CÁC BÀI SUY NIỆM
LỄ ĐỨC MARIA, MẸ THIÊN CHÚA
Ds 6,22-27; Gl 4,4-7; Lc 2,16-21
MỤC LỤC
1. Nữ Vương Hoà Bình
2. Mẹ Thiên Chúa
3. Thánh Ý Thiên Chúa.
4. Mẹ Thiên Chúa - Gm. Arthur Tonne
5. Tại sao lại ‘Mẹ Thiên Chúa’?
6. Mẹ Thiên Chúa.
7. Mẹ Thiên Chúa – Mẹ chúng ta – Anmai
8. Lễ Mẹ Thiên Chúa
9. Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con
10. "Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời"
11. Thinh lặng và lắng nghe
12. Mẹ Thiên Chúa
13. Mẹ Thiên Chúa.
14. Nữ Vương Hòa Bình
15. Mẹ Thiên Chúa.
16. Hãy cho trẻ em một tương lai hoà bình.
17. Nhân loại mới – ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
18. Suy niệm của ĐTGM. Ngô Quang Kiệt.
19. Nhân loại mới – ĐTGM. Giuse Ngơ Quang Kiệt
20. Nữ Vương Hoà Bình
21. Lễ Mẹ Thiên Chúa
22. Đức Maria Mẹ Thiên Chúa.
23. “Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời”
24. Thân Mẫu Của Vua Hòa Bình - Yvon Daigneault
25. Tuyệt vời – Lm. Đỗ Vân Lực
26. Nữ Vương Hòa Bình
27. Nữ Vương Hòa Bình
28. Đức Maria Mẹ Thiên Chúa.
29. Suy niệm của Lm. Munachi Ezeogu
30. Mẹ tất cả mọi người - Lm. Mark Link
31. Là mẹ và là khuôn mẫu - Mark Link
32. Mẹ mẫu gương – Lm Micae Vũ An Lộc
33. Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa.
34. Hồng ân
35. Mẹ Thiên Chúa – Lm. Cao Thế Bình.
36. Chú giải của Noel Quesson
o Sứ điệp Hòa Bình 2017
o Ngày cầu cho thế giới hòa bình
o Con đường dẫn đến hòa bình
o Ngày Thế giới Hòa Bình
o Tình Mẹ
o Tâm Tình Hòa Bình (Lễ Ðức Maria Mẹ Thiên Chúa)
o Tình Mẫu Tử (Lễ Mẹ Thiên Chúa)
o Năm mới, bước khởi đầu
o Sinh hạ một thế giới mới
o Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời
o Nữ Vương Hoà Bình
o Nữ Vương Hoà Bình 01
o Mẹ Thiên Chúa
o Mẹ Thiên Chúa 01
o Mẹ Thiên Chúa 02
o Nhân loại mới
o Maria, Mẹ Thiên Chúa
o Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa
o Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa 01
o Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa 02
o Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa 03
o Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa 04
o Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa 05
o Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa 06
o Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa 07
o Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa 08
o Ghi nhớ và suy niệm
o Maria - Đức Mẹ Chúa Trời
o Maria Mẹ Thiên Chúa
o Mẹ là Mẹ Thiên Chúa
o Danh hiệu Mẹ Thiên Chúa
o Hãy đến với Mẹ
o Khi đến thời điểm ấn định
o Mẹ Thiên Chúa và Mẹ tôi
o Mẹ là Hiền Mẫu của chúng ta
o Mẹ Đấng Tối Cao
o Phẩm chức cao cả của Mẹ
o Một phát minh đẹp nhất
o Con Chúa sinh bởi Người Nữ
o Tín thác nơi Mẹ
1. Nữ Vương Hoà Bình
Có thể nói, mùa Giáng
Sinh cũng là mùa kính Đức Mẹ. Đặc biệt ngày đầu năm Dương lịch hôm nay, phụng
vụ muốn tôn kính Đức Maria với tước hiệu là Mẹ Thiên Chúa. Và từ năm 1968 Đức
Giáo Hoàng Phaolô VI lại dành ngày 1 tháng Giêng nầy để cầu nguyện cho hoà bình
thế giới.
Đất nước chúng ta đã
thoát khỏi những năm chiến tranh. Nhưng chúng ta vẫn còn có nhiệm vụ phải suy
nghĩ về hoà bình. Bởi vì hoà bình không phải chỉ là chấm dứt chiến tranh. Hoà
bình còn là xây dựng bình đẳng, ấm no, thịnh vượng, hạnh phúc nữa. Phần tích
cực có thể nói gồm nhiều mặt hơn phần tiêu cực. Vả lại, hết chiến tranh cũng
chưa phải là đã hết những hậu quả của chiến tranh là những thương tích, những
đổ vỡ về vật chất và tinh thần. Chúng ta phải cải tạo cái cũ, xây dựng cái mới.
Hoà bình hạnh phúc phải là hơi thở của mọi người trên thế giới. Vậy chúng ta
đóng góp được gì?
Hãy suy nghĩ về hoà
bình như Đức Maria hằng suy đi nghĩ lại trong lòng. Ngài suy nghĩ về danh
“Giêsu”, có nghĩa là cứu thế. Danh đó phải được kêu cầu trên con cái loài người,
để phúc lộc được đổ xuống trên các dân và phước lộc phong phú cụ thể là chính
Thánh Thần mà Thiên Chúa muốn đổ xuống lòng mọi người, để khi chúng ta gọi Chúa
là Cha thì chúng ta Thấy mình là anh em với nhau, để sống hòa thuận yêu thương
nhau, sống vì hạnh phúc của anh em mình.
Yêu hòa bình thì phải
xây dựng công bằng, bác ái, phải kiến tạo bình đẳng, ấm no, thịnh vượng, hạnh
phúc. hòa bình đòi hỏi phải phấn đấu, phải đấu tranh, để tiêu diệt cái xấu và
phát triển cái tốt. Rất nhiều công tác cụ thể đang ở tầm tay mỗi người chúng
ta. Hết thảy chúng ta hãy tích cực, để không chỉ nói hoà bình, nhưng muốn xây
dựng hoà bình. Trong ngày cấu nguyện cho Hoà Bình Thế Giới hôm nay và cũng là
ngày lễ kính Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa, chúng ta xin Đức Maria là Nữ Vương Hoà
Bình ban cho bản thân chúng ta, cho gia đình chúng ta, cũng như cho cộng đoàn
giáo xứ, nền hoà bình của Chúa Kitô – Hoà bình mà Đấng Cứu Thế, Con của Mẹ
Maria đã đem xuống trần gian cho loài người trong đêm Giáng Sinh, để chúng ta
biết sống hoà thuận yêu thương nhau, đoàn kết xây dựng hoà bình trên quê hương
đất nước và trên toàn thế giới.
2. Mẹ Thiên Chúa
Tước hiệu Đức Maria Mẹ
Thiên Chúa là một tước hiệu đã có từ lâu đời trong Giáo Hội. Đây là một tước
hiệu xứng hợp ơn mọi tước hiệu khi nói về Đức Trinh Nữ Maria.
Vào thế kỷ V, Nestôriô
đã nổi lên chống đối tước hiệu Mẹ Thiên Chúa của Đức Maria. Theo Nestôriô, chỉ
nên gọi Maria là Mẹ của Đức Giêsu Kitô, chứ không được gọi là Mẹ Thiên Chúa.
Một cuộc xung đột lớn đã xảy ra trong Giáo Hội xoay quanh việc Ngôi Hai nhập
thể. Thế nên, vào năm 431, Hội Thánh đã triệu tập Công đồng Ephêsô dưới sự chủ
toạ của thánh Cyrillô, các nghị phụ trong công đồng này đã tuyên bố cất chức
Nestôriô và đánh đổ lạc thuyết của ông ta. Công đồng Ephêsô đã định tín Đức
Maria là Mẹ Thiên Chúa vì thực sự Mẹ đã sinh ra Con-Thiên-Chúa-làm-người.
Bắt đầu từ công đồng
Ephêsô tước hiệu Maria Mẹ Thiên Chúa đã trở thành tước hiệu chính thức của Đức
Trinh Nữ Maria. Đây là tước hiệu trổi vượt trên mọi tước hiệu mà Giáo Hội đã ca
tụng và tôn vinh Đức Trinh Nữ Maria. Thánh công đồng Vaticanô II trong Hiến chế
Tín lý về Hội Thánh đã viết: “Từ những thời xa xưa, Đức Trinh Nữ đã được tôn
kính dưới tước hiệu là Mẹ Thiên Chúa, và các tín hữu đã khẩn cầu cùng ẩn náu
dưới sự che chở của Người trong mọi cơn gian nan khốn khố”. Đức Giáo Hoàng Piô
XI đã viết khi lập thánh lễ kính trọng thể Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa ngày
11.10 nhân dịp kỷ niệm 1500 năm công đồng Ephêsô vào năm 1931: “Tín điều Mẹ
Thiên Chúa là một mối nước mầu nhiệm vô tận, đã tuôn ra mọi đặc ân cho Đức Mẹ
và nâng Người lên một địa vị cao sang tuyệt vời bên Thiên Chúa”.
Hôm nay, Giáo Hội dành
ngày đầu năm dương lịch để cầu nguyện cho thế giới hoà bình trùng vào ngày kính
trọng thể Đức Maria Mẹ Thiên Chúa như lời Đức Thánh Cha Phaolô VI đã viết trong
tông huấn Marialis Cultus, khi người dời thánh lễ kính trọng thể Mẹ Maria là Mẹ
Thiên Chúa vào ngày 01.01 mỗi năm như sau: “Vì sự trùng hợp tốt đẹp giữa ngày
01 tháng Giêng với ngày thứ tám sau lễ Giáng Sinh mà chúng tôi đã đặt ngày đó
là ngày thế giới hoà bình, mà thế giới mỗi ngày càng hưởng ứng thêm, và thành
quả của hoà bình đã phát sinh trong lòng nhiều người”.
Lạy Vua Hoà Bình mới
sinh, nhờ sự can thiệp của Nữ Vương Hoà Bình, xin ban cho nhân loại và mỗi
người chúng con sự hoà bình đích thực và ơn an bình trong mỗi tâm hồn.
Giáo Hội Công giáo có
một lòng sùng kính Mẹ Maria một cách đặc biệt. Mẹ đã được ca ngợi trong phụng
vụ với nhiều tước hiệu khác nhau. Một trong những tước hiệu tuyệt vời nhất, đó
là tước hiệu Mẹ Thiên Chúa. Tước hiệu này phát sinh từ niềm tin của Giáo Hội
nơi Chúa Giêsu, người con sinh ra từ cung lòng Mẹ, là Con Thiên Chúa làm người.
Ngài là người nhưng đồng thời cũng là Thiên Chúa.
Đoạn Tin mừng sáng hôm
nay ghi lại quang cảnh các mục đồng đã được chứng kiến tại Bêlem trong đêm Chúa
Giáng sinh. Một quang cảnh xem ra thật bình thường: Một hài nhi vấn tã đặt nằm
trong máng cỏ bên cạnh Mẹ Maria và thánh Giuse. Nhưng đoạn Tin mừng cũng gợi
lên một cái gì khác thường khiến cho Mẹ Maria đã phải ghi nhớ và suy niệm trong
lòng.
Quả thật, Tin mừng đã
nhiều lần nói đến mối quan hệ giữa Mẹ Maria và Chúa Giêsu, đồng thời nhấn mạnh
cho thấy mối quan hệ ấy không phải chỉ là mối quan hệ theo huyết thống. Đức
Maria là Mẹ của Chúa Giêsu không phải chỉ vì Mẹ đã sinh ra Chúa Giêsu tại hang
đá Bêlem, đã bú mớm và nuôi dưỡng Ngài tại Nagiarét, mà hơn thế nữa vì Mẹ chính
là người đã lắng nghe và thực hiện lời Chúa.
Trước những việc lạ
lùng Chúa đã làm và nhất là trước giáo huấn của Ngài, một người phụ nữ đã ca
tụng người mẹ đã cưu mang Ngài và đã cho Ngài bú. Nhưng Chúa Giêsu đã mời người
phụ nữ ấy đi xa hơn điều bà đang nghĩ.
Đối với Chúa Giêsu,
sợi dây thắt chặt Ngài với Đức Maria, đó chính là lòng tin, lòng mến được thể
hiện một cách cụ thể qua việc lắng nghe và thực hiện lời Chúa.
Một lần khác, có người
nhắc nhở với Chúa Giêsu là có Mẹ và anh em Ngài tới kiếm Ngài. Chúa Giêsu đã
lợi dụng dịp này để cho người ta thấy mối quan hệ Ngài chờ đợi nơi mọi người đó
chính là lòng tin, sự đồng tâm nhất trí với hành động và lời giảng dạy của
Ngài. Đối với Chúa Giêsu không có sự biệt đãi theo huyết thống, theo nhãn hiệu,
theo tước vị hay theo một tiêu chuẩn nào người ta có thể lãnh nhận một cách máy
móc.
Đã hơn một lần người
Do Thái được gọi vào cương vị là con cái Abraham, nhưng Ngài đã thẳng thắn trả
lời với họ: Cương vị ấy không hơn gì một hòn đá. Người ta cũng đã nại vào tước
vị là dân riêng của Chúa, của giao ước, nhưng Chúa Giêsu cũng đã cho thấy việc
nại vào tước vị ấy quả là uổng công. Chẳng phải vì Ngài muốn đi ngược lại với
những gì Cha Ngài đã giao ước, mà vì Ngài muốn đi vào cái cốt lõi của giao ước:
Thực hiện thánh ý của Thiên Chúa.
Mối quan hệ chính yếu
Chúa Giêsu muốn thiết lập, đó chính là mối quan hệ của việc thực thi lời Chúa,
bất luận người đó là ai, dù là người Samaria mà dân Do Thái vốn coi rẻ, cho là
hạng lai căng, lạc đạo, nhưng đã biết chăm sóc cho kẻ bị cướp đánh trọng
thương, vứt bỏ bên lề đường, hay đã cho kẻ đói có cái ăn, kẻ khát có cái uống,
kẻ trần truồng có cái mặc. Những việc làm nằm trong ý của Chúa thì người đó đã
ở trong quan hệ cứu chuộc với Chúa.
Mừng lễ Mẹ Thiên Chúa,
chúng ta cũng nhìn lại mối quan hệ của chúng ta đối với Đức Kitô. Bí tích Rửa
tội và tất cả những bí tích chúng ta lãnh nhận một cách máy móc không đủ để đặt
chúng ta vào trong quan hệ với Đức Kitô. Mang danh hiệu là người Kitô hữu, có
tên trong sổ rửa tội mà thôi chưa đủ, bởi vì chúng ta chỉ thực sự gắn bó với
Ngài khi lắng nghe và thực thi ý Chúa, bởi vì như lời Chúa đã khẳng định: Chỉ
kẻ nào làm theo thánh ý Thiên Chúa, thì mới là mẹ, là anh chị em với Ngài mà
thôi.
4. Mẹ Thiên Chúa - Gm. Arthur Tonne
Ngày 20 tháng giêng
1961 John Kennedy làm Tổng Thống thứ 35 của Hoa Kỳ. Một người Công Giáo đầu
tiên giữ chức vụ chóp bu. Trong ngày nhậm chức, có mặt tất cả dòng họ Kennedy,
cùng bà mẹ đứng một chỗ danh dự. Vào lúc John Kennedy thề nhậm chức và trở thành
Tổng Thống thì Rose Kennedy trở thành Mẹ của Tổng Thống. Khi bà sinh John vào
năm 1917, Bà đã cho đất nước Hoa kỳ một con người mà sau này làm Tổng Thống. Bà
không sinh ra một con người Tổng Thống. Nhưng thật sự và đúng là mẹ của một
Tổng Thống.
Một cách tương tự,
nhưng không y hệt như thế, chúng ta xưng tụng Đức Nữ đồng trinh là Mẹ Thiên
Chúa, Mẹ đã sinh ra Chúa Giêsu Kitô đấng vừa là Thiên Chúa vừa là Người. Đức
Maria không sinh ra Chúa là Chúa. Đức Maria cũng không phải là Chúa hay Bà
Chúa. Mẹ là một con người có hạn, được vinh dự dâng hiến bản tính nhân loại cho
Ngôi Con trong Ba Ngôi Thiên Chúa. Qua Mẹ, Đức Giêsu là một người thật và cũng
là Thiên Chúa thật. Đó là chân lý chúng ta mừng lễ hôm nay. Ngày đầu năm dương
lịch. Tại sao chúng ta công khai tung hô Maria là Mẹ Thiên Chúa ngay sát lễ
giáng sinh? Lý do rất tự nhiên khi chúng ta thăm một em bé mới sinh, dễ nhiệm
chúng ta muốn biết sức khoẻ của em, Em nặng mấy ký và em giống ai. Thế rồi bao
giờ chúng ta cũng muốn biết về sức khoẻ của người Mẹ. Cả tuần nay chúng ta ngắm
nhìn Chúa Hài Đồng trong Máng cỏ. Hôm nay chúng ta có lý do hướng về Mẹ của
Ngài.
Một lý do khác nữa:
trong ngày đầu năm, chúng ta cầu chúc cho nhau năm mới vui tươi, hạnh phúc.
Nghĩa là chúng ta hy vọng và cầu xin cho bạn bè, những người thân yêu được một
năm thánh thiện để họ biết Chúa Kitô nhiều hơn, yêu mến người nồng nàn hơn và
phụng sự người trung thành hơn như Đức Mẹ đã làm. Để được như vậy không có gì
giúp ta, hơn sự thúc đẩy và trợ giúp của Người Mẹ ấy, Chúa Giêsu và tôn kính mẹ,
Người cũng muốn chúng ta yêu và Tôn kính Mẹ của Người.
Chúng ta có thể gợi
một so sánh nữa; John Kennedy đã tham dự Thánh lễ vào buổi sáng ông nhậm chức.
Ông làm thế để cám ơn Mẹ ông. Bà đã dự Thánh lễ mỗi ngày từ khi bà kết hôn. Mẹ
Tổng Thống Kennedy đã chứng kiến cái chết rùng rợn của con bà, cũng thế Mẹ
Thiên Chúa cũng chứng kiến cảnh tượng đóng đinh ghê sợ của Con Mẹ. Cái chết của
Chúa Kitô được tái diễn trên bàn thờ này mọi ngày. Chúng ta hãy làm cho Thánh
lễ thêm quan trọng hơn trong ngày đầu năm này và bạn sẽ Thánh và hạnh phúc trọn
một năm. Hãy xin Thiên Chúa, nhờ Thánh lễ này cho bạn và những người thân yêu
của bạn sự phù giúp bạn cần, để làm cho năm nay hạnh phúc.
Bạn đặc biệt để ý tới
lời kinh nguyện Thánh Thể II “xin cho chúng con xứng đáng hưởng sự sống đời đời
cùng với Đức Trinh nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa” sau Thánh lễ bạn hãy tìm tới máng
cỏ và nhớ tới Mẹ Thiên Chúa. Mẹ sẽ thực hiện lời chúc mừng và cầu xin của tôi
cho tất cả các bạn.
Năm mới hạnh phúc cho
mọi người. Amen.
5. Tại sao lại ‘Mẹ Thiên Chúa’?
(Suy niệm của Lm.
Gioan Nguyễn Văn Ty)
Đặt ra cho mình câu
hỏi này, tôi không có ý đi vào cuộc tranh luận thần học hay tín lý đâu, đơn
giản là vì tôi luôn bị ám ảnh bởi câu khảng định của Đức Giêsu khi có người lên
tiếng ca ngợi địa vị dành cho con người nào được diễm phúc làm người mẹ sinh hạ
và dưỡng nuôi Ngài: “Đúng ra phải nói rằng: phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ
lời Thiên Chúa” (Lc 11:27-28). Và tôi vẫn thường tự hỏi: tại sao lắng nghe và
tuân giữ Lời lại quan trọng hơn cả làm Mẹ Thiên Chúa? Hơn nữa có liên quan gì
giữa hai điều này xem ra chẳng liên quan gì với nhau?
Lời Chúa trong bài Tin
Mừng mời gọi tôi trở lại chiêm ngắm cảnh hang Bê-lem, một cảnh tượng quá đơn sơ
nhưng có điều gì đó cần phải được khám phá. Trong suốt những ngày này, Maria đã
chẳng chỉ suy đi nghĩ lại trong lòng các điều đó là gì? “Đến nơi, các mục đồng
gặp bà Maria, ông Giu-se, cùng với Hài nhi đặt nằm trong máng cỏ”. Tôi nhận ra
cái diễm phúc lớn hơn hết của con người được cái đặc ân cưu mang trong lòng dạ
chín tháng, sinh hạ, rồi ôm ẵm trên tay, cho bú mớm và nuôi dưỡng Hài Nhị nhỏ
bé này chính là được trở thành nhân vật gần gũi, được chạm tới, được chiêm ngắm
trực diện hơn ai hết một Thiên Chúa làm người để cứu độ, một Thiên Chúa đang tỏ
hiện lòng từ bi thương xót của Ngài cách quá cụ thể và độc đáo. Không trách gì
mà Maria đã “hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng”.
Phải chăng khi nói
‘nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa’, Đức Giêsu đã muốn ám chỉ điều này? Lời Thiên
Chúa chắc hẳn không phải chỉ là một vài giáo điều luân lý hay một học thuyết
cao siêu nào đó (như giới luật mến Chúa yêu người chẳng hạn), mà phải là điều
mà, qua sự hiện diện trần thế trong hình hài một trẻ sơ sinh cũng như qua cái
chết thập giá, Ngài đã và đang không ngừng nói lên: Thiên Chúa yêu thương con
người! Rõ ràng là Maria đang ‘nghe’ điều này qua các diễn biến tuần tự xảy ra
tại Bê-lem, và nghe cách chăm chú với tất cả cõi lòng của một phụ nữ làm mẹ,
nghe với tất cả tâm trí của một nữ tì khiêm hạ, để khi có dịp sẽ cất lên thành
bài ca: “Thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa , Đấng cứu độ tôi… Người
đoái thương nhìn tới phận nữ tỳ hèn mọn…” (Lc 1:46-48)
Và Maria cũng đang
‘tuân giữ’, qua việc đón nhận cách trọn vẹn và tham gia cách tích cực, việc
Thiên Chúa tỏ hiện lòng thương xót cứu độ của Ngài. Đón nhận nào sâu xa và trọn
vẹn cho bằng với trọn cả tâm trì và cõi lòng: tâm trí Maria đã nhảy mừng và
lòng dạ Maria đã cưu mang; và có tham gia nào thực tế cho bằng người mẹ đã cưu
mang để đem tình thương cứu độ đó trao ban lại cho toàn thể nhân loại? Maria đã
làm được điều đó và làm cách xuất sắc hơn hết thảy mọi người trong tư thế một
người mẹ. Đức Giêsu có lẽ đã ám chỉ điều này khi Người lên tiếng: “Ai là mẹ
tôi? Ai là anh em tôi?... Ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa, người ấy là anh em
chị em tôi, là mẹ tôi” (Mc 3:31-35). Được làm Mẹ Thiên Chúa sướng và hạnh phúc
thật, nhưng với Giêsu và Maria, đó không phải là một địa vị, một đặc ân, nhưng
là một tư thế trước Tin Mừng cứu độ. Và hình như Đức Giêsu cũng muốn mỗi người
chúng ta tham gia vào cái ‘vinh dự’ đó thì phải, đơn giản là vì mỗi Kitô hữu
đều phải có một tư thế của riêng của mình trước Tin Mừng cứu độ: mỗi người đều
phải biết ‘nghe và tuân giữ’ Lời Cứu Độ của lòng thương xót theo cách thức của
mình.
Tôi biết dòng Salêdiêng
Don Bosco có tham vọng muốn các hội viên của mình phải trở thành ‘dấu chỉ và
người mang tình thương của Chúa đến cho các thanh thiếu niên’. Rõ ràng Tu Hội
muốn họ trở thành ‘mẹ’ của các trẻ bị bỏ rơi, đồng thời cũng trở thành mẹ của
Thiên Chúa nữa (theo định nghĩa ‘mẹ’ của Đức Giêsu). Có lẽ vì vậy mà nhà dòng
muốn họ cùng Mẹ Phù Hộ đồng hành trên con đường ơn gọi chăng; không phải chỉ vì
những trợ giúp đỡ nâng bên ngoài, nhưng nhất là trong nội dung của chính ơn gọi
họ: cứu vớt các thanh thiếu niên. Và nếu tôi không lầm thì theo nội dung đó,
Đức Giêsu còn muốn mọi Kitô hữu chúng ta, trong đó chắc chắn có cả tôi và bạn
nữa, cùng trở thành ‘mẹ’ của Người. Phải chăng đó là ‘ý đồ’ của Người, khi trên
thập giá Người đã trao phó nhân loại, qua đại diện là Gio-an, cho Maria và muốn
chúng ta nhận người làm mẹ mình không? “Thưa bà, đây là con của bà… Đây là mẹ
của anh!” (Ga 19:26-27)
Lạy Mẹ Maria - Mẹ
Thiên Chúa, xin hãy giúp con biết như Mẹ ‘nghe và tuân giữ’ Lời Cứu Độ đầy từ
tâm. Xin cho con khi mừng kính Mẹ dưới danh hiệu cao đẹp này, cũng được tham
gia vào nghĩa vụ trở thành ‘mẹ của Đức Kitô’ cho những ai chưa được biết tới
tình yêu thương của Chúa. Và cũng xin cho con trung thành với ơn gọi Kitô hữu
và Sa-lê-diêng của con trong tất cả chiều kích sâu sắc nhất của nó. Amen.
6. Mẹ Thiên Chúa.
Có một cô gái, sau khi
tham dự một khóa tĩnh tâm, đã kể lại về đời mình như sau: Ngay từ hồi còn bé,
tôi đã lâm vào một tình trạng lo âu sợ hãi. Cố gắng lớn lao nhất của tôi hiện
nay là vượt thắng nỗi lo âu sợ hãi ấy. Tất cả đều do người mẹ.
Phải, ngay từ những
thánh năm ấu thơ, không hiểu vì lý do gì, bà luôn đối xử với tôi một cách
nghiệt ngã. Hết đánh đập lại đe loi, khiến tôi bị mặc cảm. Và nỗi lo âu sợ hãi
cùng với thời gian cứ tăng lên mãi. Cho đến hôm rồi, sau khi nghe một bài
giảng, tôi tình cờ bước vào nhà thờ. Ở đó có bức tượng Mẹ Maria, và đó là lần
đầu tiên tôi nhìn ngắm bức tượng Mẹ thật kỹ.
Thoạt tiên, tôi bực
bội, giận dữ muốn bỏ ngay ra ngoài, nhưng rồi một cái gì đó đã lôi kéo tôi đến
quỳ dưới chân Mẹ. Úp mặt vào lòng bàn tay và tôi đã khóc. Sau đó, tôi cảm thấy
tâm hồn mình nhẹ nhõm và mong ước được làm một đứa trẻ, một người con bé bỏng,
đầy tin tưởng và phó thác. Đồng thời tôi cũng cảm nhận được tình yêu mà Mẹ
Maria đã dành cho tôi, khiến tôi muốn thực sự tha thứ cho người mẹ ruột của tôi
những gì đã xảy ra trong dĩ vãng.
Từ câu chuyện trên
chúng ta đi vào tâm tình của ngày lễ kính Mẹ Thiên Chúa và chúng ta sẽ suy nghĩ
về hai điểm.
Điểm thứ nhất: Đức Maria không phải
chỉ là Mẹ Thiên Chúa mà ngài còn là mẹ thật của mỗi người chúng ta nữa. Từ trời
cao, Mẹ luôn sẵn sàng giúp đỡ chúng ta trong mọi cảnh huống cuộc đời.
Điểm thứ hai: Đức Maria cũng chính
là khuôn mẫu để chúng ta noi theo, nhất là về thái độ tín thác vào Chúa.
Thực vậy, khi sứ thần
báo tin Mẹ sẽ sinh con bởi quyền phép Chúa Thánh Thần, mặc dù biết rằng việc
này có thể làm cho thánh Giuse buồn phiền và lo nghĩ, nhưng Mẹ vẫn vững tin và
phó thác vào Chúa. Rồi khi nghe các mục đồng kể lại lời các thiên thần. Mặc dù
không hiểu lắm, nhưng Mẹ vẫn tín thác vào Chúa. Khi nghe ông già Simeon nói
tiên tri: Một lưỡi gươm sẽ đâm thâu trái tim Bà. Lần này Mẹ Maria cũng chẳng
hiểu rõ ý nghĩa lời tiên tri, nhưng Mẹ vẫn phó thác vào Chúa. Rồi khi tìm thấy
Chúa và nghe Chúa trả lời: Mẹ không biết con phải lo việc Cha con sao? Một lần
nữa Mẹ Maria chẳng hiểu gì cả nhưng Mẹ vẫn tin tưởng nơi Chúa.
Và ngày nay, Mẹ luôn
sẵn sàng giúp chúng ta sống tin tưởng và phó thác vào tình thương của Chúa.
Chẳng hạn là những bậc cha mẹ, chúng ta đã cặn kẽ dạy bảo, ra sức làm gương
sáng mà con cái vẫn khô khan nguội lạnh ngang bướng Và như vậy, chỉ còn một
phương cách là tiếp tục cầu nguyện và phó thác. Chính Mẹ Maria sẽ giúp chúng ta
làm điều này.
Là một thanh niên,
chúng ta lo lắng về tương lai, không hiểu những dự tính của mình là gì và sẽ đi
về đâu? Chúng ta đã bàn bạc, đã cầu nguyện mà sao vẫn còn mù mịt. Vậy thì hãy
tiếp tục cầu nguyện và phó thác, chính Mẹ Maria sẽ giúp chúng ta trong việc
này.
Là một người đang chao
đảo về đức tin với bao nhiêu những thắc mắc, những khó hiểu. Mặc dù đã cầu
nguyện nhưng chúng ta vẫn hoài nghi liệu có Chúa hay không? Vậy thì hãy cầu
nguyện và phó thác Mẹ Maria sẽ giúp chúng ta thực hiện điều này.
Lạy Đức Maria, là Mẹ
Thiên Chúa và Mẹ chúng con, xin hãy giúp con trong mọi cảnh huống của cuộc đời.
7. Mẹ Thiên Chúa – Mẹ chúng ta – Anmai
Mở lại những trang thư
của Thánh Phaolô tông đồ gửi giáo đoàn Galát ta bắt gặp tâm tình hết sức dễ
thương của Ngài.
Mở đầu thư, Thánh
Phaolô khẳng định ngay: Tôi là Phaolô, Tông Đồ không phải do loài người, cũng
không phải nhờ một người nào, nhưng bởi Đức Giêsu Kitô và Thiên Chúa là Cha,
Đấng đã cho Người từ cõi chết trỗi dậy, tôi và mọi anh em đang ở với tôi, kính
gửi các Hội Thánh miền Galát.
Cuộc đời, ơn gọi Tông
Đồ của Phaolô rõ ràng như ta thấy đó, không phải tự loài người hay do loài
người nhưng là bởi Đức Giêsu Kitô và Thiên Chúa là Cha.
Rõ ràng, sinh ra bởi
phàm nhân, bởi cha bởi mẹ của Ngài nhưng thánh Phaolô quả quyết như thế bởi vì
ngài tin như thế.
Và rồi, mở lại những
trang Thánh Kinh Cựu Ước, ta không thể nào quên được hình ảnh của Ápraham - cha
của những kẻ tin.
Ta biết Ápraham có hai
người con. Hai người con, một người được sinh ra bởi người mẹ là người nô lệ
còn người kia là người tự do. Con của người mẹ nô lệ thì sinh ra theo luật tự
nhiên; còn con của người mẹ tự do thì sinh ra nhờ lời hứa. Câu chuyện đó ngụ ý
rằng: hai người đàn bà là hai giao ước. Giao ước thứ nhất tại núi Sinai, thì
sinh ra nô lệ: đó là Haga. Haga chỉ núi Sinai trong miền Ảrập, và tương đương
với Giêrusalem, thành này cùng với các con đều là nô lệ. Còn Giêrusalem thượng
giới thì tự do: đó là mẹ chúng ta.
Mẹ của lời hứa được
Thiên Chúa tuyển chọn bởi tình thương của Ngài.
Con của lời hứa mà
Thiên Chúa trong Cựu Ước là là con của Giao Ước cũ. Giao Ước mới là Đấng Cứu Độ
trần gian được sinh ra trong cung lòng của một trinh nữ có tên là Maria.
Trong trình thuật tin
mừng rất ngắn, Thánh Luca thuật lại cho ta rất chi tiết về người trinh nữ có
tên là Maria đó: "Họ liền hối hả ra đi. Đến nơi, họ gặp bà Maria, ông
Giuse, cùng với Hài Nhi đặt nằm trong máng cỏ". (Lc 2, 16)
Đích thị rằng Maria
chính là Mẹ của Hài Nhi, Mẹ của Đấng Cứu Độ và cũng là Mẹ Thiên Chúa nhờ đặc ân
mà Thiên Chúa trao ban cho Mẹ.
Đức Maria là Mẹ Thiên
Chúa vì Con của Mẹ là Thiên Chúa. Mẹ chỉ là Mẹ trong trật tự sản sinh nhân
loại, nhưng Con mà Mẹ thụ thai và hạ sinh là Thiên Chúa, nên Mẹ phải được gọi
là Mẹ Thiên Chúa.
Tín lý này đã được
thánh Luca minh hoạ rõ ràng trong trang Tin Mừng chúng ta vừa nghe..
Từ thế kỷ II đã được
các thánh Giáo phụ Inhaxiô Antiokia, Irênêô, Cyrillô Alexandria, Augustinô,
Epiphanô diễn giải sâu rộng để đối phó với lạc thuyết của các bè rối
Gnosticism, Docetism. Thánh Gioan Tông đồ loan báo chứng thực rõ ràng rằng ngài
đã từng mắt thấy, tai nghe và đụng chạm tới Chúa Giêsu là Ngôi Lời hằng sống đã
xuất hiện.
Trong khi đó các bè
rối đó vẫn nói Chúa Giêsu chỉ là ảo tượng. Lạc thuyết này muốn phá đổ tự nền
tảng công cuộc Cứu chuộc của Chúa Kitô. Vì thế, các Giáo phụ dựa trên tín lý phẩm
chức Thiên mẫu của Mẹ Maria để phá tan lạc thuyết này rằng Đức Trinh Nữ không
thể là Mẹ nếu không có Con. Và Người không có Con, nếu Chúa Giêsu chỉ là một
bóng ma. Giáo phụ Tertulianô bác bỏ Marcion người lạc giáo: "Mục đích phủ
nhận thân xác Chúa Kitô, ông chối bỏ việc Người sinh ra. Hay là để chối bỏ việc
Người sinh ra, ông phủ nhận thân xác Chúa. Thân xác và sự đản sinh làm chứng
lẫn nhau: Không có sự đản sinh thì cũng không có thân xác. Hoặc là không có
thân xác thì không có sự đản sinh.
Thế kỷ III và thế kỷ
IV, các thánh Giáo phụ đều đồng thanh cao rao chúc tụng Mẹ Thiên Chúa. Năm 325,
Công đồng Nicêa I lên án lạc giáo Ariô, đồng thời định tín Ngôi Lời đồng bản
thể với Đức Chúa Cha, và đặt kinh Tin kính (gọi là kinh Tin kính Nicêa đọc
trong thánh lễ). Tín điều này chứng minh Chúa Giêsu là Thiên Chúa thật, cùng
với tín lý Mẹ Thiên Chúa của các thánh Giáo phụ sẽ mở đường cho tín điều Mẹ
Thiên Chúa của Công đồng Ephêsô sau này.
Công đồng Vatican II
(1962-1965) dạy: "Từ muôn đời, Đức Trinh Nữ đã được tiền định làm Mẹ Thiên
Chúa cùng một lúc với việc Nhập Thể của Ngôi Lời Thiên Chúa ... Đức Trinh Nữ
nhờ ơn huệ và vai trò làm Mẹ Thiên Chúa, Mẹ được hợp nhất với Con Mẹ là Đấng
Cứu Chuộc và hiệp nhất với Giáo Hội. Mẹ Thiên Chúa là mẫu mực của Giáo Hội trên
bình diện đức tin, đức ái và hoàn toàn hiệp nhất với Chúa Kitô".
Nhờ Giáo huấn của Giáo
Hội và lời giảng dạy của các Thánh giáo phụ, các Thánh tiến sĩ và các nhà thần
học, giáo dân trong khắp Giáo Hội mỗi ngày thêm vững tin tín điều Mẹ Thiên
Chúa.
Mẹ Thiên Chúa là Mẹ
của Lời Hứa, Mẹ của Giao Ước mới, Mẹ của Ơn Cứu Độ trần gian mà Thiên Chúa đã
hứa, đã trao ban cho con người tự ngàn xưa qua miệng các ngôn sứ, cách riêng
qua những khẳng định của các thánh, đặc biệt nơi các thánh tông đồ.
Thánh Phao lô đã khẳng
định với ta về Giao Ước mới: Nhưng khi thời gian tới hồi viên mãn, Thiên Chúa
đã sai Con mình tới, sinh làm con một người đàn bà, và sống dưới Lề Luật, để
chuộc những ai sống dưới Lề Luật, hầu chúng ta nhận được ơn làm nghĩa tử.
Không chỉ ở đây, trong
nhiều đoạn thư, thánh Phaolô cũng đã khẳng định về ơn nghĩa tử mà Thiên Chúa đã
dành cho chúng ta:
“Trong Đức Kitô, Người
đã chọn ta trước cả khi tạo thành vũ trụ, để trước thánh nhan Người, ta trở nên
tinh tuyền thánh thiện, nhờ tình thương của Người. Theo ý muốn và lòng nhân ái
của Người, Người đã tiền định cho ta làm nghĩa tử nhờ Đức Giêsu Kitô”. (Ep 1,
4-5)
“Vì những ai Người đã
biết từ trước, thì Người đã tiền định cho họ nên đồng hình đồng dạng với Con
của Người, để con của Người làm trưởng tử giữa một đàn em đông đúc”. (Rm 8, 29.
29)
Trước khi tạo thành vũ
trụ, Cha đã tiền định cho chúng con làm “nghĩa tử”. Nhưng Cha không muốn chúng
con chỉ hưởng quyền đồng thừa kế với Đức Giê-su (Rm 8, 17) mà còn muốn chúng
con nên giống Cha (Ep 1, 4), nên đồng hình đồng dạng với Người Con Ruột của Cha
(Rm 8, 29)
"Trong Đức Kitô,
Người đã chọn ta trước cả khi tạo thành vũ trụ, để trước nhan Người, ta trở nên
tinh tuyền thánh thiện, nhờ tình thương của Người. Theo ý muốn và lòng nhân ái
của Người, Người đã tiền định cho ta làm nghĩa tử, nhờ Đức Giêsu Kitô. Để ta
hằng ngợi khen ân sủng rạng ngời, ân sủng Người ban tặng cho ta trong Thánh Tử
yêu dấu”. (Ep 1, 4-6)
Ta thấy Thánh Gioan
tông đồ cũng đã khẳng định về ân huệ làm con mà Thiên Chúa dành cho chúng ta:
“Còn những ai đón
nhận, tức là những ai tin vào danh Người, thì Người cho họ quyền trở nên con
Thiên Chúa. họ được sinh ra, không phải do khí huyết, cũng chẳng do ước muốn
của nhục thể, hoặc do ước muốn của người đàn ông, nhưng do bởi Thiên Chúa”. (Ga
1, 12.13)
“Anh em hãy xem Chúa
Cha yêu chúng ta dường nào: Người yêu đến nỗi cho chúng ta được gọi là con
Thiên Chúa – mà thực sự chúng ta là con Thiên Chúa. Sở dĩ thế gian không nhận
biêt chúng ta, là vì thế gian đã không biêt Người. Anh em thân mến, hiện giờ
chúng ta là con Thiên Chúa nhưng chúng ta sẽ như thế nào, điều ấy chưa được bày
tỏ. Chúng ta biêt rằng khi Đức Kitô xuất hiện, chúng ta sẽ nên giống như Người,
vì Người thế nào, chúng ta sẽ thấy Người như vậy”. (1 Ga 3, 1-2).
Trước khi có trời đất
này Cha đã chọn ta để ta trở nên tinh tuyền thánh thiện. Trước khi ta có mặt
trên hành tinh này, Cha đã tiền định cho ta làm con Cha. Cho nên không phải vì
ta có công trạng gì mà Cha thương ta. Cha yêu ta chỉ do lòng nhân ái của Cha,
chỉ do tình thương nhưng không của Cha, bởi vì Cha là tình yêu. Cha thương ta
bởi vì ta ở trong người Con Chí Ái là Đức Kitô. Vì Cha thương ta mà ta trở
thành quý giá trước mặt Cha.
Ân huệ lớn nhất đời
của ta phải chăng đó là được làm con của Mẹ Maria, là em của anh Hai Giêsu ?
Theo Gioan, chúng ta
được làm con em Chúa Giêsu, là con của Mẹ Maria thì ta phải tin (Ga 1, 12) và
phải yêu (1 Ga 4, 7).
Nhìn lại cuộc đời của
Mẹ Maria ngày hôm nay mà ta tôn kính với đặc ân mà Thiên Chúa ban cho Mẹ - như
Giáo Hội cũng như các môn đệ đã xác tín - chúng ta lại thấy rằng cả cuộc đời
của Mẹ vẫn gói ghém trong niềm tin và tình yêu với Thiên Chúa. Mẹ tin yêu Chúa
bằng cả cuộc đời, bằng cả tấm lòng, bằng cả con người, bằng cả tâm hồn của mẹ.
Trang Tin Mừng rất
ngắn Thánh Luca điểm lại cho ta về Mẹ rất độc đáo, rất dễ thương và cũng rất
đáng để ta suy nghĩ: còn bà Maria thì hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy, và suy đi
nghĩ lại trong lòng.
Và, cả cuộc đời, Mẹ
sống trong lắng đọng để Mẹ suy đi nghĩ lại tình yêu, lòng thương xót mà Thiên
Chúa trao ban cho Mẹ để Mẹ được ơn là Mẹ của Thiên Chúa, Mẹ của Đấng Cứu Độ.
Ngày hôm nay, Mừng Mẹ
là Mẹ Thiên Chúa, ta lại được mời gọi nhìn lại đời ta. Ta được Thiên Chúa trao
ban ân huệ làm con của Lời Hứa, của Đấng Cứu Độ trần gian và là em của anh
Trưởng Giêsu. Mẹ Maria dù được là Mẹ Thiên Chúa đó nhưng Mẹ
"Con nhà tông
không giống lông cũng giống cánh". Mẹ Maria khiêm hạ, lắng đọng để tin yêu
và phó thác cuộc đời trong tay Chúa dù Mẹ là Mẹ của Thiên Chúa, Mẹ của Ơn Cứu
Độ.
Chúng ta là nghĩa tử
của anh Trưởng Giêsu, cũng là con của Mẹ Maria.
Người ta vẫn thường
nói: "Mẹ nào con nấy !". Mẹ Thiên Chúa, Mẹ của ta đó luôn suy niệm
Lời Chúa, suy niệm tình thương mà Thiên Chúa tuôn đổ trên Mẹ. Dù ai nói ngả nói
nghiêng và thậm chí chà đạp, phỉ báng Mẹ, chê cười nhưng Mẹ vẫn lặng lẽ để suy
đi nghĩ lại tình thương và ân huệ của Chúa dành cho Mẹ. Ta có suy đi nghĩ lại
trong lòng ân huệ, tình thương mà Thiên Chúa trao ban cho ta hay không ?
Khi ta ồn ào náo động,
khi ta hơn thua tranh giành, khi ta bấu víu vào thế gian cũng là khi ta không
nhận ra Ơn Cứu Độ, không nhận ra Thiên Chúa là Chúa và là Chủ của cuộc đời ta.
Khi ấy, ta cũng chẳng là con của Mẹ.
Ta vẫn gọi Mẹ là Mẹ
Thiên Chúa, ta vẫn nói Mẹ là Mẹ của ta nhưng để lời gọi, lời nói, lời tuyên tín
đó được trọn hảo, được thể hiện bằng cách ta sống tâm tình mà Mẹ đã sống đó là
suy đi nghĩ lại ân huệ, tình thương mà Thiên Chúa trao ban cho ta.
Xin Mẹ thêm ơn cho ta
để ta cũng biết sống giữa cuộc đời đầy bon chen, sóng gió này mà lòng vẫn bình
tâm để lặng lẽ, để suy đi nghĩ lại ân huệ Chúa ban cho ta như Mẹ.
8. Lễ Mẹ Thiên Chúa
Giây phút long trọng
nhất trong đời Đức Mẹ là giây phút Ngôi Hai xuống thai trong lòng Đức Mẹ. Từ
giây phút ấy, Đức Mẹ trở nên Mẹ Thiên Chúa: Đây là tín điều Công đồng Êphêsô đã
tuyên bố ngay thời kỳ Giáo Hội sơ khai.
- Ta phải hiểu chân lý
này thế nào?
Đức Maria không phải
là Mẹ sinh ra Thiên Chúa tự hữu hằng có đời đời, không phải là mẹ cá nhân kết
hợp với Thiên Chúa, cũng không phải là mẹ bản tính loài người có hồn xác của
Chúa Giêsu, mà chỉ là Mẹ thân xác Chúa Giêsu; cũng như các bà mẹ khác chỉ sinh
con về phần xác không sinh ra linh hồn đứa con. Văn hóa Đông phương cũng xác
nhận điều này: cha mẹ sinh con trời sinh tính. Tính không phải là tính nết
thường, nhưng có ý sâu sắc hơn, đó là bản tính, tính mệnh “Thiên mệnh chi vị
tính” - Tính trời phú cho đó là linh hồn.
Tuy các bà chỉ sinh
thân xác đứa con, nhưng cũng thực là mẹ đứa con. Cũng vậy, Đức Mẹ, tuy chỉ sinh
thân xác Chúa Giêsu, nhưng cũng thực là mẹ Chúa Giêsu, mà Chúa Giêsu là Thiên
Chúa nên Đức Maria cũng là Mẹ Thiên Chúa. Năm 431 công đồng Ephesô đã long
trọng tuyên bố: “Nếu ai chối Đức Giêsu là Thiên Chúa, và bởi đó chối Đức Thánh
nữ Đồng trinh Maria là Mẹ Thiên Chúa vì người đã sinh ra thân xác Ngôi Lời
Thiên Chúa nhập thể, thì bị vạ tuyệt thông.” Thật là vinh phúc cao trọng nhất
cho Đức Mẹ, không ai trong loài người sánh ví được. Chính vì thế Giáo Hội đã mừng
lễ này vào ngày thứ nhất trong năm, đứng đầu các lễ các thánh.
- Hạnh phúc đó do đâu?
Hoàn toàn do Thiên
Chúa ban “vì loài người chúng ta và để cứu rỗi chúng ta”
Thiên Chúa không muốn
dựng nên thân xác thần hiện nào khác, nhưng dùng chính thân xác từ trong loài
người để cứu độ loài người. Ví như muốn cứu người ăn mày có hai cách: một là
cho tiền, gạo để ăn chơi nhàn rỗi, hai là dạy cho họ có công ăn việc làm để họ
dùng chính khả năng họ làm ăn. Cách thứ hai rất khó nhưng chắc chắn có giá trị
lâu dài và giá trị tự do hưởng ứng của họ. Cũng thế, Thiên Chúa đã dùng chính
khả năng con người trong Đức Mẹ hợp tác với Chúa để cứu loài người.
Tới đây, chúng ta hiểu
được một chút sự lạ lùng của Thiên Chúa cứu độ loài người với sự tham gia của
Đức Mẹ. Đức Mẹ đã trọn đời dâng hiến toàn thân cho Chúa, một thân xác đồng
trinh, vô nhiễm nguyên tội để Ngôi Hai xuống thế làm người cứu chuộc chúng ta,
một sự lạ lùng gấp bội phép lạ bánh hóa nhiều, và giống như Chúa đã dùng bánh
và rượu để biến thành Mình và Máu Thánh Chúa.
Lạy Mẹ Maria là Mẹ
Thiên Chúa, xin cho cha mẹ chúng con hiểu biết thiên chức cao trọng làm cha mẹ,
tuy chỉ sinh con phần xác ở đời này, nhưng lại được làm cha mẹ cả phần hồn,
phần thiêng liêng đến muôn đời. Xin cho các ngài biết cố gắng giáo dục con cháu
"ngày càng lớn lên, mạnh mẽ, đầy khôn ngoan, và được ân nghĩa cùng Thiên
Chúa" như Chúa Giêsu con Mẹ. Xin Chúa cho chúng con biết noi gương Đức Mẹ
dâng lòng mến, dâng sự hy sinh hàng ngày lên Chúa nhờ sự cầu bầu của Đức Mẹ
biến đổi con người chúng con nên con thảo của Mẹ, xứng đáng được ơn phúc cứu độ
muôn đời của Chúa Giêsu Con Mẹ.
9. Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con
(Suy niệm của Lm.
Antôn Nguyễn Văn Độ)
Tám ngày sau lễ sinh
nhật của Đức Giêsu Chúa chúng ta, Giáo hội mời gọi con cái mình cử hành lễ Đức
Maria, Mẹ Thiên Chúa với tất cả lòng kính trọng và biết ơn, vì nhờ Mẹ, Đấng Cứu
Thế đã sinh ra cho chúng ta.
Đức Maria đã được các
giáo phụ ca ngợi, đặc biệt là thánh Ambrôsiô thành Milan (thế kỷ IV) khi nói:
"Đức Maria là Đền Thờ của Thiên Chúa chứ không phải Thiên Chúa của Đền
Thờ". Thánh Ignatiô thành Antiokia (+ 110) là người đầu tiên nên tên Đức
Maria sau các sách Tin Mừng: "Chúa chúng ta là Đức Giêsu Kitô đã được Đức
Maria cưu mang trong lòng theo nhiệm cục cứu độ" và " Đức Giêsu cũng
được sinh ra bởi Đức Maria và bởi Thiên Chúa".
Tại Đông phương, kể từ
năm 350, người ta đã gán cho Đức Maria tước hiệu là "Mẹ Thiên Chúa",
tuyên dương Mẹ là " Mẹ của Ngôi Lời Nhập Thể ". Như thánh Grégoire de
Nazianze (330 – 390) đã viết: "Đức Kitô sinh bởi một Trinh Nữ, người nữ ấy
là Mẹ Chúa Kitô".
Khi giáo chủ
Constantinople là Nettôriô công khai chối bỏ thiên chức Mẹ Thiên Chúa của Đức
Maria, thì Công đồng Chung Êphêsô (431) đã đuợc triệu tập và tuyên bố tín điều
"Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa". Đó là danh xưng cao trọng nhất của Đức
Maria, chính phẩm chức cao cả này là nền tảng mỗi đặc ân khác dành cho Mẹ. Công
đồng Vaticanô II đã trình bày các đặc ân liên kết với phẩm chức Thiên Chúa như
sau: "Không có gì lạ, nếu các giáo phụ đã thường xưng tụng Mẹ là Đấng toàn
thánh, không vương nhiễm một tội nào, như một tạo vật mới do Chúa Thánh Thần
uốn nắn và tác thành. Tràn đầy thánh thiện, có một không hai ngay từ lúc thụ
thai, Đức Trinh Nữ thành Nazareth được Thiên thần vâng lệnh Chúa đến truyền tin
và đã kính chào là "Đầy ơn phước" (Lc. 1,28). (GH.59).
Thánh Phaolô viết:
"Khi đã đến lúc thời gian đầy đủ, Thiên Chúa đã sai Con Ngài sinh hạ bởi
người phụ nữ, sinh dưới chế độ Luật, để cứu chuộc những người ở dưới chế độ
Luật, hầu cho chúng ta được nhận làm dưỡng tử... mà nếu là con, tất bạn cũng là
người thừa kế, nhờ ơn Thiên Chúa" (Gl 4, 4-7). Như thế, chúng ta dưỡng tử
của Thiên Chúa và đồng thừa tự với Đức Kitô nhờ ơn Thiên Chúa. Lại nữa, Hội
Thánh là Thân Thể của Chúa Kitô, Đức Maria đã là Mẹ Chúa Kitô, Đấng là Đầu của
Thân Thể, thì Mẹ cũng là Mẹ của Thân Thể, Mẹ Hội Thánh, Hội Thánh được cấu
thành bởi những con người chúng ta, nên Mẹ cũng là Mẹ của mỗi người chúng ta.
Vì thế trong Giáo Hội, Đức Trinh Nữ Maria được kêu cầu qua các tước hiệu: trạng
sư, vị bảo trợ, Đấng phù hộ và Đấng Trung gian" (GH.62)
Ngày 21/11/1964, Đức
Phaolô VI long trọng tuyên bố Đức Maria Là Mẹ Hội Thánh: "Để vinh danh Đức
Trinh Nữ và để chúng ta được an ủi, chúng tôi tuyên bố Rất Thánh Maria là Mẹ
Hội Thánh, tức là Mẹ của toàn thể Dân Kitô Giáo, cả giáo dân lẫn mục tử, thành
phần gọi Người là một Người Mẹ rất yêu dấu; và vì thế chúng tôi truyền cho toàn
thể Dân Kitô Giáo hãy dâng lên Mẹ Thiên Chúa một niềm kính tôn hơn nữa và hãy
nguyện cầu cùng Người bằng tên gọi rất ngọt ngào này". Và việc Đức Phaolô
VI đã "công bố" và "truyền" làm như thế không phải chỉ bằng
một văn kiện, mà là bằng lời nói sống động ngay trước mặt toàn thể hàng giáo
phẩm thế giới đang tham dự Công Đồng Chung bấy giờ, thành phần đại diện cho
toàn thể Dân Chúa.
Đó là những lý do Giáo
Hội thúc dục con cái mình cầu nguyện với Mẹ: "Thánh Maria Đức Mẹ Chúa
Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội, khi nay và trong giờ lâm tử". Như
vậy, long trọng mừng Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa, chúng ta hãy tỏ một niềm tin
vững chắc vào vai trò của Mẹ trong chương trình cứu rỗi nhân loại. Đức Maria là
Mẹ Thiên Chúa vì Ngài đã sinh ra cho chúng ta Thiên Chúa cứu chuộc.
Trong ngày đầu năm mới
và cũng là Ngày Quốc Tế Hòa Bình, chúng ta vui mừng cử hành lễ Đức Maria rất
thánh, Mẹ Thiên Chúa. Cả hai sự kiện này cùng diễn ra khi chúng ta đang cử hành
Chúa Kitô, Con Thiên Chúa, Vua Thái Bình (Is 9, 5) sinh hạ bởi Đức Trinh Nữ Maria,
hòa bình đích thực của chúng ta! Chúng ta mượn lời sách Dân Số mà cầu chúc cho
nhau: "Nguyện Đức Chúa ghé mắt nhìn và ban bình an cho anh chị em"
(x. Ds 6,26). Còn món quà nào cao quí hơn là chính Con Thiên Chúa, Đấng là
Hoàng Tử Bình An được Chúa Cha ban tặng cho chúng ta. Vì tình yêu Thiên Chúa đã
"ban Người Con duy nhất của Ngài" cho nhân loại (Ga 3,16). Thiên Chúa
đã nhận lấy dung mạo của một con người và Thiên Chúa tỏ dung mạo của Ngài trong
Người Con của Đức Trinh Nữ Maria.
Thiên Chúa từ trời cao
đã giáng trần và cư ngụ trong lòng Mẹ và nhập thể trong Người Con mà Mẹ đang ẵm
trên tay. Mẹ bồng Hài Nhi Giêsu, con nhìn mẹ và mẹ nhìn con âu yếm. Đức Maria
trong thiên chức làm Mẹ Thiên Chúa, và là Mẹ chúng ta, luôn đồng hành để dẫn
chúng ta về với Thiên Chúa. Bước theo Mẹ trong cuộc sống của lòng tin bằng thái
độ tín thác vào Chúa, hoàn toàn vâng phục thánh ý Ngài, chúng ta sẽ được Mẹ dìu
đưa đến với Chúa, đến Nước Trời. Mẹ mời gọi chúng ta mở lòng đón nhận Chúa
Giêsu, cưu mang Người bằng cách lắng nghe và sống theo Lời Người, để thực sự
trở nên người có phúc, người thân của Chúa như Mẹ.
Mừng lễ Mẹ hôm nay,
với trọn niềm tin tưởng, mến yêu, chúng ta hãy phó thác cho Mẹ thế giới này,
đất nước ta, gia đình ta. Hãy để Mẹ hiện diện để yêu thương, chăm sóc và dẫn
dắt chúng ta sống theo ý Chúa. Hãy hết lòng yêu Mẹ bằng tình con thảo hiếu!
Nhờ Mẹ cầu bầu, xin
cho cuộc đời mỗi nguời chúng ta được đổ đầy bình an của Chúa trong năm mới này,
để chúng ta cũng trở nên những người xây đắp an bình cho gia đình, cho mọi
người bằng đời sống tin yêu phó thác vào Chúa và quên mình phục vụ tha nhân như
Mẹ. Ước gì chúng ta không chỉ thành khẩn thưa lên với Mẹ bằng lời, mà bằng trọn
cả con tim và cuộc sống chúng ta: "Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời, cầu
cho chúng con, là kẻ có tội, khi nay và trong giờ lâm tử. Amen."
10. "Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời"
(Suy niệm của Lm.
Giuse Tạ Duy Tuyền)
Mỗi khi đọc kinh kính
mừng, chúng ta đều thưa lên cùng Mẹ: Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho
chúng con là kẻ có tội, khi nay và trong giờ lâm tử. Khi chúng ta thưa cùng Mẹ
điều đó, là chúng ta ý thức thân phận yếu đuối, mỏng dòn của mình thường hay sa
đi ngã lại trong những lầm lỗi tội lỗi. Đồng thời cũng nói lên sự phó thác cậy
trông nơi Mẹ, là Mẹ của Thiên Chúa và cũng là Mẹ chúng ta.
Vâng, khi nhập thể làm
người Chúa Giêsu cũng được sinh ra từ một người mẹ, và suốt cuộc sống của Chúa
Giêsu dường như luôn có bóng dáng của mẹ hiện diện để khích lệ, an ủi, nhất là
trong lúc chịu đau thương trên thập giá. Mẹ đã ở bên Chúa, cùng hiệp thông trong
đau khổ với Chúa để cứu độ trần gian. Có lẽ vì muốn chúng ta được sống trong
tình mẫu tử của Mẹ, Chúa Giêsu đã trao ban Đức Mẹ cho chúng ta, khi Chúa nói
với Gioan: "Đây là Mẹ của con", và thánh kinh đã ghi lại: "kể từ
lúc đó, người môn đệ Chúa yêu đã đón Mẹ về nhà của mình".
Thánh Gioan đã đại
diện cho nhân loại để nhận Mẹ làm Mẹ của chúng sinh. Từ nay Mẹ sẽ tiếp tục nâng
đỡ chúng ta. Mẹ sẽ tiếp tục yêu thương chúng ta. Mẹ sẽ tiếp tục hiện diện trong
cuộc đời chúng ta để chăm sóc, lo lắng và chở che cuộc đời chúng ta. Chúng ta
có thể cảm nghiệm về tình Mẹ Thiên quốc qua hình ảnh người mẹ trần thế. Mẹ trần
thế yêu thương con đến nỗi dám đánh mất chính mình cho con được lớn lên thế
nào, thì người mẹ thiên quốc cũng lo cái lo của con cái dưới thế, cũng đau vời
đau đau của nhân loại, cũng sẵn sàng làm tất cả đế cứu vớt nhân loại lầm than.
Có lẽ ai trong chúng ta cũng thuộc lòng bài ca dao "Con cò ăn đêm" mà
các bà mẹ thường hay hát ru con:
"Con cò mà đi ăn
đêm
Đậu phải cành mềm lộn
cổ xuống ao
Ông ơi, ông vớt tôi
vào
Tôi có lòng nào ông
hãy xào măng
Có xào thì xào nước
trong
Đừng xào nước đục đau
lòng cò con"
Bài thơ thật ngắn gọn
nhưng diễn tả về tình yêu của một người mẹ đơn côi, lặn lội nơi bến chợ, bất
chấp tất cả khó khăn cực nhọc để kiếm tiền nuôi con, kể cả việc phải đi ăn đêm.
Nếu số phận có đun rủi bà phải rơi xuống hố sâu lầm lỗi, bà sẵn sàng chịu mọi
sự trừng phạt miễn là ông trời hãy thương lấy đàn con, gìn giữ nó được sống
trong danh dự mà đoạn kết đã diễn tả: "Đừng xào nước đục đau lòng cò
con". Nghĩa là người mẹ sẵn sàng chịu mọi oan ức, mọi niềm đắng cay, nhưng
miễn sao con của bà đừng bị người đời trừng phạt bởi lầm lỗi của bà, đừng bị
người đời khinh chê vì những đoạn trường đắng cay của mẹ.
Tình yêu của người mẹ
là thế! Bà sẵn sàng hy sinh tất cả miền là đoàn con được hạnh phúc. Trong đời
sống thiêng liêng chúng ta cũng có một người mẹ là Đức Maria, Mẹ của Chúa Giêsu
đã được ban cho chúng ta qua thánh Gioan. Ước gì mỗi người chúng ta cũng biết
đón Mẹ về nhà cuộc đời chúng ta, để chia sẻ những vui buồn trong gia đình chúng
ta. Ước gì chúng ta biết trân trọng gìn giữ Mẹ như bảo ngọc châu báu mà Chúa đã
ban cho chúng ta, đừng để mất Mẹ, vì mất Mẹ là mất cả bầu trời. Ước gì mỗi
người chúng ta biết tin tưởng phó dâng cuộc sống gia đình của mình cho Mẹ và
biết dành một vài giây phút trong ngày để thưa lên cùng Mẹ. Thánh Maria Đức Mẹ
Chúa cầu cho chúng con hôm nay và trong giờ lâm tử. Amen.
11. Thinh lặng và lắng nghe
(Suy niệm của Lm.
Giuse Tạ Duy Tuyền)
Một chàng thanh niên
nọ có tính khoe khoang. Ngày kia sắm được một chiếc áo mới, từ sáng sớm anh ta
đã mặc chiếc áo đó và đứng ở ngã ba đường. Kẻ qua, người lại rất đông, thế
nhưng chẳng có ai chú ý đến và khen anh lấy một tiếng. Cuối cùng, có một người
đàn ông đến gần anh và bảo: “Anh có thấy con bò của tôi bị lạc chạy qua đây
không?" Được dịp có người hỏi đến mình, anh trả lời: “Tôi mặc chiếc áo này
từ sáng đến giờ, mà chẳng thấy con bò nào chạy qua đây cả.”
Thái độ trên đây của
người thanh niên trái hẳn với thái độ của Đức Maria, như bài Tin mừng hôm nay
thuật lại: “Người giữ kỹ mọi điều ấy và suy đi nghĩ lại trong lòng.” Đức Maria
đã thinh lặng không chỉ lúc này, nhưng trong suốt cuộc đời Người. Được làm Mẹ Thiên
Chúa, nhưng chung quanh Người, chẳng có mấy ai biết đến tước hiệu này. Nếu vinh
quang Thiên Chúa xuất hiện và các mục đồng không ngớt lời ngợi khen thì Người
chỉ ghi nhớ và suy niệm trong lòng. Tại Cana, Người đã nhẹ nhàng báo cho Chúa
Giêsu biết bữa tiệc không còn rượu nữa. Trong cuộc đời công khai của Chúa,
Người đã âm thầm theo bước chân con. Và bên Thánh giá, trong nỗi đau đớn tột
cùng, Người đã chứng kiến những giờ phút cuối cùng của con. Có thể nói Người đã
sống tâm tình của một nữ tì khiêm tốn, Người chỉ muốn được phục vụ trong âm
thầm, còn vinh quang danh dự thì Người xin dành cho người khác.
Trong một thế giới có
quá nhiều tiếng động: tiếng động của bom đạn, của tranh chấp, của bạo lực,
chúng ta hãy bắt chước thái độ thinh lặng và lắng nghe của Đức Maria, nhờ đó
chúng ta sẽ tìm được bình an trong tâm hồn và tạo được hoà khí trong tương quan
với tha nhân.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Hài đồng
Giêsu, Chúa có một người Mẹ thật tuyệt vời. Một người Mẹ cho Chúa dòng sữa, cho
Chúa tình thương. Một người Mẹ đã nói lời xin vâng bằng cả cuộc đời dấn thân
cho chương trình Thiên Chúa Cha được nên trọn. Một người Mẹ hằng đẹp lòng Thiên
Chúa Cha và được mọi ân huệ lớn lao đến nỗi là người có phúc hơn mọi người nữ.
Người Mẹ đó Chúa đã
tặng ban cho nhân loại chúng con. Qua Môn đệ Gioan, Mẹ Maria đã nhận chúng con
là con cái của mẹ. Mẹ đã đi vào trong từng cuộc đời chúng con. Mẹ vẫn đang đồng
hành để chia sẻ buồn vui trong kiếp người chúng con. Chúng con xin cám ơn Chúa
đã ban Mẹ Maria cho chúng con. Xin cho chúng con luôn chạy đến cùng Mẹ, luôn
nương nhờ ơn phước của Mẹ, để nhờ Mẹ chúng con được đón nhận ơn lành của Chúa.
Lạy Mẹ Maria, Mẹ là
người có phước hơn mọi người nữ vì mẹ luôn lắng nghe và thực thi Lời Chúa. Xin
Mẹ dạy chúng con biết noi gương Mẹ để sống theo lời Chúa. Xin cho cuộc đời
chúng con luôn được ướp mặn bằng những trang tin mừng, để chúng con hiểu được
thánh ý Chúa trong từng biến cố cuộc đời. Xin cho các gia đình luôn biết siêng
năng đọc lời Chúa và thực thi khởi đi từ chính gia đình chúng con. Xin Mẹ luôn
viếng thăm gia đình chúng con để hàn gắn những đổ vỡ, bất hòa đang làm mất đi
sự êm ấm của gia đình. Xin Mẹ luôn hiện diện để nâng đỡ gia đình chúng con khi
gặp những bất hạnh, rủi ro. Xin vực dậy niềm tin nơi những ai đang thất vọng,
giúp họ vượt qua những khó khăn trong niềm tin vào Chúa như Mẹ đã từng bước đi
trong niềm tin tuyệt đối vào sự quan phòng Chúa.
Lạy Mẹ Maria, hôm nay
khởi đầu năm mới, chúng con xin phó dâng gia đình chúng con cho Mẹ, để nhờ lời
cầu bầu của Mẹ, xin Chúa nâng đỡ những gia đình đang đổ vỡ. Biết bao nhiêu niềm
tin đang bị đánh mất từ những người thân trong gia đình. Cha mẹ thiếu tin tưởng
nhau. Con cái đánh mất niềm tin nơi cha mẹ. Vợ chồng bất trung với nhau. Bạn bè
bất tín với nhau. Biết bao sự dữ đang tung hoành khắp nơi, khiến nhiều người
rơi vào thất vọng, tủi hổ và đắng cay. Xin nhờ Mẹ chuyển cầu để tình thương
Chúa gìn giữ các gia đình. Xin nhờ ơn phước của Mẹ ngõ hầu chúng con được nhận
lãnh ơn lành của Chúa. Amen.
12. Mẹ Thiên Chúa
Có một nhóm giáo dân
trong một thành phố nhỏ quyết định làm một máng cỏ giáng sinh ở công trường. Họ
đi xin những người hảo tâm giúp đỡ. Đứng đầu danh sách những người hảo tâm là
ông chủ bút một tờ tuần báo địa phương. Ông ta ủng hộ việc này cho tới lúc cha
sở phát biểu. Nhiều người, nhất là trẻ em sẽ phấn khởi nhìn thấy Chúa Hài Nhi,
Đức Mẹ, thánh Giuse và cả những con vật nữa, ở đây ngay tại trung tâm thành
phố. Thế nhưng, ông chủ bút liền kêu to:
- Không, phải bỏ Đức
Mẹ đi, đừng có bày đặt lắm chuyện làm chi.
Cha sở nghe vậy bèn
nói với ông ta:
- Ông bảo gì vậy? Ông
thử nói cho tôi hay: Một người sinh ra mà lại không do người mẹ, thì tôi sẽ
đồng ý bỏ Đức Mẹ. Đức Mẹ phải ở với Con mình trong công trường thành phố. Tại
sao không?
Đúng thế, Mẹ đã ở với
Chúa Giêsu ngay từ lúc Ngài được dựng thai cho tới khi Ngài lên trời và Mẹ còn
liên kết với Ngài trong suốt dòng lịch sử. Vì thế, chúng ta không thể tưởng
nghĩ tới Chúa Giêsu mà không tưởng nghĩ Mẹ Ngài. Cũng như chúng ta không thể
tưởng nghĩ đến một em bé mà không tưởng nghĩ đến người mẹ của em.
Chúa Giêsu là người
thật nhưng cũng là Thiên Chúa thật. Đức Maria là Mẹ của Thiên Chúa làm người,
theo ý nghĩa là con trẻ Mẹ sinh ra có bản tính Thiên Chúa và bản tính con
người.
Ngày đầu năm dương lịch,
Giáo hội muốn chúng ta tôn vinh Mẹ Thiên Chúa. Bởi vì không ai xứng đáng được
gọi là mẹ sự sống cho bằng Mẹ Thiên Chúa. Mẹ đã ban sự sống nhân loại cho Chúa
Giêsu, Đấng đã nói: Tôi đến cho người ta được sống và sống dồi dào. Một đời
sống thể lý tốt đẹp hơn, một đời sống tinh thần tốt đẹp hơn. Điều đó sẽ làm cho
mọi người được hạnh phúc trong năm mới. Chúng ta phải chú trọng giá trị của sự
sống. Những vụ tàn sát, những tai nạn xe cộ, những cuộc chiến và đói kém đã
cướp đi hàng trăm ngàn cuộc sống. Sự sống đã trở thành rẻ mạt. Một cuộc nghiên
cứu mới đây cho biết: trẻ em Hoa Kỳ ở vào tuổi 17 đã xem 18.000 vụ tàn sát qua
truyền hình. Đồng thời trong năm mới này có biết bao nhiêu bà mẹ, thay vì cho
con cái mình sự sống, thì đã giết chúng bằng những vụ phá thai. Vì thế, chúng
ta cần đến một người mẹ cao siêu để chấm dứt sự tàn sát này. Bước sang năm mới,
Mẹ Thiên Chúa làm người, sẵn sàng cứu giúp mọi bà mẹ để trao ban sự sống thay
vì huỷ diệt nó đi. Mẹ cũng sẵn sàng xin được nơi người Con của mình một sự sống
tinh thần mạnh mẽ hơn, một sự sống được tiếp tục ngay cả sau cái chết thể xác.
Sự sống mà người Con của Mẹ đã ban cho chúng ta một cách dồi dào trong thánh lễ
và trong các bí tích. Một sự sống ngập tràn hạnh phúc mà chúng ta sẽ cầu chúc
cho nhau trong năm mới này.
13. Mẹ Thiên Chúa.
Trong một bài giảng,
vị linh mục đã nêu lên câu hỏi.
- Vậy Đức Maria là ai?
Mọi người đều thinh
lặng không một ai đã trả lời. Ngài lại hỏi thêm một lần nữa:
- Vậy ai có thể nói
cho tôi hay Đức Maria là ai?
Sau cùng một bà già đã
trả lời:
- Thưa cha, Đức Maria
là Mẹ Thiên Chúa.
Vị linh mục nói:
- Đúng lắm, Đức Maria
là Mẹ Thiên Chúa, nhưng tôi muốn biết ngài còn là ai nữa?
Tiếp theo là những câu
trả lời khác nhau:
- Mẹ là Nữ vương thiên
đàng, là nơi ẩn náu của kẻ tội lỗi…
Vị linh mục mỉm cười
và bảo:
- Đúng lắm, tất cả đều
đúng nhưng chưa đủ, bởi vì Đức Maria còn là Mẹ tôi nữa.
Vâng, Đức Maria là Mẹ
chúng ta. Trên thế gian, chúng ta không một ai đã yêu thương chúng ta, không
một ai đã sẵn sàng lắng nghe chúng ta kêu cầu, cảm thông và giúp đỡ chúng ta
trong mọi hoàn cảnh như Mẹ.
Hôm nay, ngày đầu năm
dương lịch, chúng ta mừng kính Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa. Chúng ta phó thác
năm mới này cho Mẹ để xin Me nâng đỡ chở che.
Sở dĩ chúng ta biết
Đức Maria là Me Thiên Chúa, bởi vì Đức Maria là Mẹ của Chúa Giêsu. Đồng thời
chúng ta cũng tin rằng Chúa Giêsu vừa là người vừa là Thiên Chúa. Bởi đó, một
khi đã là Mẹ của Chúa Giêsu, thì Đức Maria cũng là Mẹ của Thiên Chúa làm người.
Không ai được nói rằng Đức Maria đã sinh ra thiên tính của Chúa Giêsu. Nhưng
chúng ta chỉ đơn giản tuyên xưng rằng Đức Maria là Mẹ của Chúa Giêsu, Đấng vừa
là người lại vừa là Thiên Chúa. Từ đó chúng ta có thể đi tới một kết luận quan
trọng như sau:
Vì là Mẹ của Thiên
Chúa làm người cho nên Đức Maria cũng là Mẹ thật của mỗi người chúng ta. Trong
lòng Giáo hội, gia đình của Thiên Chúa thì Đức Kitô là anh cả còn chúng ta là
những người em. Một khi Đức Maria đã là Mẹ của Chúa Giêsu thì ngài cũng là Mẹ
của chúng ta nữa.
Vậy chúng ta phải làm
gì để khởi đầu cho năm mới 2008 này? Nếu không có Mẹ Maria thì không có sự
sống. Vì thế, ngay cả Chúa Giêsu cũng phải có Mẹ. Nếu cuộc sống con người khởi
đầu từ người mẹ, thì mỗi chặng đường đời của chúng ta., chẳng hạn một năm mới,
cũng khởi đầu với Đức Maria: Mẹ Thiên Chúa và Mẹ chúng ta.
Người mẹ đón nhận con
mình mỗi buổi sáng, Đức Maria đón nhận chúng ta ngày đầu năm, Mẹ nghiêng mình
trên chúng ta, nuôi dưỡng, bao bọc và chạy chữa chúng ta cùng với biết bao biểu
lộ của yêu thương và trìu mến.
Người mẹ làm cho ngày
mới của đứa con có một ý nghĩa, thì Đức Maria cũng làm cho năm mới của chúng ta
có một ý nghĩa.
Để kết luận chúng ta
hãy xin Mẹ Maria cầu bầu cho chúng ta hôm nay, ngày đầu năm mới và suốt cả
những tháng ngày kế tiếp, để trong năm mới nay, chúng ta sẽ sống gắn bó với
Chúa và Mẹ. Như thế, năm mới này sẽ là một năm bình an và hạnh phúc. Đó cũng là
lời cầu chúc tôi xin gửi đến với anh chị em.
14. Nữ Vương Hòa Bình
Hôm nay chúng ta mừng
kính lễ Mẹ Thiên Chúa, chúng ta cầu nguyện cho nền hòa bình thế giới, và chúng
ta chính thức bước vào năm mới 2012.
Khởi đầu thế kỷ 21,
chúng ta đã được chứng giám việc khủng bố chiếm máy bay và đâm vào tòa tháp đôi
tại Nữu Ước. Rồi từ đó, chiến tranh bùng nổ tại Afghanistan, tại Irak, khủng bố
dường như có mặt ở khắp nơi. Và gần đây những cuộc thử hạt nhân ở Iran và Triều
Tiên, đã làm cho thế giới nóng lên vì hận thù, vì chiến tranh.
Chính vì thế, trong
tinh thần liên đới và ý thức rằng: Hòa bình là một hồng ân của Thiên Chúa,
chúng ta hãy hiệp ý cầu nguyện cho yêu thương được ngự trị, cho oán thù được
tiêu tan, cho mọi người biết tha thứ và yêu thương nhau như chính bản thân
mình. Tất cả những ý nguyện ấy như một âm vang của lời kinh hòa bình: Lạy Chúa,
xin hãy dùng con như khí cụ bình an của Chúa, để con đem yêu thương vào nơi oán
thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an hòa vào nơi tranh chấp, đem chân lý
vào chốn lỗi lầm.
Lời kinh này là của
thánh Phanxicô Assie, một người được cả thế giới chọn làm biểu tượng của hòa
bình, bởi vì ngài là một người nghèo khó đích thực của Thiên Chúa. Có lẽ ai
trong chúng ta cũng còn nhớ cái giai thoại sau đây:
Vì đã đem hết gia tài
phân phát cho kẻ nghèo đói, nên ngài đã bị người cha đem ra tòa, đòi phải từ bỏ
mọi tài sản mà gia đình muốn để lại. Không một chút do dự, Phanxicô đã trút bỏ
áo quần để trả lại cho người cha như một biểu tượng của tài sản cuối cùng mà
ngài nhận được từ gia đình. Và cũng từ đó, Phanxicô đã trở thành người nghèo
khó đích thực của Thiên Chúa.
Thế nhưng, ngài có tất
cả mọi sự, bởi vì ngài có Thiên Chúa làm gia nghiệp. Một khi đã có Thiên Chúa
thì ngài cũng có được niềm vui trọn vẹn. Cho nên, ngài không những có sự bình
thản trong tâm hồn mà còn có sự hòa hợp với người khác và ngay cả với thiên
nhiên. Hòa bình trong chính bản thân, hòa bình với tha nhân đó chính là cái lý
tưởng mà ngài đã để lại cho thế giới.
Chúng ta cũng hãy
chiêm ngưỡng Mẹ Maria, Nữ Vương Hòa Bình. Giáo hội có thói quen cử hành ngày
hòa bình thế giới vào ngày đầu năm dương lịch kính Mẹ Thiên Chúa. Sở dĩ chúng
ta gọi Mẹ là Nữ Vương Hòa Bình, bởi vì Mẹ là người nữ tì khiêm hạ và khó nghèo
của Thiên Chúa. Mẹ đã trút bỏ mọi sự để trở thành trống rỗng và rồi được chính
Thiên Chúa lấp đầy.
Như thế, người xây
dựng hòa bình là người được Thiên Chúa lấp đầy tâm hồn mình. Cũng như Mẹ Maria
và thánh Phanxicô, chúng ta cũng được mời gọi trút bỏ mọi sự. Tinh thần nghèo
khó đích thực cũng chính là một thể hiện của tinh thần hòa bình. Bởi vì, khi
con người không còn màng đến bất cứ một thứ riêng tư nào, khi con người không
còn muốn chiếm hữu bất cứ một thứ của cải nào, thì lúc đó con người có thể bình
thản đến với Chúa và với anh em.
Hòa bình là một cuộc
ra đi không ngừng và ra đi là để đến với Thiên Chúa và đến với người khác, bằng
tha thứ, bằng yêu thương, bằng giúp đỡ.
Bởi vì, Như lời thiên
thần đã hát vang trong đêm Giáng sinh: Bình an dưới thế cho người thiện tâm.
15. Mẹ Thiên Chúa.
Có một chàng thanh
niên sống bê tha và tội lỗi. Anh cảm thấy chán nản và tuyệt vọng... Trong cơn
khủng hoảng ấy, tình cờ anh đã bước vào một ngôi nhà thờ và đến ngồi trước
tượng Đức Mẹ. Anh không thuộc một lời kinh nào để cầu nguyện và anh cũng chẳng
biết Đức Mẹ là ai. Vì thế anh đã thốt lên:
- Nếu Ngài quả thực
hiện diện nơi đây, thì xin hãy làm cho con được tin.
Bỗng dưng như có một
làn gió mát thổi vào tâm hồn và anh cảm thấy được bình an và sau đó đã làm lại
cuộc đời mình.
Từ câu chuyện trên
chúng ta nhận thấy Mẹ Maria không phải chỉ là Mẹ Thiên Chúa, mà còn là mẹ của
mỗi người chúng ta. Mẹ hằng yêu thương, chăm sóc và giúp đỡ chúng ta.
Khi sinh Đức Kitô, thì
đồng thời, Mẹ cũng sinh ra một nhân loại mới, như lời thánh Phaolô đã xác
quyết: Khi thời gian viên mãn, Thiên Chúa sai Con Ngài xuống thế, sinh làm con
một người nữ và sống dưới chế độ luật Do Thái để cứu chuộc những người sống
dưới luật đó, hầu chúng ta trở thành con cái Thiên Chúa.
Và Công đồng Vat. II
đã diễn tả: qua mầu nhiệm nhập thể, Con Thiên Chúa đã tự liên kết mình với mọi
người. Ngài làm việc bằng đôi tay, suy nghĩ bằng khối óc, hành động bằng sự
chọn lựa và yêu thương bằng trái tim loài người. Sinh ra từ lòng Đức Trinh Nữ
Maria, Ngài thực sự trở thành một người trong chúng ta, hoàn toàn giống như
chúng ta, ngoại trừ tội lỗi.
Đức Maria là mẹ chúng
ta, nên Mẹ luôn nâng đỡ bầu cử cho chúng ta trước mặt Chúa. Không biết đến Mẹ
là không biết đến món quà quí giá mà Thiên Chúa đã ban tặng, đó chính là tình
mẫu tử của Mẹ Maria đối với chúng ta.
Điều này khiến chúng
ta nghĩ tới năm mới. Năm mới với niềm hy vọng mới, với cuộc đời mới, là cơ hội
để chúng ta bắt đầu lại. Năm cũ đã qua rồi, năm mới như trang giấy mở rộng
trước mắt chúng ta. Thật là thích hợp khi Giáo Hội chọn ngày đầu năm để mừng
kính Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa. Sự kiện này nhắc chúng ta nhớ đến tình mẫu tử
của Me, nhớ đó chúng ta có được niềm hy vọng mới và cuộc đời mới.
Nếu chúng ta đang tìm
cho mình một hướng đi trong năm mới, thiết thưởng không một hướng đi nào vừa
bảo đảm lại vừa tốt đẹp cho bằng hãy chạy đến với Đức Maria. Với chức vụ làm Mẹ
Thiên Chúa, Mẹ có đủ khả năng để bầu cử và giúp đỡ chúng ta. Với địa vị làm mẹ
chúng ta, ẹ có dư tình thương, để sẵn sàng thực hiện những điều chúng ta van
xin, vì vậy chúng ta vốn thường đọc:
- Xưa nay chưa từng
nghe nói có người nào chạy đến kêu xin cùng Mẹ mà Mẹ chẳng nhận lời.
Hay như thánh Bernado
cũng đã bảo:
- Kêu xin Mẹ, chúng ta
sẽ không bao giờ bị lầm được lạc lối.
Bởi đó trong giây phút
linh thiêng này, chúng ta hãy đặt trót 365 ngày của năm mới này dưới sự che chở
và nâng đỡ của Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa và Mẹ chúng ta.
16. Hãy cho trẻ em một tương lai hoà bình.
(Trích trong ‘Niềm Vui
Chia Sẻ’)
Từ xưa, khi mừng lễ
Giáng Sinh, Giáo Hội vẫn chú tâm đến Đức Maria và không ngừng chiêm ngắm khuôn
mặt của Đức Mẹ bên cạnh máng cỏ Hài Nhi Giêsu.
Nhưng ngày đầu năm
dương lịch hôm nay, Giáo Hội mừng kính đặc biệt Đức Maria với tước hiệu là Mẹ
Thiên Chúa. Và từ năm 1968, Đức Giáo Hoàng Phaolô VI lại dành ngày đầu năm
dương lịch để cầu nguyện cho hoà bình thế giới.
Thưa anh chị em,
Nhìn vào hang đá, ai
lại không nói rằng Đức Maria là Mẹ của Chúa Giêsu. Và sở dĩ chúng ta chú ý đến
máng cỏ là vì Hài Nhi Giêsu nằm đó là chính Thiên Chúa Nhập Thể làm người, là
con của Đức Maria. Thiên Chúa hằng hữu, tự mình mà có và không ai sinh ra Ngài.
Nhưng nay Thiên Chúa đã sinh làm người, sinh bởi một người nữ, một người mẹ.
Đức Maria đã sinh ra Chúa Giêsu, nên Đức Maria cũng là Mẹ Thiên Chúa. Giáo Hội
luôn kêu cầu Mẹ: “Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời”.
Trong Tin Mừng hôm
nay, Mẹ Maria hiện ra như là một từ mẫu ghi sâu tất cả những gì liên hệ đến Con
của mình và suy đi nghĩ lại trong lòng. Quả thật, người mẹ nào không tự hỏi về
tương lai của con mình? Bất cứ dấu hiệu nào cũng khiến người mẹ suy nghĩ. Đức
Maria không suy đi nghĩ lại sao được khi thấy các mục đồng đến thăm và kể
chuyện về các thiên thần hiện ra ban đêm báo tin cho họ? Và Mẹ có thể nào không
suy nghĩ về danh “Giêsu” (Chúa Cứu) mà từ nay theo lệnh sứ thần, Mẹ sẽ dùng để
gọi Con mình. Chính sứ thần đã giải thích trong buổi truyền tin: “Bà sẽ gọi Con
Trẻ là Giêsu. Ngài sẽ nên cao trọng và được gọi là Con Đấng Tối Cao. Chính Chúa
là Thiên Chúa sẽ ban cho Ngài ngai báu vua Đavít, cha Ngài, và Ngài sẽ cai trị
trong nhà Giacob đến muôn đời”. Những lời đó không đơn giản dễ hiểu. Nội dung
chắc chắn vô cùng phong phú. Maria dĩ nhiên phải suy đi nghĩ lại trong lòng.
Anh chị em thân mến,
Chính lúc một người mẹ
trần gian gọi Thiên Chúa bằng con, thì trên trời các thiên thần ca hát: “Vinh
danh Thiên Chúa trên trời, hoà bình dưới thế cho loài người Chúa thương”. Con
Thiên Chúa gọi một người nữ bằng mẹ, để tất cả những ai sinh ra bởi người nữ,
dù ở địa vị nào, giai cấp nào, đều được gọi Thiên Chúa là Cha và gọi nhau là
anh em. Chúa Giêsu là Thiên Chúa làm người để làm “ôTrưởngam giữa một đoàn em
đông đúc” (Rm 8,29) và “không còn phân biệt Do Thái hay Hy Lạp, nô lệ hay tự
do, nam hay nữ, vì tất cả chỉ là một trong Đức Kitô Giêsu” (Gl 3,28).
Trong lòng Trinh Nữ
Maria, Thiên Chúa và con người đã gặp lại nhau, và con người đã gặp lại con
người. Đó là vinh danh Thiên Chúa trên trời. Đó cũng là hoà bình dưới đất cho
loài người. Vì thế, hôm nay được chọn làm ngày Thế Giới Cầu Nguyện Cho Hoà Bình.
Chủ đề của sứ điệp Ngày Thế Giới Hoà Bình năm nay (1996) là: “Hãy cho trẻ em
một tương lai hoà bình”. Thế giới chúng ta, kể cả thế giới của các tôn giáo, là
thế giới của người lớn, của những kẻ thích làm lớn. Thế giới của chúng ta là
thế giới mà trẻ thơ bị xua đuổi, bị loại trừ, nhiều khi ngay từ khi chúng mới
chỉ là những bào thai, và nếu như không kịp bị huỷ hoại, thì cũng bị bỏ rơi khi
mới chào đời. Còn những em nào lớn lên, thì sẽ bị khai thác bóc lột, kể cả khai
thác trong cái “kỹ nghệ” tội ác, đó “du lịch tình dục”.
Đức Thánh Cha đã viết:
“Những gì xảy ra cho Hài Nhi Giêsu ở Bêlem cũng đang xảy ra cho các trẻ em trên
khắp thế giới. Có biết bao trẻ em đang là nạn nhân của đói khổ, của chiến
tranh, đang bị cha mẹ bỏ rơi, đang sống cảnh màn trời chiếu đất, đang đau khổ
vì biết bao hình thức bạo động và xung đột của người lớn”.
Để có một vài con số
cụ thể, chúng ta chỉ cần lắng nghe báo cáo của tổ chức Nhi Đồng Quốc Tế
(UNICEF) về tình trạng trẻ em trên thế giới năm 1995 như sau: “Trong những thập
niên cuối của thế kỷ 20 đang có khoảng 2 triệu trẻ em chết vì chiến tranh, từ 4
đến 5 triệu tật nguyền, hơn 5 triệu sống trong các trại tỵ nạn, trên 12 triệu
sống cảnh không nhà không cửa”. Bản báo cáo ước tính cần phải có ít nhất 34 tỷ
Mỹ kim mới có thể đảm bảo các nhu cầu về dinh dưỡng, sức khoẻ, giáo dục cho các
trẻ em trên khắp thế giới.
Đức Thánh Cha kêu gọi
người lớn chúng ta “Hãy cho trẻ em một tương lai hoà bình”. Tương lai hoà bình
của trẻ em phải là một vấn đề chiến lược của thế giới, vấn đề chính sách của
quốc gia. Các nhà lãnh đạo thế giới và các nhà cầm quyền quốc gia phải chịu
trách nhiệm trước nhân loại và dân tộc mình về thảm trạng của các trẻ em.
Tuy nhiên, chính những
người Kitô hữu cũng cần phải ý thức rằng, với tư cách là cha mẹ, là anh chị em,
là người thân trong gia đình, tất cả chúng ta đều là những người trước tiên có
trách nhiệm đối với con em chúng ta. Sống cho con cái, nuôi dưỡng và giáo dục
chúng nên người, đó là trách nhiệm hàng đầu của bậc cha mẹ để tạo cho trẻ em
một tương lai hoà bình.
Anh chị em thân mến,
Chúng ta hãy suy nghĩ
về tương lai hoà bình của các trẻ em như Đức Maria hằng suy đi nghĩ lại trong
lòng về những gì liên hệ đến Con của Mẹ. Mẹ suy nghĩ về Danh “Giêsu” có nghĩa
là “Cứu Thế”. Danh đó phải được kêu cầu trên con cái loài người, để phúc lộc
phong phú cụ thể là chính Thánh Thần mà Thiên Chúa muốn đổ xuống lòng mọi người
trong năm mới, để khi chúng ta gọi Chúa là Cha thì chúng ta thấy mình là anh em
với nhau (x. Bđ 2), để sống yêu thương nhau, cùng nhau xây dựng tương lai hoà
bình và hạnh phúc cho mọi người anh em.
17. Nhân loại mới – ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Tám ngày sau khi sinh,
Chúa Giêsu được dâng vào đền thờ, chịu phép cắt bì và được đặt tên theo luật Do
thái. Đối với người Do thái, tên là người. Vì thế việc đặt tên có ý nghĩa quan
trọng. Giêsu có nghĩa là Thiên-Chúa-cứu. Chúa Giêsu là Thiên Chúa. Con người
không thể sinh ra Thiên Chúa. Nhưng Thiên Chúa tự nguyện làm con loài người.
Nhờ đó Đức Mẹ trở thành Mẹ Thiên Chúa. Sinh ra Chúa Giêsu, Đức Mẹ sinh ra một
nhân loại mới để cứu nhân loại cũ do bà Evà sinh ra, đã hư hỏng vì tội lỗi.
Đức Mẹ sinh ra nhân
loại mới. Bà Evà sinh ra nhân loại cũ. Nhân loại cũ được sinh ra từ đất
thấp. Thiên Chúa muốn nâng con người lên trời cao. Nhưng đất thấp lôi kéo con người
chìm xuống. Vì thế con người đã từ địa vị con cái rơi xuống thân phận nô lệ.
Trái lại, Đức Mẹ sinh ra một nhân loại mới. Nhân loại mới sinh xuống từ trời
cao. Chúa Giêsu là Adam mới, từ trời hạ mình xuống để nâng con người lên. Giải
thoát khỏi tình trạng nô lệ. Phục hồi địa vị làm con Thiên Chúa.
Đức Mẹ sinh ra Chúa
Giêsu do lời chúc phúc. Bà Evà sinh con do lời chúc dữ. Sau khi hai ông bà nguyên tổ
phạm tội, Thiên Chúa đã tuyên án cho bà Evà: “Ta sẽ làm cho ngươi phải cực nhọc
thật nhiều khi thai nghén; ngươi sẽ phải cực nhọc lúc sinh con.” (St 3,16).
Trái lại, Đức Mẹ sinh ra Chúa Giêsu do lời chúc phúc như lời Thiên sứ: “Mừng
vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng.” Và bà thánh Êlizabeth nói: “Em được chúc phúc
hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc.” (Lc
1,42).
Đức Mẹ sinh con bởi
phép Chúa Thánh Thần. Bà Evà sinh con do xác thịt. Như lời Thiên Chúa nói: “Ngươi sẽ
thèm muốn chồng ngươi.” (St 1,16). Trái lại, Đức Mẹ sinh con bởi phép Chúa
Thánh Thần. Như lời Thiên thần truyền: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà... vì
thế Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa.” (Lc 1,35). Nếu nhân
loại cũ được sinh ra theo xác thịt thì nhân loại mới được sinh ra “không phải
do khí huyết, cũng chẳng do ước muốn của nhục thể, hoặc do ước muốn của người
đàn ông, nhưng do bởi Thiên Chúa” (Ga 1,13).
Đức Mẹ quảng đại sinh
ra người con quên mình. Bà Evà ích kỷ sinh ra Cain là đứa con ham hố. Vì muốn chiếm vị
trí trung tâm, nó đã đẩy em là Abel ra vùng ngoại vi. Loại trừ em. Giết chết
em. Trái lại, Đức Mẹ quảng đại sinh ra một người con quên mình. Chúa Giêsu là
người anh cả, từ bỏ vị trí trung tâm, đi ra vùng ngoại biên nghèo khổ. Người tự
hiến mạng sống, để đưa chúng ta là đàn em trở lại vị trí trung tâm, trong cung
lòng Thiên Chúa.
Đức Mẹ mở lòng đón
nhận sinh ra một thế giới huynh đệ. Bà Evà đóng kín vào
bản thân, sinh ra những đứa con chia rẽ bất hoà. Tháp babel khiến cộng đồng
nhân loại tan rã. Trái lại, Đức Mẹ mở lòng đón nhận, nên đã sinh ra Chúa Giêsu
là nhân loại mới sống chan hòa tình huynh đệ. Đón tiếp mục đồng là những người
nghèo khổ. Đón tiếp ba vua là những người xa lạ. Để tất cả trở thành anh em một
nhà.
Đức Mẹ vâng phục sinh
người con hiếu thảo. Bà Evà phản loạn sinh ra những đứa con bất hiếu, chối bỏ Thiên
Chúa là Cha. Trái lại, Đức Mẹ vâng phục nên đã sinh Chúa Giêsu là người con
hiếu thảo. Nhờ luôn vâng phục thánh ý Chúa Cha, Chúa Giêsu qui tụ người muôn
nước sống hài hoà dưới mái nhà Cha chung trên trời. Và nhờ đó ta được hưởng
hạnh phúc với Chúa như lời thư Galát: “Vậy anh em không còn phải là nô lệ nữa,
nhưng là con, mà đã là con thì cùng là người thừa kế, nhờ Thiên Chúa.”
Ngày đầu năm ta mong
ước những điều mới mẻ. Nhưng thế giới chỉ đổi mới khi có những con người mới.
Điều quan trọng là bản thân ta đổi mới. Chính vì thế Giáo hội cầu bình an và
đặt năm mới trong bàn tay Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa.
Như xưa Mẹ đã sinh ra
Chúa Giêsu, khởi đầu nhân loại mới, nay xin Mẹ cũng sinh lại chúng ta. Để chúng
ta trở nên con người mới. Vượt thoát những tầm thường ti tiện của đất thấp, để được sinh
lại thanh thoát từ trời cao. Thoát khỏi lời chúc dữ để được sinh lại tràn đầy
ân sủng do lời chúc phúc. Thoát khỏi ràng buộc của xác thịt nặng nề để được
sinh lại trong Thần Khí tự do.
Con người mới theo
khuôn mẫu Chúa Kitô sẽ biết quảng đại cho đi. Biết ra đi đến những miền ngoại biên,
gặp gỡ những anh em bị loại trừ, đưa con người trở về vị trí trung tâm. Con
người mới sẽ biết mở lòng đón nhận mọi anh em dù khác biệt. Xây dựng thế giới
thành một gia đình thân thương, biến thế giới thành một mái nhà chung bình an
hạnh phúc. Mọi người trở thành anh em con cùng một Cha trên trời.
Như thế nhân loại được
đặt trong bàn tay Thiên Chúa. Và thế giới được chúc phúc như lời Chúa hứa trong
sách Dân Số: “Chúc như thế là đặt con cái Israel dưới quyền bảo trợ của Ta, và
Ta, Ta sẽ chúc lành cho chúng.” Đó chính là nhân loại mới. Đó chính là trời mới
đất mới. Đó chính là niềm bình an hạnh phúc ta mơ ước.
Lạy Chúa Giêsu Hài
Đồng, Chúa sinh xuống trần để mở ra kỷ nguyên mới. Xin cho con biết sinh lại
thành con người mới. Để góp phần xây dựng thế giới an bình hạnh phúc trong tình
huynh đệ chân thành. Amen.
18. Suy niệm của ĐTGM. Ngô Quang Kiệt.
CƯU MANG VÀ SINH HẠ
MỘT THẾ GIỚI MỚI.
Hôm nay các mục đồng
vào hang đá và nhận thấy một Hài Nhi sơ sinh nằm trong máng cỏ. Hài Nhi Giêsu
chào đời khai sinh một thế giới mới. Đức Mẹ đã sinh ra một con người mới.
Đức Mẹ sinh ra một thế
giới mới để sửa chữa thế giới cũ do Evà sinh ra. Thế giới cũ của bà Evà
là một thế giới đổ vỡ. Từ chỗ bất tuân lệnh Thiên Chúa, thế giới đã đi đến chỗ
bất hoà với nhau: ông Adong đổ lỗi cho bà Evà, bà Evà đổ lỗi cho con rắn. Không
những bất hoà với nhau mà còn bất hoà cả với súc vật, cỏ cây, ruộng đất. Và từ
chỗ bất hoà đi đến bất hạnh: Anh em Cain và Aben giết lẫn nhau. Con người phân
tán, chia rẽ. Thế giới đổ vỡ này phát sinh từ lòng kiêu ngạo và thói ích kỷ chỉ
nghĩ đến bản thân mình.
Thế giới mà Đức Mẹ
sinh ra là một thế giới vâng phục Thiên Chúa. Chúa Giêsu hoàn toàn
vâng phục thánh ý Chúa Cha nên đã sinh xuống thế làm người và từ bỏ ý riêng,
sẵn sàng vâng phục thánh ý Chúa Cha cho đến nỗi bằng lòng chịu chết trên thập
giá. Đức Mẹ vâng phục thánh ý Thiên Chúa khi thưa “Xin vâng” với thiên thần.
Thánh Giuse vâng phục Thiên Chúa nên trở về nhận Đức Mẹ làm bạn. Các mục đồng
vâng theo lời thiên thần đến hang Bêlem tìm Chúa. Ba Vua vâng phục theo ánh
sáng ngôi sao đến thờ lạy Chúa.
Thế giới mà Đức Mẹ sinh
ra là một thế giới hài hoà. Sự hài hoà không phải
chỉ có giữa Chúa Giêsu với Đức Mẹ và Thánh Giuse. Cảnh Chúa Giêsu nằm giữa
thiên nhiên, trong hơi ấm của bầy chiên bò, với đoàn mục đồng và Ba Vua quây
quần chung quanh nói lên một thế giới chung sống hoà bình. Chúa sống hoà hợp
với trời đất, với con người và với thiên nhiên. Con người sống hoà hợp với Chúa
và với nhau.
Thế giới mới mà Đức Mẹ
sinh ra là một thế giới quên mình. Chúa Giêsu đã quên địa
vị mình là Thiên Chúa để xuống ở với nhân loại. Chúa Giêsu đã quên mình là Đấng
thánh thiện để đến với người tội lỗi. Chúa đã quên mình là Thầy, là Cha, nên
quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ, các con cái của mình. Và nhất là Chúa đã
quên mình là vô tội đến nỗi sẵn lòng hiến thân chịu chết cho loài người tội lỗi.
Thánh Giuse và Đức Mẹ quên mình để đi vào chương trình của Thiên Chúa. Mục đồng
quên mình, giữa đêm khuya lạnh lẽo, bỏ giấc ngủ đến tìm Chúa. Ba Vua quên mình
bỏ nhà cửa tiện nghi, lên đường, chịu vất vả khó nhọc đến thờ lạy Chúa. Sự quên
mình, quan tâm lo lắng chăm sóc cho người khác đã khai sinh một thế giới mới
chan chứa tình yêu thương và ấm áp sự hoà thuận. Đó chính là cảnh thái bình
đáng mong ước.
Ngày đầu năm mới, Giáo
Hội mừng kính Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, với mong muốn thế giới luôn được sinh lại,
được đổi mới. Chỉ khi sinh lại trong Chúa và trong Đức Mẹ, thế giới mới thực sự
có hoà bình.
Ngày đầu năm mới, Giáo
Hội mừng kính Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, với mong muốn đặt thế giới vào tay Đức
Mẹ để thế giới luôn được sinh lại, được đổi mới. Chỉ khi sinh lại trong Chúa và
trong Đức Mẹ, thế giới mới thực sự có hoà bình.
Ngày đầu năm mới, Giáo
Hội cầu nguyện cho hoà bình thế giới, mong ước con người hãy biết sống hài hoà
với nhau trong vâng phục Thiên Chúa, trong quên mình vì người khác để có một
nền hoà bình thực sự trường cửu. Vì hoà bình không chỉ là vắng bóng chiến tranh
nhưng còn là con người sống hài hoà trong tình tương thân tương ái.
Ngày đầu năm mới, Giáo
Hội cũng mời gọi tất cả mọi người chúng ta hãy cùng với Đức Mẹ cưu mang và góp
phần sinh hạ một thế giới mới. Cưu mang chắc chắn phải nặng nhọc. Sinh hạ chắc
chắn phải đớn đau. Nhưng nếu mỗi người đều noi gương Chúa Giêsu, Đức Mẹ, Thánh
Giuse, Ba Vua, các mục đồng và cả súc vật trong hang đá Bêlem biết vâng phục
Thiên Chúa, biết sống hài hoà và quên mình thì mới mong kiến tạo được một nền
hoà bình viên mãn.
Lạy Chúa, xin hãy dùng
con như khí cụ bình an của Chúa, để con trở nên con người mới, góp phần cưu
mang và sinh hạ một thế giới mới như lòng Chúa mong ước. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1. Bạn có mơ ước một
thế giới mới không? Thế giới đó phải bắt đầu từ đâu trước? Từ chính bạn hay từ
người khác?
2. Thế giới của Đức Mẹ
có gì khác thế giới của bà Evà?
3. Đầu năm mới này,
bạn dự tính làm gì để đổi mới thế giới chung quanh bạn?
Ngày đầu năm mới là
một ngày thiêng liêng. Ai cũng mong ước năm mới mọi sự sẽ đổi mới. Sẽ có nhiều
thuận lợi hơn trong cuộc sống. Nhất là được sống bình an. Các bài Sách Thánh
đặc biệt bài Tin mừng hôm nay mời gọi ta hãy tìm đổi mới trong Chúa Giêsu.
Chính Người sinh ra một nhân loại mới. Đó là nhân loại được chúc phúc, được cứu
độ và sống trong an bình.
Đó là một nhân loại
được chúc phúc. Khi Chúa Giêsu ra đời nhân loại được chúc phúc. Có nhiều dấu
hiệu loan báo phúc lành của Chúa. Một làn ánh sáng từ trời soi sáng cánh đồng
Bêlem. Xuất hiện muôn vàn thiên sứ hát mừng trên trời cao. Chúa Giêsu đem phúc
lành của Thiên Chúa đến cho nhân loại. Chúa Giêsu chính là phúc lành tuyệt hảo
của Thiên Chúa. Chúa Giêsu là món quà cao quí nhất Thiên Chúa tặng ban cho nhân
loại. Mang lấy bản tính nhân loại, Chúa Giêsu làm cho nhân loại được chúc phúc
bằng những phúc lành phong phú nhất của Thiên Chúa.
Đó là một nhân loại
được cứu độ. Con trẻ được đặt tên là Giêsu. Tên Giêsu có nghĩa là Thiên Chúa
cứu. Chúa Giêsu đi vào tận những tù ngục giam hãm để giải cứu con người. Người
sinh ra làm một trẻ thơ để nâng đỡ những con người bé nhỏ. Người sinh trong
cảnh thiếu thốn để nâng lên những ai nghèo hèn. Người bị bạo vương Hêrôđê săn
đuổi để đứng về phía những người bị áp bức. Người sinh ra trong chuồng súc vật
tăm tối để trân trọng những ai bị loại trừ. Người là Con Thiên Chúa xuống thế
làm người để nâng con người lên làm con Thiên Chúa. Thật là một cuộc đổi mới
không ai có thể ngờ tới.
Đó là một nhân loại
sống trong hòa bình. Đêm Chúa Giáng Sinh trời đất giao hòa. Trời Bêlem sáng lên.
Thiên nhiên trở nên xinh đẹp. Các thiên thần làm đầy không gian bằng những bài
ca tuyệt diệu của cõi thiên đàng. Các mục đồng vui tươi hớn hở loan truyền tin
vui. Cả một bầu khí hòa bình tỏa ra chung quanh Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đến tái
lập trật tự. Trật tự đó là con người và vạn vật vâng phục Thiên Chúa. Luật lệ
phát xuất từ con người luôn gây ra tranh chấp. Vì con người chỉ nghĩ đến tư lợi
hạn hẹp của riêng mình. Mọi luật lệ muốn công bằng và lâu bền phải qui về Thiên
Chúa. Thiên Chúa ban hòa bình thực sự. Hòa bình trong công lý. Công lý là những
người bé nhỏ, yếu ớt phải được tôn trọng. Chúa Giêsu tự nguyện làm trẻ nhỏ sơ
sinh chính là một nền hòa bình trong vâng phục Thiên Chúa và là công lý kêu gọi
kính trọng bảo vệ những kẻ yếu hèn.
Hòa bình như thế không
phải là một trật tự im lìm. Trật tự im lìm chỉ có trong nghĩa địa hay nhà tù.
Đó là trật tự chết chóc, tàn lụi. Trái lại hòa bình là một năng động, là một
sức sống, là sự phấn đấu không ngừng.
Ta hãy chiêm ngắm tấm
gương của các mục đồng. Các mục đồng đã biết lắng nghe sứ điệp hòa bình dù giữa
đêm hôm mùa đông đang say ngủ. Nghe biết sứ điệp hòa bình rồi, các mục đồng vội
vã đi tìm Chúa Giêsu là nguồn mạch hòa bình, dù phải bỏ giấc ngủ, dù phải đi
ngoài trời lạnh giá. Sau khi gặp Chúa, các mục đồng ra đi loan truyền sứ địêp
hòa bình cho mọi người. Đó chính là những phấn đấu không ngừng cho hòa bình.
Chúng ta đặt năm mới
này vào tay Đức Mẹ. Xưa Đức Mẹ đã sinh ra Đấng Cứu Thế mở đầu một nhân loại
mới, nay xin Đức Mẹ cũng cho năm mới này được chúc phúc, được cứu độ và được
hòa bình. Chúng ta cũng cầu nguyện cho mọi người biết noi gương mục đồng, luôn
lắng nghe sứ điệp hòa bình, luôn phấn đấu đi tìm đến nguồn mạch hòa bình và
luôn phấn khởi loan tin mừng hòa bình.
Lạy Đức Mẹ là Mẹ Thiên
Chúa, xin cầu cho chúng con. Amen.
20. Nữ Vương Hoà Bình
(Trích trong ‘Niềm Vui
Chia Sẻ’)
Một bà mẹ có người con
trai bỏ mình trong chiến tranh. Bà không thể nào quên được người con đó. Nỗi
sầu thương cứ mãi mãi vương vấn tâm hồn bà. Bà luôn cầu nguyện để được gặp lại
con, dù chỉ trong năm phút.
Một hôm, Chúa sai
thiên thần báo cho bà chuẩn bị gặp lại con. Những giọt lệ bỗng biến thành niềm
vui, bà thúc giục thiên thần cho bà gặp lại con ngay. Nhưng thiên thần bảo bà:
- Bà hãy bình tĩnh.
Con bà đã là một người trưởng thành. Con bà đã chết 30 năm nay, bà muốn gặp nó
vào tuổi nào: như một người lính chiến ngoài mặt trận, hoặc như một đứa bé chạy
nhảy trên sân trường, hay như một em bé nép mình trong lòng bà?
Không do dự, bà muốn
được gặp lại con như một đứa trẻ nhỏ đến xin lỗi bà vì đã không ngoan, một đứa
bé yếu đuối, nước mắt chảy ràn rụa chạy đến và ngả vào lòng bà. Đó là hình ảnh
mà bà không thể nào quên được về đứa con của bà.
Anh chị em thân mến,
Trong mùa Giáng Sinh,
chúng ta có dịp chiêm ngắm Hài Nhi Giêsu trong máng cỏ. Chúng ta không thể nhìn
thấy Chúa Giêsu mà quên Đức Maria bên cạnh Ngài. Chào đời như một hài nhi, có
lẽ Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta rằng Ngài cần có một người mẹ để được cưu
mang, được sinh ra, được lớn lên như một con người. Có thể nói, mùa Giáng Sinh
cũng là mùa lễ Đức Mẹ. Đặc biệt ngày đầu năm Dương lịch hôm nay, phụng vụ muốn
tôn kính Đức Maria với tước hiệu là Mẹ Thiên Chúa. Và từ năm 1968 Đức Giáo
Hoàng Phaolô VI lại dành ngày 1 tháng Giêng nầy để cầu nguyện cho hoà bình thế
giới. Chủ đề của ngày Hoà Bình Thế Giới năm nay cũng đề cập đến vai trò của
người phụ nữ, người mẹ: “Phụ nữ, nhà giáo dục hoà bình”.
Nhìn vào hang đá, ai
lại không nói rằng Đức Maria là Mẹ của Chúa Giêsu. Và sở dĩ chúng ta chú ý đến
máng cỏ là vì Hài Nhi Giêsu nằm đó là chính Thiên Chúa nhập thể làm người, là
con của Đức Maria. Trong mầu nhiệm Con Thiên Chúa làm người, Đức Maria đã có một
vai trò đặc biệt, vì Người được chọn làm Mẹ Đức Giêsu Kitô, là Thiên Chúa.
Thiên Chúa hằng hữu, tự hữu, không ai sinh ra Thiên Chúa. Nhưng nay, Thiên Chúa
đã sinh ra làm người. Đức Maria đã sinh ra Đức Giêsu là người thật và là Thiên
Chúa thật, nên Đức Maria cũng là Mẹ của Thiên Chúa. Ở những thế Kỷ III-V, có
những lạc giáo phủ nhận tước hiệu Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa, khiến phụng vụ
nhấn mạnh hơn đến tước hiệu nầy.
Chúng ta đừng sợ tước
hiệu nầy xúc phạm đến Thiên Chúa cao cả. Ngài đã chấp nhận giáng trần để trở
nên hoàn toàn như chúng ta, ngoại trừ tội lỗi. Ngài đã chấp nhân mọi luật lệ
sinh sống, đau khổ và tử nạn, thì sao ta lại sợ nói phạm đến Ngài khi bảo Ngài
là con của một người mẹ? Ngài đã gọi chúng ta là anh em và muốn là bạn hữu của
mọi người, và chúng ta lấy đó làm vinh dự, thì chúng ta càng không có lý khi
không muốn tuyên xưng Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa. Suy nghĩ kỹ, chúng ta chỉ có
thể thấy đây là một vinh dự lớn lao cho một người trong loài người chúng ta: Mẹ
Maria. Chúng ta phải hân hoan chúc tụng Mẹ là Đấng đầy ơn phúc: “Thánh Maria,
Đức Mẹ chúa Trời”.
Trong Tin Mừng hôm
nay, Mẹ Maria hiện ra như là một từ mẫu ghi sâu tất cả những điều về Con và suy
đi nghĩ lại trong lòng. Quả thật, người mẹ nào nào không tự hỏi về tương lai
của con mình? Bất cứ dấu hiệu nào cũng khiến người mẹ suy nghĩ. Đức Maria không
suy đi nghĩ lại sao được khi thấy các mục đồng đến thăm và kể chuyện về việc
các thiên thần hiện ra ban đêm báo tin cho họ? Và Mẹ có thể nào không suy nghĩ
về danh “Giêsu” mà từ nay theo lệnh sứ thần, Mẹ sẽ dùng để gọi con mình. Chính
sứ thần đã giải thích trong buổi truyền tin: “Bà sẽ gọi con trẻ là Giêsu. Ngài
sẽ nên cao trọng và được gọi là Con Đấng Tối Cao. Chính Chúa là Thiên Chúa sẽ
ban cho Ngài ngai báu Đavít, Cha Ngài và Ngài sẽ cai trị trong nhà Giacóp đến
muôn đời”. Những lời đó không đơn giản, dễ hiểu. Nội dung chắc chắn vô cùng
phong phú, Maria dĩ nhiên phải suy đi nghĩ lại trong lòng.
Hôm nay, các mục đồng
lại kể thêm về các lời của thiên sứ. Hài Nhi trong máng cỏ là Đấng Cứu Thế, các
thiên thần đã xướng ca: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho
loài người Chúa thương”. Như vậy, Giêsu, Con của Đức Maria thực hiện lời tiên
tri hứa cùng nhà Đavít. Ngài sẽ đem lại hoà bình cho Dân Chúa và vinh quang cho
Thiên Chúa. Đức Maria hôm nay gẫm suy những điều ấy. Đấng Cứu Thế đem lại hoà
bình, và Vua Hoà Bình. Nhưng tại sao trên thế giới hiện nay vẫn còn chiến
tranh, tranh chấp, xung đột? Vì vậy, Đức Giáo Hoàng kêu gọi chúng ta hằng năm
vào ngày đầu năm Dương lịch nầy hãy suy nghĩ và cầu nguyện cho hoà bình thế
giới. “Phụ nữ, nhà giáo dục hoà bình”, đó là chủ đề được Đức Thánh Cha chọn cho
ngày Hoà Bình Thế Giới năm 1995. Với chủ đề nầy, người ta muốn trước tiên công
nhận vai trò không thể thiếu mà người phụ nữ có thể đóng góp cho hoà bình, như
qua việc thường xuyên giáo dục giới trẻ, hay qua sự chống đối những hoàn cảnh
bạo lực thường xảy ra. Qua chủ đề nầy, Đức Giáo Hoàng cũng ước ao vọng lên một
lời mời cấp bách, thôi thúc các chị em phụ nữ này càng trở thành những người xây
dựng không mệt mỏi trong khuôn khổ gia đình mình cũng như trong các tổ chức xã
hội.
Thưa anh chị em,
Đất nước chúng ta đã
thoát khỏi những năm chiến tranh. Nhưng chúng ta vẫn còn nhiệm vụ phải suy nghĩ
về hoà bình. Bởi vì hoà bình không phải chỉ là chấm dứt chiến tranh. Hoà bình
còn là xây dựng bình đẳng, ấm no, thịnh vượng, hạnh phúc nữa. Phần tích cực có
thể nói còn gồm nhiều mặt hơn phần tiêu cực. Vả lại, hết chiến tranh cũng chưa
phải là đã hết những hậu quả của chiến tranh là những thương tích, đổ vỡ vật
chất và tinh thần. Chúng ta phải cải tạo cái cũ, xây dựng cái mới. Hoà bình
hạnh phúc phải là khí thở của mọi người trên thế giới. Chúng ta đóng góp được
gì? Hãy suy nghĩ về hoà bình như Đức Maria hằng suy đi nghĩ lại trong lòng.
Người suy nghĩ về danh “Giêsu”, có nghĩa là cứu thế. Danh đó phải được kêu cầu
trên con cái loài người, để phúc lộc được đổ xuống trên các dân (X.Bđ.1) và
phước lộc phong phú cụ thể là chính Thánh Thần mà Thiên Chúa muốn đổ xuống lòng
mọi người, để khi chúng ta gọi Chúa là Cha thì chúng ta Thấy mình là anh em với
nhau (X. Bđ.2), để sống hoà thuận yêu thương nhau, sống vì hạnh phúc của anh em
mình. Yêu hoà nình thì phải xây dựng công bằng, bác ái, phải kiến tạo bình
đẳng, ấm no, thịnh vượng, hạnh phúc. Hoà bình đòi phải phấn đấu và đấu tranh,
để tiêu diệt cái xấu và phát triển cái tốt. Rất nhiều công tác cụ thể đang ở
tầm tay mỗi người chúng ta. Hết thảy chúng ta hãy tích cực, để không chỉ nói
hoà bình nhưng muốn xây dựng hoà bình. Trong này Thế Giới Hoà Bình hôm nay và
là ngày lễ Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa, chúng ta xin Đức Maria là Nữ Vương Hoà
Bình ban cho chúng ta, cho các gia đình, cho cộng đoàn giáo xứ, nền hoà bình
của Chúa Kitô – Hoà bình mà Đấng Cứu Thế, Con của Mẹ Maria đã đem xuống trần
gian cho loài người trong đêm Giáng Sinh, để chúng ta biết sống hoà thuận yêu
thương nhau, đoàn kết xây dựng hoà bình trên quê hương đất nước và trên toàn
thế giới.
21. Lễ Mẹ Thiên Chúa
(Trích trong ‘Suy Niệm
Phúc Âm Hằng Ngày’ - Radio Veritas Asia)
Đối với Giáo Hội Chính
Thống, tước hiệu nổi bật nhất của Mẹ là "Mẹ Thiên Chúa", trong khi đó
đối với Giáo Hội Công Giáo, Mẹ Maria trước tiên là Mẹ của loài người.
Hai khía cạnh này của
Mẹ Maria được làm nổi bật qua phụng vụ và nghệ thuật của hai Giáo Hội. Một bên
những bức ảnh Icon của Giáo Hội Chính Thộng làm cho người ta nghĩ đến Đức Mẹ
như một vị thần ngự trị trên Thiên Quốc hơn là người phàm. Đàng khác, trong
Giáo Hội Công Giáo các bức tranh và tượng ảnh về Mẹ Maria xem ra nhấn mạnh đến
khía cạnh nhân loại của Mẹ. Khía cạnh nhân loại này thường được chọn làm chân
dung của Đức Mẹ. Như vậy, trong việc tôn kính chính thức của Giáo Hội cũng như
trong tâm tình của người bình dân, tính siêu việt lẫn nhân trần của Mẹ Maria
đều được nêu bật.
Đức Thánh Cha Gioan
Phaolô II trân trọng cả hai truyền thống tôn kính này đối với Mẹ Maria. Ngài
kêu gọi Âu Châu hãy thở bằng hai buồng phổi, một của Đông Phương, một của Tây
Phương. Một sự dung hòa như thế mới có thể bảo tồn được sự tôn kính đúng đắn
dành cho Mẹ Chúa Giêsu.
Trong Phúc Âm thánh
Luca, thánh sử nói về các mục đồng như sau: "Họ liền hối hả ra đi, đến nơi
họ gặp thấy bà Maria cùng với Giuse và Hài Nhi được bọc trong khăn, đặt trong
máng cỏ" (Lc 2,16). Theo các nhà chú giải Kinh Thánh thì đây là một cuộc
cách mạng thinh lặng. Thật thế, lần đầu tiên trong Kinh Thánh người ta thấy tên
của người Mẹ đặt trước tên của người Cha. Đây không phải là một đoạn tuyệt với
truyền thống "trọng nam khinh nữ" của người Do Thái, nhưng tác giả
muốn sắp xếp như thế để nói lên tầm quan trọng của người phụ nữ là Mẹ Maria.
Trong Phúc Âm (Mc
10,14), thánh sử ghi lại thái độ của Chúa Giêsu đối với trẻ em, Chúa Giêsu nói
như sau: "Hãy để trẻ em đến với Ta và đừng xua đuổi chúng, vì Nước Trời
thuộc về những ai nên giống như chúng. Ta bảo các ngươi, ai không đón nhận Nước
Trời như một trẻ em thì sẽ không được vào trong Nước ấy".
Nhưng nên giống như
trẻ em là gì nếu không phải là quay trở lại với Mẹ, tín thác nơi Mẹ. Một số nhà
thần bí trong Giáo Hội xem đây như là một lời khuyến dụ kín đáo của Chúa Giêsu.
Phải chăng Ngài chẳng muốn chúng ta tìm đến với Đấng vì là Mẹ của Con Người,
cũng là Mẹ của tất cả mọi người. Dù sao một trong những nghịch lý lớn nhất mà
Tin Mừng đề ra là tiến đến trong đời sống thiêng liêng không phải là luật tiến
hóa mà là luật của cải hóa.
Các cuộc Đức Mẹ hiện ra
của thời hiện đại đã bắt đầu vào năm 1830, tại một cộng đoàn của Dòng Bác Ái
Vinh Sơn tại đường Du Bac ở Paris Pháp Quốc, Đức Mẹ đã hiện ra cho thánh nữ
Catherine Labouré và ủy thác cho thánh nữ quảng bá việc tôn kính ảnh Đức Mẹ hay
làm phép lạ. Lời kinh được truyền phải đọc trong việc tôn kính ảnh Đức Mẹ có
nội dung như sau: "Lạy Đức Maria, là Đấng đã được cưu mang mà không vướng
mắc tội lỗi, xin cầu cho chúng con là những kẻ có tội chạy đến cùng Mẹ".
Nhờ việc này mà giúp cho Giáo Hội định tín về Đức Mẹ Vô Nhiễm vào năm 1854.
Thật ra, đây cũng chỉ là một tước hiệu mà Đức Mẹ đã tự xưng khi hiện ra cho
Bernadetta ở hang đá Lộ Đức nước Pháp vào năm 1858.
Thật thế, nếu Mẹ Maria
là tạo vật duy nhất trong nhân loại đã được cưu mang mà không mang tỳ vết của
tội lỗi, bởi vì tội nguyên tổ là một thực tế chứ không phải là một huyền thoại.
Vào thời ấy, cùng với những khám phá và tiến bộ trong lãnh vực khoa học, con
người thời đại xác tín một cách kiêu hãnh rằng: khoa học, văn hóa và kỹ thuật
rồi ra sẽ biến thế giới thành một thứ thiên đàng trần gian, như vậy nó sẽ khử
trừ mọi ý niệm về tội Nguyên Tổ. Với khả năng vô tận của mình, rồi ra con người
sẽ tự cứu lấy mình chứ không cần phải trông chờ có một đấng cứu thế nào cả.
Thế nhưng, lịch sử đã
diễn ra không như con người của thời đại mơ tưởng, thứ nhân bản chủ nghĩa chối
bỏ cái siêu việt của con người đều dẫn đến sự tự hủy cho con người. Hai trận
thế chiến là sự hiện hữu hùng hồn nhất về sự hủy hoại con người.
Như vậy, sứ điệp mà
Đức Mẹ muốn nhắn gởi cho con người thời đại qua các cuộc hiện ra kể từ năm
1830, trước hết là một sứ điệp về chính tội lỗi của con người. Vì thế, việc tôn
kính Đức Mẹ có giá trị giải phóng con người. Dù vậy, Giáo Hội không bao giờ áp
đặt việc tôn kính đối với Mẹ Thiên Chúa, nhưng để tùy cảm xúc và sáng kiến của
mỗi người tín hữu. Dĩ nhiên, Đức Giáo Hoàng, hàng Giáo Phẩm, các tác giả về tu
đức có thể khuyên nhủ các giáo hữu chạy đến với Mẹ Thiên Chúa bằng nhiều hình
thức tôn kính khác nhau.
Dựa trên kinh nghiệm
ngàn đời của mình, Giáo Hội khuyên các tín hữu tôn kính Mẹ Maria. Tuy nhiên,
Giáo Hội không bao giờ buộc phải tôn kính Mẹ Maria, sẽ không bao giờ Giáo Hội
buộc tôn kính các lần hiện ra của Đức Mẹ, cho dù Giáo Hội công nhận các việc
hiện ra đó. Giáo Hội sẽ không bao giờ áp đặt các việc tôn kính như lần chuỗi,
đi hành hương như là việc làm cần thiết cho ơn cứu rỗi. Giáo Hội sẽ không bao
giờ xem là lạc đạo hay có tội khi một tín hữu không tham dự cuộc rước kiệu Đức
Mẹ, hay một cuộc hành hương đến nơi Đức Mẹ hiện ra. Giáo Hội sẽ không bao giờ
chối bỏ ơn cứu rỗi mà các Giáo Hội khác xây dựng trên niềm tin Kitô của họ, như
trong các Giáo Hội Tin Lành.
Như vậy, việc tôn kính
đối với Mẹ Maria không được nhìn theo phạm trù cần thiết mà là theo phạm trù tự
do, không thuộc về lề luật mà thuộc về tình yêu. Chính tính cách tự do ấy lại
càng làm nổi bật sự thu hút và những ân huệ đặc biệt của lòng tôn kính đối với
Mẹ Thiên Chúa. Mẹ Thiên Chúa xem ra không muốn áp đặt lòng tôn kính dành cho
Mẹ, bởi vì Mẹ vốn là người sống âm thầm, Mẹ cất giữ mọi sự và suy niệm trong
lòng. Thánh Luca đã hai lần ghi lại như thế trong cùng một chương. Mẹ quả thật
nói ít, hay đúng hơn Kinh Thánh nói rất ít về Mẹ, nhưng nhìn cho kỹ thì chính
Mẹ lại là người gợi hứng cho Kinh Thánh.
Dĩ nhiên, với sự kín
đáo và thinh lặng của Mẹ, các nhà chuyên môn Kinh Thánh đều đồng ý rằng: Các
chương nói về đời tư Chúa Giêsu kể từ khi Chúa Giêsu sinh ra thì chính Mẹ là
người duy nhất đã biết thời thơ ấu của Chúa Giêsu và kể lại cho cộng đồng tiên
khởi. Nhưng vẫn thái độ kín đáo và thinh lặng cố hữu, Mẹ luôn đứng ở đàng sau,
chỉ có những ai biết tìm đến và lắng nghe mới có thể nhận ra được sự hiện diện
và tầm quan trọng của Mẹ trong Giáo Hội. Đó chính là ý nghĩa của việc tôn kính
Mẹ Maria mà các tín hữu Kitô đã dành cho Mẹ ngay từ thời Giáo Hội sơ khai.
22. Đức Maria Mẹ Thiên Chúa.
(Bài giảng của Đức
Thánh Cha Bênêđictô XVI
Lễ Đức Maria Mẹ Thiên
Chúa, 01.01.2010)
Trong ngày đầu năm mới
và cũng là Ngày Quốc Tế Hòa Bình, chúng ta vui mừng cử hành lễ Đức Maria rất
thánh, Mẹ Thiên Chúa. Cả hai sự kiện này cùng diễn ra khi chúng ta đang cử hành
Chúa Kitô, Con Thiên Chúa, sinh hạ bởi Đức Trinh Nữ Maria, hòa bình đích thực
của chúng ta! Hướng về tất cả anh chị em đang qui tụ nơi đây, đại diện cho mọi
dân tộc trên thế giới, đại diện cho Giáo hội Rôma và Giáo hội hoàn vũ, đại diện
cho các linh mục và tín hữu, cũng như tất cả mọi người đang hiệp thông với
chúng ta qua các phương tiện truyền thanh, truyền hình, tôi muốn lặp lại lời
cầu chúc của Cựu Ước: “Nguyện Đức Chúa ghé mắt nhìn và ban bình an cho anh chị
em (x. Ds 6,26). Dưới ánh sáng Lời Chúa, hôm nay, tôi muốn triển khai đề tài:
dung mạo của Thiên Chúa và dung mạo của con người, đề tài này cống hiến cho
chúng ta chìa khóa để giải thích những vấn nạn hòa bình trên thế giới.
Trong bài đọc I –
trích từ sách Dân số và trong Thánh vịnh đáp ca, chúng ta đã nghe một vài cách
diễn tả ẩn dụ về dung mạo của Thiên Chúa: “Nguyện Đức Chúa tươi nét mặt nhìn
đến anh chị em và dủ lòng thương anh chị em (Ds 6,25); “Nguyện Chúa Trời dủ
thương và chúc phúc, xin tỏa ánh tôn nhan rạng ngời trên chúng con, cho cả hoàn
cầu biết đường lối Chúa, và muôn nước biết ơn cứu độ của Ngài” (Tv 66/67,2-3).
Dung mạo diễn tả rõ ràng nhất về con người, qua đó tình cảm, suy nghĩ và những
ý định sâu kín trong tâm hồn được bày tỏ. Thiên Chúa vô hình, theo bản tính của
Ngài, nhưng Kinh Thánh vẫn ‘gán’ cho Ngài một “dung mạo”. Trong Kinh Thánh,
kiểu nói “tỏ dung nhan” diễn tả lòng nhân từ của Thiên Chúa, trong khi cách nói
Thiên Chúa “ẩn mặt” ám chỉ Thiên Chúa nổi giận. Sách Xuất Hành nói: “Đức Chúa
đàm đạo với ông Mô-sê, mặt giáp mặt, như hai người bạn với nhau” (Xh 33,11),
Ngài hứa sẽ luôn luôn ở bên ông: “Dung nhan của Ta sẽ đi cùng ngươi, và Ta sẽ
cho ngươi được nghỉ ngơi” (Xh 33,14). Các Thánh Vịnh diễn tả, các tín hữu là
những người tìm kiếm dung nhan Thiên Chúa (x. Tv 26/27,8; 104/105,4). Trong cử
hành phượng tự, các Thánh Vịnh diễn tả nỗi khát khao của con người được chiêm
ngắm dung nhan Thiên Chúa (Tv 42,3), “người chính trực” sẽ được “chiêm ngắm
dung nhan Thiên Chúa” (Tv 10/11,7).
Có thể đọc toàn bộ
Thánh Kinh như là một quá trình tiệm tiến, qua đó Thiên Chúa tỏ dung mạo của
Ngài ra cho con người và Ngài đã bày tỏ một cách trọn vẹn trong Chúa Giêsu
Kitô. “Khi đến thời viên mãn – trong bài đọc II thánh Phaolô nhắn nhủ chúng ta
– Thiên Chúa đã sai Con của Ngài (Gl 4,4) và ngay lập tức thánh Tông Đồ nói
thêm “sinh bởi người phụ nữ và sinh dưới chế độ lề luật”. Thiên Chúa đã nhận
lấy dung mạo của một con người và Thiên Chúa tỏ dung mạo của Ngài trong Người
Con của Đức Trinh Nữ Maria. Vì lý do đó, chúng ta tôn kính Đức Maria với tước
hiệu cao trọng nhất “Mẹ Thiên Chúa”. Đức Maria đã gìn giữ trong tâm hồn mầu nhiệm
thiên chức làm Mẹ Thiên Chúa và Mẹ là người đầu tiên được chiêm ngưỡng dung mạo
Thiên Chúa, Đấng đã trở thành người phàm trong lòng Mẹ. Người mẹ có mối tương
quan đặc biệt, duy nhất và đôi khi độc quyền với đứa trẻ mới được sinh ra. Dung
mạo đầu tiên mà đứa trẻ nhìn thấy là người mẹ, cái nhìn này quyết định mối
tương quan của đứa trẻ với cuộc sống, với chính nó, với người khác và với Thiên
Chúa. Cái nhìn này cũng quyết định tại sao đứa trẻ có thể trở thành “người con
của hòa bình” (Lc 10,6).
Trong truyền thống
Bizantinô, giữa nhiều bức họa Đức Trinh Nữ Maria, có một bức họa được gọi là
Đức Maria “ngọt ngào, êm dịu”, trong bức họa đó gương mặt của Hài Nhi Giêsu áp
sát gương mặt Đức Maria. Hài Nhi Giêsu nhìn Mẹ Maria. Đối với chúng ta, bức họa
này qui chiếu về Đức Maria, người đã cầu nguyện liên lỉ và hằng tuân giữ Lời
Chúa, qui chiếu về sự “êm ái, ngọt ngào” của Thiên Chúa từ trời cao đã giáng
trần và cư ngụ trong lòng Mẹ và nhập thể trong Người Con mà Mẹ đang ẵm trên
tay. Trong bức họa này, chúng ta có thể chiêm ngắm một vài nét phác họa nào đó
về chính Thiên Chúa: dấu chỉ tình yêu vô biên, vì tình yêu đó Thiên Chúa đã
“ban Người Con duy nhất của Ngài” cho nhân loại (Ga 3,16). Nhưng bức họa này
cũng cho chúng ta biết, trong Đức Maria, dung mạo của Giáo hội chiếu tỏa ánh
sáng của Chúa Kitô cho chúng ta và cho toàn thế giới; qua Đức Maria, Giáo hội
gửi đến mỗi người Tin Mừng: “Anh em không còn là nô lệ nữa, nhưng là con cái”
(Gl 4,7) – như chúng ta nghe đọc trong thư của thánh Phaolô.
Anh em Giám mục, Linh
mục, quí vị Đại sứ và các bạn thân mến! Suy tư về mầu nhiệm dung mạo của Thiên
Chúa và dung mạo của con người là con đường ưu tiên dẫn đến hòa bình. Thật vậy,
con đường này khởi đầu bằng cái nhìn tôn trọng con người, nhìn nhận phẩm giá
của người khác dù người đó thuộc bất cứ mầu da, chủng tộc, ngôn ngữ hay tôn
giáo nào. Nhưng ai, nếu không phải là Thiên Chúa có khả năng bảo đảm một cách
“sâu xa nhất” dung mạo của con người? Thật ra, chỉ khi nào chúng ta có Thiên
Chúa trong tâm hồn, chúng ta mới có thể đón nhận dung mạo của người anh em xứng
hợp với phẩm giá của họ, nghĩa là không phải như phương tiện nhưng như là mục
đích, không phải như đối thủ hay kẻ thù nhưng như một “cái tôi” khác của chính
tôi, một khía cạnh không cùng của mầu nhiệm con người. Nhận thức của chúng ta
về thế giới, đặc biệt về anh chị em đồng loại, căn bản phụ thuộc vào sự hiện
diện của Chúa Thánh Thần trong chúng ta. Đây là một sự “cộng hưởng”: Ai có tâm
hồn vô cảm, người ấy không thể nhận ra những giá trị cao cả nơi anh chị em của
mình. Trái lại, nếu chúng ta cư ngụ trong Thiên Chúa, chúng ta sẽ dễ dàng nhận
ra sự hiện diện của Ngài trong thiên nhiên, đặc biệt nơi anh chị em, mặc dù,
đôi khi dung mạo của con người đã bị méo mó do sự dữ, do đời sống khó khăn,
khiến chúng ta không thể nhận ra sự “hiển dung” của Thiên Chúa nơi dung mạo anh
chị em của mình. Hơn nữa, để hiểu nhau và tôn trọng nhau như là anh chị em,
chúng ta cần phải liên hệ đến dung mạo của Thiên Chúa, cha chung của tất cả
chúng ta, Đấng đã yêu mến tất cả chúng ta ngay cả khi chúng ta còn nhiều sai
lỗi và bất toàn.
Khi còn nhỏ tuổi, điều
quan trọng đối với trẻ em là được giáo dục biết tôn trọng người khác, ngay cả
sự khác biệt của họ. Trong các lớp học phổ thông qui tụ trẻ em đến từ nhiều
quốc gia, ngay cả trong các lớp học mà các em cùng chung một quốc gia, dung mạo
của các em như là một lời tiên báo về viễn ảnh một nhân loại mà chúng ta gọi
là: gia đình của mọi gia đình, hay gia đình nhân loại. Những em nhỏ tuổi hơn
trong số những em này lại là những em gợi lên trong chúng ta mối tình huynh đệ
ngọt ngào, êm dịu nhất dù giữa các em có sự khác biệt, chúng khóc cười như
nhau, chúng có nhu cầu như nhau, chúng liên kết với nhau một cách tự nhiên,
chúng chơi chung với nhau… Dung mạo của trẻ thơ như là một phản ánh dự phóng
của Thiên Chúa đối với thế giới. Tại sao chúng ta làm mất đi nụ cười của chúng?
Tại sao chúng ta làm vẩn đục trái tim của chúng? Rất tiếc, bức họa Đức Maria
“êm dịu” đang hiện diện giữa hình ảnh của biết bao nhiêu trẻ em cũng như mẹ của
các em đang đau khổ vì chiến tranh và bạo lực. Họ bị biến thành những người lưu
vong, tị nạn, bị bó buộc phải di cư. Dung mạo của họ bị hủy hoại vì đói khát và
bệnh tật, bị biến dạng vì đau khổ và thất vọng. Dung mạo của các trẻ em vô tội
là hồi chuông báo động không lời đối với trách nhiệm của chúng ta. Đối diện với
hoàn cảnh của trẻ em vô phương tự vệ, tất cả những lý lẽ sai trái biện minh cho
chiến tranh và bạo lực không có lý do đứng vững. Chúng ta phải xây dựng hòa
bình bằng cách loại bỏ mọi loại vũ khí, cùng nhau xây dựng một thế giới xứng
hợp hơn với nhân phẩm con người.
Trong sứ điệp của tôi
nhân Ngày Hòa Bình Thế Giới lần thứ XLIII: “Nếu bạn muốn xây dựng hòa bình, bạn
hãy bảo tồn thiên nhiên”, sứ điệp đặt trọng tâm trên phương diện dung mạo của
Thiên Chúa và dung mạo của con người. Thật vậy, chúng ta có thể khẳng định, con
người có khả năng tôn trọng thiên nhiên bằng cách thấu hiểu thiên nhiên, nếu
không con người sẽ không tôn trọng chính mình và những sự vật chung quanh mình,
không tôn trọng môi trường sống và không tôn trọng thiên nhiên. Ai biết nhận ra
trong vũ trụ, những phản ánh dung mạo vô hình của Đấng Tạo Hóa, người đó sẽ yêu
mến thiên nhiên và nhận ra được những giá trị biểu tượng của chúng. Đặc biệt,
trong các Thánh Vịnh, chứa đựng những chứng từ rất phong phú về mối tương quan
giữa con người với thiên nhiên: trời đất, biển khơi, núi đồi, sông ngòi, sinh
vật….Tác giả thánh vịnh đã thốt lên: “Công trình Ngài, lạy Chúa, quả thiên hình
vạn trạng! Chúa hoàn thành tất cả thật khôn ngoan, những loài Chúa dựng nên lan
tràn mặt đất” (Tv 104/103,24).
Đặc biệt, phương diện
“dung mạo” mời gọi chúng ta dừng lại trên đề tài mà trong sứ điệp Ngày Hòa Bình
Thế Giới, tôi đã gọi là “môi sinh của nhân loại”. Có một mối liên hệ mật thiết
giữa việc tôn trọng con người và bảo tồn thiên nhiên. “Trách nhiệm đối với
thiên nhiên bắt nguồn từ trách nhiệm đối với từng người và đối với toàn thể
nhân loại” (số 12). Nếu con người không được tôn trọng, môi trường sống của con
người cũng không được tôn trọng; nếu văn hóa hướng đến chủ nghĩa hư vô, nếu
không đề ra những chương trình cụ hành động cụ thể, nếu như không thực hiện
những chương trình đã đề ra, thiên nhiên sẽ bị hủy hoại. Thật vậy, có một mối
liên hệ hỗ tương giữa dung mạo của Thiên Chúa và “dung mạo” của môi sinh: “Khi
môi sinh của nhân loại được tôn trọng trong đời sống xã hội, môi trường sinh
thái được bảo tồn” (nt; Bác Ái Trong Chân Lý, s. 51). Một lần nữa, tôi muốn
nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc giáo dục về môi sinh, cũng như thúc đẩy
truyền thông một cách sâu rộng hơn về “trách nhiệm đối với môi sinh”, đặt nền
tảng trên việc tôn trọng con người, quyền lợi và những nghĩa vụ căn bản của họ.
Chỉ có như thế, nỗ lực đối với môi sinh mới có thể thực sự mang lại hòa bình và
xây dựng hòa bình.
Anh chị em thân mến,
trong mùa Giáng sinh, chúng ta nghe một thánh vịnh, giữa nhiều thánh vịnh khác,
diễn tả việc Chúa đến đã biến đổi thiên nhiên và khai mở một lễ hội của vũ trụ.
Thánh vịnh này khơi mào với lời mời gọi toàn thể vũ trụ hãy dâng lời ca ngợi
Chúa: “Hát lên mừng Chúa một bài ca mới, hát lên mừng Chúa, hỡi toàn thể địa
cầu” (Tv 95/96,1). Nhưng có một điều chắc chắn, lời kêu gọi này hướng đến niềm
vui của toàn thể nhân loại: “Trời vui lên, đất hãy nhảy mừng, biển gầm vang
cùng muôn hải vật, ruộng đồng cùng hoa trái, nào hoan hỷ, hỡi cây cối rừng xanh
(Tv 95/96,11-12). Ngày lễ của đức tin trở thành ngày lễ của con người và của
thiên nhiên. Lễ giáng sinh diễn tả ý nghĩa đó, qua việc trang trí cây cối,
đường xá, nhà cửa. Tất cả trở nên rực rỡ vì Thiên Chúa đã hiện diện giữa chúng
ta. Đức Trinh Nữ Maria tỏ Hài Nhi Giêsu cho các mục đồng đang vui mừng, hân
hoan ca tụng Thiên Chúa (x. Lc 2,20). Giáo hội tiếp tục giới thiệu mầu nhiệm đó
cho con người mọi thời, bày tỏ cho họ dung mạo của Thiên Chúa, với ân phúc của
Ngài, họ có thể tiến bước trên con đường hòa bình.
+ Đức Thánh Cha
Bênêđictô XVI
23. “Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời”
(Suy niệm của Lm. Tạ
Duy Tuyền)
Mỗi khi đọc kinh kính
mừng, chúng ta đều thưa lên cùng Mẹ: Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho
chúng con là kẻ có tội, khi nay và trong giờ lâm tử. Khi chúng ta thưa cùng Mẹ
điều đó, là chúng ta ý thức thân phận yếu đuối, mỏng dòn của mình thường hay sa
đi ngã lại trong những lầm lỗi tội lỗi. Đồng thời cũng nói lên sự phó thác cậy
trông nơi Mẹ, là Mẹ của Thiên Chúa và cũng là Mẹ chúng ta.
Vâng, khi nhập thể làm
người Chúa Giêsu cũng được sinh ra từ một người mẹ, và suốt cuộc sống của Chúa
Giêsu dường như luôn có bóng dáng của mẹ hiện diện để khích lệ, an ủi, nhất là
trong lúc chịu đau thương trên thập giá. Mẹ đã ở bên Chúa, cùng hiệp thông
trong đau khổ với Chúa để cứu độ trần gian. Có lẽ vì muốn chúng ta được sống
trong tình mẫu tử của Mẹ, Chúa Giêsu đã trao ban Đức Mẹ cho chúng ta, khi Chúa
nói với Gioan: “Đây là Mẹ của con”, và thánh kinh đã ghi lại: “kể từ lúc đó,
người môn đệ Chúa yêu đã đón Mẹ về nhà của mình”.
Thánh Gioan đã đại
diện cho nhân loại để nhận Mẹ làm Mẹ của chúng sinh. Từ nay Mẹ sẽ tiếp tục nâng
đỡ chúng ta. Mẹ sẽ tiếp tục yêu thương chúng ta. Mẹ sẽ tiếp tục hiện diện trong
cuộc đời chúng ta để chăm sóc, lo lắng và chở che cuộc đời chúng ta. Chúng ta
có thể cảm nghiệm về tình Mẹ Thiên quốc qua hình ảnh người mẹ trần thế. Mẹ trần
thế yêu thương con đến nỗi dám đánh mất chính mình cho con được lớn lên thế
nào, thì người mẹ thiên quốc cũng lo cái lo của con cái dưới thế, cũng đau vời đau
đau của nhân loại, cũng sẵn sàng làm tất cả đế cứu vớt nhân loại lầm than. Có
lẽ ai trong chúng ta cũng thuộc lòng bài ca dao “Con cò ăn đêm” mà các bà mẹ
thường hay hát ru con:
“Con cò mà đi ăn đêm
Đậu phải cành mềm lộn
cổ xuống ao
Ông ơi, ông vớt tôi
vào
Tôi có lòng nào ông
hãy xào măng
Có xào thì xào nước
trong
Đừng xào nước đục đau
lòng cò con”
Bài thơ thật ngắn gọn
nhưng diễn tả về tình yêu của một người mẹ đơn côi, lặn lội nơi bến chợ, bất
chấp tất cả khó khăn cực nhọc để kiếm tiền nuôi con, kể cả việc phải đi ăn đêm.
Nếu số phận có đun rủi bà phải rơi xuống hố sâu lầm lỗi, bà sẵn sàng chịu mọi
sự trừng phạt miễn là ông trời hãy thương lấy đàn con, gìn giữ nó được sống
trong danh dự mà đoạn kết đã diễn tả: “Đừng xào nước đục đau lòng cò con”.
Nghĩa là người mẹ sẵn sàng chịu mọi oan ức, mọi niềm đắng cay, nhưng miễn sao
con của bà đừng bị người đời trừng phạt bởi lầm lỗi của bà, đừng bị người đời
khinh chê vì những đoạn trường đắng cay của mẹ.
Tình yêu của người mẹ
là thế! Bà sẵn sàng hy sinh tất cả miền là đoàn con được hạnh phúc. Trong đời
sống thiêng liêng chúng ta cũng có một người mẹ là Đức Maria, Mẹ của Chúa Giêsu
đã được ban cho chúng ta qua thánh Gioan. Ước gì mỗi người chúng ta cũng biết
đón Mẹ về nhà cuộc đời chúng ta, để chia sẻ những vui buồn trong gia đình chúng
ta. Ước gì chúng ta biết trân trọng gìn giữ Mẹ như bảo ngọc châu báu mà Chúa đã
ban cho chúng ta, đừng để mất Mẹ, vì mất Mẹ là mất cả bầu trời. Ước gì mỗi
người chúng ta biết tin tưởng phó dâng cuộc sống gia đình của mình cho Mẹ và
biết dành một vài giây phút trong ngày để thưa lên cùng Mẹ. Thánh Maria Đức Mẹ
Chúa cầu cho chúng con hôm nay và trong giờ lâm tử. Amen
24. Thân Mẫu Của Vua Hòa Bình - Yvon Daigneault
Hình ảnh đẹp nhất về
hòa bình là hình ảnh một phụ nữ âu yếm bồng con. Và hình ảnh hung bạo nhất của
chiến tranh là hình ảnh một phụ nữ khóc than bên xác của con mình, nạn nhân của
bất cứ loại vũ khí nào.
Khi Thiên Chúa muốn
mặc khải cho chúng ta rằng Ngài đến mặc khải công trình cứu độ mà Ngài thực
hiện để “làm cho chúng ta trở thành con cái Ngài”, thì Ngài đã hiến dâng chính
mình như một trẻ thơ được bồng ẵm trong tay âu yếm của một phụ nữ, Đức Maria,
thân mẫu Ngài.
Trong lễ này, ta hãy
chiêm ngưỡng Đức Maria thân mẫu Chúa Giêsu, vua hòa bình, như Lời Chúa trình
bày cho chúng ta.
Tình mẫu tử của Đức
Maria.
Tin Mừng gợi lên một
cách kín đáo nhưng đúng đắn thực tại tình mẫu tử của Đức Maria. Chỉ hai nét đã
đủ, trong ấy mọi người phụ nữ làm mẹ sẽ nhận ra được mình: lo lắng cho hài nhi
và liên lỉ chú ý đến những biến cố trong cuộc đời của con.
Việc Chúa Giêsu sinh
ra đã không làm cho Đức Maria ngạc nhiên. Người đã giúp đỡ bà chị họ Êlisabet
và có lẽ nhiều người phụ nữ khác trong làng nữa. Người biết phải săn sóc, âu
yếm, an ủi trẻ sơ sinh như thế nào. Và, như tất cả những người mẹ chất chứa
trong ký ức của lòng mình vô số kỷ niệm từ những đứa con bà đã cưu mang và đã
sinh hạ, Đức Maria nhớ tất cả những gì đã xảy ra liên quan đến Chúa Giêsu.
Người ta nhìn thấy Mẹ đầy hạnh phúc sâu xa, đầy vinh dự mà tất cả mọi người mẹ
đều có.
Nhưng tình mẫu tử của
Đức Maria khác biệt với tình mẫu tử của những người mẹ khác. Tin Mừng cho ta
hiểu điều này qua một chi tiết khiến cho nhiều Kitô hữu đầu tiên và cả chúng ta
nữa phải ngạc nhiên: Đức Maria và thánh Giuse đã không tự mình đặt tên cho con
trẻ. Trẻ này, mặc dù sinh bởi Đức Maria nhưng là Con Thiên Chúa. Chính Thiên
Chúa khi đặt tên cho con trẻ sinh bởi Đức Maria, đã khẳng định mình là Cha. Đức
Maria và thánh Giuse chấp nhận mầu nhiệm lớn lao này liên quan đến Con của
mình. Hai đấng tôn trọng Ngài và muốn cho người ta tôn trọng Ngài khi đón tiếp
các mục đồng tò mò và phấn khởi tìm đến trước một trẻ sơ sinh trong dòng họ vua
Đavít.
Thời hòa bình.
Thánh Phaolô, người
đầu tiên trong Thánh Kinh Tân Ước nói đến Đức Maria, đã khẳng định việc người
làm mẹ, việc này chứng tỏ thực tại của ơn cứu độ.
Việc Đức Maria làm mẹ
khai mạc thời đại mới, thời đại ân sủng. Người phụ nữ đầu tiên sinh con đã khai
mạc lịch sử nhân loại. Vào những lúc khác, trong lịch sử Cựu Ước, mỗi giai đoạn
mới lại được mở ra bằng một việc sinh con. Mẹ của Môsê sinh ra ông, bà Rút sinh
ra tổ tiên của Đavít và của Chúa Giêsu. Bà Anna sinh Samuel, bà Êlisabet sinh
Gioan Tẩy Giả. Việc Đức Maria sinh con, công trình của ân sủng chứ không phải
của xác thịt, là biến cố mở đầu ơn cứu độ mà Thiên Chúa muốn ban cho loài
người.
Việc làm mẹ này cũng
mang một tính cách đặc biệt. Nó được loan báo bởi tiếng kêu: Hòa bình cho nhân
loại! Nó bày tỏ công cuộc hòa bình, bởi vì hết thảy mọi người được mời gọi đến
hòa giải với Thiên Chúa nơi Chúa Giêsu sinh bởi Đức Maria. Cho đến tận thế tính
cách làm Mẹ của Đức Maria vẫn là hình ảnh mà Thiên Chúa để lại hầu giúp chúng
ta thực hiện công việc hòa bình giữa chúng ta.
Kết luận.
Khi kết thúc việc cử
hành thánh lễ này chúng ta sẽ thưa với Chúa về niềm hãnh diện của chúng ta khi
nghĩ đến Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa. Chúng ta cũng hiểu rằng chúng ta phải đi
đến tận cùng niềm hãnh diện đó; là con cái, chúng ta thưa Lạy Cha với Thiên
Chúa, vậy trong năm mới này chúng ta có thể sống bình an với nhau không?
25. Tuyệt vời – Lm. Đỗ Vân Lực
Đón chào năm mới, chắc
chắn có nhiều thái độ khác nhau. Người trẻ vui mừng vì càng thêm tuổi, càng
thêm cao lớn. Người già có lẽ đón xuân với nhiều e ngại, dè dặt. E ngại không
phải chỉ vì ngày tháng còn lại, nhưng còn vì thấy mái tóc và nét mặt ngày càng biến
đổi mau lẹ. Bao nhiêu người đã muốn che dấu nỗi e ngại đó bằng những đợt nhuộm
tóc hàng tháng. Người giàu có hơn lại đi căng da mặt mỗi năm. Ít nhất mỗi người
đều cố gắng giữ mãi tuổi xuân hay làm cho mình trẻ lại bằng những mỹ phẩm. Ngày
nay, thẩm mỹ viện không phải chỉ đón tiếp nữ giới. Cả phái mày râu cũng bước vô
đó để sửa cằm, mắt, mũi và... đổi giống nữa.
Ai cũng muốn trẻ đẹp
mãi. Nhưng vẻ đẹp đích thực là gì? Giá trị con người nằm ở chỗ nào? Nhìn lên Mẹ
Maria, Thánh Mẫu Thiên Chúa, chúng ta mới thấy tất cả vẻ đẹp, giá trị và sự
sống đích thực của con người.
Từ ngày còn ngồi trên
gối mẹ, chúng ta đã đọc: “Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời...” Trí khôn chúng ta
còn quá non nớt và khờ dại, làm sao hiểu được mầu nhiệm cao sâu đó? Cho tới bây
giờ, chúng ta vẫn không thấu hiểu những gì chúng ta vẫn đọc hằng ngày. Vậy mà,
Mẹ Maria vẫn ban ơn và cầu bầu cho chúng ta.
Mặc dù tội lỗi, chúng
ta vẫn được Chúa thương ban cho chúng ta cầu khẩn Mẹ với danh hiệu cực thánh:
“Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời...” Càng tội lỗi, chúng ta càng đáng được Mẹ
đoái thương. Sở dĩ chấp nhận làm Thánh Mẫu Thiên Chúa, vì Mẹ đã sinh ra Con
Thiên Chúa làm người để cứu chuộc chúng ta. Mẹ đã ban cho Chúa một thân xác để
có thể sống và trở nên giống chúng ta hoàn toàn. Bởi thế, khi tuyên xưng Đức Mẹ
Thiên Chúa, chúng ta tin chắc chắn về mầu nhiệm nhập thể của Ngôi Hai Thiên
Chúa. Đàng khác, khi cầu nguyện với Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời, chúng ta còn
tin chắc sẽ được Thiên Chúa cứu độ.
Nhận tước hiệu Thánh
Mẫu Thiên Chúa, Mẹ muốn chứng minh cho mọi người biết Con Thiên Chúa có một
thân xác đích thực do Thánh Linh tạo dựng trong lòng Mẹ. Đàng khác, Mẹ muốn cứu
tất cả nhân loại. Với chức vị Thánh Mẫu Thiên Chúa, Mẹ chỉ muốn nói thực tế Mẹ
đã sinh ra Con Thiên Chúa như lời sứ thần truyền tin. Từ giờ phút đó, Mẹ nghiễm
nhiên trở thành Đức Mẹ Thiên Chúa. Tín điều này đã được công đồng Êphêsô tuyên
tín năm 431. Cả Giáo Hội Đông và Tây đều tôn kính và trân trọng tước vị cao cả
đó của Mẹ.
Tin như thế, Giáo hội
không mù quáng, như nhiều người lầm tưởng. Họ tưởng Đức Mẹ sinh ra bản tính và
ngôi vị Thiên Chúa. Nếu thế, Thiên Chúa không còn là nguyên ủy của mọi nguyên
ủy nữa. Chẳng lẽ Thiên Chúa còn phải lệ thuộc như vậy? Đúng ra, chức vị Thánh
Mẫu Thiên Chúa chỉ liên hệ tới Ngôi Hai, chứ không bao trùm cả Ngôi Nhất và
Ngôi Ba. Cả bản tính Thiên Chúa, Mẹ cũng không đụng chạm tới được. Nhưng vì
sinh ra con người Đức Giêsu, gồm Ngôi Lời, Thiên tính và nhân tính, nên Mẹ xứng
đáng được tôn phong làm Thánh Mẫu Thiên Chúa.
Tước hiệu đó cao trọng
vô cùng, nhưng không đủ hấp dẫn Mẹ đến nỗi Mẹ quên tất cả mọi sự. Mẹ không muốn
đổi danh dự của một trinh nữ lấy tước hiệu đó. Tới khi được thiên thần bảo đảm
Thánh Thần sẽ hành động tất cả, Mẹ mới khiêm tốn thưa lời xin vâng. Cử chỉ đó
đã khiến Mẹ được Thiên Chúa quý trọng và nâng cao Mẹ vượt trên các thiên thần
và các thánh trên trời.
Mẹ quả là một con
người biết tự trọng và có trách nhiệm về những việc xảy ra. Chính vì thế, nơi
cung lòng Mẹ, đất trời đã gặp gỡ và tấu lên ca khúc bình an. Một cuộc hiệp
thông lớn lao đã diễn ra ngay trong lòng Mẹ. Có một nhân vị vô cùng cao trọng
đang giang tay nối người anh em nhân loại với Thiên Chúa là Cha. Nếu Mẹ không
cương trực và khiêm cung chấp nhận sinh Con Thiên Chúa, làm sao có một nhân vị
làm trung gian nối đất trời như vậy?
Từ ngày Chúa Nhập Thể,
con người trở thành “trung tâm của hòa bình.” Bởi thế, “tôn trọng con người” là
“thăng tiến hòa bình.” (Bênêđictô XVI) Đúng thế, trước khi Chúa làm người,
không ai có thể nối kết đất trời và dẫn con người đi vào cuộc hiệp thông và hòa
giải với Thiên Chúa và với con người. Trong công cuộc hòa giải lớn lao này, Mẹ
Maria đã đóng một vai trò rất quan trọng. Nếu Mẹ không cưu mang và sinh hạ Con
Thiên Chúa, chắc chắn Mẹ cũng không thể trở thành Thánh Mẫu Thiên Chúa. Nhưng
ngay khi Mẹ chấp nhận làm Thánh Mẫu Thiên Chúa, Mẹ trở thành Nữ Vương Hòa Bình,
vì cung lòng Mẹ đã cưu mang Thái Tử Hòa Bình là Con Thiên Chúa.
Lạy Chúa, cảm tạ Chúa
đã thương cho con nhận biết và tin thật Mẹ Maria là Thánh Mẫu Thiên Chúa và Nữ
Vương Hòa Bình. Xin cho con trung thành và siêng năng kêu cầu “Thánh Maria, Đức
Mẹ Chúa Trời” suốt cuộc đời con để hòa bình luôn ngự trị trên khắp hoàn cầu.
Amen.
26. Nữ Vương Hòa Bình
Ngày đầu năm mới và
cũng là ngày Quốc Tế Hòa Bình, Giáo Hội hân hoan cử hành lễ Đức Maria rất thánh,
Mẹ Thiên Chúa. Cả hai sự kiện này cùng diễn ra khi Giáo Hội đang cử hành mầu
nhiệm Con Thiên Chúa làm người, Ngài là Hoàng Tử Bình An, là hòa bình đích thực
của nhân loại.
Thiên Chúa đã yêu thế
gian đến nỗi đã ban chính Con của Ngài sinh bởi Đức Trinh Nữ Maria. Đức Mariađã
được nâng lên địa vị là Mẹ Thiên Chúa và Giáo Hội muốn đặt lễ hôm nay lên hàng
đầu của năm tháng ngày giờ.
1. Ý nghĩa của Truyền
Tin.
Tại sao một thiếu nữ
nhỏ bé sống ở làng nghèo Nadaret lại trở thành Mẹ Thiên Chúa? Nhìn về mặt bề ngoài,
Mẹ Maria không có gì nổi bật so với những người phụ nữ thời ấy. Tên Maria là
một tên rất phổ biến, giống như tên Tuyết, Cúc, Đào…trong giới phụ nữ Việt Nam.
Mẹ Maria người làng Nadaret (Lc 1,26), một làng rất tầm thường như sau này
Nathanael nhận xét: “Từ Nadaret làm sao có cái gì hay được?” (Ga 1,46).
Để có câu trả lời, cần
tìm về ý nghĩa của biến cố Truyền Tin. Thi sĩ Hàn Mặc Tử viết bài thơ ‘Ave
Maria’ bất hủ từ câu chuyện này.
Hỡi Sứ thần Thiên
Chúa, Gabriel.
Khi Người xuống truyền
tin cho Thánh Nữ.
Người có nghe xôn xao
muôn tinh tú.
Người có nghe náo động
cả muôn trời.
Người có nghe thơ mầu
nhiệm ra đời.
Để ca tụng bằng hương
hoa sáng láng.
Bằng tràng hạt, bằng
Sao Mai chiếu rạng.
Một đêm xuân là rất
đỗi anh linh.
Cho tôi thắp hai hàng
cây bạch lạp.
Khói nghiêm trang sẽ
dâng lên tràn ngập.
Cả Hàn Giang, cả màu
sắc thiên không.
Lút linh hồn và ám ảnh
hương lòng.
Cho sốt sắng, cho đê
mê nguyền ước.
Tấu lạy Bà, lạy Bà đầy
ơn phước.
Cho tình tôi nguyên
vẹn tựa trăng rằm…
Sứ thần Gabriel đến
Nadaret chào thôn nữ Maria:“Mừng vui lên hỡi Đấng đầy ân sủng, Thiên Chúa ở
cùng Bà”. Ba tiếng “Đầy-ân-sủng” gộp lại trở thành như là tên gọi riêng của Đức
Maria. Mẹ được tràn đầy ân sủng. Mẹ luôn luôn có Thiên Chúa ở cùng. Không có
giây phút nào mà Mẹ không có Thiên Chúa với mình. Không có giây phút nào mà Mẹ
không trọn vẹn thuộc về Chúa. Không có bất cứ dấu vết tội lỗi chen vào giữa Mẹ
và Thiên Chúa (Lm Nguyễn Hồng Giáo).
Tại sao Thiên thần nói
với Maria: hãy vui lên?. Lời mời gọi này nhắc lại lời Ngôn sứ Xôphônia thế kỷ
thứ VI báo tin ngày cứu độ cho Israel: “Reo vui lên hỡi thiếu nữ Sion, hò vang
dậy đi nào, nhà Israel hỡi…Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi đang ngự giữa ngươi,
Người là vị cứu tinh, là Đấng anh hùng” (Xp 3,14-17). Sứ thần Gabriel cũng mời
gọi Đức Maria hãy vui lên vì giờ cứu độ của Thiên Chúa đã đến. Sứ thần trình
bày: “Này Bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai và đặt tên là Giêsu. Đức Chúa sẽ
ban cho Người ngai vàng Đavit tổ tiên Người. Người sẽ trị vì nhà Giacop đến
muôn đời, và vương quyền của Người sẽ vô cùng vô tận” (Lc 1,31-33).
Là một tâm hồn luôn
luôn nghiền ngẫm Kinh thánh, chắc hẳn Đức Maria nhớ lại Lời Chúa đã dùng Ngôn
sứ Nathan mà thề hứa với vua Đavit xưa. Nhưng điều mà Mẹ không bao giờ nghĩ tới
là mình có thể có vai trò gì trong việc thực hiện lời tiên tri ấy. Chuyện
“không thể” được đầu tiên là làm sao mình sinh con được vì đã quyết “không
biết đến chuyện vợ chồng” để sống trọn vẹn cho một mình Thiên Chúa mà thôi. Sau
khi được Sứ thần giải thích rằng “đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể
làm được”. Maria khiêm nhường thưa lại: ‘Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin
làm cho tôi như lời sứ thần nói” (Lc 1,38). Và thế là Ngôi Hai Thiên Chúa đã
nhập thể làm người trong lòng Đức Trinh Nữ. Và thế là Đức Maria khiêm nhường đã
trở thành thánh mẫu của Thiên Chúa.
Mẹ được Thiên Chúa
sủng ái, và được trở nên cao trọng, vì Mẹ khiêm nhường. Đức khiêm nhường dẫn Mẹ
đến chỗ hoàn toàn tín thác vào Thiên Chúa.Trong bài Magnificat, chính Đức Mẹ đã
nói về mình rằng:
Linh hồn tôi ngợi khen
Đức Chúa
Thần trí tôi hớn hở
vui mừng
Vì Thiên Chúa, Đấng
cứu độ tôi.
Phận nữ tỳ hèn mọn,
Chúa đoái thương nhìn
tới.
Chúa hạ bệ những ai
quyền thế
Người nâng cao mọi kẻ
khiêm nhường
Đức Mẹ thuộc truyền thống
những người nghèo khó, hèn mọn được Thiên Chúa che chở cách riêng. CĐ Vaticanô
II trong hiến chế tín lý về Giáo hội đã dạy: “Đức Maria đứng đầu trong hàng ngũ
những người khiêm nhường và nghèo khó của Chúa vẫn mong đợi và lãnh nhận ơn cứu
độ với lòng tin tưởng” (số 55).
Từ biến cố Truyền tin,
qua lời đáp xin vâng của Mẹ, Ngôi Lời Thiên Chúa đã nhập thể trong lòng dạ Mẹ.
Đức Maria trở thành Mẹ Chúa Kitô, Đấng Cứu Thế. Giáo hội đã tuyên bố Chúa Giêsu
là Con Thiên Chúa, là Đấng Cứu Thế, Người có ngôi vị duy nhất trong hai bản
tính. Đức Maria là Mẹ Chúa Giêsu, Mẹ Thiên Chúa làm người, nên là Mẹ của Thiên
Chúa. Công đồng Êphêsô 431 đã minh định điều ấy khi tuyên tín Đức Maria là Mẹ
Thiên Chúa.
Đức Maria đã trở thành
Mẹ của Chúa qua thái độ khiêm nhường và lời đáp xin vâng phát xuất từ lòng tin
của Mẹ. Do đó, khi tuyên xưng Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa, chúng ta không chỉ
hiểu chức làm mẹ đó chỉ thuộc về thân xác mà thôi, nhưng nhìn nhận Đức Maria là
Mẹ do hành vi tin hoàn toàn tự do của Ngài, như bà Êlisabet đã thốt lên: “Phúc
cho em vì đã tin những lời Chúa phán”. Chúa Giêsu có lần đã tuyên bố: “Mẹ và
anh em Ta là những ai biết lắng nghe và thực hành Lời Thiên Chúa” (Lc 8,21).
2. Tín điều Mẹ Thiên
Chúa
Mẹ Thiên Chúa trở
thành một tín điều và là mầu nhiệm của đức tin Công Giáo. Tước hiệu này đã trở
nên một phần vĩnh viễn trong những kinh tuyên xưng đức tin và trong phụng vụ
của toàn thể Giáo Hội Công Giáo.
Tín điều Mẹ Thiên Chúa
được xây dựng trên nền tảng Thánh Kinh.
Tiên tri Isaia loan
báo: “một trinh nữ sẽ thụ thai, sinh con trai và sẽ đặt tên con trẻ là
Emmanuel” (Is 7,14). Đức Maria sinh ra Đấng Emmanuel, nên Đức Maria là Mẹ Thiên
Chúa. Lời tiên tri được thực hiện khi sứ thần Gabriel báo tin cho Mẹ Maria:
"Bà sẽ thụ thai, sinh con trai và sẽ đặt tên con trẻ ấy là Giêsu... Vì thế
Con Trẻ sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa." (Lc 1,31-35).
Thánh Phaolô viết:
‘Thiên Chúa đã sai con mình đến sinh bởi người nữ và sinh dưới chế độ luật”
(Gal 4,14). Trong Tin mừng Gioan, Mẹ Maria được gọi là Mẹ Chúa Giêsu (2,1 ;
19,26), và trong Tin mừng Luca, Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa đến thăm bà Elidabet
(1,43).
Các Kitô hữu thời sơ
khai được các Tông Đồ hướng dẫn, luôn có một niềm tin vững chắc vào thiên chức
Mẹ Thiên Chúa của Đức Maria. Điều này được chứng tỏ bằng những việc tôn kính
phổ quát như Kinh Tin Kính của các Tông Đồ.
Tước hiệu Mẹ Maria, Mẹ
Thiên Chúa, đã được các giáo phụ như Thánh Cyrilô, Athanasiô, Ignatiô
Antiochia, tin yêu và truyền dạy.
Công Đồng Êphêsô năm
431 tuyên tín Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa.
Công Đồng
Constantinople III (680-681) xác quyết rằng: Chúa Giêsu Kitô được sinh ra bởi
phép Đức Chúa Thánh Thần, và Đức Trinh Nữ Maria chính thức và thật sự là Mẹ
Thiên Chúa theo nhân tính của Chúa Kitô.
Đức Giáo Hoàng Piô XI,
đã ra thông điệp “Mediator Dei” mừng kỷ niệm 1.500 năm Công Đồng Êphêsô và công
bố lễ Mẹ Thiên Chúa, mừng trong toàn thể Giáo Hôi vào ngày 11 tháng 10.
Đức Piô XII, đã thiết
lập Năm Thánh Mẫu vào năm 1954 và tuyên bố rằng chức Mẹ Thiên Chúa là nguồn gốc
tất cả mọi ơn sủng và đặc sủng của Mẹ Maria.
Công Đồng Vaticanô II
dành chương VIII trong Hiến Chế Lumen Gentium, nói về Mẹ Thiên Chúa. Và trong
Hiến Chế về Phụng Vụ, các Nghị Phụ Công Đồng đã chuyển lễ Mẹ Thiên Chúa ngày 11
tháng 10 sang ngày 1 tháng 1 hàng năm.
Thánh Lễ thật phong
phú với những lời cầu nguyện cùng Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa, Mẹ Giáo Hội. Cả 4
kinh nguyện Thánh Thể đều nhắc tới Mẹ Maria, Mẹ Thiên Chúa. Trong kinh nguyện
Thánh Thể I, linh mục chủ tế đọc: Hiệp cùng Hội Thánh, chúng con kính nhớ Đức
Maria vinh hiển trọn đời đồng trinh Mẹ Thiên Chúa, Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng
con. Kinh nguyện Thánh Thể II, III và IV đọc: Cùng với Đưc Trinh Nữ Maria Mẹ
Thiên Chúa...
“Thánh Maria, Đức Mẹ
Chúa Trời, cầu cho chúng con…” là lời kinh được đọc
lên hàng triệu triệu lần mỗi ngày. Danh hiệu Mẹ Chúa Trời được đọc trong phụng
vụ của Giáo Hội, trong kinh nguyện riêng tư tại gia đình, trên xe, trên giường
bệnh... Càng hiểu biết và yêu mến mầu nhiệm Mẹ Thiên Chúa của Đức Maria, chúng
ta càng hiểu biết và yêu mến cách trọn vẹn hơn mầu nhiệm Chúa Cứu Thế, Người
Con rất yêu dấu của Đức Mẹ.
27. Nữ Vương Hòa Bình
(Suy niệm của Lm Giuse
Nguyễn Hữu An)
Giáo Hội mừng lễ Mẹ
Thiên Chúa vào ngày đầu năm Dương lịch, cũng là ngày cầu nguyện cho hòa bình
thế giới như một nhắc nhớ việc chiêm ngưỡng Mẹ là một Tạo Vật mới tinh tuyền
của Thiên Chúa, một Evà mới khởi đầu một thời đại mới, một tạo dựng mới. Kỷ
nguyên cứu độ đã khởi sự qua việc Chúa Giêsu nhập thể trong cung lòng Đức Mẹ
sau lời xin vâng. Mẹ được tuyển chọn làm Mẹ Đấng Cứu Thế để bắt đầu kỷ nguyên
cứu độ. Nếu Evà cũ đã bất tuân để vùi lấp con người trong khổ đau và sự chết,
thì Đức Mẹ với tâm tình xin vâng đã đưa Chúa Giêsu đến với nhân loại mang lại
sự sống và tình yêu. Từ đây nhân loại sẽ bước đi trong ánh sáng cứu độ. Chúa
Giêsu vị Vua Thái Bình, Hoàng Tử Bình An đã đi vào lòng thế giới, để thiết lập
vương quốc Nước Trời qua Mẹ Maria. Đức Thánh Cha Phaolô VI đã viết: “Vì sự
trùng hợp tốt đẹp giữa ngày 01 tháng giêng với ngày thứ tám giáp lễ Giáng Sinh
mà chúng tôi đã đặt ngày đó là ngày Thế Giới Hòa Bình, mà thế giới mỗi ngày
càng hưởng ứng thêm, và thành quả của hòa bình đã phát sinh trong lòng nhiều
người.” (Marialis Cultus, số 5).Chúa Giêsu được xưng tụng là Hoàng Tử Hòa Bình,
đến chuộc tội nhân loại, giao hòa con người với Chúa Cha. Mẹ Maria luôn gắn bó,
hợp tác, hiệp công với Con của mình nên đã trở nên Nữ Vương Hòa Bình cho toàn
thế giới. Mẹ đã đóng góp cả cuộc đời mình cùng với Chúa Giêsu mà giải phóng con
người khỏi ách nô lệ tội lỗi.Chủ đề Sứ điệp Hòa Bình năm nay là “Không còn nô
lệ nữa, nhưng chỉ còn tình huynh đệ với nhau”. ĐTC Phanxicô viết: “Việc quay
trở về với Đức Kitô, bắt đầu một cuộc sống là người môn đệ trong Đức Kitô, làm
nên một sự tái sinh (x. 2Cr 5,17; 1Pt 1,3) vốn tái tạo lại tình huynh đệ như là
mối dây nền tảng của đời sống gia đình và đời sống xã hội” (Sứ điệp ngày Thế
Giới Hòa Bình 2015).
Đức Mẹ khuyên mọi tín
hữu siêng năng lần hạt và coi chuỗi kinh Mân Côi như là phương tiện hun đúc hòa
bình. Ngày 13 tháng 10 năm 1917 tại Fatima, Đức Mẹ đã hiện ra để lại lời nhắn
nhủ dưới hình thức của huấn lệnh là: cải thiện đời sống, siêng năng lần hạt,
tôn sùng trái tim Mẹ. Đây chính là lộ trình nên Thánh bao gồm ba bước tiếp theo
nhau và chuỗi Mân Côi được đặt như là một nhịp cầu giữa một bờ là tội lỗi nhân
loại và bờ bên kia chính là ơn thánh hóa của Thiên Chúa. Cũng như việc lần hạt
chuyên cần là một phương tiện hiệu quả giúp người ta đạt được hòa bình. Chính
trong ý nghĩa này, kinh Mân Côi phải được gọi là Kinh của hòa bình. Ở đâu kinh
Mân Côi được cổ võ thì ở đó cũng vang lên lời cầu nguyện tha thiết: “Nữ Vương
ban sự bình an cầu cho chúng con”.
Lễ Mẹ Thiên Chúa kết
thúc tuần Bát Nhật Giáng Sinh làm tỏa sáng vẻ đẹp kỳ diệu của tình yêu cứu độ.
Ngôi Hai đã vâng phục nhập thể cứu độ nhân loại. Với tiếng xin vâng, Đức Maria
làm Mẹ Ngôi Lời nhập thể và làm Mẹ hết thảy những ai được tháp nhập vào thân
thể mầu nhiệm của Đức Kitô.
Lạy Mẹ Maria Nữ Vương
Hòa Bình, Mẹ đã chọn phần tuyệt hảo là lắng nghe và tuân giữ Lời Chúa. Xin cho
chúng con luôn biết noi gương Mẹ, gắn bó cùng Chúa trọn đời. Amen.
28. Đức Maria Mẹ Thiên Chúa.
Suy niệm
Làm người ai cũng cần
có mẹ.
Mẹ là người cưu mang,
sinh ra và dưỡng nuôi con cho khôn lớn.
Khi Con Thiên Chúa làm
người, mang lấy trọn phận người,
Ngài cũng cần một
người mẹ, như bao người khác.
Mẹ Maria là thiếu nữ,
là trinh nữ được Thiên Chúa tuyển chọn,
Để thụ thai và sinh hạ
Con Một Thiên Chúa.
Khi Công Đồng Êphêsô
(năm 431) gọi Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa,
Công Đồng không có ý
dạy
Đức Mẹ sinh ra Chúa
Cha hay Chúa Thánh Thần.
Đức Mẹ chỉ sinh ra Đức
Giêsu,
Mà Đức Giêsu là Ngôi
Hai Thiên Chúa nhập thể,
Nên Mẹ thực sự là Mẹ
Thiên Chúa (Theotokos).
Chắc Mẹ Ma ria không
thể hiểu hết và hiểu ngay
Màu nhiệm lớn lao mà
Mẹ đang cưu mang trong dạ.
Khi các mục đồng kể
lại những điều huy hoàng họ nghe thấy ở Belem,
Mẹ Maria ghi nhớ tất
cả những điều ấy và suy đi nghĩ lại trong tim mình.
Để đi vào mầu nhiệm
cách sâu xa, cần ơn soi sáng của Chúa,
Nhưng cũng cần thái độ
chiêm niệm, nghiền ngẫm trong lặng thinh.
Chúng ta thường để ý
đến biến cố Truyền Tin và biến cố Giáng Sinh,
biến cố Ngôi Lời bắt
đầu hiện hữu trong lòng mẹ và biến cố chào đời.
Nhưng chúng ta không
được quên chín tháng Mẹ cưu mang người Con.
Con Thiên Chúa đã lớn
lên từ từ trong lòng Mẹ như các thai nhi khác.
Muốn sinh Đức Giêsu
cho thế giới hôm nay,
Chúng ta cũng cần
nhiều thời gian để cưu mang Ngài trong cuộc đời ta,
để Ngài trở nên đủ
cứng cáp khi chào đời.
Chúng ta cũng phải
chấp nhận cả sự đau đớn khi sinh hạ.
Bước qua một Năm Mới,
mở trang đầu của cuốn lịch mới,
Chúng ta mong những
điều mới mẻ tốt lành xảy đến cho mình
Và muốn tặng cho nhau
một câu chúc đầy ý nghĩa:
“Nguyện Đức Chúa ghé
mắt nhìn và ban bình an cho anh em!”(Ds 6, 26)
29. Suy niệm của Lm. Munachi Ezeogu
ĐỨC MARIA - MẸ THIÊN
CHÚA
Trong Anh ngữ, tháng
một (January) là đặt theo tên của một vị thần La-Mã, vị thần này có hai mặt,
một mặt nhìn về quá khứ và một mặt hướng đến tương lai. Thật vậy, đây là thời
điểm để cho chúng ta nhìn lại một năm đã qua và hướng về một năm mới trước mặt.
Một năm đã qua đi, tôi đã làm được những gì, và gặt hái được những gì? Tôi đã
tận dụng thời gian ấy để thăng tiến trong những ước nguyện và mục tiêu trong
cuộc sống của mình như thế nào? Tôi có dùng những thời gian qua để nâng cao mục
đích của sự hiện hữu của tôi không? Tôi có thể làm tốt hơn năm ngoái theo cách
sử dụng thời giờ cho những đòi hỏi của việc làm, của gia đình, của bạn bè, của
xã hội, và sự đòi hỏi của đời sống tâm linh của riêng tôi? Tôi đã gặt hái được
gì và điều gì đã không thành tựu trong năm qua? Làm thế nào để tôi củng cố được
những thành tựu trong năm qua đồng thời đảo ngược những thất bại và mất mát
trong năm mới? Qua sự kiểm điểm chính mình bằng những câu hỏi nêu trên, chúng ta
nhận ra rằng sự kiểm điểm ấy sẽ đưa chúng ta tìm được mục đích và những quyết
tâm cải hóa trong năm mới.
Có người nói với chúng
ta rằng: mình chẳng cần phải có quyết tâm cải đổi trong năm mới. Đừng tin họ!
Chúng ta phải định mục tiêu cho chính chúng ta và đề ra những cải đổi cần thiết
tóm gọn trong những điều chúng ta đã kiểm điểm. Chúng ta cần phải kiểm điểm đời
sống của chúng ta hằng năm, vì như triết gia Socrates nói, cuộc đời không có
kiểm điểm là cuộc đời không đáng sống.
Báo chí ngày nay đầy
rẫy những quyết tâm cải cách cho cá nhân hoặc tập thể. Hầu hết những điều ấy
thường chỉ là những mong ước hơn là quyết tâm. Sự khác biệt giữa mong ước và
quyết tâm như thế nào? Mong ước là nhận ra được mục đích người ta muốn đạt
được, quyết tâm cải cách là định rõ từng bước người ta phải tiến hành để đạt
được mục đích. Sự mong ước: đây là điểm tôi muốn đạt, còn quyết tâm thì nói:
đây là lề lối tôi sẽ áp dụng, đây là những điều tôi sẽ làm để đạt được thành
qủa. Người hay mong ước thì nói rằng: “Tôi muốn thi đậu trong năm nay” và người
có quyết tâm thì nói: “Tôi sẽ dành ra một tiếng đồng hồ mỗi ngày để học cho đậu
cuộc thi này”. Người hay mong ước thì nói: “Năm nay, tôi sẽ có thêm sự an bình
và thương yêu trong gia đình tôi” còn người có quyết tâm thì nói: “Tôi sẽ dành
nhiều thì giờ hơn nữa cho gia đình, nơi bàn ăn hơn là vội vã để xem truyền
hình, để chúng tôi có dịp tìm hiểu và thông cảm nhau hơn”. Người hay mong ước
thì nói: “Năm nay, tôi sẽ sống một đời sống kết hợp với Chúa” còn người có
quyết tâm thì nói: “Hằng ngày, tôi sẽ dành ra thời gian này để cầu nguyện và
nghe lời Chúa”. Sự khác biệt giữa mong ước và quyết tâm là: Chúng ta có chuẩn
bị để làm những gì có thể làm được để tạo ước mơ thành sự thật chưa? Chúng ta
có chuẩn bị để trả giá cho những điều mình sắp làm chưa?
Đoạn phúc âm hôm nay
cho chúng ta thấy Đức Maria là gương mẫu của cuộc sống mới trong Chúa Kitô,
cuộc sống mà tất cả chúng ta mong ước cho mình trong năm mới. Chúng ta thấy
rằng Đức Maria đã được chuẩn bị để làm những công việc cho mục đích tạo cuộc
sống mới này. Đức Maria đã làm gì? Chúng ta đọc thấy rằng khi các mục đồng đến
thờ lạy Hài Nhi Giêsu trong máng cỏ, họ nói rằng các thiên thần đã báo tin cho
họ biết. “Nhưng Đức Maria thì hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy và suy đi nghĩ lại
trong lòng” (Luca 2:19). Lại nữa, sau khi tìm được thiếu niên Giêsu trong đền
thờ, chúng ta cũng được nghe rằng “Riêng Đức Mẹ thì hằng ghi nhớ tất cả những
điều ấy trong lòng” (Luca 2:51). Đức Maria là người đàn bà đã tôn kính lời
Chúa, đã trân qúy lời Chúa và đã dành thời giờ để suy niệm Lời của Chúa. Thật
ra, sự thánh thiện của Đức Maria đã thông phần với hồng ân của Thiên Chúa,
nhưng chúng ta cũng không quên rằng: Đức Maria đã cần phải dành nhiều nỗ lực để
được đồng cộng tác trong ân sủng của Thiên Chúa. Người đã suy niệm Lời Chúa để
nhận biết những điều Chúa đã nói với mình trong từng giai đoạn của đời mình,
cuộc đời được làm tôi tớ của Chúa.
Hai thí dụ kể trên về
Đức Maria đã suy niệm, cân nhắc lời Chúa, như sau khi các mục đồng đến thờ lạy
Chúa Hài Đồng và sau khi tìm được Chúa Giêsu trong đền thờ, cho thấy rằng Đức
Maria đã tìm ra lời Chúa trong sự mặc khải thiêng liêng (lời của thiên thần báo
cho mục đồng) và trong kinh nghiệm của chính Người (khi gặp lại Con trong đền
thờ). Tương tự như vậy, ngày nay Chúa nói với chúng ta qua sự mặc khải thiêng
liêng (kinh thánh, các bài giảng, những điều giảng dậy của Hội Thánh) ngay cả
qua những kinh nghiệm cá nhân, nếu chúng ta dành thì giờ để suy gẫm như Đức
Maria đã làm.
Cho dù chúng ta đang ở
trong tình huống nào, một sự khốn khó, một điều bất như ý, trước một quyết định
khó khăn – Chúa có phương thức giải quyết, Chúa có giải đáp đúng đắn cho chúng
ta. Hãy kể những điều ấy cho Chúa nghe trong lời kinh nguyện, nhưng cũng lắng
nghe những gì Chúa nói với chúng ta. Cầu nguyện là đối thoại với Chúa, nhưng
đôi khi chúng ta chỉ muốn nhấc điện thoại đọc lên một chuỗi những khó khăn của
mình cho Chúa nghe và cúp điện thoại để không nghe những gì Chúa muốn nói với
chúng ta. Hôm nay, chúng ta hãy quyết tâm lắng nghe tiếng Chúa, trân qúy và suy
niệm trong lòng. Từ đấy chúng ta sẽ có thể nhận biết những cải hóa cần thiết
cho cuộc sống mới kết hợp với Chuá.
30. Mẹ tất cả mọi người - Lm. Mark Link
Chủ đề: "Đức
Maria không phải chỉ là Mẹ Thiên Chúa mà còn là Mẹ của hết thảy chúng ta."
Cách đây nhiều năm,
Fulton Oursler là biên tập viên của một tạp chí nội địa được các độc giả hoan
nghênh nhiệt liệt, câu chuyện đàng sau sự thành công của anh rất hấp dẫn. Nhưng
câu chuyện anh tìm kiếm Thiên Chúa còn hấp dẫn hơn nữa.
Với tư cách một phóng
viên cho tờ báo Baltimore American, đã dự những buổi họp của giáo phái
Methodist, các hội nghị của gíao phái Baptist, và những buổi sinh hoạt ngoài
trời. Anh cùng dự cả những buổi họp để chờ các vong hồn xuất hiện trong phòng
tối. Anh nói: “vào tuổi 30, ngoài những chuyện ấy ra, tôi còn tự nhận mình là
người theo thuyết bất khả tri (agnostic). Nhưng thay vì tìm được bình an, sự vô
tín ngưỡng khiến anh cảm thấy tâm hồn mình hoàn toàn trống trải và bất hạnh. Sự
trống trải bất hạnh ấy về sau lại biến thành một nỗi u uất gặm nhấm tâm hồn
anh. Thế rồi một ngày kia, cơn khủng hoảng trầm trọng đó đã làm cho gia đình
anh phải lo sợ. Anh cần được cứu giúp. Nhưng sự cứu giúp mà anh cần là một thứ
cứu giúp mà bạn bè anh không thể làm được cho anh. Anh không biết cầu cứu ai, kể
cả Thượng Đế, vì anh có tin vào Ngài đâu.
Tại New York, vào một
ngày lộng gío, anh rảo bước trên đại lộ Thứ Năm. Tới nhà thờ chính toà, anh
dừng lại, ngắm nhìn ngôi giáo đường và suy nghĩ. Anh đang tuyệt vọng. Mấy phút
sau, anh định thần lại bước lên các bậc thang, vào bên trong nhà thờ và ngồi
xuống, sau một vài phút tập trung tư tưởng, anh cúi đầu xuống và xin Thiên Chúa
ban đức tin cho anh. Anh ngồi đó một lát rồi đứng dậy. Anh tới gian nhà nguyện
của Đức Mẹ ở trong giáo đường. Anh bước vào trong, quì gối xuống, và cầu nguyện
như sau:
“Mười phút nữa hay sớm
hơn, tôi có thể thay đổi ý định, tôi có thể chế diễu tất cả những việc này và
lại trở lại với sự sai lầm của tôi. Vì thế xin đừng chú ý đến tôi nữa. Vì trong
giây phút ngắn ngủi này, tôi cảm thấy tâm hồn bình an. Đây là cố gắng lớn nhất
của tôi, xin Ngài hãy khấng nhận và quên đi những gì khác. Và nếu Ngài thực sự
có mặt tại đây xin hãy cứu giúp tôi”.
Vào giây phút đó, anh
nói, bắt đầu có một sự biến đổi kỳ lạ trong cuộc đời anh. Cuối cùng, sự biến
đổi đó đã khiến anh trở nên một Kitô hữu có một niềm tin tưởng sâu xa.
***
Việc Fulton Oursler
tìm kiếm Thiên Chúa đã kết thúc tại một giáo đường. Đời sống tâm linh và cuộc
sống mới của anh bắt đầu tại một nhà nguyện dâng kính Đức Maria Mẹ Thiên Chúa.
Thật là một nơi thích hợp cho sự việc đó. Đức Mẹ không phải chỉ là Mẹ Thiên
Chúa. Ngài còn là Mẹ của toàn nhân loại về mặt tâm linh. Vì khi Đức Mẹ sinh
Chúa Giêsu, Ngài cũng sinh ra một nhân loại mới. Thánh Phaolô diễn tả mầu nhiệm
đó trong bài đọc II như sau:
“Khi thời gian viên
mãn, Thiên Chúa đã sai Con Ngài xuống, sinh làm con một người nữ, và sống dưới
chế độ luật Do Thái để cứu chuộc những người sống dưới chế độ lề luật đó, hầu
chúng ta được trở thành con cái Thiên Chúa… và vì bạn là con của Thiên Chúa, nên
Ngài sẽ cho bạn tất cả những gì Ngài dành cho con cái Ngài”.
Bàn luận về mầu nhiệm
cao cả này, Hiến Chế về Giáo hội trong thế giới ngày nay của công đồng Vatican
II nói:
“Qua mầu nhiệm nhập
thể, một cách nào đó, Con Thiên Chúa đã tự liên kết mình với mọi người, Ngài
làm việc bằng đôi tay, suy nghĩ bằng khối óc, hành động bằng sự chọn lựa, và
yêu thương bằng trái tim loài người, sinh từ lòng Đức Maria Ngài thực sự trở
thành một người trong chúng ta hoàn toàn giống như chúng ta ngoại trừ tội lỗi”.
Thật vậy, khi Đức Mẹ
sinh ra Chúa Giêsu Ngài cũng sinh ra một nhân loại mới, vì thế Đức Mẹ không
phải chỉ là Mẹ Thiên Chúa, mà ngài còn là Mẹ tất cả mọi người chúng ta nữa.
Vì Đức Mẹ là Mẹ chúng
ta, nên ngài là một trạng sư bào chữa cho chúng ta rất hữu hiệu trên trời.
Không biết Đức Maria là mẹ mình, chính là không biết đến món quà mà Thiên Chúa
ban tặng chúng ta, tức tình mẫu tử của Đức Maria dành cho chúng ta.
Điều đó khiến chúng ta
nghĩ tới năm mới. Năm mới với hy vọng mới. Năm mới với cuộc đời mới. Năm mới là
cơ hội để chúng ta bắt đầu lại.
Năm ngoái là quá khứ,
đã qua rồi. Năm nay vừa mới sinh ra và ở trước mặt ta. Đó là món quà Thiên Chúa
tặng chúng ta. Những gì chúng ta làm được với món quà ấy, chính là món quà mà
chúng ta sẽ dâng lên Thiên Chúa. Thật là thích hợp khi Giáo hội chọn ngày đầu
năm để mừng kính lễ Đức Maria Mẹ Thiên Chúa. Vì điều đó nhắc nhở chúng ta rằng
tình mẫu tử của Đức Maria mà bạn và tôi được Thiên Chúa ban cho một đời sống
hoàn toàn mới, một niềm hy vọng mới, thứ hy vọng mà chỉ một mình Thiên Chúa mới
có thể ban tặng. Nếu chúng ta đang tìm một quyết định cho năm mới này thì không
có một quyết định nào tốt đẹp hơn là tạo cho Đức Maria một vai trò quan trọng
hơn trong đời sống chúng ta. Và một trong những cách để thực hiện quyết định đó
là thực hiện bằng cầu nguyện.
Chúng ta có thể xin
Đức Maria bầu cử cho chúng ta như Ngài đã từng bầu cử cho biết bao những đứa
con khác của Ngài trong lịch sử. Một cách đơn giản để thực hiện điều đó là cầu
nguyện hằng ngày bằng bài kinh đặc biệt kính Đức Maria, tức kinh Kính Mừng. Một
cách khác để làm điều đó là bắt chước cách cầu nguyện của chính Đức Maria.
Trước hết, Ngài cầu nguyện bằng cách suy niệm về hoạt động của Thiên Chúa,
không phải chỉ ở trong lịch sử loài người, mà ở ngay trong cuộc sống của Ngài nữa.
Thánh Luca đã cho chúng ta một cái nhìn về cách cầu nguyện này vào cuối bài
tường thuật của Ngài về việc Đức Giêsu sinh ra: “Maria ghi nhớ tất cả những
chuyện ấy và suy niệm trong lòng” (Lc 2, 19). Một cách cầu nguyện khác nữa của
Đức Maria là nói với Thiên Chúa cách hồn nhiên những gì xuất phát từ trái tim
Ngài. Thánh Luca cho chúng ta một cái nhìn về cách cầu nguyện này khi mô tả Đức
Maria cầu nguyện trong cuộc viếng thăm bà Isave. Chúng ta hãy dùng lời kinh ấy
để kết thúc bài giảng hôm nay. Xin mời anh chị em im lặng cùng cầu nguyện với
tôi:
“Linh hồn tôi tán
dương Thiên Chúa,
Thần trí tôi hoan hỉ
vui mừng trong Thiên Chúa Đấng cứu độ tôi,
Ngài đã đoái thương
đến tôi, là tôi tớ thấp hèn của Ngài
“Kể từ nay muôn đời sẽ
khen tôi có phúc, vì Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi những việc trọng đại.
“Ngài đã giơ cánh tay
thần lực nâng những người hèn mọn lên …
“Ngài đã giữ lời đã
phán hứa với các tổ phụ…
“Ngài đã nhớ tỏ lòng
từ bi với Abrham và dòng dõi của ông tới muôn đời” (Lc 1: 46-55)
31. Là mẹ và là khuôn mẫu - Mark Link
Chủ đề: Đức Maria là
Mẹ chúng ta, và cũng là khuôn mẫu dạy chúng ta phải tin tưởng vào Chúa như thế
nào.
Có một linh mục được
mời tới giảng phòng cho một khoá tĩnh tâm. Các cô gái nọ trao cho ngài một lá
thư, ngài liền bỏ vào túi nhưng rồi quên béng đi. Sau khóa tĩnh tâm, ngài tìm
thấy lá thư ấy. Ngài mở ra và đọc thấy những dòng sau đây; “Con bị bệnh tâm
thần và được điều trị suốt 8 tháng nay. Sự kiện này con chỉ cho vài người thân
biết thôi. Số là khi còn bé, con bị lâm vào một tâm trạng sợ hãi khủng khiếp vì
bị người khác căm ghét, hành hạ, bạc đãi, nỗ lực lớn lao nhất của con hiện nay
là thắng vượt và chuyển biến nỗi sợ hãi ấy. Con không cần nhắc đến từng chi
tiết nhưng tựu trung nỗi sợ ấy là do nơi người mẹ của con… con có ác cảm với mọi
khái niệm về người mẹ đến nỗi con quyết tâm khước từ tình yêu của Đức Maria, Mẹ
của Chúa Giêsu. Sau khi nghe bài giảng của cha trong tuần tĩnh tâm, con đi bộ
ra ngoài, lòng cảm thấy cô đơn khủng khiếp. Con cầu xin Chúa ban ân sủng giúp
con phá đi bức tường ngăn cách khiến con không thể tin tưởng phó thác được… con
muốn khóc to lên, nhưng suốt mấy tháng trời vẫn không khóc được… chắc cha cũng
biết căn nhà nhỏ bé, tròn tròn gần cạnh nghĩa trang chứ? Con đã đến đó vì tò mò
và con mở cửa bước vào. Khi nhìn vào trong, lòng con cảm thấy sợ hãi. Ở đây có
tượng Đức Mẹ Maria. Cảm giác đầu tiên của con là muốn giận dữ bỏ đi ngay, nhưng
rồi có cái gì đó đã từ từ lôi kéo con đến quì dưới chân Ngài. Và con đã quì gối
xuống vừa gục vào vạt áo dài của Ngài vừa khóc, sau đó, con cảm thấy tâm hồn
nhẹ nhàng trong trắng, và mong ước, mình được là một đứa trẻ, một người con đầy
tin tưởng và phó thác… hơn thế nữa, con còn cảm nhận được tình yêu của một
người mẹ dành cho con khiến con nẩy sinh một ước muốn thực sự là tha thứ cho mẹ
ruột của mình”.
Câu chuyện cảm động
trên gợi lên những hình ảnh tuyệt hảo cho chúng ta trong ngày lễ Mẹ Thiên Chúa
mà chúng ta mừng hôm nay. Lễ này nêu bật hai điểm về Đức Maria. Thứ nhất: Đức
Maria là Mẹ chúng ta. Ngài không chỉ là mẹ Chúa Giêsu, Đấng sống cách đây hơn
2000 năm. Ngài còn là Mẹ chúng ta nữa. Từ trời cao, Ngài vẫn mong muốn giúp đỡ
chúng ta như một người Mẹ. Thứ đến, Đức Maria cũng là khuôn mẫu của chúng ta.
Chúng ta phải tôn sùng và bắt chước ngài. Ở đây, chúng ta chỉ cần nêu ra một nét
đặc trưng nơi Đức Mẹ, đó là Mẹ tuyệt đối tín thác vào Thiên Chúa. Khi thiên sứ
báo cho mẹ biết mẹ sẽ sinh con trai bởi phép Chúa Thánh Thần, thì Mẹ hiểu ngay
rằng việc này có thể sẽ khiến Thánh Giuse cắt đứt quan hệ bạn đính hôn với Mẹ -
và điều này chỉ chút xíu nữa là đã thực sự xảy ra - Thế nhưng Mẹ vẫn vững tin
vào chúa. Khi nghe mục đồng kể lại lời các Thiên thần, Mẹ cũng không hiểu,
nhưng lần nữa, Ngài vẫn tín thác vào Chúa, về sau, khi Mẹ và Thánh Giuse đem
hài nhi Giêsu vào đền thờ, cụ già Simêon đã nói với Mẹ: “Sầu khổ sẽ như một mũi
gươm nhọn đâm thâu qua trái tim bà” (Lc 3: 35). Lần này, Mẹ Maria cũng chẳng
hiểu rõ ý nghĩa lời trên nhưng Mẹ vẫn tín thác vào Chúa. Rồi khi lên mười hai
tuổi, Đức Giêsu ở lại trong đền thờ. Lúc gặp lại Đức Giêsu, Mẹ Maria hỏi Ngài
lý do tại sao, Ngài đáp lại: “Mẹ không biết con phải lo việc cho Cha con sao?
một lần nữa, Mẹ Maria chẳng hiểu gì cả nhưng Mẹ cẫn cứ tín thác vào Chúa.
Ngày nay Mẹ Maria có
thể giúp chúng ta biết tín thác vào Chúa. Xin hãy nhớ lại câu chuyện cô gái
trong khoá tĩnh tâm nọ. Cô ta đã phải trải qua một Kinh nghiệm thời thơ ấu đầy
kinh hãi khiến cô mất hẳn niềm tin. Cô muốn tin tưởng trở lại nhưng không thể
được. Thế rồi, một ngày nọ, hoàn toàn do tình cờ, cô đã quì xuống dưới chân Mẹ
Maria và quyết định cầu nguyện với Ngài. Chúng ta hãy nhắc lại chính những lời
của cô ta. “Con đã cầu xin Chúa ban ân sủng giúp con phá tan đi bức tường ngăn
cách khiến con không thể tin tưởng và phó thác được”. Đức Maria đã nhận lời cô
cầu xin và cô đã tìm được niềm tin.
Và Đức Maria cũng có
thể giúp chúng ta tin tưởng phó thác giống như Ngài từng giúp cô gái nói trên.
Chẳng hạn, chúng ta là bậc cha mẹ biết quan tâm đến con cái mình. Nhưng xảy ra
là chúng chẳng còn chịu đi dâng lễ, hoặc chúng theo gương những bạn bè xấu cho
dầu chúng ta đã cầu nguyện, đã làm gương sáng, đã giải thích cho chúng hiểu.
Thế là chỉ còn một phương cách là tiếp tục cầu nguyện và phó thác. Chính Đức
Maria sẽ gíup chúng ta làm điều này. Hoặc có thể chúng ta vẫn không chắc chắn
về dự tính của mình và cũng có Chúa muốn chúng ta làm gì. Chúng ta đã bàn bạc
với cha mẹ và những vị cố vấn, đã cầu xin ơn Chúa hướng dẫn, thế mà chúng ta
vẫn còn tối tăm mờ mịt. Vậy thì chúng ta chỉ còn biết tiếp tục cầu nguyện và
phó thác vào Chúa. Đức Maria sẽ giúp chúng ta trong việc này. Hoặc chúng ta là
một người đang suy tư về đức tin của mình. Chúng ta lo âu vì biết rằng đức tin
mình vẫn còn yếu kém, chúng ta đã cầu xin Chúa giúp nhưng xem ra Ngài vẫn chưa
nhậm lời, để rồi chúng ta bị rơi vào thắc mắc chẳng hiểu Ngài có hay không nữa.
Thế là chúng ta chả còn làm gì được ngoài việc tiếp tục cầu nguyện và phó thác
cho Chúa. Mẹ Maria sẽ gíup chúng ta thực hiện điều này.
Lễ hôm nay nhắc chúng
ta nhớ rằng Đức Maria là khuôn mẫu, đồng thời là mẹ của chúng ta, trong lúc
nguy khốn, chúng ta cần hướng về Ngài để van xin Ngài trợ gíup. Ngài hằng ao
ước cứu giúp chúng ta miễn là chúng ta biết kêu cầu Ngài. Nếu muốn tìm một giải
pháp cho năm mới thì không gì tốt hơn là chúng ta hãy quyết định dành cho Đức
Mẹ Maria một vai trò to tát hơn trong cuộc đời chúng ta.
Chúng ta hãy kết thúc
với kinh nguyện hằng ngày mà thánh Bernard vẫn thường dâng cho Đức Maria.
“Lạy Trinh Nữ Maria là
Mẹ rất nhân từ, xin hãy nhớ xưa nay chưa từng nghe có người nào chạy đến cùng
Đức Mẹ xin bầu chữa cứu gíup mà Mẹ chẳng nhậm lời…. Nhân vì niềm tin cậy ấy,
chúng con hướng về Mẹ, ôi Mẹ đồng trinh trên hết các kẻ đồng trinh, chúng là
những tội nhân khốn khổ xin đến trình diện trước Mẹ, Lạy Mẹ Ngôi Lời nhập thể
xin đừng ngoảnh mặt đi mà hãy đoái thương lắng nghe và khấn nhậm lời chúng con.
Amen.
Suy Niệm:
Thế giới đang sống có
7 kỳ quan thế giới. Mỗi kỳ quan đều toát lên vẻ đẹp, nét hùng vĩ và sự tuyệt
tác của thiên nhiên. Ấy là những kỳ quan gắn liền với thế giới hữu hình. Người
ta còn khám phá ra một kỳ quan trong thế giới vô hình, ấy là lòng mẹ: công đức
trời bể, âm thầm, lặng lẽ, vất vả, lao nhọc nhưng toát lên một vai trò, vị trí
vô cùng to lớn trong đời sống gia đình. Và người ta gọi đó là kỳ quan thứ 8 của
thế giới này. Ngày hôm nay, khởi đầu của một năm mới, Giáo hội cho chúng ta
chiêm ngắm vai trò và sứ vụ của “kỳ quan thứ 8” của mọi kỳ quan này. Đức Maria
là Mẹ Thiên Chúa. Một mẫu gương về ân phúc và sự mẫu mực trong đời sống hàng
ngày.
Phúc đức tại mẫu, văn
hóa Việt nam chúng ta vẫn luôn đề cao vai trò của người mẹ trong gia đình.
Tương lai của đứa con phụ thuộc rất nhiều vào sự giáo dưỡng của người mẹ. Sự
chăm chỉ, thầm lặng, hy sinh vì gia đình của người phụ nữ trong đời sống hằng
ngày, ấy là một ân phúc cho gia đình. Đức Maria hẳn phải là một ân phúc cho
nhân loại chúng ta. Ân phúc vì Mẹ đã được diễm phúc, đặc ân cộng tác vào công
trình cứu độ của Thiên Chúa. Ân phúc vì Mẹ đã khiêm nhường, suy đi, ngẫm lại
trước hồng ân cao cả này mà trong nhiều “biến cố”, Mẹ muốn như dừng bước, chối
từ, thế nhưng Mẹ đã một đời Xin vâng, để đem ân phúc đến cho nhân loại chúng
ta. Mẹ đã sống đẹp trong những trắc trở, tận tụy, âm thầm để cộng tác với Thiên
Chúa hầu đưa đến cho con người chúng ta ân phúc tuyệt vời cao cả nhất đó chính
là Đức Giê-su Ki-tô, Thái Tử Bình An, Đấng Hòa Bình cho nhân thế.
Bên cạnh đó, Đức Maria
còn là một mẫu gương trong sinh hoạt hàng ngày. Trong đời sống vật chất, gia
đình Nagiaret vẫn được coi là biểu tượng của những gia đình nghèo. Thế nhưng,
trong đời sống tinh thần, tổ ấm thánh gia vẫn được coi là biểu tượng của sự
kính trên nhường dưới, đối nhân xử thế, khéo léo nhẹ nhàng với tương quan lối
xóm. Trong những sinh hoạt đời thường đó, hẳn Mẹ Maria phải là một mẫu mực cho
chồng cho con. Mẫu mực cho chồng vì Mẹ đã cũng phải gạt đi tự ái, quên đi “sự
kiện” mà thánh Giuse muốn âm thầm bỏ đi. Mẫu mực cho con vì tình mẫu tử đã giúp
mẹ vượt thắng những thử thách hằng ngày để cộng tác, xây dựng và làm cho Nước
Chúa mau trị đến ngay cả “trước lúc khi sinh, trong khi sinh và thậm chí ngay
cả sau khi sinh Ngôi Hai Thiên Chúa”. Vượt lên trên những trắc trở đó, Mẹ đã
trở nên mẫu mực của sự tin tưởng, phó thác, một mực trung thành tuyệt đối với
Thánh Ý Thiên Chúa.
Ngày hôm nay, khởi đầu
ngày mới của một năm mới, mừng lễ Mẹ Thiên Chúa, chúng ta tin tưởng vào lời
chuyển cầu của Mẹ cho thế giới chúng ta đang sống luôn được Bình An. Chúng ta
cũng không quên từng người mẹ thân yêu của chúng ta. Có thể nói họ cũng là
những Maria trong đời sống hàng ngày cho gia đình. Xin cho những người mẹ cũng
biết “suy đi ngẫm lại” và “hằng ghi nhớ” mọi giáo huấn của Chúa
và Hội thánh để mỗi người mẹ xứng đáng là “ân phúc và mẫu gương” trong và cho
gia đình. Amen.
33. Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa.
Mẹ Thiên Chúa, đó là
phẩm chức cao cả nhất của Đức Maria, chính phẩm chức cao cả này là nền tảng mỗi
đặc ân khác dành cho Mẹ. Công đồng Vaticano II đã trình bày các đặc ân liên kết
với phẩm chức Thiên Chúa như sau:
- “Không có gì lạ, nếu
các giáo phụ đã thường xưng tụng Mẹ là Đấng toàn thánh, không vương nhiễm một
tội nào, như một tạo vật mới do Chúa Thánh Thần uốn nắn và tác thành. Tràn đầy
thánh thiện, có một không hai ngay từ lúc thụ thai, Đức Trinh Nữ thành Nazareth
được Thiên thần vâng lệnh Chúa đến truyền tin và đã kính chào là “Đầy ơn phườc”
(Lc. 1,28). (GH.59).
- “Được gìn giữ tinh
sạch khỏi mọi vết tội nguyên tổ, và sau khi hoàn tất cuộc đời dưới thế, Đức Nữ
Trinh Vô nhiễm đã được đưa lên hưởng vinh quang trên trời cả hồn lẫn xác, và
được Thiên Chúa tôn vinh làm nữ Vương vũ trụ, để nên giống Con Ngài cách trọn
vẹn hơn” (GH.59).
- “Đức Maria luôn tiếp
tục thiên chức làm Mẹ... Thật vậy, sau khi về trời, vai trò của Ngài trong việc
cứu chuộc không chấm dứt, nhưng Ngài vẫn tiếp tục liên lỉ cầu bầu để đem lại
cho chúng ta những ân huệ giúp chúng ta được phần rỗi đời đời... Vì thế trong
Giáo hội, Đức Trinh Nữ Maria được kêu cầu qua các tước hiệu: trạng sư, vị bảo
trợ, Đấng phù hộ và Đấng Trung gian” (GH.62)
Như vậy, long trọng
mừng Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa, chúng ta hãy tỏ một niềm tin vững chắc vào vai
trò của Mẹ trong chương trình cứu rỗi nhân loại. Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa vì
Ngài đã sinh ra cho chúng ta Thiên Chúa cứu chuộc. Trong buổi Truyền Tin, chính
sứ thần Gabriel đã quả quyết: “Người sẽ thụ thai và sinh con... trẻ sẽ sắp sinh
sẽ được gọi là Đấng Thánh, là Con Thiên Chúa” (Lc 1,31-35). Được Thánh Thần
linh hứng, bà Elisabeth cũng đã lên tiếng: “Bởi đâu tôi được thế này, là mẹ
Chúa tôi đến với tôi” (Lc1,43). Niềm tin vào chức phẩm cao quí là Mẹ Thiên Chúa
của Đức Maria đã có từ đầu Giáo hội. Chính thánh Phaolô đã viết: “Khi thời viên
mãn đến, Thiên Chúa sai con của Người, sinh bởi người Nữ” (Gl 4,4).
Tiếp tục niềm tin đã
có từ đầu, các tín hữu còn xác tín hơn nữa do biến cố dẫn tới những xác quyết
chắc chắn của Công đồng chung Ephêsô (năm 413). Nestoriô khi ấy bác bỏ tước
hiệu Mẹ Thiên Chúa của Đức Maria, ông chỉ chấp thuận Đức Maria là Mẹ Chúa Kitô,
vì Ngài chỉ sinh ra xác thể Chúa Kitô thôi, chống lại lời rao giảng của Giám
mục Nestoriô, khoảng hai trăm Giám mục đã họp tại Ephêsô ngày 22.6.431, dưới
quyền chủ tọa của Thánh Cyrillô thành Alexandrioa. Công đồng này kết án Nestoriô
và tuyên bố tín điều Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa. Toàn thể dân thành đã công
khai bày tỏ niềm hân hoan trước thành quả này. Họ tổ chức rước đuốc để mừng các
nghị phụ công đồng. Cũng từ công đồng này mà có phần sau của kinh Kính mừng:
“Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội khi nay và trong
giờ lâm tử”.
Hợp với niềm hân hoan
của dân Chúa dịp công đồng Êphêsô bế mạc, niềm tôn kính dâng lên Mẹ Thiên Chúa
ngày một thêm sâu đậm. Vua Giuse Emmanuel nước Bồ Đáo Nha đã xin ông được đặc
ân mừng lễ Mẹ Thiên Chúa. Thánh bộ nghi lễ đã ban bố sắc lệnh thiết lập ngày 22
tháng giêng năm 1751 và ấn định vào Chúa nhật đầu tháng năm. Từ đó nhiều nước
cũng được hưởng đặc ân này. Năm 1931, dịp kỷ niệm 1500 năm, công đồng Ephêsô,
Đ.G.H Piô XI đã lập lễ Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa, kính trọng thể trong khắp
Giáo hội vào ngày 11 tháng 10. Chính Đức giáo hoàng Piô XI đã viết:
- “Tín điều Mẹ Thiên
Chúa là một mối nước mầu nhiệm vô tận, đã tuôn ra mọi đặc ân cho Đức Mẹ và nâng
Người lên một địa vị cao sang tuyệt vời bên Thiên Chúa (Lux Veritatis 1931).
Năm 1962, Đức Giáo
hoàng Gioan XXIII đã chọn lễ kính Mẹ Thiên Chúa làm ngày khai mạc công đồng
Vaticanô II.
Đức giáo hoàng Phaolô
VI dời ngày lễ vào đầu năm dương lịch, việc dời ngày kính này vào ngày thế giới
Hòa Bình, nhấn mạnh thêm ý nghĩa lễ Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa hôm nay. Đức giáo
hoàng Phaolô VI viết:
- “Khi canh tân mùa
Giáng sinh, mọi người phải chú ý đến việc tái lập lễ Đức Maria Mẹ Thiên Chúa
vào ngày 1 tháng giêng, đúng phụng vụ Roma từ xưa, nhằm tôn kính việc Đức Maria
góp phần vào mầu nhiệm cứu rỗi và tôn vinh địa vị đặc biệt, khiến cho “Mẹ rất thánh,
đáng tiếp nhận Nguồn sống cho chúng tôi”. Lễ này cũng là dịp rất tốt để chúng
ta tôn thờ Vua Hòa Bình mới sinh, và nghe lại lời chúc hoà bình của các thiên
sứ (Lc 2,14), để cầu Chúa, nhờ sự can thiệp của Nữ Vương Hòa Bình, ban cho ta
ơn cao cả nhất là Hòa bình. Vì sự trùng hợp tốt đẹp giữa ngày 1 tháng giêng với
ngày thứ tám giáp Lễ Giáng sinh mà chúng tôi đã đặt ngày đó là ngày thế giới
hòa bình, mà thế giới mỗi ngày càng hưởng ứng thêm, và thành quả của hòa bình
đã phát sinh trong lòng nhiều Người” (ĐGH Phaolô VI. Marialis Cultus, số 5b)
34. Hồng ân
Đêm 22.06.443 tại
thành Êphêsô có một cuộc rước đuốc vĩ đại, đoàn rước muôn người như một vừa đi
diễu hành vừa tung hô vang trời: “Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa, Maria là Mẹ Thiên
Chúa”. Tại sao có cuộc rước đuốc này? Là vì Nettôriô, giám mục giáo chủ thành
Côntăngtinốp chối Đức Maria không phải là Mẹ Thiên Chúa, vì Đức Maria không
sinh ra thần tính của Chúa Giêsu mà chỉ sinh ra nhân tính là một dụng cụ của
thần tính, nghĩa là Đức Kitô chỉ là một người được phúc tiền định mặc lấy thiên
tính, trở nên đền thờ của Ngôi Lời. Như vậy, Nettôriô đã phân tách Ngôi Lời ra
khỏi Đức Kitô, và phân chia Ngôi Hai nhập thể thành hai ngôi vị riêng biệt,
được lồng vào nhau, rồi ông chủ trương: chỉ nên gọi Đức Maria là Mẹ Đức Kitô
chứ không phải là Mẹ Thiên Chúa.
Trước chủ trương của
Nettôriô, Công đồng chung được triệu tập tại Êphêsô để giải quyết vấn đề. 160
nghị phụ là các giám mục của Ai Cập, Palestine, Tiểu á và đại diện của Rôma là
thánh Xirilô chủ toạ. Sau một ngày hội họp và tranh luận, công đồng đã cách
chức Nettôriô và tuyên bố chủ trương của ông là sai lầm, là lạc thuyết, đồng
thời Công đồng chấp nhận bản dự thảo của thánh Xirilô và tuyên bố: Đức Kitô tuy
có hai bản tính nhưng chỉ là một ngôi, cho nên Đức Maria là Mẹ Đức Kitô thì
cũng là Mẹ Thiên Chúa, Công đồng khẳng định dứt khoát: Đức Maria là Mẹ Thiên
Chúa.
Sau khi Công đồng đã
xác định tước hiệu này, các tín hữu phấn khởi vui mừng kéo nhau ra các đường
phố vang lời ngợi khen Đức Mẹ, tung hô các nghị phụ và cầm đuốc sáng dẫn đưa
các ngài về nhà. Đồng thời, để mừng kính và đánh dấu thành quả của Công đồng,
kinh “Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội” đã được
sáng tác vào dịp này và được Đức Giáo Hoàng Xêléttin chấp nhận.
Như vậy, Đức Maria, Mẹ
Thiên Chúa, là một tín điều, một chân lý đức tin. Để Đức Maria thực sự được gọi
là Mẹ Thiên Chúa thì những điều kiện ắt có và đủ là: ngài phải thực sự sinh một
người con, và người con này từ giây phút đầu hiện hữu làm người đã là Con Thiên
Chúa hoặc Ngôi Lời, mà thực vậy, Đức Maria thực sự có đủ những điều kiện đó.
Nói khác đi, Chúa Giêsu là người thật và cũng là Thiên Chúa thật, bởi thế, nếu
Đức Maria là Mẹ thật của Chúa Giêsu, thì ngài cũng là Mẹ thật của Thiên Chúa.
Như vậy, vì có mầu
nhiệm Đức Kitô mà có mầu nhiệm Đức Mẹ Thiên Chúa. Mầu nhiệm này gắn liền với
Con Thiên Chúa làm người. Trong lịch sử Giáo Hội, chỉ sau khi xác định chân
tướng Chúa Giêsu Kitô, vừa là Thiên Chúa thật vừa là người thật, Giáo Hội mới
xác định Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa. Nếu Chúa Kitô chỉ là Thiên Chúa thôi thì
không làm gì có “Mẹ Thiên Chúa” như một “siêu Thiên Chúa”. Hay nếu Chúa Kitô
chỉ là người thôi, cho dù là:siêu nhân” đi nữa, thì Đức Maria càng không thể là
“Mẹ Thiên Chúa”. Cho nên, ngày nay chúng ta tuyên xưng đức tin mầu nhiệm Đức Mẹ
Thiên Chúa là bởi vì mầu nhiệm ấy gắn liền với mầu nhiệm nhập thể, như trong
kinh Tin kính: “Ngài là Thiên Chúa thật bởi Thiên Chúa thật… Ngài đã từ trời
xuống thế bởi phép Đức Chúa Thánh Thần, Ngài đã nhập thể trong lòng Trinh nữ
Maria và đã làm người”. Chúng ta tin nhận Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa chính là
vì chúng ta tin Chúa Giêsu Kitô là Thiên Chúa thật và là người thật: Chúa Giêsu
là Thiên Chúa, Đức Maria sinh ra Chúa Giêsu, nên Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa.
Mẹ Thiên Chúa là một
tước hiệu cao cả, một đặc ân tuyệt vời mà không ai dám nghĩ tới, kể cả chính
Đức Mẹ. Mọi tước hiệu và các đặc ân khác được ban cho Đức Mẹ như vô nhiễm
nguyên tội, đồng trinh trọn đời, hồn xác lên trời chỉ là những đòi hỏi bắt buộc
phải có, hay là những hiệu quả tất nhiên của chức vụ Mẹ Thiên Chúa độc đáo này.
Thánh Bônaventura đã nói: “Chức Mẹ Thiên Chúa là một ơn vĩ đại phi thường nhất
Thiên Chúa có thể ban cho loài thụ tạo. Ơn ấy Ngài đã ban cho Đức Maria”,
“Thiên Chúa có thể mở rộng thêm bầu trời, có thể làm cho trái đất lớn thêm ra,
có thể tạo dựng một thế giới vĩ đại hơn, nhưng Thiên Chúa không thể tạo dựng
một người Mẹ Thiên Chúa cao sang hơn được nữa, vì muốn vậy phải có một Con
Thiên Chúa cao trọng hơn nữa, điều đó không thể nào có được”. Thánh Tôma Tiến
sĩ nói thêm: “Tước vị Mẹ Thiên Chúa của Đức Maria cao trọng hầu như vô cùng, vì
Thiên Chúa không thể cất nhắc ai lên bậc tốt lành và cao sang hơn nữa, chức mẹ
Thiên Chúa hầu như đã tới biên giới vô cùng”.
Với tư cách là Mẹ
Thiên Chúa, Đức Mẹ có uy quyền đáng kính nể, đó là điều thông thường và dễ
hiểu, bởi vì một người mẹ nào có con làm lớn và nhiều quyền, thì người mẹ đó
cũng có nhiều uy quyền và được mọi người kính nể. Đàng khác, trên đời này chúng
ta chỉ trông cậy người nào có thế và có lòng, vì có hai yếu tố đó họ sẽ giúp
chúng ta đạt được những điều chúng ta mong muốn. Đức Maria có cả hai yếu tố đó
và có một cách tuyệt vời. Đức Mẹ có thế, vì là Mẹ Thiên Chúa, chẳng có sự gì
Đức Mẹ cầu bầu cho chúng ta mà không được. Đức Mẹ lại có lòng, tấm lòng của một
bà mẹ, hoàn hảo hơn hết người mẹ. Vì thế, chúng ta hãy đến với Đức Mẹ và năng
cầu xin mẹ cứu giúp.
Hôm nay là ngày tân
niên, ngày đầu của một năm mới, chúng ta hãy trao năm mới này, trao con người
và cuộc đời chúng ta trong vòng tay từ mẫu của Mẹ, xin Mẹ ban bình an và cho
chúng ta thêm tuổi thêm khôn ngoan, thêm nhân đức, thêm sự nghiệp đức tin trước
mặt Thiên Chúa và mọi người.
35. Mẹ Thiên Chúa – Lm. Cao Thế Bình.
Kính thưa qúi ông bà
anh chị em, mỗi một người hiện hữu trên trần gian này, ai lại là người không có
mẹ - cha, có điều là người mẹ đó tuyệt vời hay còn có nhiều khuyết điểm. Và nếu
được quyền chọn lựa thì ai lại không muốn chọn cho mình một người mẹ tuyệt hảo,
nhưng đây là điều ngoài tầm tay của con người. Còn Thiên Chúa thì sao? NGài có
quyền tuyển chọn một người người mẹ tuyệt trần nhất để làm Mẹ Chúa cứu thế.
Hôm nay ngày đầu năm,
Giáo Hội đặt: lễ Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, sao Giáo Hội lại đặt lễ này vào ngày thứ
nhất của năm mới để làm gì, nếu không phải là để mọi người và thế giới nhìn vào
Đức Maria như là là sự bình an và niềm hy vọng; vì Mẹ đã đêm đến cho nhân loại
ông Vua thái bình, mà chúng ta chiêm ngắm tuần trước trong đêm Giáng Sinh. Mẹ
là kiểu mẫu của người sống đức tin. Vâng, Đức Maria là một tuyệt tác tuyệt diệu
của Thiên Chúa; vì Thiên Chúa cần một người Mẹ như thế để làm Mẹ của Ngôi Hai
Đấng cứu thế. Mẹ Maria mà chúng ta cùng với GH hôm nay mừng kính tước hiệu: Mẹ
là Mẹ Thiên Chúa, đó là phẩm chức cao cả nhất của Đức Maria, chính phẩm chức
cao cả này là nền tảng mọi đặc ân khác Chúa đã dành cho Mẹ.
Mẹ là Mẹ Thiên Chúa,
đó là một tín điều được công bố ngày 22- 6- 431 bởi công đồng Êphêsô, dưới
quyền chủ tọa của thánh Cyrillô thành Alexandria, cũng từ Công Đồng này mà ta
có phần sau của kinh kính mừng: “Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời cầu cho chúng con
là kẻ có tội khi nay và trong giờ lâm tử. Amen”.
Với tước hiệu Mẹ là Mẹ
Thiên Chúa, chắc không khỏi một số người thắc mắc: Thiên Chúa là Đấng quyền
năng cao cả, tự hữu, không có ai cao cả hơn Thiên Chúa nữa, thế mà chúng ta lại
nói: Đức Maria là mẹ Thiên Chúa, như vậy nghĩa là làm sao? Vâng, như tín lý dạy
chúng ta rằng: Chúa Giêsu Kitô là Ngôi Hai Thiên Chúa và cũng là Thiên Chúa,
nhưng Chúa Giêsu, xét về bản tính nhân loại thì Ngài lại hiện hữu trong thời
gian qua việc Ngài được Đức Mẹ sinh ra.
Đức Maria đã sinh ra
Đức Giêsu là người thật và là Thiên Chúa thật, nên Đức Maria cũng được gọi là
Mẹ Thiên Chúa. Chúng ta đừng sợ tước hiệu này xúc phạm đến Thiên Chúa cao cả,
vì Ngài đã chấp nhận giáng trần sinh bởi một người nữ để trở nên hoàn toàn như
chúng ta ngoại trừ tội lỗi, thì sao ta lại sợ xúc phạm đến Ngài khi bảo Ngài là
con của Mẹ Maria? Ở đây ta có thể chưng ra một thí dụ na ná để chúng ta dễ
hiểu: chẳng hạn, ta lấy hình ảnh tổng thống công giáo đầu tiên là ông Kennedy, tổng
thống thứ 35 của Hoa Kỳ. Vào ngày 20-01- 1961, khi ông trở thành tổng thống thì
trên phương diện điều hành đất nước, ông là người có chức quyền cao hơn tất cả
mọi người dân Hoa Kỳ, kể cả cha mẹ, ông bà nội, ông bà ngoại nữa; thế mà trong
mối tương quan máu mủ gia đình thì ông lại là con của ông bà Rose Kennedy.
Chúa Giêsu là Ngôi Hai
Thiên Chúa làm người, được sinh ra bởi người mẹ, việc sinh nở này do quyền năng
của Chúa Thánh Thần. Và Chúa Giêsu mặc lấy hai bản tính; bản tính Thiên Chúa và
bản tính nhân loại, hai bản tính này kết hợp với nhau một cách chặt chẽ trong
một con người là Đức Giêsu Kitô, mà Chúa Giêsu lại được chính Đức Maria sinh
ra. Như vậy Đức Mẹ là mẹ đích thực của Chúa Giêsu, mà Chúa Giêsu là Ngôi Hai
Thiên Chúa và như thế Đức Mẹ cũng là Mẹ Thiên Chúa, như lời của Kinh Thánh ghi
lại lời chào của sứ thần Gariel: “Kính chào bà đầy ơn phúc Thiên Chúa ở cùng
bà”, rồi lại nữa: “Trẻ mà bà sinh ra được gọi là thánh, là con Thiên Chúa” (Lc
1, 31-35). Rồi trong thơ Galata thánh Phaolo viết: “Khi đến thời viên mãn,
Thiên Chúa sai con của Người, sinh bởi người nữ”. ( Gl 4,4). Bài Tin Mừng của
thánh Luca ghi lại: “Các mục đồng vội vã ra đi đến thành Bêlem, và gặp thấy
Maria, Giuse và Hài Nhi mới sinh nằm trong máng cỏ. Khi họ trở về miệng tung hô
ca ngợi Thiên Chúa” ( Lc 2,16.21).
Mừng lễ Mẹ Maria là Mẹ
Thiên Chúa, Giáo Hội lấy ngày lễ này đặt vào ngày đầu năm, ý của Giáo Hội là
mong muốn con cái mình đặt trót 365 ngày của năm mới này dưới sự che chở và
nâng đỡ của Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa và là Mẹ chúng ta. Ngày đầu năm, Giáo Hội
cầu nguyện cho hoà bình thế giới, truyền thống này đã được Đức Giáo Hoàng
Phaolo VI muốn, khi mừng lễ Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa vào ngày đầu năm thì cũng
cầu mong thế giới được hòa bình. Đức Maria là Mẹ của Hoàng Tử bình an nên chi,
Giáo Hội nhìn lên Mẹ để cầu xin Mẹ mang Vị Vua Hoà Bình đến cho thế giới, cho
mỗi người; nhất là gia đình và thế giới ngày hôm nay có qúa nhiều sự đe doạ,
sống trong lo âu, sợ hãi. Cho nên, hơn bao giờ hết, gia đình và thế giới hôm
nay cần phải chạy đến với Mẹ, để xin Mẹ mang Chúa của sự bình an đến cho loài
người.
Anh chị em thân mến,
mỗi dịp Giáng Sinh về là dịp giúp chúng ta hơn nữa để chiêm ngắm Hài Nhi Giêsu
trong máng cỏ, đồng thời khi chúng ta chiêm ngắm Vị Vua Thái Hoà, thì bên cạnh
Vị Vua đó là: Đức Maria, người mẹ nhân từ, hiền dịu, yêu thương. Như vậy, ngày
đầu năm chúng ta đến đây để hợp tiếng ca mừng Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa, chúng
ta hãy tỏ lòng tin vững chắc vào vai trò của Mẹ trong chương trình cứu rỗi nhân
loại. Ước gì chúng ta chiêm ngưỡng Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa và cũng là Mẹ của
chúng ta, lòng chúng ta phải luôn hân hoan vui mừng vì Thiên Chúa đã ban đặc ân
này cho Mẹ.
Mong sao, sau khi dâng
thánh lễ, ra về, lòng mỗi người vui mừng phấn khởi như các mục đồng xưa, để
loan báo tin mừng, tin vui nước trời đã thực hiện cho loài người nơi Thánh Tử
Giêsu con yêu dấu của Mẹ Maria. Tin mừng, tin vui đó phải được thể hiện nơi mỗi
người bằng sự niềm nở, vui tươi, tin tưởng, phó thác cuộc đời của mình theo
chương trình nhiệm mầu của Thiên Chúa, như Đức Maria luôn tìm và vâng theo
thánh ý Chúa, cho dẫu gặp những hoàn cảnh khó khăn, bi đác không thể hiểu được,
nhưng Mẹ luôn tín thác vào Thiên Chúa và chương trình của Ngài, qua sự lắng
nghe và xin vâng.
Xin Mẹ Maria giúp
chúng con biết noi gương Mẹ, luôn suy gẫm lời Chúa như Mẹ, để lời của Chúa sinh
hoa qủa dồi dào trong lòng mỗi người chúng con. Đặc biệt là ngày đầu năm này,
chúng con cần phải có tâm tình như Mẹ, sống tin tưởng phó thác tất cả mọi sự cho
chương trình của Thiên Chúa thực hiện qua cuộc sống của chúng con. Amen.
36. Chú giải của Noel Quesson
THÁNH MARIA, ĐỨC MẸ
CHÚA TRỜI
Ngày 1 tháng 1, trong
khi chúng ta chúc nhau "năm tốt lành", Giáo Hội mừng lễ Đức Maria, Mẹ
Thiên Chúa. Và chúng ta ước nguyện đi xa hơn vào huyền nhiệm Đức Kitô. Bởi vì
mỗi lần Giáo Hội nói với chúng ta về Đức Maria, chính là để nói về Đức Giêsu.
Chúng ta có khẳng định quá đán, khi chúng ta nói, trong kinh Kính Mừng Maria:
Thánh Maria, Mẹ Thiên Chúa? phải chăng một tạo vật có thể là mẹ Thiên Chúa?
Phải Chăng Thiên Chúa lại sinh ra từ một người đàn bà, như Thánh Phaolô nói
trong bài đọc thứ hai hôm nay (Gl 4,4).
Đến nơi, họ gặp bà
Maria, ông Giuse, cùng với Hài Nhi đặt nằm trong máng cỏ.
Các mục đồng hết sức
đơn thành, ở những vùng sườn đồi Bêlem, chạy vội đến để xác minh sứ điệp mà
thiên thần truyền cho họ: "một Đấng Cứu độ được sinh ra cho các ngươi;
Người là Đức Kitô và là Chúa". Chính là Hài Nhi mang ba danh hiệu ấy mà họ
tìm đến. Ba danh hiệu trang trọng, thuộc về Thiên Chúa: Đấng Cứu Độ, Đấng chịu
Xức Dầu, Đức Chúa.
Như vậy, điều đáng chú
ý nhiều hớn nữa là Luca dường như xem thường Hài nhi, khi trưng dẫn Người cuối
cùng; và cũng đặt người đàn ông, ông Giuse, xuống thứ hai vào thời mà người đàn
bà không có giá trị ngang bằng. "Họ khám phá ra Maria". Trong cái
viễn tượng đảo lộn này, có một cuộc cách mạng thần học và nhân bản nho nhỏ.
Maria! Danh hiệu của
bà là Mẹ Thiên Chúa đã chỉ được xác định ở Công đồng Êphêsô năm 430. Nhưng từ
rất lâu, lòng sùng kính bình dân đã dám gọi Đức Maria là "theotokos"
"Mẹ Thiên Chúa". Và vào thời đó khi các giám mục chính thức công nhận
danh hiệu này, thì cả thành phố Êphêsô hoan hỉ và xuống phố lúc nữa đêm để rước
đuốc mừng lễ. Cái mà các nhà thần học tìm kiếm, về mặt trí thức, từ bốn thế kỷ
qua, thì về bản chất nó đã được sống nơi tất cả những người chỉ biết đơn sơ
lắng nghe Tin Mừng. Các Công đồng chỉ có vai trò xác định bằng ngôn ngữ khoa
học những điều đã gợi ra từ trong Tân ước. Ngoài ra còn phải đợi đến hai mươi
năm nữa, thì Công đồng Can-xê-đoan sau cùng năm 451 mới xác định huyền nhiệm
của Đức Giêsu và Đức Maria. Đây là văn bản tín điều, văn bản nổi tiếng nhất của
lịch sử các Cồng đồng: "Tất cả, chúng tôi đồng lòng tuyên xưng, một Chúa
Con độc nhất và luôn luôn là một. Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta, hoàn toàn về
thiên tính, hoàn toàn về nhân tính, Thiên Chúa thật và người thật, được cấu
thành bới một linh hồn có lý trí và một thân xác, đồng bản tính với Chúa Cha do
thiên tính, đồng bản tính với chúng ta bởi nhân tính, tất cả đều giống như
chúng ta trừ tội lỗi (Dt 4,15), được sinh ra bởi Chúa Cha, trước các thế kỷ
theo thiên tính, được sinh ra trong những ngày cuối cùng này vì chúng ta và để
cứu độ chúng ta, bởi Đức Maria, Mẹ trinh nguyên của Thiên Chúa theo nhân tính:
một và cùng một Chúa Ki tô duy nhất. Con độc nhất, mà chúng ta phải nhận biết
trong hai bản tính không lẫn lộn, không thay đổi, không phân ly, không tách
biệt". Đấy là tấm giấy chứng minh kỳ diệu và rõ rệt về Đức Giêsu Nagiarét,
và Mẹ Người Đức Maria.
Họ tìm ra Bà Maria và
ông Giuse cùng với Hài nhi đặt nằm trong máng cỏ.
Cần phải lặp lại những
từ này sau khi đã nghe xác định trang trọng về Đức tin. Như thế chúng ta hiện
đứng trước một trong hai phương diện của Đức Giêsu, nhân tính thực của Người.
Các mục đồng trông chờ tìm thấy một Đấng Cứu độ Kitô Chúa (Lc 2.11), và chỉ tìm
thấy có thế: một Hài nhi trong chuồng bò lừa, đặt trong máng cỏ dành cho súc
vật, một Hài Nhi trên nệm rơm! Thiên Chúa lập tức tự mạc khải như một vị hoàn
toàn khác: thoạt đầu, Người khác với cái mà ta tưởng tượng về Người. Người đã
hiện ra như quá gần gũi, ngay từ đầu. Người mang tính người đến nỗi nhiều người
không nhận ra Người, chính vì Người bị che khuất đối với người thân tín nhất
của nhân loại chúng ta.
Vâng, Giao ước giữa
Thiên Chúa và con người mà Cựu ước, Tân ước nói tới, ngay từ đầu, không huyênh
hoang, đã nói với chúng ta là nó đi đến đâu: hợp nhất không thể xé bỏ được,
không lẫn lộn, không phân ly, không tách biệt.
Tất cả thái độ tôn
giáo được hâm chứa như mầm mống trong điều mạc khải này: người ta không thể
miệt thị vật chất, thân xác, từ khi Thiên Chúa "nhập thể" trong cung
lòng trinh nữ Maria. Không có cái gì là phàm tục. Tất cả đều trở nên linh
thánh, nghĩa là đôi khi hoàn toàn "nhân bản" và hoàn toàn "thiên
bản": lớn lên chín tháng trong bụng mẹ, sinh ra, ngủ nghỉ, ăn uống, học đi
và tập nói, chữa lành bệnh nhân, lên tiếng công khai, yêu mến bạn bè, thức dậy
sớm ban sáng để cầu nguyện, chịu đau đớn, chết,... những thực tại nhân thiên
bản những thực tại linh thánh. Và Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa, thì giống như một
bảo đảm cho sự kết hợp không thể phân ly của Thiên Chúa và con người trong bản
vị độc nhất của Đức Giêsu.
Thấy thế, họ liền kể
lại điều đã được nói với họ về Hài Nhi này.
Điều họ đã được loan
báo, chính là "một Đấng Cứu Độ, được sinh ra cho các anh, người là Chúa
Kitô. Họ đơn sơ đến nói sứ điệp của họ, tức là những lời nói mà họ nghe thấy.
Các họa sĩ thuộc mọi thời đại đã diễn dịch câu nói Tin Mừng này khi trưng bày một
bức tranh "Sự thờ kính của các mục đồng". Thực sự, đúng hơn các mục
đồng đã giảng một bài cho Đức Maria, bằng cách nói Tin Mừng cho bà, tin lành mà
họ nhận được. Bây giờ, trong câu này chúng ta thấy có phương diện thứ hai của
Đức Giêsu, thiên tính đích thực của người: về Hài nhi này, các thiên thần đã
nói với chúng ta rằng:
Người là Đức Kitô và
là Chúa!". Đó là một tuyên xưng đức tin và từ đó đến thờ kính thì không
xa: các bức tranh của các họa sĩ không lầm lần.
Nghe các người chăn
chiên thuật chuyện, ai cũng ngạc nhiên. Còn bà Maria thì hằng ghi nhớ mọi kỷ
niệm ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng.
Ngôn từ Hy Lạp của
Luca còn mạnh mẽ hơn nhiều mọi người ai cũng lấy làm lạ lùng. Thế nhưng, có cần
phải thấy một đối lập mà Luca muốn trình bày giữa thái độ tổng quát và thái độ
của Maria chăng? Quả thực đúng là ông chỉ nhấn mạnh đến cách hành sử của bà
thôi: Bà không chỉ lạ lùng, mà suy niệm.. Dù không hiểu nhiều hơn các mục đồng
về huyền nhiệm xảy đến cho mình, phải chàng người ta không thể nghĩ rằng từ đáy
lòng mình Đức Maria nói lại tiếng xin vâng của đức tin trước sự mới lạ bất ngờ
của Hài nhi này sao? Luca không ngừng tôn vinh giá trị của Maria.
Rồi các người chăn
chiên ra về, vừa đi vừa tôn vinh ca tụng Thiên Chúa, vì mọi điều họ đã được mắt
thấy tai nghe, đúng như đã được nói với họ.
Chúng ta luôn luôn cố
giản lược huyền nhiệm về Đức Giêsu, bằng các đến giản hóa đi, Hoặc là người ta
nhân bản hóa Đức Giêsu khi chỉ nhìn thấy người là một người có thiên tài, hoặc
người ta linh thiêng hóa người bằng cách chối từ những khuyết điểm trong nhân
tính của Người. Chính các mục đồng, những con người đơn sơ, đã trông thấy và đã
nghe thấy. Họ đã xem thấy một nhân tính hoàn toàn bình thường, và nghe thấy một
sứ điệp rất phi thường. Và họ không chỉ muốn dừng lại ở những dáng vẻ bên
ngoài: họ tôn vinh và ca tụng Thiên Chúa.
Khi Hài Nhi được đủ
tám ngày, nghĩa là đến lúc phải làm lễ cắt bì, người ta đặt tên cho Hài Nhi là
Giêsu
Hài nhi Bêlem là một
người thực bé mọn, gắn liền với một truyền thống, một văn hóa và hệ thống tập
tục. Đó là một bé trai, nhời được ghi dấu vào xác thịt dành cho tất cả những
người nam của dân tộc này. Vâng, một nhân tính thực sự mà trước nó người ta
không thể không thấy được. Nhưng tên của trẻ thơ này mang những vấn đề mới về
căn tính của cậu: tại sao di cư phải đặt cái tên Thiên Chúa Cứu Độ, Yeshoua,
Giêsu? Tại sao?
Đó là tên mà sứ thần
đã đặt cho Người trước khi Người được thụ thai trong lòng mẹ.
Theo Luca, việc đặt
tên này chỉ là nhột cơ hội bổ sung để làm nổi bật Maria: tác giả nhấn mạnh rằng
Maria, Mẹ Người, đã nhận tên con mình "trước khi Người được thụ thai trong
lòng".
Công đồng Vatican II,
tiếp theo một truyền thống lâu dài của Giáo Hội, đã trình bày Đức Maria như một
gương mẫu của Giáo Hội, người đầu tiên trong các tín hữu. Và trong trang Tin
Mừng này, chúng ta thực sự vừa mới nhận ra rằng bà là người đầu tiên đón nhận
Lời Chúa và suy niệm trong lòng mình... và bà là người đầu tiên có lời tuyên
xưng cơ bản về lòng tin của chúng ta: Thiên Chúa Cứu Độ!
Trong ngày đầu tiên
của năm mới, tất cả sự mới mẻ của niềm tin Kitô giáo được Đức Maria nhắc lại
cho chúng ta. Sự tân kỳ của Đức tin của các Kitô hữu, chính là không phải chỉ
tin vào Thiên Chúa. Điều đó, phần đông mọi người vẫn thế, nhất là những người
theo một trong những tôn giáo lớn trên thế giới: và chúng ta nghĩ đến Do Thái
giáo, Hồi Giáo, và biết bao Tôn Giáo hữu linh. Đặc tính riêng biệt của người
Kitô hữu, chính là tin vào sự nhập thể của Thiên Chúa nơi Đức Giêsu Kitô. Sự
tôn sùng Đức Maria chỉ làm cho chúng ta nhớ lại điều đó.