện một người láu cá
"hất cẳng anh" thành một người đã "gặp gỡ, chiến đấu với Thiên
Chúa" và dĩ nhiên sau đó tuân phục Thiên Chúa (x.St 32,23-30)
Thánh Giuse đã dùng
gương sáng, lời nói, hành vi của mình để dạy dỗ, hướng dẫn con trẻ thành một
Giêsu, Đấng cứu nhân độ thế. Quả thật các áng văn Tin Mừng minh chứng cho ta
thấy nhân cách và lối hành xử của Chúa Giêsu mang đượm dấu ấn của thánh Giuse.
"Cha Ta làm việc liên lỉ, Ta cũng vậy" (x.Ga 5,17). "Lương thực
của Ta là làm theo thánh ý Cha Ta trên trời" (x.Ga 4,34). "Ta không
làm điều gì mà không nhìn việc Cha Ta làm" (x.Ga 5,19). Các thái độ, hành
vi, cung cách ứng xử của Đấng Cứu Thế chắc hẳn có sự góp phần không nhỏ của
thánh Giuse, đặc biệt trong thời thơ ấu và ẩn dật của Người.
Có Emmanuel, có Thiên
Chúa ở cùng chúng ta chính là hạnh phúc đích thật. Dù rằng ở trần gian này hạnh
phúc ấy chưa vĩnh viễn nhưng nó có thể là hoàn toàn một đôi lúc nào đó. Và
những thời điểm có được hạnh phúc này chính là bảo chứng cho hạnh phúc đích
thực cách hoàn hảo vĩnh viễn mai sau. Hạnh phúc ấy chính là tình trạng khi ta
hết lòng vì lợi ích của tha nhân trong sự quên mình. Để có được điều này tiên
vàn hãy biết tiếp nhận nhau với toàn vẹn con người của nhau, cả nhưng ưu điểm
lẫn những hạn chế, cả những sự tốt lành lẫn những điều tồi tệ. Và đồng thời cần
nỗ lực giáo dục dệt xây cho đời những Giêsu. Trước tòa án phong thánh cho Cha
Gioan Maria Vianey, một cụ già đã thề trên Thánh Kinh rằng: "Con đã nhìn
thấy Thiên Chúa nơi một con người". Mong sao không phải đợi đến những dịp
phong thánh mà ngay trong cuộc sống thường nhật người ta, bà con tín hữu lẫn
anh em lương dân hay khác đạo có thể thốt lên rằng: "Thiên Chúa đang ở
cùng chúng ta".
30. Chúa bước vào đời tôi
Người ta thường nói
"nhập gia tuỳ tục", nghĩa là khi một vị khách vào nhà của ai đó thì
người khách đó phải làm theo những lề thói mà gia chủ đang có, chứ không khi
nào đòi hỏi người chủ phải làm theo ý mình. Điều đó nói lên thái độ lịch sự và
tôn trọng của người khách đối với chủ nhà. Đó cũng là điều thường tình mà con
người vẫn đã và đang làm trong cuộc sống.
Có một người bước vào
căn nhà cuộc đời của Đức Maria,Thánh Giuse và tất cả chúng ta nhưng lại không
làm theo những gì chúng ta đã sắp xếp, mà lại làm "xáo trộn" mọi sự
của chúng ta. Người đó chính là Thiên Chúa.
Thiên Chúa bước vào
cuộc đời của ai thì Ngài không để yên những gì con người đã định liệu sẵn. Ngài
không muốn để cho con người "bình yên", một thứ bình yên của xác
chết, của nghĩa trang lạnh lùng và đầy dẫy xác chết. Ngài đổi mới mọi sự. Vì
thế, có rất nhiều người sợ Thiên Chúa bước vào cuộc đời của mình lắm. Nói điều
này xem ra có vẻ nghịch lý, nhưng thực tế là như thế đó. Chúng ta còn nhớ câu
chuyện Chúa Giêsu chữa một người bị quỷ ám, sống ở mồ mả và rất hung hung dữ.
Kết quả là Ngài để cho "bầy quỷ" xuất khỏi người ấy và cho phép chúng
nhập vào một đàn heo khoảng 2000 con, lao xuống biển chết hết. Dân chúng trong
làng run sợ và thán phục trước phép lạ lớn lao ấy, nhưng họ lại nài xin Ngài
rời khỏi họ. Nhự vậy là rõ ràng họ sợ Chúa đến với họ rồi. Họ chỉ thấy sự hiện
diện của Chúa là quấy rối cuộc sống bình thường của họ, làm họ thua thiệt. Hay
chúng ta còn nhớ câu chuyện các tông đồ chèo thuyền đi trên biển, gặp sóng to
bão lớn. Vậy mà họ không sợ. Nhưng khi Chúa hiện ra, đi trên mặt biển mà đến
với họ thì họ hoảng sợ. Hay câu chuyện Chúa Giêsu vào Đền Thờ Giêrusalem, Ngài
đánh đuổi các người buôn bán ra khỏi đền thờ, lật tung bàn ghế của những người
đổi tiền . . . Cho nên, chúng ta thường là sợ Chúa đến với mình lắm, nếu chúng
ta không chuẩn bị một tâm thế đón nhận và có một đức tin vững vàng vào tình
thương của Thiên Chúa.
Tin mừng hôm nay cho
chúng ta thấy rõ ý tưởng mà chúng ta vừa nói ở trên. Chúa bước vào cuộc đời của
Đức Maria và thánh Giuse và Ngài làm thay đổi hết những dự tính của các ngài.
Chúa dắt các ngài bước đi theo một con đường hoàn toàn mới mẻ và xa lạ, nằm
ngoài những dự tính ban đầu của các ngài. Có thể nói, Chúa đã làm xáo trộn kế
hoạch vốn cũng rất tốt đẹp và thánh thiện nơi cuộc đời của Đức Maria và thánh
Giuse.
Đọc Tin mừng, chúng ta
thấy rõ là Đức Maria đã đính hôn với Giuse. Một kế hoạch xem ra rất bình an và
hạnh phúc đối với những con người bình thường sống trong xã hội rồi. Nhưng rồi
Thiên Chúa "không để yên" cho các ngài. Chúa giao cho các ngài một sứ
mạng xem ra kỳ cục và nghịch lý lắm; xem ra Chúa muốn phá vỡ hạnh phúc của các
ngài. Nhưng đó là cách thức Chúa hành động trên những kẻ Ngài yêu thương cách
riêng.
Dù Chúa làm chủ cuộc
đời của chúng ta, có có quyền bước vào căn nhà cuộc đời của chúng ta và hành
động cách "nhập gia không tuỳ tục", nhưng Chúa vẫn chờ đợi thái độ
đáp trả của con người vốn chỉ là những người quản lý cuộc đời của mình trong tự
do và trách nhiệm mà Thiên Chúa ban cho mà thôi. Một tiếng "xin vâng"
tự nguyện của Đức Maria, một thái độ sẵn sàng của thánh Giuse đã làm cho chương
trình của Thiên Chúa được thực hiện cách trọn vẹn và tốt đẹp. Có được thái độ
đó là nhờ các ngài hết lòng tin tưởng và phó thác nơi Thiên Chúa của mình,
không chút nghi ngờ hay tính toán hơn thua. Các ngài đã để cho Thiên Chúa tự do
hành động trên cuộc đời của mình, dù có những lúc các ngài cảm thấy mình đang
bước đi trên những nẻo đường không chút hy vọng và khó hiểu nhìn theo phương
diện con người. Dù các ngài là những con người được Chúa chọn cách riêng để làm
theo chương trình của Chúa, nhưng các ngài đã chấp nhận biết bao khổ cực và cay
đắng, chịu đựng biết bao những hy sinh và mất mát. Và nhờ thái độ tin tưởng và
phó thác đến cùng đã làm cho các ngài trở thành những con người được "muôn
đời ca tụng".
Thiên Chúa không thể
chịu thua con người về sự quảng đại và lòng thương xót. Những ai không hoài
nghi vào tình thương của Ngài thì chắc chắn sẽ đạt được hạnh phúc viên mãn và
tròn đầy cách tuyệt đối.
Chúa đã đến và đang
đến với mỗi người chúng ta. Chúa đang bước vào cuộc đời của mỗi người chúng ta,
nhưng chúng ta có đón tiếp Chúa không hay chúng ta muốn tự mình lãnh đạo cuộc
đời của mình vì sợ Chúa đến "quấy rối" chương trình của mình, hoặc
chúng ta nghi ngờ lòng thương xót của Chúa, sợ Chúa dẫn mình đi trên con đường
xem ra không giống ai. Chúa nói: "Ta đứng ngoài của và gõ, ai nghe tiếng
Ta và mở cửa, thì Ta sẽ vào nhà người ấy và dùng bữa với người ấy" (Kh 3,
12).
Chúng ta nên biết là,
nếu chúng ta tự định liệu số phận cho mình thì cuộc đời của chúng ta sẽ là
những con người đáng thương nhất trên hành tinh này. Bởi lẽ, chúng ta có khó
nhọc, có tất bật chạy ngược, chạy xuôi thì cũng hoài công vô ích mà thôi, vì
chúng ta đang xây dựng đời mình trên cát và thiếu viên đá gốc tường. Lời của
Thánh Vịnh đã nói: "Nếu như Chúa chẳng xây nhà, thợ nề vất vả cũng là uổng
công". Hãy để Chúa giúp ta xây dựng cuộc đời của chúng ta, và chúng ta hãy
tích cực cộng tác với Chúa và ngoan ngoãn bước theo Chúa, làm theo những gì
Chúa đang thiết kế cho đời ta. Đó là thái độ của những con người khôn ngoan và
đó cũng chính là thái độ của Đức Maria và Thánh Giuse ngày xưa, nhờ thái độ đó
mà Thiên Chúa đã làm cho các ngài thành những con người diễm phúc muôn đời trên
thiên quốc.
Trong Thánh Lễ sáng
Chúa Nhật, vị linh mục bước lên tòa giảng và đọc một đoạn trong sách Cựu Ước.
Cuốn sách này đã cũ kỹ, nhưng được cha dùng keo để gián lại. Vì vô tình khi
dùng keo để dán, cha đã để lại một chút keo ở trang đàng sau, và như thế khi
cha lật từ trang cha đang đọc sang trang sau, nó dính vô trang kế tiếp đó, bởi
thế nên cha đã đọc đoạn sách thánh đó như sau: “Vậy khi loài người bắt đầu thêm
đông trên mặt đất, và sinh ra những con gái, thì các con trai Thiên Chúa thấy
con gái loài người xinh đẹp; những cô họ ưng ý thì họ lấy làm vợ... (chỗ này
nhà giảng thuyết lật trang sau để đọc tiếp thì) chiều dài một trăm năm mươi
thước, chiều rộng hai mươi lăm thước, chiều cao mười lăm thước...” (Gn
6:1-2,15). Sau một phút bối rối, nhà vị linh mục nói: “Tôi xin cáo lỗi cùng Quí
Vị. Tuy nhiên, theo một khía cạnh, tôi thấy rằng đoạn Thánh Kinh trên diễn tả
vẻ tuyệt diệu về con người chúng ta đã được Chúa tạo dựng.”
Mỗi một người là một
món quà đặc biệt của Thiên Chúa toàn năng và tình yêu vô hạn. Ngài không chỉ
ban cho chúng ta món quà sự sống nhưng còn ban tặng chúng ta sự toàn năng và
tình yêu vô hạn của Ngài để giúp chúng ta có một cuộc sống sung mãn. Đó là điểm
mà đạo Công Giáo của chúng ta bắt nguồn. Căn bản của đạo chúng ta không phải là
điều chúng ta có thể làm cho Chúa, nhưng là Thiên Chúa làm gì cho chúng ta.
Đó là tất cả ý nghĩa
của Kitô giáo. Đó là Tin Mừng của đức tin chúng ta. Đó là lý do tại sao Chúa
Giêsu đã sinh ra tại hang Bêlem. Đó là lý do tại sao Chúa Giêsu đã được nuôi
dưỡng trong gia đình thợ mộc nghèo khổ. Đó là lý do tại sao Chúa Giêsu đi từ
làng này sang làng khác rao giảng về sự siêu việt của Nước Chúa, chữa lành, và
bài trừ những người giả hình của phái Pharisiêu. Đó là lý do tại sao Chúa Giêsu
đã kiên nhẫn chịu đựng những khổ hình và chịu đóng đinh vào thánh giá. Đó là lý
do tại sao Chúa Giêsu đã ra khỏi mồ và phán: “Bình an cho các con.” Đó là lý do
tại sao Chúa Giêsu đã thổi Thánh Thần vào thế giới qua các môn đệ đầu tiên của
Ngài. Chúa Giêsu đã sống, đã chết, và đã sống lại để làm tất cả mọi sự đổi mới
bằng ngọn lửa thanh tẩy của tình yêu Thiên Chúa. Sứ mệnh của Chúa Giêsu là chỉ
cho chúng ta con đường biết hàng phục một cách vô điều kiện với sự mầu nhiệm
của tình yêu Thiên Chúa.
Đối với tình yêu bao
la của Chúa, chúng ta chỉ có thể đón nhận, chứ không phải là kiếm được. Đó là
món quà của Chúa ban cho một cách nhưng không mà không bao giờ chấm dứt; trước
sau như một, bền bỉ, mãi mãi. Chúng ta không thể nào dứt bỏ được. Chúng ta
không thể nào làm cho Chúa ngừng yêu thương chúng ta. Chúng ta không thể nào
làm cho tình yêu ấy nhạt đi, biến mất, hoặc bắt buộc nó phải đi chỗ khác. Tình
yêu ấy không câu nệ gì đến việc chúng ta là ai, đang ở đâu, và là cái gì. Thiên
Chúa yêu thương chúng ta, cho dù chúng ta có là cái gì đi chăng nữa. Câu hỏi
được đặt ra là “Ngay trong giây phút này, các bạn có trong sạch như Thánh Gioan
Tông Đồ hoặc Maria Mađalêna không? Các bạn có sẵn sàng để đón nhận món quà của
lòng từ bi vô biên của Chúa ở tận thâm tâm của các bạn chưa? Các bạn có sẵn
sàng để chấp nhận sự thật đó như là một điều khẩn thiết cho cuộc lữ hành tiến
tới sự sung mãn chưa?”
Không có một tội nào
ngăn cản Thiên Chúa không ban cho các bạn bất cứ điều gì, cả những điều các bạn
không tưởng tượng nổi. Không có một phản nghịch nào có thể làm cho Thiên Chúa
thất vọng với các bạn. Không có một buồn phiền nào có thể ngăn cản Thiên Chúa
không tiếp tục dẫn dắt các bạn. Ngài tiếp tục, trước sau như một, để đi vào
cuộc sống của bạn bằng cả ngàn cách thức. Ngài kiên cố và bền vững trong cách
thế đó, từ tình yêu vô bờ cho các bạn và lòng ao ước mạnh mẽ để đem các bạn tới
chỗ sung mãn.
Bài Phúc Âm hôm nay
bắt đầu cuộc truyền tin mà thiên thần loan báo cho Mẹ rằng Mẹ sẽ sinh ra Đấng
Cứu Thế. “Này tôi là nữ tỳ của Chúa,” Mẹ đáp, “Xin hãy thành sự nơi tôi theo
như lời ngài truyền.” Chúng ta sẽ không có Lễ Giáng Sinh nếu Mẹ không mở rộng
bàn tay để đón nhận món quà từ tình yêu vô bờ của Thiên Chúa. Sự ưng thuận của
Mẹ là trung tâm điểm của Mầu Nhiệm Nhập Thể. Sau khi thiên thần từ giã, Mẹ liền
vội vã đi thăm bà dì Elisabét. Như là muốn nhấn mạnh tầm quan trọng của sự nhậm
lời của Mẹ, bà dì Elisabét đã chào Mẹ rằng: “Em thật có phúc, vì đã tin rằng
Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em” (Lk 1:45).
Trong Sách ngôn sứ
Isaiah, Thiên Chúa phán: “Hãy xem, Ta đã ghi khắc ngươi trong lòng bàn tay Ta”
(Is 49:16). Đó là hình ảnh tuyệt đẹp diễn tả thật đúng cách thức Thiên Chúa đối
với chúng ta. Ngài nhìn chúng ta trên bàn tay của Ngài đã dùng để tạo dựng và
ghi khắc. Chúng ta là một phần không thể tẩy xóa được trong sự sống của Thiên
Chúa bởi vì chúng ta được dựng nên bằng hình ảnh của Ngài. Thánh Kinh cho chúng
ta biết Thiên Chúa gần chúng ta như thế đó. Ngài không ghi khắc chúng ta ở
trong bàn tay Ngài như là một phần thưởng. Chúng ta không giành được cái chỗ
vinh dự như thế ở trong sự sống của Thiên Chúa. Thêm nữa, chúng ta không thể
nào thay đổi được. Chúng ta có thể xa cách Ngài nhưng đối với Ngài thì luôn
luôn trao ban cho chúng ta tất cả để chúng ta có thể đạt được sự sống sung mãn
trong tình yêu Ngài.
Thiên Chúa mong muốn
chúng ta cảm nghiệm được tình yêu vô biên của Ngài trong lúc này. Sự hưởng nếm
ngọt ngào nhất về tình yêu của Thiên Chúa đến với chúng ta bằng yêu và được
yêu. “Hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu các con,” Chúa Giêsu đã ra lệnh như
thế.
Thường thì trong suốt
mùa Vọng cũng như mùa Giáng Sinh, và ngay cả trong suốt năm phụng vụ, chúng ta
ít nói đến ông Giuse, “người đã đính hôn cùng Maria, là người chính trực, không
muốn gây khó khăn cho Maria theo luật pháp [vì Maria đã thụ thai bởi quyền năng
của Chúa Thánh Thần trước khi hai ông bà về ở với nhau] nên đã quyết định âm
thầm từ bỏ vị hôn thê” (Mt. 1:19-20).
Trong bài suy niệm Lời
Chúa ngày lễ mừng kính Đức Maria vô nhiễm nguyên tội, chúng ta thấy ông Adong,
nguyên tổ loài người, đã vấp phải “trái cấm”, thì ông Giuse cũng phải đương đầu
với “trái cấm”: ông Giuse ít nhiều bị chạm tự ái vì người vợ chưa cưới mà đã
mang thai, nên “tìm cách âm thầm từ bỏ Maria vì không muốn gây khó khăn cho
Maria theo luật pháp”. Phản ứng trước “trái cấm” của Adong và Giuse hoàn toàn
trái ngược nhau.
* Phản ứng của Adong:
“... người đàn bà mà Chúa đặt để ở đây với tôi – bà ấy đã cho tôi trái cây, và
tôi đã ăn.” (Kn. 3:13)
* Phản ứng của Giuse:
“... Khi Giuse thức giấc, ông đã làm theo lời thiên sứ truyền bảo và đã đón
nhận Maria về nhà mình làm vợ” (Mt. 1:24).
Trong cơn buồn sầu và
nghi ngờ, Giuse đã không phản ứng hành động theo tính tự nhiên của con người -
không vội lên án đổ lỗi cho nhau, không vội trút cơn tức giận chua cay vì tưởng
rằng bị phản bội - trái lại Giuse chỉ biết LẮNG NGHE và THI HÀNH tiếng Chúa thì
thầm chỉ bảo trong mọi hoàn cảnh.
Chúng ta không tìm
được một câu nói nào của Giuse trong tất cả các sách Tin Mừng, chúng ta chỉ học
biết phương thức hành động - phương thức SỐNG của Giuse trong suốt cuộc hành
trình và đồng hành của Người với Maria và Giêsu ở trần gian này.
Trong cuộc sống thực
tế của mỗi một người chúng ta, không ai trong chúng ta mà không gặp phải những
nghịch cảnh, những “trái cấm” hầu như từng phút từng giây, từ những nghịch cảnh
nhỏ nhất đến những chuyện “tày trời” tưởng như thế giới sắp sụp đổ:
+ anh/chị/em tôi “chơi
gác” tôi
+ bạn bè tôi ích kỷ,
khó tính
+ học trò tôi ngang
ngược, lười biếng, láo xược
+ con tôi ngỗ nghịch,
hỗn láo
+ người tôi yêu lừa
gạt tôi, không thành thật với tôi, hình như không còn yêu thương tôi nữa
+ vợ/chồng tôi mọi
ngày rất tốt, nhưng hôm nay làm sao ấy
+ đồng nghiệp của tôi
“ma giáo”
+ vân vân và vân
vân...
Chúng ta quên bẵng đi
rằng chúng ta thường đặt căn bản cho mối nghi ngờ hay giận dữ trên một hiện
tượng nhất thời nào đó, rồi phản ứng theo tính tự nhiên ngay tức khắc, mà chưa
hay không muốn LẮNG NGHE tiếng thì thầm chỉ bảo của lương tâm, của chính Thánh
Thần Thiên Chúa đã được ban cho mỗi một chúng ta.
Tâm tình LẮNG NGHE và
THI HÀNH tiếng Chúa thì thầm chỉ bảo của thánh cả Giuse - và cũng là của Đức
Maria và Đức Giêsu - là khuôn vàng thước ngọc cho đời sống của mỗi một chúng
ta. Muốn cho chính bản thân mình, cho gia đình mình được an vui hạnh phúc,
thiết tưởng chỉ có một phương cách duy nhất là theo gương thánh cả Giuse, và
ráp theo khuôn mẫu của thánh gia Giuse-Maria-Giêsu vậy.
Thánh Lasan xin thánh
cả Giuse làm quan thầy cho Dòng, để các Frères, các thầy cô cũng như tất cả
những ai được trao phó sứ mạng và nhiệm vụ giáo dục trẻ em, noi gương thánh cả
Giuse yêu thương dìu dắt Đức Giêsu Hài Nhi như thế nào thì cũng yêu thương dìu
dắt con em và học sinh mình như vậy. Mỗi ngày thứ tư trong tuần, cả nhà Dòng
đọc kinh sau đây để tôn kính thánh cả Giuse và cầu xin Người cho chúng ta được
noi theo gương Người, SỐNG như Người. Xin mời mọi người chúng ta cùng hợp tiếng
với Dòng LaSan, đọc kinh này mỗi ngày thứ tư.
Lạy thánh Giuse rất
trung tín, là Đấng được Chúa chọn làm cha nuôi Người, là Đấng nâng đỡ Thánh
Mẫu, là người cộng tác và trung thành trong công cuộc trọng đại của Chúa.
Xin thánh cả cầu cho
chúng con được ơn thi hành thánh ý Đức Chúa Cha, được âu yếm suy niệm những sự
đã thực hiện nơi Đức Chúa Con, và nhờ ơn phong phú Đức Chúa Thánh Thần, chúng
con giữ xác hồn thanh sạch, để xứng đáng phụng sự Chúa luôn – AMEN
Đọc lại Cựu Ước, chúng
ta thấy được hình ảnh nào của Thiên Chúa? Theo tôi nghĩ, điều Cựu ước nhấn mạnh
cho dân Do thái, đó là một Thiên Chúa duy nhất đầy quyền uy.
Thực vậy, ngay những
trang đầu của sách Sáng thế ký, sau khi Adong Evà phạm tội, thì buổi chiều
Thiên Chúa đã tản bộ đi trong vườn địa đàng với làn gió nhẹ. Adong Evà đã hoảng
sợ và tìm kiếm chỗ ẩn núp, nhưng cũng không thể nào thoát khỏi cái nhìn của
Thiên Chúa, để rồi cuối cùng đã lãnh nhận bản án của đau khổ, của chết chóc cho
hành vi phản bội đầu tiên ấy.
Tiếp theo là việc
Thiên Chúa hiện ra và kêu gọi Maisen lên đường giải phóng dân tộc Do thái, đang
sống dưới ách nô lệ, dưới sự kìm kẹp của vương quốc Ai cập. Lúc bấy giờ Maisen
nhìn thấy một bụi gai bừng cháy, ông mon men tiến tới, thì được Giavê đã phán:
- Chớ lại gần, hãy cởi
dép vì chỗ ngươi đang đứng là nơi thánh.
Maisen đã phải che mặt
vì ông sợ không dám nhìn Thiên Chúa.
Và sau cùng trong cuộc
xuất hành trở về miền đất hứa, Đức Giavê đã tàn sát các con trai đầu lòng Ai
cập, đã vùi dập binh đội của Pharaon nơi lòng biển cả. Và tại đỉnh núi Sinai,
Đức Giavê đã trao ban lề luật cho Maisen trong một cảnh tượng hùng vĩ. Kinh
thánh ghi lại rằng: Bấy giờ ngọn núi cuồn cuộn như bốc khói. Ngay cả sau khi Maisen
xuống núi, khuôn mặt ông vẫn còn chói lọi, đến nỗi dân chúng sợ hãi không dám
tiến lại với ông.
Bằng đó những sự kiện
chỉ có ý muốn nói lên rằng: Thiên Chúa trong Cựu ước là Thiên Chúa của uy
quyền. Ngài hiện ra trong sấm chớp hãi hùng, để truyền khiến, để sửa phạt. Đứng
trước vị Thiên Chúa toàn năng ấy, con người nhỏ bé của chúng ta chỉ có một thái
độ, đó là run sợ và khiếp hãi.
Thế nhưng, Cựu ước chỉ
nắm giữ vai trò chuẩn bị, vai trò sửa soạn cho Đức kitô xuất hiện. Tất cả Cựu
ước đều qui hướng về Đức Kitô và cùng với Đức Kitô, chúng ta có được một hình
ảnh đầy yêu thương của Thiên Chúa. Hình ảnh này đã được tiên tri Isaia loan báo
gần 700 năm về trước:
- Này đây một trinh nữ
sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai và tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa
ở cùng chúng ta.
Lời loan báo này đã
trở thành một sự thật trong Tân ước. Phải, đúng thế, Tân ước đã làm tròn những
hình ảnh được nói đến trong Cựu ước, nhờ đó chúng ta thấy rõ Đức kitô chính là
Thiên Chúa.
Qua bài Phúc âm hôm
nay, sứ thần đã nhắc lại cho Giuse trong một giấc mộng lời nói tiên tri Isaia,
để rồi một vài ngày nữa, trong đêm Giáng sinh, lời hứa về đấng Emmanuel sẽ được
thực hiện. Thiên Chúa đã đến ở giữa chúng ta, không phải trong uy quyền với áng
mây cột lửa, nhưng trong yêu thương với quang cảnh ngèo nàn và đơn sơ của máng
cỏ Bêlem.
Từ một Thiên Chúa uy
quyền và công bằng, Ngài đã trở nên một Thiên Chúa yêu thương và tha thứ. Ngài
đó, một hài nhi bé bỏng như muôn ngàn vạn hài nhi khác. Ngài không đến trong
sấm chớp, nhưng trong yên lặng của đêm khuya, trong rét mướt của mùa đông và
trong nghèo hèn của chuồng bò. Ngài không làm cho bụi cây trong sa mạc bốc
cháy, nhưng khi trông thấy Ngài các vì sao như rực sáng long lanh. Ngài không
đòi phải có đền thánh huy hoàng, nhưng một nắm cỏ khô đã đủ cho ngài. Không
phải là những biểu ngữ, những cổng chào của đám đông cuồng nhiệt đã tiếp đón
Ngài như một ngày hội lớn, nhưng là nụ cười hiền dịu của Đức Maria và tấm lòng
chân thành của thánh Giuse và các mục đồng, đúng như lời tiên tri Isaia đã loan
báo:
- Ngài sẽ không la to,
không nói lớn và người ta sẽ chẳng nghe thấy tiếng Ngài ngoài phố. Ngài đã
không bẻ gẫy cây sậy đã dập và không thổi tắt ngọn đèn còn leo loét.
Thiên Chúa của chúng
ta là như thế đó. Vậy đâu là nguyên nhân, là động lực thúc đẩy Ngài trở thành
một Emmanuel, một Thiên Chúa ở cùng chúng ta? Tôi xin thưa:
- Đó chính là vì tình
yêu.
Thực vậy, người ta
thường nói:
- Yêu nhau chẳng quản xa
gần,
Mấy sông cũng lội, mấy
ngàn cũng qua.
Nhìn vào kinh nghiệm
thường ngày chúng ta cũng thấy được như vậy. Chẳng hạn hai anh chị yêu thương
nhau, họ luôn mong muốn và làm mọi cách để có thể gặp nhau, để có thể ngồi tâm
sự vui với nhau giờ này qua giờ khác.
Chẳng hạn người chồng
phải đi học tập cải tạo tại, nhưng vì yêu thương, người vợ không bao giờ quản
ngại đường sá xa xôi. Mỗi tháng lếch thếch với đứa con nhỏ và những đồ tiếp tế
để đi thăm chồng.
Nếu quả thực là như
vậy, thì hẳn tình yêu Thiên Chúa dành cho chúng ta phải lớn lao, phải vĩ đại
biết bao nhiêu. Bởi vì Ngài đã đi con đường dài nhất, con đường từ trời xuống
đất, từ Thiên Chúa toàn năng đến một hài nhi yếu ớt. Khoảng cách ngàn trùng ấy
đã được Chúa Giêsu vượt qua cho đến đời đời, bởi vì Ngài đã ở lại với chúng ta
luôn mãi. Chúng ta có thể nói được rằng:
- Ngài đã kết hôn với
bản tính nhân loại chúng ta để ăn mày đến vô biên.
Điểm đặc sắc của kitô
giáo là ở chỗ đó: Thiên Chúa của chúng ta không phải là một ý niệm trừu tượng,
một nhân vật hoang đường, nhưng là một con người cụ thể đã, đang và sẽ còn sống
mãi bên chúng ta suốt những chặng đường đời, để yêu thương và tha thứ. Một
Emmanuel, nghĩa là một Thiên Chúa ở cùng chúng ta.
Thiên Chúa đã đi quãng
đường dài nhất để đến với chúng ta, còn bây giờ chúng ta sẽ phải đi nốt những
bước chân còn lại. Ngài đến ở giữa chúng ta, nhưng có yêu thương và gắn bó với
Ngài hay là chúng ta đã lạnh nhạt và xua đuổi Ngài như hánh Gioan đã viết: Ngài
đã đến nhà mình, nhưng người nhà đã chẳng đón nhận.
Nếu như bây giờ Chúa
trở lại, liệu Ngài có tìm thấy một nơi trú ngụ trong tâm hồn chúng ta hay
không?
(Suy niệm của Lm Phêrô
Bùi Quang Tuấn)
John P., một linh mục
Ái nhĩ lan, sau nhiều năm tận tâm thuyết phục một thanh niên bỏ đạo trở về với
Giáo hội, đã phải hoài công vô vọng. Bao lời khuyên răn cứ như “nước đổ lá
môn.”
Một lần kia, Mẹ Têrêsa
Calcutta được mời đến thăm Ái nhĩ lan. Ban tổ chức có thu xếp một buổi nói
chuyện thân mật giữa Mẹ với các bạn trẻ. Mẹ chỉ nói giản dị về tình yêu Thiên
Chúa: Chúa yêu thương các bạn; Ngài luôn đồng hành với các bạn. Sau đó Mẹ rời
thành phố. Ai về nhà nấy.
Trời mỗi lúc mỗi
khuya! Khi mọi vật đang chìm vào tĩnh mịch, chợt một hồi chuông điện thoại reo
vang phá tan giấc ngủ của cha John. Ngài nhấc vội chiếc điện thoại, và đầu giây
bên kia là giọng nói của chàng thanh niên năm nào: “Alô, con muốn xưng tội với
cha. Con muốn trở về cùng Giáo hội.”
- “Chuyện gì xảy ra
cho anh vậy?” Vị linh mục hỏi lại. Ngài tưởng chừng chàng thanh niên đang bị
tai nạn hiểm nghèo nào đó nên vội dọn mình ra đi.
Nhưng anh ta trả lời:
“Thưa cha, vì chiều nay Mẹ Têrêsa đã nói với con một lời đánh động lòng con rất
nhiều.”
Vị linh mục ngạc
nhiên: “Mẹ nói lời gì, và nếu tôi không lầm thì nhà thờ chật ních. Mẹ lại đâu
có cơ hội để gặp riêng anh?”
- “Vâng thưa cha, Mẹ
không gặp riêng con, nhưng Mẹ đã nói với mọi người, trong đó có con. Mẹ nói
rằng: “Chúa ở với các con.”
Nghe thế, vị linh mục
càng ngạc nhiên hơn nữa: “Ủa, đã nhiều lần tôi cũng nói với anh như thế, nhưng
sao hôm nay anh lại bị thuyết phục bởi lời nói ấy của Mẹ Têrêsa?”
Anh thanh niên chậm
rãi giải thích: “Thưa cha, vì Mẹ đã nói câu đó từ thẳm sâu của tâm hồn. Mẹ đã
nói với con bằng tất cả con tim của mình.”
Một câu nói không phát
ra từ một công thức có sẵn hay do một thói tục xã giao thông thường thúc đẩy,
nhưng khởi đi từ chốn thâm sâu của một tâm hồn yêu thương mới có khả năng
thuyết phục, hoán cải, và truyền đạt được ý nghĩa chân thực nhất của danh hiệu
Emmanuel-Thiên Chúa-ở-cùng-chúng-ta.
Trong một Thánh lễ,
biết bao lần vị linh mục đọc lên cầu chúc: “Chúa ở cùng anh chị em,” nhưng thử
hỏi có mấy lần lòng tôi bồi hồi xúc cảm vì sung sướng trước sự kiện này? Rất
nhiều lần tôi nghe, đáp, hát, đọc những lời kinh nguyện có cùng một nội dung
như thế, nhưng có mấy lần tôi cảm nhận được Thiên Chúa hiện hữu thật sự trong
cuộc đời của mình? Tôi không có, phải chăng vì đã chưa đọc và nghe với tất cả
tâm hồn?
Nếu thấu hiểu được thế
nào là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta,” chắc chắn sẽ không có một tác nhân gì có
thể làm cho con người phải run sợ bất an hay ưu sầu lo lắng.
Ngày xưa, khi Môisen
đang chạy trốn người Aicập, tránh né bàn tay ác độc của Pharaô, Giavê đã hiện
ra và bảo ông trở về đất Ai để giải thoát dân Israel. Trước một trách nhiệm lớn
lao cùng bao hiểm nguy cho tính mạng như thế, Moisen can đảm lên đường, vì
Thiên Chúa đã nói với ông: “Ta sẽ ở với ngươi” (Xh 3:12).
Rồi khi Giêrêmia được
Giavê kêu gọi ra đi làm tiên tri cho các dân tộc, ông đã tìm cách thoái thác:
“Tôi đâu có biết nói năng gì. Tôi chỉ ú ớ như một đứa trẻ con.” Nhưng Chúa nói:
“Đừng sợ, vì Ta ở cùng ngươi” (Gr 1:8). Với lời hứa ấy của Giavê, Giêrêmia lên
đường.
Trong Tân ước, khi
Chúa Giêsu sai các môn đệ đi vào thế gian rao giảng Tin mừng. Sứ mạng chất đầy
gian nan, không khác chi như chiên con đi giữa sói rừng. Ấy thế mà sự bảo đảm
lại chỉ là một lời hứa: “Ta sẽ ở cùng các ngươi mọi ngày cho đến tận thế” (Mt
28:20). Vậy rồi các ông ra đi.
Sẽ không lời hứa nào
bày tỏ trọn vẹn nỗi lòng yêu thương của một con người cho bằng lời hứa “ở cùng
người yêu,” và sẽ không có nỗi lòng khát khao nào mãnh liệt cho bằng được “sống
chung với người yêu.” Một chàng thanh niên có thể hứa với người con gái: “Anh
sẽ mua cho em một chiếc nhẫn kim cương làm quà Giáng sinh; anh sẽ cố học thành
tài để em không phải lam lũ sau này...,” nhưng nếu không có lời hứa “ở cùng em”
thì vô ích hết. Cao điểm hạnh phúc trong ngày thành hôn của hai người nam nữ
không phải nơi chiếc áo cưới soirée lộng lẫy, cũng chẳng phải nơi chiếc nhẫn
cưới hay lời chúc tụng của thân hữu đôi bên, nhưng là nơi giao ước tình yêu đã
được thiết lập. Trong giao ước đó họ hứa “ở cùng nhau suốt đời.”
Một linh mục đã nhận
xét: “ở cùng” chính là ngôn ngữ của tình yêu, vì chỉ có yêu ai người ta mới
nghĩ đến “ở cùng.”
Vì yêu nên mới có việc
Thiên Chúa đến “ở cùng” con người, mới có danh hiệu Emmanuel, mới có cảnh Giavê
mang kiếp lầm than để thông chia nỗi đau của con người, và chưa hết, mới có
danh hiệu Giêsu, nghĩa là Giavê cứu thoát.
Vì yêu thương con
người nên Thiên Chúa muốn cứu thoát. Để cứu thoát, Ngài đã đến ở cùng. Có lẽ
không nỗi đợi chờ hay một thoả mãn nào đáng giá hơn hình ảnh của Chúa Hài đồng
nằm trong máng cỏ, hiện thân của tình yêu ở cùng.
Danh hiệu Emmanuel
không chỉ gợi lên trong tôi ý thức về ân phúc tình yêu Thiên Chúa dành cho con
người, về những lời cầu chúc được lập đi lập lại trong các Thánh lễ đang cần
được nói và nghe với tất cả tâm hồn, nhưng còn là lời mời gọi bạn và tôi hãy ở
cùng tha nhân, hãy xích lại gần nhau và sống thân ái hơn trong tình người.
Như Thiên Chúa đã phá
đổ bức tường ngăn cách, dù đó là sự ngăn cách vô biên--giữa Tạo hoá và loài thụ
tạo, giữa trời cao với đất thấp, giữa vô hình và hữu hình--chúng ta cũng được
mời gọi hãy phá đổ những ngăn cách giữa con người với con người, để việc tôi “ở
cùng” tha nhân trong an hoà sẽ là một phản chiếu rõ nét khuôn mặt của Thiên
Chúa-ở-cùng-chúng-ta.
Lần giở lại những
trang Tin Mừng, bạn và tôi sẽ bắt gặp ở đó đến bốn cuộc truyền tin của Thiên
Chúa nói với loài người, liên quan đến mầu nhiệm Con Chúa giáng sinh. Ba cuộc
truyền tin được ghi trong Tin mừng theo thánh Luca và một trong Tin mừng theo
thánh Mathêu. Cả bốn cuộc truyền tin đều do thiên thần mang sứ điệp của Thiên
Chúa đến cho con người. Quan trọng hơn, cả bốn cuộc truyền tin, thiên thần đều
có chung một lời trấn an: “Đừng sợ!”
Đối với ông Giacaria:
“Giacaria, đừng sợ! Vì lời cầu của ngươi đã được chấp nhận”. Sau đó, thiên thần
cho biết ông sẽ có một con trai như lòng mong ước. Người con này sẽ nên cao
trọng vì “nó sẽ làm lớn trước mặt Chúa” (Lc 1, 5- 20).
Đối với Đức Maria:
“Maria, đừng sợ! Vì Người đã đắc sủng nơi Thiên Chúa”. Qua lời thiên thần,
Thiên Chúa mời gọi Mẹ làm mẹ Đấng Cứu Thế (Lc 1, 26- 38).
Đối với các mục đồng:
“Đừng sợ! Ta báo cho các ngươi một tin mừng trọng đại”. Qua lời thiên thần, các
mục đồng là những người được Thiên Chúa báo tin mừng giáng sinh trước tiên (Lc
2, 8- 15).
Đối với thánh Giuse:
“Giuse, đừng sợ! Vì thai nơi bà là do Chúa Thánh Thần” (Mt 1, 18- 24).
Hôm nay Chúa nhật áp
lễ Giáng sinh, Giáo Hội muốn ta suy niệm cuộc truyền tin cho thánh Giuse. Để
rút ra cho mình bài học Thánh Kinh từ câu chuyện truyền tin này, tôi lại rút ra
bài học từ lời của thiên thần: “Đừng sợ”.
Lần giở tiếp những
trang Tin Mừng, ta sẽ phát hiện rất nhiều lần Chúa bảo các môn đệ “đừng sợ”.
Khi căn dặn các ông làm chứng cho Người, Chúa nói: “Các con đừng sợ những kẻ
giết thân xác mà không giết được linh hồn” (Mt 10, 28). Trong bữa tiệc ly, ngay
trước giờ tử nạn của mình, Chúa căn dặn: “Lòng các con đừng xao xuyến và đừng
sợ hãi” (Ga 14, 27). Sau khi sống lại, ban bình an hoặc trấn an môn đệ “Đừng
sợ! Hãy đi báo tin cho anh em của Thầy” (Mt 28, 10).
“Đừng sợ”! Lời Chúa
ngày xưa nói với Giacaria, Đức maria, các mục đồng, thánh Giuse, và các môn đệ.
Ngày nay lời này của Thiên Chúa cũng đang là lời nhắn gởi bạn và tôi. Bạn có sợ
không? Riêng tôi, tôi thấy bạn và tôi sống trong cuộc đời này mà như chìm trong
nỗi sợ. Tôi không bi quan đâu, sự thật đấy. Ngày nhỏ chúng ta sợ ma, sợ đòn.
Lớn hơn một chút: sợ học tập thua sút bạn bè. Lớn hơn một chút nữa: sợ người
yêu bội phản. Ngày ta lập gia đình, cũng là ngày ta sợ mình không tròn trách
nhiệm của một người sống đời gia đình. Và cả cuộc đời ta, nỗi sợ lớn nhất, có
lẽ là sợ chết.
“Đừng sợ, hãy mở rộng
cửa đón Chúa Kitô”. Nếu tôi nhớ không lầm, thì ngay sau khi làm giáo hoàng, đức
Gioan Phaolô II đã mở đầu triều đại của mìn bằng một sứ điệp với những lời lẽ
như thế. Trải dài trên 20 năm làm giáo hoàng của mình, Đức thánh cha không
ngừng nhắc đi nhắc lại với thế giới: “Đừng sợ!”. Xoay quanh hai tiếng “đừng
sợ”, Đức thánh cha mở ra cho ta thấy có những cái sợ rất nghịch lý. Lẽ ra ta
không được sợ, lẽ ra ta phải xây dựng nó, thì ta lại sợ. Bằng chứng là hai sứ
điệp ngày Quốc tế Giới trẻ lần thứ 15 và lần thứ 16, Đức thánh cha nhắc tới nỗi
sợ nghịch lý này: “Các con đừng sợ trở nên những vị thánh của thiên niên kỷ
mới” (ngày QTGT lần thứ 15, số 3), và các con đừng sợ đi trên con đường Chúa đã
đi” (ngày QTGT lần thứ 16, số 6). Nên thánh mà sợ? Đi con đường của Chúa mà sợ?
Đúng lắm! Vì đi trên con đường của Chúa để được nên thánh là khổ nạn, là từ bỏ
bản thân, là sống các giá trị Tin Mừng như nghèo khó, khiêm nhu, hiền từ, vâng
lời… Suy nghĩ như thế, cho tôi cảm nhận trọn vẹn lời của Đức thánh cha: “Các
con đừng sợ nen thánh, đừng sợ đi trên con đường của Chúa”. Đức thánh cha chắc
phải có một cảm nghiệm thiêng liêng sâu đậm lắm, người mới vượt lên trên sự sợ
hãi, tông du khắp thế giới làm cho nhiều tâm hồn thay đổi, Lời Chúa được loan
báo.
Nhưng chắc chắn, khi
nói tới sợ hãi, thì cái sợ của chúng ta không chỉ là sợ ma, sợ học thua sút, sợ
mất người yêu, sợ không tròn trách nhiệm gia đình… mà nỗi sợ còn lớn hơn nhiều.
Đó là nỗi sợ trước một thế giới mà giá trị của Tin Mừng bị xem nhẹ. Một thế
giới màvật chất đang lên ngôi, quyền lực đang thắng thế, tự do tình dục đang
được ưa chuộng, quyền của trẻ thơ, của thai nhi bị tước mất. Có khi chính những
người cha, người mẹ lại tước mất quyền sống của con mình. Một thế giới mà ngòi
nổ của khủng bố, chiến tranh lúc nào cũng sẵn sàng. Sự bình an của tôi, của anh
chị em, của cả nhân loại luôn bị đe dọa. Ngay trên quê hương của Chúa Giêsu,
nơi mà ngày xưa Chúa sinh ra, lại không có được một thánh lễ trong đêm sinh
nhật Chúa, vì người ta đang gieo rắc bạo lực và chiến tranh…
Trước viễn cảnh của
thế giới như thế, người Kitô hữu lại được mời gọi hãy sống các giá trị của Tin
Mừng. Nghĩa là phải ngay thẳng trong một thế giới nhiều gian dối, yêu thương
trong những hận thù, có tinh thần nghèo khó trong một xã hội đề cao tiền của,
sống tha thứ giữa những chống đối và bạo lực… Sống như thế chỉ toàn là thiệt
thòi thôi. Bởi đó ai mà không sợ. Tôi cũng sợ lắm bạn ạ! Nhưng chính trong lúc
này đây, chuẩn bị mừng lễ Giáng sinh, bạn và tôi được mời gọi “đừng sợ”, để có
thể sống trong bình an của ngày Giáng sinh. Để có bình an, bạn và tôi hãy đặt
hết niềm tin vào Chúa. Tin rằng Chúa sẽ thực hiện chương trình của Người theo ý
mà Người muốn. Và xin cho Thánh Ý được thể hiện nơi trần gian trong mọi hoàn
cảnh của thế giới, của nhân loại, của Giáo Hội, và của mỗi người. Tin nơi Thiên
Chúa là gói trọn cuộc đời mình trong tay Người, để mặc Ý Chúa được thể hiện,
chắc chắn ta sẽ có bình an. Tôi xin mượn lời thiên thần lặp lại một lần nữa:
“Bạn và tôi, đừng sợ!”.
Khi sống trong trông
mong chờ đợi, mà bỗng dưng xảy đến điều gì bất ngờ mang lại sự may lành thích
thú hơn điều mong đợi. Lúc đó lòng ta tràn đầy niềm vui hạnh phúc.
Nhưng trái lại, khi
điều xảy đến bất ngờ, không những không như mong đợi mà còn đưa đến điều lo âu
suy nghĩ. Lúc đó, ta mang tâm trạng buồn lo thất vọng. Thánh Giuse sau khi kết
hôn với Đức Mẹ Maria, cũng đã trải qua điều xảy bất ngờ mang lại nhiều suy nghĩ
bối rối.
Ông Giuse kết hôn với
cô Maria, nhưng ông liền khám phá ra: Cô Maria đã có thai. Điều này xảy đến
thật bất ngờ ngoài điều ông trông chờ... Bao nhiêu câu hỏi diễn ra trong tâm
trí ông và ông không tìm ra câu giải đáp: Tại sao cô Maria lại mang thai trước
khi cưới hỏi, với ai vậy? Phải chăng cô không trung tín với người chồng của cô,
là ta đây? Bây giờ phải làm sao? Cô đã bất trung với ta, thì ta bỏ cô vậy, mặc
cô muốn sống sao như ý cô?
Ông âm thầm suy nghĩ
ngày đêm về chuyện này, thì lại một bất ngờ xảy đến nữa. Thiên thần Chúa hiện
đến với ông trong một giấc mơ và báo cho ông biết: con trẻ trong bào thai cô
Maria là Con Thiên Chúa. Cô Maria mang thai là do quyền năng Chúa Thánh Thần
tác động. Con đừng sợ. Đó là chương trình của Thiên Chúa xuống trần gian làm
người!
Ông Giuse tuy là người
đạo đức, có lòng yêu mến kính sợ Thiên Chúa, nhưng làm sao ông có thể hiểu nổi
điều xảy đến bất ngờ vượt quá sức tưởng tượng của một bác thợ mộc chất phác nơi
miền thôn quê! Dẫu vậy, lần này thì ông không hồ nghi. Ông âm thầm chấp nhận cô
Maria và những lời Thiên Thần nói cho ông về Con Thiên Chúa và để bụng suy nghĩ
tiếp về chương trình dự định của Thiên Chúa. Ông tin vào sự quan phòng của
Người.
Điều xảy đến bất ngờ
lần này mang lại cho ông sự bình an trong tâm hồn.
Không chỉ Đức Mẹ Maria
và ông thánh Giuse sống trải qua những điều bất ngờ về chương trình của Thiên
Chúa, nhưng còn có những người khác nữa: các mục đồng. Họ là những người quê
mùa thất học, suốt đời chỉ sống với súc vật ngoài cánh đồng cỏ. Bỗng dưng họ
cũng nhận được điều xảy đết bất ngờ. Thiên thần Chúa hiện đến báo tin cho họ:
“Các Bạn đừng sợ! Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa sinh hạ trong chuồng súc vật của
các Bạn. Các Bạn hãy đến mà xem!”
Họ ngạc nhiên nhưng
trong tâm trạng vui mừng. Vì điều bất ngờ xảy đến mang lại cho họ nhiều thích
thú lạ lùng. Họ đâu có thể ngờ bỗng dưng có khách cao trọng từ trời cao đến
thăm và sống trong nhà mình. Và từ đó làm biến đổi cuộc sống của họ: từ người
chăm sóc thú vật thành người được nhìn thấy Thiên Thần của Chúa, được đến thăm
viếng trò truyện với Con Trẻ Giêsu là Ngôi Hai Thiên Chúa.
Không chỉ với biến cố
Thiên Chúa xuống thế làm người mới có những điều xảy bất ngờ, nhưng điều xảy ra
bất ngờ thường có ngay trong cuộc đời mỗi người. Điều đó có thể là điều may
lành an vui, nhưng cũng có thể là điều gây ngạc nhiên bỡ ngỡ xa lạ đến độ lo âu
suy nghĩ bối rối mất bình an.
Thông thường ai cũng
mong điều xảy đến bất ngờ mang lại niềm vui hạnh phúc hơn điều mang đến sự bất
an trong cuộc sống. Như cuộc đời thánh Giuse đã trải qua, đôi khi những điều
xảy ra bất ngờ làm lo âu suy nghĩ bối rối, không mấy ai muốn chấp nhận, lại là
tín hiệu quan trọng mang tin lành bình an cho con người.
Những đau khổ, bệnh
tật, điều gây bối rối, điều trái ý gây khó chịu là những điều xảy đến bất ngờ
và chẳng ai muốn có. Nhưng nếu như thánh Giuse với một tâm hồn tin tưởng vào sự
quan phòng của Thiên Chúa, mà vui lòng chấp nhận, điều đó có thể trở nên giá
trị tốt đẹp cho đời sống chính mình và người khác nữa.
Đức Mẹ Maria cũng đã
vui lòng chấp nhận sứ điệp Thiên Thần Chúa mang đến bất ngờ ngoài điều mong
muốn cho đời mình, nên Chúa mới giáng sinh xuống trần gian. Ngài mang ánh sáng
tình yêu từ trời cao xuống cho con người. Và qua biến cố đó, nhân loại mới có
ngày lễ mừng trọng đại: Thiên Chúa làm người, để con người được làm con Thiên
Chúa.
Theo C.G.Jung, một nhà
tâm lý nổi tiếng của Tây phương, giấc mơ bày tỏ chiều kích vô thức của tâm trí
con người, hướng về biến cố tương lai, và bộc lộ lãnh vực bị quên lãng nơi cá
tính đương sự. Giấc ngủ là nhu cầu của thân xác hơn là của linh hồn. Do đó có
thể nói rằng khi ngủ linh hồn vẫn tiếp tục sinh hoạt qua tiềm thúc, tức là giấc
mơ. Tuy nhiên vì linh hồn không được nối kết chặt chẽ với thế giới linh thiêng,
giấc mơ chỉ là sự ráp nối hỗn tạp những gì hình ảnh tồn đọng trong trí nhớ, hầu
hết không có ý nghĩa gì.
Trong Thánh Kinh, giấc
mơ đóng vai trò khá quan trọng. Tổ phụ Giuse đã bị anh em chế nhạo là “kẻ mơ
màng” vì ông đã kể ra mình nằm mơ thấy bó lúa của các anh em cúi xuống thần
phục bó lúa của mình; và trong một giấc mơ khác ông thấy mặt trời, mặt trăng,
và 11 ngôi sao cúi mình trước mặt ông (Gn 37:5-9). Đây là điềm báo trước ông sẽ
lên chức tể tướng của nước Ai cập. Ở đây giấc mơ làmạc khải bí nhiệm của Thiên
Chúa về tương lai của đương sự. Thiên Chúa hé mở một phần chương trình của Ngài
cho con người biết. Tổ phụ Giuse là người được Thiên Chúa tuyển chọn để cứu
nước Ai cập và gia đình khỏi nạn đói. Ông là người công chính, biết kính sợ
Chúa, nên tâm hồn nhạy cảm dễ đón nhận mạc khải của Thiên Chúa.
Vào Chúa nhật 4 mùa
Vọng, Giáo hội muốn giới thiệu một nhân vật có vai trò quan trọng trong mầu
nhiệm Thiên Chúa Giáng sinh; đó là thánh Giuse. Ngài được Phúc âm giới thiệu là
người công chính, người sống gần Thiên Chúa. Thánh Giuse đã đính hôn Đức Mẹ,
nhưng không hề biết Mẹ thụ thai bởi Chúa Thánh Thần. Nên khi thấy có dấu hiệu
khác thường nơi Đức Mẹ, thánh Giuse bị bối rối không biết làm sao, nên định âm
thầm rút lui có trật tự. Thiên Chúa đã dùng giấc mơ để mạc khải cho thánh Giuse
vai trò của thánh nhân trong chương trình cứu chuộc nhân loại. Khi hiện ra
trong giấc mơ, thiên thần đã gọi: “Hỡi Giuse, con vua Đavít”. Tuy thánh Giuse
chỉ là cha nuôi, nhưng theo truyền thống của Do thái, người cha xác định dòng
dõi của con cái. Chúa Kitô được tiên báo sinh ra trong dòng dõi vua Đavít. Ngài
là Vua theo dòng dõi vương giả chính tông của Do thái. Sứ mệnh cứu thế của Ngài
gắn liền với uy quyền của một Vị vua trên hết các vua.
Thánh Giuse là nhân
vật quan trọng trong biến cố Chúa Giáng sinh, nhưng Phúc âm không ghi lại lời
nói nào của Ngài. Thánh Giuse tỏ ra là người quản gia trung tín săn sóc hai kho
tàng quí giá nhất trần gian đó là Chúa Giêsu hài nhi và Mẹ Maria. Tinh thần âm
thầm phục vụ như người tôi tớ của Thiên Chúa là tiếng nói sâu xa mà thánh Giuse
để lại cho nhân loại.
Trong mùa Vọng, Giáo
hội kêu gọi các tín hữu chuẩn bị tâm hồn đón mừng Chúa đến với tâm tình chờ đợi
như người đầy tớ gọi chủ đến bất ngờ, như những trinh nữ khôn ngoan đi đón
chàng rể. Thánh Giuse chính là gương mẩu để chúng ta học hỏi. Chúng ta hãy mặc
lấy tâm tình khiêm tốn, âm thầm, tận tụy, và nhất là sống liên kết với Thiên
Chúa qua lời cầu nguyện. Bầu khí ồn ào của những ngày lễ Giáng sinh khiến chúng
ta xa rời ý nghĩa chân thực của Ngày Lễ. Chúng ta vui mừng nhưng không phải
bằng cách say sưa, chè chén, nhậu nhoẹt linh đình. Chúng ta vui mừng bằng sự
chia sẻ của ăn, áo mặc, với những người nghèo khổ; bằng những nụ cười với người
không quen biết, không ưa thích; bằng lời nói tốt cho người súc phạm đến mình;
bằng lòng rộng rãi bao dung với con cái; bằng những lời nói, cử chỉ yêu thương,
biết ơn đối với cha mẹ; và hơn hết bằng lời cầu nguyện cho thế giới được hòa
bình, cho những tấm lòng hận thù bị tan biến, thay vào đó là những trái tim đầy
ắp tình người.
38. Khởi đầu mới phát xuất từ Thiên Chúa
(Chú giải và Suy niệm
của Lm. FX. Vũ Phan Long)
1.- Ngữ cảnh
Phần Mở của Tin Mừng
Mt đi từ 1,1–4,16. Về nội dung, trong bốn chương mở đầu này trước khi Đức Giêsu
xuất hiện công khai, có hai người khám phá ra Đức Giêsu là ai, theo hai đường
song song và riêng tư: Giuse (ch. 1–2) và Gioan Tẩy Giả (ch. 3–4). Giuse thì
được thiên thần Chúa báo tin trong giấc mơ rằng Đức Giêsu là con (cháu) vua
Đavít, còn Gioan thì được một tiếng từ trời cho biết Đức Giêsu là Con Thiên
Chúa. Cả hai vị đều muốn tránh né ơn gọi đặc biệt các vị được mời đảm nhận
trong liên hệ với Đức Giêsu, vị đầu sẽ đưa Đức Giêsu vào trong dòng dõi vua
Đavít, vị sau sẽ trở thành khí cụ để tấn phong làm Đấng Mêsia trong phép rửa.
Trong cả hai trường hợp, cảm thức về sự bất xứng của hai vị đã là động lực
khiến các vị có thái độ như thế (chính theo nghĩa này mà ta phải hiểu sự “bối
rối” của Giuse). Nhưng sự băn khoăn bối rối của các vị đã được thiên thần hoặc
chính Đức Giêsu đánh tan. Cuối cùng, cũng như Giuse, khi chấp nhận đưa Đức
Giêsu vào trong dòng dõi vua Đavít, đã kéo theo cuộc bách hại của vua Hêrôđê,
Gioan Tẩy Giả, khi chấp nhận ban phép rửa cho Đức Giêsu và tạo cho Người cơ hội
được tấn phong làm Đấng Mêsia, đã kéo theo những đợt tấn công của Satan.
Bản văn đọc trong
Phụng vụ hôm nay là phân đoạn thứ hai thuộc nửa đầu của Phần Mở.
Bảng gia phả đã nói
rằng Đức Giêsu xuất thân từ nhà Đavít và Abraham cũng như Người bén rễ sâu vào
trong lịch sử Israel. Đồng thời bảng gia phả cũng khẳng định hoàn cảnh huyền bí
của cuộc chào đời của Người (1,16). Với cách bố trí cũng như những con số, bảng
gia phả cho thấy rằng Đức Giêsu là cùng đích và sự hoàn tất của lịch sử này.
Nhưng bảng gia phả lại không nói cho biết sự hoàn tất này hệ tại điều gì. Điều
này bây giờ được nói rõ qua sứ điệp Thiên Chúa ban cho Giuse và được xác nhận
qua cách xử sự của Giuse.
Trong c. 16 của ch. 1,
tác giả bảo chúng ta rằng Giuse là chồng của Maria và Maria là mẹ của Đức
Giêsu, nhưng Giêsu lại không phải là con của Giuse. Trong đoạn văn đọc hôm nay
(1,18.20), tác giả liên tiếp nhắc lại rằng Chúa Thánh Thần ở tại nguồn của cuộc
đời Đức Giêsu đến cuối đoạn văn, tác giả nhắc lại lần thứ ba rằng Giuse không
can dự gì vào cuộc chào đời của con trẻ này (1,25). Nếu ở 1,25, tác giả viết:
“Ông không ăn ở với bà, cho đến khi bà sinh một con trai, và ông đặt tên cho
con trẻ là Giêsu”, ông muốn nói rằng cho đến khi Đức Giêsu chào đời, Giuse
không hề có mộtquan hệ phu phụ nào với Maria, nhưng cũng không khẳng định rằng
sau đó Giuse đã bắt đầu có quan hệ này.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia
làm năm phần:
1) Đầu đề của đoạn
(1,18a);
2) Hoàn cảnh của Giuse
và Maria (1,18b-19);
3) Thiên Chúa can
thiệp (1,20-21);
4) Lời bình của tác
giả (1,22-23);
5) Giuse thi hành lệnh
Thiên Chúa (1,24-25).
3.- Chú giải
- chung sống (18): Synelthein, “đến
với, tham gia với”, có thể có nghĩa là quan hệ vợ chồng hoặc sống với nhau. Văn
cảnh trực tiếp dường như hợp với nghĩa thứ nhất hơn. Người thiếu nữ Do Thái
được đính hôn vào khoảng năm 12 tuổi, từ giã cha mẹ để về sống dưới sự bảo trợ
của chồng vào khoảng năm 13-14 tuổi. Sự chuyển đi này mở đầu cho cuộc sống
chung và cũng là việc kết hôn.
- người công chính (19): Giuse không công
chính theo nghĩa vâng phục lề luật, bởi vì không có khoản luật nào buộc phải bỏ
vị hôn thê bị coi là ngoại tình (Đnl 22,13-21.23-27 liên hệ đến hôn nhân hoàn
hợp; x. Đnl 24,1). Vả lại, khi bỏ Maria một cách kín đáo (lathra), ngài cũng
chẳng vâng phục lề luật, bởi vì hành vi rẫy vợ chỉ có giá trị pháp lý nếu làm
công khai (x. Đnl 22,15: tại cửa thành). Một đàng, nếu hiểu đây là “sự công
chính theo luật pháp”, chúng ta đứng trước một thế lưỡng nan. Quả vậy, nếu dưới
mắt Giuse, Maria đã ngoại tình, ngài bỏ bà là chuyện dễ hiểu, nhưng ta không
hiểu vì sao ngài lại tính bỏ bà “cách kín đáo”, bởi vì khi đó việc này sẽ không
có hiệu quả pháp lý và thật ra bí mật cũng chẳng giữ được lâu. Còn nếu Giuse
cho rằng Maria vô tội, ta không hiểu được là vì sao ngài lại nghĩ đến việc bỏ
bà, vì luật không buộc như thế; đã thế, trong tư cách là hôn phu, ngài còn có
nghĩa vụ bảo vệ hôn thê vô tội chống lại những ngờ vực vô căn cứ của kẻ khác.
Vậy không thể hiểu sự công chính của ngài theo nghĩa pháp lý.
Đây là sự công chính
tôn giáo. Chính sự công chính này buộc Giuse phải tôn trọng việc Thiên Chúa làm
nơi Maria và ngăn cản ngài nhận lấy những công trạng từ một hành động của Thiên
Chúa: tự mình, ngài nghĩ ngài không được phép đưa về nhà một người đã được
Thiên Chúa dành riêng cho Ngài. Nếu làm như thế, ngài có vẻ chiếm đoạt mộtvai
trò mà Thiên Chúa không trao cho ngài. Đứng trước mầu nhiệm này, ngài muốn rút
lui, và vì tế nhị do đức công chính đối với Thiên Chúa, ngài đã để ý không “phổ
biến” mầu nhiệm Thiên Chúa đang bao trùm Maria. Vấn đề nằm ở động từ
deigmatisai: theo Origiênê và Êusêbiô, động từ này không hề hàm chứa một ý niệm
ô nhục nào; cha Joušon dịch là “vén mở, tiết lộ”. Động từ paradeigmatisai mới
là “trừng phạt để nêu gương; làm cho ô nhục, mất danh giá”. Giuse đã phản ứng
như tất cả mọi người công chính trong Kinh Thánh khi nhận ra Thiên Chúa đang can
thiệp vào trong lịch sử của họ: như Môsê cởi dép khi đứng trước bụi gai cháy,
như ngôn sứ Isaia kinh hoàng khi thấy vị Thiên Chúa ba lần thánh xuất hiện, như
bà Êlisabét tự hỏi vì sao mẹ Đức Chúa của bà lại đến thăm bà, như viên đại đội
trưởng trên đồi Sọ, như Phêrô khi chứng kiến mẻ cá lạ lùng. Như “Aben người
công chính” (23,36: người “công chính” duy nhất được Mt nêu tên trong Tin Mừng.
Chắc chắn Aben “công chính” không do lề luật, bởi vì lề luật chỉ được ban bố
với Môsê!), Giuse cũng tỏ ra là người trung thành thờ phượng Thiên Chúa.
Cách giải thích này
được hỗ trợ bởi ngữ cảnh tổng quát của toàn ch. 1 của Mt. Trong bài đầu tiên
(1,1-17), Mt đã trình bày gia phả của Đức Giêsu khởi đi từ tổ phụ Abraham và từ
vua Đavít ngang qua Giuse. Nhưng bảng gia phả này lại gặp ngay nơi Giuse một
vấn đề hóc búa. Đó là vì Đức Giêsu không phải là con Giuse theo xác thịt. Vậy
mục tiêu của đoạn văn này là để giải thích làm thế nào Đức Giêsu có thể thuộc
về dòng dõi vua Đavít, nếu Người không phải là con của Giuse. Lời giải thích
nằm ở việc Giuse nhìn nhận Đức Giêsu làm con về pháp lý. Mục tiêu của bản văn
Tin Mừng này, thay vì bảo vệ việc thụ thai đồng trinh, thì tìm các xác định do
đâu Đức Giêsu có thể trở thành hậu duệ vua Đavít và Đấng Mêsia thuộc dòng tộc
vua Đavít cho dù có việc trinh thai. Vậy hai phần của ch. 1 của Mt làm thành
hai cánh của cùng một việc chứng minh.
Một hỗ trợ khác nữa
đến từ chính những lời của thiên thần (cc. 20-21): “Này ông Giuse là con cháu
vua Đavít, đừng ngại đón bà Maria vợ ông về, vì quả thật (HL. gar: car certes;
for, indeed, certainly) điều được sinh thành (to gennêthen = đứa con) nơi bà là
việc của Thánh Thần, nhưng (HL. de) bà sẽ sinh một con trai và ông phải đặt tên
cho con trẻ là Giêsu; vì (gar) chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của
họ”. Dịch gar là “quả thật” (chắc chắn) là chuyện thông thường vào thời ấy (x.
1 Cr 9,10; 2 Tx 2,20; Mt 18,7; 22,14; 24,6…). Vậy khi nói như thế, thiên thần
giả thiết Giuse đã biết chuyện thụ thai đồng trinh và chính chuyện này đã thúc
đẩy ngài rút lui, vì thấy Thiên Chúa can thiệp vào cuộc đời Maria. Tuy nhiên,
Thiên Chúa đã truyền cho ngài “dù sao” (“nhưng”) cũng cứ chấp nhận và đặt tên
cho con, và khi đó, ngài đưa con tháp nhập vào trong dòng dõi vua Đavít.
- thiên thần Chúa (20): Như trong Cựu
Ước, thuật ngữ này được dùng để nói tới sự can thiệp của Thiên Chúa (x. St
16,7.13; Xh 3,2), chứ không có nghĩa là một trong các “thiên thần".
- Giêsu (21): Trong Kinh
Thánh, tên người còn chỉ chức năng Thiên Chúa quy định cho một người trong Lịch
sử cứu độ. Iêsous là dạng Hy Lạp của tên Híp-ri Yehôshua (x. Xh 24,13) hoặc
Yeshua (Nkm 7,7), có nghĩa là “Yhwh là sự cứu độ”, “Yhwh ban ơn cứu độ”, “Yhwh
cứu độ”, “Ơn cứu độ của Yhwh”.
- Này đây, Trinh nữ sẽ
thụ thai (23): Tác giả trích Is 7,14 theo Bản LXX, bởi vì trong bản này
có từ parthenos, “trinh nữ”, chứ trong bản Híp-ri, ta đọc là almah, “thiếu nữ”,
có thể là một thiếu nữ hoặc một người vợ trẻ. Cũng vì dựa trên Is 7,14, Do Thái
giáo Paléttina không chờ đợi Đấng Mêsia được sinh ra bởi một trinh nữ, nhưng
chờ đợi Người là một con đầu lòng (x. Lc 2,7).
- Emmanuel (Hp. Immanuel): Tác
giả không nêu ra một tên mới của Đấng Mêsia, mà nêu lên ý nghĩa của bản thân và
công trình của Người. Is 7,14 và 8,8 cũng không nhấn mạnh đến sự hiện diện của
Thiên Chúa, vì điều này được giả thiết có trong Kinh Thánh, nhưng nhấn mạnh đến
sự diện diện năng động của Ngài để cứu giúp. Như thế, nơi Đức Giêsu, Thiên Chúa
hiện diện giữa dân Ngài để trợ giúp và cứu độ họ. Lời hứa long trọng của Đức
Kitô vinh hiển (“Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”, 28,20) cho thấy
lời loan báo ấy đã được thực hiện hoàn hảo. TM Mt mở ra và kết thúc với ý tưởng
này: nơi bản thân Đức Giêsu, Thiên Chúa sẵn sàng đến hiện diện năng động, tích
cực, với loài người.
- ông không … cho đến
khi… (25): Câu này hoàn toàn đúng với c. 23 cho thấy rằng Maria là
trinh nữ khi sinh con. Câu “ông không biết (= ăn ở với) bà, cho đến khi bà sinh
một con trai” không chống lại việc sau đó Maria vẫn đồng trinh, cũng không ám
chỉ điều này, mà cũng không cho phép kết luận rằng sau đó bà đã có những quan
hệ vợ chồng với Giuse. Đàng khác, chúng ta ghi nhớ rằng mẫu tính đồng trinh của
Đức Maria không có nghĩa sinh học, mà diễn tả niềm tin của Giáo Hội vào thần
tính và nhân tính của Đức Giêsu.
4.- Ý nghĩa của bản
văn
* Đầu đề của đoạn
(18a)
Với đầu đề (18a), tác
giả Mt ngỏ lời với độc giả để xác định hoặc điều chỉnh cách thức họ hình dung
cuộc chào đời của Đức Giêsu.
Đức Giêsu không phải
là con của Giuse, nhưng là tạo thành của Chúa Thánh Thần. Nơi Người, lịch sử
Israel đi đến chỗ hoàn tất, nhưng Người không phải là hoa trái tự nhiên hoặc
kết quả thiết yếu của lịch sử này. Người không lệ thuộc vào và không chỉ xuất
thân từ mộtchuỗi các thế hệ và những cuộc sinh hạ con người. Người là sự hoàn
tất, nhưng là như mộtkhởi đầu hoàn toàn mới. Khởi đầu cuộc sống của Người là do
Chúa Thánh Thần, khởi đầu này trực tiếp gắn với hoạt động của quyền lực sáng
tạo của Thiên Chúa. Thiên Chúa gồm tóm nơi Người toàn thể lịch sử Israel, đồng
thời thiết lập mộtkhởi đầu mới mang tính sáng tạo. Không phải là loài người đã
ban tặng Đức Giêsu cho nhau; Người là khởi đầu và là quà tặng hoàn toàn đến từ
Thiên Chúa. Đó là nguồn gốc của Đức Giêsu (1,18), và nguồn gốc này cho thấy bản
tính và ý nghĩa của đời Người.
* Hoàn cảnh của Giuse
và Maria (18b-19)
Tuy thuộc nguồn gốc
thần linh, Đức Giêsu lại được liên kết với lịch sử Israel. Mẹ Người là Maria đã
đính hôn với Giuse, nhưng chưa về sống trong nhà Giuse. Theo luật lệ Do Thái,
với lễ đính hôn, hai người nam nữ đã được coi là vợ chồng rồi. Vì thế, Giuse
được gọi là chồng của Maria (1,16.19), còn Maria thì được gọi là vợ của Giuse
(1,20.24). Chỉ mộtnăm hay mộtnăm rưỡi sau lễ đính hôn, vị hôn thê mới được đưa
về nhà vị hôn phu và bắt đầu cuộc sống vợ chồng. Ở đây, tác giả Mt cũng không
cung cấp một thông tin nào đặc biệt về Giuse và Maria, ngài nói về hai đấng như
những nhân vật rất quen thuộc với độc giả. Vậy mục tiêu của ngài không phải là
cung cấp tài liệu, mà là huấn giáo. Trong thời gian giữa lễ đính hôn và cuộc
chuyển về nhà chồng, Giuse nhận ra rằng Maria đã có thai. Đọc c. 18b cách bình
thản, ta thấy dường như tác giả gợi ý rằng Giuse có biết việc Maria mang thai
là do sự can thiệp của Chúa Thánh Thần. Giuse quyết định bỏ Maria kín đáo vì tế
nhị đối với sự can thiệp của Thiên Chúa nơi Maria.
* Thiên Chúa can thiệp
(20-21)
Giuse đang toan tính
như thế trong lòng, thì được Thiên Chúa can thiệp qua việc mộtthiên sứ đến báo
mộng để khẳng định với ngài là quả thật con trẻ sắp chào đời thuộc nguồn gốc
thần linh; nhưng ngài có nhiệm vụ đón Maria về và đặt tên cho con trẻ. Ngài
phải duy trì dây liên hệ với Maria và như thế, nhìn nhận trước luật pháp rằng
con trẻ ấy là con của ngài. Do nhiệm vụ Thiên Chúa giao, Giuse trở thành cha
của hài nhi về mặt luật pháp và cũng trước luật pháp, Giêsu trở thành con và
đương nhiên là người thừa kế của ngài. Hệ quả là Đức Giêsu được tháp nhập hợp
pháp vào gia phả của Giuse. Như thế, Đức Giêsu đi vào trong dòng dõi xuất thân
từ các vị tiền nhân ấy và trở thành đích điểm và sự hoàn tất của dòng dõi ấy.
Như vậy, tác giả Mt không nhắm thỏa mãn óc tò mò của chúng ta. Tất cả những gì
ngài muốn chúng ta hiểu là: con của bà Maria là người được Thiên Chúa hứa cho
thừa kế ngai vàng vua Đavít, như các ngôn sứ đã từng loan báo.
Còn Đức Giêsu thực
hiện vị trí và nhiệm vụ ấy như thế nào, thì chính tên của Người cho thấy, tên
mà Thiên Chúa đã chọn cho Người và Giuse phải đặt cho Người. Thiên Chúa đã đổi
tên cho người trước đây được gọi là Abram và ban cho ông tên mới là Abraham,
“vì Ta đặt ngươi làm cha của vô số dân tộc” (x. St 17,5). Sự tuyển chọn của
Thiên Chúa được diễn tả ra và xác nhận bằng việc đổi tên. Vì trao mộtnhiệm vụ
mới và với nhiệm vụ này là mộtđời sống mới, Ngài ban cho mộttên mới. Điều đó
càng đúng hơn nữa với Đức Giêsu, con cháu tổ phụ Abraham. Cùng với cuộc đời,
Người đã được Thiên Chúa ban cho ngay từ đầu tên và nhiệm vụ. Tên của Người là
Yeshua hay là Yehoshua, có nghĩa là “Thiên Chúa là sự cứu độ”; Người giải thoát
khỏi tội lỗi (1,21; x. Tv 130,8). Với nhiệm vụ này, Đức Giêsu có quyền năng
Thiên Chúa và ơn cứu độ mà Thiên Chúa ban cho ta nhờ trung gian Người. TM Mt sẽ
cho thấy Đức Giêsu là Đấng Mêsia, là Đức Vua và Vị Mục tử, Người săn sóc dân
Người và đưa họ đến sự sống viên mãn.
* Lời bình của tác giả
(22-23)
Đến đây tác giả viết
lời bình. Với biến cố này, đã thực hiện điều mà Thiên Chúa đã loan báo qua
miệng các ngôn sứ. Trong dự phóng của Ngài, chính Thiên Chúa muốn có cuộc chào
đời và hài nhi này. Khi khẳng định rằng lời Thiên Chúa được ứng nghiệm, mộtlần
nữa tác giả muốn nói rằng đàng sau biến cố này, có Thiên Chúa như là Đấng quy
định và hướng dẫn mọi sự. Khi cho biết Đức Giêsu cũng chính là “Emmanuel”,
nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”, tác giả cho biết đặc tính của biến cố
Người đến, cũng như đặc điểm của sự hiện diện và công trình của Người: nơi
Người, Thiên Chúa ở cùng chúng ta; Đức Giêsu là sự hiện diện năng động của
Thiên Chúa gần kề chúng ta; nơi Người, vị Thiên Chúa từ bi thương xót tỏ mình
ra, vị Thiên Chúa trợ giúp và cứu độ, cũng như tỏ hiện dự phóng của Ngài đối
với loài người. Nơi Người, Thiên Chúa ở cùng chúng ta và chúng ta đến được với
Thiên Chúa (x. 28,20).
* Giuse thi hành lệnh
Thiên Chúa (24-25)
Khi đã biết rõ ý Thiên
Chúa, Giuse thi hành ngay: ngài “đón vợ về nhà”. Câu văn tiếp theo cho biết là
ngài không có quan hệ phu thê với Maria, và như thế hài nhi Giêsu không phải là
con của ngài. Nhưng câu văn này cũng không hề ám chỉ là sau đó Giuse có quan hệ
vợ chồng với Maria. Với lại tác giả không quan tâm đến vấn đề này. Ông còn đang
cho thấy là Giuse thi hành chính xác lệnh Thiên Chúa truyền: “ông đặt tên cho con
trẻ là Giêsu”.
+ Kết luận
Tại hai cực của lịch
sử Lời Hứa, có hai ơn gọi hướng về nhau và hoàn tất lẫn nhau: ơn gọi của
Abraham, tổ phụ đón nhận Lời Hứa, và ơn gọi của Giuse, người đã vâng lệnh Chúa
truyền nên đã tạo điều kiện cho Lời Hứa được thực hiện, đó là biến cố Đấng
Emmanuel ngự đến. Kể từ nay, nhờ đã được Giuse đưa tháp nhập vào trong dòng dõi
vua Đavít, Đức Kitô có quan hệ trực tiếp với mỗi người con người cháu của tổ
phụ Abraham, dù họ có đông như sao trên trời không thể đếm nổi (x. St 15,5). Công
trình của Người không liên hệ đến mộtlãnh vực nào của cuộc sống loài người,
nhưng đi đến tận gốc rễ và thay đổi tương quan với Thiên Chúa. Người sẽ chiến
thắng sự bất phục tùng và thái độ nổi loạn, sẽ tha thứ tội lỗi và tái lập sự
hiệp thông vào đời sống với Thiên Chúa.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Đức Giêsu là cùng
đích và sự hoàn tất của lịch sử Israel, là như mộtkhởi đầu mới phát xuất từ
Thiên Chúa. Như thế, Thiên Chúa không bỏ mặc dân Ngài xoay xở bằng sức lực
riêng, phó mặc con người cho sức mạnh của lịch sử. Đức Giêsu là quà tặng chân
thật Thiên Chúa ban cho dân Ngài. Nơi Người, công trình cứu độ của Thiên Chúa
được hoàn tất và sự hiệp thông mật thiết nhất giữa Thiên Chúa và loài người
được thiết lập: Thiên Chúa ở cùng chúng ta.
2. Đức Giêsu là con
cháu vua Đavít, nhưng không theo nghĩa là Người có mộtquyền lực chính trị hoặc
quân sự, hoặc Người là một nhà giải phóng chính trị theo nghĩa trần thế. Người
sẽ giải thoát loài người khỏi tội lỗi, sẽ đưa con người thoát khỏi tình trạng
xa cách với Thiên Chúa và đưa họ về hiệp thông trọn vẹn với Ngài.
3. Bởi vì biết là
Thiên Chúa đang can thiệp vào cuộc đời Maria cách đặc biệt mà lại không thấy
Ngài giao phó cho mình sứ mạng gì đặc biệt, Giuse tìm cách âm thầm rút lui.
Ngài chứng tỏ ngài có mộtcảm thức sắc bén về Thiên Chúa, mộtlòng tôn trọng thẳm
sâu đối với mầu nhiệm của Thiên Chúa và mầu nhiệm thánh ý Ngài. Người Kitô hữu
được mời gọi học nơi Giuse bài học này: tôn trọng đối với các dự phóng của
Thiên Chúa nơi mình và nơi kẻ khác, nhạy bén đối với sự cao cả thẳm sâu và sự
hiện diện gần gũi của Ngài trong những biến cố lớn nhỏ thuộc cuộc sống hằng
ngày.
4. Đức Giêsu chính là
Emmanuel, “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”. Chúng ta sẽ hiểu rõ hơn khi đọc TM Mt
cho đến hết (Mt 28,20). Hôm nay Người là Emmanuel để tiếp tục hỗ trợ chúng ta
trong hành trình trần thế, trong nỗ lực loan báo Tin Mừng “cho muôn dân” và cứu
độ chúng ta bằng quyền năng của Đấng “đã được ban cho toàn quyền trên trời dưới
đất”.
39. Chú giải của Noel Quesson
Những “Tin Mừng về
tuổi thơ” là những trang Tin Mừng kỳ diệu, rất khác với các Tin Mừng khác:
Matthêu và Luca là những người duy nhất nói cho chúng ta hay, lại không phải là
những chứng nhân trực tiếp. Các ông đã sưu tập lại những kỷ niệm được lưu giữ
trong các môi trường “Do Thái – Kitô” và nhất là trong gia đinh Đức Giêsu. Và
với dữ kiện cơ bản” này, các ông đã xây dựng một Dẫn nhập thần học, có phần
giống như một nhạc sĩ soạn một “Khúc dạo đầu” mà ở đó nhạc sĩ làm cho người ta
nghe thấy những chủ đề chính mà ông muốn khai triển tiếp theo. Dưới vẻ bề ngoài
thô thiển và vụn vặ, đó là những văn bản phong phú những giáo lý sâu sắc, dĩ
nhiên được viết sau khi Đức Giêsu sống lại và cần phải đọc “trong đức tin”.
Điều ấy không có ý nói rằng, “tính nhân bản không có trái lại là khác”.
Matthêu, khác Luca, không
tập trung tuổi thơ của Đức Giêsu và Đức Maria, nhưng vào Giuse: 1. Giả phả Đức
Giêsu, theo dòng dõi Giuse; 2. Loan báo việc sinh Đức Giêsu cho Giuse, và chấp
nhận vai trò của mình: chồng Đức Maria và cha pháp lý của Đức Giêsu; 3. Việc
thờ phụng của các nhà chiêm tinh và vai trò chủ chốt của Giuse bảo đảm an toàn
hài nhi khi trốn sang Ai Cập; 4. Trở về Na-da-rét, theo lệnh của một thiên thần
luôn luôn nói với Giuse (Mt 1,1 - 2,23).
Chúa nhật này trước lễ
Giáng sinh. Giáo Hội đề nghị chúng ta nghe tin loan báo cho Giuse.
Đây là gốc tích (“khởi
nguyên”) của Đức Giêsu Kitô.
Nói “khởi nguyên” là
nói đến “bắt đầu”. Đó là tiếng trang trọng lớn lao của khởi đầu thế giới, trong
sách đầu tiên của Kinh Thánh.
Đối với người Sê-mít,
quan niệm “nhân vị” như một cái toàn thể, vữa có tính thể xác và linh thiêng,
khác với những người Hy Lạp, coi “nhân vị” trước hết như một linh hồn, thực tại
linh thiêng, nhập thể vào trong một thân xác Đức Giêsu Kitô “bắt đầu” ở chính
khoảnh khắc mà người nhập thân vào “lịh sử con người”, vào biến cố này, vào
tình huống mà Đức Gìêsu sinh ra.
Bà Maria, Mẹ Đức Giêsu
đã thành hôn với ông Giuse.
A, tất cả mọi người
đều tin là biết lịch sử về con người của Giuse. Một con người trở thành đề tài
để giễu cợt trong trại lính và trong xưởng thợ. Người ta đã đặt thành những bài
hát dân gian diễu cợt con người ngây thơ và nạn nhân này; ông Giuse đáng
thương! không phải thế sao? Nhất thế là chế nhạo Tin Mừng và không biết tí gì
về cặp Maria và Giuse. Cặp này chắc chắn là cặp hạnh phúc nhất trong suốt lịch
sử. Người mà, trong tất cả các cặp được thành hình từ khi tạo thành thế giới,
được mang dấu ấn một lịch sử phổ quát! Cặp này cũng là cặp ‘phong nhiêu nhất
trong các cặp’. Ban đầu, tình hình của họ thế nào: hai thanh niên ở giữa tuổi
15 và 20, đính hôn với nhau, vì cùng có một dự tính kỳ diệu là thành vợ chồng.
Bạn hãy nhớ đến cuộc đính hôn của các bạn! Cái thời hạnh phúc đó. Hãy, nhìn các
bạn trẻ đang lui tới với nhau và xây dựng ý định lứa đôi.
Nhưng trước khi ông bà
về chung sống, Bà đã có thai do quyền năng của Chúa Thánh Thần, ông Giuse,
chồng bà là người công chính là không muốn tố giác bà nên mới định tâm bỏ bà
cách kín đáo.
Đây là chặng thứ hai:
“dự tính tan vỡ”; khủng hoảng chuyện đôi lứa, khi Giuse thấy người đính hôn của
mình mang thai. Tất cả mọi giấc mơ đầu bị phá tan. Có lẽ ta không thể hiểu được
nỗi đau đớn tinh thần dày vò còn bị che khuất đằng sau đoạn Tin Mừng vắn tắt
này? Ở giai đoạn tình huống này, Giuse quyết định không cưới Maria nữa. Và
quyết định này là quyết định của người đàn ông công chính.”
Người ta đưa ra nhiều
cách giải thích về sự công chính này của Giuse. Thánh Justin nghĩ rằng Giuse
công chính bởi vì người muốn áp dụng Luật (Đnl 22,23). Điều kỳ lạ và có vẻ
không đúng là người ta đã có thể nghĩ đến một sự nghi ngờ tội ngoại tình, mà
Luật Môsê đòi phải phạt. Thánh Giêrôm, chính người lại kết luận rằng Giuse
“công chính bởi vì ông muốn bỏ bà Maria một cách kín đáo”. Nhưng cũng ở chính
đó, có phải là điều công chính khi bỏ mặc cho số phận một người vợ mà người ta
nhìn nhận là vô tội ư? Giải pháp thỏa đáng duy nhất cho vấn đề này chính là
điều mà bản văn đã gợi ra. Quả thế, ngay trước lúc diễn tả cuộc tranh chấp tâm
lý của Giuse, thì Matthêu, một cách rất rõ ràng, giả định là người ta có biết
việc “thụ thai mà còn trinh nguyên một con trẻ”; thụ thai bởi tác động của
Thánh Thần.
Do đó có lẽ chính Đức
Maria đã tiết lộ tâm sự với người mình đính hôn (hay đúng hơn, mẹ của Đức Maria
theo tập quán Phương Đông). Và Giuse, sau khi suy nghĩ bằng những phương tiện
nhân loại của mình, sau khi đã hiểu rằng con trẻ này do Chúa, mà đến, ông không
muốn đòi hỏi về quyền hành đối với đứa con không phải là của mình; ông nhận ra
‘quyền làm cha’ của Thiên Chúa. Và ông nghĩ rằng, chính ông Giuse, không được
con như cha của đứa con đó. Thế là ông quyết định từ khước ý định lứa đôi của
mình. Cũng như Abraham, hy sinh cho Thiên Chúa, Giuse là “người công chính”,
ông quyết định hy sinh mình.
Ông đang toan tính như
vậy thì kìa sứ thần Chúa hiện đến báo mộng cho ông rằng: “Này ông Giuse, con
cháu Đavít. đừng ngại đón bà Maria vợ ông về...
Như thế chính Thiên
Chúa can thiệp để thay đổi dự tính của Giuse. Để nhấn mạnh đến khía cạnh “tôn
giáo”, thần linh”, của quyết định mới mà Giuse có, Matthêu để cho mạc khải” của
mình chảy theo “thể loại văn chương” thoáng thấy của việc “loan báo theo ngôn
ngữ quen thuộc Kinh Thánh, Chúa dựng ở đây sự can thiệp của “Thiên Thần của
Chúa”, và của “giấc chiêm bao” loan tin.
Thường đó là vấn đề về
các giấc chiêm bao trong Kinh Thánh và đặc biệt trong cuộc đời của Giuse (Mt
1,20; 2,13.22).
Giuse, một anh thợ tầm
thường, ở đây được gọi lên một cách trang trọng là “con nhà Đavít”. Chính là
với danh nghĩa “dòng dõi của hoàng gia” Do Thái, mà Thiên Chúa yêu cầu ông thay
đổi ý định và nhận Maria làm vợ mình. Ông đã quyết định' “bỏ” nàng' và như thế
khước từ làm cha đứa bé mà Maria mang thai... Tình hình cũng đúng như đại tổ
phụ trong đức tin, Abraham tin điều đó, khi ông chấp nhận hy sinh con trai
Ixaác của mình, thì ông xem con trai mình như một “của lễ của Thiên Chúa” (St
22). Với Giuse, người vừa khước từ một đứa con trai, cũng thế. “Thiên Thần của
Thiên Chúa đòi ông đón nhận đứa con trai theo cách khác: Người phải nhận đứa
con như một “của lễ”, trong đức tin. Đứa con mà ông đã khước từ theo xác thịt,
thì ông lại nhận đứa con đó như “con của lời hứa” (Gl 4,2-28).
Chắc chắn người con bà
cưu mang là do quyền năng của Chúa Thánh Thần. Bà sẽ sinh con trai, và ông phải
đặt tên con trẻ.
Câu văn bằng tiếng Hy
Lạp được xây dựng trên sự đối lập mà chúng ta đã nhấn mạnh; bộ phận đầu tiên
của câu nói bắt đầu bằng “gar”, có nghĩa là “quả thế, chắc chắn”. Bộ phận thứ
hai của câu nói bắt đầu “dé”, có nghĩa là “nhưng, tuy nhiên”.
Vì thế thiên thần
không báo cho Giuse biết việc thụ thai đứa con còn trinh nguyên, mà ông đã
biết. Nhưng thiên thần yêu cầu ông, mặc dù ông đã biết, là thay đổi quyết định
của ông. Không những Giuse không biết mình đi như ông tính làm, nhưng trái lại,
Thiên Chúa cần ông. Thiên Chúa giao cho Giuse hai vai trò: 1. nhận lấy Maria về
nhà mình; 2. đặt tên cho con trẻ. Trong ngôn ngữ Kinh Thánh, theo thói quen
sêmít, điều ấy có nghĩa rõ ràng là “nhận lấy quyền làm cha pháp lý” cho đứa
con. Người ta hiểu tại sao Giuse đã được chào kính với danh hiệu: Con Đavít.
Chính do dòng họ Giuse mà Đức Giêsu lại trở nên con của Đavít, để hoàn thành tất
cả mọi lời hứa của Thiên Chúa” (Mt 1,1 - 9,27 - 12,28: 20,23 - 21,9).
Đối với ai hiểu văn
bản này một cách sâu xa, như đa chép, Giuse không hề thuộc về thứ nhân vật xanh
xao và thụ động mà người ta dã làm biến dạng một cách sai lầm Đó là một “người
công chính” thực sự. Một người can đảm thực sự đã thay đổi quyết định mà mmh đã
có với tất cả lòng thành. Một người tin tưởng vào người đã đòi mình một “lòng
tin”, vào nhịp độ của biến cố khủng khiếp sắp xảy ra. Và ta hãy thêm, “một
người chồng” hoàn toàn hiệp thông với lòng tin của người vợ mình. Ngày nay, tâm
lý học hiện đại nhấn mạnh đến khái niệm “đôi lứa”, “đồng trách nhiệm”. Bất chấp
tất cả những cái bề ngoài hờ hợ mà người ta có thể dừng lại, than ôi. Maria và
Giuse sống, một cách vượt hẳn thường lệ, một cuộc sống đôi lứa kết hợp một cách
phi thường: họ “đối thoại” ở mức độ sâu xa nhất, bằng cách mỗi người đi tìm ý
của Thiên Chúa, và bằng cách chấp nhận cùng một thái độ; phải vượt qua những
cái nhìn nhân loại đơn giản, để có thể tin tưởng vào một tương lai mà Thiên
Chúa mở ra trước mắt họ. Và còn điều này, bất chấp “cơn khủng hoảng”, một lúc
nào đó một chuyện không thể tiên liệu được đã tạo ra giữa họ. Như vậy trong
cuộc sống chúng ta, có thể xảy ra một tình huống bắt buộc,bất ngờ, mà khi đó
dường như Thiên Chúa đến phá vỡ những dự tính của chúng ta, tức là, trong thực
tế, kêu gọi ta tiếp nhận ý chí mới của Thiên Chúa. Nhưng đó là trong đêm tối
đức tin; như trong một giấc chiêm bao ban đêm.
Ông phải đặt tên cho
con trẻ là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ. Tất cả
sự việc này đã xảy ra, là để ứng nghiệm lời xưa kia Chúa phán qua miệng ngôn
sứ: Nây đây, Trinh nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên
con trẻ là Emmanuen, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta.
Hai từ này là cả một
nền thần học: Thiên Chúa cứu độ Thiên Chúa ở cùng chúng ta... Giuse, lúc này,
chỉ muốn có tên thứ nhất, “Giêsu-Thiên-Chúa-cứu-độ”. Và chính Đức Giêsu Phục
sinh sẽ đảm nhận tên thứ hai hàm nghĩa Sê-mít ở cuối sách Tin Mừng: “Còn tôi,
tôi ở với các ông mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20). Con trẻ mà tôi sắp mừng
lễ ngày Giáng sinh, con trẻ ấy có đúng là Giêsu kia không? Tôi có đón nhận
người như Đấng giải thoát tôi khỏi tội lỗi của tôi không? Tôi có đón nhận dấu
chỉ nhiệm tích của người không?
Khi tỉnh giấc, ông
Giuse làm như sứ thần Chúa dậy và đón vợ về nhà, ông không ăn ở với bà cho đến
khi bà sinh một con trai, và ông đặt tên cho con trẻ là Giêsu.
Cuối cùng bây giờ,
chúng ta tìm thấy lại cái dự tính đôi lứa muốn hình thành lúc đầu câu truyện (“Maria
thuận cưới Giuse”); dự tính này, trong khoảnh khắc bị tan vỡ do tình huống đã
gây ra khủng hoảng, và bây giờ thành hình (nhưng khác hẳn với dự kiến (“không
có quan hệ vợ chồng”), ông ấy chẳng hề biết bà ấy”). Bản văn có một sự sáng tỏ
làm lóa mắt, giống như tất cả những gì thuộc về thần linh: Giuse. nhờ quyết
định của Thiên Chúa được đồng thuận tự do trong đức tin, đón nhận một chức năng
làm cha đích thực mà không có quan hệ xác thịt. Tôi tưởng tượng thấy điều đó,
sung sướng, hồ hởi. Tất cả chuyện đó là huyền nhiệm, như Thiên Chúa là huyền
nhiệm, cũng như “Phục sinh”, như “Thánh Thể” đều là huyền nhiệm.
Thiên Chúa làm người
và ở giữa chúng ta, Chúa đã nhập thể làm người để con người làm con Thiên Chúa.
Đây là một ân huệ cao qúy mà Chúa đã dành cho loài thụ tạo chúng ta. Ngài chính
là Emanuel, Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Ngài còn tự đồng hoá mình trong những
mảnh đời bất hạnh mà chúng ta gặp gỡ bên đường.
Người ta kể rằng: có
một người đạo đức thánh thiện kia, đêm ngày hằng ao ước được tiếp đón Chúa một
lần trong đời. Với ước nguyện chân thành, Thiên Chúa đã nói với ông qua giấc
ngủ: "ngày mai Ta sẽ đến viếng thăm ông". Thế là ông đã bắt đầu một
ngày mới tràn đầy niềm vui vì nỗi niềm khát khao của mình sắp được toại nguyện.
Ông chuẩn bị phòng ốc sạch sẽ, chuẩn bị tiệc tùng thiết đãi Chúa và ra tận
ngoài cổng để đón tiếp Chúa. Thế rồi khi ánh bình minh xuất hiện ông thấy một
lão ăn xin, rách rưới tả tơi đến xin ông chút cơm bánh lót dạ, ông đã vô tình
xua đuổi vì ông đang nóng lòng chờ đợi vị thượng khách. Rồi tiếp sau là một
người lữ hành, nỡ đường nỡ bước đang cần sự nâng đỡ của ông, nhưng ông vẫn từ
chối. Và khi bóng chiều đã ngả sau lưng đồi ông lại thấy một phụ nữ ốm yếu,
bệnh tật đến nương nhờ ông đã làm ngơ trước lời van xin. Cuối cùng, đêm về ông
trách Chúa, tại sao không đến thăm ông như đúng lời đã hứa. Chúa đã nói với
ông: "Hôm nay, Ta đã đến với ngươi ba lần nhưng đều bị ngươi khước
từ".
Vâng, Chúa đã đến và ở
giữa nhân loại đã được các tiên tri loan báo qua mọi thời đại, đến nỗi một nhà
thơ đã từng thốt lên: "Giêsu - Giêsu không bỗng dưng mà có - Cả pho Cựu
ước còn đó - Trăn trở bao đời mới sinh hạ Giêsu". Và khi thời gian đến hồi
viên mãn, ngài đã hạ sinh làm người và ở giữa chúng ta. Ngài không tự nhốt mình
trong một cung điện nguy nga, tráng lệ, nhưng sinh ra giữa đám dân nghèo cùng
cực, Ngài ở giữa chúng ta để chia sẻ cảnh đời tha hương khốn cùng nhất của nhân
loại là "sinh vô gia cư - chết vô địa táng". Ngài ở giữa nhân trần để
chia sẻ cảnh đời vốn dĩ vô thường và lắm nổi trôi, con cáo có hang, chim trời
có tổ, nhưng chính Ngài lại không có nơi gối đầu". Ngài ở giữa chúng ta để
trao ban tình yêu của mình cho những người bất hạnh vì ốm đau, bệnh tật, bị
ngược đãi, bị bỏ rơi. Ngài còn dành một tình yêu đặc biệt cho những người tội
lỗi là những người thu thuế và gái điếm, vì sứ mệnh của Ngài đến trần gian là
để cứu vớt những gì đã mất.
Kính thưa qúy ông bà
và anh chị em,
Lời báo mộng của thiên
sứ với thánh Giuse dường như vẫn vang vọng nơi tâm hồn chúng ta, Thiên Chúa làm
người và ở giữa chúng ta, ngài đang hiện diện nơi những người nghèo đói, tật
nguyện, nơi những người bất hạnh, bị ngược đãi, bị bỏ rơi, Ngài đang cần chúng
ta gạt ra ngoài những toan tính trần thế, những nghi nan, khó khăn để mạnh dạn
và quảng đại đón nhận những anh em hèn yếu, đói khổ đang cần sự trợ giúp của
chúng ta. Vâng chính Ngài đã đồng hoá mình với tất cả những người khốn khó đó,
vì chính Ngài đã nói: "Hỡi những kẻ được Cha Ta chúc phúc hãy vào hưởng
Nước Trời là gia nghiệp đã dành sẵn cho các người, vì khi xưa Ta đói, Ta khát,
Ta trần truồng, bị bỏ rơi, tù đầy, ngược đãi các ngươi đã cho ăn cho uống và
tiếp rước.
Song le, Chúa Giêsu
cũng đang cần chúng ta trở nên dấu chỉ cho sự hiện diện của Chúa giữa thế giới
hôm nay. Nếu ngày xưa, Chúa Giêsu đã cần sự cộng tác của thánh Giuse để ngài có
một vị trí trong xã hội, được sinh ra trong một gia đình, một dòng tộc vua
Davít, thì ngày nay, Ngài cũng cần sự cộng tác của chúng ta để Ngài lại tiếp
tục sinh ra giữa dòng đời hôm nay. Nơi nào có sự hiện diện của Chúa nơi đó có
yêu thương, nơi nào có sự hiện diện của Chúa nơi đó có an bình hạnh phúc. Thực
vậy, con người ngày nay đang cố gắng bon chen để dành cho mình có lắm của nhiều
tiền, có một địa vị cao trong xã hội đến nỗi sẵn sàng chà đạp lên anh em mình,
bất chấp lề luật của Chúa nên chính họ luôn mất bình an và làm cho cuộc sống
chung quanh trở nên nặng nề vì nghi kỵ, ghen tương và hận thù.
Hôm nay, Chúa vẫn tha
thiết mời gọi chúng ta hãy để cho Chúa được tiếp tục hiện diện trong cuộc đời
chúng ta, và trong môi trường sống quanh ta. Hãy để cho Chúa làm chủ cuộc sống
của mình bằng việc tuân hành thánh ý Chúa, đừng sợ những nghi nan, những khó
khăn khi phải tuân theo thánh ý Chúa, vì chính Chúa sẽ tháo gỡ những nghi nan
và ban ơn bình an cho những ai thành tâm thiện chí sống theo lời Ngài. Noi
gương thánh Giuse, mỗi người chúng ta hãy biết đón nhận Chúa vào trong cuộc đời
mình và qua đời sống tuân hành thánh ý Chúa, chúng ta gieo vãi niềm vui và sự
an bình của Chúa cho anh chị em chung quanh. Ước gì trong mùa giáng sinh năm
nay, lời cầu chúc Emmanuel không chỉ là Thiên Chúa ở cùng chúng ta mà ở cùng
anh chị em chung quanh chúng ta. Xin Chúa Giêsu là Đấng Emmanul luôn hiện diện
sống động trong cuộc đời của từng người chúng ta, xin Ngài ban tràn đầy niềm
vui ân thánh trong ngày mừng Chúa giáng sinh. Amen.
41. Emmanuel Thiên Chúa ở cùng
chúng ta
(Suy niệm của Lm.
Ignatiô Trần Ngà)
Việc đặt tên cho con
là việc quan trọng đối với các đôi vợ chồng. Khi có con sắp chào đời, hai vợ
chồng bàn bạc với nhau để chọn cho con mình một cái tên thật ý nghĩa, thật đẹp,
thật hay.
Qua việc đặt tên, cha
mẹ gửi gắm ước vọng của mình vào đó. Tỷ như khi đặt tên cho con là Phúc, Đức,
Tài, Lộc… cha mẹ cầu mong cho con mình sau nầy đạt được những điều tốt đẹp y như
tên gọi của các em.
Trích đoạn Tin Mừng
theo thánh Matthêu trong Chúa Nhật thứ tư mùa Vọng nầy đề cập đến tên gọi mà
Thiên Chúa Cha đã chọn cho Ngôi Lời nhập thể trước khi Người đầu thai trong
lòng Mẹ Maria. Tên gọi nầy đã được ngôn sứ I-sai-a tiên báo từ hơn bảy trăm năm
trước: “Này đây, Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi
tên con trẻ là Em-ma-nu-en, nghĩa là "Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta."
(Mt 18,23)
Đây là một tên gọi
thật ý nghĩa; tên gọi nầy nói lên ước vọng của Thiên Chúa là muốn ở mãi với
loài người khắp mọi nơi, suốt mọi thời cho đến tận cùng thời gian.
Đức cha Gaillot có
nhận định rất hay: “Sống rộng lượng là tốt, nhưng sống-với tốt hơn; công việc
từ thiện là cần thiết, nhưng hiện-diện-bên-cạnh cần thiết hơn.”
Đúng thế, dù chúng ta
có rộng lượng với người nghèo khổ bao nhiêu cũng không bằng đến sống-với họ,
chia sẻ buồn vui cay đắng với họ. Dù chúng ta có làm bao nhiêu việc từ thiện để
giúp cho người đau khổ cũng không bằng đến hiện-diện-bên-cạnh họ trong những
lúc đau thương.
Vì yêu thương loài
người quá đỗi nên Thiên Chúa muốn sống-với con người, muốn hiện-diện-bên-cạnh
con người mọi lúc mọi nơi. Danh hiệu Em-ma-mu-en gói trọn ước vọng của Thiên
Chúa muốn ở mãi với loài người.
Ước vọng nầy cũng được
Chúa Giêsu khẳng định lại khi Người sắp từ giã các môn đệ: “Thầy sẽ ở cùng các
con mọi ngày cho đến tận thế.” (Mt 28,20)
Để thực hiện ước muốn
ở với loài người, Ngôi Hai Thiên Chúa đã vượt qua khoảng cách gần như vô tận
giữa trời và đất để ở cùng chúng ta, đã mang thiên tính cao cả của Thiên Chúa
hòa chung với nhân tính hèn yếu của con người, để chia sẻ thân phận đau thương
của kiếp người.
Ngay cả khi Chúa Giêsu
được Chúa Cha vinh thăng trên các tầng trời, chấm dứt sự hiện diện hữu hình bị
giới hạn bởi không gian và thời gian ở trên mặt đất, thì Người vẫn tiếp tục
hiện diện cách thiêng liêng trong tâm hồn của các tín hữu và trong Hội Thánh.
- Chúa Giêsu tiếp tục
ở với chúng ta qua Lời của Người: chính Thiên Chúa ngỏ lời với ta khi Giáo Hội
công bố Lời Chúa.
- Chúa Giêsu tiếp tục
ở với chúng ta khi chúng ta họp nhau nhân danh Người: “Khi có hai ba người họp
lại nhân danh Thầy, Thầy sẽ ở giữa những người đó.”
Chúa Giêsu cùng với
Chúa Cha và Thánh Thần thường xuyên cư ngụ trong lòng những kẻ yêu mến và tuân
giữ Lời Người: "Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến
người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy.” (Ga 14,23)
Thế nhưng bấy nhiêu
cũng chưa thoả lòng yêu thương nên Chúa Giêsu còn lập nên bí tích Thánh Thể,
hiện diện thực sự dưới hình bánh rượu để cho chúng ta được rước Chúa vào lòng,
để chúng ta được trở nên đồng huyết nhục với Chúa, được sống trong Chúa và Chúa
sống trong chúng ta.
Nguyện vọng tha thiết
nhất của Thiên Chúa là ở với loài người mọi ngày cho đến tận thế. Và điều đau
lòng nhất của Thiên Chúa là bị nhân loại từ khước như thánh Gioan nhận định
trong Tin Mừng thứ tư. “Người ở giữa thế gian, và thế gian đã nhờ Người mà có,
nhưng lại không nhận biết Người. Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng
chịu đón nhận.” (Ga 1, 10-11)
Mỗi ngày, chúng ta
đang giáp mặt với nhiều hạng người, kẻ xa, người gần, đang đến với chúng ta. Họ
là hiện thân của Đức Em-ma-nu-en. Ước gì chúng ta biết mở rộng trái tim để đón
tiếp Người và dành cho Người một chỗ đứng quan trọng trong lòng chúng ta.
42. Truyền tin cho ông Giuse
(Suy niệm của Lm.
Giuse Dương Hữu Tình)
Chúng ta đã bước vào
Chúa nhật cuối cùng của Mùa Vọng. Ở Chúa nhật này, Giáo hội mong muốn chúng ta
thực sự chuẩn bị tâm hồn xứng đáng cho Đại Lễ Giáng Sinh sắp tới. Bởi thế, Giáo
hội đưa ra tấm gương rất tiêu biểu như là khuôn mẫu cho một tâm hồn được chuẩn
bị sẵn cho Con Thiên Chúa giáng trần. Khác Chúa nhật năm B và C, Giáo hội đưa
ra khuôn mẫu là Mẹ Maria. Chúa nhật IV Mùa Vọng năm A này, Giáo hội muốn chúng
ta hướng lòng về một khuôn mặt đặc biệt khác, đó là Thánh Giuse với biến cố
được gọi là “Truyền tin cho ông Giuse”.
Vẻn vẹn chỉ 8 câu Phúc
Âm ngắn gọn mà đã toát lên gần như trọn vẹn khuôn mặt mẫu mực và rất đáng yêu
của Thánh Giuse. Chuyện bắt đầu từ việc Mẹ Maria mang thai mà Thánh Giuse không
hay biết gì về nguồn gốc. Thánh Giuse thấy thế thế định bỏ Mẹ Maria, nhưng Ngài
được giải thích qua giấc mộng. Thế là Thánh Giuse không bỏ Đức Mẹ nữa mà đón Mẹ
về nhà mình. Chuyện chỉ có thế thôi nhưng qua sự kiện này, nhân đức của Thánh
Giuse được dịp tỏa sáng. Tỏa sáng như thế nào? Thánh sử Matthêu đã trả lời cho
chúng ta khi ngài nói về Thánh Giuse một cách rất ngắn gọn: “Ông Giuse, chồng
bà, là người công chính”. Nếu không phải là một người công chính, thì sự việc
đã xảy ra khác nhiều. Nếu không phải là người công chính thì không ai có thể
biết số phận con trẻ trong lòng Mẹ Maria sẽ ra sao? nếu không phải là người
công chính thì chương trình cứu độ của Thiên Chúa làm sao có thể tiếp tục một
cách tốt đẹp?
Thánh Giuse là người
công chính, nên đã định tâm bỏ Đức Mẹ. Ông định bỏ Đức Mẹ ít là vì hai lý do
này: trước hết vì là người chồng, nên ngài hiểu vợ mình: “Ông Giuse, chồng
bà”. Thánh Giuse hiểu Đức Maria hơn ai hết, nên ngài tin Đức Mẹ. Ngài biết thai
nhi trong lòng mẹ do một quyền năng siêu nhiên nào đấy can thiệp và dường như
càng lúc ngài càng cảm thấy Quyền năng ấy choáng ngập vợ mình, dành riêng vợ
mình cho một sứ mạng lớn lao khác. Là một người đạo đức, công chính, ông lặng
lẽ rút lui.
Lý do thứ hai: chính
vì là một người công chính, Thánh Giuse sớm nhận ra đâu là dấu vết của Thiên Chúa và đâu
là dấu vết của tà thần. Đó là tâm trạng chung của những tâm hồn đạo đức thánh
thiện. Càng đạo đức bao nhiêu thì càng dễ phân biệt đâu là thánh đâu là tà,
càng công chính bao nhiêu thì càng bén nhậy trước thánh ý Thiên Chúa bấy nhiêu.
Vì thế, Thánh Giuse sớm nhận ra bàn tay vô hình của Thiên Chúa đang can thiệp
vợ mình. Phản ứng của ông cũng giống tâm trạng của những người công chính trong
Cựu Ước, đó là rút lui. Ông sợ không dám tiết lộ với ai, cũng không dám nhận
một người như thế làm vợ, ông âm thầm bỏ đi.
Chính lúc đó, Thiên
Chúa can thiệp. Ngài cho Thánh Giuse hiểu rằng Ngài muốn dùng cả bản thân Thánh
Giuse cho chương trình vĩ đại của Ngài.
Thánh Giuse quả là một
con người vĩ đại. Ngài sớm nhận ra ngay chương trình của Chúa, ông “làm như sứ
thần Chúa dạy và đón vợ về nhà mình”.
Thiên Chúa luôn có sẵn
chương trình của Ngài và chương trình nào cũng vì yêu và làm đẹp cho con người.
Đáng tiếc ngày nay người công chính ít quá, nên công trình của Chúa bị hỏng
nhiều.
Lạy Chúa, xin soi cho
con biết ý Chúa trong cuộc đời con và xin cho con đủ sức để mau mắn thi hành.
43. Thiên Chúa ở cùng chúng ta
(Suy niệm của Phanxico
Xavie)
Cô đơn là đe dọa lớn
nhất đối với hạnh phúc. Người cô đơn không tìm thấy lời đáp cho các vấn nạn của
đời mình. Họ trở thành người bất hạnh, tuyệt vọng, vì luôn phải đối diện với
cái phi lý. Emmanuel, Đấng ở cùng chúng ta sẽ cứu chúng ta khỏi nỗi niềm cô đơn
tuyệt vọng ấy, vì Chúa đến trần gian này để chia sẻ với chúng ta thân phận làm
người. Chính niềm tin ở Chúa, Đấng đến với chúng ta qua Đức Giêsu Kitô, sẽ cứu
chúng ta khỏi cuộc sống vô nghĩa. Thiên Chúa sẵn sàng can thiệp khi chúng ta
hoang mang trong tăm tối nếu chúng ta có lòng trông cậy vào Người.
Thời vua Akhaz trị vì
Giu-đa cũng vậy, bị tranh chấp trong nội bộ vương quốc, bị đe dọa bởi các nước
láng giềng. Vua Akhaz nghĩ đến việc nhờ ngoại binh giúp đỡ. Tiên tri Isaia
khuyên ông không nên làm thế. Ông tin vào hòa ước với người Assyri hơn là tin
vào Thiên Chúa. Đống thời ông tiếp tục đường lối tội lỗi, lập nhiều đền thờ tà
thần. Nhưng Chúa vẫn đến như lời tiên tri Isaia đã loan báo. Để bảo đảm lời
khuyên của mình, cũng như để củng cố niềm tin cho nhà vua và dân chúng, một lần
nữa nhà tiên tri thúc giục vua Akhaz đặt niềm tín thác vào Thiên Chúa hơn là
dựa vào sức mạnh liên minh quân sự. Đức tin mà ngôn sứ Isaia đòi hỏi, bao hàm
một sự tín nhiệm tuyệt đối vào Thiên Chúa. Nhưng ông vẫn không nghe và sai sứ
ra ngoại quốc xin viện binh. Vì không nghe theo lời khuyên khôn ngoan của nhà
tiên tri, vua Akhaz sẽ bị trừng phạt và vương quốc của ông bị tàn phá. Nhưng vì
lòng thương xót, qua Tiên tri Isaia Thiên Chúa đã cho ông một dấu chỉ nói lên ý
muốn của Người sẽ hiện diện giữa dân và cứu thoát họ. Đức Chúa ban cho vua
Akhaz một dấu hiệu: từ dòng dõi ông, một người con sẽ chào đời, chính người con
này sẽ giúp giải thoát dân. Sự long trọng của lời sấm cũng như cái tên biểu
tượng Emmanuel (Thiên Chúa ở cùng chúng ta) đặt cho con trẻ, làm cho người ta
thấy trong cuộc sinh hạ này một điều gì khác hơn nữa. Đó là sự can thiệp của
Thiên Chúa để thiết lập hẳn một triều đại Messia. Người con này là Ezêkia, một
vị vua tuyệt vời. Ông là hình ảnh của Đấng Messia và mẹ ông là hình ảnh của Đức
Trinh Nữ Maria. Đây là những dấu chỉ để hướng tới việc chuẩn bị chờ đón Chúa
Cứu Thế là Đức Giêsu Kitô - Đấng Emmanuel đích thực.
Trong trình thuật của
bài Tin Mừng Mt 1, 18-24, Matthêu trích dẫn lời Tiên tri Isaia ngày trước nhằm
minh chứng Chúa Giêsu đã nhập thể trong cung lòng Trinh Nữ Maria để thực hiện
lời hứa mà Thiên Chúa đã hứa qua miệng Tiên tri Isaia với vua Akhaz. Đoạn Tin
Mừng cho thấy vai trò cao trọng của Thánh Giuse được chọn làm cha Chúa Giêsu
theo luật pháp. Đồng thời cho chúng ta biết, Con Một Thiên Chúa đã nhập thể
trong cung lòng Trinh Nữ Maria nhờ quyền năng Chúa Thánh Thần.
Sự công chính của
thánh Giuse trong bài Tin Mừng không thể hiểu đơn giản là sự công chính theo lề
luật, mà là sự công chính mang ý nghĩa tôn giáo, đó là vì Ngài biết tôn trọng
công trình của Thiên Chúa nơi Đức Maria và vâng nghe thánh ý Người. Mặc dù đã
âm thầm từ chối coi mình là cha đứa trẻ mà Chúa không ủy thác. Nhưng sau khi
được Thiên sứ báo mộng, biết ý định của Thiên Chúa mời gọi tham dự vào chương
trình của Ngài. Thánh Giuse không từ chối, mà trỗi đậy thực hiện lệnh truyền
của Thiên Chúa. Chính hành động này làm cho thánh Giuse trở thành người cộng
tác tích cực trong công trình cứu độ của Thiên Chúa, và nên người công chính.
Giuse đã đón nhận Chúa Giêsu. Đến lượt mỗi người chúng ta cũng phải biết lắng
nghe và đón Chúa đến trong cuộc đời, trong gia đình mình.
Thiên Chúa đến ở với
chúng ta chính vì yêu thương và ban tặng hạnh phúc cho nhân loại. Ở đâu có
Thiên Chúa, ở đó có bình an, hoan lạc và tình yêu. Nhưng để cảm nghiệm được sự
hiện diện của Thiên Chúa mang lại niềm vui và hạnh phúc không phải là điều dễ
dàng. Cần phải có niềm tin, phải chuyên cần cầu nguyện và nhất là cần phải gắn
bó với Chúa luôn trong Bí tích Thánh Thể.
(Suy niệm của Lm. An
Phong)
Ngày lễ Giáng sinh đã
gần kề, phụng vụ cũng nhắc nhở chúng ta thái độ quan trọng để Chúa có thể đến
trong cuộc đời mình: tuân theo Thánh Ý Chúa.
Trong bài đọc 1, sách
Isaia kể cho chúng ta việc vua xứ Giuđa là Achaz đang phải đối diện với các
cuộc xâm lăng của các nước phương Bắc. Ông không trông cậy vào Chúa mà chỉ nghĩ
đến việc cầu cạnh các nước khác. Ông lập đền thờ quấy và còn thiêu sinh cả con
mình làm lễ tế. Ngôn sứ Isaia được Chúa sai đến nói với Achaz hãy tin tưởng vào
Chúa và cho ông xin một dấu chỉ, dù trên trời hay dưới đất. Achaz không dám xin
vì sợ nếu có dấu chỉ của Chúa thì sẽ phải bỏ hết những mưu tính của mình; nên
giở giọng đạo đức để nói: “Tôi đâu dám thử Chúa.”
Dù vậy, Chúa cũng ban
cho Achaz một dấu chỉ: “một trinh nữ sẽ thụ thai và sinh hạ con trai”.
Ngược lại, Tin mừng
Matthêu thuật lại cuộc “truyền tin” cho Giuse. Giuse cũng có chương trình và
cách thức giải quyết cuộc đời của mình. Nhưng trước lời Thiên thần, Giuse đã
sẵn sàng từ bỏ chương trình của mình để thực thi chương trình của Chúa; “Giuse
làm như Thiên thần Chúa dạy”.
Chúa đến, Ngài làm đảo
lộn cuộc sống và trở nên cớ vấp phạm cho những người không dám tin vào Ngài.
Thánh ý của Chúa khác với chương trình của con người, nhưng cứu độ con người.
Những ai tin tưởng, trông cậy và yêu mến Ngài thì mới có thể nhận ra “dấu chỉ” của Ngài, dấu chỉ của
tình thương giáng thế: “Bà sẽ sinh con trai và ông phải đặt tên cho con trẻ là
Giêsu, vì chính Người sẽ cứu dân mình khỏi tội”.
Chúa đã đến thật gần
trong cuộc đời chúng ta. Ngài cũng đang tỏ bày những dấu chỉ nói lên Thánh Ý
của Ngài qua những sự việc xung quanh ta. Ngài ước mong chúng ta nhận ra tình
thương đang giáng thế và tin tưởng vào ơn cứu độ của Ngài.
Chúng ta có dám tin
vào chương trình của Chúa trong cuộc đời ta không?
Lạy Chúa Giêsu !
Chúa đã không quản
ngại quãng đường “xa xôi” từ trời đến trần gian. Chúa đã không chịu thua sự
cứng lòng của con người muốn loại Chúa khỏi cuộc sống. Chúa đã hạ mình lãnh
nhận những hậu quả của tội lỗi con người đổ xuống trên đầu. Chúa đã không chê
chối trần gian tầm thường tệ bạc.
Lạy Chúa Giêsu là Chúa
của con ! Ngài đến với con trong tình yêu thương bao la, ẩn giấu trong tấm bánh
nhỏ bé này.
Lạy Chúa Giêsu, Con
cũng tin rằng Chúa không ngại ngùng trước cuộc đời của con. Con cũng tin rằng
Chúa không chịu thua sự cứng lòng của con. Con cũng tin rằng Chúa không chê
chối tâm hồn tầm thường của con.
Xin Chúa đến và đến
hàng ngày trong tâm hồn con.
(Suy niệm của Lm Giuse
Nguyễn Minh Chánh)
Mùa vọng là thời gian
để chúng ta chuẩn bị tâm hồn đón mừng mầu nhiệm Ngôi Hai Thiên Chúa xuống thế
làm người. Trong thời gian này, Giáo Hội đã cho chúng ta chiêm ngưỡng những mẫu
gương sống động của các nhân vật trong Kinh thánh như: Tiên tri Isaia, Gioan
tẩy giả, cũng như qua cách sống và những tâm tình của các ngài trao gởi lại,
thì đó cũng là những bài học rất quý giá để chúng ta sống tốt đẹp hơn trong
thời gian mùa vọng.
Thật thiếu sót, nếu
chúng ta không kể đến Mẹ Maria trong thời gian mong đợi Con Chúa giáng trần.
Bởi vì Mẹ Maria cũng đã từng sống tâm tình mùa vọng như bao người khác. Thế
nhưng, hơn ai hết, kinh nghiệm sống tâm tình mùa vọng nơi Mẹ Maria vẫn luôn là
tiếng gọi thúc giục lòng ta hãy thành tâm chiêm ngưỡng cách sống mùa vọng nơi
Mẹ. Nhờ vậy chúng ta sẽ có những tâm tình xứng hợp trong khi chúng ta hướng về
ngày Chúa đến trong trần gian.
1/ Mẹ Maria sống tâm
tình mùa vọng bằng đời sống thánh thiện:
Vì ý thức Đấng Thiên
Sai muôn dân mong đợi là Đấng thánh, nên thời gian sống tâm tình mong đợi con
Thiên Chúa nơi Mẹ Maria, đã được dệt bằng những chuỗi ngày vô tận của sự thánh
thiện
Mẹ sống thánh thiện,
vì Mẹ xác tín những tâm hồn thánh thiện là những tâm hồn sẽ được đón nhận niềm
vui ơn cứu độ cách tròn đầy.
Mẹ sống thánh thiện,
vì Mẹ xác tín những tâm hồn thánh thiện là những tâm hồn luôn làm đẹp lòng Chúa
là Đấng Thánh. Và Ngài rất vui khi được hiện diện với những tâm hồn như thế.
Về điểm này, chúng ta
hãy suy nghĩ lại những hành động của Chúa Giêsu khi Ngài tiến về Giêrusalem để
thực hiện cuộc thanh tẩy Đền thờ. Vì phía sau hành động thanh tẩy Đền thờ
Giêrusalem, Chúa Giêsu muốn nhắc nhở chúng ta phải tự thanh tẩy đền thờ tâm hồn
chính mình, nhờ vậy Thiên Chúa là Đấng thánh mới vui thích ngự trong những tâm
hồn trong sạch như Ngài.
Hơn ai hết, cách sống
tâm tình mùa vọng của Mẹ Maria đã để lại dấu ấn không thể ngờ và không thể phai
mờ.
Không thể ngờ vì qua
sự chuẩn bi tích cực để mong đợi Đấng Cứu Độ nơi Đức Maria, Thiên Chúa đã đoái
nhìn đến cách sống thành tâm tuyệt vời ấy. Vì thế, một điều bất ngờ xảy ra nơi
Mẹ là Thiên Chúa đã tuyển chọn Mẹ, Người Nữ Thánh Thiện được làm Mẹ Đấng Cứu
Thế, Thiên Chúa đã chọn cung lòng thanh khiết của Mẹ để trao gởi Người Con Yêu
Dấu của Ngài là Đấng Thánh, và qua trung gian Mẹ Maria Thiên Chúa đã trao ban
Đấng Cứu Độ cho loài người. Đó là một điều bất ngờ đối với Mẹ Maria. Thế nhưng,
qua sự bất ngờ này thì Mẹ Maria đã thể hiện một dấu ấn không thể phai mờ. Vì từ
giây phút bất ngờ khi được Con Thiên Chúa nhập thể trong cung lòng mình, cũng
từ giây phút ấy, Mẹ Maria đã khiêm tốn chỉ cho chúng ta con đường để chúng ta
gặp Chúa, để Chúa đến với chúng ta. Con đường Mẹ chỉ dạy chúng ta đó là hãy trở
lại kinh nghiệm của chuỗi ngày vô tận sống thánh thiện nơi Mẹ. Vì chuỗi ngày
thời gian sống thánh thiện của Mẹ, đã hình thành nên bài thánh ca muôn thuở để
mời gọi mọi người hãy can đảm sống tâm tình mùa vọng bằng đời sống thánh thiện
như Mẹ Maria, Trinh Nữ Thánh Thiện
2/ Mẹ Maria sống tâm
tình mùa vọng bằng đời sống khiêm nhường:
Khiêm nhường là cách
sống Mẹ rất ưa thích. Mẹ thích sống khiêm nhường, bởi vì nhờ những tâm tình ấy
mà Mẹ thật sự trở nên một người con bé nhỏ của Thiên Chúa, luôn phó thác cuộc
đời mình cho Thiên Chúa, luôn sống theo những gì Chúa đã dạy.
Vì Mẹ thích sống khiệm
nhường, nên Mẹ sẵn sàng thưa hai tiếng xin vâng ý Chúa trong ngày truyền tin,
để từ giây phút ấy mẹ đã trở nên Thánh mẫu của Đấng Tối Cao.
Vì Mẹ thích sống khiệm
nhường, nên Mẹ sẵn sàng thi hành lời Chúa dạy trong mọi hoàn cảnh của cuộc
sống: Lúc vui, lúc buồn, lúc bối rối, lúc lo sợ, lúc an bình...... Nhờ việc hạ
mình sống theo Lời Chúa mà Mẹ Maria được gọi là người có phúc. Mẹ có phúc vì Mẹ
là người luôn "lắng nghe và tuân giữ Lời Thiên Chúa" ( Lc11,28).
Vì Mẹ thích sống khiêm
nhường, nên Thiên Chúa đã chọn Mẹ làm Mẹ Đấng Cứu Thế. Đấng vốn dĩ là Thiên
Chúa, nhưng đã khiêm nhường tự hạ mang lấy thân phận con người, và trong thân
phận con người Ngài đã mang lấy thân phận nô lệ để phục vụ sự sống cho muôn
người.
Vì Mẹ thích sống khiêm
nhường, nên qua đời sống gương mẫu tuyệt vời ấy, Mẹ muốn nhắc nhở chúng ta:
Thiên Chúa là Đấng khiêm nhường, Ngài rất thích những ai sống khiêm nhường. Chỉ
có những tâm hồn sống khiêm nhường như Chúa mới có thể gặp được Chúa và được
Chúa đến viếng thăm cư ngụ trong tâm hồn người ấy. Vì Thiên Chúa bản chất là
khiêm nhường, nên Ngài không bao giờ đến với những ai kiêu căng, cậy dựa chức
quyền, cậy dựa vào sức mạnh của trần thế để bôi nhọ hình ảnh tốt đẹp của Thiên
Chúa là Đấng hiền lành và khiêm nhường. Về điềm này chính Mẹ Maria đã nhắc nhở
cũng như đã cảnh cáo những ai sống ngược lại với cách sống khiêm nhường của
Chúa, khi Mẹ nói: "Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh, dẹp tan phường lòng
trí kiêu căng. Chúa hạ bệ những ai quyền thế, người nâng cao mọi kẻ khiêm
nhường" (Lc1, 51-52).
Hôm nay chúng ta bước
vào Chúa nhật cuối cùng của mùa vọng. Thiết nghĩ, muốn thay đổi cách sống để
cùng với Mẹ Maria sống những tâm tình mùa vọng còn lại cũng chưa phải là muộn.
Vì đối với Chúa, những cố gắng quyết tâm chân thành sống phút giây hiện tại,
cũng có thể biến chuyển đời sống chúng ta trong tương lai.
Hơn nữa, sống tâm tình
mùa vọng không chỉ dừng lại bời thời gian được ấn định trong năm phụng vu.
Nhưng tâm tình hướng về Con Thiên Chúa đến trần gian, đến trong cõi lòng chúng
ta phải được thực hiện trong từng phút giây của nhịp sống.
Như vậy, khi khám phá
hình ảnh sống mùa vọng nơi Đức Maria qua đời sống thánh thiện và khiêm tốn, thì
đó cũng là lúc Mẹ chỉ cho chúng ta con đường hoàn hảo nhất, đẹp lòng Chúa nhất
để Chúa đến với chúng ta.
Nếu chúng ta thật lòng
sống thánh thiện như Mẹ mà không bị giằng co bởi những thú vui giả tạo mau qua
của thế gian, chắc chắn đó là con đường hoàn hảo nhất để Chúa là Đấng Thánh
giáng sinh trong cõi lòng chúng ta.
Nếu như chúng ta thật
lòng sống khiêm nhường như Mẹ trong mọi hoàn cảnh, mà không lo sợ phải thiệt
thòi bởi những thứ ham muốn của sức mạnh trần thế, chắc chắn đó là con đường
đẹp lòng Chúa nhất để Chúa giáng sinh trong cõi lòng chúng ta.
Lạy Mẹ Maria! Ước gì
những tâm tình sống mùa vọng nơi Mẹ sẽ là hành trang luôn đồng hành trong cách
sống đức tin chúng con. Nhờ đó chúng con cũng được đón nhận nguồn ơn cứu độ như
Mẹ. Lạy Mẹ Maria, xin cho niềm vui giáng sinh sắp đến được khơi dậy bằng ước
muốn sống thánh thiện và khiêm nhường trong từng phút giây hiện tại của đời
sống chúng con.
"Tỉnh giấc, Giuse
đã làm như thiên thần Chúa truyền cho ông, và ông đã rước vợ về nhà."
Hôm nay là Chúa Nhật
cuối cùng trong mùa Vọng trước khi chúng ta long trọng đón mừng lễ Chúa Giáng
Sinh. Lần lượt trong ba tuần vừa qua, Giáo hội mời gọi chúng ta phải tỉnh thức
sẵn sàng, phải ăn năn hối cải và phải nhìn nhận Chúa Giêsu là Đấng Thiên Sai,
Đấng duy nhất đem lại ơn cứu độ mà nhân loại hằng mong đợi. Trong Tin mừng hôm
nay, Giáo hội đặt trước mắt chúng ta gương mẫu tuyệt vời của một con người đã
biết sẵn sàng đón nhận Chúa Cứu thế vào cuộc đời mình. Đó là thánh Giuse - cha
nuôi Chúa Giêsu và phu quân Đức Maria.
Chúng ta biết thánh
Giuse không phải là người đầu tiên nhận biết việc nhập thể của Chúa Giêsu và
đón tiếp Người vào đời. Người đầu tiên được diễm phúc độc nhất vô nhị ấy chính
là Mẹ Maria, khi Mẹ nói tiếng "Xin vâng" để đáp lời truyền tin của
Tổng lãnh Thiên thần Gabriel và trở nên Mẹ, Chúa Cứu Thế, như đã được thánh
Luca thuật lại (Lc 1:26-38). Việc Mẹ Maria thụ thai Chúa Giêsu cách nhiệm lạ
cũng đã được ngôn sứ Isaia báo trước, như chúng ta được nghe trong bài đọc Cựu
Ước và bài Phúc âm của phụng vụ hôm nay. "Này, nữ trinh sẽ thụ thai và
sinh con và người ta sẽ gọi tên ngài là Emmanuel, dịch được là Thiên Chúa ở
cùng chúng tôi" (Is 7:14 & Mt 1:23)
Là người đầu tiên đón
nhận Tin mừng Chúa nhập thể và cũng là người cưu mang Chúa Cứu Thế, Đức Mẹ đồng
thời đã trở thành người chứa đựng chính nguồn ơn cứu độ, nguồn hy vọng cho toàn
thể nhân loại qua mọi thời đại. Chúa Giêsu còn được gọi là Emmanuel - Thiên
Chúa ở cùng chúng tôi. Và người được Thiên Chúa ở cùng trước tiên và trên hết
chính là Mẹ Maria. Chỉ qua Mẹ Maria và nhờ Mẹ Maria, nhân loại mới được đón
nhận Chúa Cứu Thế.
Đây chính là thánh ý
Chúa để thực hiện chương trình cứu độ Người dành cho nhân loại từ đời đời.
Và thánh Giuse đã là
người được Thiên Chúa ưu ái tuyển chọn làm bạn trăm năm của Đức Maria và được
Chúa mạc khải cho biết thánh ý nhiệm lạ này, như Chúa đã chọn Đức Maria để mạc
khải cho biết việc nhập thể của Chúa Giêsu.
Thánh Giuse đã chú tâm
lắng nghe và mau mắn thực hiện thánh ý Chúa qua lời thiên sứ nói ngài với một
lòng tin yêu vâng phục tuyệt vời đối với Thiên Chúa, cũng hệt như thái độ
"Xin vâng" của Mẹ Maria trong biến cố truyền tin.
Sự việc này đã được
thánh Matthêô thuật lại trong Tin mừng hôm nay: "Tỉnh giấc, Giuse đã làm như
thiên thần Chúa truyền cho ông, và ông đã rước vợ về nhà." (Mt 1:24)
Những lời này cho thấy
là liền sau Mẹ Maria, thánh Giuse đã xứng đáng được gọi là người môn đệ tuyệt
hảo nhất của Chúa Giêsu. Vì cũng như Mẹ Maria, ngài là người đã mau mắn lắng
nghe và thực thi Lời Chúa trong mọi việc. Đồng thời, cũng như người môn đệ Chúa
yêu sau này sẽ vui nhận Đức Maria làm Mẹ và hân hoan đưa Mẹ về nhà mình sau khi
nghe lời trối của Chúa Giêsu lúc Người hấp hối trên thánh giá (Ga 19:27), Thánh
Giuse ở đây - ngay khi Chúa Giêsu còn ngự ttong lòng đồng trinh của Mẹ Maria -
đã vui nhận Đức Maria làm Bạn Trăm Năm và đưa Người về nhà sau khi được thiên
thần phán bảo trong giấc mơ (Mt 1:24).
Như thế, nơi thánh
Giuse cũng như nơi người môn đệ Chúa yêu - biểu tượng của tất cả những môn đệ
đích thực của Chúa Kitô qua mọi thời đại - việc nhìn nhận Chúa Giêsu là Đấng
Cứu Thế bao gồm việc đón nhận và tích cực thực thi thánh ý và chương trình yêu
thương của Thiên Chúa được bày tỏ cho mình. Thánh ý ấy bao gồm việc bước vào
liên hệ yêu thương thân mật với Đức Maria-Mẹ Chúa Giêsu-và đưa Người về nhà
mình, nghĩa là đưa Mẹ Maria vào trong mọi chiều kích của cuộc sống của mình.
Vì Mẹ Maria là Người
đẹp lòng Chúa hơn tất cả mọi tạo vật và đã được diễm phúc cưu mang và sinh hạ
chính Ngôi Lời của Chúa, Mẹ sẽ giúp tất cả chúng ta biết cách sống đẹp lòng
Chúa, biết cách đón nhận Chúa vào tâm hồn mình, nhất là biết lắng nghe và thực
thi Lời Chúa, nếu chúng ta biết noi gương thánh Giuse trong Tin Mừng hôm nay
tiếp nhận Mẹ về nhà mình.
Thánh Louis Maria
Montfort và nhiều vị đại thánh khác trong Giáo hội cho rằng sở dĩ ngày nay
nhiều người chưa nhận biết và yêu mến Chúa cách xứng hợp là vì họ chưa nhận
biết và yêu mến Mẹ Maria đúng như ý Chúa muốn. Như Chúa đã dùng Mẹ Maria để đến
với chúng ta, Người cũng muốn chúng ta nhờ Mẹ Maria để đến với Người.
Vì vậy, để dọn mình
cách tốt đẹp nhất mừng đại lễ Chúa Giáng Sinh cũng như để sống trọn vẹn ơn gọi
Kitô hữu của mình, chúng ta hãy noi gương thánh Giuse mau mắn từ bỏ mọi bối rối
nghi nan về sự cần thiết phải đón nhận Mẹ Maria vào cuộc sống tâm linh của
mình. Rồi cùng với thánh Giuse, chúng ta hãy nỗ lực tích cực thực hiện thánh ý
và chương trình tình yêu Chúa dành cho chúng ta từ đời đời bằng cách bước vào
liên hệ yêu thương mật thiết với Mẹ Maria để nhờ Mẹ, với Mẹ, trong Mẹ và vì Mẹ,
chúng ta sẽ đón nhận và yêu mến Chúa Giêsu.
Lạy Mẹ Maria, nay đã
gần đến đại lễ Chúa Giáng Sinh. Chúng con khao khát được Chúa Giêsu ngự vào tâm
hồn chúng con như xưa Chúa đã ngự vào lòng Mẹ và ngự nơi máng cỏ Bêlem. Nhưng như
Mẹ biết đó, tâm hồn chúng con thật nhơ nhớp vì biết bao tội lỗi và chật hẹp vì
còn chứa đựng bao sự phù vân. Chúng con không thể tự mình dọn cho Chúa một chỗ
xứng đáng trong tâm hồn chúng con. Vì vậy, chúng con xin noi gương thánh Giuse
rước Mẹ vào nhà linh hồn chúng con, để chính Mẹ sẽ giúp biến đổi tâm hồn chúng
con nên giống tâm hồn Mẹ. Nhờ vậy, Chúa Giêsu sẽ sung sướng ngự vào lòng chúng
con như Người đã sung sướng ngự vào lòng Mẹ năm xưa. Vậy giờ đây, xin Mẹ hãy
đến và ở cùng chúng con trong mọi nơi mọi lúc của cuộc đời chúng con. Amen.