Lời Chúa cntn 24c _ các bài suy niệm

CON TA ĐÂY ĐÃ CHẾT, NAY SỐNG LẠI 
Xh 32,7-11.13-14; 1Tm 1,12-17; Lc 15,1-32
MỤC LỤC


1. Người con phung phá
2. Sự tha thứ của Thiên Chúa.
3. Lòng Chúa xót thương
4. Hòa giải là từ ngữ mới của tha thứ – An Phong
5. Thiên Chúa là Đấng thương xót và hay tha thứ.
6. Lòng bao dung của Thiên Chúa
7. Đấng nhân từ
8. Nụ hôn nồng nàn tình thương xót
9. Thiên Chúa giàu lòng thương xót  ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
10. Phục hồi phẩm chất cao đẹp
11. Cha anh chạy ra gặp anh
12. Thiên Chúa, Đấng Nhân Hậu
13. Hối cải – Lm. Giuse Trần Việt Hùng
14. Lòng Chúa xót thương – Lm Jos. Tạ Duy Tuyền
15. Suy niệm của ĐHY Phaolô Giuse Phạm Đình Tụng
16. Tin Mừng của lòng thương xót Chúa
17. Suy niệm của Lm Gioan Nguyễn Văn Ty
18. Tìm về – Lm. Antôn Nguyễn Văn Tiếng
19. Xin chung vui với tôi
20. Người cha
21. Tuyệt đỉnh của yêu thương – Thiên Phúc
22. Cây táo và miếng vải trắng
23. Thương xót – Veritas
24. Quan trọng - McCarthy
25. Tấm lòng người cha
26. Niềm vui san sẻ – Achille Degeest
27. Người cha sẽ làm bất cứ điều gì cho chúng ta
28. Lạc mất - McCarthy
29. Tha thứ
30. Tình thương vô biên
31. Mầu nhiệm Thánh thiện và tội lỗi
32. Một người cha có hai con trai – André Sève
33. Chứng từ của lòng sám hối
34. Nhân lành
35. Thương người
36. Nhân hậu
37. Tiếng khóc
38. Bởi vì chúng nó là con của tôi!
39. Chúa Nhật 24 Thường Niên
40. Niềm vui khi tìm gặp lại
41. Lạc lối - Lm Bùi Quang Tuấn
42. Chúa Nhật 24 Thường Niên
43. Đức Giêsu đi tìm con chiên lạc
44. Chúa Nhật 24 TN C
45. Thà yêu lầm còn hơn bỏ sót
46. Hãy chia vui với tôi – G. Nguyễn Cao Luật
47. Đã mất mà lại tìm thấy
48. Đón nhận - Trao ban lòng thương xót
49. Suy niệm của Lm FX. Vũ Phan Long
50. Ai nấy sẽ vui mừng  Noel Quesson.
51. Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
52. "Hãy chia vui với tôi" – Lm Giuse Nguyễn Hữu An
53. Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
54. Bài học về lòng xót thương – Lm. Anmai
55. Ai là con thực sự? Ai là người làm công?
Lòng yêu thương tha thứ...Lm Giuse Đinh tất Quý
Thiên Chúa giàu lòng thương xót   Lm Giuse Đinh tất Quý
Yêu thương anh em như....Lm. Đaminh Lâm Quang Khánh
Thánh Vịnh & Đáp Ca  Nhóm Thánh Vịnh Nauy
Chúa giàu lòng thương xót và tha thứ  Catholic.org.tw
Lòng nhân từ thương xót của...   Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
Thiên Chúa thương xót và tha thứ   Lm Giuse Đinh lập Liễm
Thiên Chúa đi tìm Lm, Gioan M. Nguyễn Thiên Khải, CMC
Sự tha thứ     Lm Mark Link
Lòng bao dung của Thiên Chúa   Linh Mục Inhaxiô Trần Ngà
Nắm tay Cha   Lm.Jos Tạ Duy Tuyền
Hãy chia vui với Chúa   PM. Cao Huy Hoàng
Hãy tin tường vào tình thương  Suy niệm của JKN
Xin chung vui với tôi   Fiches Dominicales
Chiên lạc   Chú giải của R. Gutzwiller
Tình yêu và sự thương cảm   Hugues Cousin
Vui mừng của người chăn chiên   William Barclay
Quan trọng   McCarthy
Cây táo và miếng vải trắng   Niềm Vui Chia Sẻ
Người cha sẽ làm bất cứ ...   Charles E. Miller
Niềm vui san sẻ   Achille Degeest
Nghịch lý của tình yêu Thiên Chúa Lm. Phêrô Lê văn Chính
Lòng Chúa xót thương   Sưu tầm
Chứng từ của lòng sam hối   Sưu tầm

1. Người con phung phá

Trong phần chia sẻ sáng hôm nay, tôi muốn dừng lại ở thái độ của người cha và của người anh cả. Trước hết là của người cha.
Người Cha
Ở vào hoàn cảnh của chúng ta, chúng ta có nhiều cách xử sự. Trước hết, ông có thể đuổi ngay đứa con vừa mới trở về và nói với nó: Hãy cút đi, hãy xéo cho khỏi mặt tao. Mày đã chẳng đem lại gì ngoài sự nhục nhã đến cho gia đình. Đồ khốn nạn, đồ mất dạy. Mày coi cả xứ này đang bàn tán về gia đình mày, vì vậy mà tao chẳng dám vác mặt đi tới đâu. Thứ đến ông có thể thử thách đứa con một thời gian, và đây là điều mà bất cứ người con nào đã bỏ nhà ra đi, khi trở về đều mong được hưởng: Xin hãy xử với con như một người làm thuê trong gia đình. Sau hết người cha có thể làm thinh, không thèm để ý đến nó. Cách này là một hình phạt nặng nề nhất đối với đứa con trở về. Nhưng người cha đã chẳng chọn một cách nào trong ba cách nói trên, thay vào đó, ông sung sướng như một đứa trẻ khi thấy cha mẹ đi xa trở về. Ông còn trút như mưa trên đứa con những dấu chỉ mạnh mẽ để chứng tỏ tình yêu khoan dung ông dành cho con. Ông phục hồi quyền lợi cho nó một cách tràn đầy như một người con của ông vậy. Người ta nói rằng đứa con trở về đó như đã mất mà nay lại tìm thấy và lại được thương mến hơn trước.
Vậy Chúa Giêsu muốn nói về ai thế? Ngài nói về Thiên Chúa, bởi vì chính người cha chứ không phải là đứa con giữ vai trò chính trong câu chuyện. Đó là cách Thiên Chúa cư xử với tội nhân khi họ quay trở về với Ngài, khi họ thực sự đổi mới cách ăn nết ở. Đó là tâm tình đích thực của Thiên Chúa.
Người con cả
Trái lại người con cả sau khi nghe biết đứa em trở về và người cha giết bê béo ăn mừng, thì anh liền nổi giận và nhất quyết không vào nhà. Anh đã trả lời cùng người cha: Cha coi, đã bao năm tôi hầu hạ cha, không hề trái lời cha, vậy mà chẳng bao giờ cha cho tôi một con bê con để ăn mừng với chúng bạn. Câu chuyện có thể chấm dứt một cách tốt đẹp khi bữa tiệc được chuẩn bị. Vậy tại sao Chúa Giêsu lại thêm phần này vào dụ ngôn? Tôi xin thưa vì Ngài muốn mạc khải cho chúng ta biết về cách thức Thiên Chúa suy nghĩ, cách thức ấy hoàn toàn trái ngược với con người. Như người anh cả xét đoán đứa em thế nào thì người đời cũng đoán xét kẻ tội lỗi như vậy, dù họ đã ăn năn hối cải. Người đời đâu có thèm vui mừng khi thấy một người tội lỗi trở lại như Thiên Chúa đã làm. Đối với họ, kẻ tội lỗi là một con người xấu xa và đáng khinh chê. Họ còn chống đối lòng thương xót của Chúa nữa. Và đó cũng là lý do để Chúa nói lên dụ ngôn này. Người bị người ta chê trách vì đã làm bạn với bọn thu thuế và tội lỗi, khi những người này tìm đến để mong Ngài ban ơn cứu độ. Chúng ta chỉ cần đọc lại câu dẫn nhập là thấy rõ điều đó: Khi ấy những người thu thuế và tội lỗi đến gần Người để nghe giảng, thấy vậy bọn biệt phái và luật sĩ lẩm bẩm: Ông này đón tiếp những kẻ tội lỗi và cùng ăn uống với chúng. Với ba dụ ngôn vừa nghe, Chúa Giêsu đã chỉ trích cái nhìn hẹp hòi của người đời, chứng tỏ cho họ thấy rằng họ chẳng biết gì về Thiên Chúa. Người đã nhấn mạnh: Trên trời sẽ vui mừng biết mấy khi một kẻ tội lỗi ăn năn hối cải hơn là 99 người công chính. Dù có vấp phạm, chúng ta đừng bao giờ thất vọng, trái lại hãy tin tưởng vào lòng thương xót của Chúa mà chỗi dậy, mà trở về để được hưởng nhờ ơn Ngài tha thứ.



2. S tha thứ của Thiên Chúa.

Chủ đề của đoạn Tin Mừng hôm nay đó là tình thương tha thứ của Thiên Chúa, nhất là qua hình ảnh người cha nhân hậu.
Thực vậy, đây là hình ảnh của một tình yêu không biên giới và vô điều kiện của Thiên Chúa. Ngài là Cha và chúng ta là con. Làm con thì có quyền hưởng gia tài của cha. Thiên Chúa luôn tôn trọng quyền tự do của chúng ta nhưng đồng thời mỗi người chúng ta lại phải chịu trách nhiệm về mọi hành vi của mình trước mặt Ngài. Vì tôn trọng quyền tự do của con, người cha đã chia gia tài cho cậu út và để cho cậu ra đi. Nhưng tình yêu của người cha luôn đi theo cậu không ngơi, luôn mong chờ cậu trở về. Ngày ngày ông những nóng cùng trông. Cho tới một ngày kia, ông nhìn thấy bóng dáng cậu từ xa thất thểu lê lết từng bước chân. Thế là ông vội chạy về phía cậu, quên đi tuổi già sức yếu của mình, ông lại gạt bỏ khỏi lòng mình mọi đau buồn về lầm lỗi thất hiếu của cậu. Ông ráng chạy, chạy thật nhanh mà ôm lấy người con yêu dấu, đã chết mà nay lại sống. Rồi ông mở tiệc linh đình để ăn mừng.
Thiên Chúa là thế. Vì là Cha, Ngài luôn trông chờ, sẵn sàng đón nhận chúng ta trở về. Chỉ cần chúng ta biết nhớ lại tình thương vô bờ bến của Cha, nhận ra sự dại dột của mình mà ăn năn sám hối. Chúa luôn tha thứ và muốn chúng ta được lãnh nhận ơn tha thứ, như một trong những ơn cao đẹp nhất của tình yêu Ngài ban cho con người.
Chúng ta cũng nên dừng lại một chút với thái độ của người anh cả, nhờ đó mà hiểu được ý Chúa muốn dạy chúng ta qua dụ ngôn này. Người anh cả trong thời Chúa Giêsu, ám chỉ dân Do Thái. Họ tưởng rằng chỉ họ là trung thành với Thiên Chúa và đáng được Chúa thương, có quyền hưởng gia tài, họ khinh bỉ các dân tộc khác và những kẻ mà lề luật đạo cũ gọi là tội lỗi.
Ngày nay, người công giáo chúng ta cũng nên thật trọng, kẻo lại có cách nhìn và thái độ của đạo cũ, tự coi mình là nắm hết chân lý, có sự trọn hảo đạo đức, rồi khinh chê, xa tránh và thậm chí thù ghét những người không cùng chia sẻ một niềm tin, một lối sống như chúng ta.
Thiên Chúa rất khác chúng ta. Đối với Ngài, mỗi con người là như một khúc ruột của mình. Ngài thương mỗi người, để ý chăm sóc đến mỗi người như chỉ có một không hai trên đời. Nếu chúng ta lỡ lần đường lạc lối, Ngài tạo mọi điều kiện để chúng ta có thể trở về. Và điều kiện duy nhất Ngài đòi hỏi chúng ta, đó là tin vào tình thương tha thứ của Ngài, để mà dám trở về. Sự trở về của con chiên lạc đem lại niềm vui cho mục tử nhiều hơn niềm vui có chín mươi chín con ở lại trong đàn. Niềm vui tha thứ thật trong lòng là niềm vui của những người biết và dám sống nội dung của kinh Lạy Cha, lời kinh duy nhất của những công dân đích thực Nước Trời, đó là: Xin tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con.



3. Lòng Chúa xót thương

Qua phần phụng vụ lời Chúa hôm nay, tôi muốn chia sẻ một vài ý nghĩ đơn sơ về tình yêu của Thiên Chúa.
Trước hết đó là một tình yêu đi bước trước.
Thực vậy, hình ảnh mà tiên tri Ezechiel cũng như nhiều vị tiên tri khác đã dùng, đó là hình ảnh một mục tử lặn lội đi tìm kiếm con chiên, không quản ngại đường xa và khó khăn khôn lường.
Chính Chúa Giêsu cũng đã nhiều lần khẳng định chân lý ấy: Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta trước khi có chúng ta. Người đã cứu độ chúng ta trước khi chúng ta trở về, nghĩa là khi chúng ta còn ở trong tội lỗi. Thái độ và cách thức cư xử của Chúa Giêsu đối với những kẻ thu thuế và tội lỗi đã là một lời nói hùng hồn chứng minh cho sự thật trên.
Từ đó chúng ta nhận thấy tình yêu đi trước cũng chính là tình yêu vô điều kiện và hoàn toàn vô vị lợi, hoàn toàn nhằm tới hạnh phúc của người được yêu thương. Chỉ mình Thiên Chúa, mới có được thứ tình yêu tinh ròng và cao cả như vậy, còn chúng ta chúng ta được Chúa mời gọi để sống trọn lành như Ngài, nghĩa là cũng phải có một tình yêu đi bước trước, một tình yêu không điều kiện, một tình yêu vô vị lợi đối với những người anh em.
Tiếp đến tình yêu của Thiên Chúa là một tình yêu thiên vị.
Lời xác quyết này có lẽ làm cho chúng ta hơi ngạc nhiên. Đúng thế, Thiên Chúa yêu thương hết mọi người, không trừ một ai, không bỏ bất cứ con người nào, dù người đó xấu xa tội lỗi đến đâu chăng nữa. Tuy nhiên có một điều cũng hết sức hiển nhiên là trong cung cách sống của Chúa Giêsu, chúng ta thấy được một tình yêu ưu tiên, một tình yêu thiên vị, dành cho những kẻ sống bên lề xã hội thời bấy giờ, đó là đàn bà, trẻ em, những người thu thuế, những người ngoại đạo và những kẻ tội lỗi công khai, như đĩ điếm, trộm cướp... Người Do Thái đã gán cho Ngài cái biệt hiệu là bạn đồng bàn với phường tội lỗi, và họ đã nói lên được một sự thật.
Tuy nhiên họ không hiểu được tâm trạng và cõi lòng của Thiên Chúa như chính Ngài đã diễn tả: Tư tưởng và đường lối của Ta thật khác biệt với tư tưởng và đường lối của các ngươi. Quả thật, Chúa Giêsu đã gần gũi, đã làm bạn, đã cứu vớt những kẻ tật nguyền, bệnh hoạn và tội lỗi. Ngài đã khẳng định một cách rõ ràng và minh bạch: Chỉ có bệnh nhân mới cần đến thầy thuốc, và Ngài chính là vị thầy thuốc mà các tâm hồn ốm đau đang chờ đón. Hơn thế nữa, Chúa Giêsu còn xác định mục tiêu Ngài phải theo đuổi, sứ mạng Ngài phải thực hiện khi đến trong trần gian:
- Con Người tới là để tìm kiếm và cứu chuộc những gì đã hư đi.
Chỉ khi nào chúng ta hiểu được cái thế ưu tiên, cái thế thiên vị ấy trong cách chọn lựa của Chúa, chúng ta mới nghiệm ra được tại sao nỗi vui mừng hân hoan của Chúa lại lớn lao đến thế, khi tìm thấy một con chiên lạc, một đồng bạc bị đánh rơi hay một người con hoang đàng trở về nhà cha. Cả thiên đàng sẽ vui mừng vì một kẻ tội lỗi sám hối ăn năn hơn là 99 người công chính không cần ăn năn sám hối.
Và như vậy, ước muốn của Thiên Chúa là con người được cứu rỗi và sống trong tình thương yêu của Ngài, chứ không phải là lặn ngụp trong chốn bùn nhơ tội lỗi, để rồi cuối cùng sẽ bị kết án đoạ đầy muôn kiếp.



4. Hòa giải là từ ngữ mới của tha thứ – An Phong

Chủ đề Tin mừng Chúa Nhật 24 Thường Niên C là lòng thương xót của Thiên Chúa. Đức Giêsu đã nói với những người Pharisêu 3 dụ ngôn: dụ ngôn một con chiên lạc mất trong số 100 con chiên; dụ ngôn một đồng bạc bị mất trong số 10 đồng; và dụ ngôn người con hoang đàng (một trong hai anh em). Mức độ càng tăng từ cấp độ thứ nhất đến cấp độ thứ ba cho thấy lòng thương xót của Thiên Chúa đối với người tội lỗi thật lớn lao. Một trên một trăm( 1/100) và một trên mười (1/10) không đáng giá bằng một trên hai (1/2). Lòng thương xót của Thiên Chúa được thể hiện qua cung cách của người cha già luôn sẵn sàng mở rộng vòng tay đón người con hoang đàng trở về, tha thứ cho hắn trước khi hắn mở miệng xin lỗi Cha. Thiên Chúa luôn chờ đón mọi người chúng ta quay trở về trong vòng tay yêu thương của Người.
Khi bắt đầu sứ vụ của mình, Đức Giêsu đã long trọng tuyên bố trước mặt mọi người:
"Thánh Thần Chúa ngự trên tôi,
bởi Người đã xức dầu cho tôi
sai tôi đem Tin mừng cho người nghèo khó
ban bố ân xá cho kẻ tù đày
cho người đui mù được thấy
cho kẻ bị áp bức được giải oan
loan báo năm hồng ân của Chúa"
Niềm vui và hạnh phúc đến với những ai tội lỗi khi đã gặp được Đức Giêsu: - Với người bất toại: "Tội lỗi của anh đã được tha"; Với Lêvi, người thu thuế: "Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà là kẻ tội lỗi"; Với Giakêô: "Con Người đến để tìm kiếm những gì đã hư mất".
Những người đau khổ, bé mọn cảm thấy mình được yêu thương nâng đỡ khi tìm gặp Đức Giêsu: Với người phung hủi: "Tôi muốn anh được sạch"; Với người nghèo: "Phúc cho những người nghèo"; Với các trẻ nhỏ: "Hãy để trẻ nhỏ đến cùng tôi, đừng ngăn cấm chúng, vì Nước Trời thuộc về những người giống như chúng". Với người phụ nữ băng huyết: "Lòng tin của chị đã chữa chị, hãy đi bình an".
+ Người không để người góa bụa cô thế cô thân ra về mà không một lời an ủi.
+ Người trả lại sự sống cho đứa con duy nhất của bà góa thành Naim.
+ Người ngợi khen bà góa bỏ hai đồng xu vào hòm tiền dâng cúng.
Cao điểm khuôn mặt dịu hiền của Đức Giêsu bộc lộ khi Người hấp hối trên thập giá: "Lạy Cha, xin tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm".
Kitô hữu là người đứng bên bờ vực thẳm, nhích lên một milimét nữa là rớt xuống vực thẳm như: Vực thẳm của nạn ghiền ma túy; Vực thẳm của rượu chè, cờ bạc; Vực thẳm của nạn mại dâm.
Đó là vực thẳm mà NGƯỜI CON THỨ rơi vào.
Vực thẳm nguy hiểm hơn, khó nhận thấy hơn, là vực thẳm của NGƯỜI ANH CẢ: Khi cho rằng chu toàn lề luật là đủ; khi cho rằng mình phục vụ nhiều, nào đi học, dạy giáo lý, tập hát... cho mình quyền đòi hỏi. Đó là một điều ích kỷ khi phục vụ. Khi tưởng rằng mình thờ Thiên Chúa, nhưng thực ra là chỉ thờ một bức tượng khô cứng, bụi bậm. Và vì thế họ dễ phê phán người khác.
Lạy Chúa,
Ngài kêu gọi chúng con phải tha thứ cho nhau luôn mãi.
Mỗi ngày nhiều biến cố xảy ra,
nhiều sự hiểu lầm to và nhỏ khiến chúng con phiền lòng,
mỗi ngày vang lên tiếng kêu mời hãy tha thứ cho nhau.
Nhưng, lạy Chúa, con lại không muốn tha thứ,
vì con thấy phải hạ mình để tha thứ.
Thế rồi con nhìn Chúa trên thập giá,
Chúa đã phải can đảm lắm và yêu mến nhiều
thì mới có thể thốt lên lời "Lạy Cha, xin tha cho chúng...".
Xin cho chúng con sức mạnh để tha thứ luôn mãi.



5. Thiên Chúa là Đấng thương xót và hay tha thứ.

(Suy niệm của Lm. GB. Trần Văn Hào)
Đặc nét của Kitô giáo chính là tình yêu thương. Không một tôn giáo nào có thể gọi Thần linh của họ là ‘Cha’ giống chúng ta. Hơn nữa,Thiên Chúacủa chúng ta còn là một người Cha nhân hậu, luôn sẵn sàng thứ tha những phản bội và bất trung nơi con người. Cao điểm diễn bày lòng thương xót chính là cái chết của Đức Giêsu trên Thập Giá. Điều này đã được chính Chúagợi nhắc trong cuộc đàm đạo với Nicôđêmô. “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một Ngài, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga. 3,16). Các bài đọc Lời Chúa hôm nay xoáy sâu vào chủ đề này, đặc biệt trong bối cảnh của năm nay, năm thánh tôn vinh Lòng Thương Xót Chúa. Sứ điệp Lời Chúa gợi nhắc chúng ta ba điều: Mỗi người đều là tội nhân đáng phải chết; Thiên Chúa luôn sẵn sàng bao dung và tha thứ; Cuối cùng chúng ta cũng phải quảng đại tha thứ cho nhau để diễn bày lòng thương xót như Thiên Chúa.
Mọi người đều là tội nhân
Cervantes, một biên kịch gia khá nổi tiếng đã nói một câu để đời: “Trong các sinh vật trên mặt đất, loài có khuôn mặt đẹp nhất chính là con người, và loài có khuôn mặt xấu xa bỉ ổi nhất cũng là chính con người.” Tội lỗi làm méo mó khuôn mặt chúng ta, vốn được dựng nên giống họa ảnh của Thiên Chúa. Chắc chắn không ai trong chúng ta dám vỗ ngực tự hào nói mình vô tội. Chúng ta nhớ lại giai thoại được thánh Gioan kể lại khi Chúa được mời tham dự phiên tòa xét xử người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình. Ngài nói với đám đông : “Ai trong các ông sạch tội, hãy cầm đá mà ném trước đi” (Ga. 7,7). Sau khi được Chúa lay động lương tâm, tất cả đám đông ‘biến’ sạch, từ những tay già đầu nhất. Chúng ta đừng vội kết án người khác, nhưng trước tiên hãy nhìn lại chính mình. Hãy can đảm bới tìm những xấu xa bẩn thỉu, sâu tận bên trong tâm hồn mỗi người. Kinh nghiệm của thánh Phaolô mà Giáo hội đọc lên trong phụng vụ hôm nay (bài đọc 2) cũng là một kinh nghiệm rất thực tế để giúp chúng ta xét mình và lục soát lương tâm mỗi ngày. Ngài viết “Đức Giêsu Kitô đã đến thế gian để cứu những người tội lỗi, mà kẻ đầu tiên là tôi.” (1Tm15).
Thiên Chúa là Đấng khoan dung và hay tha thứ.
Cả ba dụ ngôn trong bài Tin Mừng hôm nay đều diễn bày phẩm tính cao đẹp này nơi Thiên Chúa. Đây là ba dụ ngôn độc sáng của thánh Luca. Những hình ảnh rất đời thường nơi một người chăn chiên đi tìm con chiên lạc, nơi một người đàn bà thắp đèn để kiếm tìm đồng bạc bị mất, nhất là qua dung mạo của một người cha ngày đêm mong ngóng đợi chờ đứa con đi hoang trở về, đã được Chúa Giêsu vay mượn để lột tả chân dung lòng thương xót của Chúa Cha. Thay vì kết án, Ngài tha thứ. Thay vì ruồng bỏ, Ngài lại đi kiếm tìm. Xét về kinh tế, Chúa Giêsu tính toán rất tồi. Ai lại dám liều lĩnh bỏ lại chín mươi chín con chiên giữa rừng vắng để đi kiếm một con ốm yếu lỡ đi lạc. Xét về bình diện toán học, Ngài làm tính cũng quá dở, khi coi con số 1 lớn hơn con số 9. Một đồng bạc lỡ đánh mất đáng là gì. Nhưng Thiên Chúa của chúng ta không phải là một kinh tế gia, cũng không phải là một nhà toán học. Ngài là một người Cha giàu lòng lòng thương xót đối với phận người tội lỗi. Vì thế, Đức Giêsu đã nói với các học trò : “Anh em phải có lòng thương xót như Cha anh em trên trời là Đấng xót thương” - Misericordes sicut Pater (Lc. 6.36). Đây cũng là chủ đề của năm nay, năm thánh Lòng Thương Xót.
Bài học về sự tha thứ
Tháng 03 năm 1981, Đức Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II bị một thanh niên Thổ Nhĩ Kỳ mưu sát tại quảng trường Thánh Phêrô. Anh ta tên là Ali Agca. Đức Thánh Cha thoát chết như một phép lạ, và cảnh sát bắt giữ chàng thanh niên ngay lập tức. Sau khi ra khỏi bệnh viện, Ngài đã sắp xếp thời gian để đến nhà tù Rebibbia gặp anh ta. Vị đại diện của Chúa đã hoàn toàn tha thứ cho kẻ sát nhân. Cái bắt tay chân tình, vòng ômhôn thắm thiết và ánh mắt dịu dàng của Đức Thánh Cha làm cả thế giới xúc động. Vài năm sau, vợ của kẻ sát nhân đã đích thân sang Rôma để bày tỏ lòng biết ơn đối với Người đã tha thứ cho chồng mình. Còn chính đương sự sau khi mãn hạn tù, cũng nài nỉ xin nhập quốc tịch Vatican và tự nguyện xin làm đàn em của Đức Thánh Cha.Đức Thánh Giáo hoàng đã không hề đưa ra một triết lý mới, hay một cung cách ứng xử đặc thù, nhưng đây chính là cốt lõi của Tin Mừng mà Ngài sao chép lại. Trên Thập Giá, Chúa Giêsu đã giang tay cầu nguyện: ‘Xin tha cho họ vì họ không biết việc họ làm’. Chúa Giêsu cũng dạy chúng ta lời cầu nguyện với kinh Lạy Cha : ‘Xin Cha tha cho chúng con như chúng con cũng tha kẻ mắc lỗi với chúng con’. Đó là những bài học rất căn bản, mời gọi chúng ta quảng diễn lòng thương xót và sự tha thứ như Thiên Chúa.
Một cha xứ nọ đã kể cho chúng tôi nghe một kinh nghiệm đau đớn, xảy ra nơi giáo xứ của ngài. Hai đứa bé chơi với nhau và đánh nhau, chuyện rất nhỏ vẫn thường hay xảy ra. Nhưng chuyện trẻ em dần dần lây lan thành chuyện của người lớn. Cả hai gia đình xúm vào cãi nhau, lúc đầu chỉ lời qua tiếng lại, sau đó dẫn đến tranh chấp. Đấu bằng miệng không đủ, chuyển sangđấu đá bằng tay chân. Khổ nỗi,vị đứng đầu một trong hai gia đình lại là trùm xứ, có tiếng là đạo đức và rất siêng năng trong việc chung. Một buổi tối nọ khi trời nhá nhem tối, hai gia đình lại xô xát. Ông trùm cầm một cây gậy lớn phang vào đầu đối thủ, chẳng may đập ngay vào đầu đứa con trai mình. Thằng bé chết trên đường chuyển đến bệnh viện. Từ đó, trong lòng ông, sự căm thù ngày càng dâng cao và ông quyết tâm trả thù. Cha xứ khuyên can thế nào ông cũng chẳng nghe. Lúc ông lâm trọng bệnh và hấp hối chờ chết, người nhà mời cha xứ đến để giải tội và xức dầu. Một lần nữa cha xứ lại hết lời khuyên lơn xin ông làm hòa để tìm lại bình an trong tâm hồn, nhưng ông nhất định không. Cha xứ không thể nào giải tội và ban Bí tích Xức dầu cho ông ta. Tâm hồn ông vẫn còn mang nặng một khối đá lớn cản che ơn thánh, đó là sự hận thù. Ông ta chết đi, đôi mắt vẫn luôn trợn ngược và không thể nhắm lại. Một kinh nghiệm thật đáng buồn.
Kết luận
Nói về lòng khoan dung và sự tha thứ thì dễ, nhưng thực hành không phải là chuyện giản đơn. Con người chúng ta ai cũng có tự ái và không dễ thứtha một cách vô điều kiện như Chúa mong muốn. Trong năm thánh Lòng Thương Xót, chúng ta xin Chúa giúp chúng ta biết trải nghiệm và thấm sâu lòng thương xót của Ngài, để chúng ta cũng biết quảng đại tha thứ cho nhau. Misericordes sicut Pater.



6. Lòng bao dung của Thiên Chúa

(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Để đối phó với những người phạm tội, luật hình sự tại các quốc gia quy định nhiều hình phạt khác nhau: phạt tiền, giam nhốt trong các nhà tù hay xà lim, lưu đày biệt xứ hoặc trong trường hợp phạm tội nghiêm trọng thì đem ra xử tử để vĩnh viễn loại trừ người lỗi phạm khỏi thế giới loài người.
Trong khi đó, để đối phó với tội nhân, Thiên Chúa không muốn trừng phạt mà chỉ muốn giúp tội nhân ăn năn hối cải quay về đường lành. Từ ngàn xưa, Thiên Chúa phán qua miệng ngôn sứ Ê-dê-kiên: “Ta không muốn kẻ gian ác phải chết nhưng muốn nó ăn năn sám hối mà được sống” (Ê-dê-kiên 18, 23 và 33, 11)
Đối với Thiên Chúa, mỗi một người đều có giá trị rất cao nên cần phải được trân trọng và yêu thương. Dù con người có đắm chìm trong lầm lạc và tội lỗi, Thiên Chúa không bỏ rơi, không hủy diệt họ, nhưng tìm mọi cách đưa họ trở về đàng lành.
Dụ ngôn người đi tìm chiên lạc trong Tin Mừng Luca (Lc 15, 4-7) chứng tỏ cho chúng ta thấy điều đó:
Người chăn chiên tốt hết lòng yêu thương, quý mến từng con trong đàn, bất kể đó là chiên tốt hay chiên xấu, mập hay gầy, già hay non. Và khi phát hiện ra một con chiên lạc đàn, anh ta bôn ba, tất tả kiếm tìm cho bằng được con chiên lạc với bất cứ giá nào. Một khi đã tìm thấy, anh vác chiên lên vai, mừng vui hớn hở trở về, kêu mời bà con làng xóm đến chia mừng với anh.
Qua dụ ngôn trên đây, Chúa Giê-su tỏ cho chúng ta thấy Thiên Chúa xem mỗi người chúng ta là báu vật vô giá, nên nếu có bất kỳ ai “lạc mất”, thì Ngài phải tìm về cho bằng được.
Dụ ngôn trên cũng cho thấy cung cách ứng xử rất khoan dung và đầy thương xót của Thiên Chúa đối với tội nhân.
Thay vì trừng trị hoặc trừ khử các tội nhân như các tòa án khắp nơi thường làm, Thiên Chúa Ngôi Hai đã rời bỏ ngai trời vinh hiển, vượt qua khoảng cách gần như vô tận giữa trời và đất, hạ mình xuống thế, trở nên người phàm để đi tìm kiếm từng người trong nhóm họ.
Thay vì tống giam các tội nhân vào ngục, bắt họ mang gông cùm xiềng xích, Chúa Giê-su rất tôn trọng và quý mến tội nhân, tìm nhiều cách hoán cải họ; có khi Ngài còn đến ở lại trong nhà người tội lỗi, cùng ăn uống đồng bạn với họ, trở nên bạn bè của họ, nhằm lấy tình bạn mà cảm hóa họ trở về. (Luca 15,2)
Thay vì kết liễu mạng sống của các tội nhân ác nghiệt, bắt họ phải đền nợ máu họ đã gây ra như các tòa án nhân loại thường làm, Chúa Giê-su đã đổ máu châu báu của mình ra để chết thay cho họ, để rửa sạch họ khỏi muôn vàn tội lỗi và cho họ được sống đời đời.
Lòng thương xót của Thiên Chúa đối với tội nhân, ngay cả những tội nhân bầm dập, khốn cùng nhất, đã được Chúa Giê-su khẳng định trong Tin Mừng Mat-thêu: “Cây lau bị giập, Ngài không đành bẻ gãy, tim đèn leo lét, chẳng nỡ tắt đi, cho đến khi Ngài đưa công lý đến toàn thắng.” (Mt 12, 20 và Is 42, 3)
Lạy Chúa Giêsu,
Hôm xưa, Chúa đã rong ruổi tìm kiếm từng con chiên lạc để vác chiên về. Hôm nay, để tiếp tục sự nghiệp đó, Chúa đã dùng bí tích Thánh Tẩy để tháp nhập chúng con vào Thân Mình Chúa, cho chúng con trở thành một chi thể sống động trong Thân Thể Chúa để chúng con đồng hành với Chúa trên hành trình tìm kiếm và đưa về đàn nhiều con chiên lạc trong thôn xóm chúng con.
Xin cho chúng con trở nên đôi chân của Chúa, rảo bước không mệt mỏi trên vạn nẻo đường đời, để tìm kiếm và đưa về những anh em lạc xa đường Chúa.
Xin cho chúng con trở nên đôi vai của Chúa để làm chỗ dựa tinh thần cho những con người lâm cảnh khốn cùng đang cần một chỗ tựa nương. Amen.



7. Đấng nhân từ

Trên đời này, không tìm được ai có lòng nhân từ như Chúa Giêsu. Vì Ngài là Thiên Chúa đầy lòng yêu thương và nhân hậu. Ngài đến trần gian để cứu chúng ta khỏi quyền lực tội lỗi và sự chết. Ngài kêu mời mọi người, nhất là những kẻ tội lỗi biết ăn năn quay về đường ngay nẻo chính. Lời mời gọi nhân từ của Ngài được diễn tả qua 3 hình ảnh: Con chiên lạc, đồng bạc mất và người con hoang đàng. Qua ba dụ ngôn đó, chúng ta cảm nghiệm được tấm lòng nhân ái vô cùng của Thiên Chúa đối với loài người. Và không chỉ là dụ ngôn mà chính Chúa Giêsu đã thực thi lòng nhân từ đó. Cuộc đời Chúa Giêsu là dấu chứng rõ ràng nhất về lòng nhân từ vô biên của Chúa Cha đối với loài người chúng ta.
Chính Chúa Giêsu từ trời đã lặn lội xuống trần gian để tìm những kẻ sắp hư mất, để dẫn đưa những con chiên lạc đàn về chính lộ, giúp thế giới đón nhận chân lý, đón nhận ơn làm con Chúa. Nhờ việc Chúa Giêsu hiến thân trên thánh giá, mọi người chúng ta đã được chúa dành sẵn ơn cứu chuộc rồi, chỉ cần chúng ta đến lãnh nhận thôi.
Tuy nhiên, chúng ta vẫn thấy, loài người hay tự ái, ngại ngùng, không muốn tìm hiểu về Chúa cho đến nơi đến chốn và tự cho rằng mình không được chúa đoái hoài tới. Vì vậy, hôm nay, trong bài Phúc âm này, Chúa mạc khải cho chúng ta hiểu lòng quãng đại của Ngài. Ngài luôn ban phát ơn lành cách quãng đại, không tính toán hơn thiệt như thế gian. Ngài ưu tiên cứu giúp con người không phải vì số đông. Không phải nhiều mới cứu. Chúa ưu ái từng người một, không coi nhẹ một linh hồn nào. Một vị thánh nói rằng: nếu thế gian này chỉ một người, Chúa cũng sẵn sàng chịu chết để cứu chuộc. Điều này cho thấy Chúa quí trọng linh hồn ta đến độ nào. Vậy mà có nhiều khi bản thân tôi lơ là trong việc lo cho linh hồn mình, không quí trọng phần rỗi mình cho đúng mức. Chúa rất quí trọng chúng ta. Như người đàn bà kia có 10 đồng bạc, lỡ rơi mất một đồng thì đốt đèn cho sáng, quét nhà tìm thật kỷ lưỡng cho đến khi tìm thấy đồng bạc đã mất. Chúa đối xử với từng người chúng ta cũng tương tự như vậy. Dù tôi không đáng giá chi trước mặt chúa, Chúa cũng thương mến tôi. Nếu tôi lạc mất, Chúa cũng lo hết sức để tìm lại tôi. Tìm thấy rồi thì vui mừng mời mọi người đến chia vui. Chúa rất quý từng người chúng ta. Nếu thiếu tôi, Chúa sẽ rất buồn, Chúa không muốn bữa tiệc Thiên Đàng thiếu tôi. Chúa nhớ rất kỷ từng linh hồn Chúa đã dựng nên và mong muốn mọi người đều hạnh phúc trong bữa tiệc cánh chung.
Thế nhưng, đáng buồn thay, có những con chiên không chịu trở về đàn, có những đồng bạc nhất định bám vào ngõ tối trần gian hoặc vì ham mê những danh vọng giả trá, những lợi lộc nhất thời không muốn trở về với Chúa để nhận ra giá trị của mình trong trái tim của Chúa. Tôi có biết rằng linh hồn tôi là vô giá trong mắt Chúa. Dù tôi chỉ là thụ tạo đơn hèn nhưng Chúa rất quý tôi, rất thương tôi, coi tôi như một phần không thể thiếu trong thân thể Ngài.
Chúng ta đừng ngại quay trở về khi phạm lỗi, dù tôi có tội lỗi đến đâu đi nữa, dù tôi có như người con hoang đàng, đã có lúc quyết định sai lầm, đã có lúc truỵ lạc hay phản bội lại tình thương của cha mẹ, và giết chết phẩm giá con người mình. Chúa vẫn chờ vẫn đợi, mong một ngày tôi biết suy nghĩ, bớt cố chấp, bớt thành kiến kiêu căng để nhận ra sự thật về mình, về sự thưởng phạt đời sau và hạ mình trông cậy vào lòng thương xót của chúa. Chúa như người cha của đứa con đi hoang, chiều nào cũng trông ngóng con mình. Khi thấy con từ đàng xa, người cha vội chạy ra ôm lấy con và kêu đầy tớ mau đem áo, giày, nhẫn ra để phục hồi nhân cách cho đứa con đi hoang nay quay về nhà. Tất cả những áo, nhẫn đó ông đã chuẩn bị rồi và ngày nào ông cũng dặn đầy tớ khi nào cậu trở về thì đem ra mặc cho cậu, phục hồi địa vị làm con cho kẻ đi hoang biết quay về chính lộ.
Lòng nhân từ Chúa thật quá bao la, Chúa luôn đối xử với chúng ta như vậy, chúng ta đã nhận ra tình thương Chúa đang ấp ủ riêng từng người chúng ta hay chưa? Hãy nhắm mắt lại và cảm nghiệm tình yêu Chúa trong con tim mình, chúng ta sẽ thấy tình thương Chúa ngọt ngào đang bao phủ tâm hồn chúng ta, đang thôi thúc chúng ta dâng trọn cuộc sống mình trong sự quan phòng yêu thương của Chúa.
Xin Chúa cho chúng con luôn biết đáp trả tình yêu Chúa cách quãng đại, bằng cách đối xử nhân hậu với mọi người bằng đời sống phục vụ cho người xung quanh trong chức vị, trong vị trí hiện tại của mình, để chúng con xứng đáng là con cái Cha trên Trời.



8. N hôn nồng nàn tình thương xót

(Trích dẫn từ ‘Nút Vòng Xoay’ – ĐGM. Giuse Vũ Duy Thống)
Hôm qua có dịp ra phố ghé ngang một sáp báo, tôi tình cờ nghe từ quán cà phê đối diện vẳng ra một giọng hát trong trẻo: “Cao cao bên cửa sổ có hai người hôn nhau”. Bài hát đã nghe dăm lần bảy lượt qua các phương tiện truyền thông, có chăng chỉ là một cảm nhận về mùa xuân hạnh phúc, thế mà chiều nay bỗng thấy nôn nao khác lạ. Đó không phải là thứ nôn nao của kẻ độc thân bất chợt thấy mùa xuân bên cửa sổ, rồi tự nhiên tủi về phận mình như Michel Quoist đã ghi trong cuốn sách của ông; cũng chẳng phải thứ nôn nao của những kẻ trên đường phố đang hối hả về nhà dịp nghỉ cuối tuần. Thứ nôn nao rất lạ mà cũng rất đỗi thân quen.
Đang còn vẩn vơ với cái nôn nao ấy thì cô chủ sạp đã trao cho tôi tờ báo và vui miệng cô hát theo: “Thành phố ơi hãy im lặng cho hai người hôn nhau”.
Tới lúc này, tôi mới vỡ lẽ. Thì ra mình nôn nao là vì cái nụ hôn. Không phải của “anh lính về thăm phố với cô gái vào ca ba” như bài hát kể, mà là cái nụ hôn của một người cha dành cho đứa con hoang đàng trở về của bài Phúc Âm. Giai điệu ấy, nụ hôn ấy quyện lấy nhau và tự nhiêm ngấm vào người tôi trở thành một thứ nôn nao, để hôm nay, xin được trang trải với cộng đoàn như suy nghĩ về trang Tin Mừng. Đó là nụ hôn của lòng thương xót.
1. Nụ hôn ấy vượt trên lý lẽ của sự công bình.
Nếu để ý, người ta thấy nếp nghĩ của những người con trong dụ ngôn Tin Mừng là nếp nghĩ vượt trên lẽ công bình. Làm sao người con thứ dám xin cha mình chia gia tài mà anh gọi là “thuộc về anh” trong khi cha mình sờ sờ còn sống? Làm sao người con cả lại vùng vằng làm mày làm mặt với cha khi cả đời hầu hạ mà chẳng có lương? Sẽ là hỗn nếu dựa trên cái tình, nhưng cũng có thể quan niệm được nếu dựa vào cái lý. Chính nhân danh sự công bình đương nhiên nào đó mà tư cách của hai người con trong dụ ngôn đã được hình thành.
Nhất là việc người con thứ trở về. Sau những ngày phung phá đến bước đường cùng, đến độ khánh kiệt gia tài, cạn kiệt sức khỏe, anh vẫn còn đủ tỉnh táo để hạch toán nẻo lối tìm về. Bởi vì dựa trên công bình, anh đã đốt cháy quyền làm con nên không thể được gọi là con nữa. Bởi vì dựa trên công bình, anh đã tự ý bỏ nhà ra đi ôm theo sản nghiệp nên muốn tìm về phải được cha chấp nhận. Bởi vì dựa trên công bình, anh chỉ dám coi mình như “người cần việc” tìm đến “việc cần người”. Nếu anh có gặp cảnh then cài khóa ổ xua đuổi chối từ có lẽ anh cũng phải công bình mà chấp nhận.
Lẽ công bình khó khăn là như thế nhưng nụ hôn của người cha đã hóa giải tất cả. Nó vượt qua giới hạn của lẽ công bình để rạng rỡ là một nụ hôn của lòng thương xót. Người cha tha thứ hết. Không khóa trái đời sống người con thứ vào quá khứ tội lỗi, không niêm phong nhịp đời của anh vào bước đường phóng đãng, nhưng phục hồi quyền làm con như thuở ban đầu. Người ta không biết ở đâu lẽ công bình dừng lại và ở đâu lòng thương xót khởi đầu, nhưng chỉ biết rằng, bằng nụ hôn ấy sự tha thứ đã vượt lên chiếm lĩnh tiếng nói của lẽ công bình để trở nên nụ hôn của lòng thương xót.
2. Nụ hôn ấy vượt trên khuôn khổ của nền giáo dục.
Vẫn biết rằng khuôn khổ của tình yêu là một tình yêu không theo một khuôn khổ nào, nhất là tình ấy lại là tình cha, lại là lòng mẹ, cùng lắm chỉ dám ví von như núi cao biển rộng, tựa lai láng của dòng sông và mênh mông của đồng lúa. Nhưng trong trọng trách giáo dục, người ta cũng phải mặc nhiên chấp nhận một thứ khuôn khổ nào đó. Chả thế mà ca dao Việt Nam bảo: “Yêu cho roi cho vọt, ghét cho ngọt cho bùi”. Yêu con không phải là nuông chiều theo ý của con, nhưng là biết cách cho con roi giọt giáo hóa, và ghét con đâu phải chỉ là hằn học mắng la mà nhiều khi lại là những ngọt ngào ghẻ lạnh của một tình thương vắng bóng.
Một trong những châm ngôn nổi tiếng trong bổn phận giáo dục con cái là câu: “Nếu hôm nay không muốn con khóc vì được dạy dỗ, thì coi chừng sẽ phải khóc vì con hư đốn mai ngày”. Như trường hợp nóng hổi thời sự tại phiên tòa, khi người cha nghe con mình, một thành viên trong băng cướp “quý tử”, bị kết án chung thân đã nhỏ lệ thốt lên: “Tôi đã thiếu trách nhiệm làm cha”. Cũng là tình phụ tử, nhưng quá muộn màng.
Tình phụ tử cũng cần theo một khuôn khổ nào đó. Nhưng tình phụ tử trong dụ ngôn đã vượt lên tất cả. Không có một lời trách móc, không có một lời răn đe, cũng chẳng có hình phạt để mà nhớ đời. Chỉ có nụ hôn như một minh chứng: Với bản lĩnh của lòng thương xót, người ta vẫn có thể đi xa hơn để yêu con đích thực bằng cách cho ngọt cho ngào.
3. Nụ hôn ấy không dừng lại nơi cá nhân mà còn lây lan đến cả cộng đoàn.
Đây chính là đỉnh cao của trang Tin Mừng. Nó mở ra một nhãn giới mới lạ. Nơi nụ hôn ấy là rạng rỡ lên hình ảnh của một Người Cha: chung cho người con cả và người con thứ, chung hco dân Do Thái và Dân Ngoại, chung cho cả người đã biết Chúa hay chưa biết Chúa. Nếu “cha chung không ai khóc” theo lẽ thường tình, thì ở đây lại khác, Cha chung này không cần đến tiếng khóc của ai, nhưng lại sẵn sàng cúi xuống với bất cứ tiếng khóc sám hối nào để ban tặng nụ hôn ntha thứ nồng nàn xót thương. Người Cha chung ấy yêu thương hết mọi người và chẳng bao giờ bỏ quên những trường hợp tội lỗi đáng thưong và bởi đáng thương nên Ngài cũng thương cho đáng với tấm lòng không vơi cạn của mình.
Qua nụ hôn đầu ngõ, Người Cha ấy biến nỗi buồn sám hối trở thành niềm vui tha thứ. Ngài ban ơn rộng rãi cho những kẻ tìm về với Ngài, rồi nhanh chóng gửi họ về lại gia đình cộng đoàn xã hội trong một nhịp sống mới nồng nàn tình xót thương, để những kẻ được ơn tha thứ hiểu rằng, từ nụ hôn ấy, họ phải minh chứng bằng cả cuộc đời biết phát triển ơn tha thứ và cũng biết dìu đưa những kẻ còn sa chìm về với lẽ xót thương. Đó là niềm vui của lòng thương xót, không dừng lại nhưng triển nở sinh sôi, không khép kín cá nhân nhưng mở ra cho hết mọi người.
Tóm lại, ba lý do: vượt trên lẽ công bình, vượt trên nền giáo dục và vượt trên đời sống cá nhân khiến nụ hôn cha – con là nụ hôn của lòng thương xót. Dẫu có kinh nghiệm về nụ hôn như phần lớn cộng đoàn hay chưa có kinh nghiệm ấy như một số bạn nhỏ, thiết tưởng nụ hôn xót thương của Tin Mừng cũng đọng lại trong ta một thứ nôn nao lạ lạ quen quen.
Khi thấy quen quen, là khi ta đồng hóa mình với người con phung phá tìm về và được tha thứ, trong lời kinh, trong Thánh Lễ, nơi tòa Giải Tội. tất cả đều là những nụ hôn thương xót. Khi thấy là lạ, là khi ta chợt nhận ra vẫn còn lẩn khuất đâu đó trong ta một anh con cả vùng vằng: Chúa đã đối xử với ta bằng tình thương xót còn ta chỉ đối xử với Chúa theo sự công bình, ta không đi hoang lang thang xa đạo, nhưng cách sống của ta biết đâu còn tệ hơn cả chối Chúa công khai.
Và khi thấy chen lẫn quen quen lạ lạ ấy chính là khởi đầu cho một quyết định: bởi tôi đã nhận được ơn tha thứ của Chúa, tới phiên tôi phải sống ơn tha thứ bằng cách bỏ qua lỗi lầm cho anh em; tôi đã nhận lòng xót thương của Chúa, tôi phải phát triển lòng thương xót ấy qua cách sống tốt lành của mình. Hãy quên đi những phần đời không đáng nhớ khi anh em có lỗi với mình, và hãy nhớ lấy những phần đời không thể quên khi mình đã được Thiên Chúa tha thứ xót thương.
Làm được như thế cũng là lúc ta có thể hát lên: “Thành phố ơi, hãy im lặng cho mọi người hôn nhau”



9. Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt

THIÊN CHÚA GIÀU LÒNG THƯƠNG XÓT
Bài Phúc Âm vừa nghe là một trong những trang đẹp nhất của Tin Mừng. Có thể gọi đó là Tin Mừng của Tin Mừng. Vì chương 15 Phúc Âm Luca này được coi như bản tóm tắt tất cả Phúc Âm. Tin Mừng đó là Thiên Chúa Cha giàu lòng thương xót. Lòng thương xót của Thiên Chúa thực vô biên, dài, rộng, cao, sâu khôn lường, ta không thể nào hiểu thấu. Những bài sách thánh hôm nay hé mở cho ta mấy nét của lòng thương xót vô biên đó.
1. Nét thứ nhất của lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa là: sự tha thứ
Tình yêu đích thực không được đo bằng đam mê nồng cháy. Bởi những đam mê nồng cháy mau qua như một cơn bão lốc. Bão lốc qua đi chỉ để lại đổ vỡ điêu tàn.
Tình yêu đích thực không được đo bằng hy sinh tận cùng. Người ta có thể hy sinh mạng sống vì của cải, danh vọng. Hy sinh như thế có thể chỉ vì bản thân mình chứ không phải vì người khác.
Tình yêu đích thực được đo bằng sự tha thứ. Chỉ có yêu thực lòng, yêu tha thiết mới có thể tha thứ. Khi yêu người ta dám cho đi tất cả. Nhưng ít có ai cho đi sự tha thứ. Chính tha thứ mở cho ta cánh cửa dẫn vào thâm cung nhiệm mầu của tình yêu.
Tha thứ là đặc tính của tình yêu Thiên Chúa. ta hãy đọc lại lịch sử dân Israel. Biết bao lần dân chúng phản bội, chống lại Thiên Chúa. Nhưng Chúa vẫn nhân từ tha thứ. Khi Môsê cầu nguyện trên núi, dân Do Thái đã phản bội, gom góp vàng bạc đúc tượng bò mà thờ. Chúa nổi giận muốn phạt họ. Nhưng khi Môsê nài xin Chúa, Chúa đã nguôi giận mà tha thứ cho dân.
Phaolô ghét đạo Chúa, đi tìm bắt những người theo Chúa. Nhưng Chúa đã thương hoán cải ông. Hơn nữa, Chúa còn chọn ông làm Tông đồ cho Chúa.
Người con bỏ nhà ra đi, phung phí hết tiền của cha, nhưng người cha già vẫn yêu thương chờ đời, tha thứ hết khi nó trở về.
Sự tha thứ của Thiên Chúa đối với con người, nhất là người tội lỗi thực là vô biên. Sự tha thứ ây minh chứng tình yêu của Thiên Chúa đối với con người lớn lao biết chừng nào.
2. Nét thứ hai của lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa. Đó là: sự đi tìm.
Thiên Chúa sẵn sàng tha thứ, nhưng Người không chỉ ngồi đó chờ kẻ có tội trở về xin lỗi rồi mới thứ tha. Không, chính Thiên Chúa chủ động, có sáng kiến đi tìm con người. Đó là nét độc đáo trong tình yêu thương tha thứ của Thiên Chúa.
Chính Chúa đi tìm Phaolô khi ông đang trên đường lầm lạc, có sáng kiến làm ông té ngựa để đưa ông trở lại với Chúa. Chính Chúa là người chăn chiên đi tìm con chiên bị lạc. Là người ra ngõ tìm đứa con bỏ nhà đi hoang. Cuộc đi tìm không phải dễ dàng. Người chăn chiên phải băng đồi vượt sông, luồn lách qua gai góc, dẫm đạp sỏi đá, chịu đựng nắng mưa, bất chấp thú dữ rình rập. Người phụ nữ phải thắp đèn soi vào mọi ngóc ngách trong nhà, lùa chổi vào những khe nứt nhỏ bé, kiên nhẫn moi móc tìm kiếm niềm hy vọng mong manh. Người cha phải vượt qua những thành kiến xã hội, lòng tự ái bị thương tổn, trái tim đau đớn vì yêu thương.
Đi tìm là yêu thương. Còn hơn thế, đi tìm là đã tha thứ. Quả thật Chúa đã yêu thương ta trước. Người yêu thương ta trước khi ta biết Người. Người tha thứ cho ta trước khi ta xin lỗi. Người đi tìm ta trước khi ta trở về.
3. Nét thứ ba của lòn thương xót vô biên của Thiên Chúa. Đó là: Thiên Chúa yêu thương từng người, dù rất bé nhỏ.
Trong đời sống xã hội, những người bé nhỏ nghèo hèn thường bị bỏ quên: sống cô đơn, chết cô độc, chìm vào quên lãng. Nhưng trong trái tim Thiên Chúa, mỗi người đều chiếm một vị trí quan trọng. Mỗi người đều là duy nhất độc đáo, không thể thay thế được đối với Thiên Chúa. Càng bé nhỏ nghèo hèn lại càng chiếm vị trí quan trọng trong tình yêu Thiên Chúa.
Một con chiên lạc có gì so với 99 con chiên còn lại. Giữ 99 con còn lại vừ nhàn nhã lại vừa có lợi. Đi tìm một con đi lạc vừa mệt nhọc lại vừa thiệt thòi. Nhưng trong tình yêu làm gì có tình toán thiệt hơn. Một con chiên nhỏ bé lạc loài đã chiếm hết trái tim của người mục tử nhân từ. Bao lâu chưa tìm được con chiên nhỏ bé gầy gò, lạc bầy ấy, lòng người mục tử ấy vẫn còn khắc khoải lo âu.
Đứa con bỏ nhà ra đi, xài phí hết gia sản cha mẹ làm sao sánh được với đứa con trai ngoan ngoãn ở nhà, biết chăm lo công việc, luôn hiếu thảo phụng dưỡng mẹ cha. Ấy vậy mà người cha ăn không ngon, ngủ không yên, tắt tiếng cười, mắt mờ lệ, bao lâu đứa con hư hỏng chưa trở về.
Thật kỳ diệu tình thương của Thiên Chúa. chính vì những tâm hồn bé nhỏ, tội lỗi, yếu đuối ấy mà Thiên Chúa đã sai Con Một Người xuống trần gian như lời Chúa Giêsu nói: “Những người bệnh mới cần đến thầy thuốc”.
Thực là vô biên lòng thương xót của Thiên Chúa. lòng thương xót ấy lớn hơn cả trái tim của ta. Ơn lành của Thiên Chúa lớn hơn cả tội lỗi của ta. Sự tha thứ của Thiên Chúa lớn hơn cả trí tưởng tượng của ta. Tất cả chúng ta hãy đến với Người. Hãy mang theo những yếu đuối lầm lỡ của ta. Hãy cho Người xem vết thương từ lâu gặm nhấm trái tim ta. Hãy tâm sự nỗi buồn vô vọng của ta. Thiên Chúa Cha chúng ta Đấng giaù lòng thương xót. Không có tội lỗi nào Người không tha thứ,không có vết thương nào Người không chữa lành. Không có nỗi buồn nào Người không an ủi.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1. Kể ra vài nét của lòng thương xót của Chúa.
2. Tại sao tha thứ là dấu chỉ rõ nhất của tình yêu?
3. Cảm nhận được tình yêu và đáp lại tình yêu của Thiên Chúa. bạn có coi điều này là hệ trọng nhất trong đời không?



10. Phục hồi phẩm chất cao đẹp

(Trích dẫn từ ‘Cùng Đọc Tin Mừng’ – Lm Ignatiô Trần Ngà)
Chỉ có tội lỗi là nguyên nhân duy nhất tàn phá phẩm chất cao đẹp của con người.
Cho dù lũ lụt có thể cuốn trôi tất cả nhà cửa ruộng vườn, biến người ta thành người tay trắng, nhưng không thể cuốn trôi phẩm giá người ta.
Cho dù hoả hoạn có thiêu rụi nhiều phố xá làng mạc, cướp đi tất cả tài sản của người dân, nhưng cũng không thể thiêu rụi phẩm giá con người.
Dù tai ương hoạn nạn có cướp đi một vài chi thể của con người, khiến người ta trở nên tàn phế, nhưng cũng không thể cướp đi phẩm chất cao đẹp của người ấy.
Không gì từ bên ngoài có thể làm mất phẩm chất, mất giá trị con người, nhưng chỉ có tội lỗi và chỉ có tội lỗi mà thôi mới có thể huỷ diệt phẩm giá cao đẹp của họ. Chính Chúa Giêsu cũng khẳng định điều nầy: "Vì từ bên trong, từ lòng người, phát xuất những ý định xấu: tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, ganh tỵ, phỉ báng, kiêu ngạo, ngông cuồng. Tất cả những điều xấu xa đó, đều từ bên trong xuất ra, và làm cho con người ra ô uế." (Mc 7, 21-23).
Câu chuyện người con thứ trong Tin Mừng hôm nay minh hoạ cho thấy tội lỗi làm băng hoại phẩm giá con người đến mức nào.
Sau khi đòi chia gia tài và phung phí tài sản của mình với bọn đàng điếm, người con thứ lâm vào cảnh đói khát cùng cực và phải xin làm nghề chăn heo là nghề ô nhục nhất đối với người Do Thái.
Không có hình ảnh nào diễn tả tình trạng xuống cấp và suy đồi phẩm giá cho bằng hình ảnh một con người đói rách thảm hại, chen chúc với đàn heo bẩn thỉu hầu mong được ăn thực phẩm của heo nhưng chẳng ai cho.
Chính tội lỗi và chỉ có tội lỗi mà thôi mới có thể làm cho giá trị con người bị suy sụp cách thảm hại như thế.
Nhưng cũng qua bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu mở ra cho chúng ta một chân trời hy vọng: những con người bị tội lỗi làm mất giá trị có thể được phục hồi nhân phẩm cách tuyệt vời.
Phục hồi lại phẩm chất cao đẹp của mình nhờ quay về với Chúa.
Một người giàu có bị phá sản, còn rất lâu mới có cơ may xây dựng cơ đồ, phục hồi sự nghiệp.
Một người bị mất chức, mất việc... khó lòng kiếm lại được chức, được việc ngon lành như trước.
Nhưng thật vô cùng may mắn và hạnh phúc cho chúng ta là những người tội lỗi, một khi lỡ sa ngã phạm tội, đánh mất hết phẩm chất cao đẹp của mình... thì chỉ cần cố gắng, kiên quyết hoán cải là có thể phục hồi lại được phẩm chất cao đẹp như trước.
Sau khi người con thứ lâm vào tình trạng đói khát, anh ta hồi tâm lại và quyết chí trở về nhà cha, để xin làm một người tôi tớ.
Khi thấy con từ đằng xa, người cha mừng rỡ chạy lại ôm lấy đứa con hoang và hôn nó hồi lâu.
Không để cho đứa con hư nói hết lời hối lỗi, ông truyền sai tôi tớ mau mau đem áo đẹp nhất ra mặc cho cậu, xỏ nhẫn quý vào tay cậu, mang giày sang quý vào chân cậu và hãy hạ bò tơ để ăn mừng...
Thế là từ một con người thân tàn ma dại, một thằng chăn heo hèn hạ đói khát, người con hoang đàng đã trở thành chàng công tử thượng lưu với bao nhiêu tôi tớ hầu hạ. Thay vì tấm áo rách hôi hám, cậu được mặc vào người tấm áo đẹp nhất. Thay vì đi chân đất bần cùng, cậu được mang giày dép sang trọng, được đeo nhẫn quý vào tay như những người quyền quý. Thay vì trước đây khao khát được ăn chung máng với đàn heo, ăn giữa đàn heo, cậu được ngồi ăn với cha, với họ hàng, với những bậc tai mắt trong làng xóm, có kẻ hầu người hạ. Thay vì những đồ cặn bã của heo, nay cậu được ăn thịt bê đã vỗ béo ngon lành. Thật khác ngày hôm qua một trời một vực. Thật là một sự thay đổi tuyệt vời, nằm mơ không thấy.
* * *
Chỗi dậy trở về cùng Chúa là từ bỏ tội lỗi và tính hư tật xấu, là kết hợp với Đức Kitô để trở nên con người mới, thụ tạo mới như lời thánh Phao lô dạy trong thư gửi tín hữu Cô-rinh- tô: "Phàm ai kết hợp với Đức Kitô, đều là thọ tạo mới. Cái cũ đã qua đi, và cái mới đã có đây rồi." (2C 5,17).
Cơ hội trở về luôn luôn sẵn có. Lời Chúa và Hội Thánh vẫn liên tục kêu mời. Điều còn lại hoàn toàn tuỳ thuộc ở nơi ta. Điều quan trọng là chúng ta có quyết tâm làm lại cuộc đời, sửa đổi và nâng cấp đời sống mình hay không.



11. Cha anh chạy ra gặp anh

(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Bước vào Chúa nhật thứ XXIV thường niên C, Phụng vụ Giáo hội mời gọi chúng ta đọc Tin Mừng chương 15 Phúc Âm theo thánh Luca (15,1-32). Chương này gồm ba thể hiện lòng thương xót nên gọi là "dụ ngôn lòng thương xót": con chiên lạc, đồng tiền mất, và người con trai hoang đàng.
Khi đọc "Người kia có hai con trai", dù người biết rất ít về Tin Mừng vừa nghe đọc mấy lời trên sẽ biết ngay là " dụ ngôn người con trai hoang đàng", có người gọi là "dụ ngôn người cha nhân hậu".
Dụ ngôn này thường được khai thác dưới nhiều khía cạnh về mặt thiêng liêng. Thực ra dụ ngôn này chỉ là chuyện hoà giải giữa cha và con, một sự hòa giải như thế là thiết yếu cho hạnh phúc của các người cha và con cái.
Trong ca dao, thơ ca, hò vè, văn chương, nghệ thuật, kịch nghệ sân khấu và những quảng cáo, xem ra chỉ tập trung vào một tương quan nhân bản duy nhất là tình yêu lứa đôi giữa người nam và người nữ, giữa người vợ và người chồng. Tương quan giữa cha và con thật quan trọng, vậy mà ít được khai thác. Tương quan này là đem lại vui mừng cho sự sống, niềm vui trong cương vị làm cha và làm con.
Khi nói về tương quan gia đình, không có gì xấu hơn trong tương quan giữa một người nam và một người nữ cho bằng sự lạm dụng, khai thác và bạo lực, và không có gì dễ bị phơi bày và biến dạng trong tương quan giữa những người cha và con cái cho bằng tính độc đoán, chủ nghĩa gia trưởng, sự nổi loạn, sự loại trừ, sự thiếu liên lạc.
Thiên Chúa đã than: "Ta đã nuôi nấng đàn con, cho chúng nên khôn lớn, nhưng chúng đã phản nghịch cùng Ta" (Is 1, 2). Nhiều người cha ngày nay có kinh nghiệm về điều trên.
Sự đau khổ là hỗ tương; không phải như dụ ngôn mà lỗi hoàn toàn ở người con. Có những người cha bị đau khổ hơn cả trong cuộc đời khi bị con cái loại bỏ hay khinh chê. Và có những đứa con bị đau khổ sâu xa nhất, đến nỗi không thể chấp nhận được khi cảm thấy bị hiểu lầm, không được coi trọng, bị loại trừ bởi cha mình.
Thực ra một sự hoà giải giữa cha mẹ và con cái và một sự chữa lành nội tâm sâu thẳm về tương quan giữa họ là một điều quan trọng cho sự tân phúc âm hóa. Chúng ta biết, tương quan của một người cha trần thế có thể ảnh hưởng rất lớn, tích cực hay là tiêu cực, đến tương quan chúng ta với Cha trên trời và như thế cũng ảnh hưởng tới đời sống Kitô hữu.
Vậy khi chúng ta phạm tội phản nghịch cùng Thiên Chúa, chúng ta khước từ Ngài, chúng ta phải làm gì, vì Thiên Chúa vẫn một lòng trung tín, không từ bỏ chúng ta? Thiết nghĩ, chúng ta lấy lại những lời đã soạn sẵn của người con thứ trong dụ ngôn, cùng với can đảm để thưa với cha mình.
"Tôi muốn ra đi, trở về với cha tôi và thưa người rằng: 'Thưa cha, con đã lỗi phạm đến Trời và đến cha' ". Lời thú nhận đầu tiền của chúng ta với Thiên Chúa là Cha, Đấng Tạo Hóa, giầu lòng thương xót và là thẩm phán là như thế. Cho dẫu Thiên Chúa biết mọi sự, Ngài vẫn đợi chờ chúng ta trở về lên tiếng thú lỗi; lý do là "tuyên xưng nơi miệng thì được ơn cứu rỗi" (Rm 10,10)...
Đó là điều người con thứ đã từng nói với cha mình; nói thôi, chưa đủ, nếu anh không về cùng Cha. Nhưng giờ này biết cha ở đâu để về gặp? " Tôi sẽ trỗi dậy". Đó là điều thánh Phaolô Tông Đồ nói: "Thức dậy đi, hỡi người ngủ mê! Từ trong cỏi chết, hãy đứng dậy!" (Ep 5,14)... Trước hết hãy trỗi dậy, nếu chúng ta đang ngồi đây và ngủ mê. Hãy thức dậy trở về với Giáo hội, với Thiên Chúa là Cha, là Con, là Thánh Thần. Thiên Chúa, Đấng thấu suốt mọi bí ẩn sâu thẳm nơi con người, đến tìm gặp con người; nếu người cha trong dụ ngôn ngày ngày ra ngóng chờ con, nên khi con còn ở đàng xa ông đã chạy tới ôm chầm lấy con. Thiên Chúa là Cha, Ngài luôn dõi mắt theo con người, khi thấy con người khi còn ở đàng xa, Chúa đã thấy và chạy tới ôm chầm lấy con người và hôn lấy hôn để... khi con người bị tội lỗi thế gian vùi dập, Ngài cúi xuống để nâng con người lên; hướng con người về Trời để tìm thấy Thiên Chúa là Đấng tạo dựng nên mình. Đức Giêsu chính là Thiên Chúa, Ngài đã hạ mình xuống để giải thoát con khỏi thân phận nô lệ và trở nên chỗ êm ái nhẹ nhàng để con người dưỡng sức nghỉ ngơi, khi nói, nơi Đức Giêsu, con người gặp được Thiên Chúa Cha Đấng giầu lòng thương xót: «Hãy đến với Ta, hết thảy những kẻ lao đao và vác nặng". Và Ta sẽ cho nghỉ ngơi lại sức" (Mt 11,28). Đó là cách mà Chúa ôm chặt con người, nếu con người hoán cái trở về với Chúa.
Áo, nhẫn, giầy, con người đánh mất, Thiên Chúa sẽ ban lại. Áo ở đây là áo sự khôn ngoan..., áo tinh thần và là y phục lễ cưới. Nhẫn ở đây không gì khác là dấu ấn của niềm tin chân thành và dấu ấn của chân lý đó sao? Còn đôi giầy đi, chỉ sự loang báo Tin Mừng.
Hãy hồi tâm và trỗi dậy, can đảm trở về với Thiên Chúa khi ta lầm đường lạc lối, để đón nhận được lòng xót thương của Thiên Chúa là Cha nhân lành. Amen.



12. Thiên Chúa, Đấng Nhân Hậu

1."Có phụ nữ nào quên được đứa con thơ của mình, hay chẳng thương đứa con mình đã mang nặng đẻ đau? Cho dù nó có quên đi nữa, thì Ta, Ta cũng chẳng quên ngươi bao giờ" (Is 49,15). Đó là lời tiên tri Isaia đã phản ánh rất trung thực về tình cảm của người mẹ trần thế đối với đứa con của mình, và hơn thế nữa, Isaia cho thấy tình yêu của Thiên Chúa dành cho mỗi người chúng ta.
Vâng đúng thế, Thiên Chúa luôn yêu thương con người, chủ đề của các bài Thánh Kinh hôm nay đều nói về lòng nhân từ của Thiên Chúa đối với loài người, nhất là những tội nhân. Bài đọc I, trích sách Xuất hành, diễn tả cơn thịnh nộ của Thiên Chúa trước tội "thờ bò vàng" của dân Israel, nhưng nhờ lời cầu nguyện của Môsê, cơn thịnh nộ ấy đã được nguôi dần. Bài đọc II, trích thư của thánh Phaolô gởi cho Timôthê, thánh Phaolô cho thấy Thiên Chúa không chỉ nhân hậu cách chung chung với một dân, một nhóm người, mà Ngài còn nhân hậu với từng người một, như kinh nghiệm chính thánh Phaolô đã thuật lại khi xác tín:"Đức Kitô Giêsu đã đến thế gian, để cứu những người tội lỗi, mà kẻ đầu tiên là tôi " (1Tm 1,15). Hình ảnh Thiên Chúa là Đấng nhân hậu càng rõ nét, qua ba dụ ngôn nổi tiếng như trong đoạn Tin Mừng chúng ta vừa nghe: "Con Chiên Lạc", "Đồng Bạc Mất" và "Người Cha Nhân Hậu".
2. Chúng ta sẽ hiểu tấm lòng của Đức Giêsu hơn khi biết bối cảnh của đoạn Tin Mừng nầy. Đức Giêsu tiếp đón những người tội lỗi, điều này làm cho những ngừời biệt phái và luật sĩ phiền trách Chúa. Trước thái độ ấy, Người dạy cho họ một bài học, một cái nhìn đích thực về Thiên Chúa, Đấng gần gũi, giàu lòng nhân hậu đối với mọi người, nhất là những kẻ lầm lỗi. Lòng nhân hậu đó có thể dễ nhận thấy qua các phương diện: Tôn trọng tự do của con người; yêu thương và đi bước trước đến với tội nhân; và hoàn toàn tha thứ cho tội nhân.
3. Thiên Chúa luôn tôn trọng tự do của con người. Trong dụ ngôn "Con Chiên Lạc", hẳn con chiên này cũng như những các con chiên khác trong đàn, chủ đã để cho nó tự do để đi lại ăn uống, nhưng thay gì đi theo bầy đàn, nó lại đi riêng, thế là nó bị lạc! Điều này càng rõ hơn trong dụ ngôn người cha nhân lành. Thông thường cha chỉ chia gia tài cho các con khi thấy mình đã già yếu, sắp chết, bởi "ai nắm tiền là nắm quyền" (x. Hc 33,20-24) hoặc thấy con mình có khả năng giữ được gia tài thì mới trao phó cho nó và việc nầy là tự ý của người cha. Nhưng xem ra người cha trong dụ ngôn này đã không khôn ngoan tính kỹ như vậy, vì ông quá thương con, quá tôn trọng tự do của nó nên đã chia gia tài và cho nó tuỳ nghi sử dụng. Người cha nầy chính là hình ảnh của Thiên Chúa, Đấng ban cho con người tự do, và nhiều khi con người đã sử dụng tự do một cách sai lạc!
4. Lòng nhân hậu của Thiên Chúa thể hiện qua việc yêu thương từng người trong chúng ta và luôn muốn ta sống trong tình yêu thương của Ngài. Một con chiên lạc không có giá trị gì so với cả đàn chiên, thế mà người chủ lại đi tìm ngay khi nhận ra nó đi lạc. Một đồng bạc rơi mất không có giá trị gì, vậy mà cũng đáng quý, cho nên người phụ nữ nầy phải tốn công tìm kiếm cho bằng được. Một đứa con hư hỏng không ích lợi gì cho gia đình, vậy mà người cha vẫn luôn trông ngóng ngày đêm, nên mới có thể nhận ra khi nó còn ở đàng xa. Đó chính là hình ảnh Thiên Chúa yêu thương từng người trong chúng ta. Mỗi tâm hồn xa cách Thiên Chúa, Ngài đều mong quay trở về.
5. Lòng nhân hậu của Thiên Chúa còn thể hiện ở việc hoàn toàn tha thứ cho tội nhân. Người chăn chiên khi tìm gặp con chiên lạc thì vui mừng vác nó trên vai mà trở về, cho nó nhập lại đàn, chứ không đánh đập nguyền rủa. Người đàn bà vui mừng khi tìm được đồng bạc bị đánh mất. Cũng vậy, người cha nhân hậu quá sức mừng rỡ khi đứa con hoang đàng trở về, ông bất chấp lỗi lầm của nó.
Đọc Tin Mừng, chúng ta thấy Đức Giêsu thật là hình ảnh của Thiên Chúa nhân hậu. Phêrô đã từng chối Thầy mà sau khi hối lỗi vẫn được Thầy tin tưởng giao trọng trách. Người trộm lành được hoàn toàn tha thứ và còn được hứa hưởng hạnh phúc với Chúa... Thật là đúng theo một bài hát cầu hồn mà chúng ta thường nghe "Chúa là Đấng từ bi và nhân hậu, Người đại lượng và chan chứa tình thương. Người không xử với ta như ta đáng tội, và không trả cho ta theo lỗi của ta ".
6. Hình ảnh Thiên Chúa nhân hậu từng giây từng phút vẫn còn tiếp diễn. Thật vậy, Thiên Chúa ban cho con người tự do và vẫn luôn tôn trọng tự do của con người. Đó là hồng ân Ngài ban cho ta, hơn thế nữa khi ta sử dụng tự do cách sai lạc Ngài vẫn mong chờ ta quay trở về và rộng lòng tha thứ. Ánh mắt Ngài vẫn dõi theo từng người trong chúng ta. Một cách cụ thể hơn, qua bạn bè, những người thân nhắc nhở khi chúng ta có điều bất xứng. Qua những vị mục tử hay những người làm công tác tông đồ lặn lội đi tìm kiếm những người nguội lạnh. Qua hình ảnh cửa toà giải tội luôn rộng mở, mà linh mục thay mặt Chúa, như người cha nhân từ, ngồi trông ngóng những tội nhân...
7. Chúng ta không chỉ cảm nhận lòng nhân hậu của Thiên Chúa để quyết tâm sống tốt hơn, mà còn hãy noi gương Đức Giêsu trong việc cư xử từ tâm đối với nhau. Đừng như những người biệt phái, luật sĩ kết án, loại trừ đối với anh em, bởi tất cả chúng ta đều con một Cha trên trời, đều được mời gọi hạnh phúc với Ngài và ai trong chúng ta dám cho mình là vô tội!?



13. Hối cải – Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Truyện kể: Một thầy giáo nói với các học sinh trong lớp: Các em hãy viết lại Dụ ngôn Con Chiên Lạc, qua đó, các em sẽ cảm nhận được ý nghĩa sâu sắc hơn. Một học sinh viết: Giả sử bạn hoàn thành đánh máy một luận án dài 100 trang. Bạn đã miệt mài nghiên cứu, tìm tòi và sửa chữa rồi đánh máy. Bạn cảm thấy sung sướng khi đã hoàn tất. Bạn thu thập các trang lại bấm ghim và dán bìa, khi đó bạn phát giác ra bị thiếu mất một trang. Tưởng tượng sự sợ hãi, hoang mang và cảm thấy bực bội, xôi bao tử. Bạn bỏ 99 trang đó và bắt đầu lục lọi tìm kiếm. Bạn mong tìm cho được trang giấy đã bị thất lạc. Vì thiếu một trang, cả luận án sẽ vô nghĩa và bị mất giá trị. Đột nhiên, đàng kia, nó rơi ở ngay góc phòng. Bạn phấn khởi, dời ghế, ném tung 99 trang và quỳ gối xuống, nhặt vội trang đã bị lạc mất.
Tội lỗi đã nhập vào thế gian. Lòng con người thường dễ hướng chiều về đàng dữ. Những kéo lôi thỏa mãn của dục vọng tội lỗi gọi mời con người đi ngược lại với ý muốn của Thiên Chúa. Thiên Chúa luôn kiên nhẫn đợi chờ lòng hối cải, chứ không tiêu diệt. Niềm vui của Chúa Giêsu và của thần thánh trên trời là người tội lỗi lầm lạc biết ăn năn hối cải trở về. Chúa nói: "Trên trời sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần hối cải (Lc 15, 7). Chúa đến để kêu gọi người tội lỗi. Biết rằng chỉ những bệnh nhân mới cần đến thầy thuốc. Chúa Giêsu có quyền tha tội và chữa lành cả thân xác lẫn linh hồn. Chúa mở rộng cửa đón nhận những người tội lỗi. Chúa không kết án hay bỏ mặc họ chìm đắm trong vũng bùn của tội nhơ. Chúa tạo cho họ có cơ hội sám hối trở về.
Ngày xưa, Thiên Chúa đã chọn ông Môisen làm thủ lãnh dẫn Dân Do-thái ra khỏi nước Ai-cập. Giải thoát họ khỏi làm nô lệ cho người Ai-cập. Bước đầu của Chương trình cứu độ là đưa Dân Riêng vào miền Đất Hứa. Mới ra khỏi vòng nô lệ, lòng dân chưa được thuần thành. Tâm hồn họ còn bị ảnh hưởng bởi cách sống của dân ngoại. Nên khi có cơ hội, họ dễ quay trở lại thờ các thần do chính họ đúc thành. Họ đã nhiều lần phạm tội phản nghịch cùng Thiên Chúa. Khi ông Môisien lên núi cầu nguyện, thì dân chúng ở dưới chân núi đã hùa nhau gây rối và làm phản: Chúa phán cùng Môsê rằng: "Ngươi hãy đi xuống; dân mà ngươi dẫn ra khỏi đất Ai-cập đã phạm tội (Xh 32, 7). Dân chúng muốn tìm thỏa mãn ngay những nhu cầu hạ giới. Họ lo cho sự an toàn cuộc sống, lo cái ăn, cái mặc hiện tại, chứ không nhận biết đường đi nước bước mà Thiên Chúa sẽ dẫn đưa họ.
Phải mất rất nhiều thời gian để cải đổi thuần thành tâm hồn một nhóm dân đông đảo. Thiên Chúa đã yêu thương, bao bọc, chở che, dạy dỗ, sửa phạt và từ từ mạc khải về chương trình cứu độ. Dân Do-thái trên đường lữ hành đã đối diện với nhiều khó khăn thăng trầm. Cũng đã nhiều lần họ bỏ Chúa chạy theo tà thần: Chúng đã sớm bỏ đường lối Ta đã chỉ dạy cho chúng, chúng đã đúc tượng bò con và sấp mình thờ lạy nó; chúng đã dâng lên nó của lễ hiến tế và nói rằng: "Hỡi Israel, này là Thiên Chúa ngươi, Đấng đã đưa ngươi ra khỏi đất Ai-cập" (Xh 32, 8). Họ chưa nhận biết Thiên Chúa duy nhất, thánh thiện, nhân từ và công bằng vô cùng. Tâm trí của dân xưa chỉ nhìn nhận một Thiên Chúa vĩ đại, quyền uy, cao sang và sửa phạt công thẳng. Họ chưa cảm nghiệm được hình ảnh một Thiên Chúa đầy lòng xót thương và nhân hậu. Thiên Chúa luôn khoan dung kiên nhẫn đợi chờ.
Chúa Giêsu là hình ảnh Chúa Cha. Không ai biết Chúa Cha ngoài Chúa Con và không ai biết Chúa Con ngoài Chúa Cha. Chúa con là Ngôi Lời mạc khải. Ngài thi hành sứ mệnh Chúa Cha giao phó. Trước hết, Chúa mang ơn cứu độ cho các con chiên lạc nhà Israel. Thời đó, các vị chức sắc tôn giáo chưa nhận diện được sứ vụ của Chúa Giêsu. Họ càm ràm: Thấy vậy, những người biệt phái và luật sĩ lẩm bẩm rằng: "Ông này đón tiếp những kẻ tội lỗi, cùng ngồi ăn uống với chúng" (Lc 15, 2). Các biệt phái và luật sĩ rất bén nhậy quan sát cách hành xử của Chúa. Tư tưởng, cung cách sống đạo và thi hành lề luật của họ chỉ giới hạn nơi hình thức bên ngoài. Chúa Giêsu đi vào nội tâm khao khát của từng người. Chúa chữa lành và ban lại sự bình an cho mọi tâm hồn.
Chúa dùng nhiều thí dụ để nói lên niềm vui của tâm hồn. Chúa mong muốn những mảnh hồn đang bị xa lạc, tội lỗi, thương tích và tan nát được rửa sạch thay bằng trái tim lành mạnh đầy yêu thương. Chúa vui lắm khi một người tội lỗi biết ăn năn sám hối trở về. Tôi bảo các ông: Các Thiên Thần của Thiên Chúa sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải" (Lc 15, 10). Trên trời vui mừng, các Thiên Thần vui mừng và mọi người cùng hối nhân vui mừng. Sự mừng vui trong tâm hồn không thể trả giá. Vui của nước mắt ăn năn, vui của sự hối cải trở về và niềm vui của ơn cứu độ. Niềm vui an bình và thanh thoát của tâm hồn được kết hợp cùng Chúa.
Mỗi người có tiến trình trở về khác nhau. Người xa kẻ gần, người tốt kẻ xấu, ai ai cũng cần có những giây phút trở về. Đừng nghĩ rằng mình là người công chính thánh thiện không cần hối cải. Ai nói mình không phạm tội là người nói dối. Có thể chúng ta không hư thân mất nết, ăn chơi phung phí hết tiền của như người con phung phá để rồi cuối cùng mới trở về: Tôi muốn ra đi, trở về với cha tôi và thưa người rằng: 'Lạy cha, con đã lỗi phạm đến Trời và đến cha (Lc 15, 18). Tự vấn, có thể chúng ta không đến nỗi sống tệ bạc như người bạn trẻ này, nhưng có khi chúng ta đã lạc xa Chúa qua những sự dối gian, ích kỷ, giận ghét, thù hận và kiêu căng khác. Những thói xấu này làm xói mòn đời ta hơn nữa. Tội lỗi âm ỉ như những con vi trùng ung thư lan tràn khắp châu thân. Tội như là những con vi khuẩn độc hại tàn phá từng ngày. Chúng ta phải luôn cảnh tỉnh xét mình qua lời nói, hành động và cách suy nghĩ. Sẽ không thừa thãi, chúng ta biết chạy đến bác sĩ để khám bệnh, phòng bệnh và chữa bệnh kịp thời.
Một tâm hồn biết hối cải sẽ là niềm vui chung. Trong dụ ngôn người con phung phá trở về, đã được cha mở tiệc ăn mừng. Cha nói: Nhưng phải ăn tiệc mừng, vì em con đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy (Lc 15, 32). Thật cảm động về tình cha nhân hậu! Cha không ngoái lại quá khứ để bắt bẻ, hạch hỏi hay la rầy. Cha đón nhận một tâm hồn thống hối với trái tim yêu thương rộng mở. Lòng xót thương của cha thật bao la vĩ đại. Cha ôm con vào lòng và thổ lộ rằng con ta đã bị lạc mất nay lại tìm thấy. Niềm vui vỡ òa. Con được đón nhận trở lại trong vòng tay âu yếm của cha. Của cải của cha giờ đây sẽ là của con. Sự giao hòa, tha thứ và yêu thương sẽ đan kết nên một tương lai an vui và hạnh phúc.
Thánh Phaolô không ngại nói về quá khứ bất hảo của mình. Khi được ơn trở lại, Phaolô đã sống trong ân sủng của Chúa. Thánh Phaolô tâm sự: Dù trước kia cha là kẻ nói phạm thượng, bắt đạo và kiêu căng, nhưng cha đã được Thiên Chúa thương xót, vì cha vô tình làm những sự ấy trong lúc cha chưa tin (1Tm 1, 13). Phaolô đã dũ bỏ qúa khứ lỗi lầm và bước đi trên con đường cứu độ. Ngài không ngừng rao giảng về Chúa Kitô chịu đóng đinh và phục sinh từ cõi chết để chuộc lại lỗi lầm của chúng ta. Chúa đến để cứu thoát những con người tội lỗi. Phaolô chấp nhận thân phận yếu đuối của mình: Lời nói chân thật và đáng tiếp nhận mọi đàng là: Đức Giêsu Kitô đã đến trong thế gian này để cứu độ những người tội lỗi, trong số ấy, cha là người thứ nhất (1Tm 1, 15). Noi gương thánh Phaolô, mỗi người chúng ta cũng tự xét mình, cúi đầu nhận lỗi và xưng thú lỗi lầm, ăn năn sám hối và xin ơn tha thứ.
Lạy Chúa, chúng con đã nhiều lần lạc xa và phạm tội mất lòng Chúa. Đôi khi chúng con tự cho mình là người thánh thiện và công chính. Xin cho chúng con biết cúi đầu đấm ngực ăn năn và hối lỗi trở về với Thiên Chúa là Đấng từ bi nhân hậu.



14. Lòng Chúa xót thương – Lm Jos. Tạ Duy Tuyền

(Trích dẫn từ ‘Cùng Nhau Suy Niệm’)
Có ai đó đã nói rằng: "con tim có lý lẽ của con tim". Hành động của con tim không đo lường bằng toán học, không kiểm chứng bằng khoa học. Hành động của con tim chỉ có thể hiểu được bằng tình yêu. Thế nên, chỉ có những ai ở trong tình yêu mới có thể hiểu được những việc làm xem ra thiếu tính toán của tình yêu. Đó cũng là cách hành xử mà Chúa Giêsu đã nói đến qua dụ ngôn con chiên lạc và đồng tiền đánh mất. Cả hai dụ ngôn đều nói lên một tình yêu vượt lên trên mọi tính toán vụ lợi. Vì không ai dại gì bỏ lại 99 con chiên trong rừng vắng để đi tìm con chiên lạc. Và cũng không có ai dại gì bỏ hàng vạn đồng để chiêu đãi bà con lối xóm khi tìm lại 1 đồng bạc bị đánh mất. Thiên Chúa không tính toán thiệt hơn.Thiên Chúa luôn hành động vì yêu thương. Chính tình yêu đã thúc bách Ngài phải lên đường ngay để tìm con chiên lạc. Chính trong sự nhẫn nại của tình yêu đã làm cho Ngài tràn ngập niềm vui sướng khi tìm được đồng tiền đã mất.
Con chiên và đồng tiền đánh mất tựa như cuộc đời của mỗi người chúng ta. Vì chạy theo danh vọng. Vì chạy theo những đam mê trần gian đã làm cho nhiều người lầm đường, lạc lối và đánh mất phẩm giá cao qúy của mình là hình ảnh Thiên Chúa. Thiên Chúa không bỏ rơi con người. Thiên Chúa dùng muôn nghìn cách để tìm lại chúng ta. Ngài sẽ làm tất cả để chuộc lại con người chúng ta. Đó cũng là cách mà Thiên Chúa đã thực hiện trong suốt dọc dài của lịch sử ơn cứu độ. Loài người luôn bất trung, bội tín, bội thề. Thiên Chúa thì luôn tín trung. Tình yêu của Ngài dành cho con người mãi mãi vẫn là một. Ngài không bao giờ thay đổi. Ngài có giận, giận trong giây lát nhưng yêu thương, yêu thương ngàn đời.
Tình yêu của Ngài hôm nay vẫn thế. Ngài vẫn đeo đuổi cuộc đời mỗi người chúng ta. Ngài sẽ đau khổ nếu chúng ta lạc xa tình Chúa. Ngài sẽ buồn nhiều nếu chỉ vì tiền tài và lạc thú mà chúng ta đánh mất phẩm giá làm người của mình. Phẩm giá con người lớn hơn những giá trị vật chất. Ngài không đang tâm đứng nhìn con người tự hạ thấp phẩm giá của mình để đổi lấy đồng tiền và lạc thú. Ngài càng không làm ngơ và bỏ mặc con người cho ma qủy lôi kéo vào hố diệt vong. Ngài sẽ làm muôn ngàn cách để đưa con người trở về nẻo chính đường ngay. Điều đó, Ngài đã thể hiện nơi cuộc đời của vua Đavít. Đavít là một con người được Chúa yêu thương nhưng lại vì đam mê lạc thú đã lỗi luật Chúa. Ông đã phạm tội ngoại tình với Batseva, là vợ của tướng Uria. Ông còn đang tâm đẩy Uria vào chỗ chết để chiếm lấy nàng Batseva. Thế nhưng, tình yêu Chúa còn lớn hơn tội của Đavít, Ngài đã không giáng phạt theo như tội Đavít đã làm. Ngài đã cho Đavít cơ hội làm lại cuộc đời. Qua tiên tri Nathan, Thiên Chúa đã thức tỉnh Đavít nhận ra lỗi lầm mà ăn năn trở về. Đavít đã sám hối ăn năn. Đavít đã cảm nhận tình thương Chúa dành cho ông quá to lớn đến nỗi mà ông phải thốt lên: "Nếu Chúa chấp tội nào ai rỗi được". Chúa đã không chấp tội Đavít mà "lòng nhân từ của Chúa còn theo đuổi Đavít suốt cuộc đời".
Vâng, lòng nhân từ của Thiên Chúa vẫn ở trong cuộc đời chúng ta. Lòng nhân từ của Thiên Chúa ví tựa như tấm lòng người mẹ, luôn yêu con bằng trái tim chứ không bằng trí óc. Và cũng chỉ có tình thương trời bể của người mẹ mới cho chúng ta hiểu nổi tình thương vô biên của Thiên Chúa dành cho chúng ta, nhất là đối với kẻ tội lỗi, người nghèo khó bé mọn. Vì "Có người mẹ nào quên được đứa con thơ của mình, hay chẳng thương đứa con mình đã mang nặng đẻ đau? Nhưng cho dù người mẹ có quên con đi nữa, thì Ta, Ta cũng chẳng quên ngươi bao giờ".
Dù có những người mẹ độc ác bỏ con mình, Chúa không bao giờ bỏ chúng ta. Người còn ban ơn chăm sóc chúng ta hằng ngày: "Các ngươi sẽ được nuôi bằng sữa mẹ, được bồng ẵm bên hông, nâng niu trên đầu gối. Như mẹ hiền an ủi con thơ, Ta sẽ an ủi các ngươi như vậy".
Chúng ta thường nghe hát: "Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình". Còn lòng Chúa thương chúng ta thì không gì sánh được. Tình mẹ đã khó mà đền đáp cho đủ, còn tình Chúa thì sao? Liệu rằng chúng ta sẽ làm gì để đền đáp ơn Ngài cho cân xứng?
Ước gì mỗi người chúng ta cũng nhận ra lòng Chúa xót thương để ăn năn sám hối trở về với Chúa, và cũng biết sống tình yêu đó cho anh em. Amen.



15. Suy niệm của ĐHY Phaolô Giuse Phạm Đình Tụng

Bài Phúc Âm hôm nay thuật lại ba dụ ngôn: - người chăn chiên đi tìm con chiên lạc. – Người đàn bà tìm đồng tiền mất. – Và người cha nhân hậu đón nhận đứa con phung phá trở về. Ba dụ ngôn đó nội dung khác nhau nhưng đều quy về một đề tài là: lòng thương xót bao la của Thiên Chúa đối với con người có tội.
Ta có thể nói, toàn bộ Thánh Kinh, Cựu ước cũng như Tân Ước chứng minh rằng: Thiên Chúa hằng đi tìm và kêu gọi kẻ có tội, Thiên Chúa nhẫn nại chờ đợi họ quay về và vui mừng đón nhận khi họ quay trở lại.
Trước hết Thiên Chúa đi tìm và kêu gọi kẻ có tội.
Tất cả lịch sử cứu độ, Cựu ước cũng như Tân ước cho ta thấy: Thiên Chúa hằng làm mọi cách để đưa con người tội lỗi trở về, bằng sự ngăm đe, bằng lời hứa hẹn, bằng tiếng kêu gọi, bằng những cử chỉ ưu ái, những phép lạ vĩ đại, những hình phạt nặng nề, những lần xuất hiện uy linh, bằng sai các vị tiên tri khuyến cáo, và sau cùng bằng sai chính Con Ngài xuống trần gian chịu chết trên thập giá để cứu chuộc kẻ có tội.
Trong vườn địa đàng, Thiên Chúa đã đích thân đi tìm con người lẩn trốn và Ngài đã lên tiếng kêu gọi: “Ngươi ở đâu?”. Đây là tiếng gọi đầu tiên trong muôn vàn tiếng gọi. Về sau Thiên Chúa thôi thúc con người, kêu gọi trong oán trách như một người tình bị phụ bạc, kêu gọi trong đau buồn như người mẹ xót thương con. Những lời kêu gọi đó được nhắc đi nhắc lại nhiều lần qua miệng các tiên tri. Thí dụ, qua tiên tri Ô-zê Chúa phán như sau: “Khi Israel còn niên thiếu, Ta đã yêu thương chúng, và từ nước Ai-cập Ta đã gọi con Ta về. Nhưng khi kẻ khác gọi chúng, chúng liền bỏ Ta. Chúng đã đốt lễ vật dâng kính các thần tượng. Dù thế, chính Ta đã tập cho chúng bước đi, Ta đã bồng bế chúng trên cánh tay Ta, nhưng chúng nào biết rằng mình được chăm sóc. Chúng đã từ chối không trở lại cùng Ta. Vì thế, lưỡi gươm sẽ vung lên trong thành của chúng và tiêu diệt đồn luỹ của chúng”.
Lời Thiên Chúa kêu gọi con người tội lỗi ăn năn trở về, lời kêu gọi đó luôn được nhắc đi nhắc lại trong Cựu ước và đã tiếp tục vang lên một cách mạnh mẽ trong Tân ước qua những lời giảng dạy, qua cuộc đời của Đức Giêsu nhất là qua cái chết của Người trên thập giá.
Trong những năm giảng Đạo, Chúa không quản ngại hy sinh thời giờ sức lực và cả danh dự để đi tìm kẻ có tội, gần gũi họ, ngồi ăn đồng bàn với họ, tha thứ và cứu giúp họ, thái độ đó đã làm cho người Biệt phái bất bình, phản đối. Họ gọi Chúa là bạn bè với những người thu thuế và tội lỗi. Nhưng Chúa cương quyết trả lời: không phải những người khoẻ mạnh cần đến thầy thuốc nhưng là những người đau yếu. Ta đến không để kêu gọi người công chính, mà kêu gọi người tội lỗi. Con Người đến tìm và cứu vớt những gì đã hư mất.
Không những Thiên Chúa đi tìm và kêu gọi người có tội trở về mà Ngài còn chờ đợi một cách kiên nhẫn không biết mệt mỏi như người cha hằng ngày ra đứng cửa trông đợi đứa con phung phá trở về. Thánh Augustinô nói: Biết bao kẻ mê ngủ trong tội lỗi nhiều tháng nhiều năm. Họ còn khoe khoang về những tội ác của họ, thế mà Thiên Chúa vẫn kiên nhẫn chờ đợi. Thánh nhân tiếp: “Lạy Chúa, chúng con khiêu khích cơn thịnh nộ Chúa, còn Chúa thì lại đưa chúng con tới lòng thương xót của Người”.
Trong cuộc đời, có khi chúng ta thắc mắc vì thấy người nọ người kia quá gian ác mà Thiên Chúa không phạt nó chết đi, để nó làm khổ người khác, làm khổ những người vô tội. Chúng ta thắc mắc như vậy vì không hiểu lòng Thiên Chúa. Cũng như một ông bố trong gia đình có đứa con hư không ai chịu nổi muốn tống cổ nó ra khỏi nhà, thế mà ông bố kia vẫn kiên nhẫn chịu đựng chỉ vì nó là con mình và mình đã sinh ra nó. Thiên Chúa cũng kiên nhẫn chờ đợi kẻ có tội chỉ vì Ngài là Cha nhân lành đã sinh ra nó, đã cứu chuộc nó bằng giá Máu cực trọng Con Ngài, có thế thôi.
Thiên Chúa đi tìm và kêu gọi kẻ có tội, Thiên Chúa kiên nhẫn chờ đợi nó hối cải, hơn nữa Ngài còn vui mừng đón nhận nó khi trở về. Dụ ngôn người đàn bà tìm thấy đồng tiền mất, người chăn chiên tìm thấy con chiên lạc và ông bố gia đình đón nhận người con phung phá trở về, cả ba dụ ngôn đó chứng minh như vậy.
Người đàn bà tìm thấy đồng tiền mất, mời chị em bạn bè đến chia vui. Người chăn chiên tìm thấy con chiên lạc không hắt hủi đánh đập nó vì đã làm cho ông mất bao thì giờ, hao tốn sức lực và liều để 99 con khác ở một nơi. Trái lại,ông vui mừng sung sướng âu yếm vuốt ve nó, ôm nó lên ngực, vác nó trên vai đem về nhà mời chúng bạn đến chia vui với mình. Cũng thế, người bố trong gia đình, khi thấy đứa con phung phá trở về, ông không hề xua đuổi trách mắng vì nó bỏ nhà ra đi, phụ bạc tình cha, phung phí tài sản, ăn chơi truỵ lạc, bôi nhọ danh dự gia đình… không, ông không hề trách mắng, mà trái lại, khi nó ở đàng xa ông đã vội vã chạy ra ôm choàng lấy nó mà hôn thật lâu, ông cũng không cần nghe nó thú tội xin lỗi, ông truyền đầy tớ lấy áo đẹp mặc cho nó, lấy nhẫn đeo vào tay, lấy giầy xỏ vào chân nó. Hỏi rằng ở trần gian có ông bố nào đối xử với đứa con phụ bạc một cách lạ lùng như vậy? Ông bố trong dụ ngôn đón nhận đứa con phung phá chính là Cha trên trời nhận kẻ có tội quay trở về. Thật âu yếm biết bao! Cảm động biết bao! Lạ lùng biết bao! Nếu Đức Giêsu không tỏ ra thì ai có thể tin được?
Sau đây, ta rút ra hai bài học thực hành:
* Trong đời ta dù có sa ngã phạm tội, dù tội ta nhiều và nặng đến đâu cũng cứ vững lòng trông cậy Chúa sẽ khoan hồng tha cho ta như người cha trong Phúc âm tha thứ cho người con phung phá trở về.
* Theo gương người con đó, ta phải thành khẩn và khiêm tốn nhìn nhận tình trạng khốn nạn của ta khi phạm tội lìa xa Chúa. Khi bỏ nhà ra đi, người con đó tưởng mình sẽ được tự do sung sướng, nhưng tự so không thấy, lại phải làm đầy tớ chăn lợn cho người, sung sướng không thấy lại phải đói khổ cùng cực muốn ăn cám lợn cũng chẳng ai cho. Khi phạm tội lìa bỏ Thiên Chúa chúng ta cũng mất địa vị và sự tự do của con cái Thiên Chúa rơi vào ách nô lệ của tà thần. Sung sướng không thấy lại phải nhiều sự khốn khó đời này và nhất là đời sau trong hoả ngục, vì tội là nguyên nhân sinh ra mọi sự dữ. Người con phung phá đã hối hận lên đường trở về. Theo gương người con đó, ta cũng quyết tâm từ bỏ tội lỗi ăn năn hối cải và nói như anh: “Tôi đi về cùng cha tôi”.



16. Tin Mừng của lòng thương xót Chúa

Chúng ta biết mỗi năm Phụng vụ C, Giáo hội sẽ cho con cái mình đọc và suy niệm Tin mừng của Chúa Giêsu theo thánh Luca. Tin Mừng theo thánh Luca được gọi là Tin mừng của lòng thương xót. Điều ấy được thể hiện rõ nét nhất nơi những dụ ngôn chúng ta sẽ đọc và suy niệm trong Chúa nhật hôm nay.
Lòng thương xót của Thiên Chúa là tấm lòng của Đấng hạ mình xuống để nâng con người lên. Nhờ lòng thương xót ấy, chúng ta được cứu khỏi tội lỗi và sự chết đời đời. Lòng thương xót của của Đấng đến tìm và cứu chữa những gì hư mất. Và lòng thương xót ấy được thể hiện nơi hình ảnh người chủ chiên, người phụ nữ bị mất tiền và người cha nhân hậu.
Trước hết là thái độ lạ thường của người chủ chiên với những con chiên bị lạc mất. Ông ta sẵn sàng "để chín mươi chín con kia ngoài đồng hoang, để đi tìm cho kỳ được con chiên bị mất". Lạ hơn, khi tìm được ông "mừng rỡ vác lên vai" và "về đến nhà, người ấy mời bạn bè, hàng xóm lại, và nói: Xin chung vui với tôi, vì tôi đã tìm được con chiên của tôi". Dầu vậy, thái độ này sẽ không lạ gì với một người chủ chăn thật sự gắn bó với những con vật nuôi của mình. Họ sẽ để ý và chăm sóc đặc biệt hơn với những con bệnh tật. Một người mẹ thương con thật sự cũng sẽ quan tâm nhiều hơn cho những đúa con chịu nhiều thiệt thòi hơn. Cũng vậy và hơn thế, lòng thương xót của Thiên Chúa không cho Người đành lòng bỏ đi một con người bị mất đi trong tội lỗi.
Kế đến là thái độ lạ thường của người phụ nữ có mười quan tiền. Một hôm chị lỡ đánh mất một trong mười quan ấy, chị ta "thắp đèn, rồi quét nhà, moi móc tìm cho kỳ được". Theo cái nhìn thông thường, chúng ta sẽ nghĩ chỉ mất một quan thôi thì bỏ đi tội gì kiếm chi cho mệt. Tuy nhiên, ông bà thường nói "Đồng tiền dính liền khúc ruột". Do đó, nếu lỡ mất đi dù chỉ số nhỏ chúng ta cũng cảm thấy đau lòng. Sự đau lòng ấy càng dữ dội hơn, khi chính những đồng tiền ấy do chính mồ hôi nước mắt của mình tạo nên. Nhìn như thế chúng ta sẽ dể hiểu hơn tấm lòng của Thiên Chúa chúng ta. Thiên Chúa có thể vui được khi thấy một trong những đứa con của mình bị hư mất chăng? Chắc chắn Thiên Chúa sẽ đau lòng hơn nhiều khi thấy chúng ta đang đắm chìm trong tội lỗi và sự chết. Chính sự đau lòng ấy sẽ thôi thúc Người đi tìm và cứu chữa chúng ta cho bằng được.
Sau cùng, hình ảnh người cha nhân hậu có lẽ sẽ đánh động ta nhiều hơn. Một đứa con hư hỏng cố ý chối bỏ tình thương của cha. Vì nghĩ rằng tiền bạc, lạc thú trọng hơn cha nên nó đã sẵn sàng coi ông như đã chết (đòi chia gia tài) mặc dù ông vẫn còn sống đó. Đến nỗi, lúc quyết định trở về chỉ vì cái bụng của nó (đang chết đói). Nhưng cha nó chẳng để tâm đến những điều đó. Ngày đêm ông trông ngóng nó trở về. Từ đàng xa thấy nó trở về, ông đã "chạy ra ôm cổ anh ta và hôn lấy hôn để" và bảo các đầy tớ " Mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ dép vào chân cậu, rồi đi bắt con bê đã vỗ béo làm thịt để chúng ta mở tiệc ăn mừng". Ông hoàn toàn không ngó ngàng gì đến quá khứ của con mình. Bấy giờ ông chỉ còn biết con mình thật sự trở về. Những cử chỉ đón tiếp ấy cho thấy ông đã nhanh chóng phục hồi địa vị mà con ông đã làm mất trước kia.
Như thế, những hình ảnh trên của lòng thương xót Chúa chắc chắn ít nhiều gì cũng đánh động và đáng cho ta suy nghĩ nhiều. Thiên Chúa đau khổ biết bao khi thấy chúng ta cố ý lìa xa tình thương của Người. Sự đau khổ ấy sẽ trở thành niềm vui lớn khi Người tìm được chúng ta trở về cũng như khi chúng ta biết quay trở về với tình thương của Người.
Chúng ta hãy tin tưởng vào lòng thương xót vô cùng lớn lao của Thiên Chúa. Tin tưởng để chúng ta cố gắng đừng gia tăng đau khổ cho Thiên Chúa. Tin tưởng để chúng ta biết sớm trở về mỗi khi lỡ dại đi theo con đường tội lỗi.



17. Suy niệm của Lm Gioan Nguyễn Văn Ty

Tôi là ai: ông anh hay cậu em trong dụ ngôn?
Chương 15 của Phúc âm Luca, một chương hoàn toàn nói về lòng thương xót của Thiên Chúa, có kể ba dụ ngôn. Dụ ngôn thứ ba tường thuật về một nhân vật mà mà truyền thống gọi là đứa con hoang đàng và coi anh như nhân vật chính của câu truyện. Ngày nay nhiều tác giả cho rằng người cha nhân hậu mới là nhân vật chính. Một nhân vật thứ ba được đề cập tới, và chắc chắn chỉ giữ vai phụ là người anh tuân phục. Khi kể câu chuyện dụ ngôn lừng danh này, ý của Đức Giêsu về các nhân vật rất rõ ràng: Người cha là Thiên Chúa nhân hậu và thứ tha, người con hoang đàng phải là những kẻ tội lỗi tiếp nhận Tin Mừng, còn người con cả để chỉ những người Do Thái, đặc biệt các Pharisêu, đang xầm xì phản đối.
Xét theo diện luân lý thông thường thì người anh tuân phục mới là diện mạo đáng được đề cao hơn cả. Là con trưởng trong nhà, không khi nào dám làm trái lệnh cha, hầu hạ cha trong mọi sự, không có gì đáng trách… anh đáng được thừa hưởng phần lớn gia tài của cha. Trước mặt mọi người xung quanh, anh thật đáng nể phục và kính trọng, đáng nêu gương cho mọi người. Ai có thể đòi hỏi nơi anh điều gì hơn nữa?
Còn cậu em thì ngược lại, cậu thật đáng cho mọi người khinh khi. Bất tuân lệnh cha và làm phật lòng người, chơi bời trác táng, sống mất nhân phẩm… cậu thật không đáng hưởng bất cứ phần gia tài nào của cha. Như thế cậu em này chẳng có gì đáng được đề cao để nêu gương cho hậu thế soi chung. Nói trắng ra anh chàng này chẳng có giá trị gì hết!
Thế nhưng khi kể câu chuyện dụ ngôn Đức Giêsu cho thấy có một yếu tố mới làm đảo lộn tất cả; yếu tố đó là điểm độc đáo đặc trưng nhất của Tin Mừng, đó là cảm nhận và sống trong lòng nhân ái của Cha. Cho dầu có hội đủ tất cả mọi điều được coi là tốt lành nhất, ông anh vẫn còn thiếu một điều gì đó để biến cuộc sống đúng khuôn phép trong gia đình của anh trở nên hạnh phúc. Còn cậu em, thì dầu đã đánh mất tất cả mọi điều được luân thường đạo lý cho là cao đẹp, nhưng may mắn đã khám phá ra được điều sẽ thực sự làm cho mối tương quan giữa anh với cha già từ đây trở nên sâu đậm, đó là nhận ra lòng nhân ái của cha. Đức Giêsu hình như muốn gói ghém trong câu chuyện này một điều gì quan trọng lắm mà Người gọi là Tin Mừng, là rượu mới. Nếu ông anh là hình ảnh của nhóm Do Thái Pharisêu trung thành thuộc Cựu Uớc thì chính cậu em mới là hiện thân của Kitô hữu Tân ước qua mọi thời.
Nhận ra điều này tôi mới thấy sững sờ. Hình như chính tôi và nhiều Kitô hữu đã dành quá nhiều thời giờ và sức lực để xây dựng cho mình, và cho những người mình được trao phó, hình ảnh một ông anh hơn là cậu em. Chúng ta đã chẳng dành quan tâm hàng đầu nhấn mạnh phải sống trung thành với luật Chúa, phải tuân phục cặn kẽ mọi qui tắc luân lý đạo đức… để vào Nước Thiên Chúa hay được lên thiên đàng… hơn là nhận biết và cảm tạ lòng nhân ái cứu độ của Cha trên trời hay sao? Chúng ta đã chẳng từng mong đợi được Chúa thưởng công cho sự công chính đạo đức của mình hơn là phó thác trọn vẹn cho lòng từ bi nhân ái của Người là gì? Thậm chí đôi lúc có người trong chúng ta còn cảm thấy ganh tị khi nghĩ rằng các cậu em tội lỗi kia sẽ được Cha nhân ái đối xử ngang bằng với mình hay hơn cả mình trên thiên quốc. Một người đã trọn đời dâng hiến và phục vụ trong tư cách là linh mục, tu sĩ, hay giáo dân lành thánh – lẽ ra phải được Thiên Chúa ưu đãi thưởng công xứng đáng hơn trên thiên đàng mới phải chứ!
Thế đấy, chúng ta, vì chưa xác định được điều gì là độc đáo đặc trưng nhất của một Kitô hữu (và hơn nữa của linh mục, tu sĩ) nên có thể đã đặt cuộc sống mình sai trọng tâm chăng? Chính tôi vẫn thường nhắc nhở cho giáo dân: phải trung thành giữ các lề luật Chúa và Hội Thánh… và dựa vào tiêu chuẩn đó mà đánh giá giáo dân mình là tốt hay xấu. Vô hình chung tôi đang biến mình thành con người của Cựu Ước hơn là Tân Ước chăng, có khác chi chỉ là thay tên gọi Gia-vê thành Thiên Chúa? Câu chuyện dụ ngôn, và nhất là khi so sánh vai diễn của ông anh và cậu em, cho tôi thấy hiện rõ một chân lý mà từ lâu mình đã lãng quên: hãy sống triệt để Tin Mừng Tân Ước hơn qua việc đón nhận tình yêu tha thứ của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi thập giá Đức Kitô, hơn là chỉ chăm chú vun quén một đời sống tốt lành đạo đức theo kiểu Cựu Ước. Hãy thâm tín sâu hơn nữa câu khảng định của Đức Giêsu: “Ta muốn lòng nhân chứ đâu cần lễ tế” (Mt 9,13). Giữ luật là quan trọng, nhưng nhận biết và sống lòng thương xót từ nhân của Thiên Chúa còn quan trọng hơn rất nhiều. Tóm lại hãy trở thành cậu em hơn là chỉ cố sống như ông anh. Đừng dừng lại mãi trong Cựu Ước một hãy thẳng tiến ngày càng sâu hơn vào Tân Ước của Tin Mừng.
Lạy Chúa, xin không chỉ hoán cải con trong một vài chi tiết tốt xấu luân lý của cuộc sống. Xin cho con được lột xác tận căn và chuyển bước dứt khoát từ Cựu Ước qua Tân Ước. Xin cho con, nếu đang được sống trong nhà như ông anh, thì cũng có được tâm tình và cảm nghiệm sâu xa của cậu em khi đi bụi trở về. Xin cho con biết ngước nhìn lên Thập giá Chúa Kitô để nhận ra Thiên Chúa không phải là người cha nghiêm nghị bắt phải tuân phục, nhưng trên hết là người cha đầy lòng nhân ái thứ tha. Xin cho con ơn trọng đại này để được sống hạnh phúc trong nhà Cha muôn đời. Amen.



18. Tìm v – Lm. Antôn Nguyễn Văn Tiếng

(Trích dẫn từ ‘Suy Gẫm’ – Cánh Đồng Truyền Giáo)
TÌM VỀ CHÍNH MÌNH
Khi con người sai lầm, con người phạm tội, con người “chạy trốn” chính mình! Khi ấy, con người không muốn nghe tiếng nói lương tâm, tiếng nói từ sâu thẳm lòng mình.
Nhiều kẻ lún sâu vào sai lầm, vào tội ác, nhưng vẫn sống an nhiên như người thánh thiện. Họ đã rời xa con người thật của họ. họ sống trong lớp vỏ bình an giả tạo. Với loại người này, họ không còn con đường về nẻo thiện lương. Họ đánh mất chính mình. Họ đánh mất nhân tính. Có những vụ án giết người, mà kẻ tội phạm kể lại tội ác mình làm khi đứng trước vành móng ngựa thật bình thản đến lạ lùng!
“Sai lầm là thường tình của con người”. Để “nhận ra mình sai lầm”, cần phải khiêm nhường.
Không khiêm nhường không thể thấy mình sai. Không thấy mình sai thì cứ cho mình đúng. Cứ cho mình đúng là kiêu ngạo. Mà kiêu ngạo thì đối nghịch lại khiêm nhường… cái vòng lẫn quẫn ấy cản trở con người bước vào con đường nội tâm. Không đi vào nội tâm, không thể tìm về chính mình được.
Đi vào nội tâm là lúc con người hồi tâm lại, và nhìn đoạn đường mình đã đi qua. Để xem mình đang đi về đâu. Có hồi tâm mới có hối hận. Không giọt nước mắt ăn năn sám hối nào rơi xuống mà con người không nhìn sâu vào tận đáy lòng mình. Đó chính là lúc tìm về chính mình thật sự.
TÌM VỀ GIA ĐÌNH
“Không ai là một hòn đảo”. Ngay cả những người đã “phủi bụi trần” để khép mình vào “bốn bức tường” tu viện, vẫn cần có tình người. Tìm về gia đình - hay đại gia đình - là mở rộng tấm lòng để sống có trách nhiệm với cha mẹ, anh em, người thân, tha nhân, đoàn thể, cộng đồng…
Trong câu chuyện Tin Mừng hôm nay, đứa con hoang đàng đã tìm về không phải vì nhớ thương cha mẹ hay anh em trong nhà, mà vì cái bụng đói, vì cuộc sống quá gian nan, nhục nhã. Lý do tìm về chỉ nhắm tới lợi ích riêng mình, còn rất ích kỷ. Khi ra đi với lý do ích kỷ, tìm về cũng với lý do ích kỷ. Động lực sám hối chưa sâu xa. Chính vì lý do đó mà người anh trong câu chuyện đã không thể chấp nhận được. “Còn thằng con của cha đó, sau khi đã nuốt hết của cải của cha với bọn điếm, nay tìm về, thì cha lại giết bê béo ăn mừng!” (Lc 15,30)
Nhưng, cũng chính vì lý do non nớt, trẻ con đó, mà tình cha càng nổi bật, càng lớn lao. Bất kể là vì lý do gì, miễn là đứa con biết ăn năn sám hối, biết tìm về gia đình. Người cha không nói rằng đứa con trai lớn đã nghĩ sai, nhưng chỉ nói lên lý do đứa con lầm lỗi cần được thương xót. Nó đang cần tình thương. Và dù cho thế nào, nó vẫn là đứa con mà ông hết mực thương yêu. Và tình yêu đó không có sức mạnh nào lay chuyển. Và người cha muốn đứa con trai lớn mình phải hiểu và chấp nhận em mình với tấm lòng bao dung cao cả như vậy. “Yêu thương em mình như tình cha”. Điều này, chúng ta gặp thấy nơi giới luật yêu thương của Chúa Giêsu: “Các con hãy yêu thương nhau như Thầy yêu thương chúng con”.
Và đó, chính là ý nghĩa của việc tìm về gia đình. Không có nơi nào con người nương tựa vững chắc như mái ấm gia đình. Trong sự bảo vệ, đùm bọc của tình cha nghĩa mẹ. Đó còn là hình ảnh của “gia đình Chúa Giêsu”, của “đại gia đình nhân loại”. Tình thương anh em phải được nâng cao lên, hơn tầm nhìn của người anh trong câu chuyện Tin Mừng này. Vì đó là Đại Gia Đình Thiên Chúa. “Một Đức Tin, một Phép Rửa, một Thiên Chúa là Cha”.
TÌM VỀ BÊN CHÚA
Trong cuộc đời, có những cuộc tìm về bị chối từ, nhưng với Thiên Chúa thì không, vòng tay của Ngài luôn rộng mở.
Điều Ngài muốn duy nhất, là con người biết ăn năn, sám hối. Sự sám hối có khi còn rất nông cạn, còn rất đời thường, còn rất vật chất, còn vì cái lợi trước mắt. Nhưng căn bản là nhận ra rằng Chúa chính là nơi con người nương tựa thật sự. Không tìm về nơi đâu khác, mà tìm về chính Thiên Chúa. Và tin tưởng rằng Chúa vẫn hằng yêu thương tha thứ.
Sự tìm về của Giuđa Ít-ca-ri-ốt là sự tìm về dang dở.
Giuđa biết “tìm về chính mình”. Anh ta đã “nhìn lại mình” và đau khổ. Anh có sám hối. Đó là một khởi đầu rất tốt. Giuđa thật can đảm. Sự tìm về với chính mình của Giuđa thật tuyệt vời. Nhưng thật đáng tiếc, những bước tiếp theo lại thất bại. Thật tội nghiệp cho Giuđa, anh đã không đến được với Chúa vì anh không hình dung được tình yêu Chúa bao la đến mức có thể tha thứ tội tày trời của anh!
Có người bảo rằng thật tiếc là kết thúc cuộc đời của Giuđa “không có hậu”. Nếu Giuđa tin vững vào Tình Yêu của Chúa, không ngã lòng trông cậy, phần kết luận sẽ khác! Thí dụ như Giuđa không tự tử, Giuđa khóc lóc hối hận một đời như thánh Phêrô. Rồi Giuđa sau này rao giảng về Chúa phục sinh, lời lẽ của Giuđa sẽ mạnh mẽ: “Tôi đã từng bán Chúa! Tôi đã chen vào đám đông và đứng chứng kiến người ta đóng đinh Chúa trên Thập Giá. Trong khoảnh khắc tình cờ từ trên Thập Giá Chúa đã nhìn thấy tôi. Đôi mắt Ngài nhân từ, đượm buồn nhưng rất âu yếm…”. Và cuối cùng, Giuđa đã bị treo cổ vì đã rao giảng về Giêsu đã chết và đã Phục Sinh, chứ không phải tự treo cổ vì tuyệt vọng! Kết thúc được như vậy cuộc đời Giuđa thật đẹp biết bao!
Có thể sự hối hận của Giuđa quá muộn màng. Cách sống của Giuđa quá biệt lập trong “gia đình các môn đệ”. Khi Giuđa biết “tìm về chính mình” và sám hối ăn năn, Giuđa lại cảm thấy lẻ loi, mang nặng mặc cảm tội lỗi với Chúa và với anh em. “Một trong các môn đệ của Chúa Giêsu là Giuđa Ít-ca-ri-ốt, kẻ sẽ nộp Người, liền nói: ‘Sao lại không bán dầu thơm đó lấy ba trăm đồng bạc mà cho người nghèo?’ Y nói thế, không phải vì lo cho người nghèo, nhưng vì y là một tên ăn cắp: y giữ túi tiền và thường lấy cho mình những gì người ta bỏ vào quỹ chung” (Ga.12.4-6). Bước tiếp theo “tìm về gia đình”, hòa nhập vào “cộng đoàn môn đệ” là không thể được. Giuđa không thể nào chịu nổi sự lạc lỏng, cô đơn, có khi là “búa rìu” của “dư luận” ngay trong “gia đình môn đệ”, không còn con đường tìm về bên Chúa được nữa, Giuđa đã chọn con đường tự tử. Giuđa không đủ niềm tin để chỗi dậy.
Hãy thử tưởng tượng đứa con trai hoang đàng trong câu chuyện Tin Mừng hôm nay đã “không dám” về gặp thẳng cha mình, mà về gặp anh mình để “thăm dò” xem cha mình có thể “nhận” mình không, thì người anh sẽ phản ứng ra sao? Dựa vào phần kết câu chuyện, chắc chúng ta cũng có thể suy ra những câu nói của người anh đối với em mình thế nào! Những câu nói có thể đại loại như: - “mầy còn vác mặt mày về đây hả?” – “Mày định về đây chia cái gì nữa đây?” – “ Mày làm tán gia bại sản chưa hài lòng chắc?” – “Ông già thất vọng về mày”… Và đứa con trai hoang đàng sẽ rút lui. Sự tìm về của nó thất bại. Nó sẽ lại bước vào dòng đời gió bụi. Nó sẽ chết ở xó kẹt nào đó, mang theo nỗi lòng đau khổ sám hối ăn năn mà không còn cơ hội nhận ra được người cha đang yêu thương chờ đợi nó.
Có rất nhiều vật cản trên “bước đường tìm về”. Có rất nhiều sương mù làm nhạt nhòa hình ảnh Thiên Chúa là Người Cha Nhân Hậu. Không phải chỉ ngày xưa, thời Pharisêu, Biệt Phái, mà trong cả thời nay, có khi ngay cả trong lòng Giáo Hội.
Chuyến tìm về của đứa con trai hoang đàng trong câu chuyện Tin Mừng hôm nay thành công, vì anh đã can đảm đến với cha mình. Anh trực tiếp thấy được dung nhan hiền từ của cha mình ngoài sức tưởng tượng của anh. Không có cánh tay trừng phạt giáng xuống anh, chỉ có vòng tay êm ái ôm chằm lấy anh. Không có những lời hạch tội quát mắng, chỉ có những lời ra lệnh mở tiệc ăn mừng. Không có những lời lên án, chỉ có những lời bênh vực. Không có bờ môi đay nghiến, chỉ có những nụ hôn. Không có chỗ ở để nhận thêm một đầy tớ, chỉ có chỗ ở dành cho đứa con bao năm chờ đợi trở về. Anh trực tiếp cảm nghiệm được lòng yêu thương của cha anh trổi vượt hơn vạn lần anh suy đoán. Anh nhận được ân huệ của cha anh lớn lao vạn lần hơn những gì anh van xin.
Sự vui mừng của cha anh cho anh lòng tự trọng. Cho anh vững bước tiến lên để xứng đáng với tình cha. Cha anh tin tưởng anh làm lại cuộc đời mới. “Nhưng chúng ta phải ăn mừng, phải vui vẻ, vì em con đây đã chết mà nay lại sống, đã mất mà nay lại tìm thấy." (Lc.15,32).
Chỉ có Chúa Giêsu mới trả lời được vì sao “các người thu thuế và các người tội lỗi đều lui tới với Người”, và vì sao Người lại “đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với họ”. Các người thu thuế và các người tội lỗi đều lui tới với Đức Giêsu để nghe Người giảng. Những người Pharisêu và các kinh sư bèn xầm xì với nhau: "Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng." (Lc.15,1-32).
Chỉ có Chúa Giêsu mới diễn tả đúng mức thế nào là Thiên Chúa là Cha Nhân Từ. và thế nào là Tình Yêu Thiên Chúa dành cho nhân loại khi vòng tay của Người dang rộng trên Thập Giá. “Ông Philípphê nói: ‘Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện’. Đức Giêsu trả lời: ‘Thấy ở với anh em bấy lâu, thế mà anh Philíphê, anh chưa biết Thầy ư? Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha. Sao anh lại nói: ‘Xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha’?” (Ga.14,8-9).
Lạy Chúa, Xin đừng làm rạng rỡ chúng con, vâng, lạy Chúa, xin đừng! nhưng xin cho danh Ngài rạng rỡ, bởi vì Ngài thành tín yêu thương. (Tv.115,1). Amen.



19. Xin chung vui với tôi

(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn An Khang)
Hai dụ ngôn: con chiên lạc và đồng bạc bị mất giống nhau về hình thức, lời văn cũng như nội dung tư tưởng và giáo huấn, đến nỗi có thể gọi chúng là hai dụ ngôn sinh đôi. Thực vậy, hai dụ ngôn đó, Đức Giêsu lần lượt đưa ra một người đàn ông và một người đàn bà, một mục tử mất chiên và một nội trợ mất tiền. Có khác về con số nhưng cùng một giáo huấn:
Dụ ngôn chiên lạc
Một người chăn chiên có một trăm con, lạc mất một, người đó để chín mươi chín con nơi hoang vắng để đi tìm con lạc, việc đi tìm không phải dễ, giữa cảnh bao la rừng núi. Vả lại, một sánh với chín mươi chín có là gì. Thế mà với đôi chân trần đạp trên đá sỏ, ông đã chạy lang thang khắp nơi để tìm.
Tại sao? Vì yêu thương. Đối với tình yêu, số học không còn như cũ. Lúc đó có thể đặt dấu bằng ở giữa số một và số chín mươi chín (1=99). Như thế, bất cứ giá nào, ông cũng không để mất, dù một con. Một con được ông coi giá trị như chín mươi chín. Giống như đại tướng yêu binh lính, bất cứ giá nào cũng không để chết đi một người, dù là lính quèn. Một người lính được coi như cả một đoàn quân, chết một có thể chết cả đoàn.
Bởi thế, khi tìm thấy con chiên lạc, ông đã vui mừng chạy lại ôm lấy, vác trên đôi vai, cho dù con chiên có nặng, ông rất mệt, đã chạy nhiều giờ trên những ngọn đồi sỏi đá, dưới ánh nắng chói chang của mặt trời. Nhưng theo ông, một con chiên xa đàn, lang thang nhiều giờ, nó kiệt sức, cần ông vác. Khi về đến nhà, niềm vui như vỡ bờ, ông đã kêu bạn bè hàng xóm đến chia vui, niềm vui của ông tỏa rộng và lây sang người khác.
Đồng bạc bị đánh mất.
Đây là cảnh xảy ra bên trong nhà người dân xứ Palestin: Một căn phòng bằng đất nện, với vài chiếc chiếu, hay ít đồ đạc lỉnh kỉnh, ánh sáng không bao nhiêu và chỉ lọt qua cửa chính, giữa ban ngày cũng cần một ngọn đèn nhỏ để soi các góc xó. Một phụ nữ có mười đồng bạc, bị mất một, bà đã gia công tìm kiếm, soi đèn quét nhà, moi móc khắp nơi, tìm cho kỳ được, tìm được, lòng tràn ngập vui mừng, đồng tiền thế nào cũng được cất vào một nơi chắc chắn, bà cũng mời bạn bè hàng xóm đến chia vui.
Tại sao? Đối với bà một đồng trị giá bằng một ngày công, nhưng nó quá lớn. Mất đi một đồng, bà mất đi một ngày sống. Dụ ngôn con chiên lạc, một so với chín mươi chín là quá nhỏ. Ở đây một so với chín quá quan trọng. Vì thế người đàn bà này có lý vui mừng.
Giáo huấn của hai dụ ngôn
Qua hai dụ ngôn, Đức Giêsu dạy: Tội nhân muốn trở lại cần có sự hối cải, nhưng sự hối cải của họ không phải là điều kiện tiên quyết để được Thiên Chúa ân cần đón tiếp, như những người Pharisiêu và các Kinh sư chủ trương. Trái lại, sự hoán cải này trước tiên được Thiên Chúa thực hiện.
Các triết gia đã biến Thiên Chúa thành một hữu thể bất động, không thay đổi. Đức Giêsu cho chúng ta thấy một Thiên Chúa chuyển động, đang mở chiến dịch tìm kiếm cái Người đã mất. Đức Giêsu đặt trước mặt chúng ta: Người mục tử vùng đồi núi Galilê, chân trần trên đá sỏi đang chạy hết tốc độ, để tìm con chiên lạc; người đàn bà đang soi đèn quét tước tìm đồng bạc đã mất. Đức Giêsu bảo: Thiên Chúa là như thế. Không có người nào bị Thiên Chúa bỏ rơi, không có người nào bị mất hẳn, bởi vì có Đấng yêu thương không ngừng đi tìm người ấy. Thiên Chúa không chịu ngồi chờ kẻ tội lỗi trở về, Người ra đi tìm họ.
Đối với người chăn chiên, một con bằng chín mươi chín, với người đàn bà, một đồng bằng chín. Đối với Thiên Chúa, mỗi người đàn ông, mỗi người đàn bà, có một giá trị độc nhất vô giá. Một con chiên lạc mất đã chiếm hết ý nghĩ của người mục tử, một đồng bạc bị mất đã chiếm hết ý nghĩ của người đàn bà. Xem ra chỉ con chiên lạc, đồng bạc mất mới là đáng kể. Chúng ta có một Thiên Chúa như thế. Một Thiên Chúa tiếp tục nghĩ đến những ai đã bỏ rơi Ngài, một Thiên Chúa đau khổ vì một linh hồn hư mất, bởi mỗi người đều quý giá, đều chiếm chỗ quan trọng trong con tim Ngài.
Tuy giáo lý dạy, con người không thêm gì cho vinh quang và hạnh phúc nội tại của Thiên Chúa. Nhưng theo những dụ ngôn này, mỗi người chiếm địa vị thiết yếu trong tình yêu Ngài đến chừng nào. Nếu không có bệnh nhân, đâu có thầy thuốc. Nếu không có tội nhân, đâu có tình thương cứu độ. Nói thế, không có nghĩa đề cao tội lỗi. Đức Giêsu không bao giờ nói, tội lỗi không quan trọng. Trái lại, sự lên án của Người đối với tội lỗi thì mãnh liệt và không chút mơ hồ: "Nếu tay ngươi hoặc chân ngươi làm dịp tội cho ngươi, hãy chặt nó đi..." Như mọi ngôn sứ, Đức Giêsu đòi hỏi sự hoán cải và sám hối (Mc 1,15). Nếu các dụ ngôn này là một lời rao giảng về tình yêu Thiên Chúa, chúng cũng là một lời rao giảng về sự hoán cải cần thiết của kẻ tội lỗi.
Câu chuyện minh họa
Ngày 13-5-1981, giữa lúc hàng chục ngàn ngời chen chúc nhau tại quảng trường thánh Phêrô để đón đức giáo hoàng Gioan Phaolô II, thì một tiếng nổ chát vang lên làm mọi ngời đứng tim. đức thánh cha đã ngã gục trên chiếc xe mui trần, máu vọt lên tung tóe. Lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại, một vị giáo hoàng bị mu sát. Ali Agaca, hung thủ tội ác, bị bắt ngay tại chỗ. Người thanh niên Thổ Nhĩ Kỳ này bị giam tại nhà tù Rebiblia ở Rôma, cả thế giới kinh hoàng về tội ác tày trời này. Năm 1984, thế giới còn kinh ngạc hơn nữa. Đấng bị thảm sát đã đến nói chuyện với kẻ sát hại mình. Không ai biết hai bên nói gì. Nhưng người ta rất cảm động, thấy đức thánh cha bắt tay Ali Agaca, với nụ cười rất trìu mến. Phải chăng đây là hình ảnh sống động nhất về tình yêu Đức Giêsu niềm nở đón tiếp các tội nhân. Đức thánh cha, vị đại diện Đức Giêsu, bị bắn gục, vẫn tỏ lòng rất nhân từ đối với kẻ tội ác. Ali Agaca đã nhập vào đoàn hành hương của đoàn chiên lành đang vui mừng chào đón chủ chiên đến thương yêu, chăm sóc, nuôi dưỡng tinh thần bằng lời hằng sống. Ali Agaca như con chiên ghẻ, như đứa con phung phá xô đến giết chủ chăn, giết cha mình. Nhưng người cha hiền, người mục tử nhân hậu đã sẵn sàng liều chết đến cứu đứa con hư, sẵn sàng tha thứ hòa giải và vui mừng ôm lấy đứa con trở về.



20. Người cha

Suy Niệm
Khi chiêm ngắm người cha nhân hậu, ta khám phá ra khuôn mặt một Thiên Chúa yêu thương.
Thiên Chúa yêu thương là Thiên Chúa khiêm tốn.
Như người cha chấp nhận chia gia sản cho con, chấp nhận để con bỏ nhà ra đi, Thiên Chúa cũng tôn trọng tự do của con người.
Đấng Toàn Năng đã tự giới hạn quyền năng của mình để chúng ta có thể hiện hữu một cách tự do. Ngài như thể thu mình lại để nhường chỗ cho thụ tạo.
Không phải chỉ con người mới cần cởi giày trước Thiên Chúa. Chính Thiên Chúa cũng cởi giày trước mầu nhiệm con người, vì lòng con người cũng là phần đất thiêng thánh.
Thiên Chúa yêu thương là Thiên Chúa biết chờ đợi.
Thiên Chúa vẫn nuôi hy vọng khi con người lìa xa Ngài.
Người Cha vẫn luôn ngóng con từ bên cửa sổ. Lòng Cha luôn hướng về con. Bởi thế ngay khi con còn ở đàng xa, Cha đã thấy. Cha vẫn nhận ra con, dù con xanh xao tiều tụy.
Thiên Chúa không thất vọng về con người. Ngài không bắt ép người ta hoán cải, Ngài chỉ chờ. Ngài chờ vì Ngài tôn trọng tự do của họ.
Thiên Chúa yêu thương là Thiên Chúa biết tha thứ.
Ngài là Cha yêu con bằng cung lòng người mẹ.
Rõ ràng con thứ thật đáng trách, vì bất hiếu. Nhưng tình thương của Cha còn lớn hơn tội của anh.
Cha thương anh vì anh đã lỗi phạm.
Tội lỗi tự nó đã đem lại hình phạt rồi.
Người cha có vẻ không cần nghe con mình xin lỗi. Sự trở về của anh đã là lời thống hối ăn năn. “Con ta đã chết, nay đang sống; đã mất, nay lại tìm thấy.”
Thiên Chúa không nhớ mãi chuyện đã qua. Điều quan trọng là hiện tại: con đang sống trong vòng tay Cha.
Thiên Chúa yêu thương là Thiên Chúa luôn chạy ra, như người cha chạy ra để đón đứa con thứ, như người cha đi ra để năn nỉ đứa con cả.
Thiên Chúa dường như không yên trong hạnh phúc của mình, nếu có một người con còn đứng ngoài.
Người cha trong dụ ngôn chẳng sợ mất uy nghi, đạo mạo. Ông chạy đến với con, phá vỡ khoảng cách của quyền uy. Quyền uy của người cha là quyền uy của tình yêu, mà tình yêu thi có can đảm vượt qua mọi khoảng cách.
Thiên Chúa yêu thương là Thiên Chúa biết nhảy mừng.
Thiên Chúa đãi tiệc vì một người ăn năn sám hối.
Nhưng Thiên Chúa nhảy mừng cũng là Thiên Chúa từng đau khổ. Ngài đau nỗi đau của con khi cố tình xa Cha.
Thiên Chúa biết buồn vui với con người và vì con người.
Hãy trở lại và ở lại trong nhà Cha, vì Cha muốn trao cho bạn tất cả những gì Ngài có. Tiệc đã sẵn, vào với Cha cũng là về với anh em.
Gợi Ý Chia Sẻ
Qua bài Tin Mừng này, bạn hãy cho thấy khuôn mặt khiêm tốn của người cha. Bạn thấy Thiên Chúa có khi nào khiêm tốn với bạn không?
Đâu là những nét giống nhau giữa người con thứ và người con cả? Người con cả cần hoán cải về tội gì?
Cầu Nguyện
Lạy Cha, người con thứ đã muốn tự định đoạt lấy đời mình.
Chúng con vẫn rơi vào tội của người con thứ, khi coi Cha như người cản trở hạnh phúc của chúng con. Chúng con thèm được tự do bay nhảy ngoài vòng tay Cha, nhưng tự do ấy lại biến chúng con thành nô lệ.
Hạnh phúc do thế gian ban tặng thì bọt bèo. Như người con thứ, chúng con bỗng thấy mình tay trắng, rơi xuống chỗ cùng cực và bị cái chết đe dọa.
Lạy Cha đầy lòng bao dung, xin kéo chúng con trở về với Cha mỗi ngày, giúp chúng con điều chỉnh những đam mê lệch lạc. Xin nâng chúng con đứng lên trong niềm vui vì tin rằng tình Cha lớn hơn tội chúng con vạn bội.
Ước gì những vấp ngã khiến chúng con lớn lên, thấy mình mong manh, thấy Cha rộng lượng.
Ước gì sau mỗi lần được Cha tha thứ, chúng con lại thấy mình hiền hòa hơn với tha nhân.



21. Tuyệt đỉnh của yêu thương – Thiên Phúc

(Trích dẫn từ ‘Như Thầy Đã Yêu’)
Một lần kia, các tu sĩ trong miền dẫn tới Đức Giám Mục Anmôna một thiếu nữ mang bầu xin ngài ra hình phạt. Nhưng Đức cha đã ban phép lành cho thai nhi, rồi ra lệnh ban cho cô sáu tấm vải bằng lanh mịn. Những kẻ tố cáo lại nói:
- Tại sao Đức Cha làm như thế? Xin ra cho nó một hình phạt.
Ngài ôn tồn bảo:
- Anh em thử nghĩ xem, cô ta đã đau khổ muốn chết được; tôi phải làm gì hơn nữa?
Nói thế rồi ngài cho cô ta về. Từ đấy không tu sĩ nào còn dám tố cáo ai nữa.
Cũng như các tu sĩ trong câu chuyện trên đây, nhóm Pharisêu và các kinh sư thường lên án những người tội lỗi, nên khi Đức Giêsu tiếp đón những hạng người này thì họ lẩm bẩm kêu trách Người. Thấy vậy, Đức Giêsu đã trả lời bằng ba dụ ngôn: Con Chiên Lạc Mất, Đồng Bạc Đánh Rơi, và Đức Con Hoang Đàng, để bày tỏ lòng nhân hậu và niềm vui của Thiên Chúa dành cho người tội lỗi hối cải ăn năn.
Còn gì vui bằng khi cái đã mất lại tìm thấy được; còn gì sướng hơn khi cái tìm thấy lại là vật quí. Tìm kiếm chính là mục đích của Con Thiên Chúa khi xuống trần gian: “Con Người đến tìm kiếm những gì đã mất”. Con người là đối tượng duy nhất mà Thiên Chúa mướn kiếm tìm. Con người thật vô cùng quí giá trước mặt Người. Thiên Chúa lao đao vất vả đi tìm kiếm con người. Người không muốn để mất một ai trên trái đất này.
Thiên Chúa yêu thương người tội lỗi, như người mục tử tốt lành sẵn sàng để chín mươi chín con chiên lạc, đi tìm cho bằng được con chiên lạc mất. Khi tìm thấy rồi mừng rỡ khoác chiên trên vai.
Thiên Chúa yêu thương kẻ lầm lỡ, như người đàn bà cần mẫn, đốt đèn kiếm cho được đồng bạc đánh rơi. Khi thấy rồi tíu tít chia vui với mọi người.
Thiên Chúa yêu thương tội nhân, như người cha già nhân hậu, ngày ngày ra ngõ tìm con. Khi thấy con rồi ông vui mừng chạy lại ôm choàng lấy nó.
Thật vậy, “lỗi lầm là của con người và tha thứ là của Thiên Chúa” (A.Pope). Thiên Chúa yêu thương con người và yêu thương đến cùng. Tuyệt đỉnh của yêu thương chính là tha thứ, vì thế dù phải chịu hấp hối lâu dài và đớn đau khôn tả, phải chịu kinh miệt và chối bỏ, nhưng Người vẫn cầu nguyện tha thiết: “Lạy Cha, xin tha cho họ”. Đây chính là lời rõ ràng và trang trọng nhất nói lên tâm hồn cao thượng và tấm lòng nhân hậu của Thiên Chúa qua Đức Giêsu.
Thiên Chúa luôn sẵn sàng tha thứ cho chúng ta, những con người lầm lỗi; nhưng Người chỉ có thể thứ tha khi chúng ta thật lòng sám hối. Người trộm lành suốt một đời lầm lỡ, thế mà chỉ trong giây phút cuối cùng, tỏ lòng sám hối ăn năn đủ trở nên một vị thánh. Ông trở nên thánh không phải vì ông là người tội lỗi, nhưng vì ông nhận biết mình là người tội lỗi. Đứa con hoang đàng được người cha tha thứ cũng vì anh đã biết nhận ra lỗi lầm, trở về sám hối ăn năn. Người cha không chỉ tha thứ mà còn phục hồi chức vị làm con. Một chiếc nhẫn mới, một đôi giầy mới, một bữa tiệc linh đình, vinh dự còn lớn hơn cả trước khi ra đi.
Nếu Thiên Chúa đã tỏ lòng nhân hậu và tha thứ cho chúng ta, thì Người muốn chúng ta cũng hãy tha thứ cho nhau như người cha nhân hậu xin ông anh cả tha thứ cho đứa em lầm lỗi.
Người ta chỉ có thể dễ dàng tha thứ cho kẻ khác khi ý thức thân phận mỏng dòn yếu đuối của mình. Có nhận ra mình hay lầm lỗi, con người mới dễ cảm thông tha thứ cho những lỗi lầm của anh em. Đừng bắt người có tội phải bị trừng phạt mới hả dạ, đừng đòi hỏi cho được sự công bằng mới thôi, vì Martin Luther King có viết: “Nếu cứ áp dụng luật “mắt đền mắt” thì mọi người đều trở nên mù loà”.
Lạy Chúa, nếu Chúa không tha thứ cho các tội nhân thì thiên đàng sẽ trống rỗng, và thế giới này chẳng có thánh nhân.
Xin cho chúng con mỗi lần được Chúa thứ tha lại thấy mình nên giống Chúa hơn, vì đã biết tha thứ cho anh em. Amen.



22. Cây táo và miếng vải trắng

(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Richard Pidell có viết một câu chuyện ngắn nhan đề: “Đứa con trai của một ai đó” (Somebody’s son). Câu chuyện mở đầu với một cậu bé tên là David bỏ nhà ra đi sống bụi đời. Vì khổ quá, không chịu nổi, cậu bèn viết một lá thư gửi về nhà cho mẹ bày tỏ niềm hy vọng được ông bố cổ hủ tha thứ cho cậu và chấp nhận cậu làm con trở lại. Lá thư như sau: “Mẹ kính mến, trong một vài ngày nữa con sẽ đi ngang qua nhà. Nếu bố bằng lòng nhận con trở lại, thì mẹ yêu cầu bố cột một miếng vải trắng lên cây táo hồng ở miếng đất cạnh nhà chúng ta”. Vài ngày sau, David lên tàu hỏa đi về. Trong lúc tàu hỏa lao nhanh đến nhà thì hai hình ảnh cứ liên tục hiện ra trong trí cậu ta: khi thì trên cây táo có cột một miếng vải trắng, khi thì trên cây chẳng cột một miếng vải trắng nào. Tàu hỏa càng tiến gần nhà, trái tim David càng đập nhanh hơn. Không bao lâu nữa cây táo sẽ hiện ra ở khúc quẹo, nhưng David không dám tự mình nhìn tới vì sợ nhỡ không có miếng vải trắng cột ở đó. Thế là cậu quay sang người đàn ông bên cạnh ấp úng nói: “Thưa ông, ông có thể làm ơn giúp cháu một việc không? Vào khúc quẹo bên tay mặt, ông sẽ thấy một cây táo. Ông làm ơn cho cháu biết trên cành cây táo đó có một miếng vải trắng không nhé”.
Khi tàu hỏa rầm rập lướt qua cây táo, David nhìn chăm chăm về phía trước. Đoạn run run giọng, cậu hỏi người đàn ông: “Thưa ông, có một miếng vải trắng nào treo ở cành cây táo đó không?” Ông ta sửng sốt trả lời: “Ồ, nầy cậu bé, cành cây nào ta cũng thấy có một miếng vải trắng cả!”
Anh chị em thân mến,
Thiên Chúa cũng đối xử với chúng ta như thế. Phiêu lưu trong tội lỗi, chúng ta chỉ cảm thấy chán chường thất vọng. Nhưng Thiên Chúa không bao giờ thất vọng về chúng ta. Ngài chờ đợi chúng ta từng giây từng phút. Tình yêu của Ngài vượt lên trên mọi tính toán, đo lường của chúng ta. Người con hoang đàng trong Tin Mừng chỉ xin được đối xử như một người làm công trong nhà, nhưng người cha đã phục hồi anh trong tước vị làm con. Ông đã xỏ nhẫn cho anh, mặc áo mới cho anh và sai mở tiệc ăn mừng.
Phải, Thiên Chúa yêu thương và tha thứ hơn cả sự chờ mong của chúng ta. Đối với Chúa, mỗi người chúng ta đều đáng kể, không thể có gì khác thay thế được. Mỗi con người là như một con chiên trong đàn, phải được chăm sóc như nhau, không được để thất lạc. Chính mươi chín con chiên yên lành không làm nguôi lòng thương đối với một con chiên lạc. Thiên Chúa cũng cuống quýt như một bà già nghèo đánh mất một đồng bạc quý. Phày hì hục moi móc mọi ngóc ngách trong nhà để tìm cho bằng được. Như người cha già, con mình đã hư quá thể mà trong lòng vẫn lo lắng không nguôi, vẫn không thôi chờ đợi đến mỏi mòn, cho đến lúc ôm lại đứa con vào lòng và rạo rực vui sướng không gì kìm hãm được và cả Thiên đàng cũng vui lây, vui sướng vì một người tội lỗi ăn năn trở lại hơn cả vui sướng vì chính mươi chín người lành thánh không cần sám hối ăn năn.
Thiên Chúa rất khác chúng ta. Đối với Ngài, mỗi con người là như một khúc ruột của mình. Ngài thương mỗi người, để ý chăm sóc mỗi người như chỉ có một không hai trên đời. Nếu chúng ta lỡ lạc đường, Ngài tạo mọi điều kiện để ta có thể trở về. Và điều kiện duy nhất Ngài đòi hỏi là tin vào tình thương tha thứ của Cha để mà dám trở về. Sự trở về của con chiên lạc đem lại niềm vui cho người mục tử nhiều hơn niềm vui có chín mươi chính con ở lại trong đàn.
Thưa anh chị em,
Đến đây, đáng lẽ dụ ngôn về người cha nhân hậu đã có thể kết thúc rất đẹp với nỗi vui mừng của người cha. Nhưng Chúa Giêsu lại nối thêm cái đoạn cuối về người con cả. Chúng ta cũng nên dừng lại một chút với thái độ của người con cả để hiểu hết ý Chúa muốn dạy chúng ta qua dụ ngôn nầy.
Người con cả là một người con chí thú làm ăn ở nhà với cha, nhưng xem ra quan hệ với cha không được thân mật, thẳng thắn. Tuy ở nhà với cha nhưng lòng vẫn xa cách. Và kết quả là người con cả đã không hiểu và không chấp nhận nổi cách xử sự của cha đối với đứa em của anh vừa trở về. Do đó, thay vì nhập tiệc chia vui với cha và với em, người con cả đã dừng lại ở cửa, tự mình đứng ở thể tách biệt với gia đình sum họp.
Người con cả ở đây tiêu biểu cho nhóm người Biệt phái Pharisêu trong dân Do Thái. Họ tưởng rằng họ trung thành với Thiên Chúa và đáng được Chúa thương, có quyền hưởng gia tài, rồi khinh bỉ các dân ngoại và những hạng người mà họ cho là tội lỗi. Thì ra, Tin Mừng hôm nay là một Tin Mừng đối với người tội lỗi sám hối trở về, nhưng đồng thời lại cũng là một lời cảnh cáo đối với những người “ở trong nhà”, những người tưởng mình đạo đức, tốt lành. Người con cả, bao nhiêu nămm ai cũng tưởng là ngoan ngoãn tốt lành lắm. Đến ngày em của anh hồi sinh và trước niềm vui vô bở của người cha, anh đâm ra hậm hực, bực tức… thì ra bề ngoài anh ngoan, nhưng nội tâm của anh thì cay nghiệt, tù túng, đầy những ghen tị, sát phạt. Cả anh nữa, anh cũng chẳng hiểu thế nào là lòng thương xót. Cuối cùng anh không muốn bước vào lòng thương xót đó. Anh chưa gặp được Thiên Chúa. Anh vẫn ở ngoài ơn cứu độ.
Dụ ngôn cho thấy, người cần trở lại hơn hết chính lạ người con cả, người con vẫn ở nhà với cha nhưng lòng thì không ở cùng với cha.
Anh chị em thân mến,
Hãy tin vào tình thương yêu vô bờ bến của Thiên Chúa mà trở về với Ngài, nếu chúng ta lỡ lạc đàng, sa ngã. Và hãy khoan dung tha thứ cho những người anh chị em, nếu chẳng may có ai trượt chân vấp ngã. Phải tìm đến với người anh chị em đó để giúp họ trở lại với Chúa là Cha yêu thương. Đừng có thái độ lên án, loại trừ như thái độ của người con cả trong dụ ngôn. Trái lại, hãy vui mừng vì đã giúp được một người anh em gặp lại niềm vui cứu độ. Hãy coi thái độ khoan dung, quảng đại yêu thương tha thứ của người cha trong dụ ngôn là hình ảnh của lòng nhân từ thương xót của Thiên Chúa, để chúng ta biết đối xử với những người anh em như Chúa đã đối xử với chính chúng ta.
“Lạy Chúa, xin tỏ lòng thương xót con, và lấp đầy trái tim con tình yêu tha thứ của Chúa.
Con là đứa con thứ đã bỏ nhà ra đi rồi lại trở về. Con cảm ơn Chúa đã đón nhận lại con.
Và con cũng là người con cả đã từng khư khư không chịu tha thứ cho anh chị em con như Ngài đã tha thứ cho con. Vậy xin Chúa hãy chạm vào trái tim con với tình yêu tha thứ của Ngài.
Để rồi sau khi an nghỉ trong cõi chết, con sẽ thức dậy trước thánh nhan Ngài mãi mãi cùng với anh chị em từng được con tha thứ lỗi lầm”. Amen.



23. Thương xót – Veritas

(Trích dẫn từ ‘Hãy Ra Khơi’)
Có câu chuyện kể rằng, một ngày nọ Abraham mời một lữ hành vào lều của ông dùng một bữa cơm, sau khi đọc kinh chúc tụng trước khi ăn, người khách này bắt đầu chửi rủa Thiên Chúa, ông nói rằng, ông không thể chịu nổi khi nghe gọi tên Thiên Chúa. Phẫn nộ trước thái độ đó Abraham đuổi ngay kẻ phạm thượng ra khỏi lều. Tối đến, khi Abraham cầu nguyện Chúa nói với ông: “Abraham, người kia đã chửi rủa Ta từ 50 năm nay và Ta vẫn cứ ban cho ông ta lương thực hằng ngày. Còn ngươi, ngươi không thể nào cho ông ta chỉ một bữa cơm sao?”.
Tin Mừng theo thánh Luca của Chúa nhật hôm nay vốn được mệnh danh là Tin Mừng về “Lòng thương xót của Thiên Chúa”. Và quả thực như vậy, bài Tin Mừng khá dài nhưng thật cảm động, Chúa Giêsu không chỉ đưa ra một mà tới ba dụ ngôn để phá đổ thái độ hống hách đạo đức giả của những người thuộc phái Pharisêu và các kinh sư. Nhưng quan trọng hơn hết là Ngài bày tỏ lòng nhân hậu đầy lòng thương xót của Thiên Chúa đối với tội nhân.
Dụ ngôn đầu tiên, Thiên Chúa như người mục tử nhân lành quyết tâm đi tìm cho bằng được con chiên bị lạc, dù chỉ là một trong số một trăm. Khi tìm được rồi, ông vui mừng vác chiên trên vai, về đến nhà ông mời bà con hàng xóm đến chung vui.
Dụ ngôn thứ hai, Thiên Chúa như người phụ nữ mất một đồng bạc, có lẽ giá trị của nó chỉ bằng tiền lương của một ngày công lúc bấy giờ. Nó không lớn đối với nhiều người trong chúng ta, nhưng nó quan trọng đối với người phụ nữ. Bà đã thắp đèn quét nhà moi móc tìm kiếm cho bằng được, khi tìm được rồi bà mời bạn bè hàng xóm đến chung vui.
Trong cả hai dụ ngôn này, thái độ vui mừng của người mục tử và của người phụ nữ có lẽ trong thời buổi thị trường kinh tế chúng ta thấy thật phi lý, nhưng nó lại là lôgích của tình yêu trong cuộc sống và là bản chất yêu thương của Thiên Chúa. Rõ ràng giá trị của con chiên bị lạc hay đồng bạc bị mất không đặt trong sự so sánh cái này với cái khác, cũng không đặt trong tỉ lệ phần trăm hay phần mười, nhưng giá trị của chính nó trong tương quan của người tìm kiếm, trong lòng thương xót và trong ơn cứu độ của Thiên Chúa. Đó là sự vui mừng của Nước Trời khi có một tội nhân ăn năn sám hối.
Điều này càng nổi bật hơn trong dụ ngôn thứ ba người cha nhân hậu. Người cha không những đã bày tỏ lòng thương yêu đối với người con thứ, đứa con đã đòi chia gia tài, rồi sau khi ra đi đã ăn tiêu hoang phí, khi trở về lúc nó còn đàng xa người cha đã nhận ra và lập tức chạy đến ôm chầm lấy, hôn lấy hôn để. Ông còn cho mở tiệc ăn mừng, vì điều quan trọng đối với ông là đứa con đã trở về. Đứa con của ông đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy. Người cha còn bày tỏ lòng nhân hậu với người con cả, đứa con hằng ngày vẫn ở bên cha mà hình như tâm hồn của nó đã đi hoang từ lâu. Nó kể công, nó phân bì, nó ghen tị rồi tức tối giận dỗi, nó muốn cắt đứt tình nghĩa huynh đệ không chấp nhận cho đứa em trở về và nó cũng đang cắt đứt luôn tình nghĩa phụ tử không chịu vào nhà, vì trong lòng của nó chưa bao giờ có tình thương. Sự chuyên cần trong công việc hằng ngày của nó xem ra vì thói quen hoặc vì bổn phận hơn là vì một mối tình. Nhưng người cha vẫn nhân hậu đầy yêu thương năn nỉ: “Này con, hằng ngày con vẫn ở với cha, tất cả những gì của cha đều là của con”.
Thiên Chúa, Ngài đã kiếm tìm chúng ta trước khi chúng ta tìm kiếm Ngài. Ngài chờ đón chúng ta trước khi chúng ta trở về, và Ngài đã yêu thương chúng ta khi chúng ta vẫn còn là tội nhân. Trong lòng thương xót của Thiên Chúa, mỗi người chúng ta đã trở nên viên ngọc quí mà Ngài là thương gia bán tất cả gia tài đang có để chuộc lấy viên ngọc quí là chúng ta. Ngài vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân phận nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người thế. Người còn tự hạ sống vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá.
Thiên Chúa vẫn luôn luôn là Thiên Chúa nhân hậu và hay thương xót. Ngài không nỡ bẻ gãy cây lau bị dập, không đánh dập tắt tim đèn còn khói. Ngài vẫn kiên trì, vẫn chờ đợi chúng ta những người con yếu đuối, tội lỗi ăn năn sám hối trở về với Ngài. Thiên Chúa là mục tử nhân lành như thế đó; Thiên Chúa là người cha nhân hậu như thế đó, và Thiên Chúa đã tìm kiếm chúng ta như thế đó. Xin cho mỗi người chúng ta biết ăn năn sám hối để đón nhận lòng thương xót của Thiên Chúa.



24. Quan trọng - McCarthy

Người ta có thể nói: Tại sao người mục tử lại quan trọng hóa như thế với một con chiên đi lạc trong lúc người ấy vẫn còn 99 con khác? Và tại sao người phụ nữ lại quan trọng hóa như thế với một đồng tiền đánh mất? Bất cứ cái gì mà chúng ta đánh mất đều có một giá trị thái quá. Ví dụ như bạn đánh mất một cái chìa khóa. Ngay khi bạn làm mất, cái chìa khóa ấy trở nên quan trọng hơn tổng số mọi vật mà chúng ta vẫn có. Không bao giờ chúng ta biết giá trị của một vật chúng ta có cho đến khi chúng ta mất nó.
Một lần kia, có một thanh niên mong ước mình sẽ trở thành một nhà nhiếp ảnh. Mỗi năm, anh đem một gói các bức ảnh đẹp nhất của mình đến nhà một nhiếp ảnh gia lão thành và danh tiếng để xin ông này chỉ dẫn và đánh giá. Nhiếp ảnh gia lão thành nghiên cứu các bức ảnh và chia ra làm hai gói nhỏ, một gói gồm các bức ảnh đẹp và một gói gồm các bức ảnh xấu, chưa đạt. Năm nào ông cũng nhận thấy rằng người thanh niên luôn đem đến một bức ảnh chụp phong cảnh và lần nào cũng bị xếp vào các bức ảnh xấu bị loại. Vì thế, ông mới quay lại người thanh niên và nói: “Rõ ràng là cậu đánh giá cao bức ảnh này. Tại sao cậu lại thích nó như thế?”
Người thanh niên đáp: “Bởi vì cháu phải leo lên núi để chụp nó”.
Một vật trở nên quí giá đối với chúng ta bởi vì chúng ta mất nó. Nhưng nó cũng có thể trở nên quí giá vì công sức mà chúng ta đã bỏ ra cho nó. Những hy sinh mà chúng ta đã thực hiện có được hoặc giữ được nó làm tăng thêm giá trị của nó trong mắt chúng ta.
Có một câu chuyện tuyệt vời kể lại rằng một ngày nọ Đức Giêsu hiện ra với một người mục tử đang gặp chuyện đau buồn. “Tại sao con buồn bã thế?” Người hỏi “Bởi vì con đã để mất một trong các con chiên của con”, người mục tử đáp “và dù con đã tìm kiếm khắp nơi, con đã không tìm thấy nó. Có lẽ chó sói đã xé xác nó”. Nghe đến đây Đức Giêsu nói: “Con hãy chờ ở đây. Chính Thầy sẽ đi tìm nó”.
Nói xong, Người biến mất vào trong các đồi. Ít giờ sau, Người trở lại với con chiên lạc. Đặt con chiên dưới chân người mục tử, Người nói: “Kể từ ngày hôm nay, con phải yêu thương con chiên này hơn những con chiên khác trong bầy chiên của con, vì nó đã mất mà nay đã tìm lại được”.
Trong các câu chuyện con chiên lạc và đồng tiền đánh mất Đức Giêsu nhấn mạnh một điều, đó là: Đối với Thiên Chúa, mỗi người đều quan trọng và quí giá. Nhất là khi người ấy đã hư mất. Thiên Chúa sẽ yêu thương người ấy nhiều hơn chứ không ít đi.
Những người Pharisêu tự coi mình là những mẫu mực về đạo đức nên không liên can gì đến những người tội lỗi. Họ cho rằng Thiên Chúa cũng không quan tâm đến những người tội lỗi. Tín điều chính yếu trong tôn giáo của họ là: “Thiên Chúa yêu thương người đạo đức và ghét bỏ kẻ tội lỗi”. Nhưng Đức Giêsu cho họ thấy có một loại Thiên Chúa hoàn toàn khác hẳn.
Đức Giêsu nhân hậu và yêu thương khi Người tiếp cận với những người tội lỗi. Người biết rằng sự loại trừ và phán xét không bao giờ giúp cho một người thay đổi. Vì thế Người dùng sự hiện diện của Người như một cách để người ta cảm thấy được chấp nhận và yêu thương và trong bầu không khí ấy họ có thể đáp lại và thay đổi.
Dù từ một quan điểm nhân bản, sự tiếp cận của Người cũng mang nhiều ý nghĩa. Nếu một đứa bé bị lạnh và đói lả, nó không cần một bài giảng thuyết; nó cần hơi ấm và lương thực. Jean Vanier cũng nói rất hay: “Con người ở trong cảnh khốn cùng không cần một cái nhìn xét đoán và chỉ trích, nhưng cần một sự hiện diện đầy an ủi đem lại bình an, hy vọng và sự sống”.
“Khi một người cha than khóc đứa con của mình đã đi vào những con đường xấu xa, ông sẽ làm gì? Ông sẽ yêu thương nó nhiều hơn bao giờ hết” (Beal Shem Tov).



25. Tấm lòng người cha

Dụ ngôn về đứa con hoang đàng, về chàng trai phung phá, hay nói đúng hơn, câu chuyện về tấm lòng của một người cha là một hình ảnh cảm động thật nói lên tình thương vô biên của Thiên Chúa. Ngài luôn chờ đời và sẵn sàng tha thứ cho chúng ta, ngay cả những tội lỗi xấu xa và nặng nề nhất.
Chàng thanh niên, tuổi đời còn ít và kinh nghiệm chẳng được bao nhiêu, đã đòi người cha phải chia gia tài cho mình, để rồi lên đường đi bụi đời.
Chàng hăm hở lao mình vào những cuộc ăn chơi đàn đúm, tiêu xài hoang phí cho đến khi không còn một đồng xu dính túi.
Chính trong giây phút đau khổ và đói khát, chàng mới nhận ra rằng mình đã hành động sai quấy đối với người cha. Và cũng chính những đau khổ và đói khát ấy đã làm cho chàng suy nghĩ và quyết tâm làm lại cuộc đời.
Biết bao nhiêu người ngày hôm cũng thế. Sau những hành động tội lỗi, thì trong cảnh tĩnh mịch của nhà tù họ mới tìm lại khuôn mặt của Thiên Chúa mà họ đã quên lãng từ lâu.
Hiểu được sự sai trái của mình, chàng thanh niên đã dứt khoát trở về nhà cha. Cõi lòng chàng tan nát khiêm cung, cho dù cái lý do thúc đãy chàng trở về chưa thực sự tốt lành và tinh ròng cho lắm. Chàng sẽ quì xuống để xin cha tha thứ. Chàng nói:
- Thưa cha, con đã phạm tội nghịch với trời và lỗi với cha, con không xứng đáng được gọi là con cha nữa, xin cha hãy đối xử với con như một người làm công.
Và thế là chàng lên đường. Khi chàng còn ở đàng xa, thì người cha đã trông thấy, bởi vì biết bao nhiêu ngày ông đã mòn mỏi đợi chờ.
Nếu là chúng ta, có lẽ chúng ta đã quát tháo:
- Cái thằng trời đánh thánh vật kia ơi. Mày đã làm cho tao đau khổ biết bao nhiêu. Mày không còn là con tao nữa. Hãy cút xéo khỏi nhà tao.
Nhưng không. Người cha trong câu chuyện đã không nói và làm như thế. Trái lại, ông đã tha thứ hết. Ông chạy tới, ôm choàng lấy chàng và hôn chàng hồi lâu.
Không một lời khiển trách, trái lại với tất cả tình yêu thương, ông đã truyền lấy áo mới cho chàng mặc, lấy nhẫn cho chàng đeo, lấy giày cho chàng đi, rồi lại còn chuẩn bị tiệc mừng. Ông nói:
- Hãy giết con bê béo làm tiệc ăn mừng vì con ta đã chết nay được sống, đã mất nay lại tìm thấy.
Câu chuyện trên đây quả thực đã đem lại cho chúng ta, những kẻ tội lỗi, một niềm an ủi lớn lao. Bởi vì qua câu chuyện này, Chúa Giêsu muốn tỏ cho chúng ta thấy lòng nhân từ, khoan dung và thương xót của Thiên Chúa. Ngài sẵn sàng tha thứ, sẵn sàng xóa bỏ tất cả mọi tội lỗi của chúng ta, miền là chúng ta biết sám hồn ăn năn và lên đường trở về với Ngài.
Cha Piô là một vị linh mục nổi tiếng thánh thiện. Ngày kia, ngài tới Rotondo và tình cờ gạp Cesare Festa, một kẻ đứng đầu phái Tam Điểm tại đây. Khi gặp ngài, ông ta ngạc nhiên và nói:
- Ngài cũng ở đây với chúng tôi, những người theo phái Tam Điểm hay sao?
Cha Piô đáp lại:
- Phải, thế các anh đã làm gì?
Ông ta trả lời:
- Chúng tôi chống lại Giáo hội.
Cha Piô cầm tay ông ta, nhìn ông ta bằng cặp mắt trìu mến, rồi kể lại cho ông ta nghe câu chuyện đứa con hoang đàng, hay câu chuyện tấm lòng của một người cha.
Một giờ sau, ông ta đã quì gối xưng tội. Rồi sau đó, ở mọi nơi và trong mọi lúc, ông ta sẵn sàng tuyên xưng lòng khoan dung và thương xót bao la của Thiên Chúa.
Riêng mỗi người chúng ta, hãy sám hối ăn năn trở về cùng Chúa để được hưởng nhờ ơn tha thứ, bởi vì tâm tình sám hối ăn năn chính là một thứ tiền để mua lấy ơn tha thứ.



26. Niềm vui san sẻ – Achille Degeest

(Trích dẫn từ ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)
Suy niệm của chúng ta về dụ ngôn đồng bạc đánh mất rồi tìm thấy, bắt đầu từ ý niệm việc tông đồ của người Kitô hữu phải tỏa rộng niềm vui đã tìm thấy ơn cứu độ.
Người đàn bà nói trong dụ ngôn rất bực vì đánh mất đồng bạc, món tiền nhỏ nhưng rất quý đối với mình. Moi móc các nơi trong nhà, tìm được rồi, bà ấy vui mừng phân phô với hàng xóm. Chúng ta chuyển dụ ngôn sang bình diện đời sống nhân loại. Kitô hữu là một người đau xót vì thiết mất một vật gì, biết rõ nó là của mình trước đây, mình đã vô ý đánh mất; mơ hồ cảm thấy tất cả con người mình khao khát tình thân thiết của Thiên Chúa, nhận thức rằng tai họa do sự tội đã khiến mình đánh mất tình thân thiết quý báu ấy. Nhưng không cam chịu mất mát, người ấy tìm tòi trong mình và quanh mình, tự hỏi lòng mình, hỏi cả người xung quanh. Một ngày kia, gặp thấy ơn cứu độ trong Đức Giêsu Kitô, lại tìm thấy ý nghĩa cuộc đời, người ấy vui mừng. Của bị mất nay lại tìm thấy, nó quý vô cùng, đến nỗi không thể vui riêng một mình, người ấy phải san sẻ với người xung quanh. Người ấy có giống người đàn bà mất tiền không? Có gọi bạn bè hàng xóm đến chung vui không? Vấn đề ấy không đặt ra ở đây. Vấn đề khác sâu sắc hơn là niềm vui phải làm rạng ngời vẻ mặt một kẻ được cứu vớt, vui từ thâm tâm tỏa ra trên nét mặt, lúc nào cũng sẵn sàng chia sẻ niềm vui giữa anh em mình. Hai câu hỏi đặt ra cho chúng ta:
1) Chúng ta có cảm biết sâu sắc không, thế nào là đánh mất rồi tìm lại được?
Có thể rằng chúng ta tự tại trong niềm tin, trong sự giữ đạo đầy đủ, cho nên không hiểu được thấm thía tai họa to lớn xảy đến cho kẻ không có đời sống siêu nhiên. Người Kitô hữu rất có thể -nói theo ngôn từ Phúc Âm- lâm vào tình huống mất tiền mà không biết; vì không biết nên không tìm kiếm; không tìm kiếm nên không tìm được đồng bạc, không có được niềm vui. Chúng ta thử nghĩ về bi kịch đời sống kẻ đã mất Thiên Chúa; chúng ta hãy vui lên vì đã tìm lại được tình thân thiết của Thiên Chúa (hoặc nói đúng hơn, vì tình thân thiết của Thiên Chúa đã tìm lại được chúng ta- đàng nào kết quả cũng vậy).
2) Chúng ta có san sẻ niềm vui với anh em không?
Ở đây đặt ra vấn đề hoạt động tông đồ theo một đường lối nào đó. Một số đường lối truyền giáo (nhất là một số buổi họp đoàn thể) ít lan tỏa niềm vui… Niềm phấn khởi, sức năng động của công việc truyền giáo phải bắt nguồn từ niềm xác tín sâu sắc và kinh nghiệm sống rằng ‘chúng ta đã tìm thấy’. Bình thường thì phát hiện ấy phải khiến chúng ta vui mừng, niềm vui của chúng ta phải tỏa rộng. Chúng ta biết rằng niềm vui thu hút, niềm vui đa dạng. Chúng ta cũng biết, nụ cười tươi của chiến sĩ truyền giáo thu được nhiều thành quả hơn mọi kỹ thuật hành động.



27. Người cha sẽ làm bất cứ điều gì cho chúng ta

(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng’ - Charles E. Miller)
Khi những người cha người mẹ yêu con cái của mình họ sẵn lòng làm bất cứ điều gì cho chúng. Tuy nhiên đã xảy ra là những đứa con ít khi nhận biết tình yêu sâu nặng của cha mẹ dành cho chúng. Cả hai người con trong dụ ngôn hôm nay của Chúa Giêsu đã không hiểu được tình yêu của cha mình. Cũng không thể hiểu được sự dâng hiến của ông dành cho chúng, như là những người con của ông không hề thay đổi, không hề có vấn đề gì. Người cha không thể nào tưởng tượng có gì đổi khác trong mối liên hệ với những người con của mình.
Đầu tiên, tôi nghĩ về người con thứ, người con mà chúng ta hay nhắc tới là người con hoang đàng, người con phung phá hết tất cả tài sản của mình. Khi anh nhận ra sự điên rồ của mình, anh đã sửa soạn một bài diễn văn nhỏ để nói với cha của mình. Trong những lời anh đã soạn sẵn đó, anh cũng nhận ra rằng anh không còn xứng đáng để được gọi là con, và anh mong cha coi anh như một người làm công thôi. Khi anh trở về nhà và nói lên những lời đã soạn sẵn của mình, nhưng người cha không hề để ý đến điều ấy. Người cha đã ôm choàng lấy người con, hôn lấy hôn để và gọi gia nhân làm tiệc mừng. Ông ta nhấn mạnh: “Hãy xỏ giày vào chân cậu”, một dấu hiệu anh trở về với gia đình như một thành phần của gia đình chứ không phải là một tôi tớ, bởi vì chỉ những phần tử của gia đình mới mang giày trong nhà. (Một bài hát thiêng liêng cổ đã hát: ‘Tất cả những con cái của Thiên Chúa đều được mang giày’).
Người con lớn mà chúng ta cũng không hề có cảm tình. Anh ta không hề rời xa nhà, anh vẫn tiếp tục chu toàn công việc bổn phận với người cha. Anh đã từ chối vào dự tiệc mừng đứa em của mình và lý do anh đưa ra để biện minh cho sự từ chối của mình tiết lộ rằng, anh ta đã quá thất bại trong mối tương quan của anh với cha của mình. Anh ta minh chứng: “Bao nhiêu năm con đã làm việc hầu hạ cha như nô lệ, mà cha không hề cho con một con dê nhỏ để con ăn mừng với chúng bạn”. Người ch của anh đã trở thành một chủ nô, một người chủ keo kiệt bủn xỉn, đứa con đã nghĩ rằng nó như nô lệ, vì anh ta chỉ trông đợi một phần thưởng, anh ta đã không phục vụ người cha của mình với tình yêu. Nhưng người cha đã đáp lại: “Con luôn luôn ở với cha, mọi sự của cha là của con”. Thật sự điều này đã biểu lộ được cảm xúc của người cha, thật ra ông ta đã đáp lại sự giận dữ của con trai bằng một sự dịu dàng. Ông ta không hề khuyên nhủ con mình, ông chỉ nhìn con và nói hai từ: “Con ơi”.
Người Cha trong dụ ngôn là một người đáng để ý. Khi người con thứ quyết định trở về nhà thì ông đã nồng nhiệt chạy ra tiếp đón nó: “Khi người con cả từ chối vào dự tiệc, người cha cũng chạy ra nói anh ta và nài xin anh ta vào”.
Điểm đáng chú ý hơn, Thiên Chúa là Cha của chúng ta. Để bắt đầu hiểu và nhận biết Thiên Chúa, chúng ta phải nhớ chúng ta là ai. Chúng ta là con cái của Thiên Chúa, là những con trai, con gái yêu dấu của Người. Thiên Chúa sẽ không bao giờ thay đổi tình yêu mà Người luôn luôn qua tâm đến chúng ta ngay cả khi chúng ta từ bỏ Ngài. Không có vấn đề chúng ta điên rồ thế nào trong cách sống, không có vấn đề chúng ta xa rời tình yêu của Thiên Chúa thế nào. Thiên Chúa vươn đến chúng ta bằng ân sủng của Người.
Mỗi ngày Chúa Nhật, Thiên Chúa mời gọi chúng ta đến nhà của Ngài, nhà thờ. Thiên Chúa luôn luôn là Cha của chúng ta. Nhà của Người là ngôi nhà gia đình của chúng ta. Nơi đây Ngài mời gọi chúng ta cử hành nghi thức gia đình, một bữa ăn thánh thiện mà tại đó Người Con thần linh của Ngài nói với chúng ta bằng những lời trong Thánh Kinh, nuôi dưỡng chúng ta bằng Thánh Thể. Chúng ta được kêu gọi tới bữa ăn này như là một bữa tiệc vui mừng và một biến cố hạnh phúc của chúng ta, bởi vì chúng ta nhận biết rằng chúng ta đã chết một lần trong tội lỗi, nhưng Chúa Giêsu bằng cái chết đã phục hồi cho chúng ta sự sống. Chúng ta đã trở nên thành phần của gia đình Thiên Chúa, những con cái yêu dấu của Người và Thiên Chúa sẽ không bao giờ thay đổi mối quan hệ đó. Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta và Ngài đã trình bày rằng Ngài sẵn sàng làm bất cứ điều gì cho chúng ta. Chúng ta có thể điên rồ hoặc là quên lãng được Thiên Chúa là Cha chúng ta và chúng ta là con cái của Người sao?



28. Lạc mất - McCarthy

Không chỉ có chiên cừu và các đồng tiền bị đánh mất. Con người cũng bị lạc mất. Theo tờ The Tablet (Tháng 12-1996) có khoảng 250.000 người ở Anh Quốc bị mất tích mỗi năm. Đủ mọi loại tuổi và thành phần, từ trẻ em cho đến người đứng tuổi, bởi mọi loại lý do và không lý do nào giống lý do nào, và họ bỏ đi mất tích. Những người ở lại, gia đình của họ bị nghi kỵ dày vò, tội lỗi dằn vặt và lo lắng, người ta vừa sống với niềm hy vọng vừa tuyệt vọng, không thể chấp nhận điều đã xảy ra hoặc đau buồn vì họ đã chết. Đường dây những người mất tích của quốc gia được thiết lập ở Anh quốc năm 1992 và mở ra 24 giờ mỗi ngày, 365 ngày mỗi năm. Đây là một trong những hoạt động từ thiện phát triển nhanh nhất ở nước Anh.
Vấn đề còn to lớn hơn ở Mỹ. Người ta ước chừng 50.000 trẻ em xuất tích mỗi năm, trong đó có 5000 em tìm thấy đã chết. Tại sao những em ấy mất tích? Một số em cha hoặc mẹ đã ly dị bắt đem đi. Một số em là bạn thân của các tội ác bạo hành. Một số bỏ trốn khỏi những gia đình không hạnh phúc.
Kevin là một cậu bé mười tuổi hay cười. Cậu sống với cha mẹ cậu và hai người chị ở San Francisco. Một ngày kia, cậu rời khỏi trường sau giờ thực hành bóng rổ. Người ta không còn nhìn thấy cậu nữa.
Phần lớn các quốc gia không có con số chính xác các trẻ em mất tích mỗi năm. Hầu hết các lực lượng cảnh sát không hành động theo một báo cáo có một đứa trẻ mất tích ít nhất trong vòng 24 giờ. Ở Mỹ, cảnh sát liên bang FBI nói rằng nếu họ phải đi tìm mỗi đứa trẻ mất tích, họ sẽ không có thời gian để làm những việc khác. Nhiều quốc gia có những chương trình hiện đại để lần theo dấu vết của các xe cộ bị mất cắp và thẻ tín dụng nhưng không có chương trình nào cho các trẻ em bị mất tích.
Người ta có thể lạc loài bằng nhiều cách. Có người đã nghiện rượu hoặc ma túy, có người không thể ổn định cuộc sống, có người không thể giữ được việc làm hoặc hoàn tất chương trình học, có người không thể duy trì một tương quan rất khó mà tìm thấy họ. Điều làm cho sự việc thêm trầm trọng là thông thường họ không bỏ đi. Họ biến mất ở giữa chúng ta, họ lạc loài ngay giữa gia đình mình.
Dĩ nhiên xem ra không ai có thể đến gần họ. Trong những trường hợp như thế, nhiệm vụ của người mục tử không tìm kiếm họ cho bằng giúp họ tìm thấy chính mình.
Và dĩ nhiên, người ta lạc loài về tinh thần và tâm linh. Những người như thế giống như con thuyền không neo hoặc một thủy thủ không có la bàn. Trong số họ, có những người lạc loài vì lỗi của họ. Nhưng những người khác lạc loài vì họ không có người hướng dẫn, không có một ai quan tâm tích cực đến những người sống lạc loài.
Đức Giêsu bày tỏ mối quan tâm của Người đối với các “con chiên lạc” – những người thu thuế, những người tội lỗi v.v…là những người đã bị các mục tử chính thức bỏ rơi. Những mục tử chính thức phẫn nộ đối với việc mà một mục tử xứng đáng với danh xưng ấy phải làm.
Người mục tử không chờ cho con chiên lạc quay về; người ấy đi tìm nó. Đức Giêsu cũng thế. Người là vị sứ giả mà Chúa Cha sai đến với chúng ta. Người không chờ cho những người có tội đến tìm Người. Người ra đi tìm họ. Và khi người tìm thấy họ, Người đưa họ trở về nhà Cha với niềm hoan hỉ.
Hối cải là trở về với Thiên Chúa, và trở về với Thiên Chúa là trở về nhà mình.



29. Tha thứ

Có một vấn đề ngày càng gia tăng trong xã hội hiện nay, đó là con người không thể và không muốn tha thứ cho nhau.
Một sự kiện cụ thể chứng minh cho sự thật trên, đó là tình trạng ly dị mỗi lúc một gia tăng, nó làm cho nhiều cặp vợ chồng phải đau khổ, nhiều gia đình bị đổ vỡ.
Qua sự điều tra về những người vợ đòi ly dị, một tác giả đã rút ra hai kết luận như sau:
Trước hết, họ đã phải tiêu phí một cách khủng khiếp năng lực và tiền bạc để trả thù người chồng cũ của họ. Tiếp đến vì cứ nuôi mãi mối căm hận, nên nhiều người tự gây thương tổn cho mình hơn là cho người chồng cũ mà họ thù ghét.
Để thấy rõ sự giận hờn và căm thù có thể hủy diệt chúng ta như thế nào, hội y khoa nước Mỹ đã mở cuộc thăm dò hàng ngàn bác sĩ với câu hỏi:
- Trong một tuần lễ, bạn điều trị được bao nhiêu bệnh nhân?
Hầu như tất cả đều trả lời rằng họ chỉ điều trị được khoảng 10% bệnh nhân. Còn 90% kia, mặc dù có đau đớn, nhưng nỗi đau đớn của họ lại thuộc lãnh vực tâm lý, mà những thuốc men bình thường không thể giải quyết được. Và nguyên nhân chính gây bệnh đó là nỗi căm giận, sự thù ghét dồn nén, những bất mãn và phản kháng.
Kinh nghiệm cũng cho thấy: khi chúng ta giữ mãi trong mình mối ác cảm, không chịu tha thứ và luôn tìm cách báo thù, thì chúng ta gây thương tổn cho mình không kém gì gây thương tổn cho kẻ thù.
Nói một cách sống động hơn, mũi gươm thù địch chúng ta dùng để gây thương tích cho đối phương sẽ đâm vào bản thân chúng ta trước. Hay như một câu danh ngôn đã bảo:
- Ai cứ quyết tâm nuôi mộng báo thù thì nên đào sẵn hai cái huyệt, một cái cho kẻ thù và một cái cho chính mình.
Tất cả những sự việc trên góp phần làm sáng tỏ lời Chúa về lòng tha thứ qua đoạn Tin Mừng sáng hôm nay. Đây là sứ điệp mà mỗi người chúng ta cần phải ghi nhớ và thực hành.
Hãy tự vấn lương tâm xem chúng ta đang làm gì đối với sự thù hận, mối ác cảm chua chát đang làm cho đời sống chúng ta mất đi sự bình an? Hãy xét lại mối liên hệ giữa chúng ta và những người chung quanh để xem chúng ta đã thực sự sống lời Chúa truyền dạy về vấn đề này hay chưa:
- Hãy yêu thương kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét bỏ chúng ta. Hãy để của lễ đó, trở về làm hòa với người anh em mình trước đã, rồi hãy đến mà dâng của lễ sau? Hãy tha thứ không phải bảy lần mà là bảy mươi lần bảy lần. Chúng ta đã phản ứng như người cha nhân từ, giàu lòng thương xót, hay như người anh cả vừa nhỏ nhoi lại vừa ích kỷ.
Để kết luận, chúng ta hãy mượn lời kinh hòa bình của thánh Phanxicô mà dâng lên Chúa:
- Lạy Chúa từ nhân, xin cho con biết mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi người, để con đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an hòa vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn lỗi lầm.



30. Tình thương vô biên

“Trên trời sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải”
Xưa nay, trong xã hội, thường có hạng người đa nghi, hay dòm ngó, xét nét người khác. Việc người thì sáng việc mình thì quáng. Nhóm Biệt phái và luật sĩ Do-thái thuộc về hạng người ấy. Họ tìm cách để bắt bẻ Chúa Giêsu trong lời nói, trong việc làm. Họ không thể vạch ra những sơ hở của Chúa trong lời giảng dạy thì họ theo dõi mọi cử chỉ, mọi giao dịch của Chúa. Chúa Giêsu lại không mấy quan tâm đến. Ngài đi nhiều lần với những người thu thuế, vào trọ trong nhà họ, ngồi ăn với họ; Ngài để cho người đàn bà được coi là tội lỗi đem thuốc thơm xức, xõa tóc lau, lại còn hôn cả lên bàn chân. “Ông này, nếu quả thực là tiên tri, ắt đã biết người đàn bà sợ đụng đến mình kia là ai, và thuộc hạng nào: một đứa tội lỗi!” (Lc 7, 39).
Ngài đi xuống hố thẳm tội lỗi để “cứu những gì hư mất”.
Để minh giải trước bọn đối thủ, nhất là để nói lên tình thương của Ngài đối với người tội lỗi, Chúa Giêsu đã để lại 3 dụ ngôn của Ngài thật cảm động. Hơn nữa, đây không phải chỉ là những dụ ngôn mà là những lời cầu nguyện sống, rất thực tế, đánh động lòng chúng ta là kẻ tội lỗi.
Đó là câu chuyện con chiên lạc, đồng bạc đánh mất, và nhất là câu chuyện người con trai đi hoang hối cải trở về. Trong cả ba câu chuyện, điểm nổi bật hơn cả, đáng chú ý hơn cả, đánh động tâm hồn hơn cả, là sự vui mừng của Thiên Chúa khi gặp lại những người hư mất sau bao công chờ đợi tìm kiếm.
Thiên Chúa, Đấng toàn thiện toàn năng mà lại vui mừng. Thật là một mầu nhiệm: “Trên trời sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần hối cải”. Nhà Tiên tri Mikha cũng đã nói đến: “Có Thiên Chúa nào như Ngài lại vui mừng khi ban ơn tha thứ” (Mk 7,18).
Đây cũng là bài học cho chúng ta. Bao nhiêu lần chúng ta tuyên bố tha cho kẻ xúc phạm, làm cực lòng ta, nhưng ta vẫn giữ một thái độ lãnh lẽo, mặt nặng như chì với họ.
Ngày 5-7-1902, Maria Goretti bị thanh niên Alexandro đâm 18 lát dao, vì muốn bảo toàn đức trong sạch. Trước khi chết, vô vui vẻ tha thứ cho hung thủ và “muốn cho Alexandro được về Thiên Đàng với cô”. Bức gương của vị nữ thánh phản ánh tình thương hay tha thứ của Chúa.
Dụ ngôn thứ ba về người con trai đi hoang trở về lại càng tô điểm mối tình Chúa thương ta bằng những nét thật sâu đậm. Đọc lại cuộc đón tiếp vồn vã của người cha già với những cái hôn nóng hổi, với nhẫn xỏ tay, áo đẹp phủ người, tiệc tùng thịnh soạn, có người cho rằng làm gì cóm một người cha tốt lành quá như vậy đối với người con thất hiếu bất trung? Nhưng nên nhớ rằng đây chỉ là hình bóng phai mờ của người Cha trên trời đầy tình thương xót hay tha thứ. Tình thương của chúa thật vô biên, “thương đến tận cùng”.
Lạy Đấng chăn chiên, hãy để lại đó 99 con kia,
Và mau đi tìm con chiên duy nhất đã thất lạc,
Hãy đi tìm con, vì con đang tìm Chúa.
Hãy đón nhận con, vác con trên vai Chúa…
Dưới đất Chúa ban vơn cứu độ, và trên trời sẽ có niềm vui lớn.
(Thánh Ambrosiô thành Milan)



31. Mầu nhiệm Thánh thiện và tội lỗi

(Suy niệm của Lm. Thiện Duy)
Đức nguyên Giáo hoàng Bênêđictô XVI viết trong Tự Sắc Cửa Đức Tin số 13 như sau: “Một điều quan trọng trong Năm Đức Tin này là điểm lại lịch sử đức tin của chúng ta, được ghi dấu bằng mầu nhiệm lạ lùng về sự đan xen giữa thánh thiện và tội lỗi”.
Phụng vụ lời Chúa hôm nay là dịp để mỗi người chúng ta điểm lại lịch sử lạ lùng về mầu nhiệm thánh thiện và tội lỗi của nhân loại cũng như của từng người chúng ta.
I. PHỤNG VỤ LỜI CHÚA
1. Bài Đọc I: Xh 32, 7-11.13-14
Thiên Chúa đã yêu thương, chọn một dân bơ vơ, vất vưởng, rày đây mai đó làm dân riêng của mình: “Ta sẽ nhận các ngươi làm dân riêng của Ta, và đối với các ngươi, Ta sẽ là Thiên Chúa” (Xh 6, 7). Ngài đã sử dụng “cánh tay quyền lực của Ngài” để “quyến rũ” dân, không phải vì Ngài cần được người ta tôn thờ, nhưng bởi vì: “Thiên Chúa nhớ lại giao ước của Ngài với các tổ phụ Apraham, Isaac và Giacop” (Xh2, 24). Sau khi dùng Môsê đưa dân vượt qua biển Đỏ, thoát khỏi ách nô lệ của người Ai Cập, Thiên Chúa đã gặp gỡ riêng tư với ông để có những kế hoạch dành cho dân tộc Israel: “Người gọi ông Môsê lên đỉnh núi và ông đi lên” (Xh20, 20b).
Thế nhưng sự việc xảy ra là: “Dân thấy ông Môsê lâu quá không xuống núi, bèn tụ họp bên ông Aaron và nói với ông: “Xin ông đứng lên, làm cho chúng tôi một vị thần để dẫn đầu chúng tôi, vì chúng tôi không biết chuyện gì đã xảy ra cho cái ông Môsê này, là người đã đưa chúng tôi lên từ đất Ai Cập” (Xh 32, 1).
Thiên Chúa nhìn thấy cảnh tượng đó nên đã “méc” ông Môsê: “Hãy đi xuống, vì dân ngươi đã hư hỏng rồi. Chúng đã vội đi ra ngoài con đường Ta truyền cho chúng đi. Chúng đã đúc một con bê rồi sụp xuống lạy nó, tế nó và bảo: đây là thần của chúng ta” (x. Xh 32, 7-9). Chúng ta phải đặt mình trong hoàn cảnh của Thiên Chúa, để thấy được sự nỗi giận của Thiên Chúa là hoàn toàn đúng.
Một người mới cưới vợ, cô vợ này xấu xí lắm, nhưng anh chồng vẫn thương lạ thương lùng. Một thời gian sau, anh chồng có công việc phải đi vắng, cô vợ này ở nhà rước một người thanh niên khác về và bảo: đây là chồng tôi. Cô vợ này ôm ấp, tình tứ với người thanh niên “mà cô gọi là chồng” ngay trước mặt người chồng cũ của mình, thì thử hỏi người chồng đó có chịu nỗi không? Trời đất ơi, chắc tức, giận, và có cả sự kinh tởm không thể tưởng tượng được!
Thiên Chúa đã đòi tiêu diệt dân này, và sẽ thay thế bằng nhà của ông Môsê. Nhưng chúng ta để ý thái độ của ông Môsê, quả thật là một con người tuyệt vời. Nếu là chúng ta, hổng chừng chúng ta sẽ nói: “Được đó, Chúa giết sạch hết đi, chừa lại nhà của con thôi, con sẽ làm cho Chúa được vinh quang, rạng rỡ…”. Đằng này: “Ông lại cố làm cho nét mặt Đức Chúa dịu lại”. Chắc có lẽ ông cũng dùng những lời nói chơi, những lời xoa dịu cho Chúa mát bụng: “Thôi Chúa ơi, có gì đâu mà giận dữ vậy, Chúa phải vất vả lắm mới đưa được dân này ra khỏi đất Ai Cập. Với lại tụi nó mới quá mà. Bây giờ giả dụ tụi nó có làm gì sai, thì thây kệ tụi nó, Chúa chỉ cần nhớ đến mấy người lớn, ông Apraham, Isaac, Giacop, bạn thân của Ngài không hà, nể họ mà tha cho dân lần này đi nghe Chúa!”. Nhờ vậy mà: “Đức Chúa đã thương, không giáng phạt dân Người như Người đã đe”.
Qua câu chuyện này, chúng ta thấy được 3 điều:
Thứ nhất, không phải dân chúng bỏ Chúa, không tin Chúa nên sụp lạy con bò vàng, mà bởi vì họ muốn một vị Thiên Chúa có hình ảnh cụ thể, một vị Thiên Chúa như họ muốn. Hay nói cách khác, họ muốn một Thiên Chúa vừa với tầm nhìn của họ.
Thứ hai, hình ảnh ông Môsê, một khi đã nhận nhiệm vụ lãnh đạo dân, ông coi dân như chính bản thân mình, gắn bó với dân, không màng chi đến những lợi lộc cá nhân, coi tội lỗi của dân chính là tội lỗi của mình.
Điểm thứ ba quan trọng hơn, đó là tình yêu của Thiên Chúa dành cho những ai Ngài đã tuyển chọn. Sẽ có những lúc họ làm cho Thiên Chúa nỗi giận, nhưng giận thì giận mà thương thì vẫn thương. Ngài sửa dạy họ để mỗi ngày họ nên tốt hơn. Đó là mầu nhiệm tội lỗi và thánh thiện nơi con người và từng người chúng ta.
2. Đáp ca: Tv.50
Đây là thánh vịnh nổi tiếng về lòng ăn năn sám hối. Nó là tâm tình của vua Đavit sau khi được Thiên Chúa cho biết những tội lỗi tày trời của ông. Ông đã phạm tội ngoại tình, hơn thế nữa, để ngoại tình ông đã bày mưu giết người, mà người đó lại là một vị tướng giỏi của ông. Ông không che giấu, không biện minh, mà chỉ biết nói: “Nguyện xót thương con theo lòng nhân hậu của Chúa, nguyện xóa tội con theo lượng cả đức từ bi Người”. Mầu nhiệm thánh thiện và tội lỗi được đan xen nơi con người vua Đavit.
3. Bài Đọc II: 1Tm 1, 12-17
Thánh Phaolô trong thư gửi cho ông Timôthêô đã nói rất rõ ràng: “Đức Giêsu Kitô đã đến thê gian để cứu những người tội lỗi”, ông cũng không ngần ngại xác nhận: “Mà kẻ đầu tiên là tôi’’ (1Tm1, 15). Ông không giấu diếm về quá khứ của mình: “Trước kia tôi là kẻ nói lộng ngôn, bắt đạo và ngạo ngược” (1Tm1, 13). Tuy nhiên: “Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta đã ban cho tôi đầy tràn ân sủng, cùng với đức tin và đức mến của một kẻ được kết hợp với Người” (1Tm1, 14). Có ai ngờ một người bắt đạo lại trở thành một người giảng đạo cách nhiệt thành. Đó là mầu nhiệm thánh thiện và tội lỗi nơi cuộc đời Phaolô, vị tông đồ dân ngoại.
4. Tin mừng: Lc 15, 1-32
3 dụ ngôn trong đoạn Tin mừng hôm nay làm nổi bật khuôn mặt thật của Thiên Chúa: Thiên Chúa chúng ta là Đấng giàu lòng thương xót.
Chúng ta nhớ bối cảnh của bài Tin Mừng hôm nay là Chúa Giêsu đang trên đường lên Giêrusalem, đổ máu mình ra để chuộc tội cho muôn người. Tuy nhiên, những người biệt phái và Pharisêu thì lại bực bội, khó chịu khi thấy Chúa Giêsu “đón tiếp phường tội lỗi”. Hơn thế nữa còn “đồng bàn với quân thu thuế và phường tội lỗi”, nghĩa là tỏ ra mình thuộc về phe của những người đó.
Để trả lời cho bức xúc của những người được cho là đạo đức, thánh thiện, Chúa Giêsu đã kể một loạt 3 dụ ngôn về lòng Thương Xót của Thiên Chúa.
Cả 3 dụ ngôn đều làm nổi bật sáng kiến của Thiên Chúa. Chính Ngài đi bước trước để tìm kiếm những thứ đã hư mất, những gì là lạc loài và những con người tội lỗi. Một mục tử băng rừng vượt suối để đi tìm con chiên lạc. Một bà góa đốt đèn, quét nhà để tìm đồng tiền đánh mất. Một người cha chiều chiều ra ngõ ngóng đứa con trở về, và khi thấy nó về thì chạy lại ôm chầm lấy nó.
Tác giả Cousin đã nhận xét về 3 dụ ngôn này như sau: “Tình yêu ấy của Thiên Chúa dành cho tất cả những ai chẳng được yêu và cũng chẳng đáng yêu, gián tiếp lên án sự cứng cỏi và khắc nghiệt mà những con người “đàng hoàng” hơn kia đã đối xử với họ”.
Lòng Thương Xót của Thiên Chúa làm cho cuộc đời của chúng ta trở thành một mầu nhiệm. Mầu nhiệm không phải là sự thánh thiện, càng không thể là tội lỗi; mà mầu nhiệm ở chỗ “đan xen giữa thánh thiện và tội lỗi”.
II. MẦU NHIỆM ĐAN XEN GIỮA THÁNH THIỆN VÀ TỘI LỖI
Đâu là sự đan xen giữa thánh thiện và tội lỗi, khiến nó trở thành một mầu nhiệm? Thưa đó chính là lòng hoán cải phát xuất từ một tình yêu chân thành.
1. Hoán cải là nhìn lại mình:
Nơi mỗi con người, ranh giới giữa sự thánh thiện và tội lỗi chính là sự trở về. Chính con tim sẽ đẩy lùi tội lỗi và hướng đến thánh thiện. Hay nói cách khác nhờ tình yêu mà chúng ta sẽ quyết tâm từ bỏ những gì bất xứng để hướng đến những gì là xứng hợp. Các nhà tu đức nói: “Không có thánh nhân nào mà không có quá khứ, cũng như không có tội nhân nào mà không có tương lai”. Với thân phận mỏng dòn của một con người, chắc chắn chúng ta sẽ bị ma quỷ cám dỗ để đi nghịch lại đường lối của Thiên Chúa. Nhưng cảm nghiệm tình yêu của Thiên Chúa sẽ giúp chúng ta biết vươn lên, vượt thoát khỏi những cạm bẫy của ma quỷ.
Tình trạng bi thảm của con người là không nhận ra được lỗi lầm của mình. Vì vậy mà đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã nói: “Tội lỗi lớn nhất của con người là cho rằng mình không có tội”. Luôn luôn nghĩ rằng mình công chính, thánh thiện. Luôn luôn cho rằng mình không làm gì sai.
Người ta kể quỷ đến trách Chúa: “Tại sao con người làm biết bao nhiêu tội mà Chúa cũng tha thứ hết, còn tôi chỉ phạm một tội thôi mà Chúa không tha?” Chúa hỏi nó: “Thế có bao giờ ngươi xin Ta tha thứ cho ngươi chưa?” Nghe đến đó, quỷ ngoảnh mặt bỏ đi.
Ngạn ngữ Đức có câu: “Sa ngã vào tội chính là con người, nhưng ở lại trong tội chính là quỷ sứ”.
Chúng ta hãy thường xuyên nhìn lại những suy nghĩ, lời nói và việc làm của mình; nhìn lại những dự tính, những chương trình của chúng ta; nhất là nhìn lại đời sống đức tin của mỗi cá nhân để kịp thời chỉnh đốn những sai lỗi và sai xót.
2. Hoán cải là rộng lượng với người khác.
Thiên Chúa biết được quá khứ tội lỗi của chúng ta, nhưng Ngài cũng biết cả tương lai của chúng ta nữa. Như người cha biết chắc sẽ có ngày con trai mình trở về nên chiều chiều ra ngõ ngóng trông. Trong việc chờ mong của người cha đã có ý định tha thứ. Tuy nhiên người con cả trong nhà lại không muốn cha mình tha thứ cho đứa em. Thái độ đó hoàn toàn đi ngược lại với lòng nhân từ của Thiên Chúa.
Chúng ta muốn Thiên Chúa, muốn người khác tha thứ cho mình, mà mình lại không muốn tha thứ cho người khác. Vì vậy hoán cải là chúng ta biết rộng lượng tha thứ cho người khác. Khi chúng ta tha thứ cho người khác là chúng ta đang mở đường để Thiên Chúa tha thứ cho mình: “Xin Cha tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con”. Đừng bao giờ đặt dấu chấm hết cho một người, dù cho người đó có cố chấp, có đang trong tình trạng tội lỗi. Đó là con đường của Đức Giêsu Kitô. Ngài đồng bàn với tội nhân, tự xem mình thuộc về phe của họ.
Nói tóm lại, phụng vụ lời Chúa hôm nay cho chúng ta thấy được mầu nhiệm thánh thiện và tội lỗi luôn đan xen trong cuộc đời chúng ta. Dù chúng ta có tội lỗi, và tội tày trời: “không đáng là con cha nữa”, thì tình yêu của Thiên Chúa cũng tha thứ, mở ngõ, chờ đợi để được ôm ấp chúng ta vào lòng, miễn là chúng ta biết hoán cải để quay trở về. Đồng thời cũng phải biết rộng rãi tha thứ cho những lỗi lầm của người khác.



32. Một người cha có hai con trai – André Sève

(Trích dẫn từ ‘Tin Mừng Chúa Nhật’)
Tin Mừng không phải là một đồng bằng, nhưng có những đỉnh cao. Chúng ta đang đứng trước một trong những đỉnh cao nhất: Luca 15,11-32. Người ta nói rằng đây là dụ ngôn đứa con hoang đàng, nhưng Chúa Giêsu làm nổi bật ba nhân vật: một người cha và hai đứa con trai. Đối với người con thứ, những cuộc phiêu lưu của cậu ta có hề chi, có biết bao cách để phung phí món quà cuộc đời khi đi sống xa cha mình. Điều phải khám phá chính là Chúa Cha, nhờ Chúa Giêsu. Tất cả các nhà chú giải và tất cả các nhà linh hướng đều nói điều đó. Chúa Giêsu đã mặc khải Thiên Chúa chính trong trang Tin Mừng này.
“Khi cậu còn ở xa, cha cậu đã trông thấy cậu”. Người cha đang chờ đợi. Ông không tự hỏi người con thứ của mình nói gì hoặc làm gì, ông chỉ nghĩ: “Nếu con ta xuất hiện nhỉ!”. Ngay khi ông thấy cậu, ông ôm cậu vào lòng, hết sức thương hại và yêu mến. Ông chạy lại (không cần phải làm đến như thế đâu!), ông hôn cậu tới tấp (nói cha tha thứ cho con không tốt hơn sao!), ông không lắng nghe những lời xin lỗi, ông quá vội vàng khi làm bùng lên niềm vui và ngày lễ hội. Nhanh lên, hãy đưa áo quần lại đây! Nhanh lên, hãy làm thịt bê béo! Con ta đã mất nay lại tìm thấy.
Đây chính là mặc khải đáng ngạc nhiên mà Chúa Giêsu muốn cho chúng ta biết: chúng ta được yêu thương biết bao! Nhưng dại dột và thậm chí những tội ác của chúng ta là gì trước nhiệt tình này: “Cậu ấy lại được tìm thấy”. Nếu chúng ta dám tin điều ấy thì quan hệ tình yêu giữa chúng ta với Chúa Cha kỳ lạ biết mấy! Tại sao khó mà thấy được Thiên Chúa yêu thương đến thế? Có phải vì sự khó khăn này mà Chúa Giêsu giới thiệu người con cả với chúng ta nhiều lần đến thế? Ngài có thể đã nghĩ đến dụ ngôn này sau khi nghe những lời đả kích của những người công chính trước thái độ của Ngài: “Người này tiếp đón những kẻ tội lỗi, thậm chí ngồi cùng bàn ăn với họ!”. Đúng y như lời lẩm bẩm của người con cả! Thay vì vui mừng, anh ta phản đối, anh ta bị ảnh hưởng xấu. Thật là đứa em làm bực mình.
Than ôi, biết bao lần chúng ta cũng bị dồn vào thế bí, cũng đóng kín đối với tình yêu. Chúng ta phán xét thay vì mở rộng vòng tay. Nhưng tôi thấy rõ sự khó khăn: nếu chúng ta chấp nhận tất cả, thì đạo đức dùng để làm gì? Và Thiên Chúa là ai nếu Ngài chấp nhận tất cả?
Chúng ta đã được đào tạo ghê sợ tội lỗi, lên án sự vô trật tự, chúng ta không thể trở nên vừa lòng một cách đáng ngờ! Chính Thiên Chúa là Đấng chúng ta bảo vệ bằng cách bảo vệ luật lệ của Ngài và bằng cách tỏ ra cứng rắn!
Như thế thì làm thế nào mà mở rộng vòng tay được? Làm thế nào bắt chước người cha trong dụ ngôn theo cách hoàn toàn điên rồ của ông, đó là tiếp đón đứa con lưu manh trở về vì đói được?
Nhưng cậu ấy trở về! Hành động của người cha trước tiên là tình yêu thương, chứ không phải trước tiên là những câu hỏi về những thái độ công chính. Sau đó, chúng ta sẽ xem xét việc sống trong nề nếp như thế nào. Điều cấp bách nhất chính là yêu thương.
Chúng ta, những người công chính, muốn là những người công chính, chúng ta trước hết nghĩ đến việc xét đoán, lưu ý những điều cần thiết, giới hạn điều xấu xa, xem điều gì có thể chấp nhận được. Khi tất cả đều khá rõ ràng, được sửa chữa tốt, chúng ta mới có thể yêu thương.
Như thế là hỏng hết 90% rồi. Chúa Giêsu đã nhận thấy điều đó trong khi quan sát những cố gắng thực sự của những người công chính vào thời của Ngài, tức những người biệt phái và những luật sĩ: khởi đi từ sự công chính, họ không đi đến được tình yêu. Họ cố gắng yêu thương, nhưng họ vẫn ở trong những giới hạn chật hẹp và tất nhiên đặt Thiên Chúa trong cũng những giới hạn đó: “Dầu sao thì Ngài cũng không thể yêu thương những kẻ tội lỗi!”, họ nghĩ như thế. Chúng ta, bởi vì Chúa Giêsu đã nói điều ấy, nói chung chúng ta chấp nhận rằng Thiên Chúa yêu thương những kẻ tội lỗi, điều này thậm chí lại tốt cho chúng ta hoặc người này người nọ, nhưng không phải cho người kia đâu!, xem nào! Người kia, “những người kia”, Thiên Chúa không thể yêu thương họ được.
Có chứ! Chúa Giêsu nói với chúng ta rằng không có ai bị loại bỏ, rằng Thiên Chúa đúng là người cha trong dụ ngôn của Ngài. Và chúng ta là những người con của Ngài khi chúng ta trước hết là đặt mình vào trong tình yêu thương.
Chúng ta không nên chấp nhận tất cả, chúng ta phải chiến đấu chống lại tội lỗi và chiến đấu vì sự công chính. Nhưng làm những điều đó trong tình yêu. Tất cả đều nằm ở đó. Chính trong khi yêu thương chúng ta Thiên Chúa đưa chúng ta ra khỏi tội lỗi, chính Thiên Chúa chiến đấu tội lỗi nơi chúng ta, không phải bằng cách đè bẹp hoặc loại bỏ chúng ta.
Xin Chúa giúp chúng ta quay lại để đạt được suy tư Tin Mừng trong sáng duy nhất này: luôn luôn đặt mình trong tình yêu. Khi tôi tự phán xét tôi, hãy nghĩ rằng Chúa Cha yêu thương tôi. Khi tôi phải phán xét những người khác, trước tiên hãy nghĩ đến việc yêu thương họ như Thiên Chúa yêu thương họ. Đó là vị Thiên Chúa thật được Chúa Giêsu mặc khải.
Trong ánh sáng tình yêu này tất cả đều có thể trở về lại sự sống: “Con trai tôi đã chết mà nay vẫn còn sống! Em con đã chết mà nay vẫn còn sống!”.



33. Chứng từ của lòng sám hối

Trong bộ sưu tập về các vị ẩn tu, ta đọc được câu chuyện sau đây: Có hai tội nhân quyết tâm vào sa mạc để ăn chay đền tội. Nhiều tháng trời ròng rã, mỗi người giam mình trong một túp lều, ngày đêm đánh tội, ăn năn và cầu nguyện.Ngày ngày các tu sĩ của một cộng đoàn ẩn tu mang thức ăn, nước uống đến tận căn lều của mỗi người. Sau đúng một năm thử thách, các tu sĩ nhận thấy có sự khác biệt giữa hai người. Một người thì khỏe mạnh, vui tươi, một người thì lại ốm o buồn phiền. Cả hai người đến trình diện trước vị bề trên của cộng đoàn để chờ đợi sự phán quyết của ngài, theo đó họ có xứng đáng gia nhập cộng đoàn hay không. Khi được hỏi trong suốt một năm qua họ đã suy niệm về những gì. Con người ốm o buồn phiền lên tiếng đáp: Trong suốt một năm qua, ngày ngày tôi nhớ lại những tội lỗi tôi đã phạm. Từng giây từng phút tôi nghĩ đến hình phạt tôi sẽ gánh chịu, tôi sợ hãi đến mất ăn mất ngủ. Đến lượt mình, con người vui tươi khỏe mạnh trình bày như sau: Suốt một năm qua, từng giây từng phút tôi hằng nghĩ đến những ơn lành Thiên Chúa đã ban cho tôi, tôi luôn luôn nghĩ đến tình thương của Thiên Chúa.
Các tu sĩ trong cộng đoàn rất cảm kích về chứng từ của con người khỏe mạnh vui tươi. Vì lòng sám hối của anh đã biến thành lời ca chúc tụng, tri ân đối với tình yêu của Thiên Chúa. Nhưng con người ốm o sầu buồn kia cũng được đón nhận vào cộng đoàn.
Sám hối là khởi đầu của sự nên thánh. Không phải tất cả các vị thánh đều bắt buộc phải là những tội nhân. Nhưng tất cả đều bắt đầu có ý thức sâu sắc về tội lỗi và sự yếu hèn của mình. Càng ý thức về thân phận tội lỗi yếu hèn của mình con người càng cảm nhận được tình yêu của Thiên Chúa. Đó là thực trạng tâm hồn của tất cả các vị thánh trong giáo hội. Lời đầu tiên Chúa Giêsu dùng để khai mạc sứ mệnh của Ngài chính là: “Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”. Chúa Giêsu đã nối kết lòng sám hối với Tin Mừng. Tin Mừng là gì nếu không phải là tình yêu của Thiên Chúa thể hiện qua con người của Đức Giêsu Kitô? Sám hối không chỉ là ý thức và hồi tưởng về tội lỗi của mình. Sám hối đích thực không dừng lại ở đau xót, buồn phiền, sợ hãi, mà phải là ngõ dẫn đến Tin Mừng, nghĩa là hoan lạc, vui mừng.
Thiên Chúa mà Chúa Giêsu đã mạc khải qua cuộc sống và nhất là cái chết của Ngài là một người cha yêu thương và tha thứ, một người cha muốn được con cái yêu mến hơn là sợ hãi. Do đó, đạo mà Chúa Giêsu đã thiết lập không phải là đạo của buồn phiền, của khổ đau mà là đạo của Tin Mừng, của Tình Yêu, của hân hoan, của hy vọng. Đành rằng thập giá là biểu tượng của Kitô giáo. Nhưng người Kitô hữu không dừng lại ở chết chóc, buồn phiền, khổ đau. Họ luôn được mời gọi nhìn ra ánh sáng, hy vọng, tin yêu, sự sống bên kia thập giá.



34. Nhân lành

Một văn sĩ nọ đã kể lại câu chuyện ngắn về cậu bé David trong câu chuyện có tựa đề là: “Người Con Của Ai Đó” như sau:
David đã bỏ nhà ra đi, nó viết thư về cho mẹ như sau: Thưa Mẹ, vài ngày nữa con sẽ đi ngang qua nhà, con sợ cha lắm, nếu cha tha thứ cho con thì mẹ hãy xin cha cột một dây vải trắng nơi cây xoài trước nhà, nhìn thấy dấu hiệu này con biết là cha đã tha thứ và con sẽ về lại.
Vài ngày sau, David lấy vé xe lửa về quê. Đường xe lửa đi ngang qua trước nhà, cậu nghĩ, nếu cậu thấy được sợi dây vải trắng cột trên cây xoài thì cậu sẽ xuống trạm xe kế bên và đi về nhà, nếu không thì sẽ đi luôn sang nơi khác.
Cậu David rất hồi hộp khi xe gần đến nhà, sợ mình có thể nhìn lầm hay không kịp nhìn, cậu nhờ một người bên cạnh cùng nhìn phụ. Xe chạy ngay qua địa điểm, không những là cậu mà cả người bạn cũng nhìn thấy, người bạn hỏi cậu:
- Tại sao cây xoài nhà đó lại đầy những tấm vải trắng treo trên khắp các cành cây như vậy?
David mỉm cười không trả lời, cậu chỉ giữ lấy ý nghĩa của dấu hiệu đó cho riêng mình mà thôi và hân hoan xuống trạm xe kế tiếp.
Câu chuyện vui trên giúp chúng ta hiểu thêm sứ điệp Phúc âm mà Chúa gởi đến chúng ta hôm nay. Như cậu David, chúng ta mang nặng ý thức về những lỗi lầm của mình và nghi ngờ tình thương tha thứ của Thiên Chúa. David cần được củng cố vì tình thương của cha sẵn sàng tha thứ. Chúng ta cũng vậy, Thiên Chúa đã thực hiện nhiều dấu chỉ trong cuộc đời để chỉ cho chúng ta thấy tình thương của Ngài, và dấu chỉ quan trọng nhất hằng ngày chúng ta thấy, đó là thập giá Chúa Giêsu Kitô, dấu chỉ đó cho chúng ta thấy tình thương tha thứ của Thiên Chúa đối với mỗi người chúng ta.
Bài Phúc âm hôm nay ghi lại ba dụ ngôn về lòng thương xót của Thiên Chúa: dụ ngôn con chiên bị mất; dụ ngôn đồng bạc bị đánh mất, nhất là dụ ngôn người cha nhân hậu.
Qua bài Phúc âm, Giáo Hội nhắc lại cho chúng ta dụ ngôn về tình thương của Thiên Chúa Cha đối với con người tội lỗi. Thái độ của người chăn chiên đi tìm con chiên lạc, của người đàn bà bị mất một đồng tiền và của người cha có đứa con bỏ nhà đi hoang, thái độ yêu thương tha thứ đó vượt quá mức độ bình thường con người có thể tưởng tượng được và phản chiếu thái độ của Thiên Chúa đối với con người.
Theo lệ thường, nếu chúng ta có một trăm con chiên mà lỡ bị mất một con, chúng ta có nhất quyết đi tìm con chiên lạc cho đến khi gặp được mới thôi hay không? Chắc chắn là không, vì số chín mươi chín con còn lại không đáng giá hơn một con bị lạc mất hay sao? Quan niệm của con người chúng ta thường hay căn cứ vào số lượng, và có thể chúng ta cho rằng hành động của người chăn chiên là một hành động khác thường, nếu không muốn nói là điên khùng theo mức độ con người. Nhưng đối với Thiên Chúa thì không điên khùng, vì Ngài không đặt tương quan của Ngài trên căn bản con số, chất lượng nhiều hay ít, nhiều người hay ít người, nhưng trên căn bản tương quan giữa Ngài với từng cá nhân. Mỗi con chiên, mỗi người đều có giá trị duy nhất đối với Ngài, và do đó nếu bị lạc mất thì nhất quyết phải tìm cho được mới thôi. Rồi hành động của người đàn bà cũng thế, theo thường tình thì mất một đồng cũng không sao, vì còn cả chín đồng kia mà. Nhưng để diễn tả mức độ của Thiên Chúa thì một đồng bị mất kia là hết sức quan trọng, phải tìm cho được mới thôi.
Người cha của đứa con đi hoang, theo thường tình thì bỏ mặc kệ nó, nhưng để diễn tả thái độ của Thiên Chúa đối với con người thì người cha kia hằng ngày đứng trông con mình trở về, và đã nhìn thấy con mình trở về trước khi nó nhìn thấy ông. Người cha tha thứ cho đứa con ngay cả trước khi nó mở miệng xin tha, rồi làm tiệc ăn mừng.
Thiên Chúa muốn cứu rỗi mọi người và mỗi người, Ngài muốn tận dụng mọi phương thế có thể để ban ơn cứu rỗi cho con người. Vì Ngài yêu thương con người, yêu thương từng người một cách vô cùng, nhưng con người có chấp nhận ân sủng và tình thương của Ngài hay không?
Trong bài dụ ngôn về người cha của đứa con hoang đàng, chúng ta còn quan sát thái độ giữa hai anh em ganh tị với nhau. Người anh cả ở nhà với cha, thay vì thông cảm và mừng với em mình trở về thì anh lại tỏ ra ganh tị.
Mặt khác, như trong Cựu ước, chúng ta thấy Môisen cầu nguyện cùng Chúa, xin Ngài tha thứ cho dân đã phạm tội đến Ngài, Môisen đã không xin Chúa hủy diệt dân mình, nhưng hãy tha thứ cho dân mình. Cũng thế, chúng ta đừng bắt chước thái độ của người anh cả trong dụ ngôn, đừng ganh tị với anh chị em được ơn Chúa tha thứ cho, nhưng hãy bắt chước thái độ của Môisen cầu nguyện cùng Chúa, xin Ngài tha thứ tội lỗi cho anh chị em và cho cả chính mình nữa.
Trước nhan Thiên Chúa, tất cả mọi người chúng ta đều là những kẻ tội lỗi, đều cần đến lời cầu nguyện của nhau để trở lại cùng Chúa và trung thành với đức tin. Nguyện xin Chúa thương tha thứ các tội lỗi và nâng đỡ thành tâm thiện chí mỗi người chúng ta, giúp mỗi người chúng ta biết trở về cùng Chúa, sống xứng đáng là con cái Cha trên trời.



35. Thương người

Đề cập đến Tin Mừng nghiêm chỉnh một chút, chúng ta sẽ nhận thấy rõ điều này: những kẻ cầm quyền đương thời trong đạo Do thái, những người Pharisêu, những người tự cho mình là công chính… đã khinh thường và tẩy chay Chúa Giêsu. Trái lại, những người tội lỗi, những kẻ thu thuế… đã trân trọng và nhận biết Ngài. Thử hỏi: Nếu Chúa Giêsu trở lại giữa chúng ta hôm nay, chúng ta sẽ thuộc hạng người nào? Thuộc hạng người “công chính” không cần đến Ngài hay thuộc hạng người tội lỗi, đối tượng Ngài quan tâm khi đến thế gian? Bài Tin Mừng nêu lên vấn đề ấy. Chúng ta thấy Chúa Giêsu yêu thích “những gì đã lạc mất” một cách hết sức ngỡ ngàng. Ngài đến “tìm kiếm và cứu vớt những gì đã lạc mất”. Những lời nói này giúp chúng ta đi sâu vào tâm khảm của Chúa. Những lời nói đó đã làm rung lên một cung nhịp chính yếu của Kitô giáo: cung nhịp của tình thương.
Bài Tin Mừng thánh Luca kể lại một loạt ba dụ ngôn cùng diễn tả về một chủ đề duy nhất. Dụ ngôn thứ nhất nói về sự lo âu tìm kiếm và mừng rỡ của người chăn chiên khi tìm lại được con chiên lạc trong số 100 con chiên. Dụ ngôn thứ hai tương tự như vậy, nói về sự cố công tìm kiếm và vui mừng của người đàn bà khi tìm lại được đồng bạc rơi trong số 10 đồng. Dụ ngôn thứ ba nói về tình phụ tử hay thường gọi là dụ ngôn đứa con hoang đàng. Cả ba dụ ngôn đều nói lên tình thương tha thứ của Thiên Chúa. Cả ba đều cho biết Thiên Chúa vui mừng biết bao khi một tội nhân ăn năn hối cải. Dụ ngôn con chiên lạc cho thấy: khi người chăn chiên tìm thấy con chiên lạc, đã vác nó lên vai, vui sướng trở về nhà, kêu gọi láng giềng lại và nói với họ: “Các bạn hãy vui mừng với tôi vì tôi đã tìm được một con chiên đã lạc mất”. Rồi Chúa kết luận: “Tôi bảo thật các ông: trên trời sẽ vui mừng vì người tội lỗi hối cải hơn 99 người công chính không cần hối cải”. Cùng một cung giọng, trong dụ ngôn đồng tiền mất, chúng ta thấy những câu kết còn rõ ràng và vui vẻ tưng bừng hơn: “Tôi nói thật với các ông: các thiên thần của Chúa sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn thống hối”. Rồi trong dụ ngôn đứa con hoang đàng, cung giọng càng cảm kích hơn nữa về tình phụ tử của Chúa đối với người tội lỗi thống hối ăn năn trở về với Chúa: khi đứa con còn ở xa, người cha đã nhận ra nó, và ông thổn thức trong lòng, chạy lại ôm cổ con mà hôn.
Qua ba dụ ngôn này, Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta hai điều: Thứ nhất, sứ mạng tình thương của Ngài. Thứ hai, bổn phận và thái độ của chúng ta. Trước hết, chúng ta đều biết: Sứ mạng của Chúa Giêsu đến trần gian để cứu vớt những kẻ tội lỗi. Ngài đến để kêu gọi những người tội lỗi thống hối ăn năn, và để tìm kiếm, cứu vớt những gì đã lạc mất. Thánh Phaolô trong thư thứ nhất gửi cho Timôthêô cũng khẳng định: “Chúa Kitô đến thế gian để cứu vớt những kẻ tội lỗi”. Đó là động lực cần có để kéo Ngài xuống thế gian. Về điểm này, giáo huấn của mạc khải thật đồng nhất. Không có một đoạn văn nào, không có một chỗ nào quả quyết rằng: không có kẻ tội lỗi, Ngài cũng vẫn xuống thế gian.
Quả thực, Chúa Giêsu đã đến vì tội nhân. Đó chính là ánh sáng trong đó mạc khải bày tỏ Chúa Giêsu cho chúng ta và chúng ta phải luôn luôn ngắm nhìn Ngài trong ánh sáng này. Nói khác đi, vì yêu thương loài người tội lỗi mà Chúa Giêsu đã bỏ trời xuống thế gian. Chính tên “Giêsu” của Ngài, nghĩa là “Cứu Thế” cũng đã gắn liền với kẻ có tội. Cứu ai? Người lành đâu cần cứu, mà cứu là phải cứu người có tội. Do đó, đối với chúng ta, tình thương đã hiển hiện như một nét nổi bật của Chúa. Tình thương của Chúa không phải là một tình cảm mờ nhạt, mong manh mà là cả một tâm hồn say mê nóng bỏng. Lòng say mê đó là tình yêu đã đến cảm mến cảnh cùng khổ của chúng ta và để nâng cảnh cùng khổ đó lên. Tình thương của một Thiên Chúa làm người khôn lường và da diết. Tình thương đó không phải là một đức tính phụ thuộc nơi bản thân Người, nhưng là một nét chính yếu, đặc biệt: chính vì đó mà Ngài đã đến. Tội lỗi của chúng ta nếu được đưa vào ngọn lửa nóng bỏng yêu thương này sẽ bị thiêu hủy ngay.
Vậy nếu chúng ta có xa cách Ngài thì không phải vì chúng ta khốn cùng mà chính vì chúng ta đã không dâng lên cho Ngài sự khốn cùng đó. Chúng ta đã chẳng dâng lên cho Ngài sự khốn cùng hoặc vì chúng ta còn quá ham cái cái cảnh cùng khốn, hoặc vì chúng ta nghĩ rằng tình thương xót của Ngài quá nhỏ bé so với tội lỗi tầy trời của chúng ta. Nhưng nếu chúng ta thực sự dâng lên cho Ngài sự khốn cùng đó, thì Ngài đã vồ lấy con người tội lỗi chúng ta mau lẹ hơn cả chim phượng hoàng vồ lấy con mồi. Khi ấy, dầu tội lỗi của chúng ta có thắm đỏ bao nhiêu, Ngài cũng sẽ biến nó trắng tinh như tuyết.
Chúng ta nghĩ sao đây? Chúng ta sẽ được liệt vào hạng người Pharisêu, kinh sư hay vào hạng những người tội lỗi, những người thu thuế? Chúng ta tự nhận mình là người công chính hay người tội lỗi? Chắc chắn không ai dám cho mình là trong sạch, vô tội trước mặt Chúa, bởi vì từ ngày có trí khôn cho đến nay, biết bao nhiêu lần chúng ta đã không giữ trọn 10 điều răn của Chúa. Bao nhiêu lần chúng ta đã chịu thua cám dỗ và sa ngã. Bao nhiêu lần lời ăn tiếng nói của chúng ta là những lời hành tỏi, xét đoán, gièm pha, kết án hay là những lời hư từ vô ích. Bao nhiêu lần chúng ta đã ghen ghét, oán thù, tranh chấp… Có lẽ chúng ta không chịu bới đống rác tội lỗi của chúng ta ra thôi, chứ thiếu gì những lý do để chúng ta phải ăn năn thống hối. Chúng ta phải thành thật nhận mình là tội nhân đáng hình phạt như người trộm lành; chúng ta là đứa con hoang đàng trở về, là Mađalêna thống hối, là Phaolô bị quật ngã, là Âu Tinh cần đổi mới. Kinh Kính mừng, Thương xót, An năn tội, Chiên Thiên Chúa… dạy cho chúng ta biết chúng ta chỉ là tội nhân, là kẻ bại trận, chỉ trông hòng vào lòng Chúa thương xót mà thôi.
Mong sao tự thâm tâm chúng ta luôn vọng lên lời tự thú của người thu thuế lên đền thờ cầu nguyện: “Lạy Chúa, con là kẻ tội lỗi”. Và rồi chúng ta cũng hãy trào ra những giọt lệ sung sướng như Tin Mừng đã kể. Không cần phải có những giọt lệ trào ra từ khóe mắt, nhưng là những dòng lệ âm thầm chảy tự trong lòng. Những bước chân trở về và hoán cải thường gọi là niềm ân hận, âm thầm đau đớn về những lầm lỡ đã qua, đó là con tim tan vỡ, hay nói giản dị hơn, là lòng ăn năn hối cải. Tấm lòng ăn năn đó đôi khi được bộc lộ bằng những dòng lệ chảy ra từ khóe mắt, đó là những dòng lệ thấy được từ bên ngoài, nhưng quí hóa hơn, âm thầm sâu kín hơn vẫn là những dòng lệ đau đớn của con tim. Ước mong đó là những dòng lệ của chúng ta. Lạy Chúa, xin đừng chê bỏ con, xin nhận lấy tấm lòng con: tấm lòng tan nát khiêm cung.



36. Nhân hậu

Có một bài hát chúng ta hay hát trong lễ cầu hồn mà tôi rất thích: “Chúa là Đấng Từ Bi và Nhân Hậu, Người đại lượng và chan chứa tình thương”. Vâng, tình thương nhân hậu ấy của Thiên Chúa từ ngàn xưa đến nay vẫn luôn tuôn đổ trên muôn loài Chúa tác thành: trên muôn vật, muôn dân, muôn người, và đặc biệt trong Phúc âm hôm nay, tình thương ấy còn được tuôn đổ trên tội nhân khiến “Người không xử với họ như họ đáng tội, và không trả cho họ theo lỗi của họ”.
Vâng, trong Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay, chúng ta sẽ được chiêm ngưỡng cách rõ nét và cụ thể lòng nhân hậu ấy của Thiên Chúa, để rồi từ đó ta được mời gọi sống noi gương Ngài, cư xử nhân ái với anh chị em xung quanh.
Trước hết, điều đáng chú ý trong các bài đọc Lời Chúa hôm nay là: có một sự tiến triển trong việc mạc khải khuôn mặt nhân hậu của Thiên Chúa. Nói cách khác, từ bài đọc I đến bài Phúc âm, lòng nhân hậu của Thiên Chúa được khắc họa ngày càng rõ nét hơn.
Thật vậy, nếu như ở bài đọc I, tác giả sách Xuất Hành diễn tả cơn thịnh nộ của Thiên Chúa trước tội “thờ bò vàng” của dân Israel, và phải nhờ lời cầu khẩn của Môsê, cơn thịnh nộ ấy mới nguôi dần, cho thấy khuôn mặt nhân hậu của Thiên Chúa mới chỉ được phác họa cách mờ nhạt, thì đến bài đọc II, thánh Phaolô đã diễn tả khuôn mặt ấy ở một chiều kích khác, cụ thể hơn, gần gũi hơn: Chúa nhân hậu không chỉ cách chung chung với một dân, một nhóm người, mà Ngài còn nhân hậu với từng người một, như kinh nghiệm chính thánh Phaolô đã thuật lại khi xác tín: “Đức Giêsu đã đến trần gian để cứu chuộc những người tội lỗi, mà kẻ đầu tiên là tôi”. Với câu nói này, khuôn mặt nhân hậu của Thiên Chúa đã được cụ thể hóa nơi Đức Giêsu, Đấng được Chúa Cha sai đến để cứu độ con người.
Tuy nhiên, hình ảnh Thiên Chúa nhân hậu chỉ thực sự được xuất hiện cách rõ nét trong bài Phúc âm qua chính hình ảnh của Chúa Giêsu và ba dụ ngôn nổi tiếng về lòng nhân hậu của Thiên Chúa mà chỉ Phúc âm thánh Luca, một Phúc âm được mệnh danh là “Phúc âm của lòng nhân hậu Chúa” mới ghi lại, đó là các dụ ngôn: “Con chiên lạc”, “đồng bạc mất” và “người cha nhân hậu”.
Đi vào bối cảnh của ba dụ ngôn ta sẽ thấy được chủ ý của Chúa Giêsu khi đưa ra ba dụ ngôn này. Người Biệt phái thấy Đức Giêsu đón tiếp người tội lỗi thì khó chịu và phiền trách Chúa: “Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng”. Trước thái độ ấy, Chúa Giêsu đã cho họ một bài học. Với giáo huấn của Chúa Giêsu, Thiên Chúa không còn là một Thiên Chúa xa xôi, hay giận dữ như trong Cựu ước quan niệm nữa, nhưng là một Thiên Chúa rất gần gũi và giàu lòng nhân hậu đối với những kẻ lỗi lầm.
Lòng nhân hậu ấy của Thiên Chúa được diễn tả qua hai hành động cụ thể: Đi bước trước đến với tội nhân và hoàn toàn tha thứ mọi lỗi lầm cho tội nhân.
Đi bước trước đến với người tội lỗi: các dụ ngôn hôm nay đều diễn tả điều này. Hình ảnh người chăn chiên không chờ phải nghe tiếng con chiên lạc kêu cứu mới đi tìm, mà ngay khi phát hiện nó đi lạc, ông đã vội vã đi tìm ngay; hay người cha nhân hậu chạy ào ra đón con khi thấy nó từ đàng xa, mà không chờ một lời xin lỗi đã nói lên điều đó. Cũng thế, Thiên Chúa luôn yêu thương và đi bước trước đến với con người. Ngay khi ta còn là tội nhân, Thiên Chúa đã sai Con Một đến cứu độ chúng ta. Chính Chúa Giêsu, trong cuộc đời tại thế cũng vậy, Ngài từng đi bước trước đến với người tội lỗi để cứu chữa họ, nâng họ dậy. Những cuộc gặp gỡ giữa Ngài và Mađalêna, người phụ nữ bên giếng Giacop, Giakêu… đã cho thấy điều này. Cảm nghiệm được tình thương ấy của Thiên Chúa, thánh Gioan đã thốt lên: “Chúa thương ta ngay từ khi ta còn là kẻ có tội”.
Hoàn toàn tha thứ mọi lỗi lầm cho tội nhân: dấu chỉ của sự tha thứ ấy là: phục hồi nguyên trạng cho họ. Hình ảnh người cha sai gia nhân mang áo, nhẫn, giày mới… cho người con trở về đã nói lên điều đó. Anh ta đã được tha thứ mọi lỗi lầm và được lại địa vị làm con trong gia đình. Chúa Giêsu cũng từng phục hồi phẩm giá cho tội nhân khi tha thứ mọi lỗi lầm cho họ: cho Phêrô, cho người phụ nữ ngoại tình, người trộm lành… và nhất là cái chết của Ngài đã phục hồi địa vị làm con cho toàn nhân loại tội lỗi.
Chúng ta cũng cảm nhận được điều này khi lãnh nhận Bí tích Giải tội: được lại những công phúc ta lập đã bị mất đi do tội lỗi gây nên, và nhất là được lại địa vị làm con Thiên Chúa.
Tóm lại, qua giáo huấn và chính cuộc đời Chúa Giêsu, ta nhận ra một Thiên Chúa nhân hậu với những hành động thật cụ thể. Tuy nhiên, không dừng ở lại đó, Ngài còn mời gọi ta hãy noi gương Ngài, cư xử nhân hậu với tha nhân.
Với lời mời gọi: “Hãy chung vui với tôi” và “chúng ta phải vui mừng vì em con đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy”. Chúa đang mời gọi chúng ta hãy noi gương Ngài cư xử nhân hậu với tha nhân, những anh chị em của mình, đặc biệt là những người bị coi là tội lỗi.
Tuy nhiên, với bản tính con người ta thấy, thực hiện điều này không phải là dễ: làm sao tôi có thể đi bước trước để đến với kẻ xúc phạm tôi? Làm sao tôi có thể tha thứ cho kẻ đã cướp bóc, chà đạp nhân phẩm tôi …? Vậy thì công bằng ở đâu? Vâng, đó cũng là suy nghĩ của người Biệt phái và người anh cả hôm nay, thế nên họ không thể tha thứ lỗi lầm cho người khác. Với lẽ tự nhiên của con người thì không thể được, nhưng thử nhìn lại cuộc đời mình xem: biết bao lần nếu Chúa cư xử công bằng với ta như ta đáng tội, thì liệu ta có còn tồn tại như ngày hôm nay không? Thế nên, trong cuộc sống không chỉ có công bằng mà còn có bác ái, có lòng nhân hậu nữa, nhất là đối với những người con cái Chúa. Như vậy, lời mời gọi sống nhân hậu của Chúa hôm nay vẫn là lời mời gọi chúng ta. Dù biết rằng khó, ta vẫn phải cố gắng thực hiện, lý do vì:
Mỗi người đều là tội nhân, đều từng được Chúa cư xử nhân hậu, nên phải nhân hậu với nhau. Đừng để lời quở trách trên con nợ bất lương xưa kia giờ lại xuống trên ta: “Sao ngươi không cư xử với anh em ngươi như Ta đã cư xử với ngươi!”. Hơn nữa, “Con nhà tông không giống lông cũng giống cánh”, nếu Chúa là Đấng Nhân hậu thì tại sao là con, ta không sống nhân hậu như Thiên Chúa là Cha của mình?
Tóm lại, lời Chúa hôm nay trình bày cho ta hình ảnh một Thiên Chúa từ bi nhân hậu, qua đó mời gọi chúng ta noi gương Ngài trong cư xử với tha nhân. Để kết luận, xin đưa một vài thực hành cụ thể qua Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay như sau:
* Đối với Chúa: Ta hãy luôn sống trong tâm tình cảm tạ, vì Chúa đã đối xử nhân hậu với ta, bằng cách tránh xa tội lỗi; đồng thời, mỗi khi lỡ phạm tội, hãy tin tưởng vào lòng Chúa xót thương mà chạy đến với Ngài trong Bí tích Giải tội.
* Đối với tha nhân: Ta hãy noi gương Chúa, luôn thông cảm với những lỗi lầm của anh em, và tha thứ khi anh em xúc phạm đến mình, không mang tật xấu của họ ra bàn tán…
Nguyện xin Thiên Chúa ban ơn giúp sức để chúng ta biết sống noi gương Ngài, Đấng Từ Bi Nhân hậu, hầu xứng danh là con của Cha trên trời.


 

37. Tiếng khóc

Ở Trung Hoa người ta thường truyền miệng nhau câu chuyện về Tống Thế Tổ nói với thần tử là Lưu Đức Nguyên rằng: "Nếu ông vì qúy phi của ta đã chết mà khóc ai oán thì ta sẽ thưởng cho rất nhiều của cải".
Lưu Đức Nguyên lập tức đấm ngực, dậm chân khóc khan cả cổ họng, nước mắt nước mũi chảy xuống ào ào, hoàng đế rất hài lòng liền ban cho làm thích sứ Dự Châu.
Tôn Thế Tổ lại kêu đại phu Dương Chí, ông này cũng khóc rất là thảm thiết, không bao lâu sau có người hỏi Dương Chí: "Ngài làm thế nào mà giống như thật vậy?"
Dương Chí nói: "Vì lúc ấy bà vợ bé của tôi cũng mới chết".
Qua câu chuyện kể trên, ta thấy lưu Đức Nguyên và Dương Chí đều khóc lóc thảm thiết, có thể qua mặt được Tống Thế Tổ, nhưng trong lòng hai người với hai kiểu khóc khác nhau, một người khóc vì,lợi danh còn một người khóc vì thương tiếc người vợ bé của mình. Đó cũng chính là hai kiểu khóc mà chúng ta rất dễ thấy trong cuộc sống. Đặc biệt trong bài dụ ngôn người cha nhân hậu hôm nay, chúng ta dễ dàng nhận ra các kiểu khóc qua 3 nhân vật:
1. Kiểu khóc thống hối.
Việc người con thứ xin chia gia tài trong lúc người cha còn sống là một thái độ bất trung, bất hiếu, vì khi còn sống người cha không buộc chia gia tài cho con. Có thể nói người con thứ này thật đáng trách, cái đáng trách không phải ở vật chất, của cải mà là vì muốn thõa mãn ý riêng bất chấp tất cả dù điều đó làm phiền lòng cha "xin cha cho con phần gia tài thuộc về con". Mọi hành động của người con thứ chỉ có thể diễn ta bằng hai chữ "tội lỗi". Nhưng tất cả những lỗi lầm đó đã được xóa bỏ cũng bằng hai chữ "sám hối". Qua việc anh ta muốn "thưa cha con đã phạm đến Trời và đến cha". Sự hối lỗi ở đây không phải vì miếng ăn, cũng không vì anh ta qúa cực, nhưng nó được ăn năn hối lỗi từ tấm lòng thành, từ tình thương của người cha đã làm cho anh ta hối lỗi thật sự. Tự nơi đáy lòng anh một tiếng khóc thống hối đã được cất lên, từ một con tim, từ một quyết tâm từ nay quay đầu trở lại, quyết sống thành một người con tốt. Thật vây ta mới thấy rõ "không một thánh nhân nào không có quá khứ, không một tội nhân nào lại không có tương lai". Vì thế, chúng ta không có quyền đáng dấu chấm hết cho bất cứ ai, nhưng hãy mở ra cho họ một con đường sống, và điều quan trọng là mở rộng tình thương đón nhận người khác và nhìn lại mình để mà cất tiếng khóc thống hối.
2. Kiểu khóc mướn
Là kiểu khóc dành cho người anh, vì khóc mướn chính là hành động bên ngoài xem ra rất tốt, nhưng bên trong thì không. Có khi là hoàn toàn ngược lại, họ khóc với một điệu bộ thê lương vì tiền, chứ không phải vì tử biệt sinh li, họ bán nước mắt, bán cử điệu bên ngoài, hay nói đúng hơn là họ làm động tác giả để mà sống... họ chỉ còn thiếu một chút xíu đó là tấm lòng.
Hình ảnh người con cả hôm nay ám chỉ người Do Thái cách riêng ám chỉ các luật sĩ và biệt phái... Suốt ngày họ không phạm một điều gì trong lề luật "không hề trái lệnh cha một điều nào". Sống bên ngoài xem ra rất tốt, học "khóc" rất hay, nhưng chính lời nói cuối cùng đã tố cáo con người của họ "còn thằng con của cha kia", câu nói cho thấy một sự loại bỏ, một sự trù dâp, thiếu tình yêu thương nhưng lại thể hiện một sự kiêu ngạo tự mãn về mình. Do đó, một hành động tốt, hay một loạt hành động tốt cũng không thể chứng minh đó là người tốt, mà người tốt phải có hành động tốt, và con tim tốt. hàng ngày chúng ta vẫn khóc qua các cử chỉ và hành động, nhưng Thiên Chúa luôn muốn chúng ta khóc cả bên ngoài lẫn tâm tình bên trong. Ngài không hề vui khi chúng ta không đạo đức, siêng năng đi đọc kinh xem lễ lại sống xa cách, hay dửng dưng với người xung quanh.
3. Kiểu khóc hạnh phúc.
Người cha trong bài Tin Mừng nhằm ám chỉ Thiên Chúa. Trước tiên Thiên Chúa luôn tôn trọng tự do của con người nên: "người cha liền chia gia tài cho con", tuy rằng theo luật người cha không buộc phải chia gia tài cho con khi còn sống, nhưng người cha lại chia ngay, không do dự, không ngăn cản khi người con xin: điều này chứng tỏ người cha tôn trọng sự tự do vì thương con. Điều này muốn diễn tả Thiên Chúa tôn trọng tự do của con người ngay cả khi con người bất trung với Người, vì Người luôn trung thành và yêu thương con người. Điều quan trọng nhất trong bài Tin Mừng hôm nay là lòng nhân từ của người cha, và sự hối lỗi của đứa con hoang đàng. Hai hình ảnh này đã vẽ lên cho bài dụ ngôn một bức tranh tuyệt vời. Một bên là người con khóc hối lỗi, còn một bên là người cha nhân từ khóc hạnh phúc vì đã tìm được đứa con mà mình mong ước. Chắc chắn người cha không lúc nào lại không chờ mong con mình. Ông không cần đợi thằng con "bất hiếu" lên tiếng, nhưng vì tình yêu và lòng nhân từ ông đã đi bước trước "khi nó còn ở đàng xa, cha nó chợt trông thấy liền động lòng thương!". Ôi lòng nhân từ của Thiên Chúa đã vượt xa hơn muôn ngàn tội lỗi con người, Thiên Chúa luôn đợi ta mỗi ngày, còn ta thì cứ dửng dưng, lạm dụng tự do, mê của đời trần thế mà bỏ chính người cha luôn yêu thương mình. Chắc chắn Thiên Chúa ghét tội, nhưng Ngài luôn yêu thương kẻ có tội. Vậy trong tâm tình sám hối chúng ta hãy trở về với người cha đang chờ đón chúng ta. Amen.



38. Bởi vì chúng nó là con của tôi!

Một hạt giống nhỏ bé nằm ở dưới lòng đất, và bắt đầu nảy mầm. Nhìn thấy những đóa hoa khác, nó tự hỏi, “Không biết mai mốt tôi sẽ nhìn giống hoa gì nhỉ?”
“Gương mặt của hoa huệ thì đẹp, lộng lẫy, nhưng hơi lạnh lùng. Còn hoa hồng thì quá sặc sỡ, và cũng quá cổ rồi. Còn đóa hoa tím, tôi sẽ không chọn kiểu hoa ấy đâu, hoặc là cả cái hoa mầu xanh dương.”
Và cái hoa nhỏ bé đó đã phê bình đủ mọi thứ hoa cho đến khi nó tỉnh giấc vào một buổi trưa hè nắng khi nó nhận ra mình chỉ là một loại hoa cỏ dại!
Các thánh ký viết Phúc Âm nói cho chúng ta biết rằng Chúa Giêsu đã bị bè phái Pharisiêu phê phán đủ chuyện cả. Trong bài Phúc Âm hôm nay, họ bàn tán phản đối Ngài là người qua lại với thứ tội lỗi. Trong thời Chúa Giêsu, kẻ tội lỗi được hiểu là người chống lại Thiên Chúa, có thể là cuộc sống vô luân hoặc là đang làm công việc bần tiện. Dĩ nhiên, câu định nghĩa này bao gồm luôn cả những người thu thuế, đĩ điếm, là những người bị phái Pharisiêu xa cách, mà chỉ có Chúa Giêsu thì không.
Thánh Luca kể lại cho chúng ta biết rằng những người thu thuế và kẻ tội lỗi thì đến gần Chúa Giêsu để nghe Ngài giảng. Còn những người Pharisiêu và luật sĩ thì bàn tán với nhau rằng, “Ông này qua lại và ăn uống với kẻ tội lỗi” (Lc 15:2). Những người Pharisiêu là những kẻ bị gai mắt soi bói rằng: Làm sao mà ông này lại nói về Thiên Chúa với thứ dân này? Chúa Giêsu đã trả lời các ông qua các dụ ngôn.
Dụ ngôn thứ nhất là về người chăn 100 con chiên mà bị lạc mất một con. Anh đã bỏ 99 con kia lại mà đi tìm con chiên bị lạc mất. Khi tìm thấy nó, anh đã vác nó lên vai và trở về nhà vui mừng. Sau đó, anh đã gọi bạn bè lại và ăn mừng. “Tôi nói cho các ông hay: trên trời cũng thế, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối, hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần phải sám hối ăn năn” (Lc 15:7).
Dụ ngôn thứ hai là người đàn bà có 10 đồng quan, mà chẳng may bà đã đánh mất một đồng. Sau đó, bà đi tìm và tìm thấy nó, bà vui mừng và mời bạn bè đến chia vui (Lc 15:8-9).
Dụ ngôn thứ ba là người con hoang đàng. Anh đã đòi cha của anh chia gia tài và đi chơi phung phí ở phương xa. Sau khi đã xài hết tiền của rồi, hai bàn tay trắng, anh đã trở về với lòng thống hối xin cha anh tha thứ. Người cha đã sẵn sàng tha thứ cho anh mà còn ôm hôn anh. Thế nhưng, người con lớn trong gia đình thì không chút vui vẻ gì đối với thái độ cư xử nhân hậu của cha, anh hậm hực tức tối bởi vì anh đã ở nhà với cha trong khi người em của anh lại đi trụy lạc ở ngoài.
Có lẽ nhiều người sẽ thà chịu mất một con chiên và ở lại với 99 con chiên, hoặc là chẳng để công mà tìm một quan tiền, đàng nào cũng còn 9 quan. Có lẽ nhiều người sẽ đồng ý với thái độ bực tức của người con lớn bởi vì anh đã trung thành ở với cha mình mà lo lắng tất cả những công việc trong nhà.
Hãy thành thật với chính mình đi! Bạn có thấy tiếng từ trong tâm hồn của bạn đang đồng ý với những điều đó không? Đáng lẽ người con trung thành ở nhà với cha, phải đáng giá hơn chứ?
Trong đề tài về giá trị con người, nhà thần học Michael P. Green đã trình bày như sau:
Giả dụ như có một bà mẹ vừa mới sinh ra được một người con. Sau đó, một người đến hỏi bà mẹ đó bán người con đó cho ông. Ông sẽ trả cho bà $10,000 hoặc thậm chí ông có thể trả cho bà cả một triệu đồng. Thế nhưng bà mẹ ấy sẽ vẫn không bán người con yêu quí của mình cho người đàn ông đó. Bà chỉ biết ôm con sát vào lòng và trả lời, “Con của tôi thì vô giá.”
Một điều dĩ nhiên là bà mẹ đã đó không suy nghĩ gì đến những vất vả mà bà sẽ phải trả khi phải nuôi lớn đứa con của bà. Bà sẽ phải thay cả đến hơn ngàn cái tã, thức khuya dậy sớm, lo thuốc thang khi nó bệnh. Thế nhưng tất cả những cái khổ cực đó vẫn không là gì bởi vì bà mẹ đó đã chọn cái giá trị của đứa bé đó cao quí hơn là tiền bạc và khó nhọc. Bà đã chọn để yêu người con của bà.
Đáng giá như thế không phải là ở chỗ cái nhìn ở bên ngoài, nhưng là con người. Cái đáng giá đó, phản chiếu hình ảnh của Thiên Chúa, phải là một căn bản cho sự định giá của con người chúng ta.
Trở về dụ ngôn người con hoang đàng, người cha đã có thể mở rộng cánh tay để ôm người con vào lòng là bởi vì ông không nghĩ đến những điều cậu đã làm, nhưng vì cậu là con của ông.
“Tôi nói cho các ông hay: trên trời cũng thế, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối, hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần phải sám hối ăn năn” (Lc 15:7). Điều này không có nghĩa là Thiên Chúa yêu thương kẻ có tội hơn là những người ăn ở tốt lành. Chân lý của Phúc Âm không phải là Thiên Chúa thiên vị yêu kẻ này hơn kẻ khác. Chân lý của Phúc Âm chính là Thiên Chúa yêu thương tất cả chúng ta một cách đồng đều. Chân lý đó là tất cả chúng ta đều là kẻ tội lỗi, kể luôn cả những kẻ cho rằng mình tốt lành mà không nghĩ rằng mình cần phải sám hối.



39. Chúa Nhật 24 Thường Niên

Còn có Thứ Tình Yêu nào cao cả hơn?
"Trên trời sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối, hơn là vì 99 người công chính không cần ăn năn..." (Lc 3, 24)
Anh chị em thân mến,
Chương 15 của Phúc âm thánh Luca mà chúng ta đọc trong ngày CN hôm nay, gồm 3 dụ ngôn, được coi như tuyệt phẫm của Tình yêu: dụ ngôn bầy chiên với 100 con: lở mất một con; ông chủ sẵn lòng để 100 con lại đó, đi tìm cho được con mất, vác trên vai đem về - dụ ngôn 2: người đàn bà lỡ mất một đồng bạc, liền thắp đèn, quét nhà tìm cho đến khi thấy được đồng bạc đó - nhất là dụ ngôn cuối cùng: người con hoang đàng và người cha nhân hậu với lời kết luận từ miệng người cha: "chúng ta phải ăn mừng, vì em con đây đã chết, mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy..." Cả ba dụ ngôn diễn tả thật đậm nét tình yêu thương vô bờ TC đối với tội nhân hối cải. Kính mời anh chị em cùng suy niệm.
a. nguyên do ba bài dụ ngôn: số là các người thu thuế và người tội lỗi thường đến bên Chúa Giêsu để nghe Chúa giảng dạy; thấy vậy, mấy người biệt phái, kinh sư xầm xì chê trách Chúa Giêsu: ông này hay niềm nở đón tiếp kẻ tội lỗi, ăn uống với chúng nữa. Những người Do thái làm nghề thu thuế cho người La mã bị xếp ngang hàng với người tội lỗi, bị khinh miệt và bị loại trừ khỏi phụng vụ đền thờ nữa. Chính họ không tự nhận mình tốt lành; trong khi nhóm biệt phái, kinh sư là nhóm người có địa vị cao trong đạo do thái. Họ nhiệt thành quá với Lề Luật, đến độ thiếu lòng bác ái, thích sống giả hình, hay coi khinh kẻ khác. Chính Chúa Giêsu nhiều lần đả kích họ. Cũng chính mấy bài dụ ngôn sau đây muốn nói lên điều đó...
b. hình ảnh người chủ chăn có 100 con chiên - hình ảnh người cha nhân hậu: chính là hình ảnh Thiên Chúa Tình yêu, luôn chủ động đi tìm con chiên lạc, cho đến nổi có thể bỏ lơ 99 con chiên tốt lành, chỉ để đi tìm con chiên bị lạc; vì " trên trời sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối, hơn là vì 99 người công chính không cần ăn năn.." Chúa Giêsu Kitô, Ngôi Hai Con Thiên Chúa, đã chấp nhận sinh vào trần gian...đã lặn lội đi rao giảng Nước Trời cho mọi người.... băng bó chữa lành cho kẻ đau yếu... và đã chết đau thương vì nhân loại chúng ta. Như vậy, chính Thiên Chúa là người đi bước trước trong Tình Yêu, người chủ động kêu mời nhân loại sống trong Tình Yêu, nhất là kêu gọi trở về trong Tình Yêu khi đã bị mất. Dụ ngôn Người Cha nhân hậu, cho chúng ta thấy mối bận tâm duy nhất của ông chính là: làm sao cho đứa con lỡ đi hoàng đàng: đi tìm - vui mừng khi tìm được - khi con trở về, ôm cổ hôn lấy hôn để, sai gia nhân làm tiệc...Chính câu trả lời của ông cho người con cả, đã nói hết tấm lòng của Ông: "này con, chúng ta phải ăn mừng vì em con đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy.."
c. Thái độ của hai người con: Người con thứ: tính tình nông cạn, ảo tưởng, đam mê, tội lỗi, xúc phạm đến tha nhân và Thiên Chúa: đó chính là hình ảnh của cả nhân loại chúng ta. Tuy nhiên, sau khi ăn năn, thái độ của anh ta thật đáng khen, vì biết mạnh dạng, dứt khoát, không chần chừ. Đó chính là gương thật lòng ăn năn sám hối.... Người con cả: bên ngoài xem ra là mẫu mực, không có điều gì chê trách, nhưng trước tấm lòng bao dung của cha, người con cả tỏ ra tự phụ, khinh khi em mình trước mặt cha. Thật là thái độ đáng tiếc...Chính thái độ này cũng là thái độ của các kinh sư, biệt phái, tự cho là mình chân chính, là con cháu tốt lành của Abraham, để từ đó coi khinh kẻ khác
d. Gợi ý sống và chia sẻ: Là người kitô hữu ngày hôm nay, đọc qua gương của hai người trong bài Tin Mừng hôm nay, đã cho ta bài học nào? Khi nhìn lại, ta thấy mình là hạng người con nào trong hai người con của Người Cha nhân hậu?



40. Niềm vui khi tìm gặp lại

(Suy niệm của Lm Nguyễn Ngọc Long)
Niềm vui khi tìm gặp lại, thiết tưởng ai cũng đã sống trải qua trong đời. Cha mẹ gặp lại con cái sau lâu ngày đi làm hay đi học xa nhà. Vợ chồng gặp lai nhau, vì hoàn xa cách do chiến tranh gây ra, do tỵ nạn di cư mỗi người lạc một nơi. Bạn bè tìm thấy nhau sau thời gian cùng chung học mỗi người lưu lạc mỗi phương trời...
Còn nỗi vui mừng nào lớn lao hơn nữa, khi gia đình, bạn bè, đồng hương được xum hợp, đất nước được thống nhất không còn chia cắt hai miền Nam Bắc năm xưa ở bên quê nhà Việt Nam, năm 1989 khi bức tường Bá Linh sụp đổ không còn chia cắt hai miền đất nước Đông Tây nữa, khi người Đại Hàn ở miền Nam được sang tìm gặp lại thân nhân của mình ở miền Bắc nước Triều Tiên...
Đức Mẹ Maria và bà thánh Elisabét vui mừng hân hoan gặp lại nhau. Họ mừng rỡ chúc tụng nhau và cảm tạ Thiên Chúa (Lc 1:39-45)
Đức Mẹ Maria và Ông thánh Giuse lo lắng âu sầu đi tìm trẻ Giêsu đi lạc. Khi tìm gặp lại con mình, niềm vui mừng của Ông Bà biểu lộ qua sự ngạc nhiên, vì thấy con mình chững chạc ngồi nói chuyện với những người thông thái. Hai Ông Bà thở ra nhẹ nhàng và thốt lên lời biểu lộ niềm vui mừng âu yếm thương con: “Con ơi, sao con lại xử với Cha Mẹ như vậy? Con thấy không, cha con và mẹ đây đã phải cực lòng tìm con!” (Lc 2:41-48)
Khi tìm gặp lại người thân yêu hay đồ vật quí báu đã lâu ngày thất lạc, tưởng như đã mất, lúc đó niềm vui mừng hân hoan không chỉ dào dạt trong trái tim trí não, nhưng hiện lộ ra trên gương mặt, nơi khoé mắt.
Niềm vui mừng đó có thể biến thành giòng nước mắt sung sướng hạnh phúc vì quá cảm động không nói nên lời và chỉ còn biết giang tay đón nhận. Như người cha con nhân lành mừng mừng tủi tủi giang đôi tay ôm hôn cậu ấm trở về bình an. (Lc 15:11-32).
Niềm hạnh phúc đó biến đổi gương mặt thành sáng rực đỏ chói, không phải vì xấu hổ, nhưng là dấu hiệu của sung sướng hạnh phúc đang sôi sục dâng tràn trong tâm hồn.
Niềm hân hoan sung sướng có thể là tiếng cười dòn đã vang tiếng, là lời khoe báo tin mừng cho mọi người. Như người mục đồng tìm thấy lại con chiên, con trâu, con bò, con dê của mình đi lạc đàn. Như một bà lão sống cảnh đạm bạc nghèo khó chiu chắt tiết kiệm từng đồng xu cắc bạc, lo âu quét nhà soi đèn mò mẫm tìm thấy lại đồng bạc đã mất. Vì đồng bạc này có thể giúp bà mua được gạo, được thức ăn cho ngày sống (Lc 15:1-10).
Vui mừng sung sướng hạnh phúc vì của châu báu hay người mình quý mến thương yêu đã thất lạc xa vắng, nay lại tìm gặp thấy.
Đó cũng là nỗi vui mừng hân hoan của Thiên Chúa, Đấng sinh thành nuôi dưỡng đời con người, khi chúng ta từ bỏ điều xấu xa tội lỗi sống theo điều thiện, theo giới răn Tình Yêu như Chúa muốn: “Triều Thần Thiên Chúa, ai nấy vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối”. (Lc 15:10).



41. Lạc lối - Lm Bùi Quang Tuấn

Theo một bản thống kê được đăng trên tờ Tablet (12/1996): hàng năm tại Anh quốc có khoảng 250 ngàn người thuộc mọi lứa tuổi bị mất tích, vì đủ thứ lý do. Một cơ quan bác ái chuyên về tìm người thất lạc được thành lập năm 1992, hoạt động liên tục 24 giờ một ngày, 365 ngày một năm, và hiện nay vẫn đang phát triển không ngừng.
Riêng tại Hoa kỳ, mỗi năm, có khoảng 50 ngàn đứa bé được ghi nhận mất tích. Trong số đó, 5 ngàn em bị thiệt mạng trước khi được tìm thấy xác. Tại nhiều quốc gia, người ta không thể đưa ra con số chính xác về các vụ mất tích. Có nơi chính phủ chỉ thành lập các chương trình tìm kiếm xe mất cắp, các đồ vật bị đánh rơi, hay quà cáp thư từ bị giao sai chỗ, chứ không hề có chương trình tìm người thất lạc.
Nguyên nhân gây nên tình trạng mất tích hay thất lạc thì vô số, nhưng các chuyên gia xã hội tóm tắc vào ba điều căn bản sau đây: 1) bị bắt cóc bởi các cha mẹ không còn chung sống với nhau; 2) là nạn nhân của các tội ác bạo động trong xã hội; 3) bỏ nhà ra đi vì không tìm thấy hạnh phúc gia đình.
Dù khởi đi từ nguyên nhân nào, sự thất lạc cũng đều gây cho người ở lại một nỗi xót xa nuối tiếc. Của thất lạc càng quí thì niềm tiếc nuối càng da diết, càng thúc đẩy một cuộc kiếm tìm. Càng tha thiết gắn bó với của bị mất bao nhiêu càng làm cho nỗi vui mừng thêm chất ngất khi tìm gặp lại bấy nhiêu.
Nhớ nhung, xót xa, nuối tiếc, kiếm tìm, hân hoan, hạnh phúc… tất cả diễn tả tâm tình của một người Cha nhân từ đối với đứa con “bị lạc” nhưng nay lại “tìm thấy,” “bị chết” mà nay đã “phục sinh.” Nỗi niềm đó được trình bày trong ba dụ ngôn: “Con Chiên Lạc,” “Đồng Bạc Mất,” và “Người Con Hoang Đàng.”
Các dụ ngôn, với cấp độ đi lên, từ con vật đến đồng tiền rồi đến con người, và cấp số giảm xuống từ 100 đến 10 rồi còn 2, đã nói lên giá trị quí báu của từng con người trong đôi mắt yêu thương của Thiên Chúa. Đối với Ngài, ai cũng có một phẩm giá riêng biệt. Không phải vì con số 99 quá lớn mà chấp nhận bỏ đi số “1” nhỏ nhoi.
Với người giàu, một đồng nào có nghĩa lý gì, công đâu bỏ ra để bới tìm một đồng cho phí giờ, nhọc thân. Trên thế gian có biết bao nhiêu sinh linh, hà cớ chi phải lao đao vất vả vì một kẻ tội đồ. Chắc hẳn những người biệt phái nghĩ thế. Nhưng Chúa Giêsu nghĩ khác. Ngài ví mình như một người rất nghèo, thiếu thốn những tâm hồn sám hối, khao khát tìm lại những gì thất lạc để đưa về với nẻo chính đường ngay. Phải chăng vì “nhà Cha Ta có nhiều chỗ ở”, hay vì lòng Cha quá quảng đại bao dung mà thêm một tâm hồn lầm lạc trở về, thì lòng Ngài lại mừng vui sung sướng: “Bà con hãy chia vui với tôi… Bà con hãy vui mừng cùng tôi… Chúng ta phải ăn khao mới được” (Lc 15:6,9,23).
Những “con chiên lạc đàn” được ví như những chiếc tàu không bánh lái hay mất hướng đi. Hành trình lầm đường này có thể xảy ra do sự u mê của chính nó, nhưng cũng có khi vì không được quan tâm chỉ dẫn đúng mức.
Có những con chiên xa đàn lạc lối, nhưng cũng có những con đang sống trong đàn mà chẳng phải là chiên. Có đứa con bỏ nhà xa cha, nhưng cũng có đứa con tuy sống gần cha mà lòng dường như đi hoang từ lâu. Nó coi cha không khác gì ông chủ hà khắc keo kiệt, chẳng hề bố thí cho một con dê để vui vầy với chúng bạn. Như vậy, có thứ lạc đàn thể lý và cũng có thứ lạc đàn tâm linh. Có những người không đi nhà thờ vì lòng họ xa Chúa, song cũng có những người không bỏ nhà thờ nhưng lòng cũng chẳng gần Chúa hơn được bao nhiêu. Có lẽ vì tâm trí họ đang đi lạc trong khu rừng có nhiều tieng ca của danh vọng, hương sắc của đồng tiền, hung khí của hận thù, giọng ríu rít đầy lôi cuốn của xác thịt.
Sai lạc nào cũng cần chỉnh đốn. U mê nào cũng cần ánh sáng chiếu soi. Nhưng có thứ ánh sáng nào ấm đẹp cho bằng yêu thương. Vì có yêu thương mới có tìm kiếm chiên, cõng lên vai, đem về nhà. Có yêu thương, người ta mới ngóng trông, đón nhận, dung thứ, ăn mừng. Nhờ yêu thương mà chiên lạc thành chiên ngoan và con đi hoang lại tìm được mái ấm gia đình.
Cách đây không lâu, Nhật báo Người Việt có đăng một bản tin: Vào một ngày tối trời tháng Ba năm 1999, đang lúc xem TV trong nhà, bà Huỳnh P. T. Vân tại Bà điểm Hóc môn chợt nghe tiếng chó sủa dữ dội. Bà vội mở cửa xem thì khám phá một em bé trai sơ sinh trần trụi, đang nằm dưới hàng dậu trước nhà. Đứa bé dường như mới chào đời, cuống rốn còn nguyên chưa ai cắt, mình mẩy dính đầy cát, kiến đang bắt đầu bu lại, và đôi chân tím bầm.
Hốt hoảng, bà vội bế đứa bé vào nhà và tìm cách đưa ngay đến bệnh xá trong huyện. Sau khi được y tá cắt cuống rốn cùng chữa trị đôi chân, bà Vân đưa đứa bé về nhà, đặt tên Trần Minh Phúc.
Nhiều người dân trong vùng muốn nhận em làm con nuôi, thậm chí có người xin tặng bà Vân ba lượng vàng để có được cháu bé. Thế nhưng bà Vân vẫn không tha thiết với lời đề nghị kia. Bà tâm sự: “Nhìn mặt cháu tự nhiên thấy thương như con đẻ của mình. Thức với nó mấy đêm, thương lắm rồi, không xa được.” Nhà tuy nghèo nhưng bà khẳng định sẽ giúp cháu sau này ăn học đàng hoàng.
Xót xa làm sao khi người mẹ ruột đành đoạn đánh mất con mình trong mớ bung xung của áp lực xã hội, danh dự gia đình, và nỗi yếu đuối cá nhân. Nhưng cảm động và đáng phục biết bao khi có những con người bất chấp tình cảnh túng nghèo, vượt thoát áp lực của một xã hội chuyên lấy đồng tiền và quyền lực làm thước đo mọi giá trị, để làm nỗi bật phẩm chất cao quí của yêu thương. Nhờ tình thương, sự sống đã được bảo tồn và nâng cao.
Lắm khi vì tiếng gọi ngọt ngào của hưởng thụ, phóng túng, đam mê, ích kỷ mà người ta đã bán đứng nhân phẩm và bước vào con đường lầm lạc, nhưng nhờ tình thương và lòng quảng đại từ ái mà bao tâm hồn tìm được mái ấm và bước chân hoang can đảm trở về.
Lạy Chúa, xin giúp chúng con biết gieo yêu thương trên mọi lối đi của cuộc đời, để tha nhân có thể gặp được dấu mà bước vào, và lần tìm về với Chúa là cội nguồn của yêu thương tha thứ. Chúng con tin rằng: đi theo Chúa, hạnh phúc sẽ không hề tắt; ở bên Ngài, hoan lạc sẽ chẳng hề phai bao giờ.



42. Chúa Nhật 24 Thường Niên

Anh chị em thân mến.
Trong bài giảng tĩnh tâm cho giáo triều Roma, Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận có nói: Chúa Giêsu cũng có những khuyết điểm.
Trước tiên Ngài là người không biết về toán học. Ngài đã bỏ lại 99 con chiên để đi tìm một con. Giữa con số 1 và 99 không biết số nào lớn.
Kế đến Ngài là người không biết làm kinh tế. Đang có 9 đồng lại không màn đến, để đi tìm một đồng, rồi vui mừng, mời bạn bè đến chia vui.
Hơn nữa, Ngài còn là Người hay quên. Những người tội lỗi vây quanh mà dường như Ngài không hay biết. Như đứa con trong dụ ngôn, đã ra đi phung phí tiêu hao tiền của, thế mà Ngài vẫn ngày đêm mong đợi, để rồi khi nhìn thấy đứa con, Ngài vui mừng.
Nhưng thật ra đó không phải là những khuyết điểm, mà chính vì Tình Yêu Thương bao la đã vượt qua tất cả, vượt qua sự tính toán hơn thua của trần thế, vượt qua mọi đố kỵ của người đời. Ngài chỉ còn nhìn thấy Tình Yêu được đáp trả. Như thế đã đủ rồi và Ngài không đòi hỏi điều gì nữa.
Như trong bài phúc âm chúng ta vừa nghe. Ngài vui mừng vì tìm được con chiên lạc. Ngài không chờ đợi con chiên phải la lối, kêu cứu, nhưng Ngài đã đi và tìm được nó.
Cũng như đồng bạc bị mất đi. Vui mừng vì tìm được. Không phải vì giá trị của nó hơn những đồng khác. Nhưng vì Ngài không muốn những gì của mình phải hư đi, mất đi một cách vô cớ, nên đã làm hết mọi cách để tìm cho được.
Cao hơn nữa, đối với con người. Thiên Chúa chờ đợi một dấu hiệu chứng tỏ lòng ăn năn sám hối. Quay trở về, chỉ cần có dấu hiệu quyết tâm như thế, còn mọi việc khác Ngài sẽ bù đắp cho bằng Tình Yêu Thương bao la của Ngài. "Phải ăn tiệc vui mừng, vì em con đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy".
Mỗi người trong chúng ta là con chiên trong đàn của Chúa, là đồng bạc trong tay Chúa, hơn thế nữa còn là người con rất yêu quý của Ngài.
Nhưng chúng ta là người con như thế nào? Người con hằng ngày ở kề cận bên cha để tính toán thiệt hơn, để rồi bất bình khi thấy Cha không làm theo ý muốn của mình. Đó là người con cả trong bài Phúc âm chúng ta vừa nghe. Hay là chúng ta thấy mình đáng được một chút gì đó, để rồi đòi hỏi và tự mãn với những gì mình có, không cần biết đến ai, kể cả Người đã ban cho mình những cái hiện có. Chính thái độ tự mãn đó đã tiêu hao đi những gì đã được, đến nỗi không còn gì hết. Đó là người con thứ.
Nhưng chúng ta có biết hồi tâm, có nhìn thấy được sự mất mát, thiếu thốn của chính mình để biết quay trở về, nhận sự tha thứ và sống lại trong tình yêu thương và vui mừng của Thiên Chúa. Hay là chúng ta cứ tưởng mình đang giàu có, đang có công trạng qua sự tính toán riêng tư của mình và Thiên Chúa phải trả công cho chúng ta. Nên chúng ta không cần phải trở về, không cần phải vào nhà, cho dù bao nhiêu lời van xin, bao nhiêu lời giải thích, chúng ta cũng không thể hòa nhập với những gì mình cho là không xứng đáng, không hợp lý, chỉ có mình là đúng nhất, còn người khác thì không bao giờ. Đó có phải là những bước chân hoang? Không phải bằng thân xác, nhưng đó là những bước chân hoang của tâm hồn.
Thiên Chúa đang chờ đợi mỗi người quay trở về, để Ngài ôm vào lòng, để Ngài ban cho tất cả, để Ngài ban cho tình Yêu thương bao la của Ngài.
Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa cho chúng ta biết từ bỏ kiếp đi hoang, biết nhìn thấy được những lỗi lầm của mình, để quay trở về sống trong sự vui mừng Nước Trời.



43. Đức Giêsu đi tìm con chiên lạc

Là dụ ngôn. Con chiên bị lạc - Không có trí khôn - không biết mình đi lạc - không biết trở về nói chi là sám hối-hối cải-không tìm thì mất luôn.
Đồng bạc-vô tri vô giác.
Con người-có trí khôn-có tự do-biết mình đi lạc-biết trở về, quyết tâm thật lờng sám hối và chừa cải-không bắt buộc"vác trên vai" đem về được. Không tự mình muốn và quyết tâm thì THIÊN CHÚA cũng chịu thua và thực tế là đúng vậy.
Luca kết luận bằng một câu giống y nhau ở cuối cả hai dụ ngôn: "Trên trời vui mầng vì một người tội lỗi hối cải" nói lên đó là ý chính mà Luca muốn chúng ta quan tâm.
Dụ ngôn là dụ ngôn. Kể một dụ ngôn để nói lên một "ý". Ý ấy thường không khớp với dụ ngôn. Ý là một chuyển ý có tính thần học hoặc luân lý làm một bài học để dạy giáo lý.
Bài hoc ở đây là "hối cải". Giáo lý nầy đã được Đức Giêsu trình bày rất rõ và cờn được nhấn mạnh ở nhiều nơi trong Phúc Âm. Rõ nhất và nhấn mạnh nhất trong câu chuyện Philatô giết những người galilê và tháp siloê ngã đè chết 18 nguời với kết luận y như nhau "không sám hối thì tất cả sẽ bị huỷ diệt". Với nguời phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình: Đừng phạm tội nữa. Với nguời baị liệt ở hồ Betsaida: Đừng phạm tội nữa kẻo phải khốn hơn truớc.
Chủ đề " sám hối- hối cải là chủ đề chính bao trùm tất cả giaó huấn của Đức Giêsu. "Ta đến để kêu gọi nguời tội lỗi hối cải" Luca tập hợp trong ba dụ ngôn đáng lẽ goị là dụ ngôn về sự "Hối cải". Ý cuả Luca rất rõ mà laị bị dịch ra là dụ ngôn về lờng thuơng xót.
Nguời ta nói ngon miệng "Đức Giêsu đi tìm chiên lạc". Thực tế là thế nào?
THIÊN CHÚA tạo dựng bằng lời. Lời để dạy, để ra lệnh cho nguời khác làm. Tạo dựng xuống cấp vì lời tạo dựng mênh mông khó nhận ra nên con người không biết để làm theo, lạc lối. THIÊN CHÚA cứu độ bằng lời. Cứu độ là nâng cấp. Lời chỉ đường rõ ràng cho đi đúng hướng theo ý THIÊN CHÚA. THIÊN CHÚA chỉ đường. Đi trong đường của THIÊN CHÚA là bổn phận của con người. Cứu độ là một can thiệp đặc biết của THIÊN CHÚA trên tiến trình tự nhiên để điều chỉnh những sai lệch, đặt con người lại đúng hưóng, đúng vị trí của mình để đi cho mau tới đích là phát triển cho tới mức hoàn thiện công trình tạo dựng trong đó con người được THIÊN CHÚA giao cho đóng vai chính. Con người sẽ đựoc sống đời đời, hửong hạnh phúc vỉnh củư nếu con nguời chí thiện và tạo dựng đựoc nhờ con người mà đựoc hờan thiện. THIÊN CHÚA giao cho con người nhiệm vụ "canh tác" vừon địa đàng.
Lời làm người để dạy con người bằng ngôn ngử loài người. Rõ ràng. Chi tiết.Đầy đủ. Là mạc khải cuối cùng. Lời mở đường. Lời là đường. Đường chân lý. Không có đường nào khác. Đức Giêsu để ba mươi năm cuộc đời làm thành con đường cho con người.Ba năm giảng dạy là giải thích cho rõ về con đường của mình. Ta là đường, là chân lý.Cuộc đời của DG là con đường. Lời dạy của Người là chân lý. Ai muốn theo Ta thì.....đi trong con đường của Ta.THIÊN CHÚA không ban ơn cứu độ mà THIÊN CHÚA ban lời cứu độ.
Đức Giêsu, Con THIÊN CHÚA nhập thế đến thế gian. Thế gian phải đến với Người mới có gặp gỡ.
Đức Giêsu xuất hiện giảng dạy, chữa bệnh, trừ quỉ và làm nhiều phép lạ. Ai đến, nghe, thấy, xin.. thì mới được hưởng. Bình chân như vại. Không nhúc nhíc để đến thì "vủ như cẩn". Sự thật nầy rõ như ban ngày. Cụ thể: Đức Giêsu đến hội đường ngày sabbat để giảng dạy. Người bệnh hoặc bị quỉ ám có mặt, được gặp Người thì được chữa lành và chỉ những người có mặt gặp gở Đức Giêsu. Đức Giêsu giảng dạy nơi vắng vẻ. Ai dến nghe thì gặp gở Nguời được ăn bánh lạ no nê. Đức Giêsu đi ngang qua thành Giêricô. Giakeu tìm mọi cách để thấy thì Người đáp lại đến nhà để gặp gở và ban ơn hối cải cho ông và cả nhà. Những người khác thì không đựoc gì. Đức Giêsu đến tìm người tội lỗi. Nhưng người tội lỗi có đến gặp gở Người, hối cải đời sống, đi theo Ngươi thì mới được sự sông mà Ngươi muốn cứu.
Đức Giêsu đến mời gọi qua một trung gian nhưng đời phải tỏ lờng tin, cụ thể là bằng sự sám hối, chừa cải. Ta đến kêu gọi người tội lỗi hối cải. Hối cải là một đáp ứng đầy đủ lời mời gọi của Đức Giêsu. Đó là ý của Luca qua hai dụ ngôn nầy: Trên trời (THIÊN CHÚA) vui mừng vì một người tội lỗi hối cải chứ không phải vì tìm đựoc con chiên lạc hay đồng bạc bị mất. Hối cải là trở nên công chính làm công dân nước Trời, là cải tạo thế gian, là cúư độ.
Hối cải là cử động đầu tiên con nguời phải làm để có thể có tiếp xúc với THIÊN CHÚA.
Chúng ta hãy hối cải chính mình và tích cực giúp người lân cận hối cải để cùng nhau đến với THIÊN CHÚA để được THIÊN CHÚA cứu độ.
Biệt phái, luật sĩ không hối cải. Do thái không hối cải. Thế gian không hối cải. THIÊN CHÚA không làm cho họ hối cải được. Đây là cái bí ẩn của tự do. THIÊN CHÚA không cưỡng chế. THIÊN CHÚA có nhiều ân sủng. Con người quyết định có nhận hay không và có làm cho sinh lợi hay không. THIÊN CHÚA có thể biến đổi lòng dạ con người nhưng chỉ những người thiện chí, cộng tác tích cực với ơn Chúa thí mới có kết quả như lờng Chúa mong muốn.
Mọi sự phải bắt dầu từ hối cải.



44. Chúa Nhật 24 TN C

Bài Phúc âm hôm nay ghi lại ba dụ ngôn về lòng thương xót của Thiên Chúa: dụ ngôn con chiên bị mất, dụ ngôn đồng bạc bị đánh mất, nhất là dụ ngôn người cha nhân hậu.
Qua bài Phúc âm, Giáo Hội nhắc lại cho chúng ta về tình thương của Thiên Chúa Cha đối với con người tội lỗi. Thái độ của người chăn chiên đi tìm con chiên lạc, của người đàn bà bị mất một đồng tiền và của người cha có đứa con bỏ nhà đi hoang, thái độ yêu thương tha thứ đó vượt quá mức độ bình thường con người có thể tưởng tượng được và phản chiếu thái độ của Thiên Chúa đối với con người.
Theo lệ thường, nếu chúng ta có một trăm con chiên mà lỡ bị mất một con, chúng ta có nhất quyết đi tìm con chiên lạc cho đến khi gặp được mới thôi hay không? Chắc chắn là không, vì số chín mươi chín con còn lại không đáng giá hơn một con bị lạc mất hay sao? Đó là quan niệm của con người chúng ta. Đối với Chúa, mỗi con chiên, mỗi người đều có giá trị duy nhất đối với Ngài, và do đó nếu bị lạc mất thì nhất quyết phải tìm cho được mới thôi. Rồi hành động của người đàn bà cũng thế, theo thường tình thì mất một đồng cũng không sao, vì còn cả chín đồng kia mà. Nhưng để diễn tả mức độ của Thiên Chúa thì một đồng bị mất kia là hết sức quan trọng, phải tìm cho được mới thôi. Người cha của đứa con đi hoang, theo thường tình thì bỏ mặc kệ nó, nhưng để diễn tả thái độ của Thiên Chúa đối với con người thì người cha kia hằng ngày đứng trông con mình trở về, và đã nhìn thấy con mình trở về trước khi nó nhìn thấy ông. Người cha tha thứ cho đứa con ngay cả trước khi nó mở miệng xin tha, rồi làm tiệc ăn mừng.
Thiên Chúa muốn cứu rỗi mọi người và mỗi người, Ngài muốn tận dụng mọi phương thế có thể để ban ơn cứu rỗi cho con người. Vì Ngài yêu thương con người, yêu thương từng người một cách vô cùng, nhưng con người có chấp nhận ân sủng và tình thương của Ngài hay không?
Trong Cựu ước, chúng ta thấy Môisen cầu nguyện cùng Chúa, xin Ngài tha thứ cho dân đã phạm tội đến Ngài, Môisen đã không xin Chúa hủy diệt dân mình, nhưng hãy tha thứ cho dân mình. Cũng thế, chúng ta đừng bắt chước thái độ của người anh cả trong dụ ngôn, đừng ganh tị với anh chị em được ơn Chúa tha thứ cho, nhưng hãy bắt chước thái độ của Môisen cầu nguyện cùng Chúa, xin Ngài tha thứ tội lỗi cho anh chị em và cho cả chính mình nữa.
Trước nhan Thiên Chúa, tất cả mọi người chúng ta đều là những kẻ tội lỗi, đều cần đến lời cầu nguyện của nhau để trở lại cùng Chúa và trung thành với đức tin. Nguyện xin Chúa thương tha thứ các tội lỗi và nâng đỡ thành tâm thiện chí mỗi người chúng ta, giúp mỗi người chúng ta biết trở về cùng Chúa, sống xứng đáng là con cái Cha trên trời.
Đề cập đến Tin Mừng nghiêm chỉnh một chút, chúng ta sẽ nhận thấy rõ điều này: những kẻ cầm quyền đương thời trong đạo Do thái, những người Pharisêu, những người tự cho mình là công chính...đã khinh thường và tẩy chay Chúa Giêsu. Trái lại, những người tội lỗi, những kẻ thu thuế... đã trân trọng và nhận biết Ngài. Thử hỏi: Nếu Chúa Giêsu trở lại giữa chúng ta hôm nay, chúng ta sẽ thuộc hạng người nào? Thuộc hạng người "công chính" không cần đến Ngài hay thuộc hạng người tội lỗi, đối tượng Ngài quan tâm khi đến thế gian? Qua đó, Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta hai điều:
Thứ nhất, sứ mạng tình thương của Ngài.
Thứ hai, bổn phận và thái độ của chúng ta.
Chúng ta đều biết: Sứ mạng của Chúa Giêsu đến trần gian để cứu vớt những kẻ tội lỗi. Ngài đến để kêu gọi những người tội lỗi thống hối ăn năn, và để tìm kiếm, cứu vớt những gì đã lạc mất. Thánh Phaolô trong thư thứ nhất gửi cho Timôthêô cũng khẳng định: "Chúa Kitô đến thế gian để cứu vớt những kẻ tội lỗi". Quả thực, Chúa Giêsu đã đến thế gian vì tội nhân. Đó chính là ánh sáng trong đó mạc khải bày tỏ Chúa Giêsu cho chúng ta và chúng ta phải luôn luôn ngắm nhìn Ngài trong ánh sáng này. Nói khác đi, vì yêu thương loài người tội lỗi mà Chúa Giêsu đã bỏ trời xuống thế gian. Chính tên "Giêsu" của Ngài, nghĩa là "Cứu Thế" cũng đã gắn liền với kẻ có tội. Cứu ai? Người lành đâu cần cứu, mà cứu là phải cứu người có tội. Do đó, đối với chúng ta, tình thương đã hiển hiện như một nét nổi bật của Chúa. Tình thương của Chúa không phải là một tình cảm mờ nhạt, mong manh mà là cả một tâm hồn say mê nóng bỏng. Lòng say mê đó là tình yêu đã đến cảm mến cảnh cùng khổ của chúng ta và để nâng cảnh cùng khổ đó lên. Tình thương của một Thiên Chúa làm người khôn lường và da diết. Tình thương đó không phải là một đức tính phụ thuộc nơi bản thân Người, nhưng là một nét chính yếu, đặc biệt: chính vì đó mà Ngài đã đến. Tội lỗi của chúng ta nếu được đưa vào ngọn lửa nóng bỏng yêu thương này sẽ bị thiêu hủy ngay.
Nếu chúng ta sẽ được liệt vào hạng người Pharisêu, kinh sư hay vào hạng những người tội lỗi, những người thu thuế? Chúng ta tự nhận mình là người công chính hay người tội lỗi? Chắc chắn không ai dám cho mình là trong sạch, vô tội trước mặt Chúa, bởi vì từ ngày có trí khôn cho đến nay, biết bao nhiêu lần chúng ta đã không giữ trọn 10 điều răn của Chúa. Bao nhiêu lần chúng ta đã chịu thua cám dỗ và sa ngã. Bao nhiêu lần lời ăn tiếng nói của chúng ta là những lời hành tỏi, xét đoán, gièm pha, kết án hay là những lời hư từ vô ích. Bao nhiêu lần chúng ta đã ghen ghét, oán thù, tranh chấp... Có lẽ chúng ta không chịu bới đống rác tội lỗi của chúng ta ra thôi, chứ thiếu gì những lý do để chúng ta phải ăn năn thống hối. Chúng ta phải thành thật nhận mình là tội nhân đáng hình phạt như người trộm lành; chúng ta là đứa con hoang đàng trở về, là Mađalêna thống hối, là Phaolô bị quật ngã, cần đổi mới. Kinh Kính mừng, Thương xót, ăn năn tội,... dạy cho chúng ta biết chúng ta chỉ là tội nhân, là kẻ bại trận, chỉ trông hòng vào lòng Chúa thương xót mà thôi.
Mong sao tự thâm tâm chúng ta luôn vọng lên lời tự thú của người thu thuế lên đền thờ cầu nguyện: "Lạy Chúa, con là kẻ tội lỗi". Những bước chân trở về và hoán cải thường gọi là niềm ân hận, âm thầm đau đớn về những lầm lỡ đã qua, là lòng ăn năn hối cải.
Lạy Chúa, xin đừng chê bỏ con, xin nhận lấy tấm lòng con: tấm lòng tan nát khiêm cung. Chúng con tin tưởng và cậy trông nơi Chúa. Xin thương xót chúng con. Amen.



45. Thà yêu lầm còn hơn bỏ sót

(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
Các bài đọc của Chúa Nhật Thứ 24 Mùa Thường Niên, Năm C, cách riêng bài Tin Mừng có vẻ khá quen thuộc với Kitô hữu, nhất là với những người chuyên chăm tham dự Thánh Lễ và xem trọng phần Phụng Vụ Lời Chúa. Thánh Kinh trình bày về tình yêu của Thiên Chúa thật phong phú và đa dạng. Tuy nhiên cũng có thể khẳng định rằng những dòng tin mừng theo thánh sử Luca ở chương XV mà Giáo Hội cho trích đọc một phần trong Thánh Lễ Chúa Nhật này quả là một mạc khải gây "chưng hửng" cho không chỉ nhiều người biệt phái năm xưa mà còn cho cả chúng ta hôm nay, dĩ nhiên là nếu chúng ta biết "suy đi nghĩ lại" như Mẹ Maria và biết đặt mình vào chính ngữ cảnh khiến Chúa Giêsu phán dạy những Lời ấy.
Ngữ cảnh: Giêsu thành Nagiarét, một vị tôn sư đầy quyền năng trong lời giảng dạy cũng như trong hành động (x.Mt 7,29; Mc 6,2), một người được dân chúng mến mộ tôn xưng vào hàng ngôn sứ (x.Mt 16,13-15)..., Người không chỉ chuyên chăm chữa lành bệnh tật cho dân chúng và xua trừ ma quỷ ra khỏi những người chúng ám, Người còn giảng dạy các chân lý về Nước Trời và mời gọi người ta hoán cải ăn năn. Thế mà Người lại thường xuyên lui tới và cùng ngồi ăn uống với những hại dân hại nước là "bọn thu thuế" và "phường bán thân nuôi miệng". Bá nhân bá tánh, mười người trăm ý, chuyện miệng tiếng người đời thì làm sao lường cho xuễ. Cũng thế, việc một số người biệt phái và luật sĩ lảm bẩm, xầm xì và bình phẩm chuyện Chúa Giêsu thường xuyên lui tới và cùng ngồi ăn uống với người thu thuế và phường "tội lỗi" thì cũng không là vô cớ. Ngài Giêsu đã không từng giảng dạy rằng chớ có làm cho người ta vấp phạm đấy ư. Ngài còn mạnh miệng cho rằng nếu ai làm cớ vấp phạm cho một trong những kẻ bé mọn thì thà cột cối đá vào cổ người ấy mà liệng xuống biển còn hơn. Tuy nhiên chúng ta đừng quên cớ vấp phạm ở đây là cái nguyên nhân xấu. Còn những dữ kiện gây thắc mắc, gây tranh luận, gợi thao thức là việc khác hoàn toàn. Chính Chúa Giêsu đã từng ví Người là viên đá vấp cho nhiều người, đúng như lời tiên tri Simêon loan báo dịp cha mẹ Người đem Người lên Giêruslem để làm lễ tiến dâng theo Lề Luật (x.Lc 2,33-35).
Nguyên cớ gây thao thức: Tình yêu đón nhận mọi sự hạn chế, mọi sự bất toàn. Khi nghe đọc bài tin mừng về dụ ngôn người con hoang đàng hay đã được sửa lại là dụ ngôn người cha nhân hậu hoặc đã từng được đề nghị là dụ ngôn người con ganh tị. Đã từng một thời Kitô hữu được gợi ý là tập trung vào hình ảnh người con phung phá hoang đàng để nhận biết thân phận tội lỗi của mình để rồi sám hối, ăn năn. Cũng đã từng có lúc người ta tập trung vào hình ảnh người con cả của câu chuyện để mời gọi Kitô hữu cảnh giác với sự ganh tương đố kỵ như trường hợp một số người biệt phái ngày xưa, hoặc biết phản tỉnh với lối sống "người thì bên trong mà lòng thì bên ngoài". Vì lắm khi chúng ta tuy mang danh con cái Chúa, nhưng chỉ là "hữu danh vô thực". Thời gian gần đây ngưởi ta tập trung vào tình yêu bao la của người cha nhân hậu và có thể nói rằng đây chính là trọng tâm của lời mạc khải qua câu chuyện dụ ngôn mà Chúa Giêsu kể hôm ấy.
Nói đến sự bao la của tình yêu Thiên Chúa, một số đấng bậc có vẻ như ngại ngần vì cho rằng sẽ làm cớ cho đoàn tín hữu sống ỉ lại. Và rồi số vị ấy thích đề cao sự công thằng của Thiên Chúa hơn. Một số vị khác thì phân vân như đứng giữa ngã ba đường khi vừa nói đến lòng thương xót của Thiên Chúa vừa nói đến sự công thẳng của Người. Thiên Chúa là Đấng tốt lành vô cùng và cũng là Đấng công bình vô cùng. Khởi đầu triều đại giáo hoàng của mình Đức Bênêđictô XVI qua Thông Điệp Thiên Chúa là Tình Yêu đã nhấn mạnh hiện thực này: Thiên Chúa bày tỏ tình yêu của Người cho nhân loại chúng ta một cách như chống lại sự công minh của Người (x.số 10).
Người cha trong câu chuyện dụ ngôn Chúa Giêsu kể đã rộng tay chia gia tài cho các con. Ông chia gia tài cho đứa con mở miệng kêu xin và chia cho cả đứa con không xin. Ông ta quả là liều lĩnh và bất chấp các tình huống có thể xảy ra. Ông chẳng thể lường đứa con thứ kêu xin sẽ sử dụng gia tài ra sao. Ông cũng chẳng biết đứa con còn lại không xin vì không dám xin hay vì không muốn xin. Không lưỡng lự, ông đã chia cho cả hai.
Chắc chắn người cha nhân hậu biết rõ tình cảnh bi đát đến độ thua cả loài heo của đứa con đi hoang, vì chính người con cả đã khẳng định sự thật này (x.Lc30). Thế mà ông cứ ngày ngày ngóng trông đứa con "bất hiếu và hỏng hư" quay gót trở về. Lòng của ông vẫn ắp đầy niềm hy vọng sẽ có ngày thấy con mình "đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy". Và kìa, nó đây rồi, nó đã trở về. Nó về vì thương cha già này hay là chỉ xót cái bụng rỗng của nó? Không sao cả, tình yêu không cần đặt điều kiện. Đứa con lớn đang ở trong nhà mà lòng như kẻ ăn người ở, ông cũng đón nhận hết tình. Không sao cả, rồi sẽ đến lúc nó hiểu rằng mọi sự của ông là dành cho nó, đã thuộc về nó, vì mọi sự của cha đều là của con (x.Lc 15,31).
Đã yêu thì không ngồi chờ người mình yêu hoàn thiện rồi mới đón nhận. Đón nhận người mình yêu cả trong sự hạn chế lẫn bất toàn của người mình yêu thì mới là tình yêu đích thực vô cầu, vô vị lợi, nghĩa là chỉ vì người mình yêu. Thánh tông đồ dân ngoại khẳng định chân lý này khi nói rằng Chúa Kitô đã chết vì chúng ta, ban ơn tha thứ cho chúng ta, đưa chúng ta về làm con cái Thiên Chúa ngay khi chúng ta còn là kẻ phản nghịch, nghĩa là ngay khi chúng ta đang còn trong cảnh tình tội lỗi.
Xin đừng sợ bị lợi dụng, chẳng thà yêu lầm còn hơn bỏ sót. Xin đừng ngồi chờ tha nhân hoàn thiện rồi chúng ta sẽ yêu thương. Chính tình yêu của chúng ta, một tình yêu vô điều kiện mới là động lực giúp tha nhân nên hoàn thiện. Đồng thời cũng chính tình yêu ấy sẽ giúp chúng ta hoàn thiện vì chúng ta đang ngày càng nên giống Cha, Đấng hoàn thiện ở trên trời, Đấng cho mưa rơi đều trên người lành lẫn kẻ bất lương, cho mặt trời mọc lên soi người công chính lẫn tội nhân (x.Mt5,48).



46. Hãy chia vui với tôi – G. Nguyễn Cao Luật

Có lẽ có người cho rằng các dụ ngôn được kể lại trong bài Tin Mừng hôm nay hơi có tính cách cường điệu. Có mục tử nào dám bỏ lại chín mươi chín con chiên trên cánh đổng rổi đi tìm con chiên bị lạc mất? Có ai lại bỏ công tìm cho kỳ được đổng bạc trong khi mình còn chín đổng nữa? Hay có người cha nào sẵn sàng đợi chờ, tha thứ cho đứa con đã đòi chia gia tài và bỏ nhà ra đi?
Quả vậy, theo quan điểm của con người, ít có khi nào xảy ra những điều như thế. Nhưng đối với Thiên Chúa, chẳng có gì là cường điệu. Những câu chuyện này cho thấy thế nào là tình yêu, là lòng thương xót của Thiên Chúa.
Tình thương không giới hạn
Con người được Thiên Chúa tạo dựng do lòng yêu thương. Thế nhưng, con người đã từ khước tình yêu ấy qua việc ăn trái cấm. Và Thiên Chúa đã không bỏ mặc con người dưới quyền thống trị của tội lỗi, của sự chết. Nếu Thiên Chúa có trừng phạt con người thì cũng là việc xứng đáng. Nhưng Thiên Chúa không xử sự như thế. Một tình yêu đích thực không thể bằng lòng với việc trợ giúp cách chung chung, để rổi khi bị từ khước thì bỏ rơi không còn đoái hoài gì tới. Nếu Thiên Chúa hành động như thế thì khó có người được cứu, và Đức Giê-su đã không được sai đến trần gian.
Đàng khác, Thiên Chúa cũng chẳng tính toán những hổng ân Người đã ban. Thiên Chúa không đưa cho con người một bản tỗng kết những gì Người đã ban cho họ: ân sủng của Người tuôn chảy không ngừng, tình yêu thương chẳng bao giờ vơi cạn. Nếu có kể ra những hổng ân, điều đó chỉ có mục đích nhắc nhở con người hãy sống xứng đáng với hổng ân đã lãnh nhận để rổi tiếp tục nhận được những ân huệ khác.
Cả khi con người đi lang thang phiêu lãng, Thiên Chúa vẫn đuỗi theo. Không có chỗ nào con người ở một mình cả. Chẳng bao giờ con người có thể tự nhủ Thiên Chúa bỏ rơi mình rổi. Một người thợ săn kiên nhẫn, rình chờ con mổi, một người câu cá âm thầm chờ đợi. Thiên Chúa như thế đó.
Thật vậy, chính lòng yêu thương đã thúc đẩy Thiên Chúa tìm kiếm con người. Thiên Chúa đã tạo dựng con người, không phải như một đổ vật, nhưng là để họ tham dự vào sự sống của Người, để sống trong tình yêu thương. Nếu Thiên Chúa chỉ coi con người là một đổ vật, thì khi bị lạc mất, Người có thể tiếc nuối, những rổi thôi, Người có thể lại có cái khác, hay hơn, tốt đẹp hơn, và nhiều hơn nữa. Ở đây, các dụ ngôn cho thấy tính cách lớn rộng của tình yêu: quan tâm đến tất cả, nhưng không bỏ rơi bất cứ ai, dù người đó có thế nào chăng nữa. Vì tình yêu, Thiên Chúa không bao giờ cảm thấy mệt mỏi, chán nản, chỉ cần là Người tìm lại được người tội lỗi, chỉ cần là họ cảm nhận được tình thương của Thiên Chúa.
Vì thế, trong tình thương của Thiên Chúa, không có ai là người bị bỏ quên. Mỗi người đều được Thiên Chúa quan tâm săn sóc, mỗi người đều ở trong trái tim của Thiên Chúa, không có ai bị đẩy ra ngoài, không có ai nhận được ít tình thương...
Hãy chia vui với tôi
Trong cả ba dụ ngôn, Đức Giê-su đều kết thúc bằng những lời nói đến niềm vui. Người chăn chiên tìm được chiên lạc thì vác chiên lên vai, và mời bạn hữu láng giềng đến chia vui; người đàn bà tìm thấy đổng bạc đã mất cũng vậy; và người cha có đưa con đi hoang trở về thì mở tiệc lớn ăn mừng.
Lý do của việc ăn mừng này đã rõ ràng. Nhưng sau đó, Đức Giê-su muốn cho thấy niềm vui của Thiên Chúa khi người tội lỗi hối cải. Ở dụ ngôn thứ nhất, "trên trời sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải"; ở dụ ngôn thứ hai, "các thiên thần của Thiên Chúa sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải"; và ở dụ ngôn thứ ba, "phải ăn mừng, vì em con đây đã chết, mà nay lại sống; đã thất lạc, mà nay lại tìm thấy".
Tội nhân hối cải, không những được tha thứ, nhưng còn được chờ đợi, được đón tiếp. Niềm vui của Thiên Chúa thật lớn lao khi người tội lỗi biết từ bỏ con đường xấu xa, để trở về sống trong tình thương của Thiên Chúa.
Có thể nói, Thiên Chúa không có niềm vui nào khác ngoài việc con người sống thân mật với Người. Dù cho có thế nào chăng nữa, Người vẫn chờ đợi họ, vẫn mở rộng vòng tay đón tiếp. Đây thực là một lời an ủi và nhắc nhở cho con người. Là một lời an ủi, vì con người biết rằng Thiên Chúa vẫn yêu thương họ và mong họ trở về với Người. Thiên Chúa vẫn đi tìm họ, dù họ cố tình tránh né. Thiên Chúa vẫn thi ân giáng phúc, dù họ từ khước không nhận. Là một lời nhắc nhở, vì nếu như tội lỗi đã làm Thiên Chúa phiền lòng, thì Người sẽ còn phiền lòng hơn biết mấy khi con người từ chối tình thương Người dành cho họ, mong họ trở về sống trong tình thương.
Hơn nữa, ở đây còn có lời mời gọi chia sẻ niềm vui với Thiên Chúa vì người tội lỗi đã trở về. Kẻ từ chối chia vui với Thiên Chúa cũng chính là kẻ phải trở về, phải sám hối. Kẻ từ chối chia vui với Thiên Chúa cũng chính là người không nhận ra tình thương đích thực, và như thế là họ đã từ khước tình thương của Thiên Chúa.
* * *
Ở giai đoạn đầu của lịch sử cứu độ, sau khi con người phạm tội, Thiên Chúa đã lên tiếng hỏi, đang khi họ chạy trốn: "Ngươi đang ở đâu?" Ngày nay, Thiên Chúa đã mở tiệc để thết đãi họ. Nhờ sự tuân phục của Đức Giê-su Ki-tô, nhân loại đã được cứu thoát, đã được chữa lành khỏi mọi thương tích, đã được tha thứ.
Đó là niềm vui của Thiên Chúa, hãy chia vui với Người.
* * *
Phải tin vào Thiên Chúa
vì Người đã tin tưởng chúng ta.
Người đã làm cho chúng ta tin vào Người,
khi trao cho chúng ta Người Con duy nhất.
Phải tin vào Thiên Chúa
vì Người đã tín nhiệm chúng ta
đã làm cho chúng ta tin vào Người.
Chẳng lẽ sự tín nhiệm của Thiên Chúa
dành cho chúng ta
lại không được đặt đúng chỗ?
Thiên Chúa đã làm bừng lên nơi chúng ta niềm hy vọng
Người đã khởi đầu.
Người mong rằng kẻ tội lỗi
sẽ làm một chút gì đó
cho ơn cứu độ của mình.
Một chút! chỉ cần một chút thôi!
phỏng theo Charles Péguy



47. Đã mất mà lại tìm thấy

Chúa Giêsu kể những dụ ngôn này trong một hoàn cảnh đặc biệt. Các thầy dạy luật và các đạo sĩ Do thái lấy làm vấp phạm khi thấy Chúa Giêsu giao du với những kẻ mà người Do thái đạo đức gọi là tội nhân. Đạo sĩ Do thái đã xếp tất cả những ai không tuân giữ luật pháp vào chung một hạng, họ gọi những người đó là ‘dân của đất’. Có một hàng rào ngăn cản dứt khoát giữa những đạo sĩ Do thái và người ‘dân của đất’. Gả con gái cho một người dân của đất thì chẳng khác gì trói cô gái ấy nộp cho sư tử. Luật của đạo sĩ Do thái định rằng: “Khi có một người là dân của đất, thì đừng trao tiền cho nó, đừng lấy chứng của nó, đừng nói điều bí mật cho nó, đừng đặt nó coi trẻ mồ côi, đừng để nó giữ của bố thí, đừng đi đường với nó”. Có luật cấm đạo sĩ Do thái không được mời một người dân của đất đến dùng bữa, cũng không được nhận lời mời của ai trong hạng người đó. Luật cũng cấm đạo sĩ Do thái không được giao dịch thông thường với họ, không được mua gì của họ hoặc bán gì cho họ. Các đạo sĩ Do thái quyết tâm tránh hẳn mọi liên hệ với đám dân của đất, tức là những người không giữ đủ các chi tiết tỉ mỉ trong luật pháp. Dĩ nhiên họ rất khó chịu khi thấy Chúa Giêsu làm bạn với những người chẳng những thuộc hạng cùng đinh mà còn là tội nhân nữa, vì liên hệ với hạng người này thì bị ô uế. Chúng ta sẽ hiểu các dụ ngôn này đầy đủ hơn nếu chúng ta nhớ rằng người Do thái ngoan đạo không nói: “Cả thiên đàng mừng vui vì một tội nhân ăn năn hối cải”. Nhưng họ nói: “Cả thiên đàng mừng vui vì một tội nhân bị hủy diệt trước mặt Thiên Chúa!”. Họ hướng đôi mắt độc ác chờ xem sự hủy diệt tội nhân chứ không mong chờ tội nhân được cứu thoát.
Trước hết Chúa Giêsu nói cho họ dụ ngôn về con chiên lạc và niềm vui của kẻ chăn. Chăn chiên ở xứ Do thái là một công việc khó khăn và nguy hiểm. Đồng cỏ thì hiếm hoi. Cánh đồng cao nguyên ở giữa xứ chỉ rộng chừng vài dặm thôi, còn phần nhiều là địa thế những khe trũng dốc đứng và cảnh sa mạc hoang vu. Không có một bức tường chắn giữ nên chiên dễ đi lạc đàn. Người chăn phải trực tiếp chịu trách nhiệm về bày chiên. Nếu một con chiên bị mất, thì người chăn phải mang về nhà ít nhất là cái lốt chiên để chứng tỏ là nó đã chết thế nào. Những người chăn chiên có tài theo dấu vết cách đặc biệt, họ có thể theo dõi dấu chân của một con chiên đi lạc hàng dặm qua núi đồi. Không có người chăn chiên nào không coi bổn phận mỗi ngày của mình là bỏ mạng sống mình vì bầy chiên. Có nhiều bầy chiên là tài sản chung thuộc một làng và có hai hay ba người chăn. Những người chăn có bầy chiên còn đầy đủ thì có thể về nhà đúng giờ vào báo tin rằng còn có một người chăn đang lặn lội trên sườn núi để tìm kiếm con chiên lạc. Cả làng sẽ chờ đợi, rồi khi thấy từ đàng xa một người chăn chiên đang vội vã trở về, trên vai có một con chiên, cả làng sẽ reo vui cảm tạ. Đó là hình ảnh Chúa Giêsu phác vẽ về Thiên Chúa. Người bảo Thiên Chúa cũng thế, Ngài vui mừng vì tìm lại được một tội nhân đã lạc mất cũng như người chăn tìm lại được con chiên đi lạc đem về chuồng.
Chúa nối tiếp tư tưởng bằng một dụ ngôn khác. Đồng tiền nói đến ở đây là một đồng tiền nhỏ, dễ bị lạc mất trong nhà dân quê xứ Palestin, và có khi phải mất rất nhiều thời giờ mới tìm lại được. Nhà của người Do thái thường tối om, vì chỉ có một cửa sổ tròn đường kính khoảng bốn mươi lăm phân. Nền nhà thì bằng đất nện được phủ bằng những tấm liếp sậy và cành cây khô. Tìm kiếm một đồng bạc trên một nền nhà như thế khác nào tìm một cây kim trong đống rác. Nhưng người đàn bà quét đi quét lại, tìm cho bằng được, có hai lý do khiến người đàn bà sốt sắng và kiên nhẫn tìm kiếm đồng tiền.
1) Có thể vì nhu cầu.
Dù một đồng tiền không nhiều nhưng nó cũng cao hơn công giá một ngày làm việc của một công nhân tại xứ Palestin. Họ thường sống trong cảnh thiếu hụt và hầu như luôn bị nạn đói đe dọa. Có thể người đàn bà nóng nảy tìm cho ra, vì nếu không, gia đình bà sẽ không có ăn.
2) Nhưng có thể còn có một lý do khác thơ mộng hơn lý do trên.
Tại Palestin, dấu hiệu của người đàn bà có chồng là một chiếc vành trên đầu làm bằng mười đồng tiền nhỏ bằng bạc xâu lại với nhau bằng một sợi dây bạc. Trong nhiều năm, một cô gái làm lụng và để dành cho đủ mười đồng tiền nhỏ đó. Bởi vì cái chuỗi trên đầu của nàng cũng đáng giá gần bằng chiếc nhẫn cưới. Khi nàng đã sắm được nó thì trở nên của riêng nàng, đặc biệt đến nỗi người khác không thể đoạt lấy của nàng món nữ trang đó để trừ nợ. Có thể người đàn bà trong dụ ngôn đã đánh mất một đồng bạc thuộc loại đó, và bà ta đã tìm kiếm nó như bất cứ người nào khác cũng làm thế khi đánh mất cái nhẫn cưới vậy.
Vì thế chúng ta cũng dễ hiểu nỗi vui mừng của người đàn bà khi tìm lại đồng bạc bị mất. Chúa Giêsu cho biết: cũng thế, Thiên Chúa và các thiên sứ vui mừng khi một tội nhân ăn năn trở về, như khi một gia đình vui mừng tìm lại được đồng bạc quyết định cái no hay đói của họ, hay cũng giống người đàn bà đánh mất một tài sản có giá trị hơn tiền bạc rồi tìm lại được.
Niềm vui lạ lùng này được sáng tỏ hơn qua dụ ngôn người con hoang đàng. Theo luật Do thái, người cha không được chia gia tài tùy ý mình thích, đứa con cả đương nhiên được hai phần ba, đứa con thứ được một phần ba gia tài (x. Dnl 21,17). Không phải là một việc lạ khi một người cha phân chia gia tài ngay khi còn sống nếu ông muốn được nghỉ ngơi khỏi bận tâm buôn bán làm ăn. Nhưng có một sự trơ tráo nơi đứa con thứ khi chính nó đề xuất việc chia gia tài. Khi nó nói vào mặt cha nó: “Cha hãy cho tôi ngay bây giờ phần gia tài mà trước sau gì tôi cũng được lãnh sau khi cha chết, và hãy để tôi ra khỏi nơi này”. Người cha không tranh luận gì, ông hiểu rằng nếu con ông cần được một bài học thì nó sẽ có một bài học đắt giá, và ông đã cho như ý nó xin. Tức khắc đứa con lấy phần dành cho nó và bỏ nhà ra đi…
Nó nhanh chóng tiêu xài hết tiền và kết thúc bằng việc chăn heo, một công việc đáng nguyền rủa đối với người Do thái. Và Chúa Giêsu cho nhân loại tội lỗi một lời khen lớn nhất chưa từng có: “Khi nó hồi tâm tự nhủ, trở về với chính mình”. Chúa Giêsu tin rằng bao lâu con người xa cách và chống lại Thiên Chúa, thì con người không thực sự là chính mình khi đang trên đường trở về nhà. Nó quyết định trở về nhà và xin cha nhận lại mình không phải để làm con, nhưng làm một tên nô lệ mạt hạng trong nhà, một tên đầy tớ ở thuê, một tên lao động công nhật trong nhà. Theo một nghĩa thì người nô lệ là một phần tử của gia đình, nhưng đầy tớ ở thuê thì có thể bị đuổi sau khi chủ báo trước một ngày vì nó không thuộc về gia đình chút nào. Vậy khi đứa con trở về, cha chàng không để chàng kịp mở miệng xin làm đầy tớ, ông đã lên tiếng trước. Chiếc áo dài tiêu biểu cho việc được tôn trọng, chiếc nhẫn tượng trưng cho quyền bính, đôi dày là dấu hiệu làm con, và yến tiệc được bày ra để mọi người ăn mừng đứa con hoang nay đã trở về.
Nếu chúng ta chú ý, chúng ta sẽ thấy ba câu chuyện xoay quanh một chủ đề: đã mất mà lại tìm thấy. Loài người bị mất, Thiên Chúa mất loài người. Loài người đã bị mất tức là đã đi khỏi sự hiện diện của Thiên Chúa, và đó là cái mất lớn lao nhất. Thiên Chúa không mất gì đáng tiếc hơn mất loài người. Dụ ngôn nêu lên ba khía cạnh để giải thích giá trị của loài người: con chiên bị mất, đồng tiền bị mất, đứa con bị mất.
Loài người có ba điều quý: tài sản, tiền bạc và con cái. Cả ba đều mất, mất lớn lao đáng tiếc. Chúa không mất súc vật, tiền bạc, nhưng mất loài người, mất cái quý báu nhất, không gì sánh bằng. Và Ngài tiếc như ta tiếc của cải, tiền bạc, con cái.
Khi mất một phần trăm đã tiếc, mất mười phần trăm tiếc hơn, mất năm mươi phần trăm tiếc hơn nữa. Nhưng Thiên Chúa mất hết, mất từ thời Adam, nên Chúa lập cách cứu loài người: “Con Người đến tìm kiếm những gì đã mất”.
Khi nghiên cứu nguyên nhân đưa tới việc mất, chúng ta thấy khác biệt. Con chiên bị lạc mất vì hoàn toàn ngu dại. Nó không biết suy nghĩ, nhưng có nhiều người sẽ tránh được tội lỗi nếu họ suy nghĩ kịp thời. Đồng tiền bị mất vì không phải lỗi của chính nó. Có người đi lạc đường vì bị kẻ khác lừa dối, và Thiên Chúa không kể là vô tội kẻ nào xui kẻ khác phạm tội. Đứa con tự ý đi lạc, nhẫn tâm quay lưng lại với cha mình.
Nhưng Thiên Chúa có thể dùng tình yêu của Ngài chiến thắng sự dại dột của con người, chiến thắng những tiếng cám dỗ, và chiến thắng cả sự phản bội của con tim chúng ta nữa. Đứng trước một tình yêu như vậy, chúng ta không thể không chìm trong kinh ngạc, ngợi khen và yêu mến Ngài hơn nữa.



48. Đón nhận - Trao ban lòng thương xót

Có thể nói cuộc đời của mỗi người chúng ta từ lúc tượng thai đến lúc từ giã cõi đời là cả một chuỗi những sự đón nhận. Chúng ta đón nhận sự sống từ nơi cha mẹ. Chúng ta cũng đón nhận sự chăm sóc, nuôi nấng và dạy dỗ từ nơi cha mẹ. Và rồi chúng ta còn đón nhận bao nhiêu sự chăm lo từ vật chất đến tinh thần từ những người thân quen, cả đến những người chúng ta không hề biết mặt. Cũng vậy, là người có đức tin chắc hẳn không ai trong chúng ta dám phủ nhận việc chúng ta đã, đang và sẽ mãi mãi đón nhận tình thương từ nơi Thiên Chúa Đấng chúng ta tôn thờ.
Ba dụ ngôn nổi tiếng trong Tin mừng Luca chương 15 hôm nay làm sáng tỏ về lòng thương xót vô bờ bến của Thiên Chúa dành cho từng người trong chúng ta. Hình ảnh người chăn chiên có một trăm con chiên lặn lội đi tìm cho bằng được cho được con chiên bị mất và vác trên vai mang về. Hình ảnh người đàn bà có mười quan tiền thức đêm thức hôm tìm cho được một đồng bị mất. Xúc động hơn là hình ảnh người cha nhân hậu có thái độ khoan nhân đón nhận cả hai người con, cách riêng là với đứa con thứ hư hỏng trắc nết.
Sở dĩ Chúa Giêsu nói lên ba dụ ngôn này là vì những người Pharisêu và các kinh sư đã có thái độ không bằng lòng khi thấy Chúa Giêsu tiếp xúc cũng như đồng bàn với những người thu thuế và những người tội lỗi.
Trong suy nghĩ của họ, Chúa Giêsu chỉ được tiếp xúc với những người công chính. Còn những hạng người như vậy Chúa Giêsu không được phép giao tiếp. Mà họ lại tự cho mình là những người công chính.
Tuy nhiên, Chúa Giêsu đã có lần khẳng định: "Người khoẻ mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần. Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi sám hối ăn năn." (Lc 5, 31b - 32)
Trước mặt Thiên Chúa tất cả mọi người chúng ta đều là những con người đáng thương. Thiên Chúa sẵn sàng làm tất cả và chẳng tiếc gì miễn sao chúng ta được sống và sống dồi dào hạnh phúc. Ai trong chúng ta biết ăn năn sám hối trở về là niềm vui cho cả triều thần thiên quốc. Bởi vì: "Tôi nói cho các ông hay: giữa triều thần Thiên Chúa, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối." (Lc 5, 10)
Chúng ta không thể đón nhận mà không biết trao ban. Đón nhận càng nhiều bao nhiêu thì trao ban cần rộng lớn bấy nhiêu: trao ban tình thương cho nhau, trao ban sự quan tâm lẫn nhau, trao ban sự hy sinh cho nhau....Chúng ta trao ban cho những người thân yêu. Chúng ta trao ban cho những người chưa quen biết. Thậm chí chúng ta còn được kêu mời trao ban cho những kẻ thù nghịch với mình. Trao ban không phải là thái độ của người lớn cho kẻ nhỏ mà là thái độ của những anh chị em con cùng một Cha - cùng một sự đón nhận từ tình yêu của Thiên Chúa.



49. Suy niệm của Lm FX. Vũ Phan Long

BA DỤ NGÔN VỀ LÒNG THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA
Làm sao có thể tự nhận là môn đệ của Đức Giêsu, khi khinh bỉ quay mặt tránh người anh em đang ở trong tình trạng bần khốn nhất, do tội lỗi gây nên?
1.- Ngữ cảnh
Đoạn Tin Mừng chúng ta đọc hôm nay nằm trong phân đoạn độc đáo nhất của Tin Mừng Luca (9,51–19,27): cuộc hành trình lên Giêrusalem. Trong cuộc hành trình này, có đám đông dân chúng đi theo Đức Giêsu.
Sau khi đã giáo huấn đám đông về những điều kiện để làm môn đệ Ngươi (14,25-35), bây giờ Đức Giêsu dùng một số dụ ngôn mà ngỏ lời với các người Pharisêu và các kinh sư, vì họ đã lẩm bẩm trách móc Ngươi khi Ngươi tiếp đón những người thu thuế và tội lỗi, và cùng ăn uống với những người ấy.
Ba dụ ngôn của chương 15 (con chiên bị lạc mất [cc. 4-7], đồng bạc bị đánh mất [cc. 8-10], người con hư mất [cc. 11-32]) đã được gọi là “trái tim của Tin Mừng III” (Romaroson), vì được kết cấu rất nghệ thuật để nêu bật được đề tài duy nhất là tình yêu của Thiên Chúa và lòng thương xót đối với những kẻ tội lỗi qua lời Đức Giêsu kêu gọi hoán cải.
Hai dụ ngôn đầu nói về việc tìm được cái đã mất, dụ ngôn thứ ba cũng triển khai cùng một đề tài, nhưng như một tổng hợp với những hình ảnh được vận dụng rất tài tình. Trước đây dụ ngôn này vẫn được gọi là “Dụ ngôn đứa con hoang đàng”, nhưng gọi là “Dụ ngôn người cha nhân hậu” thì hợp lý hơn, bởi vì dung mạo trung tâm của truyện chính là người cha. Hoặc để tương ứng với hai đầu đề của hai dụ ngôn trước, thì có thể gọi là “Dụ ngôn người con hư mất”, nhưng nhớ rằng nhân vật chính là người cha, cũng như trong hai dụ ngôn trước, nhân vật chính là người mục tử và người phụ nữ.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành hai phần:
1) Một dẫn nhập (15,1-3);
2) Ba Dụ ngôn về lòng thương xót của Thiên Chúa (15,4-32):
a) Dụ ngôn Con chiên bị lạc mất và được tìm thấy (cc. 4-7);
b) Dụ ngôn Đồng bạc bị đánh mất và được tìm thấy (cc. 8-10);
c) Dụ ngôn Người con hư mất và được tìm thấy (cc. 11-32).
3.- Vài điểm chú giải
- Tất cả những người thu thuế và những người tội lỗi (1): Đây là những người ở bên lề xã hội Do Thái, những kẻ vô đạo, sống vô luân. Họ đến nghe Đức Giêsu như đã từng đến nghe Gioan Tẩy Giả (3,12-13). Tác giả Luca đã nói quá khi dùng từ ngữ “tất cả”, nhưng mục đích là cho thấy chiều hướng căn bản của sứ điệp và cách xử sự của Đức Giêsu: Người đến để tìm và cứu những gì đã mất, nghĩa là tất cả.
- lẩm bẩm (2): Cũng như ở 5,30 và sau này ở 19,7, thì vị hồn (imperfect) cho hiểu đây là thái độ thường xuyên của người Pharisêu và các kinh sư.
- ông này (2): Đại từ chỉ định houtos có nghĩa xấu: “tên này”.
- Người nào trong các ông có một trăm con chiên (4): Đây là một mục tử vô danh, được dùng như biểu tượng của Thiên Chúa giàu lòng từ bi thương xót (xem Cựu Ước: Tv 23,1-3; Ed 34,11-16).
- hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần phải sám hối ăn năn (7): Nếu chín mươi chín người này là các kinh sư và người Pharisêu, thì câu kết này có giọng mỉa mai. Nhưng rất có thể đây chỉ là cách tác giả Lc phóng đại niềm vui của Thiên Chúa khi có một người tội lỗi hối cải.
- mười đồng bạc (10): Đồng drachmê là đồng bạc cổ. Chúng ta khó biết giá trị chính xác của đồng bạc này. Có một thời người ta có thể dùng một đồng drachmê mà mua được một con chiên, hoặc được nhận như lương làm việc một ngày. Vào thời hoàng đế Nêrôn, đồng denarius được dùng đểthay thế đồng drachmê và coi như tương đương.
- Một người kia có hai con trai (11): Có thể giả thiết đây là một ông chủ trang trại giàu có xứ Paléttina.
- phần tài sản con được hưởng (12): Theo tập tục xứ Paléttina, một người cha có thể định đoạt về của cải của ông hoặc bằng một di chúc (HL. diathêkê) được thi hành sau khi ông qua đời (Ds 36,7-9; 27,8-11) hoặc bằng một tặng-dữ ban cho các con trong khi ông còn sống (HL. dôrêma; x. Hc 33,19-23). Trưởng nam được hưởng “hai phần sản nghiệp”, nghĩa là gấp đôi phần được ban cho mỗi người con khác (Đnl 21,17). Ở đây, vì chỉ có hai đứa con, người con cả được nhận hai phần ba và người con thứ nhận một phần ba. Khi đó, người con có quyền sở hữu, nhưng quyền thu hoa lợi vẫn thuộc về người cha cho đến khi ông qua đời. Nếu người con bán phần gia sản của mình, người mua chỉ được nhận lấy sau khi người cha chết. Khi làm như thế, người con sẽ không còn có quyền đòi hỏi gì về của cải, cả về vốn lẫn lãi.
- sống phóng đãng (13): Trạng từ asôtôs có nghĩa là “một cách không lành mạnh”. Chúng ta không biết là “không lành mạnh” cụ thể là thế nào; ở c. 30, người anh cả mô tả là “nuốt hết của cải với bọn điếm”, nhưng phải chăng anh đã phóng đại?
- chăn heo (15): Theo Lv 11,7 (x. Đnl 14,8), con heo, tuy có chân chẻ làm hai móng, nhưng không là loài nhai lại, nên bị coi là “ô uế” đối với người Do Thái. Chi tiết này cho thấy sự sa sút của chàng trai.
- nhưng chẳng ai cho (16): Thế thì anh ta lấy thức ăn ở đâu, tác giả không nói, bởi vì điều này không quan trọng.
- chạy ra (20): Chi tiết này diễn tả sáng kiến của người cha, tình yêu bền bỉ của ông đối với đứa con đã bỏ đi.
- và hôn lấy hôn để (20): Không phải chỉ là để chào đón, nhưng là bày tỏ sự tha thứ (x. 2 Sm 14,33).
- Thưa cha … con (21): Người con lặp lại lời thú lỗi đã soạn trước (cc. 18-19), nhưng trước khi anh ta kịp nói ra lời thỉnh cầu, người cha đã can thiệp rồi.
- áo đẹp nhất (22): dịch sát là “chiếc áo thứ nhất”, tức là áo hạng nhất. Như thế, người cha không xử với người con như anh ta yêu cầu (“như người làm công”), nhưng như một người khách được tôn kính.
- xỏ nhẫn… xỏ dép (22): Nhẫn là dấu chỉ quyền bính (St 41,42; Et 3,10; 8,2); dép là dấu chỉ một con người tự do.
- đã mất mà nay lại tìm thấy (24): Đây là cụm từ móc nối liên kết dụ ngôn này với hai dụ ngôn trước.
- con hầu hạ cha (29): Người con cả dùng động từ douleuein, “phục vụ”, “hầu hạ”, hàm ý là anh ta không chỉ tự liệt mình vào hạng người làm công (misthios), nhưng là hạng nô lệ (doulos): “hầu hạ cha trung thành như một tên nô lệ”.
- chẳng khi nào trái lệnh (29): Anh ta ý thức về sự trung thành của anh, anh nhấn mạnh đến lòng trung thành này, tức nêu bật điều nghịch lý ở đây là nhân đức lại được ban thưởng tồi tệ hơn là tật xấu!
- một con dê con (29): Chi tiết này cho thấy người con cả không tin tưởng vào cha, anh tính toán, kể công.
- thằng con của cha đó (30): Người con cả diễn tả mức khinh bỉ cao độ; anh ta không thể chấp nhận nói về người con thứ như là “em con”. Ở đây thêm một lần nữa, tính từ houtos được dùng với nghĩa xấu.
- lúc nào con cũng ở với cha (31): Người cha không trách móc, than thở, không nói rằng người con cả sai; ông cũng chẳng phê phán thái độ cao ngạo hoặc bình phẩm gì cả. Ông coi mọi chuyện đó là đúng như thế. Nhưng ông chỉ nhấn mạnh trên sự liên kết thâm sâu giữa cha con: “Lúc nào con cũng ở với cha” (= con chưa bao giờ chết; con chưa bao giờ mất).
- tất cả những gì của cha đều là của con (31): nghĩa là tất cả của cải (x. c. 12), những gì còn lại sau khi người con thứ đã lấy đi phần của anh ta; tất cả những thứ này sẽ thuộc về người con cả, sau khi cha chết.
- em con (32): Câu trả lời của người cha làm vọng lại công thức của người anh, và là một cách sửa chữa.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Một dẫn nhập (1-3)
Đức Giêsu đã đến để cứu tất cả mọi người; những người thu thuế và tội lỗi phải đến với Người bởi vì họ không gặp được ở nơi nào khác lời đưa lại niềm hy vọng và sự tiếp đón ân cần nhưng-không. Cách xử sự này khiến người Pharisêu và các kinh sư phải lẩm bẩm trách móc. Họ trách Đức Giêsu hai điểm: đón tiếp người tội lỗi và ăn uống với họ. Các kinh sư thường nói: “”Chớ có một ai đi giao du với những kẻ xấu xa, cho dù là thử thuyết phục họ đi theo luật của Thiên Chúa”. Những người thu thuế và tội lỗi không được thuộc về cộng đoàn, vì Thiên Chúa đã ngoảnh mặt đi tránh họ; do đó, Israel cũng phải làm như thế. Vậy mà Đức Giêsu lại đón tiếp họ! Đã thế, Người lại còn ăn uống với họ, tức là làm một việc đáng trách hơn nữa, vì ăn uống với ai là kết giao, chia sẻ tình bạn, tình liên đới với người ấy.
Dẫn nhập này đưa lại cho [các] dụ ngôn một đặc tính là biện hộ, là bào chữa cho cách xử sự của Đức Giêsu đối với người tội lỗi. Qua cách xử sự này, Đức Giêsu cho thấy là sự hoán cải không là điều kiện tiên quyết người ta phải có để được Thiên Chúa đón tiếp; trái lại Thiên Chúa đã thực hiện “sự hoán cải” trước, để người ta có thể lại đi vào quan hệ an bình với Ngài.
* Ba Dụ ngôn về lòng thương xót của Thiên Chúa (4-32)
Từ dụ ngôn đầu đến dụ ngôn thứ ba của chương 15, tác giả cho thấy có một sự tiệm tiến: một con chiên trong số một trăm, một đồng bạc trong số mười đồng, rồi một đứa con trong số hai người. Bản văn càng đi tới càng cho thấy rằng điều đã mất nay lại tìm thấy càng lúc càng trở nên quí báu hơn.
Người mục tử, người phụ nữ và người cha đều vô danh, bởi vì cả ba được đề ra như một biểu tượng của Thiên Chúa yêu thương.
Một con chiên có giá trị của nó. Không phải vì còn chín mươi chín con kia, mà con chiên bị lạc không đáng kể. Người mục tử sẽ kiên nhẫn đi tìm con chiên lạc cho đến khi tìm thấy nó. Chín đồng bạc còn lại vẫn không miễn cho người phụ nữ khỏi tha thiết đi tìm đồng đã mất. Một người con thì còn đáng giá hơn muôn vàn con chiên hoặc đồng bạc. Các kinh sư dạy rằng Thiên Chúa vui mừng khi người công chính sống lại, và kẻ gian ác phải tiêu vong. Đứcd Giêsu lại nói rằng Thiên Chúa vui mừng khi kẻ gian ác được sống lại, “trên trời cũng thế, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối, hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần phải sám hối ăn năn” (c. 7). Ở đây không phải là một lời kêu gọi hãy phạm tội, nhưng là một lời mời gọi hãy nhìn nhận rằng tất cả chúng ta là những kẻ tội lỗi trước mắt Thiên Chúa. Không có một ai là “công chính” cả. Vị thần linh ban thưởng tùy theo các công trạng chỉ hiện hữu trong tâm trí người Pharisêu (xưa và nay). Vị Thiên Chúa của Đức Giêsu là một vì Thiên Chúa ban tặng nhưng-không ơn cứu độ cho tất cả chúng ta mặc dù chúng ta không đáng nhận.
Giờ đây chúng ta suy niệm về truyện người con thứ và người con cả. Thật ra, cả hai người con được nói tới chỉ là để cho người cha có cơ hội diễn tả các tâm tình của ông ra.
a) Người con thứ:
Sau khi đã nhận đủ phần gia tài, người con thứ đi đến một xứ xa xôi, hẳn là một miền đất dân ngoại. Tại đó, anh đã xài hết tiền của. Rơi vào tình trạng khốn đốn, anh phải chăn heo: đây là sự sa cơ thất thế cùng cực! Anh ta suy nghĩ. Nhưng không phải là hối hận về lối sống, không phải là tiếc nuối vì đã làm cho cha đau buồn. Anh ta chỉ tự trách là ngu ngốc chịu đói chịu khát ở đây trong khi các tôi tớ ở nhà có ăn dư thừa. Thế là để có thể trở về và được nhạn vào nhà như người làm công, anh chuẩn bị một bài “diễn từ cảm đông” để mong cha nguôi giạn: các lời lẽ hối tiếc không đi đôi với các tâm tình của anh.
Quả thật hình ảnh này không tôn vinh kẻ tội lỗi chút nào. Đây đúng là chân dung mà người Pharisêu chờ đợi.
b) Người con cả:
Lúc người con thứ trở về, người con cả đang làm việc ngoài đồng. Khi trở về, anh nhận ra trong nhà có chuyện lạ. Sau khi hỏi một người đầy tớ, anh ta hiểu chuyện; anh không thể chấp nhận được, anh nổi giận. Ta thông cảm với anh. Vì anh không chịu vào nhà, người cha đã ra gặp. Thế là anh cho tuôn ra hết những gì vẫn chất chứa tận đáy lòng: anh nói với giọng chua cay, nhưng kể ra đúng các sự việc. Theo anh, đúng là người cha đã xử sự bất công! Những người Pharisêu và các kinh sư cũng nghĩ rằng họ có lý khi tỏ ra khó chịu với Đức Giêsu.
Trước tiên người con cả nói về chính mình: “Bao nhiêu năm trời con hầu hạ cha, và chẳng khi nào trái lệnh”. Chắc chắn đấy cũng là lý tưởng của người Pharisêu và các kinh sư: “phục vụ” Thiên Chúa bền bỉ, và rất chú ý để không bao giờ vi phạm một điều răn nào.
Sau đó, người con cả nói về em với giọng hết sức khinh bỉ. Anh không gọi là “em con”, nhưng nói là “thằng con của cha đó”. Điều này cũng giống như người Pharisêu trong dụ ngôn Lc 18,10-14 nói đến “tên thu thuế kia” với giọng miệt thị.
Như thế, Đức Giêsu đã ngỏ lời với những người vẫn nghĩ rằng mình là những tôi tớ tốt lành, luôn quan tâm để không bao giờ thiếu sót một điều răn nhỏ. Khi đó, họ nghĩ họ có nhiều quyền; họ tỏ ra khó chịu, không phải đối với người tội lỗi, nhưng đối với chính Thiên Chúa vì Ngài đã đối xử với kẻ tội lỗi như vậy: Nếu như thế, sống đạo đức còn ích lợi gì? Nếu như thế, sống trung thành và vâng phục Thiên Chúa còn có ý nghĩa gì nữa?
c) Người cha:
Người cha trông mong người con thứ từng ngày, nên ngay khi anh còn ở đàng xa, ông đã trông thấy. Ông vội vã chạy ra đón con, ông cuống quýt thúc đầy tớ chuẩn bị lễ mừng. Ông chẳng màng đến bài diễn từ bần tiện của anh ta. Ở nhà có con bê béo, ông quyết định cho giết ngay để ăn mừng. Rõ ràng trong lòng ông, niềm vui đang bùng nổ. Ông chưa bao giờ thôi thương yêu con. Nó đi xa, nó đã mất; nay nó lại được tìm thấy. Quá khứ không còn gì đáng kể, Điều quan trọng là nó đã trở về!
Đã không muốn nghe lời hối lỗi của con thứ, nay người cha lại để cho người con cả tha hồ nói lên những tâm tình chua chát. Sau đó, ông đã trả lời với giọng dịu dàng âu yếm. Qua lời ông nói, người con cả chẳng còn lý do gì mà nói rằng cha xử bất công với mình nữa. Nhưng ông tế nhị điều chỉnh: “vì em con đây…”. Nếu cha đã sung sướng đến thế khi gặp lại con, lẽ nào người anh lại không vui sướng khi gặp lại em?
Chúng ta không bao giờ biết được phản ứng sau đó của người con cả (nghe theo đề nghị của cha? Đi vào nhà và chào em? Đi vào ăn tiệc chung vui?). Chúng ta cũng không biết người con thứ được sống theo chế độ nào, anh ta sẽ đáp lại thế nào. Dù sao, toàn chương 15 giống như một bài ca chan hòa niềm vui được tấu lên để mừng niềm hạnh phúc của người đã tìm lại được điều mà họ đã mất.
+ Kết luận
Nếu đọc cả ba dụ ngôn, chúng ta sẽ thấy hai dụ ngôn đầu kết “có hậu”, còn dụ ngôn thứ ba có kết mở: Người con cả có vào nhà theo lời cha mời chăng? Như thế, hai kết luận tốt đẹp đầu nhằm đưa tới chúng ta một câu hỏi: Chúng ta có hết lòng chia sẻ niềm vui của Thiên Chúa mà đón người tội lỗi hối cải vào Nước Thiên Chúa không? Trong thực tế, chúng ta vẫn được Thiên Chúa vui lòng đón tiếp, chúng ta cũng hãy sẵn lòng đón lấy người anh em trở về.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Mỗi con người đều có giá trị vô song trước mặt Thiên Chúa. Ngài đã tạo nên từng con người với tất cả những phong phú làm nên nhân vị con người ấy. Ngài hỗ trợ cho con người ấy phát triển đến mức tối đa, để cuộc đời người ấy thành một tuyệt tác cho Ngài và cho loài người. Khi chúng ta phục vụ anh chị em, chúng ta phục vụ từng con người có giá trị độc đáo duy nhất, hay là chúng ta chỉ coi như là những con số, những “con chiên” không tên tuổi, theo nhau lầm lũi trước mặt chúng ta?
2. Thiên Chúa thương tất cả mọi người và muốn cho mọi người đều được cứu độ. Nhưng “tất cả” không có nghĩa là một khối người tương đối đông, mà là “từng người”. “Tất cả” là “từng người” trong thế giới, không bỏ sót một ai. Thiên Chúa chiếu cố đến từng con người y như chỉ có một mình người ấy trên đời.
3. Chúng ta có thể thấy mình như người con thứ: không phải là tên ăn cắp, chỉ lấy đúng phần mình; chúng ta cũng còn biết nói “thưa cha!”, nhưng không hề vui thích được ở với cha, mà chỉ muốn ra đi “ăn chơi” cho thỏa thích. Và mỗi khi gặp khó khăn, thì chỉ dâng lên Thiên Chúa một lời cầu nguyện đầy vụ lợi, tính toán. Người con thứ không biết nghĩ rằng xin làm một “người làm công”, thì sỉ nhục cha quá nặng nề, bởi vì cha vẫn chỉ mong đón mình về để làm “con”. Nay được cha đón vào nhà rồi, anh có biết đáp lại tình cha không? Phần này, chính chúng ta sẽ phải viết tiếp bằng đời sống thực tế của mình.
4. Chúng ta cũng có thể thấy mình như người con cả, không bao giờ trái lệnh cha, nhưng cũng chẳng thích ở với cha; trái lại chỉ tính toán, mong có ngay “thoát ly” để đi vui chơi với bạn bè. Đã thế, chúng ta lại tỏ ra khinh bỉ, miệt thị những kẻ bị coi là “tội lỗi”. Nay đã được cha ra gặp để tâm sự rồi, anh có vào nhà để chung vui không? Phần này, chính chúng ta cũng sẽ phải viết tiếp bằng đời sống thực tế của mình.
5. Vì không hiểu tình yêu của cha, cả hai người con, đặc biệt anh cả, không hiểu tiếng gọi kèm theo sự hiểu biết đó: anh chỉ thực sự là con của cha, khi yêu thương anh em mình. Ta không thể phục vụ Thiên Chúa như Ngài muốn nếu không yêu mến Ngài và thông chia tình yêu của Ngài cho anh chị em mình, cho dù họ thế nào. Làm sao có thể tự nhận là môn đệ của Đức Giêsu, khi khinh bỉ quay mặt tránh người anh em đang ở trong tình trạng bần khốn nhất, do tội lỗi gây nên?



50. Chú giải của Noel Quesson.

Tin Mừng hôm nay, nếu đọc đầy đủ, gồm “ba dụ ngôn nổi tiếng về lòng nhân hậu, mà Luca đã tập họp trong chương 15: *1. Con chiên bị mất và tìm lại được *2. Đồng bạc bị đánh mất và tìm lại được *3. Đứa con đi mất và trở về. Ba dụ ngôn này được xây dựng trên cùng một sơ đồ và đạt đỉnh cao trong dụ ngôn thứ ba mà nhan đề truyền thống là “dụ ngôn đứa con hoang đàng”. Tuy nhiên, vì dụ ngôn thứ ba này đã được suy gẫm vào Chúa nhật IV Mùa Chay của cùng năm Phụng vụ này, nên hôm nay chúng ta chỉ cần chú giải hai dụ ngôn đầu.
Các người thu thuế và các người tội lỗi đều lui tới với Đức Giêsu để nghe Người giảng. Những người Pharisêu và các kinh sư bèn xầm xì với nhau: “Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng.
“Ông này đón tiếp phường tội lỗi, đó là một định nghĩa về Chúa Giêsu, đồng thời cũng là một mạc khải của Thiên Chúa!”. “Ai thấy tôi là thấy cha tôi” (Ga 14,9).
Những người Pharisêu và các kinh sư là những người rất được trọng vọng. Họ thật sự bị sỉ nhục vì Đức Giêsu thường tiếp phường tội lỗi. Phần chúng ta, chúng ta có thể hoàn toàn bỏ qua khía cạnh “Tin Mừng” của ngày hôm nay, nếu chúng ta không nhận ra rằng bài Tin Mừng này cũng vì chúng ta. Phải chăng chúng ta là những người nói rằng: “Tôi không làm gì xấu, tôi là một người tử tế, tôi không có tội”.
Tuy nhiên, trong phần thư của Thánh Phaolô mà chúng ta đọc hôm nay, thánh nhân lặp lại với chúng ta: “Đức Kitô Giêsu đã đến thế gian, để cứu những người tội lỗi mà kẻ đầu tiên là tôi” (1 Timôtê I,15). Phụng vụ ngày Chúa nhật đầy rẫy thực tại “cứu độ” “tội lỗi được tha thứ”. Chúng ta có đem lại một nội dung cụ thể cho các từ đó? Chúng ta có thuộc phái Pharisêu chỉ nhìn thấy tội lỗi. Trong những người khác? Trước khi đi xa hơn trong sự suy niệm của tôi, tôi cần phải bình tâm và sáng suốt nhận thực rằng tôi là kẻ tội lỗi” khi nhớ đến những thiếu sót mà tôi phạm phải trong đời tôi.
Đức Giêsu mới kể cho họ dụ ngôn này: Người nào trong các ông có một trăm con chiên mà bị mất một con, lại không để chín mươi chín con kia ngoài đồng hoang để tìm cho kỳ được con chiên bị mất?”
Đức Giêsu hỏi. Người kêu gọi kinh nghiệm của các cử tọa, các ông nghĩ gì? Các ông sẽ làm gì? Thật ra, không một mục đồng nào chịu mất dù chỉ một con chiên, nhưng lo lắng để tìm lại nó.
Các triết gia đã biến Thiên Chúa thành một ý niệm vững chắc: Một hữu thể bất động, không hề thay đổi... Còn ở đây chúng ta đứng trước một Thiên Chúa “chuyển động”, đang mở chiến dịch tìm kiếm cái mà Người đã mất? Và Đức Giệsu đặt trước mắt - chúng ta các cậu mục đồng vùng đồi núi Galilê đang chạy hết tốc độ, chân trần trên sỏi đá để tìm lại một con chiên đi lạc khỏi đàn. Chúng ta đoán được sự ngoan cường của các cậu trai ấy, “tìm kiếm cho tới khi nào tìm thấy!”
Thiên Chúa là như thế...
Không bao giờ có người nào bị Thiên Chúa bỏ rơi.
Không bao giờ có người nào “bị mất” hẳn, bởi vì có Đấng yêu thương người ấy không ngừng đi tìm người ấy. Thiên Chúa không chịu ngồi chờ kẻ tội lỗi trở về. Người ra đi tìm họ.
Chúng ta còn phải chiêm niệm lâu dài Thiên Chúa đó, Đấng mà Đức Giêsu mạc khải cho chúng ta. Khi người ta yêu thương, thì số học không còn như cũ. Lúc đó, có thể đặt dấu bằng (=) ở giữa số 1 và số 99. Đối với Thiên Chúa, mỗi người đàn ông, mỗi phụ nữ có một giá trị độc nhất, vô giá. Tôi nhìn thấy con chiên độc nhất ấy đã bò trốn hoặc đã bị mất. Đó là con chiên chiếm hết ý nghĩ của cậu mục đồng. Và xem ra chỉ có nó mới là đáng kể. Chúng ta có một Thiên Chúa như thế. Một Thiên Chúa tiếp tục nghĩ đến những ai đã bỏ rơi Người, một Thiên Chúa yêu mến những ai không yêu mến Người, một Thiên Chúa đau khổ chỉ vì một trong số các con chiên của Người làm Người lo lắng.
Đôi khi, tôi chẳng phải là con chiên đó sao? Và, xung quanh tôi, như ông nọ, bà kia, cô X..., ông Y... không người nào bị bỏ rơi. Thiên Chúa đang tìm kiếm họ.
“Tìm được rồi, người ấy mừng rỡ vác lên vai...”
Đây là một hình ảnh kỳ diệu, một trong những tranh thánh đã thể hiện Đức Giêsu như thế ngay từ những thế kỷ đầu: Một người chăn chiên sung sướng, tươi cười, vác trên vai một con chiên. Trong nội tâm mình, chúng ta còn phải chiêm niệm hình ảnh ấy của Thiên Chúa. Đức Giêsu đã có một sự quan sát rất tinh tế với chi tiết đơn giản đó: “vác con chiên trên đôi vai”, khi một con chiên đi lang thang nhiều giờ hoặc nhiều ngày xa đàn chiên, nó kiệt sức và nằm xuống. Thật ra phải vác nó thời. Và một con chiên nặng đấy? Nhất là khi người chăn chiên cũng đã chạy nhiều giờ trên những ngọn đồi nhiều sỏi đá dưới ánh nắng mặt trời... Chính người chăn chiên cũng rất mệt nhọc? Nhưng, Đức Giêsu nói, hoàn toàn vui mừng, người đó quên đi sự mệt nhọc của mình, bế nó lên tay và vác nó.
Chính Thiên Chúa được giới thiệu với chúng ta như thế! Vả lại hình ảnh ấy không mới mẻ. Toàn thể Kinh thánh đã thể hiện Thiên Chúa dưới những đường nét của “Người chăn chiên” (Isaia 40,11; 49,10 v.v...). Và mỗi Kitô hữu thỉnh thoảng phải đọc lại Thánh Vịnh 26 tuyệt vời: “Chúa là đấng chăn dắt tôi, tôi không thiếu thốn chi”.
“Về đến nhà, người ấy mời bạn bè, hàng xóm lại và nói: “Xin chung vui với tôi, vì tôi đã tìm được con chiên của tôi, con chiên bị mất đó”.
Niềm vui của người chăn chiên rất mạnh mẽ nên người ấy không thể, giữ lại cho một mình mình. “Xin chung vui với Ta” Thiên Chúa nói. Vậy giờ đây Thiên Chúa là hữu thể đang vui mừng và chia sẻ nềm vui. Chúng ta hoàn toàn khác với các người Pharisêu và kinh sư hay càu nhàu, bẳn gắt!
Vậy tôi nói cho các ông hay: “Trên trời cũng thế, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối, hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần phải sám hối ăn năn”.
Thiên Chúa vui mừng tha thứ cho những kẻ tội lỗi.
Thiên Chúa vui mừng để cứu độ, vì Người không biết kết án ai. Trên trời có niềm vui! Vậy khi nào? Mỗi lần một kẻ tội lỗi hoán cải. Chỉ một thôi ư! Mỗi lần mà sự ác lùi lại một chút trên mặt đất.
Hoặc người phụ nữ nào có mười đồng quan, mà chẳng may đánh mất một đồng, lại không thắp đèn, rồi quét nhà moi móc tìm cho kỳ được?
Luca, vốn rất quan tâm đến các phụ nữ là người duy nhất thuật lại cho chúng ta dụ ngôn đầy “nữ tính” này, để nói lại với chúng ta cùng một sự việc dưới một hình ảnh bổ sung. Sự lặp lại này không đơn thuần là một minh họa mới: Đức Giêsu nhấn mạnh, như để nói với chúng ta rằng điều Người vừa mới mạc khải không phải là một sự nói quá hoặc một sự nhầm lẫn ngẫu nhiên. Tình yêu phi thường của Thiên Chúa được tái xác nhận ở đây.
Tìm được rồi, bà ấy mời bạn bè, hàng xóm lại và nói: “Xin chung vui với tôi vì tôi đã tìm được đồng quan tôi đã đánh mất”.
Vậy giờ đây một niềm vui rất đơn sơ được chia sẻ giữa những Người phận nhỏ. Đây cũng là một sự quan sát cụ thể của Đức Giêsu. Người phụ nữ được đưa lên sân khấu này là một Người nghèo: Bà không sở hữu “một trăm con chiên”, bà chỉ có mười “đồng quan “! Đồng quan này chỉ số tiền lương trung bình một ngày công nông nghiệp (Mt 20;2). Vì thế không phải là gia tài to lớn gì mà bà đã tìm lại được Nhưng bà cũng muốn chia sẻ niềm vui. Thiên Chúa là như thế đó. Chúng ta còn chưa hiểu đủ bầu khí vui mừng xuất phát từ tấm lòng của Thiên Chúa nằm rải rác khắp nơi trong toàn bộ Tin Mừng như một “Tin Mừng”, và niềm vui ấy muốn tràn ngập nhân loại được “cứu thoát”.
“Cũng thế, tôi nói cho các ông hay: Giữa triều thần Thiên Chúa ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối”.
Hình ảnh này rất đẹp. Không nên cụ thể hóa nó. Có một cuộc lễ trên thiên giới. Niềm vui của Thiên Chúa lan truyền và trở thành niềm vui của các thiên thần.
Tất cả lễ hội hân hoan này chỉ vì sự hối cải của một người tội lỗi?
Tư tưởng Kitô giáo, phản ánh tư tưởng của Đức Giêsu đầy sự tinh tế. Phải nhấn mạnh rằng, không hề có một sự làm hại thanh danh với “tội lỗi” trong thái độ đó. Đức Giêsu không bao giờ nói rằng tội lỗi không quan trọng. Trái lại, sự lên án của Người đối với tội lỗi thì mãnh liệt và không chút mơ hồ. Như mọi ngôn sứ, Đức Giêsu đòi hỏi sự hoán cải và sám hối (Máccô 1,15). Và nếu các dụ ngôn mà chúng ta vừa nghe là một lời rao giảng về tình yêu Thiên Chúa thì chúng cũng là một lời rao giảng về sự hoán cải cần thiết của kẻ tội lỗi. Nhưng điều được nói ở đây một cách mạnh mẽ là luôn luôn Thiên Chúa có sáng kiến “đi tìm” điều đã bị mất. 'Tình yêu cốt ở điều này; không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Người đã yêu thương chúng ta trước” (1Ga 4,10 -19).
Chúng ta có để Thiên Chúa yêu thương chúng ta không? Chúng ta có mang lại niềm vui cho Thiên Chúa không? Và có bước vào trong niềm vui của Thiên Chúa không? Cần phải đọc lại phần kế tiếp là dụ ngôn về đứa con hoang đàng, trong Chúa nhật IV Mùa Chay.



51. Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Đức Trí

TIN VÀO SỰ THA THỨ ĐỂ LÀM HÒA VỚI CHÚA VÀ VỚI ANH EM
Kính thưa quý OBACE
Trên tầm mức thế giới chúng ta thấy các cuộc nội chiến tại một số quốc gia hiện nay dường như mỗi ngày một khốc liệt hơn, anh em chém giết lẫn nhau. Các quốc gia khác, kể cả Tòa Thánh cũng đã nỗ lực hết mình để mong tìm được giải pháp hòa bình, hòa giải cho các quốc gia nội chiến này, mà dường như vẫn chưa đạt được kết quả như mong đợi. Quốc gia này còn đang đánh nhau thì quốc gia khác lại bắt đầu khai chiến chém giết, đàn áp, trả thù… con người dường như khó chấp nhận sự tha thứ và hòa giải với nhau. Ngay trong một gia đình, một xóm nhỏ cũng đã xảy ra như thế, những cuộc cãi vã qua lại giữa hàng xóm, giữa vợ chồng thường xuyên xảy ra, bởi vì ai cũng cho rằng mình là người đúng, còn bên kia hoàn toàn có lỗi. Trong lãnh vực đời sống tâm linh đối với Thiên Chúa cũng thế, nhiều người đã cố tình sai phạm, quay lưng lại với Thiên Chúa nhưng họ vẫn cho là mình đúng, và tìm mọi cách để biện minh cho những hành động sai trái của mình.
Thưa quý vị, con người chỉ có thể thực sự hòa giải được với Thiên Chúa, làm hòa được với anh em khi mỗi người nhận ra tình trạng sai lỗi của mình, tin vào sự tha thứ và quyết tâm làm lại cuộc đời. Nếu như Chúa nhật tuần trước, Tin Mừng mời gọi chúng ta sám hối cách cụ thể chân thành, thì Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta tin vào sự tha thứ của một Thiên Chúa là Cha để trở về với Ngài làm hòa cùng Thiên Chúa và anh em, làm lại cuộc đời mới.
Câu chuyện Người Cha nhân hậu mà Thánh Luca thuật lại hôm nay, trước hết muốn diễn ta một Thiên Chúa là cha yêu thương con người và sẵn sàng tha thứ cho những ngỗ nghịch của con người. Đứa con thứ tượng trưng cho sự ngỗ nghịch ấy. Trong ánh mắt của người con thứ, người cha dường như chẳng con vị trí nào quan trọng, mặc dù rằng ông yêu thương kể cả chiều chuộng nó, ông đáp ứng cho nó đầy đủ không thiếu thứ gì. Khi khôn lớn, người con thứ đòi chia gia tài của ông, ông cũng sãn lòng chia cho nó, rồi nó bỏ nhà ra đi mang theo của cải của ông. Ông biết rõ, là nó sẽ phung phí hết số tài sản đó, và nó sẽ không còn nhớ gì đến ông, nhưng ông vẫn đợi vẫn chờ. Đến khi nó trở về với thân tàn ma dại quần áo tả tơi thì ông lại chạy ra ôm lấy nó mà hôn, ông còn ra lệnh cho đầy tớ đem áo, đem nhẫn và giày dép mang vào cho nó và còn giết bê béo ăn mừng với chỉ một lý do duy nhất: Vì con ta đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy. Mặc dù nó trở về vời lý do khác, nhưng ông vẫn tin vào sự trở về của nó và đã trả lại cho nó quyền được làm con cái trong nhà. Điều đó cho thấy rằng Thiên Chúa không bao giờ thất vọng về tình trạng của con người, dù con người có tội lỗi xấu xa, nếu biết quyết tâm chỗi dậy, thì Thiên Chúa luôn tin vào sự hoán cải của con người, để đón nhận và tha thứ.
Đứa con thứ đã lao vào tình trạng tồi tệ, tội của nó đáng chết đến trăm lần, nó đã bỏ tình yêu và cuộc sống hạnh phúc trong nhà Cha để lao đầu vào cuộc sống hưởng thụ sa đọa, nó lấy tiền của cha nó để ăn chơi đàng điếm. Chỉ khi nó sa cơ thất thế, không còn tiền bạc của cải, không còn chỗ dựa nào nữa, nó đã rơi xuống tận đáy của xã hội, đến tột cùng của sự nhục nhã nó phải đi chăn heo cho người khác, và thậm chí còn phải giành ăn đồ ăn của mấy con heo. Chính từ lúc cùng quẫn nhục nhã đó, nó có cơ hội để nhìn lại quãng đời của mình, và thấy rằng, chỉ có quãng thời gian ở trong nhà với cha là quãng đời đẹp nhất và hạnh phúc nhất, trong khi đầy tớ trong nhà cũng được ăn uống dư thừa, còn nó thì đang phảỉ đói khát phải sống cùng bầy heo. Nó tin rằng nó trở về, thì cha nó sẽ tha thứ, sẽ đón nhận nó, dù cho nó sẽ phải sống kiếp đầy tớ trong nhà, thì vẫn còn hạnh phúc hơn là cảnh xa nhà: Nó hồi tâm và tự nhủ tôi sẽ chỗi dậy và trở về với Cha tôi và thưa Người rằng: Thưa Cha con đã lỗi phạm đến trời và đến Cha, con không đáng được gọi là con cha nữa, xin Cha đối xử với con như đầy tớ trong nhà của cha. Nhận ra tình trạng của mình, tin vào sự tha thứ của Cha, và nó đã chỗi dậy làm một cuộc trở về với Cha, bỏ lại quá khứ để làm lại cuộc đời, bắt đầu một cuộc đời mới, và nó đã đón nhận được sự tha thứ vượt trên cả sức nó tưởng tượng. Người cha đã chạy ra ôm nó vào lòng, trả lại danh dự cho nó, và đón nhận nó với niềm vui mừng hân hoàn: Vì con ta đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy.
Nếu như lý do thúc đẩy cho sự trở về làm hòa với Thiên Chúa là: Tin vào tình yêu tha thứ của Thiên Chúa, thì việc làm hòa với anh em, đòi phải nhìn thấy tình huynh đệ con cùng một cha nơi người anh em mình, để có thể tha thứ và đón nhận nhau, đó là câu chuyện xảy ra cho người con cả. Anh này không chấp nhận và không tin vào sự hối hận trở về của em mình, vì thế anh ta đã giận dỗi và từ chối không chỉ người em, mà vì giận người em, anh từ chối không bước vào nhà cha nữa. Khi người ta giận dỗi nhau, thì người ta cũng từ chối gặp mặt Thiên Chúa, đó cũng là thái độ của nhiều người hôm nay: khi có vấn đề xích mích với anh em thì bỏ bê việc đến với Chúa. Người anh cả này đã nhất định từ chối người em, và từ chối bước vào nhà cha để dự bữa tiệc vui: Cha coi, đã bao năm tôi hầu hạ cha chẳng hề trái lời, vậy mà có bao giờ cha cho riêng tôi được một con bê để ăn mừng với bạn bè. Còn thằng con của Cha kia sau khi đã phung phí hết tài sản thì cha lại cho làm thịt bê béo để ăn mừng.
Anh đã tự mãn với đời sống hiện tại của mình, anh ganh tị với người em, anh không nhìn nhận nó là em của anh nữa, anh đã gọi nó là: thằng con của cha kia, chứ không phài là em tôi. Anh ở với Cha, nhưng lại không cảm nhận được tình thương của cha, anh có đầy đủ, cả khối tài sản được chia giống như người em, nhưng anh vẫn không thỏa mãn, anh còn tham một con bê nhỏ. Anh không thể tha thứ khi nhìn em của anh được cha tha thứ, anh muốn tiếp tục đẩy người em ra khỏi nhà, và khi anh giận dỗi với em mình, thì anh cũng đã tự tách mình ra khỏi nhà của cha, trở thành kẻ đứng ngoài.
Thưa quý OBACE, người cha trong câu chuyện của Tin Mừng hôm nay là hình ảnh của Thiên Chúa là cha yêu thương đang vẫn đang ngày ngày đợi chờ chúng ta là những đứa con trở về với Ngài. Có thể chúng ta giống như đứa con thứ đã xa lìa tình cha, vô ơn bội nghĩa với thiên Chúa, để mình chìm đắm trong cuộc sống hoang đàng, song chúng ta không thất vọng, chỉ cần mỗi người cũng hãy tự nhủ với mình rằng: Tôi sẽ chỗi dậy và trở về với cha tôi và thưa với ngài rằng: thưa cha, con đã lỗi phạm đến trời và đến cha, và chỗi dậy trở về, thì chúng ta sẽ được Thiên Chúa là Cha chạy ra ôm lấy chúng ta và tha thứ cho chúng ta.
Cũng có thể nhiều khi chúng ta thấy mình không đến nỗi tội lỗi, cũng không bỏ nhà đi hoang như người con thứ, thì rất có thể chúng ta đang giống như người con cả, mặc dù vẫn ở gần Cha nhưng lòng thì xa Cha, và nhất là chúng ta đang để trong mình sự so đo tính toán với cha, ganh tị với anh em khác và cũng nhiều lần chúng ta đã khép lòng từ chối anh em, và không cho họ có cơ hội trở về, và cũng nhiều lần vì ghét bỏ anh em, mà chúng ta đã không đáp lại lời mời của Thiên Chúa từ chối tình thương của Thiên Chúa… tất cả chúng ta đều được mời gọi trở về để xin lỗi cha và làm hòa với anh chị em.
Thánh Phaolo đã cho thấy, tất cả chúng ta đã trở nên tạo vật mới, con người mới, với cuộc đời mới, nhờ Đức Giêsu Kitô, Đấng đã hòa giải chúng ta với Thiên Chúa, và vì thế chúng ta hãy mạnh dạn đến cùng Thiên Chúa là cha, và nhất là mỗi người chúng ta đã lãnh nhận ơn tha thứ của Chúa, thì chúng ta cũng phải biết đón nhận và tha thứ cho nhau.
Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi người, mỗi gia đình, hãy mau chóng làm hòa cùng Thiên Chúa và làm hòa lại với nhau, đừng ngại ngần, hãy bước đến với Thiên Chúa nơi Bí tích Hòa giải, để mỗi người sẽ cảm nhận được tình yêu tha thứ của Thiên Chúa là cha, được an ủi và được chữa lành. Hãy rà soát lại các mối tương quan với anh chị em, hãy gỡ bỏ những bất đồng thành kiến, những giận hờn thù oán, hãy chủ động bước tới và đưa tay ra để bắt tay người anh em, để xóa đi những mặc cảm và giận dỗi, để cùng nhau sống tình huynh đệ con cùng một cha.
Xin Chúa cho mỗi người chúng ta đừng bao giờ thất vọng về tình trạng của mình, nhưng luôn tin tưởng vào lòng bao dung của Thiên Chúa để làm lại cuộc đời. Amen.



52. "Hãy chia vui với tôi" – Lm Giuse Nguyễn Hữu An

    Trong ba dụ ngôn của bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đều kết thúc bằng những lời nói đến niềm vui. Người chăn chiên tìm được chiên lạc và vác chiên lên vai rồi về nhà mời bạn hữu láng giềng đến chia vui; người đàn bà tìm thấy đồng bạc mất cũng mời lối xóm đến chia vui; người cha có đưa con đi hoang trở về liền mở tiệc ăn mừng.
Ba dụ ngôn đều đề cao hình ảnh một Thiên Chúa giàu lòng thương xót. Ngài xót xa khi một người lầm đường rơi vào tội lỗi. Do đó Ngài tha thiết tìm cứu người tội lỗi. Khi cứu được một người tội lỗi, Ngài rất vui mừng.
Chúa Giêsu bày tỏ niềm vui của Thiên Chúa khi người tội lỗi hối cải. Ở dụ ngôn thứ nhất, "trên trời sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải"; ở dụ ngôn thứ hai "các thiên thần của Thiên Chúa sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải"; và ở dụ ngôn thứ ba "phải ăn mừng, vì em con đây đã chết, mà nay lại sống, đã thất lạc mà nay lại tìm thấy".
Tội nhân hối cải, không những được tha thứ, nhưng còn được chờ đợi, được đón tiếp. Niềm vui của Thiên Chúa thật lớn lao khi người tội lỗi biết từ bỏ con đường xấu xa, trở về sống trong tình thương của Thiên Chúa.
Hôm nay xin suy niệm về dụ ngôn thứ ba. "Dụ ngôn đứa con hoang đàng" được gọi là "Dụ ngôn người cha nhân hậu" thì hợp lý hơn, bởi vì dung mạo trung tâm của câu chuyện chính là người cha.
Đại văn hào người Anh, Charles Dickens, xem dụ ngôn "Người cha nhân hậu" là câu chuyện hay nhất, là hạt ngọc đẹp nhất của Tin mừng.
Tình thương của cha đối với hai con, nổi bật nơi người con thứ.
1. Người con thứ
Người con thứ đòi Cha chia gia tài rồi bỏ đi vô tình, rời khỏi ngôi nhà, nơi mình sinh ra, nơi mình được nuôi dưỡng và lớn lên. Trẩy đi miền xa, người trai trẻ mang nổi khát khao mãnh liệt là ra khỏi luỹ tre làng, muốn nhìn xem thế giới mới lạ bên ngoài, thích miền xa hơn là gần gũi quê nhà. Người con thứ bỏ nhà ra đi với tiền bạc và lòng kiêu ngạo, quyết sống riêng khỏi gia đình và cộng đoàn. Anh ta ra đi không phải để học hành, tìm việc làm mà là ăn chơi đàng điếm, phung phí hết tài sản, sức khoẻ, bất kể đó là mồ hôi nước mắt của cha mẹ, bất chấp tiếng tốt của gia đình. Chơi bời nên mau chóng suy sụp. Anh ta trở nên hèn hạ khi đi chăn heo và muốn ăn thức ăn của heo. Heo là con vật người Do thái ghê tởm.
Khi trở về chẳng còn gì: tiền bạc, sức khoẻ, danh giá, lòng tự trọng... mọi thứ đã bị tiêu xài hoang phí. Anh ta chỉ còn lại một điều duy nhất là "đứa con nhỏ của cha nó".
Động lực nào đã khiến nó trở về? Thánh Luca viết rõ: "Hồi tâm lại, nó nói: biết bao người làm công cho Cha tôi có dư thừa bánh ăn, còn tôi thì phải chết đói ở đây! Thôi, đứng lên, tôi sẽ về cùng Cha tôi". Như vậy động lực nó trở về là đói, vì miếng ăn. Trước khi bị đói chắc chắn nó không bao giờ nhớ đến Cha, không bao giờ sám hối vì bỏ Cha ra đi, không thấy băn khoăn hồi tâm về mái ấm gia đình, nơi còn có Cha già chẳng biết đau yếu ra sao, không thấy tiếc nuối vì phá tan cả sự nghiệp của Cha. Khi bị cơn đói hành hạ, phải đi chăn heo, nó mới băn khoăn tìm đường về. Cái hồi tâm, cái băn khoăn của nó là làm sao để được ăn. Nó dự tính nói với Cha là nó trót phạm lỗi nghịch với trời, nó không còn đáng gọi là con, nó chỉ xin được đối xử như người làm công.
Đó phải chăng là một cuộc trở về trọn vẹn? Đó là cuộc lên đường được thúc đẩy bởi lòng sám hối hay sao? Sự thống hối của nó chỉ là vị kỷ nhằm khả năng có thể sống sót thôi. Nếu người con thứ thành công xây dựng cơ nghiệp, có lẽ sẽ không hiểu được tình Cha. Vì nếm mùi thất bại chua chát của cuộc đời nên nó lên đường trở về. Nó không đủ can đảm đi làm người ăn xin, nó không đủ liều mạng để đi trộm cướp, nó không dám đánh đổi cả cuộc đời để gây tiếng xấu. Nó sống bằng nghề lương thiện là đi chăn heo, sống bằng sức lao động của mình. Từ kinh nghiệm của vực thẳm này, nó mới hiểu được mặt trái cuộc đời. Đó không là chốn nương thân cho kẻ nghèo khổ, không là chỗ hạnh phúc cho kẻ khố rách áo ôm, không là chỗ cho kẻ cô thân cô thế. Vì vậy chỉ còn một con đường duy nhất là trở về xin tha thứ và làm công cho Cha để có cơm ăn áo mặc. Tất cả ý nghĩa của cuộc trở về được diễn tả cách cô đọng trong những lời "Cha ơi... con không đáng gọi là con Cha nữa".
Đọc câu chuyện, tôi nhận thấy sự trở về của người con thứ chẳng phải là mẫu mực. Sự trở về lý tưởng phải là sự trở về của lòng sám hối với tình yêu tha thiết. Nhưng trong thực tế cuộc sống, khi ngồi giải tội có nhiều hối nhân sau 5 năm, 10 năm thậm chí đến 20 năm, 30 năm mới trở về cùng Chúa; mỗi người mỗi hoàn cảnh khác nhau. Những bầm dập của của cuộc đời, những gian truân vất vả, những thất bại chua chát... đã cho họ rút kinh nghiệm là cần trở về với Chúa, nguồn mạch của bình an nội tâm, của niềm vui và hạnh phúc. Chính Chúa đã yêu thương, đã tác động và một khi nào đó như Chúa muốn họ trở về cùng Ngài. Như thế họ đã chọn lấy sự sống. Gặp gỡ nhiều người như thế, tôi cảm thông với người con thứ.
2. Người con cả
Hiếu thảo, vâng phục cha, không đi hoang, không ăn chơi. Con người lao động cần cù có tinh thần trách nhiệm, không rượu chè trác táng, chỉ lo ruộng rẫy nương vườn. Anh là con người mẫu mực. Thế nhưng, biến cố đứa em trở về đã bộc lộ con người thật của anh.Tuy ở trong nhà cha nhưng lại xa trái tim cha. Tại sao cha đãi tiệc bê béo cho thằng em bất hiếu, còn anh một con bê nhỏ để vui với bạn bè cũng không có. Anh tức giận vì thấy quyền lợi bị xúc phạm. Anh chẳng chịu vào nhà. Hoá ra cả hai người con vừa khác lại vừa giống nhau. Cả hai đều ở ngoài nhà cha. Con thứ không thấy hạnh phúc bên cha nên ra đi. Con cả không chia sẽ được hạnh phúc của cha nên không vào nhà. Anh thiếu bao dung và thiếu sự tha thứ cho em. Thái độ của người con cả là thái độ tiêu biểu của người biệt phái, luật sĩ hôm qua và hôm nay. Ích kỷ cho quyền lợi riêng mình. Tự mãn về cách giữ luật "con không hề trái lệnh cha một điều nào", tự hào về cách sống đạo " không như thằng con của cha" Chỉ muốn kẻ lỗi lầm không được cứu thoát mà phải chết.
Lúc sự giận dữ bùng nổ đến cực điểm, anh cả gặp lại tình cha. Cha đi ra năn nỉ, anh chẳng chịu nghe. Cha bộc bạch tâm tình với anh: "con ơi, mọi sự của cha đều là của con, chúng ta phải ăn mừng vì em con đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy". Lời cha làm anh bàng hoàng xúc động vì anh hiều rằng mình quá ích kỷ, quá nhỏ mọn. Cái ích kỷ làm anh tẩy chay sự trở về của đứa em. Cái nhỏ mọn làm anh làm anh xua tan lòng bao dung của cha. Tình cha lớn hơn cuộc đời anh, lớn hơn tính ích kỷ trong anh.
Hình ảnh người con cả thật gần với chúng ta. Phụng dưỡng cha mẹ với trách nhiệm, chứ chưa phải là tình thương. Không chia sẽ nổi buồn, nổi khổ tâm, nổi âu lo của cha mẹ. Chỉ biết than trách và đòi quyền lợi cho mình thật nhiều. Ghen tị, chỉ trích phê bình, đặt mình là tiêu chuẩn cho mọi việc đạo đức. Thiếu lòng bao dung, không chịu tha thứ. Hình ảnh đó thật giống tinh thần biệt phái, có đạo mà không có đức.
Cả hai người con cần phải trở về. Sám hối chính là trở về với tình cha, trở lại với tình yêu, tìm lại niềm vui và sự sống.
3. Người cha
Khi chia gia tài cho con lòng cha đau đớn. Vì tôn trọng tự do của con chứ không phải cha nhu nhược. Ngày nhìn con ra đi, bóng nó nhạt dần cuối chân trời như cánh chim bay, lòng cha thấy trống trải, muộn phiền vì thiếu vắng hình bóng con. Ngày ngày cha ngóng trông đợi con trở về. Thế rồi một ngày kia, đứa con trở về thật. Nó về trong dáng vẻ thất bại thảm hại, thất thểu rách nát. Thua cuộc đời nó về làm dấy lên những lời bình phẩm của làng xóm. Giả như nó không về, người ta sẽ lãng quên. Nay nó trở về nhắc cho bà con làng xóm thấy sự thất bại của gia đình ông. Con ông về trong thất bại chua cay là câu chuyện đám tiếu đầu làng cuối xóm. Vậy mà ông mở tiệc ăn mừng. Thật lạ lùng!
Ở đời, khi con thi đậu đại học, khi con công thành danh toại vinh quy bái tổ, khi con là Việt kiều về thăm, cha mẹ mở tiệc ăn mừng, mời bà con làng xóm đến chia vui. Người ta thường dấu kín chuyện thất bại của con cái, người ta mắc cở không dám kể về đứa con bất hiếu, ngổ nghịch, ăn chơi đàng điếm. Người ta chỉ khoe đứa con ngoan, tự hào đứa con học hành thành đạt, vui mừng khi con có việc làm có sự nghiệp. Thế mà, người cha lại mở tiệc lớn. Mừng đứa con trở về thất bại tả tơi. Khách mời ngỡ ngàng khi chủ nhà giới thiệu con ông về nhà sau những ngày chăn heo đói khổ. Thế nhưng, người hiểu tình yêu là gì, tình phụ tử là gì thì thông cảm và chia vui với người cha. Cha đã tha thứ cho con trước khi con tự thú. Cha vui vì đứa con đã chết nay sống lại, đã mất nay tìm thấy.
Dung mạo người cha đó, chính là Thiên Chúa, Đấng giàu lòng xót thương. Thái độ người cha đối với hai đứa con là thái độ của Thiên Chúa đối với con người. Trong trái tim Thiên Chúa chỉ có tình thương. Người không có trí nhớ về tội lỗi con người. Cha yêu con dù con hư hỏng, bất trung. Cha yêu con không vì con ngoan được việc, cha yêu con chỉ vì con là con. Cha không muốn mất một đứa con nào. Thiên Chúa của Đức Giêsu mạc khải là người cha nhân hậu, hiền từ, bao dung, hay tha thứ.
Hành trình thiêng liêng của cuộc đời, cả hai người con trong dụ ngôn đều có mặt trong mỗi con người chúng ta. Nhiều lần ta nghe theo cơn cám dỗ của thế gian xác thịt mà nên hoang đàng, hoang phí, gặp thất bại đau khổ mới hối hận trở về với Chúa. Nhiều lần ta là con cả tưởng mình đạo đức mà lên án tẩy chay người khác. Cần trở về với Cha, về với Thiên Chúa, Đấng giàu lòng xót thương.
Để có được niềm vui trong Chúa, điều căn bản là phải tin tưởng gắn bó cuộc đời với Chúa, phải thực lòng yêu mến Ngài. Chính niềm tin và tình yêu dành cho Thiên Chúa thúc đẩy con người hoán cải khi lầm lỗi. Cuộc sống sẽ vui tươi hạnh phúc khi chúng ta có Chúa trong cuộc đời của mình. Niềm vui đức tin là niềm vui trong Chúa và có Chúa ở giữa chúng ta.
"Hãy chia vui với tôi", Thiên Chúa vui mừng khi con người sống thân mật với Ngài trong tình cha con.
"Hãy chia vui với tôi", đó cũng là lời mời gọi mỗi kitô hữu chia sẻ niềm vui đức tin với anh em mình trong cuộc sống hàng ngày.



53. Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

CHÚA GIÊSU TRỞ NÊN “NGƯỜI CON HOANG ĐÀNG” VÌ CHÚNG TA.
Lm Jude Siciliano OP, viết suy niệm trong bài “cuộc trở về an toàn”: Nếu từ “hoang đàng” có nghĩa là phung phí thái quá, thì chúng ta có thể gọi cả hai cha con trong dụ ngôn hôm nay là hoang đàng, tuy mỗi người một kiểu. Người cha về tình thương và người con về tiền bạc vật chất. Theo thói quen chúng ta gọi dụ ngôn là người con hoang đàng. Nhưng nhiều nhà mô phạm cũng gọi người cha là hoang đàng nữa. Ông đã phung phí tình cảm trên hai đứa con vô độ, không có giới hạn nào. Người cha thế gian dù dễ dãi đến đâu cũng phải có chút hạn chế cho những đứa con của mình. Đàng này, trước các lỗi lầm của hai con, ông chỉ biết trông chờ, vui mừng và nài nỉ…Thiên Chúa là Đấng phung phí lòng xót thương trên các tội nhân.
Người con thứ đòi cha chia gia tài. Với tiền bạc, nó bỏ đi vô tình và ăn chơi trác táng. Hết tiền, nó đi chăn heo và muốn ăn thức ăn của heo. Khi trở về, nó chẳng còn gì cả. Tiền bạc, sức khoẻ, danh dự, lòng tự trọng… mọi thứ đã bị nó tiêu xài hoang phí.
Người cha mòn mỏi đợi chờ con trở về. Kể từ ngày con cất bước ra đi, cha ngong ngóng mong con về. Đứa con đã trở về thật rồi. Nó về vì chẳng có chỗ nào đón nhận, chẳng còn chỗ nào nuôi dưỡng, chẳng còn người bạn nào tiếp đón. Không sao cả, con trở về là cha mừng vui. Người cha không cần lời thú lỗi của con, cha đã tha thứ cho con rồi. Trong một thoáng, khi đứa con chưa có một động tác nào thì người cha đã có 4 động tác: nhìn thấy, chạnh lòng thương, chạy đến, ôm hôn. Trong một thoáng ngắn ngủi, khi chàng trai tuổi trẻ còn bất động thì ông lão già nua đã thực hiện 4 động tác rất nhanh nhẹn. Ông thật là người cha phung phí. Ông đã phung phí sức lực trong cuộc gặp gỡ với đứa con trở về. Ông đã phung phí tiền bạc khi chia gia tài một cách dễ dãi. Ông đã phung phí khi đem áo mới, giày mới, nhẫn vàng, lại còn tổ chức một bữa tiệc mừng có bê béo, có cả đàn hát múa nhảy để đón đứa con đi hoang trở về. Làm thế chẳng sợ hàng xóm cười cho sao! Tắt một lời, ông đã phung phí tình yêu thương. Yêu thương quá độ. Yêu thương đến vô lý. Mà có lý lẽ nào giải nghĩa được yêu thương? Chỉ có tình yêu thương mới giải nghĩa được những điều vô lý đó.
Nhiều người không chấp nhận lối hành xử nhân lành của Thiên Chúa theo dụ ngôn “Người Cha nhân hậu”. Kiểu cách suy tư và thái độ của người anh cả là một biểu trưng. Người anh cả tưởng rằng, Thiên Chúa chỉ có nhiệm vụ thưởng người có công, phạt kẻ có tội. Người anh cả không hiểu rằng, Thiên Chúa không thể đứng yên nhìn cảnh con người bị hư mất, chịu thất bại trong ơn gọi làm người do chính Ngài tạo dựng nên; Ngài gìn giữ, yêu thương quí mến, nâng niu trong bàn tay nhân hiền của Ngài hay sao? Ðể cứu rỗi loài người khỏi hư mất, khỏi thất bại trong ơn gọi cao cả ấy, Thiên Chúa đã nhập thể làm người, làm anh, làm cha, làm mẹ để đem người con trở về trong vòng tay yêu thương của Ngài.
Anh Piere Marie người sáng lập Huynh Đoàn Giêrusalem, một cộng đoàn các tu sĩ sống trong thành phố, đã suy niệm về Chúa Giêsu như người con hoang đàng theo Phúc Âm một cách thú vị. Xin trích dẫn tác phẩm “Người Cha Nhân Hậu” của Henri J. M. Nouwen, trong đó có một đoạn anh Pierre Marie đã viết:
“Đức Giêsu được sinh ra không bởi dòng dõi, ước muốn hay ý chí của con người, nhưng bởi chính Thiên Chúa. Một ngày kia, Ngài đã để mọi sự dưới chân Người và ra đi với gia sản của Ngài, là tước hiệu làm Con Thiên Chúa của Ngài…
Với giá chuộc tất cả, Ngài đã ra đi tới miền xa... miền đất rất xa... nơi mà Ngài đã trở thành như con người và đã làm trống rỗng chính mình. Chính dân của Ngài cũng không nhận biết Ngài và cái giường đầu tiên của Ngài là một nệm rơm. Giống như một cây đâm rễ nơi đất khô cằn, Ngài trưởng thành trước chúng ta, đã bị khinh bỉ là hạng thấp nhất trong con người. Chẳng bao lâu Ngài đã nếm sự lưu đày, sự chống đối, sự cô độc... sau khi đã cho đi mọi thứ trong đời sống cách rộng rãi, của cải, bình an, ánh sáng, sự thật, chính đời sống của Ngài... mọi kho tàng hiểu biết, khôn ngoan và mầu nhiệm đã được giữ kín từ muôn đời.
Sau khi đã hạ mình xuống ở giữa những con cái hư mất của nhà Israel, Ngài đã phung phí thời giờ của Ngài với những người đau ốm tật nguyền, với những người tội lỗi, ngay cả với những gái điếm, Ngài cũng hứa cho họ vào Nước của Cha Ngài; sau khi đã bị đối xử như một tên tham ăn, như một bợm nhậu, như một người bạn của bọn thu thuế và tội lỗi, như một người Samaria, một người bị quỷ ám, một kẻ phạm thượng; sau khi đã hiến dâng tất cả mọi sự, ngay cả thân xác và máu Ngài; và khi linh hồn Ngài cảm thấy một nỗi buồn sâu xa, hấp hối, phiền sầu; sau khi đã đi tới đáy của sự tuyệt vọng, Ngài muốn mặc lấy nơi mình sự bị bỏ rơi bởi Cha, lìa xa ngưồn Nước Hằng Sống, Ngài đã kêu lên từ Thánh Giá nơi Ngài bị đóng đinh: ”Ta khát”. Ngài đã yên nghỉ trong bụi đất và bóng đêm sự chết. Ba ngày sau Ngài Phục Sinh, chỗi dậy từ chiều sâu ngục tối nơi Ngài đã xuống, Ngài đã mang lấy tội lỗi của chúng ta, Ngài đã gánh hết những đau thương của chúng ta. Đứng thẳng, Ngài kêu lên: ”Phải, Ta lên Trời với Cha Ta cũng là Cha của con, là Thiên Chúa Ta cũng là Thiên Chúa các con”. Và Ngài đã trở lại Thiên Đàng...
Trong sự thinh lặng chiêm ngắm tất cả con cái trong Người Con từ khi Người Con trở thành tất cả cho mọi người, Người Cha nói với các tôi tớ: “Nhanh lên, hãy mang áo đẹp nhất mặc cho cậu, hãy xỏ nhẫn vào tay cậu, giày vào chân cậu. Chúng ta hãy mở tiệc ăn mừng, vì con Ta đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy... Người Con Hoang Đàng của Ta đã mang tất cả mọi ngươì trở về...”
Và tất cả bọn họ bắt đầu dự tiệc, mang trên mình chiếc áo trắng dài đã được giặt sạch trong máu của Con Chiên...”



54. Bài học về lòng xót thương – Lm. Anmai

Có người nói rằng, xếp quyển Thánh Kinh lại, chỉ để lại trang Luca chương 15 mà hôm nay chúng ta được nghe.
Chương 15 của Luca là một trong những chương sách đẹp nhất của toàn bộ Thánh Kinh Tân Ước. Cả chương sách bừng lên niềm vui chan chứa, niềm vui của tình yêu mà những ai sống trong quỹ đạo của ích kỷ không cảm nếm được. Bối cảnh là những người thu thuế và tội lỗi đến với Chúa Giêsu để nghe Người giảng, làm cho người Pharisêu và các kinh sư khó chịu. Bối cảnh đó làm nổi bật lòng thương xót của Thiên Chúa đối với tội nhân và là lời cảnh giác cho những kẻ tự hào mình là người công chính.
Trang Tin Mừng Tin Mừng Lc 15,1-3.11-32 đã từng được gọi là dụ ngôn đứa con hoang đàng. Với sự quyến định trở về của mình, người con này được đề cao hơn cả cuộc đời hoang đàng của anh ta. Ngày nay, người ta lại chuyển hướng và nhìn vào hình ảnh từ bi đại hải của người cha. Nhìn như thế để như là trách khứ tấm lòng không bao dung, không nhân hậu và miệt thị của người anh cả.
Dẫu sao đi nữa, dụ ngôn ngôn trên đây có ý nghĩa rất phong phú liên quan đến cách sống và cách xử sự của cả ba nhân vật: Người cha và hai người con. Dường như nhân vật nổi bật của dụ ngôn là người anh cả. Bởi vì trong câu chuyện, những nhân vật đang nghe Đức Giêsu kể dụ ngôn có cách sống và cách xử sự giống như người con cả.
Nét độc đáo nổi bật trong chân dung của Luca về Chúa Giêsu đó là lòng thương xót. Trong sách Tin Mừng thứ ba, Chúa Giêsu thường xuyên quan tâm đến người nghèo, các tội nhân, những người bị gạt ra bên lề xã hội. Không phải các đạo sĩ nhưng chính những người chăn chiên mới là người đến máng cỏ đầu tiên (2,8-18); Chúa đón tiếp người phụ nữ tội lỗi nhưng có lòng thống hối (7,36-50); Chúa nói những điều tốt lành về người Samaria (10,30-37); Chúa đến thăm người thu thuế (19,1-10); Chúa kể những dụ ngôn tuyệt vời về lòng thương xót (chương 15). Các phụ nữ cũng chiếm vị trí đặc biệt trong Tin Mừng Luca. Vào thời đó, phụ nữ chỉ là công dân hạng hai và bị coi thường, nhưng Chúa Giêsu lại trân trọng họ (10,38-42), đón nhận sự giúp đỡ của họ (8,1-3), và cho thấy đức tin kiên cường của các bà trong những giai đoạn thử thách nhất (23,49; 24,1; Cv 1,14).
Tin Mừng Luca chương 15 được gọi là các dụ ngôn về lòng thương xót, chương này gồm một lời mở đầu và ba dụ ngôn. Lời mở đầu có tầm quan trọng đặc biệt, vì đó là chìa khoá để hiểu Đức Giêsu nói dụ ngôn trong bối cảnh nào, có ẩn ý gì và nói cho ai. Người thuật chuyện cho biết bối cảnh và lý do Đức Giêsu kể các dụ ngôn ở Lc 15,1-3: “1Các người thu thuế và các người tội lỗi đều lui tới với Đức Giêsu để nghe Người giảng. 2Những người Pharisêu và các kinh sư bèn xầm xì với nhau: ‘Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng.’ 3Đức Giêsu mới kể cho họ dụ ngôn này:…”
Lc 15,1-3 cho biết nhiều chi tiết liên quan đến lý do Đức Giêsu kể các dụ ngôn. Trước hết là những người thu thuế và những người tội lỗi đến với Đức Giêsu để nghe Người giảng. Tiếp đến là lời xầm xì của những người Pharisêu và các kinh sư: “Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng.” Lời xầm xì này cho biết thêm hai yếu tố mới. Không chỉ là việc những người thu thuế và tội lỗi đến với Đức Giêsu và nghe Người giảng, mà chính Đức Giêsu tiếp đón họ và ăn uống với họ. Nghĩa là sự đón nhận đến từ hai phía. Về phía Đức Giêsu, Người tiếp đón và ăn uống với những người thu thuế và tội lỗi. Về phía họ, họ đến với Đức Giêsu để nghe Người giảng.
Dụ ngôn “Tìm chiên lạc” (câu 4-7) mô tả Thiên Chúa như người mục tử bỏ 99 con chiên lại để đi tìm chiên lạc, và niềm vui tràn bờ khi Ngài tìm lại được con chiên lạc, đến nỗi vác nó lên vai đem về, và mời mọi người đến chung vui vì đã tìm lại được con chiên bị mất. Trong mắt của Chúa, mỗi một con người, bất kể yếu đuối và tội lỗi đến đâu, đều là một nhân vị độc đáo và không thể thay thế. Vì thế, Ngài chăm sóc từng con chiên và đau đáu đi tìm khi nó lạc bầy. Chính vì thế, không ai có quyền thất vọng về tình thương của Chúa vì tình thương ấy dứt khoát lớn hơn tội lỗi của chúng ta. Điều duy nhất cần thiết là sám hối ăn năn, nghĩa là thay đổi cách nhìn, cách nghĩ và cách sống của mình.
Trong chùm dụ ngôn về lòng thương xót, dụ ngôn “Người con hoang đàng” vẫn là dụ ngôn nổi tiếng nhất, cả về văn chương lẫn nội dung (15,11-32). Không phải vô lý mà có tác giả đã đề nghị đặt tên cho dụ ngôn này là “Người cha phung phí” thay vì “Đứa con hoang đàng”. Bởi lẽ trọng tâm của dụ ngôn không phải là sự phung phí của cải vật chất của đứa con thứ, mà chính là lòng thương xót của người cha dành cho cả hai đứa con, lòng thương xót vô bờ đến độ không thể hiểu nổi… cho nên được gọi là ‘phung phí’ tình yêu.
Con đầu lòng được hưởng gấp đôi phần gia sản theo luật lệ của người Do thái (Đnl 21,17). Và bởi thế, người con út trong dụ ngôn được chia một phần ba sản nghiệp. Việc phân chia tài sản phải đợi đến khi người cha qua đời theo lẽ thường của sự đời . Nếu như việc chia gia tài tiến hành trước thời gian thì có những khoản về hình phạt đi theo đó. Tuy nhiên điều quan trọng của luật ở khía cạnh tinh thần chứ không nằm ở khía cạnh lề luật. Người con út đã đoạn tuyệt với gia đình, không thương tiếc cha mình, anh mình sau khi có tài sản trong tay. Bất chấp tất cả, anh ta đòi hỏi chia gia tài rồi bỏ nhà đi,. Với quyết định như thế, anh ta đem mọi sự theo mình và không có hi vọng gì sẽ trở lại. Dĩ nhiên đây là sự mất mát lớn đối với gia đình, cách riêng với người cha.
Phải chăn heo, đó là kết cục bi tham cho cuộc sống phóng đãng và phung phí dẫn người con út. Chăn heo, với người Do thái, gợi lên ý tưởng ô uế, “lạc đạo” và như thế, người con út đã đánh mất tư cách là thành viên trong gia đình cũng như trong Dân Chúa. Trong dụ ngôn, người con út thậm chí còn tệ hơn cả heo, vì “ao ước lấy đậu muồng heo ăn mà nhét cho đầy bụng nhưng chẳng ai cho”.
Người con út hồi tâm khi đối diện với nỗi cơ cực đến tột cùng. Được trở về nhà trong tư cách kẻ làm thuê, đó là ước muốn của anh ta. Để cuộc trở về được thành công theo ước muốn, anh chuẩn bị kỹ lưỡng những gì phải thưa thốt với cha mình, và lường trước sẽ bị mọi người tiếp nhận bằng cái nhìn soi mói và nghi ngờ. Chuyện đặc biệt là dù thế nào đi chăng nữa nhưng cha anh vẫn thương anh. Ông vẫn ngày đêm trông ngóng, và khi thấy con ở đàng xa, “ông chạy ra ôm cổ anh ta và hôn lấy hôn để” (câu 20) đến độ người con không kịp nói hết bài diễn văn đã soạn sẵn! Cuộc đoàn tụ này rất giống với cuộc đoàn tụ của Esau và Giacóp (St 33,4). Giacóp nhớ đến tội ác mình đã phạm chống lại anh, nhưng giống như người cha trong dụ ngôn này, Esau chỉ nghĩ đến hoà giải. Người cha ra lệnh cho gia nhân chăm sóc mọi sự cho đứa con của mình, nào là áo, nào là nhẫn, nào là bê béo… tất cả diễn tả sự nhìn nhận đây là đứa con của chủ nhà chứ không phải tôi tớ. Không có chuyện hỏi tội, không có chuyện tra khảo, cũng không có chuyện bàn bạc xem thằng con hư hỏng này có xứng đáng được tha tội không… chỉ có điều quan trọng duy nhất là: “con ta đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy” (câu 24).
Câu chuyện đẹp tưởng chừng đã hạ màn với cảnh đẹp tuyệt vời như thế, không ngờ lại thêm cảnh khác xen vào. Người con cả đã nổi đóa lên. Anh đã cố gắng, đã tự nhủ rằng anh đã cố gắng sống công chính đến thế: “Đã bao năm con hầu hạ cha và chẳng khi nào trái lệnh” (câu 29), thế mà “chưa bao giờ cha cho lấy một con dê con để ăn mừng với chúng bạn”. Và nhân danh sự công chính đó, anh khước từ việc chia sẻ niềm vui với gia đình khi “thằng con của cha” (chứ không phải đứa em của tôi) trở về. Lại một lần nữa, tình yêu và lòng thương xót của người cha bừng sáng và xua tan mọi hận thù ghen ghét. Ông đã bước ra đón đứa con hoang đàng thì ông cũng bước ra đón người con cả, vì ông mong muốn cả hai đứa con đều được hạnh phúc. Anh con cả chỉ nhìn thấy gia tài và nỗ lực làm việc của bản thân anh. Người cha không từ chối điều đó, nhưng những điều đó đều không quan trọng bằng điều này là: một đứa con và một người anh em đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy. Vì thế, mọi chuyện khác đều phải dẹp sang một bên để “chúng ta phải ăn mừng, phải vui vẻ” (câu 32). Lại một lần nữa, tâm trí ta nhớ đến câu chuyện Giacóp. Giống như Esau, đến giai đoạn cuối đời, Giacóp khám phá ý nghĩa và tầm quan trọng của đoàn tụ, nên khi nghe tin Giuse vẫn còn sống, ông quên hết những tội ác mà chính những anh em trong nhà đã gây ra cho Giuse, và chỉ nhớ một điều: “Thế là đủ. Giuse con ta vẫn còn sống” (St 45,28).
Thiên Chúa, là Cha giàu lòng thương xót, Ngài mãi mãi xót thương chúng ta. Chúng ta, có quay về với Chúa như người em và chúng ta có bao dung cho em chúng ta khi em chúng ta lầm lỗi hay không, vẫn là lời mời gọi lòng bao dung thương xót của mỗi người chúng ta.



55. Ai là con thực sự? Ai là người làm công?

(Suy niệm của Lm Giuse Lê Minh Thông)
Dụ ngôn người cha nhân hậu và hai người con.
Tìm hiểu Lc 15,1-3.11-32
Nội dung
Dẫn nhập
1. Đức Giêsu kể dụ ngôn cho ai và để làm gì?
2. Vị trí của ba dụ ngôn
3. “Con thứ đi hoang” xin được coi như “người làm công”
4. “Con cả ở nhà” sống như “người làm công”
5. Áp dụng dụ ngôn vào nhân vật trong trình thuật
6. Áp dụng dụ ngôn cho độc giả
Kết luận
Dẫn nhập
Đoạn Tin Mừng Lc 15,1-3.11-32 đã từng được gọi là dụ ngôn đứa con hoang đàng. Nhưng bản văn đề cao quyết định quay trở về của người con này hơn là sự hoang đàng của anh ta. Hiện nay người ta thường gọi là dụ ngôn người cha nhân hậu, nhưng có lẽ bản văn nhấn mạnh hơn đến sự không nhân hậu của người con cả, là người đã trách cha và miệt thị em mình. Có thể dụ ngôn trên đây có ý nghĩa rất phong phú liên quan đến cách sống và cách xử sự của cả ba nhân vật: Người cha và hai người con. Dường như nhân vật nổi bật của dụ ngôn là người anh cả. Bởi vì trong câu chuyện, những nhân vật đang nghe Đức Giêsu kể dụ ngôn có cách sống và cách xử sự giống như người con cả.
Sự phong phú về ý nghĩa của bản văn làm cho việc đặt một tựa đề thường là rất khó. Một câu chuyện mô tả ba cách nhìn cuộc đời khác nhau của ba nhân vật thì không thể tóm tắt chỉ trong dăm ba chữ. Có lẽ nên tìm hiểu ý nghĩa của dụ ngôn này trong bối cảnh văn chương của nó, để từ đó có thể thưởng thức, lắng nghe và sống với dụ ngôn hơn là loay hoay tìm cách đặt một tựa đề.
1. Đức Giêsu kể dụ ngôn cho ai và để làm gì?
Tin Mừng Lu-ca chương 15 được gọi là các dụ ngôn về lòng thương xót, chương này gồm một lời mở đầu và ba dụ ngôn. Lời mở đầu có tầm quan trọng đặc biệt, vì đó là chìa khoá để hiểu Đức Giêsu nói dụ ngôn trong bối cảnh nào, có ẩn ý gì và nói cho ai. Người thuật chuyện cho biết bối cảnh và lý do Đức Giêsu kể các dụ ngôn ở Lc 15,1-3: “1Các người thu thuế và các người tội lỗi đều lui tới với Đức Giêsu để nghe Người giảng. 2Những người Pharisêu và các kinh sư bèn xầm xì với nhau: ‘Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng.’ 3Đức Giêsu mới kể cho họ dụ ngôn này:…”
Lc 15,1-3 cho biết nhiều chi tiết liên quan đến lý do Đức Giêsu kể các dụ ngôn. Trước hết là những người thu thuế và những người tội lỗi đến với Đức Giêsu để nghe Người giảng. Tiếp đến là lời xầm xì của những người Pharisêu và các kinh sư: “Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng.” Lời xầm xì này cho biết thêm hai yếu tố mới. Không chỉ là việc những người thu thuế và tội lỗi đến với Đức Giêsu và nghe Người giảng, mà chính Đức Giêsu tiếp đón họ và ăn uống với họ. Nghĩa là sự đón nhận đến từ hai phía. Về phía Đức Giêsu, Người tiếp đón và ăn uống với những người thu thuế và tội lỗi. Về phía họ, họ đến với Đức Giêsu để nghe Người giảng.
Trong bối cảnh trên, “Đức Giêsu kể cho họ dụ ngôn:…”. “Họ” – thính giả nghe các dụ ngôn trong bản văn – chính là những người Pharisêu và các kinh sư. Có thể hiểu thêm là có cả những người thu thuế và những người tội lỗi nữa, vì bản văn nói về họ. Như thế, mục đích việc Đức Giêsu kể dụ ngôn là để giải thích và trả lời cho câu hỏi đặt ra: Tại sao Đức Giêsu và những người thu thuế và tội lỗi lại đến với nhau? Đây là điều mà những người Pharisêu và các kinh sư cho là chướng tai gai mắt, nên dẫn đến việc xầm xì. Đồng thời, dụ ngôn cũng cho biết thực chất về cách cư xử của họ.
Ngày nay, nhân vật “họ” là bất kỳ ai đọc bản văn. Thực vậy, độc giả mới là thính giả đích thực của câu chuyện, vì bản văn được viết ra cho họ. Độc giả trực tiếp là cộng đoàn Lu-ca cuối thế kỷ I, tiếp đến là độc giả qua mọi thời đại, với tư cách là người đọc bản văn. Vậy, dụ ngôn này có ý nghĩa gì cho độc giả? Câu chuyện này nói gì với độc giả là tất cả chúng ta ngày nay?
2. Vị trí của ba dụ ngôn
Trong Lc 15, Đức Giêsu kể ba dụ ngôn, trong đó, hai dụ ngôn đầu tiên rất ngắn, nói về con chiên đi lạc (Lc 15,4-7) và đồng bạc bị đánh mất (Lc 15,8-10). Hai dụ ngôn này diễn tả tấm lòng của Thiên Chúa dành cho những người lạc lối, qua hình ảnh người mục tử đi tìm cho bằng được chiên lạc và người phụ nữ tìm cho bằng được đồng tiền bị mất. Điều hai dụ ngôn này nhấn mạnh là chính Thiên Chúa đi bước trước để tìm kiếm những gì đã mất. Áp dụng vào bối cảnh câu chuyện thì hai dụ ngôn đầu tiên muốn ám chỉ Đức Giêsu, Người đến để tìm kiếm những con chiên lạc, tìm kiếm những gì đã mất. Cụ thể là Người đến với những người thu thuế và tội lỗi để dẫn họ trở về với Thiên Chúa.
Dụ ngôn thứ ba, tạm gọi là dụ ngôn người cha nhân hậu, dài hơn và ý nghĩa phong phú hơn. Dụ ngôn thứ ba này bổ túc thêm những gì hai dụ ngôn trước chưa diễn tả được. Điểm mới trong dụ ngôn này là chính “con chiên lạc” tự tìm đường trở về với người mục tử, qua việc đứa con hoang đàng quyết định trở về với cha của mình, chứ người cha không đi tìm. Như thế, thay vì đi tìm chiên, đi tìm đồng bạc như trong hai dụ ngôn trước, thì dụ ngôn thứ ba trình bày hoàn cảnh và tâm tư của những người đi lạc. Đi lạc theo cả hai nghĩa: Bỏ nhà đi hoang (người con thứ) và đi lạc ngay tại nhà mình (người con cả), anh ta ở nhà mà sống như người làm công.
Tóm lại, hai dụ ngôn đầu giải thích tại sao Đức Giêsu tiếp đón và ăn uống với phường tội lỗi, dụ ngôn thứ ba giải thích hành động tích cực của những người thu thuế và những người tội lỗi: Họ đến với Đức Giêsu và nghe Người giảng. Dụ ngôn thứ ba còn cho biết thái độ của người cha và đề cao sự tự do của hai người con trong sự lựa chọn của mình.
3. “Con thứ đi hoang” xin được coi như “người làm công”
Người con thứ tự quyết định ra đi và tự quyết định trở về sau khi học được bài học quý giá từ cuộc sống. Người cha không ngăn cản con mình ra đi. Đó là cách tốt để người cha huấn luyện con mình có trách nhiệm với lựa chọn của mình. Như thế, nhận ra mình đã lạc đường và can đảm quyết định quay trở về là một bước tiến lớn trong sự trưởng thành nhân cách. Anh ta đã đi một bước dài trong tiến trình tự đào tạo bản thân. Điều anh ta tự nhủ đáng cho người đọc qua mọi thời đại học hỏi: “17Biết bao nhiêu người làm công cho cha ta được cơm dư gạo thừa, mà ta ở đây lại chết đói! 18Thôi, ta đứng lên, đi về cùng cha và thưa với người: ‘Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, 19chẳng còn đáng gọi là con cha nữa. Xin coi con như một người làm công cho cha vậy.’ 20Thế rồi anh ta đứng lên đi về cùng cha” (15,17-20).
Hoàn cảnh sống và quyết định của người con thứ là lời mời gọi độc giả hãy học lấy từ cuộc sống, từ những thất bại, những bài học quý giá để làm cho mình trưởng thành hơn. Nhờ học trường đời mà người con thứ đã can đảm làm lại cuộc đời và biết lấy quyết định đúng đắn, không mặc cảm tự ti hay tự tôn, cũng không sợ mất thể diện.
4. “Con cả ở nhà” sống như “người làm công”
Nhân vật phản diện của dụ ngôn người cha nhân hậu là “người con cả”. Thái độ và cách xử sự của anh ta ám chỉ thái độ của những người Pharisêu và các kinh sư. Lời xầm xì giữa họ với nhau được đặt song song với lời người con cả trách cha mình và nhục mạ em mình: “29Cha coi, đã bao nhiêu năm trời con hầu hạ cha, và chẳng khi nào trái lệnh, thế mà chưa bao giờ cha cho lấy được một con dê con để con ăn mừng với bạn bè. 30Còn thằng con của cha đó, sau khi đã nuốt hết của cải của cha với bọn điếm, nay trở về, thì cha lại giết bê béo ăn mừng” (Lc 15,29-30). Lời trách móc cha (ám chỉ Đức Giêsu trong lời xầm xì ở 15,2) và lời chối bỏ em mình (ám chỉ những người thu thuế và tội lỗi ở 15,1-2) cho thấy người con cả đã không sống “tư cách làm con” và “tư cách làm anh” trong gia đình. Những người Pharisêu và các kinh sư cũng đang xử sự như người con cả.
Không sống và cư xử như một người con, không đứng ở địa vị con cái, người con cả suy nghĩ và hành động như một đứa ở trong nhà. Từ trước đến bây giờ anh ta không biết đến điều cha anh nói: “Con à, lúc nào con cũng ở với cha, tất cả những gì của cha đều là của con” (Lc 15,31).
Người con cả cũng không sống tư cách làm anh vì đã không đón nhận sự trở về của em mình. Anh ta đã phủ nhận tư cách làm anh và hạ thấp em mình khi nói: “Thằng con của cha đó, sau khi đã nuốt hết của cải của cha với bọn điếm, nay trở về, thì cha lại giết bê béo ăn mừng” (15,30). Đó là “thằng con của cha” chứ không phải là “đứa em của con”, một đứa em đáng quý trọng vì đã biết ăn năn hối cải trở về.
Điều trớ trêu và châm biếm trong bản văn là tương phản giữa hai người con: Người con thứ quay trở về chỉ xin được cha xem là “người làm công”, vì nghĩ rằng mình không xứng đáng “làm con”, thì người con thứ lại được hưởng trọn vẹn quyền “làm con” qua các biểu tượng: Mặc áo đẹp, đeo nhẫn, đi dép và dự tiệc mừng (15,22-23). Ngược lại người anh cả tự cho mình là “người con gương mẫu”, đã có công “hầu hạ” cha trong nhiều năm, anh ta lại sống và suy nghĩ “như người làm công”, “như người làm thuê”, “như đứa ở” chứ không phải là “người con thực sự”.
Tình trạng của người con cả trầm trọng hơn nhiều so với việc bỏ nhà đi hoang của người con thứ. Bởi vì người con cả ở nhà với cha nhưng không sống tư cách làm con mà anh ta lại không biết điều ấy, nghĩa là vẫn nghĩ mình là đứa con ngoan và hiếu thảo.
5. Áp dụng dụ ngôn vào nhân vật trong trình thuật
Người con cả tưởng mình là con cái trong nhà, nhưng thực ra là không phải. Cũng vậy, những người Pharisêu và các kinh sư tưởng mình thuộc về Thiên Chúa, làm công việc của Thiên Chúa, phục vụ Thiên Chúa, nhưng thực sự không phải. Họ đang đi ngược lại ý định của Thiên Chúa khi chống lại Đức Giêsu.
Sự tương phản giữa các nhân vật: “con cả – con thứ”, “những người Pharisêu và các kinh sư – những người thu thuế và những người tội lỗi” song song với nhau. Bên ngoài, người con cả ở nhà là đứa con ngoan, chăm lo hầu hạ cha nhưng thực chất bên trong anh ta là đứa ở. Bên ngoài, người con thứ bỏ nhà đi hoang, không nhận ra lòng thương xót của cha, nhưng tự trong lòng, anh đã biết hối cải quay về. Như thế người con đi hoang trở về mới là “người con đích thực”. Mạch văn cho phép hiểu: Những người thu thuế và những người tội lỗi sám hối trở về với Thiên Chúa mới thực sự là con cái Thiên Chúa. Còn những người Pharisêu và các kinh sư là những người làm thuê.
Liệu những người Pharisêu có hiểu và có nhận ra sự trớ trêu này qua dụ ngôn không? Bản văn không cho độc giả biết, vì dụ ngôn kết cách đột ngột với lời dạy của người cha: “31Con à, lúc nào con cũng ở với cha, tất cả những gì của cha đều là của con. 32Nhưng chúng ta phải ăn mừng, phải vui vẻ, vì em con đây đã chết mà nay lại sống, đã mất mà nay lại tìm thấy” (15,31-32). Dụ ngôn kết dở dang ở đây để lại nhiều câu hỏi: Người anh cả phản ứng thế nào trước lời dạy của cha mình? Liệu lời giáo huấn này có làm người con cả thay đổi lập trường để biến tức giận thành niềm vui và trở lại làm con cái trong nhà hay không? Liệu người anh có đổi cách suy nghĩ của người nô lệ để sống và ứng xử với cha với tư cách là con và đón nhận em mình với tư cách là anh hay không?
Khi áp dụng dụ ngôn cho những người Pharisêu và các kinh sư, độc giả biết câu trả lời cho những câu hỏi trên là “KHÔNG”, bằng chứng là trong phần tiếp của Tin Mừng, những người Pharisêu và các kinh sư đã đeo đuổi cho đến cùng việc chống đối Đức Giêsu và họ đã góp phần vào việc giết chết Đức Giêsu trên thập giá.
6. Áp dụng dụ ngôn cho độc giả
Những điều trên đây là diễn tiến trình thuật trong Tin Mừng, điều quan trọng mà bản văn nhắm tới là quyết định của độc giả, vì bản văn được viết ra cho độc giả. Ở đây là độc giả của cộng đoàn Luca cuối thế kỷ I và cũng độc giả qua mọi thời đại. Độc giả nghĩ gì và quyết định thế nào sau khi đọc trình thuật. Thiết nghĩ độc giả có thể rút ra ba bài học từ câu chuyện:
1) Bài học nơi người con thứ. Dám quyết định, dám ra đi, dám sống hết mình, dám nhìn nhận sự thật về mình, dám nhận trách nhiệm về sự lựa chọn của mình. Đáng phục hơn cả là dám đứng lên, dám làm lại cuộc đời, dám quay lưng lại với quá khứ, dám hối cải và trở về để sống trọn vẹn tư cách làm con trong tình yêu thương của cha mình. Trong trình thuật, việc những người thu thế và tội lỗi “đến với Đức Giêsu và nghe Người giảng” (15,1) được ví như là người con thứ đã can đảm hối cải trở về. Vậy, độc giả đang ở giai đoạn nào trong hành trình tìm kiếm của người con thứ?
2) Bài học từ người anh cả. Có bao giờ chúng ta nghĩ mình là “con cái trong nhà” mà thực sự đang sống như “người làm công” hay không? Trong tương quan với anh chị em mình, làm thế nào để đón nhận và cùng chia sẻ trách nhiệm với anh chị em mình chứ không dùng kiểu nói của người con cả: “Thằng con của cha đó”. Liệu lời dạy của người cha có làm cho độc giả nhận ra sự thật trong tương quan với Cha trên trời và với anh chị em mình không?
3) Bài học nơi cách xử sự của người cha. Có nhiều điều để học hỏi nơi người cha về cách giải quyết những vấn đề phức tạp và tế nhị trong cuộc sống. Có thể nói, khởi đầu dụ ngôn, người cha có hai người con, nhưng trong thực tế lại không có đứa con nào cả. Một đứa thì đi hoang, một đứa thì sống ở nhà với cha nhưng lại sống như một người làm công chứ không phải là con. Làm thế nào để vừa tôn trọng tự do của đứa con muốn ra đi, vừa biết chỉ dạy cho đứa con ở lại về cách thức làm con? Bản văn mời gọi các bậc cha mẹ – cũng như những người có trách nhiệm trên người khác – biết áp dụng cách giáo dục của người cha: Dùng tình thương để cảm hoá và tôn trọng sự tự do để giáo dục sự tự do. Nhờ đó con người có khả năng lấy những quyết định đúng đắn cho mình.
Cả ba bài học trên được trao vào tay người đọc là tất cả chúng ta. Câu chuyện vẫn chỉ là câu chuyện, dụ ngôn vẫn mãi mãi là dụ ngôn. Bản văn luôn là những gợi ý, những đề nghị chứ không trả lời thay cho chúng ta.
Kết luận
Trình thuật mở đầu (Lc 15,1-3) và dụ ngôn người cha nhân hậu với hai người con (Lc 15,11-32) vẽ lên một bức tranh với nhiều màu sắc mạnh mẽ có khả năng dẫn người đọc đến suy tư và nhận ra chính mình trong các nhân vật ấy.
Phần mở đầu (15,1-3) và phần dụ ngôn (15,11-32) soi sáng cho nhau và nối kết chặt chẽ với nhau. Đứa con hoang đàng sám hối trở về là hình ảnh của những người thu thuế và những người tội lỗi đến với Đức Giêsu và nghe Người giảng dạy. Cách xử sự của người con cả là hình ảnh của những người Pharisêu và các kinh sư. Họ tưởng mình phụng thờ Thiên Chúa, nhưng khi chống đối và bách hại Đức Giêsu, họ đã lạc đường và không sống tư cách làm con Thiên Chúa nữa. Tất cả những tình tiết trong toàn bộ trình thuật được gửi đến độc giả như một lời mời gọi độc giả đọc ra được ý nghĩa của câu chuyện.
Ước mong độc giả thưởng thức được những chi tiết độc đáo trong bản văn, với những nét đẹp, nét tương phản, nét châm biếm, cùng với những lời trách móc và sự hiểu lầm của các nhân vật… Nhờ việc sống với bản văn và suy niệm dụ ngôn, người đọc sẽ được biến đổi để dần dần sống trọn vẹn tư cách làm con và xây dựng tình anh em nhờ sự hối cải và trở về với Tình Yêu đích thực của Cha trên trời.