CON TA ĐÂY ĐÃ CHẾT, NAY SỐNG LẠI
1. Người con phung phá
2. Sự tha thứ của Thiên Chúa.
3. Lòng Chúa xót thương
4. Hòa giải là từ ngữ mới của tha thứ – An Phong
5. Thiên Chúa là Đấng thương xót và hay tha thứ.
6. Lòng bao dung của Thiên Chúa
7. Đấng nhân từ
8. Nụ hôn nồng nàn tình thương xót
9. Thiên Chúa giàu lòng thương xót ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
10. Phục hồi phẩm chất cao đẹp
11. Cha anh chạy ra gặp anh
12. Thiên Chúa, Đấng Nhân Hậu
13. Hối cải – Lm. Giuse Trần Việt Hùng
14. Lòng Chúa xót thương – Lm Jos. Tạ Duy Tuyền
15. Suy niệm của ĐHY Phaolô Giuse Phạm Đình Tụng
16. Tin Mừng của lòng thương xót Chúa
17. Suy niệm của Lm Gioan Nguyễn Văn Ty
18. Tìm về – Lm. Antôn Nguyễn Văn Tiếng
19. Xin chung vui với tôi
20. Người cha
21. Tuyệt đỉnh của yêu thương – Thiên Phúc
22. Cây táo và miếng vải trắng
23. Thương xót – Veritas
24. Quan trọng - McCarthy
25. Tấm lòng người cha
26. Niềm vui san sẻ – Achille Degeest
27. Người cha sẽ làm bất cứ điều gì cho chúng ta
28. Lạc mất - McCarthy
29. Tha thứ
30. Tình thương vô biên
31. Mầu nhiệm Thánh thiện và tội lỗi
32. Một người cha có hai con trai – André Sève
33. Chứng từ của lòng sám hối
34. Nhân lành
35. Thương người
36. Nhân hậu
37. Tiếng khóc
38. Bởi vì chúng nó là con của tôi!
39. Chúa Nhật 24 Thường Niên
40. Niềm vui khi tìm gặp lại
41. Lạc lối - Lm Bùi Quang Tuấn
42. Chúa Nhật 24 Thường Niên
43. Đức Giêsu đi tìm con chiên lạc
44. Chúa Nhật 24 TN C
45. Thà yêu lầm còn hơn bỏ sót
46. Hãy chia vui với tôi – G. Nguyễn Cao Luật
47. Đã mất mà lại tìm thấy
48. Đón nhận - Trao ban lòng thương xót
49. Suy niệm của Lm FX. Vũ Phan Long
50. Ai nấy sẽ vui mừng Noel Quesson.
51. Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
52. "Hãy chia vui với tôi" – Lm Giuse Nguyễn Hữu An
53. Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
54. Bài học về lòng xót thương – Lm. Anmai
55. Ai là con thực sự? Ai là người làm công?
Lòng yêu thương tha thứ...Lm Giuse Đinh tất Quý
Thiên Chúa giàu lòng thương xót Lm Giuse Đinh tất Quý
Yêu thương anh em như....Lm. Đaminh Lâm Quang Khánh
Thánh Vịnh & Đáp Ca Nhóm Thánh Vịnh Nauy
Chúa giàu lòng thương xót và tha thứ Catholic.org.tw
Lòng nhân từ thương xót của... Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
Thiên Chúa thương xót và tha thứ Lm Giuse Đinh lập Liễm
Thiên Chúa đi tìm Lm, Gioan M. Nguyễn Thiên Khải, CMC
Sự tha thứ Lm Mark Link
Lòng bao dung của Thiên Chúa Linh Mục Inhaxiô Trần Ngà
Nắm tay Cha Lm.Jos Tạ Duy Tuyền
Hãy chia vui với Chúa PM. Cao Huy Hoàng
Hãy tin tường vào tình thương Suy niệm của JKN
Xin chung vui với tôi Fiches Dominicales
Chiên lạc Chú giải của R. Gutzwiller
Tình yêu và sự thương cảm Hugues Cousin
Vui mừng của người chăn chiên William Barclay
Quan trọng McCarthy
Cây táo và miếng vải trắng Niềm Vui Chia Sẻ
Người cha sẽ làm bất cứ ... Charles E. Miller
Niềm vui san sẻ Achille Degeest
Nghịch lý của tình yêu Thiên Chúa Lm. Phêrô Lê văn Chính
Lòng Chúa xót thương Sưu tầm
Chứng từ của lòng sam hối Sưu tầm
1. Người con phung phá
Trong phần chia sẻ sáng hôm nay, tôi
muốn dừng lại ở thái độ của người cha và của người anh cả. Trước hết là của người
cha.
Người Cha
Ở vào hoàn cảnh của chúng ta, chúng
ta có nhiều cách xử sự. Trước hết, ông có thể đuổi ngay đứa con vừa mới trở về
và nói với nó: Hãy cút đi, hãy xéo cho khỏi mặt tao. Mày đã chẳng đem lại gì
ngoài sự nhục nhã đến cho gia đình. Đồ khốn nạn, đồ mất dạy. Mày coi cả xứ này
đang bàn tán về gia đình mày, vì vậy mà tao chẳng dám vác mặt đi tới đâu. Thứ đến
ông có thể thử thách đứa con một thời gian, và đây là điều mà bất cứ người con
nào đã bỏ nhà ra đi, khi trở về đều mong được hưởng: Xin hãy xử với con như một
người làm thuê trong gia đình. Sau hết người cha có thể làm thinh, không thèm để
ý đến nó. Cách này là một hình phạt nặng nề nhất đối với đứa con trở về. Nhưng
người cha đã chẳng chọn một cách nào trong ba cách nói trên, thay vào đó, ông
sung sướng như một đứa trẻ khi thấy cha mẹ đi xa trở về. Ông còn trút như mưa
trên đứa con những dấu chỉ mạnh mẽ để chứng tỏ tình yêu khoan dung ông dành cho
con. Ông phục hồi quyền lợi cho nó một cách tràn đầy như một người con của ông
vậy. Người ta nói rằng đứa con trở về đó như đã mất mà nay lại tìm thấy và lại
được thương mến hơn trước.
Vậy Chúa Giêsu muốn nói về ai thế?
Ngài nói về Thiên Chúa, bởi vì chính người cha chứ không phải là đứa con giữ
vai trò chính trong câu chuyện. Đó là cách Thiên Chúa cư xử với tội nhân khi họ
quay trở về với Ngài, khi họ thực sự đổi mới cách ăn nết ở. Đó là tâm tình đích
thực của Thiên Chúa.
Người con cả
Trái lại người con cả sau khi nghe
biết đứa em trở về và người cha giết bê béo ăn mừng, thì anh liền nổi giận và
nhất quyết không vào nhà. Anh đã trả lời cùng người cha: Cha coi, đã bao năm
tôi hầu hạ cha, không hề trái lời cha, vậy mà chẳng bao giờ cha cho tôi một con
bê con để ăn mừng với chúng bạn. Câu chuyện có thể chấm dứt một cách tốt đẹp
khi bữa tiệc được chuẩn bị. Vậy tại sao Chúa Giêsu lại thêm phần này vào dụ
ngôn? Tôi xin thưa vì Ngài muốn mạc khải cho chúng ta biết về cách thức Thiên
Chúa suy nghĩ, cách thức ấy hoàn toàn trái ngược với con người. Như người anh cả
xét đoán đứa em thế nào thì người đời cũng đoán xét kẻ tội lỗi như vậy, dù họ
đã ăn năn hối cải. Người đời đâu có thèm vui mừng khi thấy một người tội lỗi trở
lại như Thiên Chúa đã làm. Đối với họ, kẻ tội lỗi là một con người xấu xa và
đáng khinh chê. Họ còn chống đối lòng thương xót của Chúa nữa. Và đó cũng là lý
do để Chúa nói lên dụ ngôn này. Người bị người ta chê trách vì đã làm bạn với bọn
thu thuế và tội lỗi, khi những người này tìm đến để mong Ngài ban ơn cứu độ.
Chúng ta chỉ cần đọc lại câu dẫn nhập là thấy rõ điều đó: Khi ấy những người
thu thuế và tội lỗi đến gần Người để nghe giảng, thấy vậy bọn biệt phái và luật
sĩ lẩm bẩm: Ông này đón tiếp những kẻ tội lỗi và cùng ăn uống với chúng. Với ba
dụ ngôn vừa nghe, Chúa Giêsu đã chỉ trích cái nhìn hẹp hòi của người đời, chứng
tỏ cho họ thấy rằng họ chẳng biết gì về Thiên Chúa. Người đã nhấn mạnh: Trên trời
sẽ vui mừng biết mấy khi một kẻ tội lỗi ăn năn hối cải hơn là 99 người công
chính. Dù có vấp phạm, chúng ta đừng bao giờ thất vọng, trái lại hãy tin tưởng
vào lòng thương xót của Chúa mà chỗi dậy, mà trở về để được hưởng nhờ ơn Ngài
tha thứ.
2. Sự tha thứ của
Thiên Chúa.
Chủ đề của đoạn Tin Mừng hôm nay đó
là tình thương tha thứ của Thiên Chúa, nhất là qua hình ảnh người cha nhân hậu.
Thực vậy, đây là hình ảnh của một
tình yêu không biên giới và vô điều kiện của Thiên Chúa. Ngài là Cha và chúng
ta là con. Làm con thì có quyền hưởng gia tài của cha. Thiên Chúa luôn tôn trọng
quyền tự do của chúng ta nhưng đồng thời mỗi người chúng ta lại phải chịu trách
nhiệm về mọi hành vi của mình trước mặt Ngài. Vì tôn trọng quyền tự do của con,
người cha đã chia gia tài cho cậu út và để cho cậu ra đi. Nhưng tình yêu của
người cha luôn đi theo cậu không ngơi, luôn mong chờ cậu trở về. Ngày ngày ông
những nóng cùng trông. Cho tới một ngày kia, ông nhìn thấy bóng dáng cậu từ xa
thất thểu lê lết từng bước chân. Thế là ông vội chạy về phía cậu, quên đi tuổi
già sức yếu của mình, ông lại gạt bỏ khỏi lòng mình mọi đau buồn về lầm lỗi thất
hiếu của cậu. Ông ráng chạy, chạy thật nhanh mà ôm lấy người con yêu dấu, đã chết
mà nay lại sống. Rồi ông mở tiệc linh đình để ăn mừng.
Thiên Chúa là thế. Vì là Cha, Ngài
luôn trông chờ, sẵn sàng đón nhận chúng ta trở về. Chỉ cần chúng ta biết nhớ lại
tình thương vô bờ bến của Cha, nhận ra sự dại dột của mình mà ăn năn sám hối.
Chúa luôn tha thứ và muốn chúng ta được lãnh nhận ơn tha thứ, như một trong những
ơn cao đẹp nhất của tình yêu Ngài ban cho con người.
Chúng ta cũng nên dừng lại một chút
với thái độ của người anh cả, nhờ đó mà hiểu được ý Chúa muốn dạy chúng ta qua
dụ ngôn này. Người anh cả trong thời Chúa Giêsu, ám chỉ dân Do Thái. Họ tưởng rằng
chỉ họ là trung thành với Thiên Chúa và đáng được Chúa thương, có quyền hưởng
gia tài, họ khinh bỉ các dân tộc khác và những kẻ mà lề luật đạo cũ gọi là tội
lỗi.
Ngày nay, người công giáo chúng ta
cũng nên thật trọng, kẻo lại có cách nhìn và thái độ của đạo cũ, tự coi mình là
nắm hết chân lý, có sự trọn hảo đạo đức, rồi khinh chê, xa tránh và thậm chí
thù ghét những người không cùng chia sẻ một niềm tin, một lối sống như chúng
ta.
Thiên Chúa rất khác chúng ta. Đối với
Ngài, mỗi con người là như một khúc ruột của mình. Ngài thương mỗi người, để ý
chăm sóc đến mỗi người như chỉ có một không hai trên đời. Nếu chúng ta lỡ lần
đường lạc lối, Ngài tạo mọi điều kiện để chúng ta có thể trở về. Và điều kiện
duy nhất Ngài đòi hỏi chúng ta, đó là tin vào tình thương tha thứ của Ngài, để
mà dám trở về. Sự trở về của con chiên lạc đem lại niềm vui cho mục tử nhiều
hơn niềm vui có chín mươi chín con ở lại trong đàn. Niềm vui tha thứ thật trong
lòng là niềm vui của những người biết và dám sống nội dung của kinh Lạy Cha, lời
kinh duy nhất của những công dân đích thực Nước Trời, đó là: Xin tha nợ chúng
con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con.
3. Lòng Chúa xót thương
Qua phần phụng vụ lời Chúa hôm nay,
tôi muốn chia sẻ một vài ý nghĩ đơn sơ về tình yêu của Thiên Chúa.
Trước hết đó là một tình yêu đi bước
trước.
Thực vậy, hình ảnh mà tiên tri
Ezechiel cũng như nhiều vị tiên tri khác đã dùng, đó là hình ảnh một mục tử lặn
lội đi tìm kiếm con chiên, không quản ngại đường xa và khó khăn khôn lường.
Chính Chúa Giêsu cũng đã nhiều lần
khẳng định chân lý ấy: Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta trước khi có chúng ta.
Người đã cứu độ chúng ta trước khi chúng ta trở về, nghĩa là khi chúng ta còn ở
trong tội lỗi. Thái độ và cách thức cư xử của Chúa Giêsu đối với những kẻ thu
thuế và tội lỗi đã là một lời nói hùng hồn chứng minh cho sự thật trên.
Từ đó chúng ta nhận thấy tình yêu đi
trước cũng chính là tình yêu vô điều kiện và hoàn toàn vô vị lợi, hoàn toàn nhằm
tới hạnh phúc của người được yêu thương. Chỉ mình Thiên Chúa, mới có được thứ
tình yêu tinh ròng và cao cả như vậy, còn chúng ta chúng ta được Chúa mời gọi để
sống trọn lành như Ngài, nghĩa là cũng phải có một tình yêu đi bước trước, một
tình yêu không điều kiện, một tình yêu vô vị lợi đối với những người anh em.
Tiếp đến tình yêu của Thiên Chúa là
một tình yêu thiên vị.
Lời xác quyết này có lẽ làm cho
chúng ta hơi ngạc nhiên. Đúng thế, Thiên Chúa yêu thương hết mọi người, không
trừ một ai, không bỏ bất cứ con người nào, dù người đó xấu xa tội lỗi đến đâu
chăng nữa. Tuy nhiên có một điều cũng hết sức hiển nhiên là trong cung cách sống
của Chúa Giêsu, chúng ta thấy được một tình yêu ưu tiên, một tình yêu thiên vị,
dành cho những kẻ sống bên lề xã hội thời bấy giờ, đó là đàn bà, trẻ em, những
người thu thuế, những người ngoại đạo và những kẻ tội lỗi công khai, như đĩ điếm,
trộm cướp... Người Do Thái đã gán cho Ngài cái biệt hiệu là bạn đồng bàn với
phường tội lỗi, và họ đã nói lên được một sự thật.
Tuy nhiên họ không hiểu được tâm trạng
và cõi lòng của Thiên Chúa như chính Ngài đã diễn tả: Tư tưởng và đường lối của
Ta thật khác biệt với tư tưởng và đường lối của các ngươi. Quả thật, Chúa Giêsu
đã gần gũi, đã làm bạn, đã cứu vớt những kẻ tật nguyền, bệnh hoạn và tội lỗi.
Ngài đã khẳng định một cách rõ ràng và minh bạch: Chỉ có bệnh nhân mới cần đến
thầy thuốc, và Ngài chính là vị thầy thuốc mà các tâm hồn ốm đau đang chờ đón.
Hơn thế nữa, Chúa Giêsu còn xác định mục tiêu Ngài phải theo đuổi, sứ mạng Ngài
phải thực hiện khi đến trong trần gian:
- Con Người tới là để tìm kiếm và cứu
chuộc những gì đã hư đi.
Chỉ khi nào chúng ta hiểu được cái
thế ưu tiên, cái thế thiên vị ấy trong cách chọn lựa của Chúa, chúng ta mới
nghiệm ra được tại sao nỗi vui mừng hân hoan của Chúa lại lớn lao đến thế, khi
tìm thấy một con chiên lạc, một đồng bạc bị đánh rơi hay một người con hoang
đàng trở về nhà cha. Cả thiên đàng sẽ vui mừng vì một kẻ tội lỗi sám hối ăn năn
hơn là 99 người công chính không cần ăn năn sám hối.
Và như vậy, ước muốn của Thiên Chúa
là con người được cứu rỗi và sống trong tình thương yêu của Ngài, chứ không phải
là lặn ngụp trong chốn bùn nhơ tội lỗi, để rồi cuối cùng sẽ bị kết án đoạ đầy
muôn kiếp.
4. Hòa giải là từ ngữ mới của
tha thứ – An
Phong
Chủ đề Tin mừng Chúa Nhật 24 Thường
Niên C là lòng thương xót của Thiên Chúa. Đức Giêsu đã nói với những người
Pharisêu 3 dụ ngôn: dụ ngôn một con chiên lạc mất trong số 100 con chiên; dụ
ngôn một đồng bạc bị mất trong số 10 đồng; và dụ ngôn người con hoang đàng (một
trong hai anh em). Mức độ càng tăng từ cấp độ thứ nhất đến cấp độ thứ ba cho thấy
lòng thương xót của Thiên Chúa đối với người tội lỗi thật lớn lao. Một trên một
trăm( 1/100) và một trên mười (1/10) không đáng giá bằng một trên hai (1/2).
Lòng thương xót của Thiên Chúa được thể hiện qua cung cách của người cha già
luôn sẵn sàng mở rộng vòng tay đón người con hoang đàng trở về, tha thứ cho hắn
trước khi hắn mở miệng xin lỗi Cha. Thiên Chúa luôn chờ đón mọi người chúng ta
quay trở về trong vòng tay yêu thương của Người.
Khi bắt đầu sứ vụ của mình, Đức
Giêsu đã long trọng tuyên bố trước mặt mọi người:
"Thánh Thần Chúa ngự trên tôi,
bởi Người đã xức dầu cho tôi
sai tôi đem Tin mừng cho người nghèo
khó
ban bố ân xá cho kẻ tù đày
cho người đui mù được thấy
cho kẻ bị áp bức được giải oan
loan báo năm hồng ân của Chúa"
Niềm vui và hạnh phúc đến với những
ai tội lỗi khi đã gặp được Đức Giêsu: - Với người bất toại: "Tội lỗi của
anh đã được tha"; Với Lêvi, người thu thuế: "Tôi không đến để kêu gọi
người công chính, mà là kẻ tội lỗi"; Với Giakêô: "Con Người đến để
tìm kiếm những gì đã hư mất".
Những người đau khổ, bé mọn cảm thấy
mình được yêu thương nâng đỡ khi tìm gặp Đức Giêsu: Với người phung hủi:
"Tôi muốn anh được sạch"; Với người nghèo: "Phúc cho những người
nghèo"; Với các trẻ nhỏ: "Hãy để trẻ nhỏ đến cùng tôi, đừng ngăn cấm
chúng, vì Nước Trời thuộc về những người giống như chúng". Với người phụ nữ
băng huyết: "Lòng tin của chị đã chữa chị, hãy đi bình an".
+ Người không để người góa bụa cô thế
cô thân ra về mà không một lời an ủi.
+ Người trả lại sự sống cho đứa con
duy nhất của bà góa thành Naim.
+ Người ngợi khen bà góa bỏ hai đồng
xu vào hòm tiền dâng cúng.
Cao điểm khuôn mặt dịu hiền của Đức
Giêsu bộc lộ khi Người hấp hối trên thập giá: "Lạy Cha, xin tha cho chúng,
vì chúng không biết việc chúng làm".
Kitô hữu là người đứng bên bờ vực thẳm,
nhích lên một milimét nữa là rớt xuống vực thẳm như: Vực thẳm của nạn ghiền ma
túy; Vực thẳm của rượu chè, cờ bạc; Vực thẳm của nạn mại dâm.
Đó là vực thẳm mà NGƯỜI CON THỨ rơi
vào.
Vực thẳm nguy hiểm hơn, khó nhận thấy
hơn, là vực thẳm của NGƯỜI ANH CẢ: Khi cho rằng chu toàn lề luật là đủ; khi cho
rằng mình phục vụ nhiều, nào đi học, dạy giáo lý, tập hát... cho mình quyền đòi
hỏi. Đó là một điều ích kỷ khi phục vụ. Khi tưởng rằng mình thờ Thiên Chúa,
nhưng thực ra là chỉ thờ một bức tượng khô cứng, bụi bậm. Và vì thế họ dễ phê
phán người khác.
Lạy Chúa,
Ngài kêu gọi chúng con phải tha thứ
cho nhau luôn mãi.
Mỗi ngày nhiều biến cố xảy ra,
nhiều sự hiểu lầm to và nhỏ khiến
chúng con phiền lòng,
mỗi ngày vang lên tiếng kêu mời hãy
tha thứ cho nhau.
Nhưng, lạy Chúa, con lại không muốn
tha thứ,
vì con thấy phải hạ mình để tha thứ.
Thế rồi con nhìn Chúa trên thập giá,
Chúa đã phải can đảm lắm và yêu mến
nhiều
thì mới có thể thốt lên lời "Lạy
Cha, xin tha cho chúng...".
Xin cho chúng con sức mạnh để tha thứ
luôn mãi.
5. Thiên Chúa là Đấng thương xót và hay
tha thứ.
(Suy niệm của Lm. GB. Trần Văn Hào)
Đặc nét của Kitô giáo chính là tình
yêu thương. Không một tôn giáo nào có thể gọi Thần linh của họ là ‘Cha’ giống
chúng ta. Hơn nữa,Thiên Chúacủa chúng ta còn là một người Cha nhân hậu, luôn sẵn
sàng thứ tha những phản bội và bất trung nơi con người. Cao điểm diễn bày lòng
thương xót chính là cái chết của Đức Giêsu trên Thập Giá. Điều này đã được chính
Chúagợi nhắc trong cuộc đàm đạo với Nicôđêmô. “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi
đã ban Con Một Ngài, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được
sống muôn đời” (Ga. 3,16). Các bài đọc Lời Chúa hôm nay xoáy sâu vào chủ đề
này, đặc biệt trong bối cảnh của năm nay, năm thánh tôn vinh Lòng Thương Xót
Chúa. Sứ điệp Lời Chúa gợi nhắc chúng ta ba điều: Mỗi người đều là tội nhân
đáng phải chết; Thiên Chúa luôn sẵn sàng bao dung và tha thứ; Cuối cùng chúng
ta cũng phải quảng đại tha thứ cho nhau để diễn bày lòng thương xót như Thiên
Chúa.
Mọi người đều là tội nhân
Cervantes, một biên kịch gia khá nổi
tiếng đã nói một câu để đời: “Trong
các sinh vật trên mặt đất, loài có khuôn mặt đẹp nhất chính là con người, và
loài có khuôn mặt xấu xa bỉ ổi nhất cũng là chính con người.” Tội lỗi làm méo mó khuôn mặt chúng ta,
vốn được dựng nên giống họa ảnh của Thiên Chúa. Chắc chắn không ai trong chúng
ta dám vỗ ngực tự hào nói mình vô tội. Chúng ta nhớ lại giai thoại được thánh
Gioan kể lại khi Chúa được mời tham dự phiên tòa xét xử người phụ nữ bị bắt quả
tang phạm tội ngoại tình. Ngài nói với đám đông : “Ai trong các ông sạch tội,
hãy cầm đá mà ném trước đi” (Ga. 7,7). Sau khi được Chúa lay động lương tâm, tất
cả đám đông ‘biến’ sạch, từ những tay già đầu nhất. Chúng ta đừng vội kết án
người khác, nhưng trước tiên hãy nhìn lại chính mình. Hãy can đảm bới tìm những
xấu xa bẩn thỉu, sâu tận bên trong tâm hồn mỗi người. Kinh nghiệm của thánh
Phaolô mà Giáo hội đọc lên trong phụng vụ hôm nay (bài đọc 2) cũng là một kinh
nghiệm rất thực tế để giúp chúng ta xét mình và lục soát lương tâm mỗi ngày.
Ngài viết “Đức Giêsu Kitô đã đến thế gian để cứu những người tội lỗi, mà kẻ đầu
tiên là tôi.” (1Tm15).
Thiên Chúa là Đấng khoan dung và hay
tha thứ.
Cả ba dụ ngôn trong bài Tin Mừng hôm
nay đều diễn bày phẩm tính cao đẹp này nơi Thiên Chúa. Đây là ba dụ ngôn độc
sáng của thánh Luca. Những hình ảnh rất đời thường nơi một người chăn chiên đi
tìm con chiên lạc, nơi một người đàn bà thắp đèn để kiếm tìm đồng bạc bị mất,
nhất là qua dung mạo của một người cha ngày đêm mong ngóng đợi chờ đứa con đi
hoang trở về, đã được Chúa Giêsu vay mượn để lột tả chân dung lòng thương xót của
Chúa Cha. Thay vì kết án, Ngài tha thứ. Thay vì ruồng bỏ, Ngài lại đi kiếm tìm.
Xét về kinh tế, Chúa Giêsu tính toán rất tồi. Ai lại dám liều lĩnh bỏ lại chín
mươi chín con chiên giữa rừng vắng để đi kiếm một con ốm yếu lỡ đi lạc. Xét về
bình diện toán học, Ngài làm tính cũng quá dở, khi coi con số 1 lớn hơn con số
9. Một đồng bạc lỡ đánh mất đáng là gì. Nhưng Thiên Chúa của chúng ta không phải
là một kinh tế gia, cũng không phải là một nhà toán học. Ngài là một người Cha
giàu lòng lòng thương xót đối với phận người tội lỗi. Vì thế, Đức Giêsu đã nói
với các học trò : “Anh em phải có lòng thương xót như Cha anh em trên trời là Đấng
xót thương” - Misericordes sicut Pater (Lc. 6.36). Đây cũng là chủ đề của năm
nay, năm thánh Lòng Thương Xót.
Bài học về sự tha thứ
Tháng 03 năm 1981, Đức Thánh Giáo
hoàng Gioan Phaolô II bị một thanh niên Thổ Nhĩ Kỳ mưu sát tại quảng trường
Thánh Phêrô. Anh ta tên là Ali Agca. Đức Thánh Cha thoát chết như một phép lạ,
và cảnh sát bắt giữ chàng thanh niên ngay lập tức. Sau khi ra khỏi bệnh viện,
Ngài đã sắp xếp thời gian để đến nhà tù Rebibbia gặp anh ta. Vị đại diện của
Chúa đã hoàn toàn tha thứ cho kẻ sát nhân. Cái bắt tay chân tình, vòng ômhôn thắm
thiết và ánh mắt dịu dàng của Đức Thánh Cha làm cả thế giới xúc động. Vài năm
sau, vợ của kẻ sát nhân đã đích thân sang Rôma để bày tỏ lòng biết ơn đối với
Người đã tha thứ cho chồng mình. Còn chính đương sự sau khi mãn hạn tù, cũng
nài nỉ xin nhập quốc tịch Vatican và tự nguyện xin làm đàn em của Đức Thánh
Cha.Đức Thánh Giáo hoàng đã không hề đưa ra một triết lý mới, hay một
cung cách ứng xử đặc thù, nhưng đây chính là cốt lõi của Tin Mừng mà Ngài sao
chép lại. Trên Thập Giá, Chúa Giêsu đã giang tay cầu nguyện: ‘Xin tha cho họ vì
họ không biết việc họ làm’. Chúa Giêsu cũng dạy chúng ta lời cầu nguyện với
kinh Lạy Cha : ‘Xin Cha tha cho chúng con như chúng con cũng tha kẻ mắc lỗi với
chúng con’. Đó là những bài học rất căn bản, mời gọi chúng ta quảng diễn lòng
thương xót và sự tha thứ như Thiên Chúa.
Một cha xứ nọ đã kể cho chúng tôi
nghe một kinh nghiệm đau đớn, xảy ra nơi giáo xứ của ngài. Hai đứa bé chơi với
nhau và đánh nhau, chuyện rất nhỏ vẫn thường hay xảy ra. Nhưng chuyện trẻ em dần
dần lây lan thành chuyện của người lớn. Cả hai gia đình xúm vào cãi nhau, lúc đầu
chỉ lời qua tiếng lại, sau đó dẫn đến tranh chấp. Đấu bằng miệng không đủ, chuyển
sangđấu đá bằng tay chân. Khổ nỗi,vị đứng đầu một trong hai gia đình lại là
trùm xứ, có tiếng là đạo đức và rất siêng năng trong việc chung. Một buổi tối nọ
khi trời nhá nhem tối, hai gia đình lại xô xát. Ông trùm cầm một cây gậy lớn
phang vào đầu đối thủ, chẳng may đập ngay vào đầu đứa con trai mình. Thằng bé
chết trên đường chuyển đến bệnh viện. Từ đó, trong lòng ông, sự căm thù ngày
càng dâng cao và ông quyết tâm trả thù. Cha xứ khuyên can thế nào ông cũng chẳng
nghe. Lúc ông lâm trọng bệnh và hấp hối chờ chết, người nhà mời cha xứ đến để
giải tội và xức dầu. Một lần nữa cha xứ lại hết lời khuyên lơn xin ông làm hòa
để tìm lại bình an trong tâm hồn, nhưng ông nhất định không. Cha xứ không thể
nào giải tội và ban Bí tích Xức dầu cho ông ta. Tâm hồn ông vẫn còn mang nặng một
khối đá lớn cản che ơn thánh, đó là sự hận thù. Ông ta chết đi, đôi mắt vẫn
luôn trợn ngược và không thể nhắm lại. Một kinh nghiệm thật đáng buồn.
Kết luận
Nói về lòng khoan dung và sự tha thứ
thì dễ, nhưng thực hành không phải là chuyện giản đơn. Con người chúng ta ai
cũng có tự ái và không dễ thứtha một cách vô điều kiện như Chúa mong muốn.
Trong năm thánh Lòng Thương Xót, chúng ta xin Chúa giúp chúng ta biết trải nghiệm
và thấm sâu lòng thương xót của Ngài, để chúng ta cũng biết quảng đại tha thứ
cho nhau. Misericordes sicut Pater.
6. Lòng bao dung của
Thiên Chúa
(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Để đối phó với những người phạm tội,
luật hình sự tại các quốc gia quy định nhiều hình phạt khác nhau: phạt tiền,
giam nhốt trong các nhà tù hay xà lim, lưu đày biệt xứ hoặc trong trường hợp phạm
tội nghiêm trọng thì đem ra xử tử để vĩnh viễn loại trừ người lỗi phạm khỏi thế
giới loài người.
Trong khi đó, để đối phó với tội
nhân, Thiên Chúa không muốn trừng phạt mà chỉ muốn giúp tội nhân ăn năn hối cải
quay về đường lành. Từ ngàn xưa, Thiên Chúa phán qua miệng ngôn sứ Ê-dê-kiên:
“Ta không muốn kẻ gian ác phải chết nhưng muốn nó ăn năn sám hối mà được sống”
(Ê-dê-kiên 18, 23 và 33, 11)
Đối với Thiên Chúa, mỗi một người đều
có giá trị rất cao nên cần phải được trân trọng và yêu thương. Dù con người có
đắm chìm trong lầm lạc và tội lỗi, Thiên Chúa không bỏ rơi, không hủy diệt họ,
nhưng tìm mọi cách đưa họ trở về đàng lành.
Dụ ngôn người đi tìm chiên lạc trong
Tin Mừng Luca (Lc 15, 4-7) chứng tỏ cho chúng ta thấy điều đó:
Người chăn chiên tốt hết lòng yêu
thương, quý mến từng con trong đàn, bất kể đó là chiên tốt hay chiên xấu, mập
hay gầy, già hay non. Và khi phát hiện ra một con chiên lạc đàn, anh ta bôn ba,
tất tả kiếm tìm cho bằng được con chiên lạc với bất cứ giá nào. Một khi đã tìm
thấy, anh vác chiên lên vai, mừng vui hớn hở trở về, kêu mời bà con làng xóm đến
chia mừng với anh.
Qua dụ ngôn trên đây, Chúa Giê-su tỏ
cho chúng ta thấy Thiên Chúa xem mỗi người chúng ta là báu vật vô giá, nên nếu
có bất kỳ ai “lạc mất”, thì Ngài phải tìm về cho bằng được.
Dụ ngôn trên cũng cho thấy cung cách
ứng xử rất khoan dung và đầy thương xót của Thiên Chúa đối với tội nhân.
Thay vì trừng trị hoặc trừ khử các tội
nhân như các tòa án khắp nơi thường làm, Thiên Chúa Ngôi Hai đã rời bỏ ngai trời
vinh hiển, vượt qua khoảng cách gần như vô tận giữa trời và đất, hạ mình xuống
thế, trở nên người phàm để đi tìm kiếm từng người trong nhóm họ.
Thay vì tống giam các tội nhân vào
ngục, bắt họ mang gông cùm xiềng xích, Chúa Giê-su rất tôn trọng và quý mến tội
nhân, tìm nhiều cách hoán cải họ; có khi Ngài còn đến ở lại trong nhà người tội
lỗi, cùng ăn uống đồng bạn với họ, trở nên bạn bè của họ, nhằm lấy tình bạn mà
cảm hóa họ trở về. (Luca 15,2)
Thay vì kết liễu mạng sống của các tội
nhân ác nghiệt, bắt họ phải đền nợ máu họ đã gây ra như các tòa án nhân loại
thường làm, Chúa Giê-su đã đổ máu châu báu của mình ra để chết thay cho họ, để
rửa sạch họ khỏi muôn vàn tội lỗi và cho họ được sống đời đời.
Lòng thương xót của Thiên Chúa đối với
tội nhân, ngay cả những tội nhân bầm dập, khốn cùng nhất, đã được Chúa Giê-su
khẳng định trong Tin Mừng Mat-thêu: “Cây lau bị giập, Ngài không đành bẻ gãy,
tim đèn leo lét, chẳng nỡ tắt đi, cho đến khi Ngài đưa công lý đến toàn thắng.”
(Mt 12, 20 và Is 42, 3)
Lạy Chúa Giêsu,
Hôm xưa, Chúa đã rong ruổi tìm kiếm
từng con chiên lạc để vác chiên về. Hôm nay, để tiếp tục sự nghiệp đó, Chúa đã
dùng bí tích Thánh Tẩy để tháp nhập chúng con vào Thân Mình Chúa, cho chúng con
trở thành một chi thể sống động trong Thân Thể Chúa để chúng con đồng hành với
Chúa trên hành trình tìm kiếm và đưa về đàn nhiều con chiên lạc trong thôn xóm
chúng con.
Xin cho chúng con trở nên đôi chân của
Chúa, rảo bước không mệt mỏi trên vạn nẻo đường đời, để tìm kiếm và đưa về những
anh em lạc xa đường Chúa.
Xin cho chúng con trở nên đôi vai của
Chúa để làm chỗ dựa tinh thần cho những con người lâm cảnh khốn cùng đang cần một
chỗ tựa nương. Amen.
7. Đấng nhân từ
Trên đời này, không tìm được ai có
lòng nhân từ như Chúa Giêsu. Vì Ngài là Thiên Chúa đầy lòng yêu thương và nhân
hậu. Ngài đến trần gian để cứu chúng ta khỏi quyền lực tội lỗi và sự chết. Ngài
kêu mời mọi người, nhất là những kẻ tội lỗi biết ăn năn quay về đường ngay nẻo
chính. Lời mời gọi nhân từ của Ngài được diễn tả qua 3 hình ảnh: Con chiên lạc,
đồng bạc mất và người con hoang đàng. Qua ba dụ ngôn đó, chúng ta cảm nghiệm được
tấm lòng nhân ái vô cùng của Thiên Chúa đối với loài người. Và không chỉ là dụ
ngôn mà chính Chúa Giêsu đã thực thi lòng nhân từ đó. Cuộc đời Chúa Giêsu là dấu
chứng rõ ràng nhất về lòng nhân từ vô biên của Chúa Cha đối với loài người
chúng ta.
Chính Chúa Giêsu từ trời đã lặn lội
xuống trần gian để tìm những kẻ sắp hư mất, để dẫn đưa những con chiên lạc đàn
về chính lộ, giúp thế giới đón nhận chân lý, đón nhận ơn làm con Chúa. Nhờ việc
Chúa Giêsu hiến thân trên thánh giá, mọi người chúng ta đã được chúa dành sẵn
ơn cứu chuộc rồi, chỉ cần chúng ta đến lãnh nhận thôi.
Tuy nhiên, chúng ta vẫn thấy, loài
người hay tự ái, ngại ngùng, không muốn tìm hiểu về Chúa cho đến nơi đến chốn
và tự cho rằng mình không được chúa đoái hoài tới. Vì vậy, hôm nay, trong bài
Phúc âm này, Chúa mạc khải cho chúng ta hiểu lòng quãng đại của Ngài. Ngài luôn
ban phát ơn lành cách quãng đại, không tính toán hơn thiệt như thế gian. Ngài
ưu tiên cứu giúp con người không phải vì số đông. Không phải nhiều mới cứu.
Chúa ưu ái từng người một, không coi nhẹ một linh hồn nào. Một vị thánh nói rằng:
nếu thế gian này chỉ một người, Chúa cũng sẵn sàng chịu chết để cứu chuộc. Điều
này cho thấy Chúa quí trọng linh hồn ta đến độ nào. Vậy mà có nhiều khi bản
thân tôi lơ là trong việc lo cho linh hồn mình, không quí trọng phần rỗi mình
cho đúng mức. Chúa rất quí trọng chúng ta. Như người đàn bà kia có 10 đồng bạc,
lỡ rơi mất một đồng thì đốt đèn cho sáng, quét nhà tìm thật kỷ lưỡng cho đến
khi tìm thấy đồng bạc đã mất. Chúa đối xử với từng người chúng ta cũng tương tự
như vậy. Dù tôi không đáng giá chi trước mặt chúa, Chúa cũng thương mến tôi. Nếu
tôi lạc mất, Chúa cũng lo hết sức để tìm lại tôi. Tìm thấy rồi thì vui mừng mời
mọi người đến chia vui. Chúa rất quý từng người chúng ta. Nếu thiếu tôi, Chúa sẽ
rất buồn, Chúa không muốn bữa tiệc Thiên Đàng thiếu tôi. Chúa nhớ rất kỷ từng
linh hồn Chúa đã dựng nên và mong muốn mọi người đều hạnh phúc trong bữa tiệc
cánh chung.
Thế nhưng, đáng buồn thay, có những
con chiên không chịu trở về đàn, có những đồng bạc nhất định bám vào ngõ tối trần
gian hoặc vì ham mê những danh vọng giả trá, những lợi lộc nhất thời không muốn
trở về với Chúa để nhận ra giá trị của mình trong trái tim của Chúa. Tôi có biết
rằng linh hồn tôi là vô giá trong mắt Chúa. Dù tôi chỉ là thụ tạo đơn hèn nhưng
Chúa rất quý tôi, rất thương tôi, coi tôi như một phần không thể thiếu trong
thân thể Ngài.
Chúng ta đừng ngại quay trở về khi
phạm lỗi, dù tôi có tội lỗi đến đâu đi nữa, dù tôi có như người con hoang đàng,
đã có lúc quyết định sai lầm, đã có lúc truỵ lạc hay phản bội lại tình thương của
cha mẹ, và giết chết phẩm giá con người mình. Chúa vẫn chờ vẫn đợi, mong một
ngày tôi biết suy nghĩ, bớt cố chấp, bớt thành kiến kiêu căng để nhận ra sự thật
về mình, về sự thưởng phạt đời sau và hạ mình trông cậy vào lòng thương xót của
chúa. Chúa như người cha của đứa con đi hoang, chiều nào cũng trông ngóng con
mình. Khi thấy con từ đàng xa, người cha vội chạy ra ôm lấy con và kêu đầy tớ
mau đem áo, giày, nhẫn ra để phục hồi nhân cách cho đứa con đi hoang nay quay về
nhà. Tất cả những áo, nhẫn đó ông đã chuẩn bị rồi và ngày nào ông cũng dặn đầy
tớ khi nào cậu trở về thì đem ra mặc cho cậu, phục hồi địa vị làm con cho kẻ đi
hoang biết quay về chính lộ.
Lòng nhân từ Chúa thật quá bao la,
Chúa luôn đối xử với chúng ta như vậy, chúng ta đã nhận ra tình thương Chúa
đang ấp ủ riêng từng người chúng ta hay chưa? Hãy nhắm mắt lại và cảm nghiệm
tình yêu Chúa trong con tim mình, chúng ta sẽ thấy tình thương Chúa ngọt ngào
đang bao phủ tâm hồn chúng ta, đang thôi thúc chúng ta dâng trọn cuộc sống mình
trong sự quan phòng yêu thương của Chúa.
Xin Chúa cho chúng con luôn biết đáp
trả tình yêu Chúa cách quãng đại, bằng cách đối xử nhân hậu với mọi người bằng
đời sống phục vụ cho người xung quanh trong chức vị, trong vị trí hiện tại của
mình, để chúng con xứng đáng là con cái Cha trên Trời.
8. Nụ hôn
nồng nàn tình thương xót
(Trích dẫn từ ‘Nút Vòng Xoay’ – ĐGM.
Giuse Vũ Duy Thống)
Hôm qua có dịp ra phố ghé ngang một
sáp báo, tôi tình cờ nghe từ quán cà phê đối diện vẳng ra một giọng hát trong
trẻo: “Cao cao bên cửa sổ có hai người hôn nhau”. Bài hát đã nghe dăm lần bảy
lượt qua các phương tiện truyền thông, có chăng chỉ là một cảm nhận về mùa xuân
hạnh phúc, thế mà chiều nay bỗng thấy nôn nao khác lạ. Đó không phải là thứ nôn
nao của kẻ độc thân bất chợt thấy mùa xuân bên cửa sổ, rồi tự nhiên tủi về phận
mình như Michel Quoist đã ghi trong cuốn sách của ông; cũng chẳng phải thứ nôn
nao của những kẻ trên đường phố đang hối hả về nhà dịp nghỉ cuối tuần. Thứ nôn
nao rất lạ mà cũng rất đỗi thân quen.
Đang còn vẩn vơ với cái nôn nao ấy
thì cô chủ sạp đã trao cho tôi tờ báo và vui miệng cô hát theo: “Thành phố ơi
hãy im lặng cho hai người hôn nhau”.
Tới lúc này, tôi mới vỡ lẽ. Thì ra
mình nôn nao là vì cái nụ hôn. Không phải của “anh lính về thăm phố với cô gái
vào ca ba” như bài hát kể, mà là cái nụ hôn của một người cha dành cho đứa con
hoang đàng trở về của bài Phúc Âm. Giai điệu ấy, nụ hôn ấy quyện lấy nhau và tự
nhiêm ngấm vào người tôi trở thành một thứ nôn nao, để hôm nay, xin được trang
trải với cộng đoàn như suy nghĩ về trang Tin Mừng. Đó là nụ hôn của lòng thương xót.
1. Nụ hôn ấy vượt trên lý lẽ của sự
công bình.
Nếu để ý, người ta thấy nếp nghĩ của
những người con trong dụ ngôn Tin Mừng là nếp nghĩ vượt trên lẽ công bình. Làm
sao người con thứ dám xin cha mình chia gia tài mà anh gọi là “thuộc về anh”
trong khi cha mình sờ sờ còn sống? Làm sao người con cả lại vùng vằng làm mày
làm mặt với cha khi cả đời hầu hạ mà chẳng có lương? Sẽ là hỗn nếu dựa trên cái
tình, nhưng cũng có thể quan niệm được nếu dựa vào cái lý. Chính nhân danh sự
công bình đương nhiên nào đó mà tư cách của hai người con trong dụ ngôn đã được
hình thành.
Nhất là việc người con thứ trở về.
Sau những ngày phung phá đến bước đường cùng, đến độ khánh kiệt gia tài, cạn kiệt
sức khỏe, anh vẫn còn đủ tỉnh táo để hạch toán nẻo lối tìm về. Bởi vì dựa trên
công bình, anh đã đốt cháy quyền làm con nên không thể được gọi là con nữa. Bởi
vì dựa trên công bình, anh đã tự ý bỏ nhà ra đi ôm theo sản nghiệp nên muốn tìm
về phải được cha chấp nhận. Bởi vì dựa trên công bình, anh chỉ dám coi mình như
“người cần việc” tìm đến “việc cần người”. Nếu anh có gặp cảnh then cài khóa ổ
xua đuổi chối từ có lẽ anh cũng phải công bình mà chấp nhận.
Lẽ công bình khó khăn là như thế
nhưng nụ hôn của người cha đã hóa giải tất cả. Nó vượt qua giới hạn của lẽ công
bình để rạng rỡ là một nụ hôn của lòng thương xót. Người cha tha thứ hết. Không
khóa trái đời sống người con thứ vào quá khứ tội lỗi, không niêm phong nhịp đời
của anh vào bước đường phóng đãng, nhưng phục hồi quyền làm con như thuở ban đầu.
Người ta không biết ở đâu lẽ công bình dừng lại và ở đâu lòng thương xót khởi đầu,
nhưng chỉ biết rằng, bằng nụ hôn ấy sự tha thứ đã vượt lên chiếm lĩnh tiếng nói
của lẽ công bình để trở nên nụ hôn của lòng thương xót.
2. Nụ hôn ấy vượt trên khuôn khổ của
nền giáo dục.
Vẫn biết rằng khuôn khổ của tình yêu
là một tình yêu không theo một khuôn khổ nào, nhất là tình ấy lại là tình cha,
lại là lòng mẹ, cùng lắm chỉ dám ví von như núi cao biển rộng, tựa lai láng của
dòng sông và mênh mông của đồng lúa. Nhưng trong trọng trách giáo dục, người ta
cũng phải mặc nhiên chấp nhận một thứ khuôn khổ nào đó. Chả thế mà ca dao Việt
Nam bảo: “Yêu cho roi cho vọt, ghét cho ngọt cho bùi”. Yêu con không phải là
nuông chiều theo ý của con, nhưng là biết cách cho con roi giọt giáo hóa, và
ghét con đâu phải chỉ là hằn học mắng la mà nhiều khi lại là những ngọt ngào ghẻ
lạnh của một tình thương vắng bóng.
Một trong những châm ngôn nổi tiếng
trong bổn phận giáo dục con cái là câu: “Nếu hôm nay không muốn con khóc vì được
dạy dỗ, thì coi chừng sẽ phải khóc vì con hư đốn mai ngày”. Như trường hợp nóng
hổi thời sự tại phiên tòa, khi người cha nghe con mình, một thành viên trong
băng cướp “quý tử”, bị kết án chung thân đã nhỏ lệ thốt lên: “Tôi đã thiếu
trách nhiệm làm cha”. Cũng là tình phụ tử, nhưng quá muộn màng.
Tình phụ tử cũng cần theo một khuôn
khổ nào đó. Nhưng tình phụ tử trong dụ ngôn đã vượt lên tất cả. Không có một lời
trách móc, không có một lời răn đe, cũng chẳng có hình phạt để mà nhớ đời. Chỉ
có nụ hôn như một minh chứng: Với bản lĩnh của lòng thương xót, người ta vẫn có
thể đi xa hơn để yêu con đích thực bằng cách cho ngọt cho ngào.
3. Nụ hôn ấy không dừng lại nơi cá
nhân mà còn lây lan đến cả cộng đoàn.
Đây chính là đỉnh cao của trang Tin
Mừng. Nó mở ra một nhãn giới mới lạ. Nơi nụ hôn ấy là rạng rỡ lên hình ảnh của
một Người Cha: chung cho người con cả và người con thứ, chung hco dân Do Thái và
Dân Ngoại, chung cho cả người đã biết Chúa hay chưa biết Chúa. Nếu “cha chung
không ai khóc” theo lẽ thường tình, thì ở đây lại khác, Cha chung này không cần
đến tiếng khóc của ai, nhưng lại sẵn sàng cúi xuống với bất cứ tiếng khóc sám hối
nào để ban tặng nụ hôn ntha thứ nồng nàn xót thương. Người Cha chung ấy yêu
thương hết mọi người và chẳng bao giờ bỏ quên những trường hợp tội lỗi đáng
thưong và bởi đáng thương nên Ngài cũng thương cho đáng với tấm lòng không vơi
cạn của mình.
Qua nụ hôn đầu ngõ, Người Cha ấy biến
nỗi buồn sám hối trở thành niềm vui tha thứ. Ngài ban ơn rộng rãi cho những kẻ
tìm về với Ngài, rồi nhanh chóng gửi họ về lại gia đình cộng đoàn xã hội trong
một nhịp sống mới nồng nàn tình xót thương, để những kẻ được ơn tha thứ hiểu rằng,
từ nụ hôn ấy, họ phải minh chứng bằng cả cuộc đời biết phát triển ơn tha thứ và
cũng biết dìu đưa những kẻ còn sa chìm về với lẽ xót thương. Đó là niềm vui của
lòng thương xót, không dừng lại nhưng triển nở sinh sôi, không khép kín cá nhân
nhưng mở ra cho hết mọi người.
Tóm lại, ba lý do: vượt trên lẽ công
bình, vượt trên nền giáo dục và vượt trên đời sống cá nhân khiến nụ hôn cha –
con là nụ hôn của lòng thương xót. Dẫu có kinh nghiệm về nụ hôn như phần lớn cộng
đoàn hay chưa có kinh nghiệm ấy như một số bạn nhỏ, thiết tưởng nụ hôn xót
thương của Tin Mừng cũng đọng lại trong ta một thứ nôn nao lạ lạ quen quen.
Khi thấy quen quen, là khi ta đồng
hóa mình với người con phung phá tìm về và được tha thứ, trong lời kinh, trong
Thánh Lễ, nơi tòa Giải Tội. tất cả đều là những nụ hôn thương xót. Khi thấy là
lạ, là khi ta chợt nhận ra vẫn còn lẩn khuất đâu đó trong ta một anh con cả
vùng vằng: Chúa đã đối xử với ta bằng tình thương xót còn ta chỉ đối xử với
Chúa theo sự công bình, ta không đi hoang lang thang xa đạo, nhưng cách sống của
ta biết đâu còn tệ hơn cả chối Chúa công khai.
Và khi thấy chen lẫn quen quen lạ lạ
ấy chính là khởi đầu cho một quyết định: bởi tôi đã nhận được ơn tha thứ của
Chúa, tới phiên tôi phải sống ơn tha thứ bằng cách bỏ qua lỗi lầm cho anh em;
tôi đã nhận lòng xót thương của Chúa, tôi phải phát triển lòng thương xót ấy
qua cách sống tốt lành của mình. Hãy quên đi những phần đời không đáng nhớ khi
anh em có lỗi với mình, và hãy nhớ lấy những phần đời không thể quên khi mình
đã được Thiên Chúa tha thứ xót thương.
Làm được như thế cũng là lúc ta có
thể hát lên: “Thành phố ơi, hãy im lặng cho mọi người hôn nhau”
9. Suy niệm của ĐTGM.
Giuse Ngô Quang Kiệt
THIÊN CHÚA GIÀU LÒNG THƯƠNG XÓT
Bài Phúc Âm vừa nghe là một trong những
trang đẹp nhất của Tin Mừng. Có thể gọi đó là Tin Mừng của Tin Mừng. Vì chương
15 Phúc Âm Luca này được coi như bản tóm tắt tất cả Phúc Âm. Tin Mừng đó là
Thiên Chúa Cha giàu lòng thương xót. Lòng thương xót của Thiên Chúa thực vô
biên, dài, rộng, cao, sâu khôn lường, ta không thể nào hiểu thấu. Những bài
sách thánh hôm nay hé mở cho ta mấy nét của lòng thương xót vô biên đó.
1. Nét thứ nhất của lòng thương xót
vô biên của Thiên Chúa là: sự tha thứ
Tình yêu đích thực không được đo bằng
đam mê nồng cháy. Bởi những đam mê nồng cháy mau qua như một cơn bão lốc. Bão lốc
qua đi chỉ để lại đổ vỡ điêu tàn.
Tình yêu đích thực không được đo bằng
hy sinh tận cùng. Người ta có thể hy sinh mạng sống vì của cải, danh vọng. Hy
sinh như thế có thể chỉ vì bản thân mình chứ không phải vì người khác.
Tình yêu đích thực được đo bằng sự
tha thứ. Chỉ có yêu thực lòng, yêu tha thiết mới có thể tha thứ. Khi yêu người
ta dám cho đi tất cả. Nhưng ít có ai cho đi sự tha thứ. Chính tha thứ mở cho ta
cánh cửa dẫn vào thâm cung nhiệm mầu của tình yêu.
Tha thứ là đặc tính của tình yêu
Thiên Chúa. ta hãy đọc lại lịch sử dân Israel. Biết bao lần dân chúng phản bội,
chống lại Thiên Chúa. Nhưng Chúa vẫn nhân từ tha thứ. Khi Môsê cầu nguyện trên
núi, dân Do Thái đã phản bội, gom góp vàng bạc đúc tượng bò mà thờ. Chúa nổi giận
muốn phạt họ. Nhưng khi Môsê nài xin Chúa, Chúa đã nguôi giận mà tha thứ cho
dân.
Phaolô ghét đạo Chúa, đi tìm bắt những
người theo Chúa. Nhưng Chúa đã thương hoán cải ông. Hơn nữa, Chúa còn chọn ông
làm Tông đồ cho Chúa.
Người con bỏ nhà ra đi, phung phí hết
tiền của cha, nhưng người cha già vẫn yêu thương chờ đời, tha thứ hết khi nó trở
về.
Sự tha thứ của Thiên Chúa đối với
con người, nhất là người tội lỗi thực là vô biên. Sự tha thứ ây minh chứng tình
yêu của Thiên Chúa đối với con người lớn lao biết chừng nào.
2. Nét thứ hai của lòng thương xót
vô biên của Thiên Chúa. Đó là: sự đi tìm.
Thiên Chúa sẵn sàng tha thứ, nhưng
Người không chỉ ngồi đó chờ kẻ có tội trở về xin lỗi rồi mới thứ tha. Không,
chính Thiên Chúa chủ động, có sáng kiến đi tìm con người. Đó là nét độc đáo
trong tình yêu thương tha thứ của Thiên Chúa.
Chính Chúa đi tìm Phaolô khi ông
đang trên đường lầm lạc, có sáng kiến làm ông té ngựa để đưa ông trở lại với
Chúa. Chính Chúa là người chăn chiên đi tìm con chiên bị lạc. Là người ra ngõ
tìm đứa con bỏ nhà đi hoang. Cuộc đi tìm không phải dễ dàng. Người chăn chiên
phải băng đồi vượt sông, luồn lách qua gai góc, dẫm đạp sỏi đá, chịu đựng nắng
mưa, bất chấp thú dữ rình rập. Người phụ nữ phải thắp đèn soi vào mọi ngóc
ngách trong nhà, lùa chổi vào những khe nứt nhỏ bé, kiên nhẫn moi móc tìm kiếm
niềm hy vọng mong manh. Người cha phải vượt qua những thành kiến xã hội, lòng tự
ái bị thương tổn, trái tim đau đớn vì yêu thương.
Đi tìm là yêu thương. Còn hơn thế,
đi tìm là đã tha thứ. Quả thật Chúa đã yêu thương ta trước. Người yêu thương ta
trước khi ta biết Người. Người tha thứ cho ta trước khi ta xin lỗi. Người đi
tìm ta trước khi ta trở về.
3. Nét thứ ba của lòn thương xót vô
biên của Thiên Chúa. Đó là: Thiên Chúa yêu thương từng người, dù rất bé nhỏ.
Trong đời sống xã hội, những người
bé nhỏ nghèo hèn thường bị bỏ quên: sống cô đơn, chết cô độc, chìm vào quên
lãng. Nhưng trong trái tim Thiên Chúa, mỗi người đều chiếm một vị trí quan trọng.
Mỗi người đều là duy nhất độc đáo, không thể thay thế được đối với Thiên Chúa.
Càng bé nhỏ nghèo hèn lại càng chiếm vị trí quan trọng trong tình yêu Thiên
Chúa.
Một con chiên lạc có gì so với 99
con chiên còn lại. Giữ 99 con còn lại vừ nhàn nhã lại vừa có lợi. Đi tìm một
con đi lạc vừa mệt nhọc lại vừa thiệt thòi. Nhưng trong tình yêu làm gì có tình
toán thiệt hơn. Một con chiên nhỏ bé lạc loài đã chiếm hết trái tim của người mục
tử nhân từ. Bao lâu chưa tìm được con chiên nhỏ bé gầy gò, lạc bầy ấy, lòng người
mục tử ấy vẫn còn khắc khoải lo âu.
Đứa con bỏ nhà ra đi, xài phí hết
gia sản cha mẹ làm sao sánh được với đứa con trai ngoan ngoãn ở nhà, biết chăm
lo công việc, luôn hiếu thảo phụng dưỡng mẹ cha. Ấy vậy mà người cha ăn không
ngon, ngủ không yên, tắt tiếng cười, mắt mờ lệ, bao lâu đứa con hư hỏng chưa trở
về.
Thật kỳ diệu tình thương của Thiên
Chúa. chính vì những tâm hồn bé nhỏ, tội lỗi, yếu đuối ấy mà Thiên Chúa đã sai
Con Một Người xuống trần gian như lời Chúa Giêsu nói: “Những người bệnh mới cần
đến thầy thuốc”.
Thực là vô biên lòng thương xót của
Thiên Chúa. lòng thương xót ấy lớn hơn cả trái tim của ta. Ơn lành của Thiên
Chúa lớn hơn cả tội lỗi của ta. Sự tha thứ của Thiên Chúa lớn hơn cả trí tưởng
tượng của ta. Tất cả chúng ta hãy đến với Người. Hãy mang theo những yếu đuối lầm
lỡ của ta. Hãy cho Người xem vết thương từ lâu gặm nhấm trái tim ta. Hãy tâm sự
nỗi buồn vô vọng của ta. Thiên Chúa Cha chúng ta Đấng giaù lòng thương xót.
Không có tội lỗi nào Người không tha thứ,không có vết thương nào Người không chữa
lành. Không có nỗi buồn nào Người không an ủi.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1. Kể ra vài nét của lòng thương xót
của Chúa.
2. Tại sao tha thứ là dấu chỉ rõ nhất
của tình yêu?
3. Cảm nhận được tình yêu và đáp lại
tình yêu của Thiên Chúa. bạn có coi điều này là hệ trọng nhất trong đời không?
10. Phục hồi phẩm chất cao đẹp
(Trích dẫn từ ‘Cùng Đọc Tin Mừng’ –
Lm Ignatiô Trần Ngà)
Chỉ có tội lỗi là nguyên nhân duy nhất
tàn phá phẩm chất cao đẹp của con người.
Cho dù lũ lụt có thể cuốn trôi tất cả
nhà cửa ruộng vườn, biến người ta thành người tay trắng, nhưng không thể cuốn
trôi phẩm giá người ta.
Cho dù hoả hoạn có thiêu rụi nhiều
phố xá làng mạc, cướp đi tất cả tài sản của người dân, nhưng cũng không thể
thiêu rụi phẩm giá con người.
Dù tai ương hoạn nạn có cướp đi một
vài chi thể của con người, khiến người ta trở nên tàn phế, nhưng cũng không thể
cướp đi phẩm chất cao đẹp của người ấy.
Không gì từ bên ngoài có thể làm mất
phẩm chất, mất giá trị con người, nhưng chỉ có tội lỗi và chỉ có tội lỗi mà
thôi mới có thể huỷ diệt phẩm giá cao đẹp của họ. Chính Chúa Giêsu cũng khẳng định
điều nầy: "Vì từ bên trong, từ lòng người, phát xuất những ý định xấu: tà
dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng,
ganh tỵ, phỉ báng, kiêu ngạo, ngông cuồng. Tất cả những điều xấu xa đó, đều từ
bên trong xuất ra, và làm cho con người ra ô uế." (Mc 7, 21-23).
Câu chuyện người con thứ trong Tin Mừng
hôm nay minh hoạ cho thấy tội lỗi làm băng hoại phẩm giá con người đến mức nào.
Sau khi đòi chia gia tài và phung
phí tài sản của mình với bọn đàng điếm, người con thứ lâm vào cảnh đói khát
cùng cực và phải xin làm nghề chăn heo là nghề ô nhục nhất đối với người Do
Thái.
Không có hình ảnh nào diễn tả tình
trạng xuống cấp và suy đồi phẩm giá cho bằng hình ảnh một con người đói rách thảm
hại, chen chúc với đàn heo bẩn thỉu hầu mong được ăn thực phẩm của heo nhưng chẳng
ai cho.
Chính tội lỗi và chỉ có tội lỗi mà
thôi mới có thể làm cho giá trị con người bị suy sụp cách thảm hại như thế.
Nhưng cũng qua bài Tin Mừng hôm nay,
Chúa Giêsu mở ra cho chúng ta một chân trời hy vọng: những con người bị tội lỗi
làm mất giá trị có thể được phục hồi nhân phẩm cách tuyệt vời.
Phục hồi lại phẩm chất cao đẹp của
mình nhờ quay về với Chúa.
Một người giàu có bị phá sản, còn rất
lâu mới có cơ may xây dựng cơ đồ, phục hồi sự nghiệp.
Một người bị mất chức, mất việc...
khó lòng kiếm lại được chức, được việc ngon lành như trước.
Nhưng thật vô cùng may mắn và hạnh
phúc cho chúng ta là những người tội lỗi, một khi lỡ sa ngã phạm tội, đánh mất
hết phẩm chất cao đẹp của mình... thì chỉ cần cố gắng, kiên quyết hoán cải là
có thể phục hồi lại được phẩm chất cao đẹp như trước.
Sau khi người con thứ lâm vào tình
trạng đói khát, anh ta hồi tâm lại và quyết chí trở về nhà cha, để xin làm một
người tôi tớ.
Khi thấy con từ đằng xa, người cha mừng
rỡ chạy lại ôm lấy đứa con hoang và hôn nó hồi lâu.
Không để cho đứa con hư nói hết lời
hối lỗi, ông truyền sai tôi tớ mau mau đem áo đẹp nhất ra mặc cho cậu, xỏ nhẫn
quý vào tay cậu, mang giày sang quý vào chân cậu và hãy hạ bò tơ để ăn mừng...
Thế là từ một con người thân tàn ma
dại, một thằng chăn heo hèn hạ đói khát, người con hoang đàng đã trở thành
chàng công tử thượng lưu với bao nhiêu tôi tớ hầu hạ. Thay vì tấm áo rách hôi
hám, cậu được mặc vào người tấm áo đẹp nhất. Thay vì đi chân đất bần cùng, cậu
được mang giày dép sang trọng, được đeo nhẫn quý vào tay như những người quyền
quý. Thay vì trước đây khao khát được ăn chung máng với đàn heo, ăn giữa đàn
heo, cậu được ngồi ăn với cha, với họ hàng, với những bậc tai mắt trong làng
xóm, có kẻ hầu người hạ. Thay vì những đồ cặn bã của heo, nay cậu được ăn thịt
bê đã vỗ béo ngon lành. Thật khác ngày hôm qua một trời một vực. Thật là một sự
thay đổi tuyệt vời, nằm mơ không thấy.
* * *
Chỗi dậy trở về cùng Chúa là từ bỏ tội
lỗi và tính hư tật xấu, là kết hợp với Đức Kitô để trở nên con người mới, thụ tạo
mới như lời thánh Phao lô dạy trong thư gửi tín hữu Cô-rinh- tô: "Phàm ai
kết hợp với Đức Kitô, đều là thọ tạo mới. Cái cũ đã qua đi, và cái mới đã có
đây rồi." (2C 5,17).
Cơ hội trở về luôn luôn sẵn có. Lời
Chúa và Hội Thánh vẫn liên tục kêu mời. Điều còn lại hoàn toàn tuỳ thuộc ở nơi
ta. Điều quan trọng là chúng ta có quyết tâm làm lại cuộc đời, sửa đổi và nâng
cấp đời sống mình hay không.
11. Cha anh chạy ra gặp anh
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Bước vào Chúa nhật thứ XXIV thường
niên C, Phụng vụ Giáo hội mời gọi chúng ta đọc Tin Mừng chương 15 Phúc Âm theo
thánh Luca (15,1-32). Chương này gồm ba thể hiện lòng thương xót nên gọi là
"dụ ngôn lòng thương xót": con chiên lạc, đồng tiền mất, và người con
trai hoang đàng.
Khi đọc "Người kia có hai con
trai", dù người biết rất ít về Tin Mừng vừa nghe đọc mấy lời trên sẽ biết
ngay là " dụ ngôn người con trai hoang đàng", có người gọi là "dụ
ngôn người cha nhân hậu".
Dụ ngôn này thường được khai thác dưới
nhiều khía cạnh về mặt thiêng liêng. Thực ra dụ ngôn này chỉ là chuyện hoà giải
giữa cha và con, một sự hòa giải như thế là thiết yếu cho hạnh phúc của các người
cha và con cái.
Trong ca dao, thơ ca, hò vè, văn
chương, nghệ thuật, kịch nghệ sân khấu và những quảng cáo, xem ra chỉ tập trung
vào một tương quan nhân bản duy nhất là tình yêu lứa đôi giữa người nam và người
nữ, giữa người vợ và người chồng. Tương quan giữa cha và con thật quan trọng, vậy
mà ít được khai thác. Tương quan này là đem lại vui mừng cho sự sống, niềm vui
trong cương vị làm cha và làm con.
Khi nói về tương quan gia đình,
không có gì xấu hơn trong tương quan giữa một người nam và một người nữ cho bằng
sự lạm dụng, khai thác và bạo lực, và không có gì dễ bị phơi bày và biến dạng
trong tương quan giữa những người cha và con cái cho bằng tính độc đoán, chủ
nghĩa gia trưởng, sự nổi loạn, sự loại trừ, sự thiếu liên lạc.
Thiên Chúa đã than: "Ta đã nuôi
nấng đàn con, cho chúng nên khôn lớn, nhưng chúng đã phản nghịch cùng Ta"
(Is 1, 2). Nhiều người cha ngày nay có kinh nghiệm về điều trên.
Sự đau khổ là hỗ tương; không phải
như dụ ngôn mà lỗi hoàn toàn ở người con. Có những người cha bị đau khổ hơn cả
trong cuộc đời khi bị con cái loại bỏ hay khinh chê. Và có những đứa con bị đau
khổ sâu xa nhất, đến nỗi không thể chấp nhận được khi cảm thấy bị hiểu lầm,
không được coi trọng, bị loại trừ bởi cha mình.
Thực ra một sự hoà giải giữa cha mẹ
và con cái và một sự chữa lành nội tâm sâu thẳm về tương quan giữa họ là một điều
quan trọng cho sự tân phúc âm hóa. Chúng ta biết, tương quan của một người cha
trần thế có thể ảnh hưởng rất lớn, tích cực hay là tiêu cực, đến tương quan
chúng ta với Cha trên trời và như thế cũng ảnh hưởng tới đời sống Kitô hữu.
Vậy khi chúng ta phạm tội phản nghịch
cùng Thiên Chúa, chúng ta khước từ Ngài, chúng ta phải làm gì, vì Thiên Chúa vẫn
một lòng trung tín, không từ bỏ chúng ta? Thiết nghĩ, chúng ta lấy lại những lời
đã soạn sẵn của người con thứ trong dụ ngôn, cùng với can đảm để thưa với cha
mình.
"Tôi muốn ra đi, trở về với cha
tôi và thưa người rằng: 'Thưa cha, con đã lỗi phạm đến Trời và đến cha' ".
Lời thú nhận đầu tiền của chúng ta với Thiên Chúa là Cha, Đấng Tạo Hóa, giầu
lòng thương xót và là thẩm phán là như thế. Cho dẫu Thiên Chúa biết mọi sự,
Ngài vẫn đợi chờ chúng ta trở về lên tiếng thú lỗi; lý do là "tuyên xưng
nơi miệng thì được ơn cứu rỗi" (Rm 10,10)...
Đó là điều người con thứ đã từng nói
với cha mình; nói thôi, chưa đủ, nếu anh không về cùng Cha. Nhưng giờ này biết
cha ở đâu để về gặp? " Tôi sẽ trỗi dậy". Đó là điều thánh Phaolô Tông
Đồ nói: "Thức dậy đi, hỡi người ngủ mê! Từ trong cỏi chết, hãy đứng dậy!"
(Ep 5,14)... Trước hết hãy trỗi dậy, nếu chúng ta đang ngồi đây và ngủ mê. Hãy
thức dậy trở về với Giáo hội, với Thiên Chúa là Cha, là Con, là Thánh Thần.
Thiên Chúa, Đấng thấu suốt mọi bí ẩn sâu thẳm nơi con người, đến tìm gặp con
người; nếu người cha trong dụ ngôn ngày ngày ra ngóng chờ con, nên khi con còn ở
đàng xa ông đã chạy tới ôm chầm lấy con. Thiên Chúa là Cha, Ngài luôn dõi mắt
theo con người, khi thấy con người khi còn ở đàng xa, Chúa đã thấy và chạy tới
ôm chầm lấy con người và hôn lấy hôn để... khi con người bị tội lỗi thế gian
vùi dập, Ngài cúi xuống để nâng con người lên; hướng con người về Trời để tìm
thấy Thiên Chúa là Đấng tạo dựng nên mình. Đức Giêsu chính là Thiên Chúa, Ngài
đã hạ mình xuống để giải thoát con khỏi thân phận nô lệ và trở nên chỗ êm ái nhẹ
nhàng để con người dưỡng sức nghỉ ngơi, khi nói, nơi Đức Giêsu, con người gặp
được Thiên Chúa Cha Đấng giầu lòng thương xót: «Hãy đến với Ta, hết thảy những
kẻ lao đao và vác nặng". Và Ta sẽ cho nghỉ ngơi lại sức" (Mt 11,28).
Đó là cách mà Chúa ôm chặt con người, nếu con người hoán cái trở về với Chúa.
Áo, nhẫn, giầy, con người đánh mất,
Thiên Chúa sẽ ban lại. Áo ở đây là áo sự khôn ngoan..., áo tinh thần và là y phục
lễ cưới. Nhẫn ở đây không gì khác là dấu ấn của niềm tin chân thành và dấu ấn của
chân lý đó sao? Còn đôi giầy đi, chỉ sự loang báo Tin Mừng.
Hãy hồi tâm và trỗi dậy, can đảm trở
về với Thiên Chúa khi ta lầm đường lạc lối, để đón nhận được lòng xót thương của
Thiên Chúa là Cha nhân lành. Amen.
12. Thiên Chúa, Đấng Nhân Hậu
1."Có phụ nữ nào quên được đứa
con thơ của mình, hay chẳng thương đứa con mình đã mang nặng đẻ đau? Cho dù nó
có quên đi nữa, thì Ta, Ta cũng chẳng quên ngươi bao giờ" (Is 49,15). Đó
là lời tiên tri Isaia đã phản ánh rất trung thực về tình cảm của người mẹ trần
thế đối với đứa con của mình, và hơn thế nữa, Isaia cho thấy tình yêu của Thiên
Chúa dành cho mỗi người chúng ta.
Vâng đúng thế, Thiên Chúa luôn yêu
thương con người, chủ đề của các bài Thánh Kinh hôm nay đều nói về lòng nhân từ
của Thiên Chúa đối với loài người, nhất là những tội nhân. Bài đọc I, trích
sách Xuất hành, diễn tả cơn thịnh nộ của Thiên Chúa trước tội "thờ bò
vàng" của dân Israel, nhưng nhờ lời cầu nguyện của Môsê, cơn thịnh nộ ấy
đã được nguôi dần. Bài đọc II, trích thư của thánh Phaolô gởi cho Timôthê,
thánh Phaolô cho thấy Thiên Chúa không chỉ nhân hậu cách chung chung với một
dân, một nhóm người, mà Ngài còn nhân hậu với từng người một, như kinh nghiệm
chính thánh Phaolô đã thuật lại khi xác tín:"Đức Kitô Giêsu đã đến thế
gian, để cứu những người tội lỗi, mà kẻ đầu tiên là tôi " (1Tm 1,15). Hình
ảnh Thiên Chúa là Đấng nhân hậu càng rõ nét, qua ba dụ ngôn nổi tiếng như trong
đoạn Tin Mừng chúng ta vừa nghe: "Con Chiên Lạc", "Đồng Bạc Mất"
và "Người Cha Nhân Hậu".
2. Chúng ta sẽ hiểu tấm lòng của Đức
Giêsu hơn khi biết bối cảnh của đoạn Tin Mừng nầy. Đức Giêsu tiếp đón những người
tội lỗi, điều này làm cho những ngừời biệt phái và luật sĩ phiền trách Chúa.
Trước thái độ ấy, Người dạy cho họ một bài học, một cái nhìn đích thực về Thiên
Chúa, Đấng gần gũi, giàu lòng nhân hậu đối với mọi người, nhất là những kẻ lầm
lỗi. Lòng nhân hậu đó có thể dễ nhận thấy qua các phương diện: Tôn trọng tự do
của con người; yêu thương và đi bước trước đến với tội nhân; và hoàn toàn tha
thứ cho tội nhân.
3. Thiên Chúa luôn tôn trọng tự do của
con người. Trong dụ ngôn "Con Chiên Lạc", hẳn con chiên này cũng như
những các con chiên khác trong đàn, chủ đã để cho nó tự do để đi lại ăn uống,
nhưng thay gì đi theo bầy đàn, nó lại đi riêng, thế là nó bị lạc! Điều này càng
rõ hơn trong dụ ngôn người cha nhân lành. Thông thường cha chỉ chia gia tài cho
các con khi thấy mình đã già yếu, sắp chết, bởi "ai nắm tiền là nắm quyền"
(x. Hc 33,20-24) hoặc thấy con mình có khả năng giữ được gia tài thì mới trao
phó cho nó và việc nầy là tự ý của người cha. Nhưng xem ra người cha trong dụ
ngôn này đã không khôn ngoan tính kỹ như vậy, vì ông quá thương con, quá tôn trọng
tự do của nó nên đã chia gia tài và cho nó tuỳ nghi sử dụng. Người cha nầy
chính là hình ảnh của Thiên Chúa, Đấng ban cho con người tự do, và nhiều khi
con người đã sử dụng tự do một cách sai lạc!
4. Lòng nhân hậu của Thiên Chúa thể
hiện qua việc yêu thương từng người trong chúng ta và luôn muốn ta sống trong
tình yêu thương của Ngài. Một con chiên lạc không có giá trị gì so với cả đàn
chiên, thế mà người chủ lại đi tìm ngay khi nhận ra nó đi lạc. Một đồng bạc rơi
mất không có giá trị gì, vậy mà cũng đáng quý, cho nên người phụ nữ nầy phải tốn
công tìm kiếm cho bằng được. Một đứa con hư hỏng không ích lợi gì cho gia đình,
vậy mà người cha vẫn luôn trông ngóng ngày đêm, nên mới có thể nhận ra khi nó
còn ở đàng xa. Đó chính là hình ảnh Thiên Chúa yêu thương từng người trong
chúng ta. Mỗi tâm hồn xa cách Thiên Chúa, Ngài đều mong quay trở về.
5. Lòng nhân hậu của Thiên Chúa còn
thể hiện ở việc hoàn toàn tha thứ cho tội nhân. Người chăn chiên khi tìm gặp
con chiên lạc thì vui mừng vác nó trên vai mà trở về, cho nó nhập lại đàn, chứ
không đánh đập nguyền rủa. Người đàn bà vui mừng khi tìm được đồng bạc bị đánh
mất. Cũng vậy, người cha nhân hậu quá sức mừng rỡ khi đứa con hoang đàng trở về,
ông bất chấp lỗi lầm của nó.
Đọc Tin Mừng, chúng ta thấy Đức
Giêsu thật là hình ảnh của Thiên Chúa nhân hậu. Phêrô đã từng chối Thầy mà sau
khi hối lỗi vẫn được Thầy tin tưởng giao trọng trách. Người trộm lành được hoàn
toàn tha thứ và còn được hứa hưởng hạnh phúc với Chúa... Thật là đúng theo một
bài hát cầu hồn mà chúng ta thường nghe "Chúa là Đấng từ bi và nhân hậu,
Người đại lượng và chan chứa tình thương. Người không xử với ta như ta đáng tội,
và không trả cho ta theo lỗi của ta ".
6. Hình ảnh Thiên Chúa nhân hậu từng
giây từng phút vẫn còn tiếp diễn. Thật vậy, Thiên Chúa ban cho con người tự do
và vẫn luôn tôn trọng tự do của con người. Đó là hồng ân Ngài ban cho ta, hơn
thế nữa khi ta sử dụng tự do cách sai lạc Ngài vẫn mong chờ ta quay trở về và rộng
lòng tha thứ. Ánh mắt Ngài vẫn dõi theo từng người trong chúng ta. Một cách cụ
thể hơn, qua bạn bè, những người thân nhắc nhở khi chúng ta có điều bất xứng.
Qua những vị mục tử hay những người làm công tác tông đồ lặn lội đi tìm kiếm những
người nguội lạnh. Qua hình ảnh cửa toà giải tội luôn rộng mở, mà linh mục thay
mặt Chúa, như người cha nhân từ, ngồi trông ngóng những tội nhân...
7. Chúng ta không chỉ cảm nhận lòng
nhân hậu của Thiên Chúa để quyết tâm sống tốt hơn, mà còn hãy noi gương Đức
Giêsu trong việc cư xử từ tâm đối với nhau. Đừng như những người biệt phái, luật
sĩ kết án, loại trừ đối với anh em, bởi tất cả chúng ta đều con một Cha trên trời,
đều được mời gọi hạnh phúc với Ngài và ai trong chúng ta dám cho mình là vô tội!?
13. Hối cải – Lm.
Giuse Trần Việt Hùng
Truyện kể: Một thầy giáo nói với các
học sinh trong lớp: Các em hãy viết lại Dụ ngôn Con Chiên Lạc, qua đó, các em sẽ
cảm nhận được ý nghĩa sâu sắc hơn. Một học sinh viết: Giả sử bạn hoàn thành
đánh máy một luận án dài 100 trang. Bạn đã miệt mài nghiên cứu, tìm tòi và sửa
chữa rồi đánh máy. Bạn cảm thấy sung sướng khi đã hoàn tất. Bạn thu thập các
trang lại bấm ghim và dán bìa, khi đó bạn phát giác ra bị thiếu mất một trang.
Tưởng tượng sự sợ hãi, hoang mang và cảm thấy bực bội, xôi bao tử. Bạn bỏ 99
trang đó và bắt đầu lục lọi tìm kiếm. Bạn mong tìm cho được trang giấy đã bị thất
lạc. Vì thiếu một trang, cả luận án sẽ vô nghĩa và bị mất giá trị. Đột nhiên,
đàng kia, nó rơi ở ngay góc phòng. Bạn phấn khởi, dời ghế, ném tung 99 trang và
quỳ gối xuống, nhặt vội trang đã bị lạc mất.
Tội lỗi đã nhập vào thế gian. Lòng
con người thường dễ hướng chiều về đàng dữ. Những kéo lôi thỏa mãn của dục vọng
tội lỗi gọi mời con người đi ngược lại với ý muốn của Thiên Chúa. Thiên Chúa
luôn kiên nhẫn đợi chờ lòng hối cải, chứ không tiêu diệt. Niềm vui của Chúa
Giêsu và của thần thánh trên trời là người tội lỗi lầm lạc biết ăn năn hối cải
trở về. Chúa nói: "Trên trời sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải hơn
là vì chín mươi chín người công chính không cần hối cải (Lc 15, 7). Chúa đến để
kêu gọi người tội lỗi. Biết rằng chỉ những bệnh nhân mới cần đến thầy thuốc.
Chúa Giêsu có quyền tha tội và chữa lành cả thân xác lẫn linh hồn. Chúa mở rộng
cửa đón nhận những người tội lỗi. Chúa không kết án hay bỏ mặc họ chìm đắm
trong vũng bùn của tội nhơ. Chúa tạo cho họ có cơ hội sám hối trở về.
Ngày xưa, Thiên Chúa đã chọn ông
Môisen làm thủ lãnh dẫn Dân Do-thái ra khỏi nước Ai-cập. Giải thoát họ khỏi làm
nô lệ cho người Ai-cập. Bước đầu của Chương trình cứu độ là đưa Dân Riêng vào
miền Đất Hứa. Mới ra khỏi vòng nô lệ, lòng dân chưa được thuần thành. Tâm hồn họ
còn bị ảnh hưởng bởi cách sống của dân ngoại. Nên khi có cơ hội, họ dễ quay trở
lại thờ các thần do chính họ đúc thành. Họ đã nhiều lần phạm tội phản nghịch
cùng Thiên Chúa. Khi ông Môisien lên núi cầu nguyện, thì dân chúng ở dưới chân
núi đã hùa nhau gây rối và làm phản: Chúa phán cùng Môsê rằng: "Ngươi hãy
đi xuống; dân mà ngươi dẫn ra khỏi đất Ai-cập đã phạm tội (Xh 32, 7). Dân chúng
muốn tìm thỏa mãn ngay những nhu cầu hạ giới. Họ lo cho sự an toàn cuộc sống,
lo cái ăn, cái mặc hiện tại, chứ không nhận biết đường đi nước bước mà Thiên
Chúa sẽ dẫn đưa họ.
Phải mất rất nhiều thời gian để cải
đổi thuần thành tâm hồn một nhóm dân đông đảo. Thiên Chúa đã yêu thương, bao bọc,
chở che, dạy dỗ, sửa phạt và từ từ mạc khải về chương trình cứu độ. Dân Do-thái
trên đường lữ hành đã đối diện với nhiều khó khăn thăng trầm. Cũng đã nhiều lần
họ bỏ Chúa chạy theo tà thần: Chúng đã sớm bỏ đường lối Ta đã chỉ dạy cho
chúng, chúng đã đúc tượng bò con và sấp mình thờ lạy nó; chúng đã dâng lên nó của
lễ hiến tế và nói rằng: "Hỡi Israel, này là Thiên Chúa ngươi, Đấng đã đưa
ngươi ra khỏi đất Ai-cập" (Xh 32, 8). Họ chưa nhận biết Thiên Chúa duy nhất,
thánh thiện, nhân từ và công bằng vô cùng. Tâm trí của dân xưa chỉ nhìn nhận một
Thiên Chúa vĩ đại, quyền uy, cao sang và sửa phạt công thẳng. Họ chưa cảm nghiệm
được hình ảnh một Thiên Chúa đầy lòng xót thương và nhân hậu. Thiên Chúa luôn
khoan dung kiên nhẫn đợi chờ.
Chúa Giêsu là hình ảnh Chúa Cha.
Không ai biết Chúa Cha ngoài Chúa Con và không ai biết Chúa Con ngoài Chúa Cha.
Chúa con là Ngôi Lời mạc khải. Ngài thi hành sứ mệnh Chúa Cha giao phó. Trước hết,
Chúa mang ơn cứu độ cho các con chiên lạc nhà Israel. Thời đó, các vị chức sắc
tôn giáo chưa nhận diện được sứ vụ của Chúa Giêsu. Họ càm ràm: Thấy vậy, những
người biệt phái và luật sĩ lẩm bẩm rằng: "Ông này đón tiếp những kẻ tội lỗi,
cùng ngồi ăn uống với chúng" (Lc 15, 2). Các biệt phái và luật sĩ rất bén
nhậy quan sát cách hành xử của Chúa. Tư tưởng, cung cách sống đạo và thi hành lề
luật của họ chỉ giới hạn nơi hình thức bên ngoài. Chúa Giêsu đi vào nội tâm
khao khát của từng người. Chúa chữa lành và ban lại sự bình an cho mọi tâm hồn.
Chúa dùng nhiều thí dụ để nói lên niềm
vui của tâm hồn. Chúa mong muốn những mảnh hồn đang bị xa lạc, tội lỗi, thương
tích và tan nát được rửa sạch thay bằng trái tim lành mạnh đầy yêu thương. Chúa
vui lắm khi một người tội lỗi biết ăn năn sám hối trở về. Tôi bảo các ông: Các
Thiên Thần của Thiên Chúa sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải" (Lc
15, 10). Trên trời vui mừng, các Thiên Thần vui mừng và mọi người cùng hối nhân
vui mừng. Sự mừng vui trong tâm hồn không thể trả giá. Vui của nước mắt ăn năn,
vui của sự hối cải trở về và niềm vui của ơn cứu độ. Niềm vui an bình và thanh
thoát của tâm hồn được kết hợp cùng Chúa.
Mỗi người có tiến trình trở về khác
nhau. Người xa kẻ gần, người tốt kẻ xấu, ai ai cũng cần có những giây phút trở
về. Đừng nghĩ rằng mình là người công chính thánh thiện không cần hối cải. Ai
nói mình không phạm tội là người nói dối. Có thể chúng ta không hư thân mất nết,
ăn chơi phung phí hết tiền của như người con phung phá để rồi cuối cùng mới trở
về: Tôi muốn ra đi, trở về với cha tôi và thưa người rằng: 'Lạy cha, con đã lỗi
phạm đến Trời và đến cha (Lc 15, 18). Tự vấn, có thể chúng ta không đến nỗi sống
tệ bạc như người bạn trẻ này, nhưng có khi chúng ta đã lạc xa Chúa qua những sự
dối gian, ích kỷ, giận ghét, thù hận và kiêu căng khác. Những thói xấu này làm
xói mòn đời ta hơn nữa. Tội lỗi âm ỉ như những con vi trùng ung thư lan tràn khắp
châu thân. Tội như là những con vi khuẩn độc hại tàn phá từng ngày. Chúng ta phải
luôn cảnh tỉnh xét mình qua lời nói, hành động và cách suy nghĩ. Sẽ không thừa
thãi, chúng ta biết chạy đến bác sĩ để khám bệnh, phòng bệnh và chữa bệnh kịp
thời.
Một tâm hồn biết hối cải sẽ là niềm
vui chung. Trong dụ ngôn người con phung phá trở về, đã được cha mở tiệc ăn mừng.
Cha nói: Nhưng phải ăn tiệc mừng, vì em con đã chết nay sống lại, đã mất nay lại
tìm thấy (Lc 15, 32). Thật cảm động về tình cha nhân hậu! Cha không ngoái lại
quá khứ để bắt bẻ, hạch hỏi hay la rầy. Cha đón nhận một tâm hồn thống hối với
trái tim yêu thương rộng mở. Lòng xót thương của cha thật bao la vĩ đại. Cha ôm
con vào lòng và thổ lộ rằng con ta đã bị lạc mất nay lại tìm thấy. Niềm vui vỡ
òa. Con được đón nhận trở lại trong vòng tay âu yếm của cha. Của cải của cha giờ
đây sẽ là của con. Sự giao hòa, tha thứ và yêu thương sẽ đan kết nên một tương
lai an vui và hạnh phúc.
Thánh Phaolô không ngại nói về quá
khứ bất hảo của mình. Khi được ơn trở lại, Phaolô đã sống trong ân sủng của
Chúa. Thánh Phaolô tâm sự: Dù trước kia cha là kẻ nói phạm thượng, bắt đạo và
kiêu căng, nhưng cha đã được Thiên Chúa thương xót, vì cha vô tình làm những sự
ấy trong lúc cha chưa tin (1Tm 1, 13). Phaolô đã dũ bỏ qúa khứ lỗi lầm và bước
đi trên con đường cứu độ. Ngài không ngừng rao giảng về Chúa Kitô chịu đóng
đinh và phục sinh từ cõi chết để chuộc lại lỗi lầm của chúng ta. Chúa đến để cứu
thoát những con người tội lỗi. Phaolô chấp nhận thân phận yếu đuối của mình: Lời
nói chân thật và đáng tiếp nhận mọi đàng là: Đức Giêsu Kitô đã đến trong thế
gian này để cứu độ những người tội lỗi, trong số ấy, cha là người thứ nhất (1Tm
1, 15). Noi gương thánh Phaolô, mỗi người chúng ta cũng tự xét mình, cúi đầu nhận
lỗi và xưng thú lỗi lầm, ăn năn sám hối và xin ơn tha thứ.
Lạy Chúa, chúng con đã nhiều lần lạc
xa và phạm tội mất lòng Chúa. Đôi khi chúng con tự cho mình là người thánh thiện
và công chính. Xin cho chúng con biết cúi đầu đấm ngực ăn năn và hối lỗi trở về
với Thiên Chúa là Đấng từ bi nhân hậu.
14. Lòng Chúa xót thương –
Lm Jos. Tạ Duy
Tuyền
(Trích dẫn từ ‘Cùng Nhau Suy Niệm’)
Có ai đó đã nói rằng: "con tim
có lý lẽ của con tim". Hành động của con tim không đo lường bằng toán học,
không kiểm chứng bằng khoa học. Hành động của con tim chỉ có thể hiểu được bằng
tình yêu. Thế nên, chỉ có những ai ở trong tình yêu mới có thể hiểu được những
việc làm xem ra thiếu tính toán của tình yêu. Đó cũng là cách hành xử mà Chúa Giêsu đã nói đến qua dụ ngôn con
chiên lạc và đồng tiền đánh mất. Cả hai dụ ngôn đều nói lên một tình yêu vượt
lên trên mọi tính toán vụ lợi. Vì không ai dại gì bỏ lại 99 con chiên trong rừng
vắng để đi tìm con chiên lạc. Và cũng không có ai dại gì bỏ hàng vạn đồng để
chiêu đãi bà con lối xóm khi tìm lại 1 đồng bạc bị đánh mất. Thiên Chúa không tính
toán thiệt hơn.Thiên Chúa luôn hành động vì yêu thương. Chính tình yêu đã thúc
bách Ngài phải lên đường ngay để tìm con chiên lạc. Chính trong sự nhẫn nại của
tình yêu đã làm cho Ngài tràn ngập niềm vui sướng khi tìm được đồng tiền đã mất.
Con chiên và đồng tiền đánh mất tựa
như cuộc đời của mỗi người chúng ta. Vì chạy theo danh vọng. Vì chạy theo những
đam mê trần gian đã làm cho nhiều người lầm đường, lạc lối và đánh mất phẩm giá
cao qúy của mình là hình ảnh Thiên Chúa. Thiên Chúa không bỏ rơi con người.
Thiên Chúa dùng muôn nghìn cách để tìm lại chúng ta. Ngài sẽ làm tất cả để chuộc
lại con người chúng ta. Đó cũng là cách mà Thiên Chúa đã thực hiện trong suốt dọc
dài của lịch sử ơn cứu độ. Loài người luôn bất trung, bội tín, bội thề. Thiên
Chúa thì luôn tín trung. Tình yêu của Ngài dành cho con người mãi mãi vẫn là một.
Ngài không bao giờ thay đổi. Ngài có giận, giận trong giây lát nhưng yêu
thương, yêu thương ngàn đời.
Tình yêu của Ngài hôm nay vẫn thế.
Ngài vẫn đeo đuổi cuộc đời mỗi người chúng ta. Ngài sẽ đau khổ nếu chúng ta lạc
xa tình Chúa. Ngài sẽ buồn nhiều nếu chỉ vì tiền tài và lạc thú mà chúng ta
đánh mất phẩm giá làm người của mình. Phẩm giá con người lớn hơn những giá trị
vật chất. Ngài không đang tâm đứng nhìn con người tự hạ thấp phẩm giá của mình
để đổi lấy đồng tiền và lạc thú. Ngài càng không làm ngơ và bỏ mặc con người
cho ma qủy lôi kéo vào hố diệt vong. Ngài sẽ làm muôn ngàn cách để đưa con người
trở về nẻo chính đường ngay. Điều
đó, Ngài đã thể hiện nơi cuộc đời của vua Đavít. Đavít là một con người được
Chúa yêu thương nhưng lại vì đam mê lạc thú đã lỗi luật Chúa. Ông đã phạm tội
ngoại tình với Batseva, là vợ của tướng Uria. Ông còn đang tâm đẩy Uria vào chỗ
chết để chiếm lấy nàng Batseva. Thế nhưng, tình yêu Chúa còn lớn hơn tội của
Đavít, Ngài đã không giáng phạt theo như tội Đavít đã làm. Ngài đã cho Đavít cơ
hội làm lại cuộc đời. Qua tiên tri Nathan, Thiên Chúa đã thức tỉnh Đavít nhận
ra lỗi lầm mà ăn năn trở về. Đavít đã sám hối ăn năn. Đavít đã cảm nhận tình
thương Chúa dành cho ông quá to lớn đến nỗi mà ông phải thốt lên: "Nếu
Chúa chấp tội nào ai rỗi được". Chúa đã không chấp tội Đavít mà "lòng
nhân từ của Chúa còn theo đuổi Đavít suốt cuộc đời".
Vâng, lòng nhân từ của Thiên Chúa vẫn
ở trong cuộc đời chúng ta. Lòng nhân từ của Thiên Chúa ví tựa như tấm lòng người
mẹ, luôn yêu con bằng trái tim chứ không bằng trí óc. Và cũng chỉ có tình
thương trời bể của người mẹ mới cho chúng ta hiểu nổi tình thương vô biên của
Thiên Chúa dành cho chúng ta, nhất là đối với kẻ tội lỗi, người nghèo khó bé mọn.
Vì "Có người mẹ nào quên được đứa con thơ của mình, hay chẳng thương đứa
con mình đã mang nặng đẻ đau? Nhưng cho dù người mẹ có quên con đi nữa, thì Ta,
Ta cũng chẳng quên ngươi bao giờ".
Dù có những người mẹ độc ác bỏ con
mình, Chúa không bao giờ bỏ chúng ta. Người còn ban ơn chăm sóc chúng ta hằng
ngày: "Các ngươi sẽ được nuôi bằng sữa mẹ, được bồng ẵm bên hông, nâng niu
trên đầu gối. Như mẹ hiền an ủi con thơ, Ta sẽ an ủi các ngươi như vậy".
Chúng ta thường nghe hát: "Lòng
mẹ bao la như biển Thái Bình". Còn lòng Chúa thương chúng ta thì không gì
sánh được. Tình mẹ đã khó mà đền đáp cho đủ, còn tình Chúa thì sao? Liệu rằng
chúng ta sẽ làm gì để đền đáp ơn Ngài cho cân xứng?
Ước gì mỗi người chúng ta cũng nhận
ra lòng Chúa xót thương để ăn năn sám hối trở về với Chúa, và cũng biết sống
tình yêu đó cho anh em. Amen.
15. Suy niệm của ĐHY
Phaolô Giuse Phạm Đình
Tụng
Bài Phúc Âm hôm nay thuật lại ba dụ
ngôn: - người chăn chiên đi tìm con chiên lạc. – Người đàn bà tìm đồng tiền mất.
– Và người cha nhân hậu đón nhận đứa con phung phá trở về. Ba dụ ngôn đó nội
dung khác nhau nhưng đều quy về một đề tài là: lòng thương xót bao la của Thiên
Chúa đối với con người có tội.
Ta có thể nói, toàn bộ Thánh Kinh, Cựu
ước cũng như Tân Ước chứng minh rằng: Thiên Chúa hằng đi tìm và kêu gọi kẻ có tội,
Thiên Chúa nhẫn nại chờ đợi họ quay về và vui mừng đón nhận khi họ quay trở lại.
Trước hết Thiên Chúa đi tìm và kêu gọi
kẻ có tội.
Tất cả lịch sử cứu độ, Cựu ước cũng
như Tân ước cho ta thấy: Thiên Chúa hằng làm mọi cách để đưa con người tội lỗi
trở về, bằng sự ngăm đe, bằng lời hứa hẹn, bằng tiếng kêu gọi, bằng những cử chỉ
ưu ái, những phép lạ vĩ đại, những hình phạt nặng nề, những lần xuất hiện uy
linh, bằng sai các vị tiên tri khuyến cáo, và sau cùng bằng sai chính Con Ngài
xuống trần gian chịu chết trên thập giá để cứu chuộc kẻ có tội.
Trong vườn địa đàng, Thiên Chúa đã
đích thân đi tìm con người lẩn trốn và Ngài đã lên tiếng kêu gọi: “Ngươi ở
đâu?”. Đây là tiếng gọi đầu tiên trong muôn vàn tiếng gọi. Về sau Thiên Chúa
thôi thúc con người, kêu gọi trong oán trách như một người tình bị phụ bạc, kêu
gọi trong đau buồn như người mẹ xót thương con. Những lời kêu gọi đó được nhắc
đi nhắc lại nhiều lần qua miệng các tiên tri. Thí dụ, qua tiên tri Ô-zê Chúa
phán như sau: “Khi Israel còn niên thiếu, Ta đã yêu thương chúng, và từ nước
Ai-cập Ta đã gọi con Ta về. Nhưng khi kẻ khác gọi chúng, chúng liền bỏ Ta.
Chúng đã đốt lễ vật dâng kính các thần tượng. Dù thế, chính Ta đã tập cho chúng
bước đi, Ta đã bồng bế chúng trên cánh tay Ta, nhưng chúng nào biết rằng mình
được chăm sóc. Chúng đã từ chối không trở lại cùng Ta. Vì thế, lưỡi gươm sẽ
vung lên trong thành của chúng và tiêu diệt đồn luỹ của chúng”.
Lời Thiên Chúa kêu gọi con người tội
lỗi ăn năn trở về, lời kêu gọi đó luôn được nhắc đi nhắc lại trong Cựu ước và
đã tiếp tục vang lên một cách mạnh mẽ trong Tân ước qua những lời giảng dạy,
qua cuộc đời của Đức Giêsu nhất là qua cái chết của Người trên thập giá.
Trong những năm giảng Đạo, Chúa
không quản ngại hy sinh thời giờ sức lực và cả danh dự để đi tìm kẻ có tội, gần
gũi họ, ngồi ăn đồng bàn với họ, tha thứ và cứu giúp họ, thái độ đó đã làm cho
người Biệt phái bất bình, phản đối. Họ gọi Chúa là bạn bè với những người thu
thuế và tội lỗi. Nhưng Chúa cương quyết trả lời: không phải những người khoẻ mạnh
cần đến thầy thuốc nhưng là những người đau yếu. Ta đến không để kêu gọi người
công chính, mà kêu gọi người tội lỗi. Con Người đến tìm và cứu vớt những gì đã
hư mất.
Không những Thiên Chúa đi tìm và kêu
gọi người có tội trở về mà Ngài còn chờ đợi một cách kiên nhẫn không biết mệt mỏi
như người cha hằng ngày ra đứng cửa trông đợi đứa con phung phá trở về. Thánh
Augustinô nói: Biết bao kẻ mê ngủ trong tội lỗi nhiều tháng nhiều năm. Họ còn
khoe khoang về những tội ác của họ, thế mà Thiên Chúa vẫn kiên nhẫn chờ đợi.
Thánh nhân tiếp: “Lạy Chúa, chúng con khiêu khích cơn thịnh nộ Chúa, còn Chúa
thì lại đưa chúng con tới lòng thương xót của Người”.
Trong cuộc đời, có khi chúng ta thắc
mắc vì thấy người nọ người kia quá gian ác mà Thiên Chúa không phạt nó chết đi,
để nó làm khổ người khác, làm khổ những người vô tội. Chúng ta thắc mắc như vậy
vì không hiểu lòng Thiên Chúa. Cũng như một ông bố trong gia đình có đứa con hư
không ai chịu nổi muốn tống cổ nó ra khỏi nhà, thế mà ông bố kia vẫn kiên nhẫn
chịu đựng chỉ vì nó là con mình và mình đã sinh ra nó. Thiên Chúa cũng kiên nhẫn
chờ đợi kẻ có tội chỉ vì Ngài là Cha nhân lành đã sinh ra nó, đã cứu chuộc nó bằng
giá Máu cực trọng Con Ngài, có thế thôi.
Thiên Chúa đi tìm và kêu gọi kẻ có tội,
Thiên Chúa kiên nhẫn chờ đợi nó hối cải, hơn nữa Ngài còn vui mừng đón nhận nó
khi trở về. Dụ ngôn người đàn bà tìm thấy đồng tiền mất, người chăn chiên tìm
thấy con chiên lạc và ông bố gia đình đón nhận người con phung phá trở về, cả
ba dụ ngôn đó chứng minh như vậy.
Người đàn bà tìm thấy đồng tiền mất,
mời chị em bạn bè đến chia vui. Người chăn chiên tìm thấy con chiên lạc không hắt
hủi đánh đập nó vì đã làm cho ông mất bao thì giờ, hao tốn sức lực và liều để
99 con khác ở một nơi. Trái lại,ông vui mừng sung sướng âu yếm vuốt ve nó, ôm
nó lên ngực, vác nó trên vai đem về nhà mời chúng bạn đến chia vui với mình.
Cũng thế, người bố trong gia đình, khi thấy đứa con phung phá trở về, ông không
hề xua đuổi trách mắng vì nó bỏ nhà ra đi, phụ bạc tình cha, phung phí tài sản,
ăn chơi truỵ lạc, bôi nhọ danh dự gia đình… không, ông không hề trách mắng, mà
trái lại, khi nó ở đàng xa ông đã vội vã chạy ra ôm choàng lấy nó mà hôn thật
lâu, ông cũng không cần nghe nó thú tội xin lỗi, ông truyền đầy tớ lấy áo đẹp mặc
cho nó, lấy nhẫn đeo vào tay, lấy giầy xỏ vào chân nó. Hỏi rằng ở trần gian có
ông bố nào đối xử với đứa con phụ bạc một cách lạ lùng như vậy? Ông bố trong dụ
ngôn đón nhận đứa con phung phá chính là Cha trên trời nhận kẻ có tội quay trở
về. Thật âu yếm biết bao! Cảm động biết bao! Lạ lùng biết bao! Nếu Đức Giêsu
không tỏ ra thì ai có thể tin được?
Sau đây, ta rút ra hai bài học thực
hành:
* Trong đời ta dù có sa ngã phạm tội,
dù tội ta nhiều và nặng đến đâu cũng cứ vững lòng trông cậy Chúa sẽ khoan hồng
tha cho ta như người cha trong Phúc âm tha thứ cho người con phung phá trở về.
* Theo gương người con đó, ta phải
thành khẩn và khiêm tốn nhìn nhận tình trạng khốn nạn của ta khi phạm tội lìa
xa Chúa. Khi bỏ nhà ra đi, người con đó tưởng mình sẽ được tự do sung sướng,
nhưng tự so không thấy, lại phải làm đầy tớ chăn lợn cho người, sung sướng
không thấy lại phải đói khổ cùng cực muốn ăn cám lợn cũng chẳng ai cho. Khi phạm
tội lìa bỏ Thiên Chúa chúng ta cũng mất địa vị và sự tự do của con cái Thiên
Chúa rơi vào ách nô lệ của tà thần. Sung sướng không thấy lại phải nhiều sự khốn
khó đời này và nhất là đời sau trong hoả ngục, vì tội là nguyên nhân sinh ra mọi
sự dữ. Người con phung phá đã hối hận lên đường trở về. Theo gương người con
đó, ta cũng quyết tâm từ bỏ tội lỗi ăn năn hối cải và nói như anh: “Tôi đi về
cùng cha tôi”.
16. Tin Mừng của lòng thương xót
Chúa
Chúng ta biết mỗi năm Phụng vụ C,
Giáo hội sẽ cho con cái mình đọc và suy niệm Tin mừng của Chúa Giêsu theo thánh
Luca. Tin Mừng theo thánh Luca được gọi là Tin mừng của lòng thương xót. Điều ấy
được thể hiện rõ nét nhất nơi những dụ ngôn chúng ta sẽ đọc và suy niệm trong
Chúa nhật hôm nay.
Lòng thương xót của Thiên Chúa là tấm
lòng của Đấng hạ mình xuống để nâng con người lên. Nhờ lòng thương xót ấy, chúng
ta được cứu khỏi tội lỗi và sự chết đời đời. Lòng thương xót của của Đấng đến
tìm và cứu chữa những gì hư mất. Và lòng thương xót ấy được thể hiện nơi hình ảnh
người chủ chiên, người phụ nữ bị mất tiền và người cha nhân hậu.
Trước hết là thái độ lạ thường của
người chủ chiên với những con chiên bị lạc mất. Ông ta sẵn sàng "để chín
mươi chín con kia ngoài đồng hoang, để đi tìm cho kỳ được con chiên bị mất".
Lạ hơn, khi tìm được ông "mừng rỡ vác lên vai" và "về đến nhà,
người ấy mời bạn bè, hàng xóm lại, và nói: Xin chung vui với tôi, vì tôi đã tìm
được con chiên của tôi". Dầu vậy, thái độ này sẽ không lạ gì với một người
chủ chăn thật sự gắn bó với những con vật nuôi của mình. Họ sẽ để ý và chăm sóc
đặc biệt hơn với những con bệnh tật. Một người mẹ thương con thật sự cũng sẽ
quan tâm nhiều hơn cho những đúa con chịu nhiều thiệt thòi hơn. Cũng vậy và hơn
thế, lòng thương xót của Thiên Chúa không cho Người đành lòng bỏ đi một con người
bị mất đi trong tội lỗi.
Kế đến là thái độ lạ thường của người
phụ nữ có mười quan tiền. Một hôm chị lỡ đánh mất một trong mười quan ấy, chị
ta "thắp đèn, rồi quét nhà, moi móc tìm cho kỳ được". Theo cái nhìn
thông thường, chúng ta sẽ nghĩ chỉ mất một quan thôi thì bỏ đi tội gì kiếm chi
cho mệt. Tuy nhiên, ông bà thường nói "Đồng tiền dính liền khúc ruột".
Do đó, nếu lỡ mất đi dù chỉ số nhỏ chúng ta cũng cảm thấy đau lòng. Sự đau lòng
ấy càng dữ dội hơn, khi chính những đồng tiền ấy do chính mồ hôi nước mắt của
mình tạo nên. Nhìn như thế chúng ta sẽ dể hiểu hơn tấm lòng của Thiên Chúa
chúng ta. Thiên Chúa có thể vui được khi thấy một trong những đứa con của mình
bị hư mất chăng? Chắc chắn Thiên Chúa sẽ đau lòng hơn nhiều khi thấy chúng ta
đang đắm chìm trong tội lỗi và sự chết. Chính sự đau lòng ấy sẽ thôi thúc Người
đi tìm và cứu chữa chúng ta cho bằng được.
Sau cùng, hình ảnh người cha nhân hậu
có lẽ sẽ đánh động ta nhiều hơn. Một đứa con hư hỏng cố ý chối bỏ tình thương của
cha. Vì nghĩ rằng tiền bạc, lạc thú trọng hơn cha nên nó đã sẵn sàng coi ông
như đã chết (đòi chia gia tài) mặc dù ông vẫn còn sống đó. Đến nỗi, lúc quyết định
trở về chỉ vì cái bụng của nó (đang chết đói). Nhưng cha nó chẳng để tâm đến những
điều đó. Ngày đêm ông trông ngóng nó trở về. Từ đàng xa thấy nó trở về, ông đã
"chạy ra ôm cổ anh ta và hôn lấy hôn để" và bảo các đầy tớ " Mau
đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ dép vào chân cậu,
rồi đi bắt con bê đã vỗ béo làm thịt để chúng ta mở tiệc ăn mừng". Ông
hoàn toàn không ngó ngàng gì đến quá khứ của con mình. Bấy giờ ông chỉ còn biết
con mình thật sự trở về. Những cử chỉ đón tiếp ấy cho thấy ông đã nhanh chóng
phục hồi địa vị mà con ông đã làm mất trước kia.
Như thế, những hình ảnh trên của
lòng thương xót Chúa chắc chắn ít nhiều gì cũng đánh động và đáng cho ta suy
nghĩ nhiều. Thiên Chúa đau khổ biết bao khi thấy chúng ta cố ý lìa xa tình
thương của Người. Sự đau khổ ấy sẽ trở thành niềm vui lớn khi Người tìm được
chúng ta trở về cũng như khi chúng ta biết quay trở về với tình thương của Người.
Chúng ta hãy tin tưởng vào lòng
thương xót vô cùng lớn lao của Thiên Chúa. Tin tưởng để chúng ta cố gắng đừng
gia tăng đau khổ cho Thiên Chúa. Tin tưởng để chúng ta biết sớm trở về mỗi khi
lỡ dại đi theo con đường tội lỗi.
17. Suy niệm của Lm Gioan Nguyễn
Văn Ty
Tôi là ai: ông anh hay cậu em trong
dụ ngôn?
Chương 15 của Phúc âm Luca, một
chương hoàn toàn nói về lòng thương xót của Thiên Chúa, có kể ba dụ ngôn. Dụ
ngôn thứ ba tường thuật về một nhân vật mà mà truyền thống gọi là đứa con hoang
đàng và coi anh như nhân vật chính của câu truyện. Ngày nay nhiều tác giả cho rằng
người cha nhân hậu mới là nhân vật chính. Một nhân vật thứ ba được đề cập tới,
và chắc chắn chỉ giữ vai phụ là người anh tuân phục. Khi kể câu chuyện dụ ngôn
lừng danh này, ý của Đức Giêsu về các nhân vật rất rõ ràng: Người cha là Thiên
Chúa nhân hậu và thứ tha, người con hoang đàng phải là những kẻ tội lỗi tiếp nhận
Tin Mừng, còn người con cả để chỉ những người Do Thái, đặc biệt các Pharisêu,
đang xầm xì phản đối.
Xét theo diện luân lý thông thường
thì người anh tuân phục mới là diện mạo đáng được đề cao hơn cả. Là con trưởng
trong nhà, không khi nào dám làm trái lệnh cha, hầu hạ cha trong mọi sự, không
có gì đáng trách… anh đáng được thừa hưởng phần lớn gia tài của cha. Trước mặt
mọi người xung quanh, anh thật đáng nể phục và kính trọng, đáng nêu gương cho mọi
người. Ai có thể đòi hỏi nơi anh điều gì hơn nữa?
Còn cậu em thì ngược lại, cậu thật
đáng cho mọi người khinh khi. Bất tuân lệnh cha và làm phật lòng người, chơi bời
trác táng, sống mất nhân phẩm… cậu thật không đáng hưởng bất cứ phần gia tài
nào của cha. Như thế cậu em này chẳng có gì đáng được đề cao để nêu gương cho hậu
thế soi chung. Nói trắng ra anh chàng này chẳng có giá trị gì hết!
Thế nhưng khi kể câu chuyện dụ ngôn
Đức Giêsu cho thấy có một yếu tố mới làm đảo lộn tất cả; yếu tố đó là điểm độc
đáo đặc trưng nhất của Tin Mừng, đó là cảm nhận và sống trong lòng nhân ái của
Cha. Cho dầu có hội đủ tất cả mọi điều được coi là tốt lành nhất, ông anh vẫn
còn thiếu một điều gì đó để biến cuộc sống đúng khuôn phép trong gia đình của
anh trở nên hạnh phúc. Còn cậu em, thì dầu đã đánh mất tất cả mọi điều được
luân thường đạo lý cho là cao đẹp, nhưng may mắn đã khám phá ra được điều sẽ thực
sự làm cho mối tương quan giữa anh với cha già từ đây trở nên sâu đậm, đó là nhận
ra lòng nhân ái của cha. Đức Giêsu hình như muốn gói ghém trong câu chuyện này
một điều gì quan trọng lắm mà Người gọi là Tin Mừng, là rượu mới. Nếu ông anh
là hình ảnh của nhóm Do Thái Pharisêu trung thành thuộc Cựu Uớc thì chính cậu
em mới là hiện thân của Kitô hữu Tân ước qua mọi thời.
Nhận ra điều này tôi mới thấy sững sờ.
Hình như chính tôi và nhiều Kitô hữu đã dành quá nhiều thời giờ và sức lực để
xây dựng cho mình, và cho những người mình được trao phó, hình ảnh một ông anh
hơn là cậu em. Chúng ta đã chẳng dành quan tâm hàng đầu nhấn mạnh phải sống
trung thành với luật Chúa, phải tuân phục cặn kẽ mọi qui tắc luân lý đạo đức… để
vào Nước Thiên Chúa hay được lên thiên đàng… hơn là nhận biết và cảm tạ lòng
nhân ái cứu độ của Cha trên trời hay sao? Chúng ta đã chẳng từng mong đợi được
Chúa thưởng công cho sự công chính đạo đức của mình hơn là phó thác trọn vẹn
cho lòng từ bi nhân ái của Người là gì? Thậm chí đôi lúc có người trong chúng
ta còn cảm thấy ganh tị khi nghĩ rằng các cậu em tội lỗi kia sẽ được Cha nhân ái
đối xử ngang bằng với mình hay hơn cả mình trên thiên quốc. Một người đã trọn đời
dâng hiến và phục vụ trong tư cách là linh mục, tu sĩ, hay giáo dân lành thánh
– lẽ ra phải được Thiên Chúa ưu đãi thưởng công xứng đáng hơn trên thiên đàng mới
phải chứ!
Thế đấy, chúng ta, vì chưa xác định
được điều gì là độc đáo đặc trưng nhất của một Kitô hữu (và hơn nữa của linh mục,
tu sĩ) nên có thể đã đặt cuộc sống mình sai trọng tâm chăng? Chính tôi vẫn thường
nhắc nhở cho giáo dân: phải trung thành giữ các lề luật Chúa và Hội Thánh… và dựa
vào tiêu chuẩn đó mà đánh giá giáo dân mình là tốt hay xấu. Vô hình chung tôi
đang biến mình thành con người của Cựu Ước hơn là Tân Ước chăng, có khác chi chỉ
là thay tên gọi Gia-vê thành Thiên Chúa? Câu chuyện dụ ngôn, và nhất là khi so
sánh vai diễn của ông anh và cậu em, cho tôi thấy hiện rõ một chân lý mà từ lâu
mình đã lãng quên: hãy sống triệt để Tin Mừng Tân Ước hơn qua việc đón nhận
tình yêu tha thứ của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi thập giá Đức Kitô, hơn là chỉ
chăm chú vun quén một đời sống tốt lành đạo đức theo kiểu Cựu Ước. Hãy thâm tín
sâu hơn nữa câu khảng định của Đức Giêsu: “Ta muốn lòng nhân chứ đâu cần lễ tế” (Mt 9,13). Giữ luật là quan trọng,
nhưng nhận biết và sống lòng thương xót từ nhân của Thiên Chúa còn quan trọng
hơn rất nhiều. Tóm lại hãy trở thành cậu em hơn là chỉ cố sống như ông anh. Đừng
dừng lại mãi trong Cựu Ước một hãy thẳng tiến ngày càng sâu hơn vào Tân Ước của
Tin Mừng.
Lạy Chúa, xin không chỉ hoán cải con
trong một vài chi tiết tốt xấu luân lý của cuộc sống. Xin cho con được lột xác
tận căn và chuyển bước dứt khoát từ Cựu Ước qua Tân Ước. Xin cho con, nếu đang
được sống trong nhà như ông anh, thì cũng có được tâm tình và cảm nghiệm sâu xa
của cậu em khi đi bụi trở về. Xin cho con biết ngước nhìn lên Thập giá Chúa
Kitô để nhận ra Thiên Chúa không phải là người cha nghiêm nghị bắt phải tuân phục,
nhưng trên hết là người cha đầy lòng nhân ái thứ tha. Xin cho con ơn trọng đại
này để được sống hạnh phúc trong nhà Cha muôn đời. Amen.
18. Tìm về – Lm.
Antôn Nguyễn Văn Tiếng
(Trích dẫn từ ‘Suy Gẫm’ – Cánh Đồng
Truyền Giáo)
TÌM VỀ CHÍNH MÌNH
Khi con người sai lầm, con người phạm
tội, con người “chạy trốn” chính mình! Khi ấy, con người không muốn nghe tiếng
nói lương tâm, tiếng nói từ sâu thẳm lòng mình.
Nhiều kẻ lún sâu vào sai lầm, vào tội
ác, nhưng vẫn sống an nhiên như người thánh thiện. Họ đã rời xa con người thật
của họ. họ sống trong lớp vỏ bình an giả tạo. Với loại người này, họ không còn
con đường về nẻo thiện lương. Họ đánh mất chính mình. Họ đánh mất nhân tính. Có
những vụ án giết người, mà kẻ tội phạm kể lại tội ác mình làm khi đứng trước
vành móng ngựa thật bình thản đến lạ lùng!
“Sai lầm là thường tình của con người”.
Để “nhận ra mình sai lầm”, cần phải khiêm nhường.
Không khiêm nhường không thể thấy
mình sai. Không thấy mình sai thì cứ cho mình đúng. Cứ cho mình đúng là kiêu ngạo.
Mà kiêu ngạo thì đối nghịch lại khiêm nhường… cái vòng lẫn quẫn ấy cản trở con
người bước vào con đường nội tâm. Không đi vào nội tâm, không thể tìm về chính
mình được.
Đi vào nội tâm là lúc con người hồi
tâm lại, và nhìn đoạn đường mình đã đi qua. Để xem mình đang đi về đâu. Có hồi
tâm mới có hối hận. Không giọt nước mắt ăn năn sám hối nào rơi xuống mà con người
không nhìn sâu vào tận đáy lòng mình. Đó chính là lúc tìm về chính mình thật sự.
TÌM VỀ GIA ĐÌNH
“Không ai là một hòn đảo”. Ngay cả
những người đã “phủi bụi trần” để khép mình vào “bốn bức tường” tu viện, vẫn cần
có tình người. Tìm về gia đình - hay đại gia đình - là mở rộng tấm lòng để sống
có trách nhiệm với cha mẹ, anh em, người thân, tha nhân, đoàn thể, cộng đồng…
Trong câu chuyện Tin Mừng hôm nay, đứa
con hoang đàng đã tìm về không phải vì nhớ thương cha mẹ hay anh em trong nhà,
mà vì cái bụng đói, vì cuộc sống quá gian nan, nhục nhã. Lý do tìm về chỉ nhắm
tới lợi ích riêng mình, còn rất ích kỷ. Khi ra đi với lý do ích kỷ, tìm về cũng
với lý do ích kỷ. Động lực sám hối chưa sâu xa. Chính vì lý do đó mà người anh
trong câu chuyện đã không thể chấp nhận được. “Còn thằng con của cha đó, sau
khi đã nuốt hết của cải của cha với bọn điếm, nay tìm về, thì cha lại giết bê
béo ăn mừng!” (Lc 15,30)
Nhưng, cũng chính vì lý do non nớt,
trẻ con đó, mà tình cha càng nổi bật, càng lớn lao. Bất kể là vì lý do gì, miễn
là đứa con biết ăn năn sám hối, biết tìm về gia đình. Người cha không nói rằng
đứa con trai lớn đã nghĩ sai, nhưng chỉ nói lên lý do đứa con lầm lỗi cần được
thương xót. Nó đang cần tình thương. Và dù cho thế nào, nó vẫn là đứa con mà
ông hết mực thương yêu. Và tình yêu đó không có sức mạnh nào lay chuyển. Và người
cha muốn đứa con trai lớn mình phải hiểu và chấp nhận em mình với tấm lòng bao
dung cao cả như vậy. “Yêu thương em mình như tình cha”. Điều này, chúng ta gặp
thấy nơi giới luật yêu thương của Chúa Giêsu: “Các con hãy yêu thương nhau như
Thầy yêu thương chúng con”.
Và đó, chính là ý nghĩa của việc tìm
về gia đình. Không có nơi nào con người nương tựa vững chắc như mái ấm gia
đình. Trong sự bảo vệ, đùm bọc của tình cha nghĩa mẹ. Đó còn là hình ảnh của
“gia đình Chúa Giêsu”, của “đại gia đình nhân loại”. Tình thương anh em phải được
nâng cao lên, hơn tầm nhìn của người anh trong câu chuyện Tin Mừng này. Vì đó
là Đại Gia Đình Thiên Chúa. “Một Đức Tin, một Phép Rửa, một Thiên Chúa là Cha”.
TÌM VỀ BÊN CHÚA
Trong cuộc đời, có những cuộc tìm về
bị chối từ, nhưng với Thiên Chúa thì không, vòng tay của Ngài luôn rộng mở.
Điều Ngài muốn duy nhất, là con người
biết ăn năn, sám hối. Sự sám hối có khi còn rất nông cạn, còn rất đời thường,
còn rất vật chất, còn vì cái lợi trước mắt. Nhưng căn bản là nhận ra rằng Chúa
chính là nơi con người nương tựa thật sự. Không tìm về nơi đâu khác, mà tìm về
chính Thiên Chúa. Và tin tưởng rằng Chúa vẫn hằng yêu thương tha thứ.
Sự tìm về của Giuđa Ít-ca-ri-ốt là sự
tìm về dang dở.
Giuđa biết “tìm về chính mình”. Anh
ta đã “nhìn lại mình” và đau khổ. Anh có sám hối. Đó là một khởi đầu rất tốt.
Giuđa thật can đảm. Sự tìm về với chính mình của Giuđa thật tuyệt vời. Nhưng thật
đáng tiếc, những bước tiếp theo lại thất bại. Thật tội nghiệp cho Giuđa, anh đã
không đến được với Chúa vì anh không hình dung được tình yêu Chúa bao la đến mức
có thể tha thứ tội tày trời của anh!
Có người bảo rằng thật tiếc là kết
thúc cuộc đời của Giuđa “không có hậu”. Nếu Giuđa tin vững vào Tình Yêu của
Chúa, không ngã lòng trông cậy, phần kết luận sẽ khác! Thí dụ như Giuđa không tự
tử, Giuđa khóc lóc hối hận một đời như thánh Phêrô. Rồi Giuđa sau này rao giảng
về Chúa phục sinh, lời lẽ của Giuđa sẽ mạnh mẽ: “Tôi đã từng bán Chúa! Tôi đã
chen vào đám đông và đứng chứng kiến người ta đóng đinh Chúa trên Thập Giá.
Trong khoảnh khắc tình cờ từ trên Thập Giá Chúa đã nhìn thấy tôi. Đôi mắt Ngài
nhân từ, đượm buồn nhưng rất âu yếm…”. Và cuối cùng, Giuđa đã bị treo cổ vì đã
rao giảng về Giêsu đã chết và đã Phục Sinh, chứ không phải tự treo cổ vì tuyệt
vọng! Kết thúc được như vậy cuộc đời Giuđa thật đẹp biết bao!
Có thể sự hối hận của Giuđa quá muộn
màng. Cách sống của Giuđa quá biệt lập trong “gia đình các môn đệ”. Khi Giuđa
biết “tìm về chính mình” và sám hối ăn năn, Giuđa lại cảm thấy lẻ loi, mang nặng
mặc cảm tội lỗi với Chúa và với anh em. “Một trong các môn đệ của Chúa Giêsu là
Giuđa Ít-ca-ri-ốt, kẻ sẽ nộp Người, liền nói: ‘Sao lại không bán dầu thơm đó lấy
ba trăm đồng bạc mà cho người nghèo?’ Y nói thế, không phải vì lo cho người
nghèo, nhưng vì y là một tên ăn cắp: y giữ túi tiền và thường lấy cho mình những
gì người ta bỏ vào quỹ chung” (Ga.12.4-6). Bước tiếp theo “tìm về gia đình”,
hòa nhập vào “cộng đoàn môn đệ” là
không thể được. Giuđa không thể nào chịu nổi sự lạc lỏng, cô đơn, có khi là
“búa rìu” của “dư luận” ngay trong “gia đình môn đệ”, không còn con đường tìm về
bên Chúa được nữa, Giuđa đã chọn con đường tự tử. Giuđa không đủ niềm tin để chỗi
dậy.
Hãy thử tưởng tượng đứa con trai
hoang đàng trong câu chuyện Tin Mừng hôm nay đã “không dám” về gặp thẳng cha
mình, mà về gặp anh mình để “thăm dò” xem cha mình có thể “nhận” mình không,
thì người anh sẽ phản ứng ra sao? Dựa vào phần kết câu chuyện, chắc chúng ta
cũng có thể suy ra những câu nói của người anh đối với em mình thế nào! Những
câu nói có thể đại loại như: - “mầy còn vác mặt mày về đây hả?” – “Mày định về
đây chia cái gì nữa đây?” – “ Mày làm tán gia bại sản chưa hài lòng chắc?” –
“Ông già thất vọng về mày”… Và đứa con trai hoang đàng sẽ rút lui. Sự tìm về của
nó thất bại. Nó sẽ lại bước vào dòng đời gió bụi. Nó sẽ chết ở xó kẹt nào đó,
mang theo nỗi lòng đau khổ sám hối ăn năn mà không còn cơ hội nhận ra được người
cha đang yêu thương chờ đợi nó.
Có rất nhiều vật cản trên “bước đường
tìm về”. Có rất nhiều sương mù làm nhạt nhòa hình ảnh Thiên Chúa là Người
Cha Nhân Hậu. Không phải chỉ ngày xưa, thời Pharisêu, Biệt Phái, mà trong cả thời
nay, có khi ngay cả trong lòng Giáo Hội.
Chuyến tìm về của đứa con trai hoang
đàng trong câu chuyện Tin Mừng hôm nay thành công, vì anh đã can đảm đến với
cha mình. Anh trực tiếp thấy được dung nhan hiền từ của cha mình ngoài sức tưởng
tượng của anh. Không có cánh tay trừng phạt giáng xuống anh, chỉ có vòng tay êm
ái ôm chằm lấy anh. Không có những lời hạch tội quát mắng, chỉ có những lời ra
lệnh mở tiệc ăn mừng. Không có những lời lên án, chỉ có những lời bênh vực.
Không có bờ môi đay nghiến, chỉ có những nụ hôn. Không có chỗ ở để nhận thêm một
đầy tớ, chỉ có chỗ ở dành cho đứa con bao năm chờ đợi trở về. Anh trực tiếp cảm
nghiệm được lòng yêu thương của cha anh trổi vượt hơn vạn lần anh suy đoán. Anh
nhận được ân huệ của cha anh lớn lao vạn lần hơn những gì anh van xin.
Sự vui mừng của cha anh cho anh lòng
tự trọng. Cho anh vững bước tiến lên để xứng đáng với tình cha. Cha anh tin tưởng
anh làm lại cuộc đời mới. “Nhưng chúng ta phải ăn mừng, phải vui vẻ, vì em con
đây đã chết mà nay lại sống, đã mất mà nay lại tìm thấy." (Lc.15,32).
Chỉ có Chúa Giêsu mới trả lời được
vì sao “các người thu thuế và các người tội lỗi đều lui tới với Người”, và vì
sao Người lại “đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với họ”. Các người thu thuế
và các người tội lỗi đều lui tới với Đức Giêsu để nghe Người giảng. Những người
Pharisêu và các kinh sư bèn xầm xì với nhau: "Ông này đón tiếp phường tội
lỗi và ăn uống với chúng." (Lc.15,1-32).
Chỉ có Chúa Giêsu mới diễn tả đúng mức
thế nào là Thiên Chúa là Cha Nhân Từ. và thế nào là Tình Yêu Thiên Chúa dành
cho nhân loại khi vòng tay của Người dang rộng trên Thập Giá. “Ông Philípphê
nói: ‘Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn
nguyện’. Đức Giêsu trả lời: ‘Thấy ở với anh em bấy lâu, thế mà anh Philíphê,
anh chưa biết Thầy ư? Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha. Sao anh lại nói: ‘Xin tỏ
cho chúng con thấy Chúa Cha’?” (Ga.14,8-9).
Lạy Chúa, Xin đừng làm rạng rỡ chúng
con, vâng, lạy Chúa, xin đừng! nhưng xin cho danh Ngài rạng rỡ, bởi vì Ngài
thành tín yêu thương. (Tv.115,1). Amen.
19. Xin chung vui với tôi
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn An
Khang)
Hai dụ ngôn: con chiên lạc và đồng bạc
bị mất giống nhau về hình thức, lời văn cũng như nội dung tư tưởng và giáo huấn,
đến nỗi có thể gọi chúng là hai dụ ngôn sinh đôi. Thực vậy, hai dụ ngôn đó, Đức
Giêsu lần lượt đưa ra một người đàn ông và một người đàn bà, một mục tử mất
chiên và một nội trợ mất tiền. Có khác về con số nhưng cùng một giáo huấn:
Dụ ngôn chiên lạc
Một người chăn chiên có một trăm
con, lạc mất một, người đó để chín mươi chín con nơi hoang vắng để đi tìm con lạc,
việc đi tìm không phải dễ, giữa cảnh bao la rừng núi. Vả lại, một sánh với chín
mươi chín có là gì. Thế mà với đôi chân trần đạp trên đá sỏ, ông đã chạy lang
thang khắp nơi để tìm.
Tại sao? Vì yêu thương. Đối với tình
yêu, số học không còn như cũ. Lúc đó có thể đặt dấu bằng ở giữa số một và số
chín mươi chín (1=99). Như thế, bất cứ giá nào, ông cũng không để mất, dù một
con. Một con được ông coi giá trị như chín mươi chín. Giống như đại tướng yêu
binh lính, bất cứ giá nào cũng không để chết đi một người, dù là lính quèn. Một
người lính được coi như cả một đoàn quân, chết một có thể chết cả đoàn.
Bởi thế, khi tìm thấy con chiên lạc,
ông đã vui mừng chạy lại ôm lấy, vác trên đôi vai, cho dù con chiên có nặng,
ông rất mệt, đã chạy nhiều giờ trên những ngọn đồi sỏi đá, dưới ánh nắng chói
chang của mặt trời. Nhưng theo ông, một con chiên xa đàn, lang thang nhiều giờ,
nó kiệt sức, cần ông vác. Khi về đến nhà, niềm vui như vỡ bờ, ông đã kêu bạn bè
hàng xóm đến chia vui, niềm vui của ông tỏa rộng và lây sang người khác.
Đồng bạc bị đánh mất.
Đây là cảnh xảy ra bên trong nhà người
dân xứ Palestin: Một căn phòng bằng đất nện, với vài chiếc chiếu, hay ít đồ đạc
lỉnh kỉnh, ánh sáng không bao nhiêu và chỉ lọt qua cửa chính, giữa ban ngày
cũng cần một ngọn đèn nhỏ để soi các góc xó. Một phụ nữ có mười đồng bạc, bị mất
một, bà đã gia công tìm kiếm, soi đèn quét nhà, moi móc khắp nơi, tìm cho kỳ được,
tìm được, lòng tràn ngập vui mừng, đồng tiền thế nào cũng được cất vào một nơi
chắc chắn, bà cũng mời bạn bè hàng xóm đến chia vui.
Tại sao? Đối với bà một đồng trị giá
bằng một ngày công, nhưng nó quá lớn. Mất đi một đồng, bà mất đi một ngày sống.
Dụ ngôn con chiên lạc, một so với chín mươi chín là quá nhỏ. Ở đây một so với
chín quá quan trọng. Vì thế người đàn bà này có lý vui mừng.
Giáo huấn của hai dụ ngôn
Qua hai dụ ngôn, Đức Giêsu dạy: Tội
nhân muốn trở lại cần có sự hối cải, nhưng sự hối cải của họ không phải là điều
kiện tiên quyết để được Thiên Chúa ân cần đón tiếp, như những người Pharisiêu
và các Kinh sư chủ trương. Trái lại, sự hoán cải này trước tiên được Thiên Chúa
thực hiện.
Các triết gia đã biến Thiên Chúa
thành một hữu thể bất động, không thay đổi. Đức Giêsu cho chúng ta thấy một
Thiên Chúa chuyển động, đang mở chiến dịch tìm kiếm cái Người đã mất. Đức Giêsu
đặt trước mặt chúng ta: Người mục tử vùng đồi núi Galilê, chân trần trên đá sỏi
đang chạy hết tốc độ, để tìm con chiên lạc; người đàn bà đang soi đèn quét tước
tìm đồng bạc đã mất. Đức Giêsu bảo: Thiên Chúa là như thế. Không có người nào bị
Thiên Chúa bỏ rơi, không có người nào bị mất hẳn, bởi vì có Đấng yêu thương
không ngừng đi tìm người ấy. Thiên Chúa không chịu ngồi chờ kẻ tội lỗi trở về,
Người ra đi tìm họ.
Đối với người chăn chiên, một con bằng
chín mươi chín, với người đàn bà, một đồng bằng chín. Đối với Thiên Chúa, mỗi
người đàn ông, mỗi người đàn bà, có một giá trị độc nhất vô giá. Một con chiên
lạc mất đã chiếm hết ý nghĩ của người mục tử, một đồng bạc bị mất đã chiếm hết
ý nghĩ của người đàn bà. Xem ra chỉ con chiên lạc, đồng bạc mất mới là đáng kể.
Chúng ta có một Thiên Chúa như thế. Một Thiên Chúa tiếp tục nghĩ đến những ai
đã bỏ rơi Ngài, một Thiên Chúa đau khổ vì một linh hồn hư mất, bởi mỗi người đều
quý giá, đều chiếm chỗ quan trọng trong con tim Ngài.
Tuy giáo lý dạy, con người không
thêm gì cho vinh quang và hạnh phúc nội tại của Thiên Chúa. Nhưng theo những dụ
ngôn này, mỗi người chiếm địa vị thiết yếu trong tình yêu Ngài đến chừng nào. Nếu
không có bệnh nhân, đâu có thầy thuốc. Nếu không có tội nhân, đâu có tình
thương cứu độ. Nói thế, không có nghĩa đề cao tội lỗi. Đức Giêsu không bao giờ
nói, tội lỗi không quan trọng. Trái lại, sự lên án của Người đối với tội lỗi thì
mãnh liệt và không chút mơ hồ: "Nếu tay ngươi hoặc chân ngươi làm dịp tội
cho ngươi, hãy chặt nó đi..." Như mọi ngôn sứ, Đức Giêsu đòi hỏi sự hoán cải
và sám hối (Mc 1,15). Nếu các dụ ngôn này là một lời rao giảng về tình yêu
Thiên Chúa, chúng cũng là một lời rao giảng về sự hoán cải cần thiết của kẻ tội
lỗi.
Câu chuyện minh họa
Ngày 13-5-1981, giữa lúc hàng chục
ngàn ngời chen chúc nhau tại quảng trường thánh Phêrô để đón đức giáo hoàng
Gioan Phaolô II, thì một tiếng nổ chát vang lên làm mọi ngời đứng tim. đức
thánh cha đã ngã gục trên chiếc xe mui trần, máu vọt lên tung tóe. Lần đầu tiên
trong lịch sử nhân loại, một vị giáo hoàng bị mu sát. Ali Agaca, hung thủ tội
ác, bị bắt ngay tại chỗ. Người thanh niên Thổ Nhĩ Kỳ này bị giam tại nhà tù
Rebiblia ở Rôma, cả thế giới kinh hoàng về tội ác tày trời này. Năm 1984, thế
giới còn kinh ngạc hơn nữa. Đấng bị thảm sát đã đến nói chuyện với kẻ sát hại
mình. Không ai biết hai bên nói gì. Nhưng người ta rất cảm động, thấy đức thánh
cha bắt tay Ali Agaca, với nụ cười rất trìu mến. Phải chăng đây là hình ảnh sống
động nhất về tình yêu Đức Giêsu niềm nở đón tiếp các tội nhân. Đức thánh cha, vị
đại diện Đức Giêsu, bị bắn gục, vẫn tỏ lòng rất nhân từ đối với kẻ tội ác. Ali
Agaca đã nhập vào đoàn hành hương của đoàn chiên lành đang vui mừng chào đón chủ
chiên đến thương yêu, chăm sóc, nuôi dưỡng tinh thần bằng lời hằng sống. Ali
Agaca như con chiên ghẻ, như đứa con phung phá xô đến giết chủ chăn, giết cha
mình. Nhưng người cha hiền, người mục tử nhân hậu đã sẵn sàng liều chết đến cứu
đứa con hư, sẵn sàng tha thứ hòa giải và vui mừng ôm lấy đứa con trở về.
20. Người cha
Suy Niệm
Khi chiêm ngắm người cha nhân hậu,
ta khám phá ra khuôn mặt một Thiên Chúa yêu thương.
Thiên Chúa yêu thương là Thiên Chúa
khiêm tốn.
Như người cha chấp nhận chia gia sản
cho con, chấp nhận để con bỏ nhà ra đi, Thiên Chúa cũng tôn trọng tự do của con
người.
Đấng Toàn Năng đã tự giới hạn quyền
năng của mình để chúng ta có thể hiện hữu một cách tự do. Ngài như thể thu mình
lại để nhường chỗ cho thụ tạo.
Không phải chỉ con người mới cần cởi
giày trước Thiên Chúa. Chính Thiên Chúa cũng cởi giày trước mầu nhiệm con người,
vì lòng con người cũng là phần đất thiêng thánh.
Thiên Chúa yêu thương là Thiên Chúa
biết chờ đợi.
Thiên Chúa vẫn nuôi hy vọng khi con
người lìa xa Ngài.
Người Cha vẫn luôn ngóng con từ bên
cửa sổ. Lòng Cha luôn hướng về con. Bởi thế ngay khi con còn ở đàng xa, Cha đã
thấy. Cha vẫn nhận ra con, dù con xanh xao tiều tụy.
Thiên Chúa không thất vọng về con
người. Ngài không bắt ép người ta hoán cải, Ngài chỉ chờ. Ngài chờ vì Ngài tôn
trọng tự do của họ.
Thiên Chúa yêu thương là Thiên Chúa
biết tha thứ.
Ngài là Cha yêu con bằng cung lòng
người mẹ.
Rõ ràng con thứ thật đáng trách, vì
bất hiếu. Nhưng tình thương của Cha còn lớn hơn tội của anh.
Cha thương anh vì anh đã lỗi phạm.
Tội lỗi tự nó đã đem lại hình phạt rồi.
Người cha có vẻ không cần nghe con
mình xin lỗi. Sự trở về của anh đã là lời thống hối ăn năn. “Con ta đã chết,
nay đang sống; đã mất, nay lại tìm thấy.”
Thiên Chúa không nhớ mãi chuyện đã
qua. Điều quan trọng là hiện tại: con đang sống trong vòng tay Cha.
Thiên Chúa yêu thương là Thiên Chúa
luôn chạy ra, như người cha chạy ra để đón đứa con thứ, như người cha đi ra để
năn nỉ đứa con cả.
Thiên Chúa dường như không yên trong
hạnh phúc của mình, nếu có một người con còn đứng ngoài.
Người cha trong dụ ngôn chẳng sợ mất
uy nghi, đạo mạo. Ông chạy đến với con, phá vỡ khoảng cách của quyền uy. Quyền
uy của người cha là quyền uy của tình yêu, mà tình yêu thi có can đảm vượt qua
mọi khoảng cách.
Thiên Chúa yêu thương là Thiên Chúa
biết nhảy mừng.
Thiên Chúa đãi tiệc vì một người ăn
năn sám hối.
Nhưng Thiên Chúa nhảy mừng cũng là
Thiên Chúa từng đau khổ. Ngài đau nỗi đau của con khi cố tình xa Cha.
Thiên Chúa biết buồn vui với con người
và vì con người.
Hãy trở lại và ở lại trong nhà Cha,
vì Cha muốn trao cho bạn tất cả những gì Ngài có. Tiệc đã sẵn, vào với Cha cũng
là về với anh em.
Gợi Ý Chia Sẻ
Qua bài Tin Mừng này, bạn hãy cho thấy
khuôn mặt khiêm tốn của người cha. Bạn thấy Thiên Chúa có khi nào khiêm tốn với
bạn không?
Đâu là những nét giống nhau giữa người
con thứ và người con cả? Người con cả cần hoán cải về tội gì?
Cầu Nguyện
Lạy Cha, người con thứ đã muốn tự định
đoạt lấy đời mình.
Chúng con vẫn rơi vào tội của người
con thứ, khi coi Cha như người cản trở hạnh phúc của chúng con. Chúng con thèm
được tự do bay nhảy ngoài vòng tay Cha, nhưng tự do ấy lại biến chúng con thành
nô lệ.
Hạnh phúc do thế gian ban tặng thì bọt
bèo. Như người con thứ, chúng con bỗng thấy mình tay trắng, rơi xuống chỗ cùng
cực và bị cái chết đe dọa.
Lạy Cha đầy lòng bao dung, xin kéo
chúng con trở về với Cha mỗi ngày, giúp chúng con điều chỉnh những đam mê lệch
lạc. Xin nâng chúng con đứng lên trong niềm vui vì tin rằng tình Cha lớn hơn tội
chúng con vạn bội.
Ước gì những vấp ngã khiến chúng con
lớn lên, thấy mình mong manh, thấy Cha rộng lượng.
Ước gì sau mỗi lần được Cha tha thứ,
chúng con lại thấy mình hiền hòa hơn với tha nhân.
21. Tuyệt đỉnh
của yêu thương – Thiên Phúc
(Trích dẫn từ ‘Như Thầy Đã Yêu’)
Một lần kia, các tu sĩ trong miền dẫn
tới Đức Giám Mục Anmôna một thiếu nữ mang bầu xin ngài ra hình phạt. Nhưng Đức
cha đã ban phép lành cho thai nhi, rồi ra lệnh ban cho cô sáu tấm vải bằng lanh
mịn. Những kẻ tố cáo lại nói:
- Tại sao Đức Cha làm như thế? Xin
ra cho nó một hình phạt.
Ngài ôn tồn bảo:
- Anh em thử nghĩ xem, cô ta đã đau
khổ muốn chết được; tôi phải làm gì hơn nữa?
Nói thế rồi ngài cho cô ta về. Từ đấy
không tu sĩ nào còn dám tố cáo ai nữa.
Cũng như các tu sĩ trong câu chuyện
trên đây, nhóm Pharisêu và các kinh sư thường lên án những người tội lỗi, nên
khi Đức Giêsu tiếp đón những hạng người này thì họ lẩm bẩm kêu trách Người. Thấy
vậy, Đức Giêsu đã trả lời bằng ba dụ ngôn: Con Chiên Lạc Mất, Đồng Bạc Đánh
Rơi, và Đức Con Hoang Đàng, để bày tỏ lòng nhân hậu và niềm vui của Thiên Chúa
dành cho người tội lỗi hối cải ăn năn.
Còn gì vui bằng khi cái đã mất lại
tìm thấy được; còn gì sướng hơn khi cái tìm thấy lại là vật quí. Tìm kiếm chính
là mục đích của Con Thiên Chúa khi xuống trần gian: “Con Người đến tìm kiếm những
gì đã mất”. Con người là đối tượng duy nhất mà Thiên Chúa mướn kiếm tìm. Con
người thật vô cùng quí giá trước mặt Người. Thiên Chúa lao đao vất vả đi tìm kiếm
con người. Người không muốn để mất một ai trên trái đất này.
Thiên Chúa yêu thương người tội lỗi, như người mục tử tốt lành sẵn sàng để chín mươi chín con chiên
lạc, đi tìm cho bằng được con chiên lạc mất. Khi tìm thấy rồi mừng rỡ khoác
chiên trên vai.
Thiên Chúa yêu thương kẻ lầm lỡ, như người đàn bà cần mẫn, đốt đèn kiếm cho được đồng bạc đánh
rơi. Khi thấy rồi tíu tít chia vui với mọi người.
Thiên Chúa yêu thương tội nhân, như người cha già nhân hậu, ngày ngày ra ngõ tìm con. Khi thấy
con rồi ông vui mừng chạy lại ôm choàng lấy nó.
Thật vậy, “lỗi lầm là của con người
và tha thứ là của Thiên Chúa” (A.Pope). Thiên Chúa yêu thương con người và yêu
thương đến cùng. Tuyệt đỉnh của yêu thương chính là tha thứ, vì thế dù phải chịu
hấp hối lâu dài và đớn đau khôn tả, phải chịu kinh miệt và chối bỏ, nhưng Người
vẫn cầu nguyện tha thiết: “Lạy Cha, xin tha cho họ”. Đây chính là lời rõ ràng
và trang trọng nhất nói lên tâm hồn cao thượng và tấm lòng nhân hậu của Thiên
Chúa qua Đức Giêsu.
Thiên Chúa luôn sẵn sàng tha thứ cho
chúng ta, những con người lầm lỗi; nhưng Người chỉ có thể thứ tha khi chúng ta
thật lòng sám hối. Người trộm lành suốt một đời lầm lỡ, thế mà chỉ trong giây
phút cuối cùng, tỏ lòng sám hối ăn năn đủ trở nên một vị thánh. Ông trở nên
thánh không phải vì ông là người tội lỗi, nhưng vì ông nhận biết mình là người
tội lỗi. Đứa con hoang đàng được người cha tha thứ cũng vì anh đã biết nhận ra
lỗi lầm, trở về sám hối ăn năn. Người cha không chỉ tha thứ mà còn phục hồi chức
vị làm con. Một chiếc nhẫn mới, một đôi giầy mới, một bữa tiệc linh đình, vinh
dự còn lớn hơn cả trước khi ra đi.
Nếu Thiên Chúa đã tỏ lòng nhân hậu
và tha thứ cho chúng ta, thì Người muốn chúng ta cũng hãy tha thứ cho nhau như
người cha nhân hậu xin ông anh cả tha thứ cho đứa em lầm lỗi.
Người ta chỉ có thể dễ dàng tha thứ
cho kẻ khác khi ý thức thân phận mỏng dòn yếu đuối của mình. Có nhận ra mình
hay lầm lỗi, con người mới dễ cảm thông tha thứ cho những lỗi lầm của anh em. Đừng
bắt người có tội phải bị trừng phạt mới hả dạ, đừng đòi hỏi cho được sự công bằng
mới thôi, vì Martin Luther King có viết: “Nếu cứ áp dụng luật “mắt đền mắt” thì
mọi người đều trở nên mù loà”.
Lạy Chúa, nếu Chúa không tha thứ cho
các tội nhân thì thiên đàng sẽ trống rỗng, và thế giới này chẳng có thánh nhân.
Xin cho chúng con mỗi lần được Chúa
thứ tha lại thấy mình nên giống Chúa hơn, vì đã biết tha thứ cho anh em. Amen.
22. Cây táo và miếng vải
trắng
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Richard Pidell có viết một câu chuyện
ngắn nhan đề: “Đứa con trai của một ai đó” (Somebody’s son). Câu chuyện mở đầu
với một cậu bé tên là David bỏ nhà ra đi sống bụi đời. Vì khổ quá, không chịu nổi,
cậu bèn viết một lá thư gửi về nhà cho mẹ bày tỏ niềm hy vọng được ông bố cổ hủ
tha thứ cho cậu và chấp nhận cậu làm con trở lại. Lá thư như sau: “Mẹ kính mến,
trong một vài ngày nữa con sẽ đi ngang qua nhà. Nếu bố bằng lòng nhận con trở lại,
thì mẹ yêu cầu bố cột một miếng vải trắng lên cây táo hồng ở miếng đất cạnh nhà
chúng ta”. Vài ngày sau, David lên tàu hỏa đi về. Trong lúc tàu hỏa lao nhanh đến
nhà thì hai hình ảnh cứ liên tục hiện ra trong trí cậu ta: khi thì trên cây táo
có cột một miếng vải trắng, khi thì trên cây chẳng cột một miếng vải trắng nào.
Tàu hỏa càng tiến gần nhà, trái tim David càng đập nhanh hơn. Không bao lâu nữa
cây táo sẽ hiện ra ở khúc quẹo, nhưng David không dám tự mình nhìn tới vì sợ nhỡ
không có miếng vải trắng cột ở đó. Thế là cậu quay sang người đàn ông bên cạnh ấp
úng nói: “Thưa ông, ông có thể làm ơn giúp cháu một việc không? Vào khúc quẹo
bên tay mặt, ông sẽ thấy một cây táo. Ông làm ơn cho cháu biết trên cành cây
táo đó có một miếng vải trắng không nhé”.
Khi tàu hỏa rầm rập lướt qua cây
táo, David nhìn chăm chăm về phía trước. Đoạn run run giọng, cậu hỏi người đàn
ông: “Thưa ông, có một miếng vải trắng nào treo ở cành cây táo đó không?” Ông
ta sửng sốt trả lời: “Ồ, nầy cậu bé, cành cây nào ta cũng thấy có một miếng vải
trắng cả!”
Anh chị em thân mến,
Thiên Chúa cũng đối xử với chúng ta
như thế. Phiêu lưu trong tội lỗi, chúng ta chỉ cảm thấy chán chường thất vọng.
Nhưng Thiên Chúa không bao giờ thất vọng về chúng ta. Ngài chờ đợi chúng ta từng
giây từng phút. Tình yêu của Ngài vượt lên trên mọi tính toán, đo lường của
chúng ta. Người con hoang đàng trong Tin Mừng chỉ xin được đối xử như một người
làm công trong nhà, nhưng người cha đã phục hồi anh trong tước vị làm con. Ông
đã xỏ nhẫn cho anh, mặc áo mới cho anh và sai mở tiệc ăn mừng.
Phải, Thiên Chúa yêu thương và tha
thứ hơn cả sự chờ mong của chúng ta. Đối với Chúa, mỗi người chúng ta đều đáng
kể, không thể có gì khác thay thế được. Mỗi con người là như một con chiên
trong đàn, phải được chăm sóc như nhau, không được để thất lạc. Chính mươi chín
con chiên yên lành không làm nguôi lòng thương đối với một con chiên lạc. Thiên
Chúa cũng cuống quýt như một bà già nghèo đánh mất một đồng bạc quý. Phày hì hục
moi móc mọi ngóc ngách trong nhà để tìm cho bằng được. Như người cha già, con
mình đã hư quá thể mà trong lòng vẫn lo lắng không nguôi, vẫn không thôi chờ đợi
đến mỏi mòn, cho đến lúc ôm lại đứa con vào lòng và rạo rực vui sướng không gì
kìm hãm được và cả Thiên đàng cũng vui lây, vui sướng vì một người tội lỗi ăn
năn trở lại hơn cả vui sướng vì chính mươi chín người lành thánh không cần sám
hối ăn năn.
Thiên Chúa rất khác chúng ta. Đối với
Ngài, mỗi con người là như một khúc ruột của mình. Ngài thương mỗi người, để ý
chăm sóc mỗi người như chỉ có một không hai trên đời. Nếu chúng ta lỡ lạc đường,
Ngài tạo mọi điều kiện để ta có thể trở về. Và điều kiện duy nhất Ngài đòi hỏi
là tin vào tình thương tha thứ của Cha để mà dám trở về. Sự trở về của con
chiên lạc đem lại niềm vui cho người mục tử nhiều hơn niềm vui có chín mươi
chính con ở lại trong đàn.
Thưa anh chị em,
Đến đây, đáng lẽ dụ ngôn về người
cha nhân hậu đã có thể kết thúc rất đẹp với nỗi vui mừng của người cha. Nhưng
Chúa Giêsu lại nối thêm cái đoạn cuối về người con cả. Chúng ta cũng nên dừng lại
một chút với thái độ của người con cả để hiểu hết ý Chúa muốn dạy chúng ta qua
dụ ngôn nầy.
Người con cả là một người con chí
thú làm ăn ở nhà với cha, nhưng xem ra quan hệ với cha không được thân mật, thẳng
thắn. Tuy ở nhà với cha nhưng lòng vẫn xa cách. Và kết quả là người con cả đã
không hiểu và không chấp nhận nổi cách xử sự của cha đối với đứa em của anh vừa
trở về. Do đó, thay vì nhập tiệc chia vui với cha và với em, người con cả đã dừng
lại ở cửa, tự mình đứng ở thể tách biệt với gia đình sum họp.
Người con cả ở đây tiêu biểu cho
nhóm người Biệt phái Pharisêu trong dân Do Thái. Họ tưởng rằng họ trung thành với
Thiên Chúa và đáng được Chúa thương, có quyền hưởng gia tài, rồi khinh bỉ các
dân ngoại và những hạng người mà họ cho là tội lỗi. Thì ra, Tin Mừng hôm nay là
một Tin Mừng đối với người tội lỗi sám hối trở về, nhưng đồng thời lại cũng là
một lời cảnh cáo đối với những người “ở trong nhà”, những người tưởng mình đạo
đức, tốt lành. Người con cả, bao nhiêu nămm ai cũng tưởng là ngoan ngoãn tốt
lành lắm. Đến ngày em của anh hồi sinh và trước niềm vui vô bở của người cha,
anh đâm ra hậm hực, bực tức… thì ra bề ngoài anh ngoan, nhưng nội tâm của anh
thì cay nghiệt, tù túng, đầy những ghen tị, sát phạt. Cả anh nữa, anh cũng chẳng
hiểu thế nào là lòng thương xót. Cuối cùng anh không muốn bước vào lòng thương
xót đó. Anh chưa gặp được Thiên Chúa. Anh vẫn ở ngoài ơn cứu độ.
Dụ ngôn cho thấy, người cần trở lại
hơn hết chính lạ người con cả, người con vẫn ở nhà với cha nhưng lòng thì không
ở cùng với cha.
Anh chị em thân mến,
Hãy tin vào tình thương yêu vô bờ bến
của Thiên Chúa mà trở về với Ngài, nếu chúng ta lỡ lạc đàng, sa ngã. Và hãy
khoan dung tha thứ cho những người anh chị em, nếu chẳng may có ai trượt chân vấp
ngã. Phải tìm đến với người anh chị em đó để giúp họ trở lại với Chúa là Cha
yêu thương. Đừng có thái độ lên án, loại trừ như thái độ của người con cả trong
dụ ngôn. Trái lại, hãy vui mừng vì đã giúp được một người anh em gặp lại niềm
vui cứu độ. Hãy coi thái độ khoan dung, quảng đại yêu thương tha thứ của người
cha trong dụ ngôn là hình ảnh của lòng nhân từ thương xót của Thiên Chúa, để
chúng ta biết đối xử với những người anh em như Chúa đã đối xử với chính chúng
ta.
“Lạy Chúa, xin tỏ lòng thương xót
con, và lấp đầy trái tim con tình yêu tha thứ của Chúa.
Con là đứa con thứ đã bỏ nhà ra đi rồi
lại trở về. Con cảm ơn Chúa đã đón nhận lại con.
Và con cũng là người con cả đã từng
khư khư không chịu tha thứ cho anh chị em con như Ngài đã tha thứ cho con. Vậy
xin Chúa hãy chạm vào trái tim con với tình yêu tha thứ của Ngài.
Để rồi sau khi an nghỉ trong cõi chết,
con sẽ thức dậy trước thánh nhan Ngài mãi mãi cùng với anh chị em từng được con
tha thứ lỗi lầm”. Amen.
23. Thương xót – Veritas
(Trích dẫn từ ‘Hãy Ra Khơi’)
Có câu chuyện kể rằng, một ngày nọ
Abraham mời một lữ hành vào lều của ông dùng một bữa cơm, sau khi đọc kinh chúc
tụng trước khi ăn, người khách này bắt đầu chửi rủa Thiên Chúa, ông nói rằng,
ông không thể chịu nổi khi nghe gọi tên Thiên Chúa. Phẫn nộ trước thái độ đó
Abraham đuổi ngay kẻ phạm thượng ra khỏi lều. Tối đến, khi Abraham cầu nguyện
Chúa nói với ông: “Abraham, người kia đã chửi rủa Ta từ 50 năm nay và Ta vẫn cứ
ban cho ông ta lương thực hằng ngày. Còn ngươi, ngươi không thể nào cho ông ta
chỉ một bữa cơm sao?”.
Tin Mừng theo thánh Luca của Chúa nhật
hôm nay vốn được mệnh danh là Tin Mừng về “Lòng thương xót của Thiên Chúa”. Và
quả thực như vậy, bài Tin Mừng khá dài nhưng thật cảm động, Chúa Giêsu không chỉ
đưa ra một mà tới ba dụ ngôn để phá đổ thái độ hống hách đạo đức giả của những
người thuộc phái Pharisêu và các kinh sư. Nhưng quan trọng hơn hết là Ngài bày
tỏ lòng nhân hậu đầy lòng thương xót của Thiên Chúa đối với tội nhân.
Dụ ngôn đầu tiên, Thiên Chúa như người mục tử nhân lành quyết tâm đi tìm cho bằng
được con chiên bị lạc, dù chỉ là một trong số một trăm. Khi tìm được rồi, ông
vui mừng vác chiên trên vai, về đến nhà ông mời bà con hàng xóm đến chung vui.
Dụ ngôn thứ hai, Thiên Chúa như người phụ nữ mất một đồng bạc, có lẽ giá trị của
nó chỉ bằng tiền lương của một ngày công lúc bấy giờ. Nó không lớn đối với nhiều
người trong chúng ta, nhưng nó quan trọng đối với người phụ nữ. Bà đã thắp đèn
quét nhà moi móc tìm kiếm cho bằng được, khi tìm được rồi bà mời bạn bè hàng
xóm đến chung vui.
Trong cả hai dụ ngôn này, thái độ
vui mừng của người mục tử và của người phụ nữ có lẽ trong thời buổi thị trường
kinh tế chúng ta thấy thật phi lý, nhưng nó lại là lôgích của tình yêu trong cuộc
sống và là bản chất yêu thương của Thiên Chúa. Rõ ràng giá trị của con chiên bị
lạc hay đồng bạc bị mất không đặt trong sự so sánh cái này với cái khác, cũng
không đặt trong tỉ lệ phần trăm hay phần mười, nhưng giá trị của chính nó trong
tương quan của người tìm kiếm, trong lòng thương xót và trong ơn cứu độ của
Thiên Chúa. Đó là sự vui mừng của Nước Trời khi có một tội nhân ăn năn sám hối.
Điều này càng nổi bật hơn trong dụ ngôn thứ ba người cha nhân hậu. Người cha không những
đã bày tỏ lòng thương yêu đối với người con thứ, đứa con đã đòi chia gia tài, rồi
sau khi ra đi đã ăn tiêu hoang phí, khi trở về lúc nó còn đàng xa người cha đã
nhận ra và lập tức chạy đến ôm chầm lấy, hôn lấy hôn để. Ông còn cho mở tiệc ăn
mừng, vì điều quan trọng đối với ông là đứa con đã trở về. Đứa con của ông đã
chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy. Người cha còn bày tỏ lòng nhân hậu
với người con cả, đứa con hằng ngày vẫn ở bên cha mà hình như tâm hồn của nó đã
đi hoang từ lâu. Nó kể công, nó phân bì, nó ghen tị rồi tức tối giận dỗi, nó muốn
cắt đứt tình nghĩa huynh đệ không chấp nhận cho đứa em trở về và nó cũng đang cắt
đứt luôn tình nghĩa phụ tử không chịu vào nhà, vì trong lòng của nó chưa bao giờ
có tình thương. Sự chuyên cần trong công việc hằng ngày của nó xem ra vì thói
quen hoặc vì bổn phận hơn là vì một mối tình. Nhưng người cha vẫn nhân hậu đầy
yêu thương năn nỉ: “Này con, hằng ngày con vẫn ở với cha, tất cả những gì của
cha đều là của con”.
Thiên Chúa, Ngài đã kiếm tìm chúng
ta trước khi chúng ta tìm kiếm Ngài. Ngài chờ đón chúng ta trước khi chúng ta
trở về, và Ngài đã yêu thương chúng ta khi chúng ta vẫn còn là tội nhân. Trong
lòng thương xót của Thiên Chúa, mỗi người chúng ta đã trở nên viên ngọc quí mà
Ngài là thương gia bán tất cả gia tài đang có để chuộc lấy viên ngọc quí là
chúng ta. Ngài vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ nhất quyết duy trì địa vị
ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân phận
nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người thế. Người còn tự hạ sống vâng lời
cho đến chết và chết trên thập giá.
Thiên Chúa vẫn luôn luôn là Thiên
Chúa nhân hậu và hay thương xót. Ngài không nỡ bẻ gãy cây lau bị dập, không
đánh dập tắt tim đèn còn khói. Ngài vẫn kiên trì, vẫn chờ đợi chúng ta những
người con yếu đuối, tội lỗi ăn năn sám hối trở về với Ngài. Thiên Chúa là mục tử
nhân lành như thế đó; Thiên Chúa là người cha nhân hậu như thế đó, và Thiên
Chúa đã tìm kiếm chúng ta như thế đó. Xin cho mỗi người chúng ta biết ăn năn
sám hối để đón nhận lòng thương xót của Thiên Chúa.
24. Quan trọng - McCarthy
Người ta có thể nói: Tại sao người mục
tử lại quan trọng hóa như thế với một con chiên đi lạc trong lúc người ấy vẫn
còn 99 con khác? Và tại sao người phụ nữ lại quan trọng hóa như thế với một đồng
tiền đánh mất? Bất cứ cái gì mà chúng ta đánh mất đều có một giá trị thái quá.
Ví dụ như bạn đánh mất một cái chìa khóa. Ngay khi bạn làm mất, cái chìa khóa ấy
trở nên quan trọng hơn tổng số mọi vật mà chúng ta vẫn có. Không bao giờ chúng
ta biết giá trị của một vật chúng ta có cho đến khi chúng ta mất nó.
Một lần kia, có một thanh niên mong
ước mình sẽ trở thành một nhà nhiếp ảnh. Mỗi năm, anh đem một gói các bức ảnh đẹp
nhất của mình đến nhà một nhiếp ảnh gia lão thành và danh tiếng để xin ông này
chỉ dẫn và đánh giá. Nhiếp ảnh gia lão thành nghiên cứu các bức ảnh và chia ra
làm hai gói nhỏ, một gói gồm các bức ảnh đẹp và một gói gồm các bức ảnh xấu,
chưa đạt. Năm nào ông cũng nhận thấy rằng người thanh niên luôn đem đến một bức
ảnh chụp phong cảnh và lần nào cũng bị xếp vào các bức ảnh xấu bị loại. Vì thế,
ông mới quay lại người thanh niên và nói: “Rõ ràng là cậu đánh giá cao bức ảnh
này. Tại sao cậu lại thích nó như thế?”
Người thanh niên đáp: “Bởi vì cháu
phải leo lên núi để chụp nó”.
Một vật trở nên quí giá đối với
chúng ta bởi vì chúng ta mất nó. Nhưng nó cũng có thể trở nên quí giá vì công sức
mà chúng ta đã bỏ ra cho nó. Những hy sinh mà chúng ta đã thực hiện có được hoặc
giữ được nó làm tăng thêm giá trị của nó trong mắt chúng ta.
Có một câu chuyện tuyệt vời kể lại rằng
một ngày nọ Đức Giêsu hiện ra với một người mục tử đang gặp chuyện đau buồn. “Tại
sao con buồn bã thế?” Người hỏi “Bởi vì con đã để mất một trong các con chiên của
con”, người mục tử đáp “và dù con đã tìm kiếm khắp nơi, con đã không tìm thấy
nó. Có lẽ chó sói đã xé xác nó”. Nghe đến đây Đức Giêsu nói: “Con hãy chờ ở
đây. Chính Thầy sẽ đi tìm nó”.
Nói xong, Người biến mất vào trong
các đồi. Ít giờ sau, Người trở lại với con chiên lạc. Đặt con chiên dưới chân
người mục tử, Người nói: “Kể từ ngày hôm nay, con phải yêu thương con chiên này
hơn những con chiên khác trong bầy chiên của con, vì nó đã mất mà nay đã tìm lại
được”.
Trong các câu chuyện con chiên lạc
và đồng tiền đánh mất Đức Giêsu nhấn mạnh một điều, đó là: Đối với Thiên Chúa,
mỗi người đều quan trọng và quí giá. Nhất là khi người ấy đã hư mất. Thiên Chúa
sẽ yêu thương người ấy nhiều hơn chứ không ít đi.
Những người Pharisêu tự coi mình là
những mẫu mực về đạo đức nên không liên can gì đến những người tội lỗi. Họ cho
rằng Thiên Chúa cũng không quan tâm đến những người tội lỗi. Tín điều chính yếu
trong tôn giáo của họ là: “Thiên Chúa yêu thương người đạo đức và ghét bỏ kẻ tội
lỗi”. Nhưng Đức Giêsu cho họ thấy có một loại Thiên Chúa hoàn toàn khác hẳn.
Đức Giêsu nhân hậu và yêu thương khi
Người tiếp cận với những người tội lỗi. Người biết rằng sự loại trừ và phán xét
không bao giờ giúp cho một người thay đổi. Vì thế Người dùng sự hiện diện của
Người như một cách để người ta cảm thấy được chấp nhận và yêu thương và trong bầu
không khí ấy họ có thể đáp lại và thay đổi.
Dù từ một quan điểm nhân bản, sự tiếp
cận của Người cũng mang nhiều ý nghĩa. Nếu một đứa bé bị lạnh và đói lả, nó
không cần một bài giảng thuyết; nó cần hơi ấm và lương thực. Jean Vanier cũng
nói rất hay: “Con người ở trong cảnh khốn cùng không cần một cái nhìn xét đoán
và chỉ trích, nhưng cần một sự hiện diện đầy an ủi đem lại bình an, hy vọng và
sự sống”.
“Khi một người cha than khóc đứa con
của mình đã đi vào những con đường xấu xa, ông sẽ làm gì? Ông sẽ yêu thương nó
nhiều hơn bao giờ hết” (Beal Shem Tov).
25. Tấm lòng người cha
Dụ ngôn về đứa con hoang đàng, về
chàng trai phung phá, hay nói đúng hơn, câu chuyện về tấm lòng của một người
cha là một hình ảnh cảm động thật nói lên tình thương vô biên của Thiên Chúa.
Ngài luôn chờ đời và sẵn sàng tha thứ cho chúng ta, ngay cả những tội lỗi xấu
xa và nặng nề nhất.
Chàng thanh niên, tuổi đời còn ít và
kinh nghiệm chẳng được bao nhiêu, đã đòi người cha phải chia gia tài cho mình,
để rồi lên đường đi bụi đời.
Chàng hăm hở lao mình vào những cuộc
ăn chơi đàn đúm, tiêu xài hoang phí cho đến khi không còn một đồng xu dính túi.
Chính trong giây phút đau khổ và đói
khát, chàng mới nhận ra rằng mình đã hành động sai quấy đối với người cha. Và
cũng chính những đau khổ và đói khát ấy đã làm cho chàng suy nghĩ và quyết tâm
làm lại cuộc đời.
Biết bao nhiêu người ngày hôm cũng
thế. Sau những hành động tội lỗi, thì trong cảnh tĩnh mịch của nhà tù họ mới
tìm lại khuôn mặt của Thiên Chúa mà họ đã quên lãng từ lâu.
Hiểu được sự sai trái của mình,
chàng thanh niên đã dứt khoát trở về nhà cha. Cõi lòng chàng tan nát khiêm
cung, cho dù cái lý do thúc đãy chàng trở về chưa thực sự tốt lành và tinh ròng
cho lắm. Chàng sẽ quì xuống để xin cha tha thứ. Chàng nói:
- Thưa cha, con đã phạm tội nghịch với
trời và lỗi với cha, con không xứng đáng được gọi là con cha nữa, xin cha hãy đối
xử với con như một người làm công.
Và thế là chàng lên đường. Khi chàng
còn ở đàng xa, thì người cha đã trông thấy, bởi vì biết bao nhiêu ngày ông đã
mòn mỏi đợi chờ.
Nếu là chúng ta, có lẽ chúng ta đã
quát tháo:
- Cái thằng trời đánh thánh vật kia
ơi. Mày đã làm cho tao đau khổ biết bao nhiêu. Mày không còn là con tao nữa.
Hãy cút xéo khỏi nhà tao.
Nhưng không. Người cha trong câu
chuyện đã không nói và làm như thế. Trái lại, ông đã tha thứ hết. Ông chạy tới,
ôm choàng lấy chàng và hôn chàng hồi lâu.
Không một lời khiển trách, trái lại
với tất cả tình yêu thương, ông đã truyền lấy áo mới cho chàng mặc, lấy nhẫn
cho chàng đeo, lấy giày cho chàng đi, rồi lại còn chuẩn bị tiệc mừng. Ông nói:
- Hãy giết con bê béo làm tiệc ăn mừng
vì con ta đã chết nay được sống, đã mất nay lại tìm thấy.
Câu chuyện trên đây quả thực đã đem
lại cho chúng ta, những kẻ tội lỗi, một niềm an ủi lớn lao. Bởi vì qua câu chuyện
này, Chúa Giêsu muốn tỏ cho chúng ta thấy lòng nhân từ, khoan dung và thương
xót của Thiên Chúa. Ngài sẵn sàng tha thứ, sẵn sàng xóa bỏ tất cả mọi tội lỗi của
chúng ta, miền là chúng ta biết sám hồn ăn năn và lên đường trở về với Ngài.
Cha Piô là một vị linh mục nổi tiếng
thánh thiện. Ngày kia, ngài tới Rotondo và tình cờ gạp Cesare Festa, một kẻ đứng
đầu phái Tam Điểm tại đây. Khi gặp ngài, ông ta ngạc nhiên và nói:
- Ngài cũng ở đây với chúng tôi, những
người theo phái Tam Điểm hay sao?
Cha Piô đáp lại:
- Phải, thế các anh đã làm gì?
Ông ta trả lời:
- Chúng tôi chống lại Giáo hội.
Cha Piô cầm tay ông ta, nhìn ông ta
bằng cặp mắt trìu mến, rồi kể lại cho ông ta nghe câu chuyện đứa con hoang
đàng, hay câu chuyện tấm lòng của một người cha.
Một giờ sau, ông ta đã quì gối xưng
tội. Rồi sau đó, ở mọi nơi và trong mọi lúc, ông ta sẵn sàng tuyên xưng lòng
khoan dung và thương xót bao la của Thiên Chúa.
Riêng mỗi người chúng ta, hãy sám hối
ăn năn trở về cùng Chúa để được hưởng nhờ ơn tha thứ, bởi vì tâm tình sám hối
ăn năn chính là một thứ tiền để mua lấy ơn tha thứ.
26. Niềm vui san sẻ –
Achille Degeest
(Trích dẫn từ ‘Lương Thực Ngày Chúa
Nhật’)
Suy niệm của chúng ta về dụ ngôn đồng
bạc đánh mất rồi tìm thấy, bắt đầu từ ý niệm việc tông đồ của người Kitô hữu phải
tỏa rộng niềm vui đã tìm thấy ơn cứu độ.
Người đàn bà nói trong dụ ngôn rất bực
vì đánh mất đồng bạc, món tiền nhỏ nhưng rất quý đối với mình. Moi móc các nơi
trong nhà, tìm được rồi, bà ấy vui mừng phân phô với hàng xóm. Chúng ta chuyển
dụ ngôn sang bình diện đời sống nhân loại. Kitô hữu là một người đau xót vì thiết
mất một vật gì, biết rõ nó là của mình trước đây, mình đã vô ý đánh mất; mơ hồ
cảm thấy tất cả con người mình khao khát tình thân thiết của Thiên Chúa, nhận
thức rằng tai họa do sự tội đã khiến mình đánh mất tình thân thiết quý báu ấy.
Nhưng không cam chịu mất mát, người ấy tìm tòi trong mình và quanh mình, tự hỏi
lòng mình, hỏi cả người xung quanh. Một ngày kia, gặp thấy ơn cứu độ trong Đức
Giêsu Kitô, lại tìm thấy ý nghĩa cuộc đời, người ấy vui mừng. Của bị mất nay lại
tìm thấy, nó quý vô cùng, đến nỗi không thể vui riêng một mình, người ấy phải
san sẻ với người xung quanh. Người ấy có giống người đàn bà mất tiền không? Có
gọi bạn bè hàng xóm đến chung vui không? Vấn đề ấy không đặt ra ở đây. Vấn đề
khác sâu sắc hơn là niềm vui phải làm rạng ngời vẻ mặt một kẻ được cứu vớt, vui
từ thâm tâm tỏa ra trên nét mặt, lúc nào cũng sẵn sàng chia sẻ niềm vui giữa
anh em mình. Hai câu hỏi đặt ra cho chúng ta:
1) Chúng ta có cảm biết sâu sắc
không, thế nào là đánh mất rồi tìm lại được?
Có thể rằng chúng ta tự tại trong niềm
tin, trong sự giữ đạo đầy đủ, cho nên không hiểu được thấm thía tai họa to lớn
xảy đến cho kẻ không có đời sống siêu nhiên. Người Kitô hữu rất có thể -nói
theo ngôn từ Phúc Âm- lâm vào tình huống mất tiền mà không biết; vì không biết
nên không tìm kiếm; không tìm kiếm nên không tìm được đồng bạc, không có được
niềm vui. Chúng ta thử nghĩ về bi kịch đời sống kẻ đã mất Thiên Chúa; chúng ta
hãy vui lên vì đã tìm lại được tình thân thiết của Thiên Chúa (hoặc nói đúng
hơn, vì tình thân thiết của Thiên Chúa đã tìm lại được chúng ta- đàng nào kết
quả cũng vậy).
2) Chúng ta có san sẻ niềm vui với
anh em không?
Ở đây đặt ra vấn đề hoạt động tông đồ
theo một đường lối nào đó. Một số đường lối truyền giáo (nhất là một số buổi họp
đoàn thể) ít lan tỏa niềm vui… Niềm phấn khởi, sức năng động của công việc truyền
giáo phải bắt nguồn từ niềm xác tín sâu sắc và kinh nghiệm sống rằng ‘chúng ta
đã tìm thấy’. Bình thường thì phát hiện ấy phải khiến chúng ta vui mừng, niềm
vui của chúng ta phải tỏa rộng. Chúng ta biết rằng niềm vui thu hút, niềm vui
đa dạng. Chúng ta cũng biết, nụ cười tươi của chiến sĩ truyền giáo thu được nhiều
thành quả hơn mọi kỹ thuật hành động.
27. Người cha sẽ làm bất cứ điều gì cho chúng ta
(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng’
- Charles E. Miller)
Khi những người cha người mẹ yêu con
cái của mình họ sẵn lòng làm bất cứ điều gì cho chúng. Tuy nhiên đã xảy ra là
những đứa con ít khi nhận biết tình yêu sâu nặng của cha mẹ dành cho chúng. Cả
hai người con trong dụ ngôn hôm nay của Chúa Giêsu đã không hiểu được tình yêu
của cha mình. Cũng không thể hiểu được sự dâng hiến của ông dành cho chúng, như
là những người con của ông không hề thay đổi, không hề có vấn đề gì. Người cha
không thể nào tưởng tượng có gì đổi khác trong mối liên hệ với những người con
của mình.
Đầu tiên, tôi nghĩ về người con thứ, người con mà
chúng ta hay nhắc tới là người con hoang đàng, người con phung phá hết tất cả
tài sản của mình. Khi anh nhận ra sự điên rồ của mình, anh đã sửa soạn một bài
diễn văn nhỏ để nói với cha của mình. Trong những lời anh đã soạn sẵn đó, anh
cũng nhận ra rằng anh không còn xứng đáng để được gọi là con, và anh mong cha
coi anh như một người làm công thôi. Khi anh trở về nhà và nói lên những lời đã
soạn sẵn của mình, nhưng người cha không hề để ý đến điều ấy. Người cha đã ôm
choàng lấy người con, hôn lấy hôn để và gọi gia nhân làm tiệc mừng. Ông ta nhấn
mạnh: “Hãy xỏ giày vào chân cậu”, một dấu hiệu anh trở về với gia đình như một
thành phần của gia đình chứ không phải là một tôi tớ, bởi vì chỉ những phần tử
của gia đình mới mang giày trong nhà. (Một bài hát thiêng liêng cổ đã hát: ‘Tất
cả những con cái của Thiên Chúa đều được mang giày’).
Người con lớn mà chúng ta cũng không hề có cảm tình. Anh ta không hề rời xa
nhà, anh vẫn tiếp tục chu toàn công việc bổn phận với người cha. Anh đã từ chối
vào dự tiệc mừng đứa em của mình và lý do anh đưa ra để biện minh cho sự từ chối
của mình tiết lộ rằng, anh ta đã quá thất bại trong mối tương quan của anh với
cha của mình. Anh ta minh chứng: “Bao nhiêu năm con đã làm việc hầu hạ cha như
nô lệ, mà cha không hề cho con một con dê nhỏ để con ăn mừng với chúng bạn”.
Người ch của anh đã trở thành một chủ nô, một người chủ keo kiệt bủn xỉn, đứa
con đã nghĩ rằng nó như nô lệ, vì anh ta chỉ trông đợi một phần thưởng, anh ta
đã không phục vụ người cha của mình với tình yêu. Nhưng người cha đã đáp lại:
“Con luôn luôn ở với cha, mọi sự của cha là của con”. Thật sự điều này đã biểu
lộ được cảm xúc của người cha, thật ra ông ta đã đáp lại sự giận dữ của con
trai bằng một sự dịu dàng. Ông ta không hề khuyên nhủ con mình, ông chỉ nhìn
con và nói hai từ: “Con ơi”.
Người Cha trong dụ ngôn là một người đáng để ý. Khi người con thứ quyết định
trở về nhà thì ông đã nồng nhiệt chạy ra tiếp đón nó: “Khi người con cả từ chối
vào dự tiệc, người cha cũng chạy ra nói anh ta và nài xin anh ta vào”.
Điểm đáng chú ý hơn, Thiên Chúa là
Cha của chúng ta. Để bắt đầu hiểu và nhận biết Thiên Chúa, chúng ta phải nhớ
chúng ta là ai. Chúng ta là con cái của Thiên Chúa, là những con trai, con gái
yêu dấu của Người. Thiên Chúa sẽ không bao giờ thay đổi tình yêu mà Người luôn
luôn qua tâm đến chúng ta ngay cả khi chúng ta từ bỏ Ngài. Không có vấn đề
chúng ta điên rồ thế nào trong cách sống, không có vấn đề chúng ta xa rời tình
yêu của Thiên Chúa thế nào. Thiên Chúa vươn đến chúng ta bằng ân sủng của Người.
Mỗi ngày Chúa Nhật, Thiên Chúa mời gọi
chúng ta đến nhà của Ngài, nhà thờ. Thiên Chúa luôn luôn là Cha của chúng ta.
Nhà của Người là ngôi nhà gia đình của chúng ta. Nơi đây Ngài mời gọi chúng ta
cử hành nghi thức gia đình, một bữa ăn thánh thiện mà tại đó Người Con thần
linh của Ngài nói với chúng ta bằng những lời trong Thánh Kinh, nuôi dưỡng
chúng ta bằng Thánh Thể. Chúng ta được kêu gọi tới bữa ăn này như là một bữa tiệc
vui mừng và một biến cố hạnh phúc của chúng ta, bởi vì chúng ta nhận biết rằng
chúng ta đã chết một lần trong tội lỗi, nhưng Chúa Giêsu bằng cái chết đã phục
hồi cho chúng ta sự sống. Chúng ta đã trở nên thành phần của gia đình Thiên
Chúa, những con cái yêu dấu của Người và Thiên Chúa sẽ không bao giờ thay đổi mối
quan hệ đó. Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta và Ngài đã trình bày rằng Ngài sẵn
sàng làm bất cứ điều gì cho chúng ta. Chúng ta có thể điên rồ hoặc là quên lãng
được Thiên Chúa là Cha chúng ta và chúng ta là con cái của Người sao?
28. Lạc mất - McCarthy
Không chỉ có chiên cừu và các đồng
tiền bị đánh mất. Con người cũng bị lạc mất. Theo tờ The Tablet (Tháng 12-1996)
có khoảng 250.000 người ở Anh Quốc bị mất tích mỗi năm. Đủ mọi loại tuổi và
thành phần, từ trẻ em cho đến người đứng tuổi, bởi mọi loại lý do và không lý
do nào giống lý do nào, và họ bỏ đi mất tích. Những người ở lại, gia đình của họ
bị nghi kỵ dày vò, tội lỗi dằn vặt và lo lắng, người ta vừa sống với niềm hy vọng
vừa tuyệt vọng, không thể chấp nhận điều đã xảy ra hoặc đau buồn vì họ đã chết.
Đường dây những người mất tích của quốc gia được thiết lập ở Anh quốc năm 1992
và mở ra 24 giờ mỗi ngày, 365 ngày mỗi năm. Đây là một trong những hoạt động từ
thiện phát triển nhanh nhất ở nước Anh.
Vấn đề còn to lớn hơn ở Mỹ. Người ta
ước chừng 50.000 trẻ em xuất tích mỗi năm, trong đó có 5000 em tìm thấy đã chết.
Tại sao những em ấy mất tích? Một số em cha hoặc mẹ đã ly dị bắt đem đi. Một số
em là bạn thân của các tội ác bạo hành. Một số bỏ trốn khỏi những gia đình
không hạnh phúc.
Kevin là một cậu bé mười tuổi hay cười.
Cậu sống với cha mẹ cậu và hai người chị ở San Francisco. Một ngày kia, cậu rời
khỏi trường sau giờ thực hành bóng rổ. Người ta không còn nhìn thấy cậu nữa.
Phần lớn các quốc gia không có con số
chính xác các trẻ em mất tích mỗi năm. Hầu hết các lực lượng cảnh sát không
hành động theo một báo cáo có một đứa trẻ mất tích ít nhất trong vòng 24 giờ. Ở
Mỹ, cảnh sát liên bang FBI nói rằng nếu họ phải đi tìm mỗi đứa trẻ mất tích, họ
sẽ không có thời gian để làm những việc khác. Nhiều quốc gia có những chương
trình hiện đại để lần theo dấu vết của các xe cộ bị mất cắp và thẻ tín dụng
nhưng không có chương trình nào cho các trẻ em bị mất tích.
Người ta có thể lạc loài bằng nhiều
cách. Có người đã nghiện rượu hoặc ma túy, có người không thể ổn định cuộc sống,
có người không thể giữ được việc làm hoặc hoàn tất chương trình học, có người
không thể duy trì một tương quan rất khó mà tìm thấy họ. Điều làm cho sự việc
thêm trầm trọng là thông thường họ không bỏ đi. Họ biến mất ở giữa chúng ta, họ
lạc loài ngay giữa gia đình mình.
Dĩ nhiên xem ra không ai có thể đến
gần họ. Trong những trường hợp như thế, nhiệm vụ của người mục tử không tìm kiếm
họ cho bằng giúp họ tìm thấy chính mình.
Và dĩ nhiên, người ta lạc loài về
tinh thần và tâm linh. Những người như thế giống như con thuyền không neo hoặc
một thủy thủ không có la bàn. Trong số họ, có những người lạc loài vì lỗi của họ.
Nhưng những người khác lạc loài vì họ không có người hướng dẫn, không có một ai
quan tâm tích cực đến những người sống lạc loài.
Đức Giêsu bày tỏ mối quan tâm của
Người đối với các “con chiên lạc” – những người thu thuế, những người tội lỗi
v.v…là những người đã bị các mục tử chính thức bỏ rơi. Những mục tử chính thức
phẫn nộ đối với việc mà một mục tử xứng đáng với danh xưng ấy phải làm.
Người mục tử không chờ cho con chiên
lạc quay về; người ấy đi tìm nó. Đức Giêsu cũng thế. Người là vị sứ giả mà Chúa
Cha sai đến với chúng ta. Người không chờ cho những người có tội đến tìm Người.
Người ra đi tìm họ. Và khi người tìm thấy họ, Người đưa họ trở về nhà Cha với
niềm hoan hỉ.
Hối cải là trở về với Thiên Chúa, và
trở về với Thiên Chúa là trở về nhà mình.
29. Tha thứ
Có một vấn đề ngày càng gia tăng
trong xã hội hiện nay, đó là con
người không thể và không muốn tha thứ cho nhau.
Một sự kiện cụ thể chứng minh cho sự
thật trên, đó là tình trạng ly dị mỗi lúc một gia tăng, nó làm cho nhiều cặp vợ
chồng phải đau khổ, nhiều gia đình bị đổ vỡ.
Qua sự điều tra về những người vợ
đòi ly dị, một tác giả đã rút ra hai kết luận như sau:
Trước hết, họ đã phải tiêu phí một
cách khủng khiếp năng lực và tiền bạc để trả thù người chồng cũ của họ. Tiếp đến
vì cứ nuôi mãi mối căm hận, nên nhiều người tự gây thương tổn cho mình hơn là
cho người chồng cũ mà họ thù ghét.
Để thấy rõ sự giận hờn và căm thù có
thể hủy diệt chúng ta như thế nào, hội y khoa nước Mỹ đã mở cuộc thăm dò hàng
ngàn bác sĩ với câu hỏi:
- Trong một tuần lễ, bạn điều trị được
bao nhiêu bệnh nhân?
Hầu như tất cả đều trả lời rằng họ
chỉ điều trị được khoảng 10% bệnh nhân. Còn 90% kia, mặc dù có đau đớn, nhưng nỗi
đau đớn của họ lại thuộc lãnh vực tâm lý, mà những thuốc men bình thường không
thể giải quyết được. Và nguyên nhân chính gây bệnh đó là nỗi căm giận, sự thù
ghét dồn nén, những bất mãn và phản kháng.
Kinh nghiệm cũng cho thấy: khi chúng
ta giữ mãi trong mình mối ác cảm, không chịu tha thứ và luôn tìm cách báo thù,
thì chúng ta gây thương tổn cho mình không kém gì gây thương tổn cho kẻ thù.
Nói một cách sống động hơn, mũi gươm
thù địch chúng ta dùng để gây thương tích cho đối phương sẽ đâm vào bản thân
chúng ta trước. Hay như một câu danh ngôn đã bảo:
- Ai cứ quyết tâm nuôi mộng báo thù
thì nên đào sẵn hai cái huyệt, một cái cho kẻ thù và một cái cho chính mình.
Tất cả những sự việc trên góp phần
làm sáng tỏ lời Chúa về lòng tha thứ qua đoạn Tin Mừng sáng hôm nay. Đây là sứ
điệp mà mỗi người chúng ta cần phải ghi nhớ và thực hành.
Hãy tự vấn lương tâm xem chúng ta
đang làm gì đối với sự thù hận, mối ác cảm chua chát đang làm cho đời sống
chúng ta mất đi sự bình an? Hãy xét lại mối liên hệ giữa chúng ta và những người
chung quanh để xem chúng ta đã thực sự sống lời Chúa truyền dạy về vấn đề này
hay chưa:
- Hãy yêu thương kẻ thù và làm ơn
cho kẻ ghét bỏ chúng ta. Hãy để của lễ đó, trở về làm hòa với người anh em mình
trước đã, rồi hãy đến mà dâng của lễ sau? Hãy tha thứ không phải bảy lần mà là
bảy mươi lần bảy lần. Chúng ta đã phản ứng như người cha nhân từ, giàu lòng
thương xót, hay như người anh cả vừa nhỏ nhoi lại vừa ích kỷ.
Để kết luận, chúng ta hãy mượn lời
kinh hòa bình của thánh Phanxicô mà dâng lên Chúa:
- Lạy Chúa từ nhân, xin cho con biết
mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi người, để con đem yêu thương vào nơi oán
thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an hòa vào nơi tranh chấp, đem chân lý
vào chốn lỗi lầm.
30. Tình thương vô biên
“Trên trời sẽ vui mừng vì một người
tội lỗi hối cải”
Xưa nay, trong xã hội, thường có hạng
người đa nghi, hay dòm ngó, xét nét người khác. Việc người thì sáng việc mình
thì quáng. Nhóm Biệt phái và luật sĩ Do-thái thuộc về hạng người ấy. Họ tìm
cách để bắt bẻ Chúa Giêsu trong lời nói, trong việc làm. Họ không thể vạch ra
những sơ hở của Chúa trong lời giảng dạy thì họ theo dõi mọi cử chỉ, mọi giao dịch
của Chúa. Chúa Giêsu lại không mấy quan tâm đến. Ngài đi nhiều lần với những
người thu thuế, vào trọ trong nhà họ, ngồi ăn với họ; Ngài để cho người đàn bà
được coi là tội lỗi đem thuốc thơm xức, xõa tóc lau, lại còn hôn cả lên bàn
chân. “Ông này, nếu quả thực là tiên tri, ắt đã biết người đàn bà sợ đụng đến
mình kia là ai, và thuộc hạng nào: một đứa tội lỗi!” (Lc 7, 39).
Ngài đi xuống hố thẳm tội lỗi để “cứu
những gì hư mất”.
Để minh giải trước bọn đối thủ, nhất
là để nói lên tình thương của Ngài đối với người tội lỗi, Chúa Giêsu đã để lại
3 dụ ngôn của Ngài thật cảm động. Hơn nữa, đây không phải chỉ là những dụ ngôn
mà là những lời cầu nguyện sống, rất thực tế, đánh động lòng chúng ta là kẻ tội
lỗi.
Đó là câu chuyện con chiên lạc, đồng
bạc đánh mất, và nhất là câu chuyện người con trai đi hoang hối cải trở về.
Trong cả ba câu chuyện, điểm nổi bật hơn cả, đáng chú ý hơn cả, đánh động tâm hồn
hơn cả, là sự vui mừng của Thiên Chúa khi gặp lại những người hư mất sau bao
công chờ đợi tìm kiếm.
Thiên Chúa, Đấng toàn thiện toàn
năng mà lại vui mừng. Thật là một mầu nhiệm: “Trên trời sẽ vui mừng vì một người
tội lỗi hối cải hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần hối cải”.
Nhà Tiên tri Mikha cũng đã nói đến: “Có Thiên Chúa nào như Ngài lại vui mừng
khi ban ơn tha thứ” (Mk 7,18).
Đây cũng là bài học cho chúng ta.
Bao nhiêu lần chúng ta tuyên bố tha cho kẻ xúc phạm, làm cực lòng ta, nhưng ta
vẫn giữ một thái độ lãnh lẽo, mặt nặng như chì với họ.
Ngày 5-7-1902, Maria Goretti bị
thanh niên Alexandro đâm 18 lát dao, vì muốn bảo toàn đức trong sạch. Trước khi
chết, vô vui vẻ tha thứ cho hung thủ và “muốn cho Alexandro được về Thiên Đàng
với cô”. Bức gương của vị nữ thánh phản ánh tình thương hay tha thứ của Chúa.
Dụ ngôn thứ ba về người con trai đi
hoang trở về lại càng tô điểm mối tình Chúa thương ta bằng những nét thật sâu đậm.
Đọc lại cuộc đón tiếp vồn vã của người cha già với những cái hôn nóng hổi, với
nhẫn xỏ tay, áo đẹp phủ người, tiệc tùng thịnh soạn, có người cho rằng làm gì
cóm một người cha tốt lành quá như vậy đối với người con thất hiếu bất trung?
Nhưng nên nhớ rằng đây chỉ là hình bóng phai mờ của người Cha trên trời đầy
tình thương xót hay tha thứ. Tình thương của chúa thật vô biên, “thương đến tận
cùng”.
Lạy Đấng chăn chiên, hãy để lại đó
99 con kia,
Và mau đi tìm con chiên duy nhất đã
thất lạc,
Hãy đi tìm con, vì con đang tìm
Chúa.
Hãy đón nhận con, vác con trên vai
Chúa…
Dưới đất Chúa ban vơn cứu độ, và
trên trời sẽ có niềm vui lớn.
(Thánh Ambrosiô thành Milan)
31. Mầu nhiệm Thánh thiện và
tội lỗi
(Suy niệm của Lm. Thiện Duy)
Đức nguyên Giáo hoàng Bênêđictô XVI
viết trong Tự Sắc Cửa Đức Tin số 13 như sau: “Một điều quan trọng trong Năm Đức
Tin này là điểm lại lịch sử đức tin của chúng ta, được ghi dấu bằng mầu nhiệm lạ
lùng về sự đan xen giữa thánh thiện và tội lỗi”.
Phụng vụ lời Chúa hôm nay là dịp để
mỗi người chúng ta điểm lại lịch sử lạ lùng về mầu nhiệm thánh thiện và tội lỗi
của nhân loại cũng như của từng người chúng ta.
I. PHỤNG VỤ LỜI CHÚA
1. Bài Đọc I: Xh 32, 7-11.13-14
Thiên Chúa đã yêu thương, chọn một
dân bơ vơ, vất vưởng, rày đây mai đó làm dân riêng của mình: “Ta sẽ nhận các
ngươi làm dân riêng của Ta, và đối với các ngươi, Ta sẽ là Thiên Chúa” (Xh 6,
7). Ngài đã sử dụng “cánh tay quyền lực của Ngài” để “quyến rũ” dân, không phải vì Ngài cần được người
ta tôn thờ, nhưng bởi vì: “Thiên Chúa nhớ lại giao ước của Ngài với các tổ phụ
Apraham, Isaac và Giacop” (Xh2, 24). Sau khi dùng Môsê đưa dân vượt qua biển Đỏ,
thoát khỏi ách nô lệ của người Ai Cập, Thiên Chúa đã gặp gỡ riêng tư với ông để
có những kế hoạch dành cho dân tộc Israel: “Người gọi ông Môsê lên đỉnh núi và
ông đi lên” (Xh20, 20b).
Thế nhưng sự việc xảy ra là: “Dân thấy
ông Môsê lâu quá không xuống núi, bèn tụ họp bên ông Aaron và nói với ông: “Xin
ông đứng lên, làm cho chúng tôi một vị thần để dẫn đầu chúng tôi, vì chúng tôi
không biết chuyện gì đã xảy ra cho cái ông Môsê này, là người đã đưa chúng tôi
lên từ đất Ai Cập” (Xh 32, 1).
Thiên Chúa nhìn thấy cảnh tượng đó
nên đã “méc” ông Môsê: “Hãy đi xuống, vì dân ngươi đã hư hỏng rồi. Chúng đã vội
đi ra ngoài con đường Ta truyền cho chúng đi. Chúng đã đúc một con bê rồi sụp
xuống lạy nó, tế nó và bảo: đây là thần của chúng ta” (x. Xh 32, 7-9). Chúng ta
phải đặt mình trong hoàn cảnh của Thiên Chúa, để thấy được sự nỗi giận của
Thiên Chúa là hoàn toàn đúng.
Một người mới cưới vợ, cô vợ này xấu
xí lắm, nhưng anh chồng vẫn thương lạ thương lùng. Một thời gian sau, anh chồng
có công việc phải đi vắng, cô vợ này ở nhà rước một người thanh niên khác về và
bảo: đây là chồng tôi. Cô vợ này ôm ấp, tình tứ với người thanh niên “mà cô gọi
là chồng” ngay trước mặt người chồng cũ của mình, thì thử hỏi người chồng đó có
chịu nỗi không? Trời đất ơi, chắc tức, giận, và có cả sự kinh tởm không thể tưởng
tượng được!
Thiên Chúa đã đòi tiêu diệt dân này,
và sẽ thay thế bằng nhà của ông Môsê. Nhưng chúng ta để ý thái độ của ông Môsê,
quả thật là một con người tuyệt vời. Nếu là chúng ta, hổng chừng chúng ta sẽ nói:
“Được đó, Chúa giết sạch hết đi, chừa lại nhà của con thôi, con sẽ làm cho Chúa
được vinh quang, rạng rỡ…”. Đằng này: “Ông lại cố làm cho nét mặt Đức Chúa dịu
lại”. Chắc có lẽ ông cũng dùng những lời nói chơi, những lời xoa dịu cho Chúa
mát bụng: “Thôi Chúa ơi, có gì đâu mà giận dữ vậy, Chúa phải vất vả lắm mới đưa
được dân này ra khỏi đất Ai Cập. Với lại tụi nó mới quá mà. Bây giờ giả dụ tụi
nó có làm gì sai, thì thây kệ tụi nó, Chúa chỉ cần nhớ đến mấy người lớn, ông
Apraham, Isaac, Giacop, bạn thân của Ngài không hà, nể họ mà tha cho dân lần
này đi nghe Chúa!”. Nhờ vậy mà: “Đức Chúa đã thương, không giáng phạt dân Người
như Người đã đe”.
Qua câu chuyện này, chúng ta thấy được
3 điều:
Thứ nhất, không phải dân chúng bỏ
Chúa, không tin Chúa nên sụp lạy con bò vàng, mà bởi vì họ muốn một vị Thiên
Chúa có hình ảnh cụ thể, một vị Thiên Chúa như họ muốn. Hay nói cách khác, họ
muốn một Thiên Chúa vừa với tầm nhìn của họ.
Thứ hai, hình ảnh ông Môsê, một khi
đã nhận nhiệm vụ lãnh đạo dân, ông coi dân như chính bản thân mình, gắn bó với
dân, không màng chi đến những lợi lộc cá nhân, coi tội lỗi của dân chính là tội
lỗi của mình.
Điểm thứ ba quan trọng hơn, đó là
tình yêu của Thiên Chúa dành cho những ai Ngài đã tuyển chọn. Sẽ có những lúc họ
làm cho Thiên Chúa nỗi giận, nhưng giận thì giận mà thương thì vẫn thương. Ngài
sửa dạy họ để mỗi ngày họ nên tốt hơn. Đó là mầu nhiệm tội lỗi và thánh thiện
nơi con người và từng người chúng ta.
2. Đáp ca: Tv.50
Đây là thánh vịnh nổi tiếng về lòng
ăn năn sám hối. Nó là tâm tình của vua Đavit sau khi được Thiên Chúa cho biết
những tội lỗi tày trời của ông. Ông đã phạm tội ngoại tình, hơn thế nữa, để ngoại
tình ông đã bày mưu giết người, mà người đó lại là một vị tướng giỏi của ông.
Ông không che giấu, không biện minh, mà chỉ biết nói: “Nguyện xót thương con
theo lòng nhân hậu của Chúa, nguyện xóa tội con theo lượng cả đức từ bi Người”.
Mầu nhiệm thánh thiện và tội lỗi được đan xen nơi con người vua Đavit.
3. Bài Đọc II: 1Tm 1, 12-17
Thánh Phaolô trong thư gửi cho ông
Timôthêô đã nói rất rõ ràng: “Đức Giêsu Kitô đã đến thê gian để cứu những người
tội lỗi”, ông cũng không ngần ngại xác nhận: “Mà kẻ đầu tiên là tôi’’ (1Tm1,
15). Ông không giấu diếm về quá khứ của mình: “Trước kia tôi là kẻ nói lộng
ngôn, bắt đạo và ngạo ngược” (1Tm1, 13). Tuy nhiên: “Đức Giêsu Kitô Chúa chúng
ta đã ban cho tôi đầy tràn ân sủng, cùng với đức tin và đức mến của một kẻ được
kết hợp với Người” (1Tm1, 14). Có ai ngờ một người bắt đạo lại trở thành một
người giảng đạo cách nhiệt thành. Đó là mầu nhiệm thánh thiện và tội lỗi nơi cuộc
đời Phaolô, vị tông đồ dân ngoại.
4. Tin mừng: Lc 15, 1-32
3 dụ ngôn trong đoạn Tin mừng hôm
nay làm nổi bật khuôn mặt thật của Thiên Chúa: Thiên Chúa chúng ta là Đấng giàu
lòng thương xót.
Chúng ta nhớ bối cảnh của bài Tin Mừng
hôm nay là Chúa Giêsu đang trên đường lên Giêrusalem, đổ máu mình ra để chuộc tội
cho muôn người. Tuy nhiên, những người biệt phái và Pharisêu thì lại bực bội,
khó chịu khi thấy Chúa Giêsu “đón tiếp phường tội lỗi”. Hơn thế nữa còn “đồng
bàn với quân thu thuế và phường tội lỗi”, nghĩa là tỏ ra mình thuộc về phe của
những người đó.
Để trả lời cho bức xúc của những người
được cho là đạo đức, thánh thiện, Chúa Giêsu đã kể một loạt 3 dụ ngôn về lòng
Thương Xót của Thiên Chúa.
Cả 3 dụ ngôn đều làm nổi bật sáng kiến
của Thiên Chúa. Chính Ngài đi bước trước để tìm kiếm những thứ đã hư mất, những
gì là lạc loài và những con người tội lỗi. Một mục tử băng rừng vượt suối để đi
tìm con chiên lạc. Một bà góa đốt đèn, quét nhà để tìm đồng tiền đánh mất. Một
người cha chiều chiều ra ngõ ngóng đứa con trở về, và khi thấy nó về thì chạy lại
ôm chầm lấy nó.
Tác giả Cousin đã nhận xét về 3 dụ
ngôn này như sau: “Tình yêu ấy của Thiên Chúa dành cho tất cả những ai chẳng được
yêu và cũng chẳng đáng yêu, gián tiếp lên án sự cứng cỏi và khắc nghiệt mà những
con người “đàng hoàng” hơn kia đã đối xử với họ”.
Lòng Thương Xót của Thiên Chúa làm
cho cuộc đời của chúng ta trở thành một mầu nhiệm. Mầu nhiệm không phải là sự
thánh thiện, càng không thể là tội lỗi; mà mầu nhiệm ở chỗ “đan xen giữa thánh
thiện và tội lỗi”.
II. MẦU NHIỆM ĐAN XEN GIỮA THÁNH THIỆN
VÀ TỘI LỖI
Đâu là sự đan xen giữa thánh thiện
và tội lỗi, khiến nó trở thành một mầu nhiệm? Thưa đó chính là lòng hoán cải
phát xuất từ một tình yêu chân thành.
1. Hoán cải là nhìn lại mình:
Nơi mỗi con người, ranh giới giữa sự
thánh thiện và tội lỗi chính là sự trở về. Chính con tim sẽ đẩy lùi tội lỗi và
hướng đến thánh thiện. Hay nói cách khác nhờ tình yêu mà chúng ta sẽ quyết tâm
từ bỏ những gì bất xứng để hướng đến những gì là xứng hợp. Các nhà tu đức nói:
“Không có thánh nhân nào mà không có quá khứ, cũng như không có tội nhân nào mà
không có tương lai”. Với thân phận mỏng dòn của một con người, chắc chắn chúng
ta sẽ bị ma quỷ cám dỗ để đi nghịch lại đường lối của Thiên Chúa. Nhưng cảm
nghiệm tình yêu của Thiên Chúa sẽ giúp chúng ta biết vươn lên, vượt thoát khỏi
những cạm bẫy của ma quỷ.
Tình trạng bi thảm của con người là
không nhận ra được lỗi lầm của mình. Vì vậy mà đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II
đã nói: “Tội lỗi lớn nhất của con người là cho rằng mình không có tội”. Luôn
luôn nghĩ rằng mình công chính, thánh thiện. Luôn luôn cho rằng mình không làm
gì sai.
Người ta kể quỷ đến trách Chúa: “Tại
sao con người làm biết bao nhiêu tội mà Chúa cũng tha thứ hết, còn tôi chỉ phạm
một tội thôi mà Chúa không tha?” Chúa hỏi nó: “Thế có bao giờ ngươi xin Ta tha
thứ cho ngươi chưa?” Nghe đến đó, quỷ ngoảnh mặt bỏ đi.
Ngạn ngữ Đức có câu: “Sa ngã vào tội
chính là con người, nhưng ở lại trong tội chính là quỷ sứ”.
Chúng ta hãy thường xuyên nhìn lại
những suy nghĩ, lời nói và việc làm của mình; nhìn lại những dự tính, những
chương trình của chúng ta; nhất là nhìn lại đời sống đức tin của mỗi cá nhân để
kịp thời chỉnh đốn những sai lỗi và sai xót.
2. Hoán cải là rộng lượng với người
khác.
Thiên Chúa biết được quá khứ tội lỗi
của chúng ta, nhưng Ngài cũng biết cả tương lai của chúng ta nữa. Như người cha
biết chắc sẽ có ngày con trai mình trở về nên chiều chiều ra ngõ ngóng trông.
Trong việc chờ mong của người cha đã có ý định tha thứ. Tuy nhiên người con cả
trong nhà lại không muốn cha mình tha thứ cho đứa em. Thái độ đó hoàn toàn đi
ngược lại với lòng nhân từ của Thiên Chúa.
Chúng ta muốn Thiên Chúa, muốn người
khác tha thứ cho mình, mà mình lại không muốn tha thứ cho người khác. Vì vậy
hoán cải là chúng ta biết rộng lượng tha thứ cho người khác. Khi chúng ta tha
thứ cho người khác là chúng ta đang mở đường để Thiên Chúa tha thứ cho mình:
“Xin Cha tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con”. Đừng bao
giờ đặt dấu chấm hết cho một người, dù cho người đó có cố chấp, có đang trong
tình trạng tội lỗi. Đó là con đường của Đức Giêsu Kitô. Ngài đồng bàn với tội
nhân, tự xem mình thuộc về phe của họ.
Nói tóm lại, phụng vụ lời Chúa hôm
nay cho chúng ta thấy được mầu nhiệm thánh thiện và tội lỗi luôn đan xen trong
cuộc đời chúng ta. Dù chúng ta có tội lỗi, và tội tày trời: “không đáng là con
cha nữa”, thì tình yêu của Thiên Chúa cũng tha thứ, mở ngõ, chờ đợi để được ôm ấp
chúng ta vào lòng, miễn là chúng ta biết hoán cải để quay trở về. Đồng thời
cũng phải biết rộng rãi tha thứ cho những lỗi lầm của người khác.
32. Một người cha có hai con
trai – André Sève
(Trích dẫn từ ‘Tin Mừng Chúa Nhật’)
Tin Mừng không phải là một đồng bằng,
nhưng có những đỉnh cao. Chúng ta đang đứng trước một trong những đỉnh cao nhất:
Luca 15,11-32. Người ta nói rằng đây là dụ ngôn đứa con hoang đàng, nhưng Chúa
Giêsu làm nổi bật ba nhân vật: một người cha và hai đứa con trai. Đối với người
con thứ, những cuộc phiêu lưu của cậu ta có hề chi, có biết bao cách để phung
phí món quà cuộc đời khi đi sống xa cha mình. Điều phải khám phá chính là Chúa
Cha, nhờ Chúa Giêsu. Tất cả các nhà chú giải và tất cả các nhà linh hướng đều
nói điều đó. Chúa Giêsu đã mặc khải Thiên Chúa chính trong trang Tin Mừng này.
“Khi cậu còn ở xa, cha cậu đã trông
thấy cậu”. Người cha đang chờ đợi. Ông
không tự hỏi người con thứ của mình nói gì hoặc làm gì, ông chỉ nghĩ: “Nếu con
ta xuất hiện nhỉ!”. Ngay khi ông thấy cậu, ông ôm cậu vào lòng, hết sức thương
hại và yêu mến. Ông chạy lại (không cần phải làm đến như thế đâu!), ông hôn cậu
tới tấp (nói cha tha thứ cho con không tốt hơn sao!), ông không lắng nghe những
lời xin lỗi, ông quá vội vàng khi làm bùng lên niềm vui và ngày lễ hội. Nhanh
lên, hãy đưa áo quần lại đây! Nhanh lên, hãy làm thịt bê béo! Con ta đã mất nay
lại tìm thấy.
Đây chính là mặc khải đáng ngạc
nhiên mà Chúa Giêsu muốn cho chúng ta biết: chúng ta được yêu thương biết bao!
Nhưng dại dột và thậm chí những tội ác của chúng ta là gì trước nhiệt tình này:
“Cậu ấy lại được tìm thấy”. Nếu chúng ta dám tin điều ấy thì quan hệ tình yêu
giữa chúng ta với Chúa Cha kỳ lạ biết mấy! Tại sao khó mà thấy được Thiên Chúa
yêu thương đến thế? Có phải vì sự khó khăn này mà Chúa Giêsu giới thiệu người
con cả với chúng ta nhiều lần đến thế? Ngài có thể đã nghĩ đến dụ ngôn này sau
khi nghe những lời đả kích của những người công chính trước thái độ của Ngài: “Người này tiếp đón những kẻ tội
lỗi, thậm chí ngồi cùng bàn ăn với họ!”. Đúng y như lời lẩm bẩm của người con cả!
Thay vì vui mừng, anh ta phản đối, anh ta bị ảnh hưởng xấu. Thật là đứa em làm
bực mình.
Than ôi, biết bao lần chúng ta cũng
bị dồn vào thế bí, cũng đóng kín đối với tình yêu. Chúng ta phán xét thay vì mở
rộng vòng tay. Nhưng tôi thấy rõ sự khó khăn: nếu chúng ta chấp nhận tất cả,
thì đạo đức dùng để làm gì? Và Thiên Chúa là ai nếu Ngài chấp nhận tất cả?
Chúng ta đã được đào tạo ghê sợ tội
lỗi, lên án sự vô trật tự, chúng ta không thể trở nên vừa lòng một cách đáng ngờ!
Chính Thiên Chúa là Đấng chúng ta bảo vệ bằng cách bảo vệ luật lệ của Ngài và bằng
cách tỏ ra cứng rắn!
Như thế thì làm thế nào mà mở rộng
vòng tay được? Làm thế nào bắt chước người cha trong dụ ngôn theo cách hoàn
toàn điên rồ của ông, đó là tiếp đón đứa con lưu manh trở về vì đói được?
Nhưng cậu ấy trở về! Hành động của
người cha trước tiên là tình yêu thương, chứ không phải trước tiên là những câu
hỏi về những thái độ công chính. Sau đó, chúng ta sẽ xem xét việc sống trong nề
nếp như thế nào. Điều cấp bách nhất chính là yêu thương.
Chúng ta, những người công chính, muốn
là những người công chính, chúng ta trước hết nghĩ đến việc xét đoán, lưu ý những
điều cần thiết, giới hạn điều xấu xa, xem điều gì có thể chấp nhận được. Khi tất
cả đều khá rõ ràng, được sửa chữa tốt, chúng ta mới có thể yêu thương.
Như thế là hỏng hết 90% rồi. Chúa
Giêsu đã nhận thấy điều đó trong khi quan sát những cố gắng thực sự của những
người công chính vào thời của Ngài, tức những người biệt phái và những luật sĩ:
khởi đi từ sự công chính, họ không đi đến được tình yêu. Họ cố gắng yêu thương,
nhưng họ vẫn ở trong những giới hạn chật hẹp và tất nhiên đặt Thiên Chúa trong
cũng những giới hạn đó: “Dầu sao thì Ngài cũng không thể yêu thương những kẻ tội
lỗi!”, họ nghĩ như thế. Chúng ta, bởi vì Chúa Giêsu đã nói điều ấy, nói chung
chúng ta chấp nhận rằng Thiên Chúa yêu thương những kẻ tội lỗi, điều này thậm
chí lại tốt cho chúng ta hoặc người này người nọ, nhưng không phải cho người
kia đâu!, xem nào! Người kia, “những người kia”, Thiên Chúa không thể yêu
thương họ được.
Có chứ! Chúa Giêsu nói với chúng ta
rằng không có ai bị loại bỏ, rằng Thiên Chúa đúng là người cha trong dụ ngôn của
Ngài. Và chúng ta là những người con của Ngài khi chúng ta trước hết là đặt
mình vào trong tình yêu thương.
Chúng ta không nên chấp nhận tất cả,
chúng ta phải chiến đấu chống lại tội lỗi và chiến đấu vì sự công chính. Nhưng
làm những điều đó trong tình yêu. Tất cả đều nằm ở đó. Chính trong khi yêu
thương chúng ta Thiên Chúa đưa chúng ta ra khỏi tội lỗi, chính Thiên Chúa chiến
đấu tội lỗi nơi chúng ta, không phải bằng cách đè bẹp hoặc loại bỏ chúng ta.
Xin Chúa giúp chúng ta quay lại để đạt
được suy tư Tin Mừng trong sáng duy nhất này: luôn
luôn đặt mình trong tình yêu. Khi
tôi tự phán xét tôi, hãy nghĩ rằng Chúa Cha yêu thương tôi. Khi tôi phải phán
xét những người khác, trước tiên hãy nghĩ đến việc yêu thương họ như Thiên Chúa
yêu thương họ. Đó là vị Thiên Chúa thật được Chúa Giêsu mặc khải.
Trong ánh sáng tình yêu này tất cả đều
có thể trở về lại sự sống: “Con trai tôi đã chết mà nay vẫn còn sống! Em con đã
chết mà nay vẫn còn sống!”.
33. Chứng từ của
lòng sám hối
Trong bộ sưu tập về các vị ẩn tu, ta
đọc được câu chuyện sau đây: Có hai tội nhân quyết tâm vào sa mạc để ăn chay đền
tội. Nhiều tháng trời ròng rã, mỗi người giam mình trong một túp lều, ngày đêm
đánh tội, ăn năn và cầu nguyện.Ngày ngày các tu sĩ của một cộng đoàn ẩn tu mang
thức ăn, nước uống đến tận căn lều của mỗi người. Sau đúng một năm thử thách,
các tu sĩ nhận thấy có sự khác biệt giữa hai người. Một người thì khỏe mạnh,
vui tươi, một người thì lại ốm o buồn phiền. Cả hai người đến trình diện trước
vị bề trên của cộng đoàn để chờ đợi sự phán quyết của ngài, theo đó họ có xứng
đáng gia nhập cộng đoàn hay không. Khi được hỏi trong suốt một năm qua họ đã
suy niệm về những gì. Con người ốm o buồn phiền lên tiếng đáp: Trong suốt một
năm qua, ngày ngày tôi nhớ lại những tội lỗi tôi đã phạm. Từng giây từng phút
tôi nghĩ đến hình phạt tôi sẽ gánh chịu, tôi sợ hãi đến mất ăn mất ngủ. Đến lượt
mình, con người vui tươi khỏe mạnh trình bày như sau: Suốt một năm qua, từng
giây từng phút tôi hằng nghĩ đến những ơn lành Thiên Chúa đã ban cho tôi, tôi
luôn luôn nghĩ đến tình thương của Thiên Chúa.
Các tu sĩ trong cộng đoàn rất cảm
kích về chứng từ của con người khỏe mạnh vui tươi. Vì lòng sám hối của anh đã
biến thành lời ca chúc tụng, tri ân đối với tình yêu của Thiên Chúa. Nhưng con
người ốm o sầu buồn kia cũng được đón nhận vào cộng đoàn.
Sám hối là khởi đầu của sự nên
thánh. Không phải tất cả các vị thánh đều bắt buộc phải là những tội nhân.
Nhưng tất cả đều bắt đầu có ý thức sâu sắc về tội lỗi và sự yếu hèn của mình.
Càng ý thức về thân phận tội lỗi yếu hèn của mình con người càng cảm nhận được
tình yêu của Thiên Chúa. Đó là thực trạng tâm hồn của tất cả các vị thánh trong
giáo hội. Lời đầu tiên Chúa Giêsu dùng để khai mạc sứ mệnh của Ngài chính là:
“Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”. Chúa Giêsu đã nối kết lòng sám hối với Tin Mừng.
Tin Mừng là gì nếu không phải là tình yêu của Thiên Chúa thể hiện qua con người
của Đức Giêsu Kitô? Sám hối không chỉ là ý thức và hồi tưởng về tội lỗi của
mình. Sám hối đích thực không dừng lại ở đau xót, buồn phiền, sợ hãi, mà phải là
ngõ dẫn đến Tin Mừng, nghĩa là hoan lạc, vui mừng.
Thiên Chúa mà Chúa Giêsu đã mạc khải
qua cuộc sống và nhất là cái chết của Ngài là một người cha yêu thương và tha
thứ, một người cha muốn được con cái yêu mến hơn là sợ hãi. Do đó, đạo mà Chúa
Giêsu đã thiết lập không phải là đạo của buồn phiền, của khổ đau mà là đạo của
Tin Mừng, của Tình Yêu, của hân hoan, của hy vọng. Đành rằng thập giá là biểu
tượng của Kitô giáo. Nhưng người Kitô hữu không dừng lại ở chết chóc, buồn phiền,
khổ đau. Họ luôn được mời gọi nhìn ra ánh sáng, hy vọng, tin yêu, sự sống bên
kia thập giá.
34. Nhân lành
Một văn sĩ nọ đã kể lại câu chuyện
ngắn về cậu bé David trong câu chuyện có tựa đề là: “Người Con Của Ai Đó” như
sau:
David đã bỏ nhà ra đi, nó viết thư về
cho mẹ như sau: Thưa Mẹ, vài ngày nữa con sẽ đi ngang qua nhà, con sợ cha lắm,
nếu cha tha thứ cho con thì mẹ hãy xin cha cột một dây vải trắng nơi cây xoài
trước nhà, nhìn thấy dấu hiệu này con biết là cha đã tha thứ và con sẽ về lại.
Vài ngày sau, David lấy vé xe lửa về
quê. Đường xe lửa đi ngang qua trước nhà, cậu nghĩ, nếu cậu thấy được sợi dây vải
trắng cột trên cây xoài thì cậu sẽ xuống trạm xe kế bên và đi về nhà, nếu không
thì sẽ đi luôn sang nơi khác.
Cậu David rất hồi hộp khi xe gần đến
nhà, sợ mình có thể nhìn lầm hay không kịp nhìn, cậu nhờ một người bên cạnh
cùng nhìn phụ. Xe chạy ngay qua địa điểm, không những là cậu mà cả người bạn
cũng nhìn thấy, người bạn hỏi cậu:
- Tại sao cây xoài nhà đó lại đầy những
tấm vải trắng treo trên khắp các cành cây như vậy?
David mỉm cười không trả lời, cậu chỉ
giữ lấy ý nghĩa của dấu hiệu đó cho riêng mình mà thôi và hân hoan xuống trạm
xe kế tiếp.
Câu chuyện vui trên giúp chúng ta hiểu
thêm sứ điệp Phúc âm mà Chúa gởi đến chúng ta hôm nay. Như cậu David, chúng ta
mang nặng ý thức về những lỗi lầm của mình và nghi ngờ tình thương tha thứ của
Thiên Chúa. David cần được củng cố vì tình thương của cha sẵn sàng tha thứ.
Chúng ta cũng vậy, Thiên Chúa đã thực hiện nhiều dấu chỉ trong cuộc đời để chỉ
cho chúng ta thấy tình thương của Ngài, và dấu chỉ quan trọng nhất hằng ngày
chúng ta thấy, đó là thập giá Chúa Giêsu Kitô, dấu chỉ đó cho chúng ta thấy
tình thương tha thứ của Thiên Chúa đối với mỗi người chúng ta.
Bài Phúc âm hôm nay ghi lại ba dụ
ngôn về lòng thương xót của Thiên Chúa: dụ ngôn con chiên bị mất; dụ ngôn đồng
bạc bị đánh mất, nhất là dụ ngôn người cha nhân hậu.
Qua bài Phúc âm, Giáo Hội nhắc lại
cho chúng ta dụ ngôn về tình thương của Thiên Chúa Cha đối với con người tội lỗi.
Thái độ của người chăn chiên đi tìm con chiên lạc, của người đàn bà bị mất một
đồng tiền và của người cha có đứa con bỏ nhà đi hoang, thái độ yêu thương tha
thứ đó vượt quá mức độ bình thường con người có thể tưởng tượng được và phản
chiếu thái độ của Thiên Chúa đối với con người.
Theo lệ thường, nếu chúng ta có một
trăm con chiên mà lỡ bị mất một con, chúng ta có nhất quyết đi tìm con chiên lạc
cho đến khi gặp được mới thôi hay không? Chắc chắn là không, vì số chín mươi
chín con còn lại không đáng giá hơn một con bị lạc mất hay sao? Quan niệm của
con người chúng ta thường hay căn cứ vào số lượng, và có thể chúng ta cho rằng
hành động của người chăn chiên là một hành động khác thường, nếu không muốn nói
là điên khùng theo mức độ con người. Nhưng đối với Thiên Chúa thì không điên
khùng, vì Ngài không đặt tương quan của Ngài trên căn bản con số, chất lượng
nhiều hay ít, nhiều người hay ít người, nhưng trên căn bản tương quan giữa Ngài
với từng cá nhân. Mỗi con chiên, mỗi người đều có giá trị duy nhất đối với
Ngài, và do đó nếu bị lạc mất thì nhất quyết phải tìm cho được mới thôi. Rồi
hành động của người đàn bà cũng thế, theo thường tình thì mất một đồng cũng
không sao, vì còn cả chín đồng kia mà. Nhưng để diễn tả mức độ của Thiên Chúa
thì một đồng bị mất kia là hết sức quan trọng, phải tìm cho được mới thôi.
Người cha của đứa con đi hoang, theo
thường tình thì bỏ mặc kệ nó, nhưng để diễn tả thái độ của Thiên Chúa đối với
con người thì người cha kia hằng ngày đứng trông con mình trở về, và đã nhìn thấy
con mình trở về trước khi nó nhìn thấy ông. Người cha tha thứ cho đứa con ngay
cả trước khi nó mở miệng xin tha, rồi làm tiệc ăn mừng.
Thiên Chúa muốn cứu rỗi mọi người và
mỗi người, Ngài muốn tận dụng mọi phương thế có thể để ban ơn cứu rỗi cho con
người. Vì Ngài yêu thương con người, yêu thương từng người một cách vô cùng,
nhưng con người có chấp nhận ân sủng và tình thương của Ngài hay không?
Trong bài dụ ngôn về người cha của đứa
con hoang đàng, chúng ta còn quan sát thái độ giữa hai anh em ganh tị với nhau.
Người anh cả ở nhà với cha, thay vì thông cảm và mừng với em mình trở về thì
anh lại tỏ ra ganh tị.
Mặt khác, như trong Cựu ước, chúng
ta thấy Môisen cầu nguyện cùng Chúa, xin Ngài tha thứ cho dân đã phạm tội đến
Ngài, Môisen đã không xin Chúa hủy diệt dân mình, nhưng hãy tha thứ cho dân
mình. Cũng thế, chúng ta đừng bắt chước thái độ của người anh cả trong dụ ngôn,
đừng ganh tị với anh chị em được ơn Chúa tha thứ cho, nhưng hãy bắt chước thái
độ của Môisen cầu nguyện cùng Chúa, xin Ngài tha thứ tội lỗi cho anh chị em và
cho cả chính mình nữa.
Trước nhan Thiên Chúa, tất cả mọi
người chúng ta đều là những kẻ tội lỗi, đều cần đến lời cầu nguyện của nhau để
trở lại cùng Chúa và trung thành với đức tin. Nguyện xin Chúa thương tha thứ
các tội lỗi và nâng đỡ thành tâm thiện chí mỗi người chúng ta, giúp mỗi người
chúng ta biết trở về cùng Chúa, sống xứng đáng là con cái Cha trên trời.
35. Thương người
Đề cập đến Tin Mừng nghiêm chỉnh một
chút, chúng ta sẽ nhận thấy rõ điều này: những kẻ cầm quyền đương thời trong đạo
Do thái, những người Pharisêu, những người tự cho mình là công chính… đã khinh
thường và tẩy chay Chúa Giêsu. Trái lại, những người tội lỗi, những kẻ thu thuế… đã trân trọng và nhận biết Ngài. Thử hỏi:
Nếu Chúa Giêsu trở lại giữa chúng ta hôm nay, chúng ta sẽ thuộc hạng người nào?
Thuộc hạng người “công chính” không cần đến Ngài hay thuộc hạng người tội lỗi,
đối tượng Ngài quan tâm khi đến thế gian? Bài Tin Mừng nêu lên vấn đề ấy. Chúng
ta thấy Chúa Giêsu yêu thích “những gì đã lạc mất” một cách hết sức ngỡ ngàng.
Ngài đến “tìm kiếm và cứu vớt những gì đã lạc mất”. Những lời nói này giúp
chúng ta đi sâu vào tâm khảm của Chúa. Những lời nói đó đã làm rung lên một
cung nhịp chính yếu của Kitô giáo: cung nhịp của tình thương.
Bài Tin Mừng thánh Luca kể lại một
loạt ba dụ ngôn cùng diễn tả về một chủ đề duy nhất. Dụ ngôn thứ nhất nói về sự
lo âu tìm kiếm và mừng rỡ của người chăn chiên khi tìm lại được con chiên lạc
trong số 100 con chiên. Dụ ngôn thứ hai tương tự như vậy, nói về sự cố công tìm
kiếm và vui mừng của người đàn bà khi tìm lại được đồng bạc rơi trong số 10 đồng.
Dụ ngôn thứ ba nói về tình phụ tử hay thường gọi là dụ ngôn đứa con hoang đàng.
Cả ba dụ ngôn đều nói lên tình thương tha thứ của Thiên Chúa. Cả ba đều cho biết
Thiên Chúa vui mừng biết bao khi một tội nhân ăn năn hối cải. Dụ ngôn con chiên
lạc cho thấy: khi người chăn chiên tìm thấy con chiên lạc, đã vác nó lên vai,
vui sướng trở về nhà, kêu gọi láng giềng lại và nói với họ: “Các bạn hãy vui mừng
với tôi vì tôi đã tìm được một con chiên đã lạc mất”. Rồi Chúa kết luận: “Tôi bảo
thật các ông: trên trời sẽ vui mừng vì người tội lỗi hối cải hơn 99 người công
chính không cần hối cải”. Cùng một cung giọng, trong dụ ngôn đồng tiền mất,
chúng ta thấy những câu kết còn rõ ràng và vui vẻ tưng bừng hơn: “Tôi nói thật
với các ông: các thiên thần của Chúa sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn thống
hối”. Rồi trong dụ ngôn đứa con hoang đàng, cung giọng càng cảm kích hơn nữa về
tình phụ tử của Chúa đối với người tội lỗi thống hối ăn năn trở về với Chúa:
khi đứa con còn ở xa, người cha đã nhận ra nó, và ông thổn thức trong lòng, chạy
lại ôm cổ con mà hôn.
Qua ba dụ ngôn này, Chúa Giêsu muốn
dạy chúng ta hai điều: Thứ nhất, sứ mạng tình thương của Ngài. Thứ hai, bổn phận
và thái độ của chúng ta. Trước hết, chúng ta đều biết: Sứ mạng của Chúa Giêsu đến
trần gian để cứu vớt những kẻ tội lỗi. Ngài đến để kêu gọi những người tội lỗi
thống hối ăn năn, và để tìm kiếm, cứu vớt những gì đã lạc mất. Thánh Phaolô
trong thư thứ nhất gửi cho Timôthêô cũng khẳng định: “Chúa Kitô đến thế gian để
cứu vớt những kẻ tội lỗi”. Đó là động lực cần có để kéo Ngài xuống thế gian. Về
điểm này, giáo huấn của mạc khải thật đồng nhất. Không có một đoạn văn nào,
không có một chỗ nào quả quyết rằng: không có kẻ tội lỗi, Ngài cũng vẫn xuống
thế gian.
Quả thực, Chúa Giêsu đã đến vì tội
nhân. Đó chính là ánh sáng trong đó mạc khải bày tỏ Chúa Giêsu cho chúng ta và
chúng ta phải luôn luôn ngắm nhìn Ngài trong ánh sáng này. Nói khác đi, vì yêu
thương loài người tội lỗi mà Chúa Giêsu đã bỏ trời xuống thế gian. Chính tên
“Giêsu” của Ngài, nghĩa là “Cứu Thế” cũng đã gắn liền với kẻ có tội. Cứu ai?
Người lành đâu cần cứu, mà cứu là phải cứu người có tội. Do đó, đối với chúng
ta, tình thương đã hiển hiện như một nét nổi bật của Chúa. Tình thương của Chúa
không phải là một tình cảm mờ nhạt, mong manh mà là cả một tâm hồn say mê nóng
bỏng. Lòng say mê đó là tình yêu đã đến cảm mến cảnh cùng khổ của chúng ta và để
nâng cảnh cùng khổ đó lên. Tình thương của một Thiên Chúa làm người khôn lường
và da diết. Tình thương đó không phải là một đức tính phụ thuộc nơi bản thân
Người, nhưng là một nét chính yếu, đặc biệt: chính vì đó mà Ngài đã đến. Tội lỗi
của chúng ta nếu được đưa vào ngọn lửa nóng bỏng yêu thương này sẽ bị thiêu hủy
ngay.
Vậy nếu chúng ta có xa cách Ngài thì
không phải vì chúng ta khốn cùng mà chính vì chúng ta đã không dâng lên cho
Ngài sự khốn cùng đó. Chúng ta đã chẳng dâng lên cho Ngài sự khốn cùng hoặc vì
chúng ta còn quá ham cái cái cảnh cùng khốn, hoặc vì chúng ta nghĩ rằng tình
thương xót của Ngài quá nhỏ bé so với tội lỗi tầy trời của chúng ta. Nhưng nếu
chúng ta thực sự dâng lên cho Ngài sự khốn cùng đó, thì Ngài đã vồ lấy con người
tội lỗi chúng ta mau lẹ hơn cả chim phượng hoàng vồ lấy con mồi. Khi ấy, dầu tội
lỗi của chúng ta có thắm đỏ bao nhiêu, Ngài cũng sẽ biến nó trắng tinh như tuyết.
Chúng ta nghĩ sao đây? Chúng ta sẽ
được liệt vào hạng người Pharisêu, kinh sư hay vào hạng những người tội lỗi, những
người thu thuế? Chúng ta tự nhận mình là người công chính hay người tội lỗi? Chắc
chắn không ai dám cho mình là trong sạch, vô tội trước mặt Chúa, bởi vì từ ngày
có trí khôn cho đến nay, biết bao nhiêu lần chúng ta đã không giữ trọn 10 điều
răn của Chúa. Bao nhiêu lần chúng ta đã chịu thua cám dỗ và sa ngã. Bao nhiêu lần
lời ăn tiếng nói của chúng ta là những lời hành tỏi, xét đoán, gièm pha, kết án
hay là những lời hư từ vô ích. Bao nhiêu lần chúng ta đã ghen ghét, oán thù,
tranh chấp… Có lẽ chúng ta không chịu bới đống rác tội lỗi của chúng ta ra
thôi, chứ thiếu gì những lý do để chúng ta phải ăn năn thống hối. Chúng ta phải
thành thật nhận mình là tội nhân đáng hình phạt như người trộm lành; chúng ta
là đứa con hoang đàng trở về, là Mađalêna thống hối, là Phaolô bị quật ngã, là
Âu Tinh cần đổi mới. Kinh Kính mừng, Thương xót, An năn tội, Chiên Thiên Chúa…
dạy cho chúng ta biết chúng ta chỉ là tội nhân, là kẻ bại trận, chỉ trông hòng
vào lòng Chúa thương xót mà thôi.
Mong sao tự thâm tâm chúng ta luôn vọng
lên lời tự thú của người thu thuế lên đền thờ cầu nguyện: “Lạy Chúa, con là kẻ
tội lỗi”. Và rồi chúng ta cũng hãy trào ra những giọt lệ sung sướng như Tin Mừng
đã kể. Không cần phải có những giọt lệ trào ra từ khóe mắt, nhưng là những dòng
lệ âm thầm chảy tự trong lòng. Những bước chân trở về và hoán cải thường gọi là
niềm ân hận, âm thầm đau đớn về những lầm lỡ đã qua, đó là con tim tan vỡ, hay
nói giản dị hơn, là lòng ăn năn hối cải. Tấm lòng ăn năn đó đôi khi được bộc lộ
bằng những dòng lệ chảy ra từ khóe mắt, đó là những dòng lệ thấy được từ bên
ngoài, nhưng quí hóa hơn, âm thầm sâu kín hơn vẫn là những dòng lệ đau đớn của
con tim. Ước mong đó là những dòng lệ của chúng ta. Lạy Chúa, xin đừng chê bỏ
con, xin nhận lấy tấm lòng con: tấm lòng tan nát khiêm cung.
36. Nhân hậu
Có một bài hát chúng ta hay hát
trong lễ cầu hồn mà tôi rất thích: “Chúa
là Đấng Từ Bi và Nhân Hậu, Người đại lượng và chan chứa tình thương”. Vâng, tình thương nhân hậu ấy của
Thiên Chúa từ ngàn xưa đến nay vẫn luôn tuôn đổ trên muôn loài Chúa tác thành:
trên muôn vật, muôn dân, muôn người, và đặc biệt trong Phúc âm hôm nay, tình
thương ấy còn được tuôn đổ trên tội nhân khiến “Người không xử với họ như họ
đáng tội, và không trả cho họ theo lỗi của họ”.
Vâng, trong Phụng Vụ Lời Chúa hôm
nay, chúng ta sẽ được chiêm ngưỡng cách rõ nét và cụ thể lòng nhân hậu ấy của
Thiên Chúa, để rồi từ đó ta được mời gọi sống noi gương Ngài, cư xử nhân ái với
anh chị em xung quanh.
Trước hết, điều đáng chú ý trong các
bài đọc Lời Chúa hôm nay là: có một sự tiến triển trong việc mạc khải khuôn mặt
nhân hậu của Thiên Chúa. Nói cách khác, từ bài đọc I đến bài Phúc âm, lòng nhân
hậu của Thiên Chúa được khắc họa ngày càng rõ nét hơn.
Thật vậy, nếu như ở bài đọc I, tác
giả sách Xuất Hành diễn tả cơn thịnh nộ của Thiên Chúa trước tội “thờ bò vàng”
của dân Israel, và phải nhờ lời cầu khẩn của Môsê, cơn thịnh nộ ấy mới nguôi dần,
cho thấy khuôn mặt nhân hậu của Thiên Chúa mới chỉ được phác họa cách mờ nhạt,
thì đến bài đọc II, thánh Phaolô đã diễn tả khuôn mặt ấy ở một chiều kích khác,
cụ thể hơn, gần gũi hơn: Chúa nhân hậu không chỉ cách chung chung với một dân,
một nhóm người, mà Ngài còn nhân hậu với từng người một, như kinh nghiệm chính
thánh Phaolô đã thuật lại khi xác tín: “Đức Giêsu đã đến trần gian để cứu chuộc
những người tội lỗi, mà kẻ đầu tiên là tôi”. Với câu nói này, khuôn mặt nhân hậu
của Thiên Chúa đã được cụ thể hóa nơi Đức Giêsu, Đấng được Chúa Cha sai đến để
cứu độ con người.
Tuy nhiên, hình ảnh Thiên Chúa nhân
hậu chỉ thực sự được xuất hiện cách rõ nét trong bài Phúc âm qua chính hình ảnh
của Chúa Giêsu và ba dụ ngôn nổi tiếng về lòng nhân hậu của Thiên Chúa mà chỉ
Phúc âm thánh Luca, một Phúc âm được mệnh danh là “Phúc âm của lòng nhân hậu
Chúa” mới ghi lại, đó là các dụ ngôn: “Con chiên lạc”, “đồng bạc mất” và “người
cha nhân hậu”.
Đi vào bối cảnh của ba dụ ngôn ta sẽ
thấy được chủ ý của Chúa Giêsu khi đưa ra ba dụ ngôn này. Người Biệt phái thấy
Đức Giêsu đón tiếp người tội lỗi thì khó chịu và phiền trách Chúa: “Ông này đón
tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng”. Trước thái độ ấy, Chúa Giêsu đã cho
họ một bài học. Với giáo huấn của Chúa Giêsu, Thiên Chúa không còn là một Thiên
Chúa xa xôi, hay giận dữ như trong Cựu ước quan niệm nữa, nhưng là một Thiên
Chúa rất gần gũi và giàu lòng nhân hậu đối với những kẻ lỗi lầm.
Lòng nhân hậu ấy của Thiên Chúa được
diễn tả qua hai hành động cụ thể: Đi bước trước đến với tội nhân và hoàn toàn
tha thứ mọi lỗi lầm cho tội nhân.
Đi bước trước đến với người tội lỗi:
các dụ ngôn hôm nay đều diễn tả điều này. Hình ảnh người chăn chiên không chờ
phải nghe tiếng con chiên lạc kêu cứu mới đi tìm, mà ngay khi phát hiện nó đi lạc,
ông đã vội vã đi tìm ngay; hay người cha nhân hậu chạy ào ra đón con khi thấy
nó từ đàng xa, mà không chờ một lời xin lỗi đã nói lên điều đó. Cũng thế, Thiên
Chúa luôn yêu thương và đi bước trước đến với con người. Ngay khi ta còn là tội
nhân, Thiên Chúa đã sai Con Một đến cứu độ chúng ta. Chính Chúa Giêsu, trong cuộc
đời tại thế cũng vậy, Ngài từng đi bước trước đến với người tội lỗi để cứu chữa
họ, nâng họ dậy. Những cuộc gặp gỡ giữa Ngài và Mađalêna, người phụ nữ bên giếng
Giacop, Giakêu… đã cho thấy điều này. Cảm nghiệm được tình thương ấy của Thiên
Chúa, thánh Gioan đã thốt lên: “Chúa thương ta ngay từ khi ta còn là kẻ có tội”.
Hoàn toàn tha thứ mọi lỗi lầm cho tội
nhân: dấu chỉ của sự tha thứ ấy là: phục hồi nguyên trạng cho họ. Hình ảnh người
cha sai gia nhân mang áo, nhẫn, giày mới… cho người con trở về đã nói lên điều
đó. Anh ta đã được tha thứ mọi lỗi lầm và được lại địa vị làm con trong gia
đình. Chúa Giêsu cũng từng phục hồi phẩm giá cho tội nhân khi tha thứ mọi lỗi lầm
cho họ: cho Phêrô, cho người phụ nữ ngoại tình, người trộm lành… và nhất là cái
chết của Ngài đã phục hồi địa vị làm con cho toàn nhân loại tội lỗi.
Chúng ta cũng cảm nhận được điều này
khi lãnh nhận Bí tích Giải tội: được lại những công phúc ta lập đã bị mất đi do
tội lỗi gây nên, và nhất là được lại địa vị làm con Thiên Chúa.
Tóm lại, qua giáo huấn và chính cuộc
đời Chúa Giêsu, ta nhận ra một Thiên Chúa nhân hậu với những hành động thật cụ
thể. Tuy nhiên, không dừng ở lại đó, Ngài còn mời gọi ta hãy noi gương Ngài, cư
xử nhân hậu với tha nhân.
Với lời mời gọi: “Hãy chung vui với
tôi” và “chúng ta phải vui mừng vì em con đã chết nay sống lại, đã mất nay lại
tìm thấy”. Chúa đang mời gọi chúng ta hãy noi gương Ngài cư xử nhân hậu với tha
nhân, những anh chị em của mình, đặc biệt là những người bị coi là tội lỗi.
Tuy nhiên, với bản tính con người ta
thấy, thực hiện điều này không phải là dễ: làm sao tôi có thể đi bước trước để
đến với kẻ xúc phạm tôi? Làm sao tôi có thể tha thứ cho kẻ đã cướp bóc, chà đạp
nhân phẩm tôi …? Vậy thì công bằng ở đâu? Vâng, đó cũng là suy nghĩ của người
Biệt phái và người anh cả hôm nay, thế nên họ không thể tha thứ lỗi lầm cho người
khác. Với lẽ tự nhiên của con người thì không thể được, nhưng thử nhìn lại cuộc
đời mình xem: biết bao lần nếu Chúa cư xử công bằng với ta như ta đáng tội, thì
liệu ta có còn tồn tại như ngày hôm nay không? Thế nên, trong cuộc sống không
chỉ có công bằng mà còn có bác ái, có lòng nhân hậu nữa, nhất là đối với những
người con cái Chúa. Như vậy, lời mời gọi sống nhân hậu của Chúa hôm nay vẫn là
lời mời gọi chúng ta. Dù biết rằng khó, ta vẫn phải cố gắng thực hiện, lý do
vì:
Mỗi người đều là tội nhân, đều từng
được Chúa cư xử nhân hậu, nên phải nhân hậu với nhau. Đừng để lời quở trách
trên con nợ bất lương xưa kia giờ lại xuống trên ta: “Sao ngươi không cư xử với
anh em ngươi như Ta đã cư xử với ngươi!”. Hơn nữa, “Con nhà tông không giống
lông cũng giống cánh”, nếu Chúa là Đấng Nhân hậu thì tại sao là con, ta không sống
nhân hậu như Thiên Chúa là Cha của mình?
Tóm lại, lời Chúa hôm nay trình bày
cho ta hình ảnh một Thiên Chúa từ bi nhân hậu, qua đó mời gọi chúng ta noi
gương Ngài trong cư xử với tha nhân. Để kết luận, xin đưa một vài thực hành cụ
thể qua Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay như sau:
* Đối
với Chúa: Ta hãy luôn sống trong tâm tình cảm tạ, vì Chúa đã đối xử
nhân hậu với ta, bằng cách tránh xa tội lỗi; đồng thời, mỗi khi lỡ phạm tội,
hãy tin tưởng vào lòng Chúa xót thương mà chạy đến với Ngài trong Bí tích Giải
tội.
* Đối
với tha nhân: Ta hãy noi gương Chúa, luôn thông cảm với những lỗi lầm của
anh em, và tha thứ khi anh em xúc phạm đến mình, không mang tật xấu của họ ra
bàn tán…
Nguyện xin Thiên Chúa ban ơn giúp sức
để chúng ta biết sống noi gương Ngài, Đấng Từ Bi Nhân hậu, hầu xứng danh là con
của Cha trên trời.
37. Tiếng khóc
Ở Trung Hoa người ta thường truyền
miệng nhau câu chuyện về Tống Thế Tổ nói với thần tử là Lưu Đức Nguyên rằng:
"Nếu ông vì qúy phi của ta đã chết mà khóc ai oán thì ta sẽ thưởng cho rất
nhiều của cải".
Lưu Đức Nguyên lập tức đấm ngực, dậm
chân khóc khan cả cổ họng, nước mắt nước mũi chảy xuống ào ào, hoàng đế rất hài
lòng liền ban cho làm thích sứ Dự Châu.
Tôn Thế Tổ lại kêu đại phu Dương
Chí, ông này cũng khóc rất là thảm thiết, không bao lâu sau có người hỏi Dương
Chí: "Ngài làm thế nào mà giống như thật vậy?"
Dương Chí nói: "Vì lúc ấy bà vợ
bé của tôi cũng mới chết".
Qua câu chuyện kể trên, ta thấy lưu
Đức Nguyên và Dương Chí đều khóc lóc thảm thiết, có thể qua mặt được Tống Thế Tổ,
nhưng trong lòng hai người với hai kiểu khóc khác nhau, một người khóc vì,lợi
danh còn một người khóc vì thương tiếc người vợ bé của mình. Đó cũng chính là
hai kiểu khóc mà chúng ta rất dễ thấy trong cuộc sống. Đặc biệt trong bài dụ
ngôn người cha nhân hậu hôm nay, chúng ta dễ dàng nhận ra các kiểu khóc qua 3
nhân vật:
1. Kiểu khóc thống hối.
Việc người con thứ xin chia gia tài
trong lúc người cha còn sống là một thái độ bất trung, bất hiếu, vì khi còn sống
người cha không buộc chia gia tài cho con. Có thể nói người con thứ này thật
đáng trách, cái đáng trách không phải ở vật chất, của cải mà là vì muốn thõa
mãn ý riêng bất chấp tất cả dù điều đó làm phiền lòng cha "xin cha cho con
phần gia tài thuộc về con". Mọi hành động của người con thứ chỉ có thể diễn
ta bằng hai chữ "tội lỗi". Nhưng tất cả những lỗi lầm đó đã được xóa
bỏ cũng bằng hai chữ "sám hối". Qua việc anh ta muốn "thưa cha
con đã phạm đến Trời và đến cha". Sự hối lỗi ở đây không phải vì miếng ăn,
cũng không vì anh ta qúa cực, nhưng nó được ăn năn hối lỗi từ tấm lòng thành, từ
tình thương của người cha đã làm cho anh ta hối lỗi thật sự. Tự nơi đáy lòng
anh một tiếng khóc thống hối đã được cất lên, từ một con tim, từ một quyết tâm
từ nay quay đầu trở lại, quyết sống thành một người con tốt. Thật vây ta mới thấy
rõ "không một thánh nhân nào không có quá khứ, không một tội nhân nào lại
không có tương lai". Vì thế, chúng ta không có quyền đáng dấu chấm hết cho
bất cứ ai, nhưng hãy mở ra cho họ một con đường sống, và điều quan trọng là mở
rộng tình thương đón nhận người khác và nhìn lại mình để mà cất tiếng khóc thống
hối.
2. Kiểu khóc mướn
Là kiểu khóc dành cho người anh, vì
khóc mướn chính là hành động bên ngoài xem ra rất tốt, nhưng bên trong thì
không. Có khi là hoàn toàn ngược lại, họ khóc với một điệu bộ thê lương vì tiền,
chứ không phải vì tử biệt sinh li, họ bán nước mắt, bán cử điệu bên ngoài, hay
nói đúng hơn là họ làm động tác giả để mà sống... họ chỉ còn thiếu một chút xíu
đó là tấm lòng.
Hình ảnh người con cả hôm nay ám chỉ
người Do Thái cách riêng ám chỉ các luật sĩ và biệt phái... Suốt ngày họ không
phạm một điều gì trong lề luật "không hề trái lệnh cha một điều nào".
Sống bên ngoài xem ra rất tốt, học "khóc" rất hay, nhưng chính lời
nói cuối cùng đã tố cáo con người của họ "còn thằng con của cha kia",
câu nói cho thấy một sự loại bỏ, một sự trù dâp, thiếu tình yêu thương nhưng lại
thể hiện một sự kiêu ngạo tự mãn về mình. Do đó, một hành động tốt, hay một loạt
hành động tốt cũng không thể chứng minh đó là người tốt, mà người tốt phải có
hành động tốt, và con tim tốt. hàng ngày chúng ta vẫn khóc qua các cử chỉ và
hành động, nhưng Thiên Chúa luôn muốn chúng ta khóc cả bên ngoài lẫn tâm tình
bên trong. Ngài không hề vui khi chúng ta không đạo đức, siêng năng đi đọc kinh
xem lễ lại sống xa cách, hay dửng dưng với người xung quanh.
3. Kiểu khóc hạnh phúc.
Người cha trong bài Tin Mừng nhằm ám
chỉ Thiên Chúa. Trước tiên Thiên Chúa luôn tôn trọng tự do của con người nên:
"người cha liền chia gia tài cho con", tuy rằng theo luật người cha
không buộc phải chia gia tài cho con khi còn sống, nhưng người cha lại chia
ngay, không do dự, không ngăn cản khi người con xin: điều này chứng tỏ người
cha tôn trọng sự tự do vì thương con. Điều này muốn diễn tả Thiên Chúa tôn trọng
tự do của con người ngay cả khi con người bất trung với Người, vì Người luôn
trung thành và yêu thương con người. Điều quan trọng nhất trong bài Tin Mừng
hôm nay là lòng nhân từ của người cha, và sự hối lỗi của đứa con hoang đàng.
Hai hình ảnh này đã vẽ lên cho bài dụ ngôn một bức tranh tuyệt vời. Một bên là
người con khóc hối lỗi, còn một bên là người cha nhân từ khóc hạnh phúc vì đã tìm
được đứa con mà mình mong ước. Chắc chắn người cha không lúc nào lại không chờ
mong con mình. Ông không cần đợi thằng con "bất hiếu" lên tiếng,
nhưng vì tình yêu và lòng nhân từ ông đã đi bước trước "khi nó còn ở đàng
xa, cha nó chợt trông thấy liền động lòng thương!". Ôi lòng nhân từ của
Thiên Chúa đã vượt xa hơn muôn ngàn tội lỗi con người, Thiên Chúa luôn đợi ta mỗi
ngày, còn ta thì cứ dửng dưng, lạm dụng tự do, mê của đời trần thế mà bỏ chính
người cha luôn yêu thương mình. Chắc chắn Thiên Chúa ghét tội, nhưng Ngài luôn
yêu thương kẻ có tội. Vậy trong tâm tình sám hối chúng ta hãy trở về với người
cha đang chờ đón chúng ta. Amen.
38. Bởi vì chúng nó là con
của tôi!
Một hạt giống nhỏ bé nằm ở dưới lòng
đất, và bắt đầu nảy mầm. Nhìn thấy những đóa hoa khác, nó tự hỏi, “Không biết
mai mốt tôi sẽ nhìn giống hoa gì nhỉ?”
“Gương mặt của hoa huệ thì đẹp, lộng
lẫy, nhưng hơi lạnh lùng. Còn hoa hồng thì quá sặc sỡ, và cũng quá cổ rồi. Còn
đóa hoa tím, tôi sẽ không chọn kiểu hoa ấy đâu, hoặc là cả cái hoa mầu xanh
dương.”
Và cái hoa nhỏ bé đó đã phê bình đủ
mọi thứ hoa cho đến khi nó tỉnh giấc vào một buổi trưa hè nắng khi nó nhận ra
mình chỉ là một loại hoa cỏ dại!
Các thánh ký viết Phúc Âm nói cho
chúng ta biết rằng Chúa Giêsu đã bị bè phái Pharisiêu phê phán đủ chuyện cả.
Trong bài Phúc Âm hôm nay, họ bàn tán phản đối Ngài là người qua lại với thứ tội
lỗi. Trong thời Chúa Giêsu, kẻ tội lỗi được hiểu là người chống lại Thiên Chúa,
có thể là cuộc sống vô luân hoặc là đang làm công việc bần tiện. Dĩ nhiên, câu định
nghĩa này bao gồm luôn cả những người thu thuế, đĩ điếm, là những người bị phái
Pharisiêu xa cách, mà chỉ có Chúa Giêsu thì không.
Thánh Luca kể lại cho chúng ta biết
rằng những người thu thuế và kẻ tội lỗi thì đến gần Chúa Giêsu để nghe Ngài giảng.
Còn những người Pharisiêu và luật sĩ thì bàn tán với nhau rằng, “Ông này qua lại
và ăn uống với kẻ tội lỗi” (Lc 15:2). Những người Pharisiêu là những kẻ bị gai
mắt soi bói rằng: Làm sao mà ông này lại nói về Thiên Chúa với thứ dân này?
Chúa Giêsu đã trả lời các ông qua các dụ ngôn.
Dụ ngôn thứ nhất là về người chăn 100 con chiên mà bị lạc mất một con. Anh đã bỏ
99 con kia lại mà đi tìm con chiên bị lạc mất. Khi tìm thấy nó, anh đã vác nó
lên vai và trở về nhà vui mừng. Sau đó, anh đã gọi bạn bè lại và ăn mừng. “Tôi
nói cho các ông hay: trên trời cũng thế, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi
ăn năn sám hối, hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần phải sám hối
ăn năn” (Lc 15:7).
Dụ ngôn thứ hai là người đàn bà có 10 đồng quan, mà chẳng may bà đã đánh mất một
đồng. Sau đó, bà đi tìm và tìm thấy nó, bà vui mừng và mời bạn bè đến chia vui
(Lc 15:8-9).
Dụ ngôn thứ ba là người con hoang đàng. Anh đã đòi cha của anh chia gia tài và
đi chơi phung phí ở phương xa. Sau khi đã xài hết tiền của rồi, hai bàn tay trắng,
anh đã trở về với lòng thống hối xin cha anh tha thứ. Người cha đã sẵn sàng tha
thứ cho anh mà còn ôm hôn anh. Thế nhưng, người con lớn trong gia đình thì
không chút vui vẻ gì đối với thái độ cư xử nhân hậu của cha, anh hậm hực tức tối
bởi vì anh đã ở nhà với cha trong khi người em của anh lại đi trụy lạc ở ngoài.
Có lẽ nhiều người sẽ thà chịu mất một
con chiên và ở lại với 99 con chiên, hoặc là chẳng để công mà tìm một quan tiền,
đàng nào cũng còn 9 quan. Có lẽ nhiều người sẽ đồng ý với thái độ bực tức của
người con lớn bởi vì anh đã trung thành ở với cha mình mà lo lắng tất cả những
công việc trong nhà.
Hãy thành thật với chính mình đi! Bạn
có thấy tiếng từ trong tâm hồn của bạn đang đồng ý với những điều đó không?
Đáng lẽ người con trung thành ở nhà với cha, phải đáng giá hơn chứ?
Trong đề tài về giá trị con người,
nhà thần học Michael P. Green đã trình bày như sau:
Giả dụ như có một bà mẹ vừa mới sinh
ra được một người con. Sau đó, một người đến hỏi bà mẹ đó bán người con đó cho
ông. Ông sẽ trả cho bà $10,000 hoặc thậm chí ông có thể trả cho bà cả một triệu
đồng. Thế nhưng bà mẹ ấy sẽ vẫn không bán người con yêu quí của mình cho người
đàn ông đó. Bà chỉ biết ôm con sát vào lòng và trả lời, “Con của tôi thì vô
giá.”
Một điều dĩ nhiên là bà mẹ đã đó
không suy nghĩ gì đến những vất vả mà bà sẽ phải trả khi phải nuôi lớn đứa con
của bà. Bà sẽ phải thay cả đến hơn ngàn cái tã, thức khuya dậy sớm, lo thuốc
thang khi nó bệnh. Thế nhưng tất cả những cái khổ cực đó vẫn không là gì bởi vì
bà mẹ đó đã chọn cái giá trị của đứa bé đó cao quí hơn là tiền bạc và khó nhọc.
Bà đã chọn để yêu người con của bà.
Đáng giá như thế không phải là ở chỗ
cái nhìn ở bên ngoài, nhưng là con người. Cái đáng giá đó, phản chiếu hình ảnh
của Thiên Chúa, phải là một căn bản cho sự định giá của con người chúng ta.
Trở về dụ ngôn người con hoang đàng,
người cha đã có thể mở rộng cánh tay để ôm người con vào lòng là bởi vì ông
không nghĩ đến những điều cậu đã làm, nhưng vì cậu là con của ông.
“Tôi nói cho các ông hay: trên trời
cũng thế, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối, hơn là vì
chín mươi chín người công chính không cần phải sám hối ăn năn” (Lc 15:7). Điều
này không có nghĩa là Thiên Chúa yêu thương kẻ có tội hơn là những người ăn ở tốt
lành. Chân lý của Phúc Âm không phải là Thiên Chúa thiên vị yêu kẻ này hơn kẻ
khác. Chân lý của Phúc Âm chính là Thiên Chúa yêu thương tất cả chúng ta một
cách đồng đều. Chân lý đó là tất cả chúng ta đều là kẻ tội lỗi, kể luôn cả những
kẻ cho rằng mình tốt lành mà không nghĩ rằng mình cần phải sám hối.
39. Chúa Nhật 24 Thường
Niên
Còn có Thứ Tình Yêu nào cao cả hơn?
"Trên trời sẽ vui mừng vì một
người tội lỗi ăn năn sám hối, hơn là vì 99 người công chính không cần ăn
năn..." (Lc 3, 24)
Anh chị em thân mến,
Chương 15 của Phúc âm thánh Luca mà
chúng ta đọc trong ngày CN hôm nay, gồm 3 dụ ngôn, được coi như tuyệt phẫm của
Tình yêu: dụ ngôn bầy chiên với 100 con: lở mất một con; ông chủ sẵn lòng để
100 con lại đó, đi tìm cho được con mất, vác trên vai đem về - dụ ngôn 2: người
đàn bà lỡ mất một đồng bạc, liền thắp đèn, quét nhà tìm cho đến khi thấy được đồng
bạc đó - nhất là dụ ngôn cuối cùng: người con hoang đàng và người cha nhân hậu
với lời kết luận từ miệng người cha: "chúng ta phải ăn mừng, vì em con đây
đã chết, mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy..." Cả ba dụ ngôn diễn
tả thật đậm nét tình yêu thương vô bờ TC đối với tội nhân hối cải. Kính mời anh
chị em cùng suy niệm.
a. nguyên do ba bài dụ ngôn: số là
các người thu thuế và người tội lỗi thường đến bên Chúa Giêsu để nghe Chúa giảng
dạy; thấy vậy, mấy người biệt phái, kinh sư xầm xì chê trách Chúa Giêsu: ông
này hay niềm nở đón tiếp kẻ tội lỗi, ăn uống với chúng nữa. Những người Do thái
làm nghề thu thuế cho người La mã bị xếp ngang hàng với người tội lỗi, bị khinh
miệt và bị loại trừ khỏi phụng vụ đền thờ nữa. Chính họ không tự nhận mình tốt
lành; trong khi nhóm biệt phái, kinh sư là nhóm người có địa vị cao trong đạo
do thái. Họ nhiệt thành quá với Lề Luật, đến độ thiếu lòng bác ái, thích sống
giả hình, hay coi khinh kẻ khác. Chính Chúa Giêsu nhiều lần đả kích họ. Cũng
chính mấy bài dụ ngôn sau đây muốn nói lên điều đó...
b. hình ảnh người chủ chăn có 100
con chiên - hình ảnh người cha nhân hậu: chính là hình ảnh Thiên Chúa Tình yêu,
luôn chủ động đi tìm con chiên lạc, cho đến nổi có thể bỏ lơ 99 con chiên tốt
lành, chỉ để đi tìm con chiên bị lạc; vì " trên trời sẽ vui mừng vì một
người tội lỗi ăn năn sám hối, hơn là vì 99 người công chính không cần ăn
năn.." Chúa Giêsu Kitô, Ngôi Hai Con Thiên Chúa, đã chấp nhận sinh vào trần
gian...đã lặn lội đi rao giảng Nước Trời cho mọi người.... băng bó chữa lành
cho kẻ đau yếu... và đã chết đau thương vì nhân loại chúng ta. Như vậy, chính
Thiên Chúa là người đi bước trước trong Tình Yêu, người chủ động kêu mời nhân
loại sống trong Tình Yêu, nhất là kêu gọi trở về trong Tình Yêu khi đã bị mất.
Dụ ngôn Người Cha nhân hậu, cho chúng ta thấy mối bận tâm duy nhất của ông
chính là: làm sao cho đứa con lỡ đi hoàng đàng: đi tìm - vui mừng khi tìm được
- khi con trở về, ôm cổ hôn lấy hôn để, sai gia nhân làm tiệc...Chính câu trả lời
của ông cho người con cả, đã nói hết tấm lòng của Ông: "này con, chúng ta
phải ăn mừng vì em con đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy.."
c. Thái độ của hai người con: Người
con thứ: tính tình nông cạn, ảo tưởng, đam mê, tội lỗi, xúc phạm đến tha nhân
và Thiên Chúa: đó chính là hình ảnh của cả nhân loại chúng ta. Tuy nhiên, sau
khi ăn năn, thái độ của anh ta thật đáng khen, vì biết mạnh dạng, dứt khoát,
không chần chừ. Đó chính là gương thật lòng ăn năn sám hối.... Người con cả:
bên ngoài xem ra là mẫu mực, không có điều gì chê trách, nhưng trước tấm lòng
bao dung của cha, người con cả tỏ ra tự phụ, khinh khi em mình trước mặt cha.
Thật là thái độ đáng tiếc...Chính thái độ này cũng là thái độ của các kinh sư,
biệt phái, tự cho là mình chân chính, là con cháu tốt lành của Abraham, để từ
đó coi khinh kẻ khác
d. Gợi ý sống và chia sẻ: Là người
kitô hữu ngày hôm nay, đọc qua gương của hai người trong bài Tin Mừng hôm nay,
đã cho ta bài học nào? Khi nhìn lại, ta thấy mình là hạng người con nào trong
hai người con của Người Cha nhân hậu?
40. Niềm vui khi tìm gặp lại
(Suy niệm của Lm Nguyễn Ngọc Long)
Niềm vui khi tìm gặp lại, thiết tưởng
ai cũng đã sống trải qua trong đời. Cha mẹ gặp lại con cái sau lâu ngày đi làm
hay đi học xa nhà. Vợ chồng gặp lai nhau, vì hoàn xa cách do chiến tranh gây
ra, do tỵ nạn di cư mỗi người lạc một nơi. Bạn bè tìm thấy nhau sau thời gian
cùng chung học mỗi người lưu lạc mỗi phương trời...
Còn nỗi vui mừng nào lớn lao hơn nữa,
khi gia đình, bạn bè, đồng hương được xum hợp, đất nước được thống nhất không
còn chia cắt hai miền Nam Bắc năm xưa ở bên quê nhà Việt Nam, năm 1989 khi bức
tường Bá Linh sụp đổ không còn chia cắt hai miền đất nước Đông Tây nữa, khi người
Đại Hàn ở miền Nam được sang tìm gặp lại thân nhân của mình ở miền Bắc nước Triều
Tiên...
Đức Mẹ Maria và bà thánh Elisabét
vui mừng hân hoan gặp lại nhau. Họ mừng rỡ chúc tụng nhau và cảm tạ Thiên Chúa
(Lc 1:39-45)
Đức Mẹ Maria và Ông thánh Giuse lo lắng
âu sầu đi tìm trẻ Giêsu đi lạc. Khi tìm gặp lại con mình, niềm vui mừng của Ông
Bà biểu lộ qua sự ngạc nhiên, vì thấy con mình chững chạc ngồi nói chuyện với
những người thông thái. Hai Ông Bà thở ra nhẹ nhàng và thốt lên lời biểu lộ niềm
vui mừng âu yếm thương con: “Con ơi, sao con lại xử với Cha Mẹ như vậy? Con thấy
không, cha con và mẹ đây đã phải cực lòng tìm con!” (Lc 2:41-48)
Khi tìm gặp lại người thân yêu hay đồ
vật quí báu đã lâu ngày thất lạc, tưởng như đã mất, lúc đó niềm vui mừng hân
hoan không chỉ dào dạt trong trái tim trí não, nhưng hiện lộ ra trên gương mặt,
nơi khoé mắt.
Niềm vui mừng đó có thể biến thành
giòng nước mắt sung sướng hạnh phúc vì quá cảm động không nói nên lời và chỉ
còn biết giang tay đón nhận. Như người cha con nhân lành mừng mừng tủi tủi
giang đôi tay ôm hôn cậu ấm trở về bình an. (Lc 15:11-32).
Niềm hạnh phúc đó biến đổi gương mặt
thành sáng rực đỏ chói, không phải vì xấu hổ, nhưng là dấu hiệu của sung sướng
hạnh phúc đang sôi sục dâng tràn trong tâm hồn.
Niềm hân hoan sung sướng có thể là
tiếng cười dòn đã vang tiếng, là lời khoe báo tin mừng cho mọi người. Như người
mục đồng tìm thấy lại con chiên, con trâu, con bò, con dê của mình đi lạc đàn.
Như một bà lão sống cảnh đạm bạc nghèo khó chiu chắt tiết kiệm từng đồng xu cắc
bạc, lo âu quét nhà soi đèn mò mẫm tìm thấy lại đồng bạc đã mất. Vì đồng bạc
này có thể giúp bà mua được gạo, được thức ăn cho ngày sống (Lc 15:1-10).
Vui mừng sung sướng hạnh phúc vì của
châu báu hay người mình quý mến thương yêu đã thất lạc xa vắng, nay lại tìm gặp
thấy.
Đó cũng là nỗi vui mừng hân hoan của
Thiên Chúa, Đấng sinh thành nuôi dưỡng đời con người, khi chúng ta từ bỏ điều xấu
xa tội lỗi sống theo điều thiện, theo giới răn Tình Yêu như Chúa muốn: “Triều
Thần Thiên Chúa, ai nấy vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối”. (Lc
15:10).
41. Lạc lối - Lm Bùi Quang
Tuấn
Theo một bản thống kê được đăng trên
tờ Tablet (12/1996): hàng năm tại Anh quốc có khoảng 250 ngàn người thuộc mọi lứa
tuổi bị mất tích, vì đủ thứ lý do. Một cơ quan bác ái chuyên về tìm người thất
lạc được thành lập năm 1992, hoạt động liên tục 24 giờ một ngày, 365 ngày một
năm, và hiện nay vẫn đang phát triển không ngừng.
Riêng tại Hoa kỳ, mỗi năm, có khoảng
50 ngàn đứa bé được ghi nhận mất tích. Trong số đó, 5 ngàn em bị thiệt mạng trước
khi được tìm thấy xác. Tại nhiều quốc gia, người ta không thể đưa ra con số
chính xác về các vụ mất tích. Có nơi chính phủ chỉ thành lập các chương trình
tìm kiếm xe mất cắp, các đồ vật bị đánh rơi, hay quà cáp thư từ bị giao sai chỗ,
chứ không hề có chương trình tìm người thất lạc.
Nguyên nhân gây nên tình trạng mất
tích hay thất lạc thì vô số, nhưng các chuyên gia xã hội tóm tắc vào ba điều
căn bản sau đây: 1) bị bắt cóc bởi các cha mẹ không còn chung sống với nhau; 2)
là nạn nhân của các tội ác bạo động trong xã hội; 3) bỏ nhà ra đi vì không tìm
thấy hạnh phúc gia đình.
Dù khởi đi từ nguyên nhân nào, sự thất
lạc cũng đều gây cho người ở lại một nỗi xót xa nuối tiếc. Của thất lạc càng
quí thì niềm tiếc nuối càng da diết, càng thúc đẩy một cuộc kiếm tìm. Càng tha
thiết gắn bó với của bị mất bao nhiêu càng làm cho nỗi vui mừng thêm chất ngất
khi tìm gặp lại bấy nhiêu.
Nhớ nhung, xót xa, nuối tiếc, kiếm
tìm, hân hoan, hạnh phúc… tất cả diễn tả tâm tình của một người Cha nhân từ đối
với đứa con “bị lạc” nhưng nay lại “tìm thấy,” “bị chết” mà nay đã “phục sinh.”
Nỗi niềm đó được trình bày trong ba dụ ngôn: “Con Chiên Lạc,” “Đồng Bạc Mất,”
và “Người Con Hoang Đàng.”
Các dụ ngôn, với cấp độ đi lên, từ
con vật đến đồng tiền rồi đến con người, và cấp số giảm xuống từ 100 đến 10 rồi
còn 2, đã nói lên giá trị quí báu của từng con người trong đôi mắt yêu thương của
Thiên Chúa. Đối với Ngài, ai cũng có một phẩm giá riêng biệt. Không phải vì con
số 99 quá lớn mà chấp nhận bỏ đi số “1” nhỏ nhoi.
Với người giàu, một đồng nào có
nghĩa lý gì, công đâu bỏ ra để bới tìm một đồng cho phí giờ, nhọc thân. Trên thế
gian có biết bao nhiêu sinh linh, hà cớ chi phải lao đao vất vả vì một kẻ tội đồ.
Chắc hẳn những người biệt phái nghĩ thế. Nhưng Chúa Giêsu nghĩ khác. Ngài ví
mình như một người rất nghèo, thiếu thốn những tâm hồn sám hối, khao khát tìm lại
những gì thất lạc để đưa về với nẻo chính đường ngay. Phải chăng vì “nhà Cha Ta
có nhiều chỗ ở”, hay vì lòng Cha quá quảng đại bao dung mà thêm một tâm hồn lầm
lạc trở về, thì lòng Ngài lại mừng vui sung sướng: “Bà con hãy chia vui với
tôi… Bà con hãy vui mừng cùng tôi… Chúng ta phải ăn khao mới được” (Lc
15:6,9,23).
Những “con chiên lạc đàn” được ví
như những chiếc tàu không bánh lái hay mất hướng đi. Hành trình lầm đường này
có thể xảy ra do sự u mê của chính nó, nhưng cũng có khi vì không được quan tâm
chỉ dẫn đúng mức.
Có những con chiên xa đàn lạc lối,
nhưng cũng có những con đang sống trong đàn mà chẳng phải là chiên. Có đứa con
bỏ nhà xa cha, nhưng cũng có đứa con tuy sống gần cha mà lòng dường như đi
hoang từ lâu. Nó coi cha không khác gì ông chủ hà khắc keo kiệt, chẳng hề bố
thí cho một con dê để vui vầy với chúng bạn. Như vậy, có thứ lạc đàn thể lý và
cũng có thứ lạc đàn tâm linh. Có những người không đi nhà thờ vì lòng họ xa
Chúa, song cũng có những người không bỏ nhà thờ nhưng lòng cũng chẳng gần Chúa
hơn được bao nhiêu. Có lẽ vì tâm trí họ đang đi lạc trong khu rừng có nhiều
tieng ca của danh vọng, hương sắc của đồng tiền, hung khí của hận thù, giọng
ríu rít đầy lôi cuốn của xác thịt.
Sai lạc nào cũng cần chỉnh đốn. U mê
nào cũng cần ánh sáng chiếu soi. Nhưng có thứ ánh sáng nào ấm đẹp cho bằng yêu
thương. Vì có yêu thương mới có tìm kiếm chiên, cõng lên vai, đem về nhà. Có
yêu thương, người ta mới ngóng trông, đón nhận, dung thứ, ăn mừng. Nhờ yêu
thương mà chiên lạc thành chiên ngoan và con đi hoang lại tìm được mái ấm gia
đình.
Cách đây không lâu, Nhật báo Người
Việt có đăng một bản tin: Vào một ngày tối trời tháng Ba năm 1999, đang lúc xem
TV trong nhà, bà Huỳnh P. T. Vân tại Bà điểm Hóc môn chợt nghe tiếng chó sủa dữ
dội. Bà vội mở cửa xem thì khám phá một em bé trai sơ sinh trần trụi, đang nằm
dưới hàng dậu trước nhà. Đứa bé dường như mới chào đời, cuống rốn còn nguyên
chưa ai cắt, mình mẩy dính đầy cát, kiến đang bắt đầu bu lại, và đôi chân tím bầm.
Hốt hoảng, bà vội bế đứa bé vào nhà
và tìm cách đưa ngay đến bệnh xá trong huyện. Sau khi được y tá cắt cuống rốn
cùng chữa trị đôi chân, bà Vân đưa đứa bé về nhà, đặt tên Trần Minh Phúc.
Nhiều người dân trong vùng muốn nhận
em làm con nuôi, thậm chí có người xin tặng bà Vân ba lượng vàng để có được
cháu bé. Thế nhưng bà Vân vẫn không tha thiết với lời đề nghị kia. Bà tâm sự:
“Nhìn mặt cháu tự nhiên thấy thương như con đẻ của mình. Thức với nó mấy đêm,
thương lắm rồi, không xa được.” Nhà tuy nghèo nhưng bà khẳng định sẽ giúp cháu
sau này ăn học đàng hoàng.
Xót xa làm sao khi người mẹ ruột
đành đoạn đánh mất con mình trong mớ bung xung của áp lực xã hội, danh dự gia
đình, và nỗi yếu đuối cá nhân. Nhưng cảm động và đáng phục biết bao khi có những
con người bất chấp tình cảnh túng nghèo, vượt thoát áp lực của một xã hội
chuyên lấy đồng tiền và quyền lực làm thước đo mọi giá trị, để làm nỗi bật phẩm
chất cao quí của yêu thương. Nhờ tình thương, sự sống đã được bảo tồn và nâng
cao.
Lắm khi vì tiếng gọi ngọt ngào của
hưởng thụ, phóng túng, đam mê, ích kỷ mà người ta đã bán đứng nhân phẩm và bước
vào con đường lầm lạc, nhưng nhờ tình thương và lòng quảng đại từ ái mà bao tâm
hồn tìm được mái ấm và bước chân hoang can đảm trở về.
Lạy Chúa, xin giúp chúng con biết
gieo yêu thương trên mọi lối đi của cuộc đời, để tha nhân có thể gặp được dấu
mà bước vào, và lần tìm về với Chúa là cội nguồn của yêu thương tha thứ. Chúng
con tin rằng: đi theo Chúa, hạnh phúc sẽ không hề tắt; ở bên Ngài, hoan lạc sẽ
chẳng hề phai bao giờ.
42. Chúa Nhật 24 Thường
Niên
Anh chị em thân mến.
Trong bài giảng tĩnh tâm cho giáo
triều Roma, Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận có nói: Chúa Giêsu cũng
có những khuyết điểm.
Trước tiên Ngài là người không biết
về toán học. Ngài đã bỏ lại 99 con chiên để đi tìm một con. Giữa con số 1 và 99
không biết số nào lớn.
Kế đến Ngài là người không biết làm
kinh tế. Đang có 9 đồng lại không màn đến, để đi tìm một đồng, rồi vui mừng, mời
bạn bè đến chia vui.
Hơn nữa, Ngài còn là Người hay quên.
Những người tội lỗi vây quanh mà dường như Ngài không hay biết. Như đứa con
trong dụ ngôn, đã ra đi phung phí tiêu hao tiền của, thế mà Ngài vẫn ngày đêm
mong đợi, để rồi khi nhìn thấy đứa con, Ngài vui mừng.
Nhưng thật ra đó không phải là những
khuyết điểm, mà chính vì Tình Yêu Thương bao la đã vượt qua tất cả, vượt qua sự
tính toán hơn thua của trần thế, vượt qua mọi đố kỵ của người đời. Ngài chỉ còn
nhìn thấy Tình Yêu được đáp trả. Như thế đã đủ rồi và Ngài không đòi hỏi điều
gì nữa.
Như trong bài phúc âm chúng ta vừa
nghe. Ngài vui mừng vì tìm được con chiên lạc. Ngài không chờ đợi con chiên phải
la lối, kêu cứu, nhưng Ngài đã đi và tìm được nó.
Cũng như đồng bạc bị mất đi. Vui mừng
vì tìm được. Không phải vì giá trị của nó hơn những đồng khác. Nhưng vì Ngài
không muốn những gì của mình phải hư đi, mất đi một cách vô cớ, nên đã làm hết
mọi cách để tìm cho được.
Cao hơn nữa, đối với con người.
Thiên Chúa chờ đợi một dấu hiệu chứng tỏ lòng ăn năn sám hối. Quay trở về, chỉ
cần có dấu hiệu quyết tâm như thế, còn mọi việc khác Ngài sẽ bù đắp cho bằng
Tình Yêu Thương bao la của Ngài. "Phải ăn tiệc vui mừng, vì em con đã chết
nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy".
Mỗi người trong chúng ta là con
chiên trong đàn của Chúa, là đồng bạc trong tay Chúa, hơn thế nữa còn là người
con rất yêu quý của Ngài.
Nhưng chúng ta là người con như thế
nào? Người con hằng ngày ở kề cận bên cha để tính toán thiệt hơn, để rồi bất
bình khi thấy Cha không làm theo ý muốn của mình. Đó là người con cả trong bài
Phúc âm chúng ta vừa nghe. Hay là chúng ta thấy mình đáng được một chút gì đó,
để rồi đòi hỏi và tự mãn với những gì mình có, không cần biết đến ai, kể cả Người
đã ban cho mình những cái hiện có. Chính thái độ tự mãn đó đã tiêu hao đi những
gì đã được, đến nỗi không còn gì hết. Đó là người con thứ.
Nhưng chúng ta có biết hồi tâm, có
nhìn thấy được sự mất mát, thiếu thốn của chính mình để biết quay trở về, nhận
sự tha thứ và sống lại trong tình yêu thương và vui mừng của Thiên Chúa. Hay là
chúng ta cứ tưởng mình đang giàu có, đang có công trạng qua sự tính toán riêng
tư của mình và Thiên Chúa phải trả công cho chúng ta. Nên chúng ta không cần phải
trở về, không cần phải vào nhà, cho dù bao nhiêu lời van xin, bao nhiêu lời giải
thích, chúng ta cũng không thể hòa nhập với những gì mình cho là không xứng
đáng, không hợp lý, chỉ có mình là đúng nhất, còn người khác thì không bao giờ.
Đó có phải là những bước chân hoang? Không phải bằng thân xác, nhưng đó là những
bước chân hoang của tâm hồn.
Thiên Chúa đang chờ đợi mỗi người
quay trở về, để Ngài ôm vào lòng, để Ngài ban cho tất cả, để Ngài ban cho tình
Yêu thương bao la của Ngài.
Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa cho
chúng ta biết từ bỏ kiếp đi hoang, biết nhìn thấy được những lỗi lầm của mình,
để quay trở về sống trong sự vui mừng Nước Trời.
43. Đức Giêsu đi tìm
con chiên lạc
Là dụ ngôn. Con chiên bị lạc - Không
có trí khôn - không biết mình đi lạc - không biết trở về nói chi là sám hối-hối
cải-không tìm thì mất luôn.
Đồng bạc-vô tri vô giác.
Con người-có trí khôn-có tự do-biết
mình đi lạc-biết trở về, quyết tâm thật lờng sám hối và chừa cải-không bắt buộc"vác
trên vai" đem về được. Không tự mình muốn và quyết tâm thì THIÊN CHÚA cũng
chịu thua và thực tế là đúng vậy.
Luca kết luận bằng một câu giống y
nhau ở cuối cả hai dụ ngôn: "Trên trời vui mầng vì một người tội lỗi hối cải"
nói lên đó là ý chính mà Luca muốn chúng ta quan tâm.
Dụ ngôn là dụ ngôn. Kể một dụ ngôn để
nói lên một "ý". Ý ấy thường không khớp với dụ ngôn. Ý là một chuyển
ý có tính thần học hoặc luân lý làm một bài học để dạy giáo lý.
Bài hoc ở đây là "hối cải".
Giáo lý nầy đã được Đức Giêsu trình bày rất rõ và cờn được nhấn mạnh ở nhiều
nơi trong Phúc Âm. Rõ nhất và nhấn mạnh nhất trong câu chuyện Philatô giết những
người galilê và tháp siloê ngã đè chết 18 nguời với kết luận y như nhau
"không sám hối thì tất cả sẽ bị huỷ diệt". Với nguời phụ nữ bị bắt quả
tang phạm tội ngoại tình: Đừng phạm tội nữa. Với nguời baị liệt ở hồ Betsaida:
Đừng phạm tội nữa kẻo phải khốn hơn truớc.
Chủ đề " sám hối- hối cải là chủ
đề chính bao trùm tất cả giaó huấn của Đức Giêsu. "Ta đến để kêu gọi nguời
tội lỗi hối cải" Luca tập hợp trong ba dụ ngôn đáng lẽ goị là dụ ngôn về sự
"Hối cải". Ý cuả Luca rất rõ mà laị bị dịch ra là dụ ngôn về lờng
thuơng xót.
Nguời ta nói ngon miệng "Đức
Giêsu đi tìm chiên lạc". Thực tế là thế nào?
THIÊN CHÚA tạo dựng bằng lời. Lời để
dạy, để ra lệnh cho nguời khác làm. Tạo dựng xuống cấp vì lời tạo dựng mênh
mông khó nhận ra nên con người không biết để làm theo, lạc lối. THIÊN CHÚA cứu
độ bằng lời. Cứu độ là nâng cấp. Lời chỉ đường rõ ràng cho đi đúng hướng theo ý
THIÊN CHÚA. THIÊN CHÚA chỉ đường. Đi trong đường của THIÊN CHÚA là bổn phận của
con người. Cứu độ là một can thiệp đặc biết của THIÊN CHÚA trên tiến trình tự
nhiên để điều chỉnh những sai lệch, đặt con người lại đúng hưóng, đúng vị trí của
mình để đi cho mau tới đích là phát triển cho tới mức hoàn thiện công trình tạo
dựng trong đó con người được THIÊN CHÚA giao cho đóng vai chính. Con người sẽ đựoc
sống đời đời, hửong hạnh phúc vỉnh củư nếu con nguời chí thiện và tạo dựng đựoc
nhờ con người mà đựoc hờan thiện. THIÊN CHÚA giao cho con người nhiệm vụ
"canh tác" vừon địa đàng.
Lời làm người để dạy con người bằng
ngôn ngử loài người. Rõ ràng. Chi tiết.Đầy đủ. Là mạc khải cuối cùng. Lời mở đường.
Lời là đường. Đường chân lý. Không có đường nào khác. Đức Giêsu để ba mươi năm
cuộc đời làm thành con đường cho con người.Ba năm giảng dạy là giải thích cho
rõ về con đường của mình. Ta là đường, là chân lý.Cuộc đời của DG là con đường.
Lời dạy của Người là chân lý. Ai muốn theo Ta thì.....đi trong con đường của
Ta.THIÊN CHÚA không ban ơn cứu độ mà THIÊN CHÚA ban lời cứu độ.
Đức Giêsu, Con THIÊN CHÚA nhập thế đến
thế gian. Thế gian phải đến với Người mới có gặp gỡ.
Đức Giêsu xuất hiện giảng dạy, chữa
bệnh, trừ quỉ và làm nhiều phép lạ. Ai đến, nghe, thấy, xin.. thì mới được hưởng.
Bình chân như vại. Không nhúc nhíc để đến thì "vủ như cẩn". Sự thật nầy
rõ như ban ngày. Cụ thể: Đức Giêsu đến hội đường ngày sabbat để giảng dạy. Người
bệnh hoặc bị quỉ ám có mặt, được gặp Người thì được chữa lành và chỉ những người
có mặt gặp gở Đức Giêsu. Đức Giêsu giảng dạy nơi vắng vẻ. Ai dến nghe thì gặp gở
Nguời được ăn bánh lạ no nê. Đức Giêsu đi ngang qua thành Giêricô. Giakeu tìm mọi
cách để thấy thì Người đáp lại đến nhà để gặp gở và ban ơn hối cải cho ông và cả
nhà. Những người khác thì không đựoc gì. Đức Giêsu đến tìm người tội lỗi. Nhưng
người tội lỗi có đến gặp gở Người, hối cải đời sống, đi theo Ngươi thì mới được
sự sông mà Ngươi muốn cứu.
Đức Giêsu đến mời gọi qua một trung
gian nhưng đời phải tỏ lờng tin, cụ thể là bằng sự sám hối, chừa cải. Ta đến
kêu gọi người tội lỗi hối cải. Hối cải là một đáp ứng đầy đủ lời mời gọi của Đức
Giêsu. Đó là ý của Luca qua hai dụ ngôn nầy: Trên trời (THIÊN CHÚA) vui mừng vì
một người tội lỗi hối cải chứ không phải vì tìm đựoc con chiên lạc hay đồng bạc
bị mất. Hối cải là trở nên công chính làm công dân nước Trời, là cải tạo thế
gian, là cúư độ.
Hối cải là cử động đầu tiên con nguời
phải làm để có thể có tiếp xúc với THIÊN CHÚA.
Chúng ta hãy hối cải chính mình và
tích cực giúp người lân cận hối cải để cùng nhau đến với THIÊN CHÚA để được
THIÊN CHÚA cứu độ.
Biệt phái, luật sĩ không hối cải. Do
thái không hối cải. Thế gian không hối cải. THIÊN CHÚA không làm cho họ hối cải
được. Đây là cái bí ẩn của tự do. THIÊN CHÚA không cưỡng chế. THIÊN CHÚA có nhiều
ân sủng. Con người quyết định có nhận hay không và có làm cho sinh lợi hay
không. THIÊN CHÚA có thể biến đổi lòng dạ con người nhưng chỉ những người thiện
chí, cộng tác tích cực với ơn Chúa thí mới có kết quả như lờng Chúa mong muốn.
Mọi sự phải bắt dầu từ hối cải.
44. Chúa Nhật 24 TN C
Bài Phúc âm hôm nay ghi lại ba dụ
ngôn về lòng thương xót của Thiên Chúa: dụ ngôn con chiên bị mất, dụ ngôn đồng
bạc bị đánh mất, nhất là dụ ngôn người cha nhân hậu.
Qua bài Phúc âm, Giáo Hội nhắc lại
cho chúng ta về tình thương của Thiên Chúa Cha đối với con người tội lỗi. Thái
độ của người chăn chiên đi tìm con chiên lạc, của người đàn bà bị mất một đồng
tiền và của người cha có đứa con bỏ nhà đi hoang, thái độ yêu thương tha thứ đó
vượt quá mức độ bình thường con người có thể tưởng tượng được và phản chiếu
thái độ của Thiên Chúa đối với con người.
Theo lệ thường, nếu chúng ta có một
trăm con chiên mà lỡ bị mất một con, chúng ta có nhất quyết đi tìm con chiên lạc
cho đến khi gặp được mới thôi hay không? Chắc chắn là không, vì số chín mươi
chín con còn lại không đáng giá hơn một con bị lạc mất hay sao? Đó là quan niệm
của con người chúng ta. Đối với Chúa, mỗi con chiên, mỗi người đều có giá trị
duy nhất đối với Ngài, và do đó nếu bị lạc mất thì nhất quyết phải tìm cho được
mới thôi. Rồi hành động của người đàn bà cũng thế, theo thường tình thì mất một
đồng cũng không sao, vì còn cả chín đồng kia mà. Nhưng để diễn tả mức độ của
Thiên Chúa thì một đồng bị mất kia là hết sức quan trọng, phải tìm cho được mới
thôi. Người cha của đứa con đi hoang, theo thường tình thì bỏ mặc kệ nó, nhưng
để diễn tả thái độ của Thiên Chúa đối với con người thì người cha kia hằng ngày
đứng trông con mình trở về, và đã nhìn thấy con mình trở về trước khi nó nhìn
thấy ông. Người cha tha thứ cho đứa con ngay cả trước khi nó mở miệng xin tha,
rồi làm tiệc ăn mừng.
Thiên Chúa muốn cứu rỗi mọi người và
mỗi người, Ngài muốn tận dụng mọi phương thế có thể để ban ơn cứu rỗi cho con
người. Vì Ngài yêu thương con người, yêu thương từng người một cách vô cùng,
nhưng con người có chấp nhận ân sủng và tình thương của Ngài hay không?
Trong Cựu ước, chúng ta thấy Môisen
cầu nguyện cùng Chúa, xin Ngài tha thứ cho dân đã phạm tội đến Ngài, Môisen đã
không xin Chúa hủy diệt dân mình, nhưng hãy tha thứ cho dân mình. Cũng thế,
chúng ta đừng bắt chước thái độ của người anh cả trong dụ ngôn, đừng ganh tị với
anh chị em được ơn Chúa tha thứ cho, nhưng hãy bắt chước thái độ của Môisen cầu
nguyện cùng Chúa, xin Ngài tha thứ tội lỗi cho anh chị em và cho cả chính mình
nữa.
Trước nhan Thiên Chúa, tất cả mọi
người chúng ta đều là những kẻ tội lỗi, đều cần đến lời cầu nguyện của nhau để
trở lại cùng Chúa và trung thành với đức tin. Nguyện xin Chúa thương tha thứ
các tội lỗi và nâng đỡ thành tâm thiện chí mỗi người chúng ta, giúp mỗi người
chúng ta biết trở về cùng Chúa, sống xứng đáng là con cái Cha trên trời.
Đề cập đến Tin Mừng nghiêm chỉnh một
chút, chúng ta sẽ nhận thấy rõ điều này: những kẻ cầm quyền đương thời trong đạo
Do thái, những người Pharisêu, những người tự cho mình là công chính...đã khinh
thường và tẩy chay Chúa Giêsu. Trái lại, những người tội lỗi, những kẻ thu thuế...
đã trân trọng và nhận biết Ngài. Thử hỏi: Nếu Chúa Giêsu trở lại giữa chúng ta
hôm nay, chúng ta sẽ thuộc hạng người nào? Thuộc hạng người "công
chính" không cần đến Ngài hay thuộc hạng người tội lỗi, đối tượng Ngài
quan tâm khi đến thế gian? Qua đó, Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta hai điều:
Thứ nhất, sứ mạng tình thương của
Ngài.
Thứ hai, bổn phận và thái độ của
chúng ta.
Chúng ta đều biết: Sứ mạng của Chúa
Giêsu đến trần gian để cứu vớt những kẻ tội lỗi. Ngài đến để kêu gọi những người
tội lỗi thống hối ăn năn, và để tìm kiếm, cứu vớt những gì đã lạc mất. Thánh
Phaolô trong thư thứ nhất gửi cho Timôthêô cũng khẳng định: "Chúa Kitô đến
thế gian để cứu vớt những kẻ tội lỗi". Quả thực, Chúa Giêsu đã đến thế
gian vì tội nhân. Đó chính là ánh sáng trong đó mạc khải bày tỏ Chúa Giêsu cho
chúng ta và chúng ta phải luôn luôn ngắm nhìn Ngài trong ánh sáng này. Nói khác
đi, vì yêu thương loài người tội lỗi mà Chúa Giêsu đã bỏ trời xuống thế gian.
Chính tên "Giêsu" của Ngài, nghĩa là "Cứu Thế" cũng đã gắn
liền với kẻ có tội. Cứu ai? Người lành đâu cần cứu, mà cứu là phải cứu người có
tội. Do đó, đối với chúng ta, tình thương đã hiển hiện như một nét nổi bật của
Chúa. Tình thương của Chúa không phải là một tình cảm mờ nhạt, mong manh mà là
cả một tâm hồn say mê nóng bỏng. Lòng say mê đó là tình yêu đã đến cảm mến cảnh
cùng khổ của chúng ta và để nâng cảnh cùng khổ đó lên. Tình thương của một
Thiên Chúa làm người khôn lường và da diết. Tình thương đó không phải là một đức
tính phụ thuộc nơi bản thân Người, nhưng là một nét chính yếu, đặc biệt: chính
vì đó mà Ngài đã đến. Tội lỗi của chúng ta nếu được đưa vào ngọn lửa nóng bỏng
yêu thương này sẽ bị thiêu hủy ngay.
Nếu chúng ta sẽ được liệt vào hạng
người Pharisêu, kinh sư hay vào hạng những người tội lỗi, những người thu thuế?
Chúng ta tự nhận mình là người công chính hay người tội lỗi? Chắc chắn không ai
dám cho mình là trong sạch, vô tội trước mặt Chúa, bởi vì từ ngày có trí khôn
cho đến nay, biết bao nhiêu lần chúng ta đã không giữ trọn 10 điều răn của
Chúa. Bao nhiêu lần chúng ta đã chịu thua cám dỗ và sa ngã. Bao nhiêu lần lời
ăn tiếng nói của chúng ta là những lời hành tỏi, xét đoán, gièm pha, kết án hay
là những lời hư từ vô ích. Bao nhiêu lần chúng ta đã ghen ghét, oán thù, tranh
chấp... Có lẽ chúng ta không chịu bới đống rác tội lỗi của chúng ta ra thôi, chứ
thiếu gì những lý do để chúng ta phải ăn năn thống hối. Chúng ta phải thành thật
nhận mình là tội nhân đáng hình phạt như người trộm lành; chúng ta là đứa con
hoang đàng trở về, là Mađalêna thống hối, là Phaolô bị quật ngã, cần đổi mới.
Kinh Kính mừng, Thương xót, ăn năn tội,... dạy cho chúng ta biết chúng ta chỉ
là tội nhân, là kẻ bại trận, chỉ trông hòng vào lòng Chúa thương xót mà thôi.
Mong sao tự thâm tâm chúng ta luôn vọng
lên lời tự thú của người thu thuế lên đền thờ cầu nguyện: "Lạy Chúa, con
là kẻ tội lỗi". Những bước chân trở về và hoán cải thường gọi là niềm ân hận,
âm thầm đau đớn về những lầm lỡ đã qua, là lòng ăn năn hối cải.
Lạy Chúa, xin đừng chê bỏ con, xin
nhận lấy tấm lòng con: tấm lòng tan nát khiêm cung. Chúng con tin tưởng và cậy
trông nơi Chúa. Xin thương xót chúng con. Amen.
45. Thà yêu lầm còn hơn bỏ sót
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn
Nghĩa)
Các bài đọc của Chúa Nhật Thứ 24 Mùa
Thường Niên, Năm C, cách riêng bài Tin Mừng có vẻ khá quen thuộc với Kitô hữu,
nhất là với những người chuyên chăm tham dự Thánh Lễ và xem trọng phần Phụng Vụ
Lời Chúa. Thánh Kinh trình bày về tình yêu của Thiên Chúa thật phong phú và đa
dạng. Tuy nhiên cũng có thể khẳng định rằng những dòng tin mừng theo thánh sử
Luca ở chương XV mà Giáo Hội cho trích đọc một phần trong Thánh Lễ Chúa Nhật
này quả là một mạc khải gây "chưng hửng" cho không chỉ nhiều người biệt
phái năm xưa mà còn cho cả chúng ta hôm nay, dĩ nhiên là nếu chúng ta biết
"suy đi nghĩ lại" như Mẹ Maria và biết đặt mình vào chính ngữ cảnh
khiến Chúa Giêsu phán dạy những Lời ấy.
Ngữ cảnh: Giêsu thành Nagiarét, một
vị tôn sư đầy quyền năng trong lời giảng dạy cũng như trong hành động (x.Mt
7,29; Mc 6,2), một người được dân chúng mến mộ tôn xưng vào hàng ngôn sứ (x.Mt
16,13-15)..., Người không chỉ chuyên chăm chữa lành bệnh tật cho dân chúng và
xua trừ ma quỷ ra khỏi những người chúng ám, Người còn giảng dạy các chân lý về
Nước Trời và mời gọi người ta hoán cải ăn năn. Thế mà Người lại thường xuyên
lui tới và cùng ngồi ăn uống với những hại dân hại nước là "bọn thu thuế"
và "phường bán thân nuôi miệng". Bá nhân bá tánh, mười người trăm ý,
chuyện miệng tiếng người đời thì làm sao lường cho xuễ. Cũng thế, việc một số
người biệt phái và luật sĩ lảm bẩm, xầm xì và bình phẩm chuyện Chúa Giêsu thường
xuyên lui tới và cùng ngồi ăn uống với người thu thuế và phường "tội lỗi"
thì cũng không là vô cớ. Ngài Giêsu đã không từng giảng dạy rằng chớ có làm cho
người ta vấp phạm đấy ư. Ngài còn mạnh miệng cho rằng nếu ai làm cớ vấp phạm
cho một trong những kẻ bé mọn thì thà cột cối đá vào cổ người ấy mà liệng xuống
biển còn hơn. Tuy nhiên chúng ta đừng quên cớ vấp phạm ở đây là cái nguyên nhân
xấu. Còn những dữ kiện gây thắc mắc, gây tranh luận, gợi thao thức là việc khác
hoàn toàn. Chính Chúa Giêsu đã từng ví Người là viên đá vấp cho nhiều người,
đúng như lời tiên tri Simêon loan báo dịp cha mẹ Người đem Người lên Giêruslem
để làm lễ tiến dâng theo Lề Luật (x.Lc 2,33-35).
Nguyên cớ gây thao thức: Tình yêu
đón nhận mọi sự hạn chế, mọi sự bất toàn. Khi nghe đọc bài tin mừng về dụ ngôn
người con hoang đàng hay đã được sửa lại là dụ ngôn người cha nhân hậu hoặc đã
từng được đề nghị là dụ ngôn người con ganh tị. Đã từng một thời Kitô hữu được
gợi ý là tập trung vào hình ảnh người con phung phá hoang đàng để nhận biết
thân phận tội lỗi của mình để rồi sám hối, ăn năn. Cũng đã từng có lúc người ta
tập trung vào hình ảnh người con cả của câu chuyện để mời gọi Kitô hữu cảnh
giác với sự ganh tương đố kỵ như trường hợp một số người biệt phái ngày xưa, hoặc
biết phản tỉnh với lối sống "người thì bên trong mà lòng thì bên
ngoài". Vì lắm khi chúng ta tuy mang danh con cái Chúa, nhưng chỉ là
"hữu danh vô thực". Thời gian gần đây ngưởi ta tập trung vào tình yêu
bao la của người cha nhân hậu và có thể nói rằng đây chính là trọng tâm của lời
mạc khải qua câu chuyện dụ ngôn mà Chúa Giêsu kể hôm ấy.
Nói đến sự bao la của tình yêu Thiên
Chúa, một số đấng bậc có vẻ như ngại ngần vì cho rằng sẽ làm cớ cho đoàn tín hữu
sống ỉ lại. Và rồi số vị ấy thích đề cao sự công thằng của Thiên Chúa hơn. Một
số vị khác thì phân vân như đứng giữa ngã ba đường khi vừa nói đến lòng thương
xót của Thiên Chúa vừa nói đến sự công thẳng của Người. Thiên Chúa là Đấng tốt
lành vô cùng và cũng là Đấng công bình vô cùng. Khởi đầu triều đại giáo hoàng của
mình Đức Bênêđictô XVI qua Thông Điệp Thiên Chúa là Tình Yêu đã nhấn mạnh hiện thực
này: Thiên Chúa bày tỏ tình yêu của Người cho nhân loại chúng ta một cách như
chống lại sự công minh của Người (x.số 10).
Người cha trong câu chuyện dụ ngôn
Chúa Giêsu kể đã rộng tay chia gia tài cho các con. Ông chia gia tài cho đứa
con mở miệng kêu xin và chia cho cả đứa con không xin. Ông ta quả là liều lĩnh
và bất chấp các tình huống có thể xảy ra. Ông chẳng thể lường đứa con thứ kêu
xin sẽ sử dụng gia tài ra sao. Ông cũng chẳng biết đứa con còn lại không xin vì
không dám xin hay vì không muốn xin. Không lưỡng lự, ông đã chia cho cả hai.
Chắc chắn người cha nhân hậu biết rõ
tình cảnh bi đát đến độ thua cả loài heo của đứa con đi hoang, vì chính người
con cả đã khẳng định sự thật này (x.Lc30). Thế mà ông cứ ngày ngày ngóng trông
đứa con "bất hiếu và hỏng hư" quay gót trở về. Lòng của ông vẫn ắp đầy
niềm hy vọng sẽ có ngày thấy con mình "đã chết nay sống lại, đã mất nay lại
tìm thấy". Và kìa, nó đây rồi, nó đã trở về. Nó về vì thương cha già này
hay là chỉ xót cái bụng rỗng của nó? Không sao cả, tình yêu không cần đặt điều
kiện. Đứa con lớn đang ở trong nhà mà lòng như kẻ ăn người ở, ông cũng đón nhận
hết tình. Không sao cả, rồi sẽ đến lúc nó hiểu rằng mọi sự của ông là dành cho
nó, đã thuộc về nó, vì mọi sự của cha đều là của con (x.Lc 15,31).
Đã yêu thì không ngồi chờ người mình
yêu hoàn thiện rồi mới đón nhận. Đón nhận người mình yêu cả trong sự hạn chế lẫn
bất toàn của người mình yêu thì mới là tình yêu đích thực vô cầu, vô vị lợi,
nghĩa là chỉ vì người mình yêu. Thánh tông đồ dân ngoại khẳng định chân lý này
khi nói rằng Chúa Kitô đã chết vì chúng ta, ban ơn tha thứ cho chúng ta, đưa
chúng ta về làm con cái Thiên Chúa ngay khi chúng ta còn là kẻ phản nghịch,
nghĩa là ngay khi chúng ta đang còn trong cảnh tình tội lỗi.
Xin đừng sợ bị lợi dụng, chẳng thà
yêu lầm còn hơn bỏ sót. Xin đừng ngồi chờ tha nhân hoàn thiện rồi chúng ta sẽ
yêu thương. Chính tình yêu của chúng ta, một tình yêu vô điều kiện mới là động
lực giúp tha nhân nên hoàn thiện. Đồng thời cũng chính tình yêu ấy sẽ giúp
chúng ta hoàn thiện vì chúng ta đang ngày càng nên giống Cha, Đấng hoàn thiện ở
trên trời, Đấng cho mưa rơi đều trên người lành lẫn kẻ bất lương, cho mặt trời
mọc lên soi người công chính lẫn tội nhân (x.Mt5,48).
46. Hãy chia vui với tôi
– G. Nguyễn Cao Luật
Có lẽ có người cho rằng các dụ ngôn
được kể lại trong bài Tin Mừng hôm nay hơi có tính cách cường điệu. Có mục tử
nào dám bỏ lại chín mươi chín con chiên trên cánh đổng rổi đi tìm con chiên bị
lạc mất? Có ai lại bỏ công tìm cho kỳ được đổng bạc trong khi mình còn chín đổng
nữa? Hay có người cha nào sẵn sàng đợi chờ, tha thứ cho đứa con đã đòi chia gia
tài và bỏ nhà ra đi?
Quả vậy, theo quan điểm của con người,
ít có khi nào xảy ra những điều như thế. Nhưng đối với Thiên Chúa, chẳng có gì
là cường điệu. Những câu chuyện này cho thấy thế nào là tình yêu, là lòng
thương xót của Thiên Chúa.
Tình thương không giới hạn
Con người được Thiên Chúa tạo dựng
do lòng yêu thương. Thế nhưng, con người đã từ khước tình yêu ấy qua việc ăn
trái cấm. Và Thiên Chúa đã không bỏ mặc con người dưới quyền thống trị của tội
lỗi, của sự chết. Nếu Thiên Chúa có trừng phạt con người thì cũng là việc xứng
đáng. Nhưng Thiên Chúa không xử sự như thế. Một tình yêu đích thực không thể bằng
lòng với việc trợ giúp cách chung chung, để rổi khi bị từ khước thì bỏ rơi
không còn đoái hoài gì tới. Nếu Thiên Chúa hành động như thế thì khó có người
được cứu, và Đức Giê-su đã không được sai đến trần gian.
Đàng khác, Thiên Chúa cũng chẳng
tính toán những hổng ân Người đã ban. Thiên Chúa không đưa cho con người một bản
tỗng kết những gì Người đã ban cho họ: ân sủng của Người tuôn chảy không ngừng,
tình yêu thương chẳng bao giờ vơi cạn. Nếu có kể ra những hổng ân, điều đó chỉ
có mục đích nhắc nhở con người hãy sống xứng đáng với hổng ân đã lãnh nhận để rổi
tiếp tục nhận được những ân huệ khác.
Cả khi con người đi lang thang phiêu
lãng, Thiên Chúa vẫn đuỗi theo. Không có chỗ nào con người ở một mình cả. Chẳng
bao giờ con người có thể tự nhủ Thiên Chúa bỏ rơi mình rổi. Một người thợ săn
kiên nhẫn, rình chờ con mổi, một người câu cá âm thầm chờ đợi. Thiên Chúa như
thế đó.
Thật vậy, chính lòng yêu thương đã
thúc đẩy Thiên Chúa tìm kiếm con người. Thiên Chúa đã tạo dựng con người, không
phải như một đổ vật, nhưng là để họ tham dự vào sự sống của Người, để sống
trong tình yêu thương. Nếu Thiên Chúa chỉ coi con người là một đổ vật, thì khi
bị lạc mất, Người có thể tiếc nuối, những rổi thôi, Người có thể lại có cái
khác, hay hơn, tốt đẹp hơn, và nhiều hơn nữa. Ở đây, các dụ ngôn cho thấy tính
cách lớn rộng của tình yêu: quan tâm đến tất cả, nhưng không bỏ rơi bất cứ ai,
dù người đó có thế nào chăng nữa. Vì tình yêu, Thiên Chúa không bao giờ cảm thấy
mệt mỏi, chán nản, chỉ cần là Người tìm lại được người tội lỗi, chỉ cần là họ cảm
nhận được tình thương của Thiên Chúa.
Vì thế, trong tình thương của Thiên
Chúa, không có ai là người bị bỏ quên. Mỗi người đều được Thiên Chúa quan tâm
săn sóc, mỗi người đều ở trong trái tim của Thiên Chúa, không có ai bị đẩy ra
ngoài, không có ai nhận được ít tình thương...
Hãy chia vui với tôi
Trong cả ba dụ ngôn, Đức Giê-su đều
kết thúc bằng những lời nói đến niềm vui. Người chăn chiên tìm được chiên lạc
thì vác chiên lên vai, và mời bạn hữu láng giềng đến chia vui; người đàn bà tìm
thấy đổng bạc đã mất cũng vậy; và người cha có đưa con đi hoang trở về thì mở
tiệc lớn ăn mừng.
Lý do của việc ăn mừng này đã rõ
ràng. Nhưng sau đó, Đức Giê-su muốn cho thấy niềm vui của Thiên Chúa khi người
tội lỗi hối cải. Ở dụ ngôn thứ nhất, "trên trời sẽ vui mừng vì một người tội
lỗi hối cải"; ở dụ ngôn thứ hai, "các thiên thần của Thiên Chúa sẽ
vui mừng vì một người tội lỗi hối cải"; và ở dụ ngôn thứ ba, "phải ăn
mừng, vì em con đây đã chết, mà nay lại sống; đã thất lạc, mà nay lại tìm thấy".
Tội nhân hối cải, không những được
tha thứ, nhưng còn được chờ đợi, được đón tiếp. Niềm vui của Thiên Chúa thật lớn
lao khi người tội lỗi biết từ bỏ con đường xấu xa, để trở về sống trong tình
thương của Thiên Chúa.
Có thể nói, Thiên Chúa không có niềm
vui nào khác ngoài việc con người sống thân mật với Người. Dù cho có thế nào
chăng nữa, Người vẫn chờ đợi họ, vẫn mở rộng vòng tay đón tiếp. Đây thực là một
lời an ủi và nhắc nhở cho con người. Là một lời an ủi, vì con người biết rằng
Thiên Chúa vẫn yêu thương họ và mong họ trở về với Người. Thiên Chúa vẫn đi tìm
họ, dù họ cố tình tránh né. Thiên Chúa vẫn thi ân giáng phúc, dù họ từ khước
không nhận. Là một lời nhắc nhở, vì nếu như tội lỗi đã làm Thiên Chúa phiền
lòng, thì Người sẽ còn phiền lòng hơn biết mấy khi con người từ chối tình
thương Người dành cho họ, mong họ trở về sống trong tình thương.
Hơn nữa, ở đây còn có lời mời gọi
chia sẻ niềm vui với Thiên Chúa vì người tội lỗi đã trở về. Kẻ từ chối chia vui
với Thiên Chúa cũng chính là kẻ phải trở về, phải sám hối. Kẻ từ chối chia vui
với Thiên Chúa cũng chính là người không nhận ra tình thương đích thực, và như
thế là họ đã từ khước tình thương của Thiên Chúa.
* * *
Ở giai đoạn đầu của lịch sử cứu độ,
sau khi con người phạm tội, Thiên Chúa đã lên tiếng hỏi, đang khi họ chạy trốn:
"Ngươi đang ở đâu?" Ngày nay, Thiên Chúa đã mở tiệc để thết đãi họ.
Nhờ sự tuân phục của Đức Giê-su Ki-tô, nhân loại đã được cứu thoát, đã được chữa
lành khỏi mọi thương tích, đã được tha thứ.
Đó là niềm vui của Thiên Chúa, hãy
chia vui với Người.
* * *
Phải tin vào Thiên Chúa
vì Người đã tin tưởng chúng ta.
Người đã làm cho chúng ta tin vào
Người,
khi trao cho chúng ta Người Con duy
nhất.
Phải tin vào Thiên Chúa
vì Người đã tín nhiệm chúng ta
đã làm cho chúng ta tin vào Người.
Chẳng lẽ sự tín nhiệm của Thiên Chúa
dành cho chúng ta
lại không được đặt đúng chỗ?
Thiên Chúa đã làm bừng lên nơi chúng
ta niềm hy vọng
Người đã khởi đầu.
Người mong rằng kẻ tội lỗi
sẽ làm một chút gì đó
cho ơn cứu độ của mình.
Một chút! chỉ cần một chút thôi!
phỏng theo Charles Péguy
47. Đã mất mà lại tìm thấy
Chúa Giêsu kể những dụ ngôn này
trong một hoàn cảnh đặc biệt. Các thầy dạy luật và các đạo sĩ Do thái lấy làm vấp
phạm khi thấy Chúa Giêsu giao du với những kẻ mà người Do thái đạo đức gọi là tội
nhân. Đạo sĩ Do thái đã xếp tất cả những ai không tuân giữ luật pháp vào chung
một hạng, họ gọi những người đó là ‘dân của đất’. Có một hàng rào ngăn cản dứt
khoát giữa những đạo sĩ Do thái và người ‘dân của đất’. Gả con gái cho một người
dân của đất thì chẳng khác gì trói cô gái ấy nộp cho sư tử. Luật của đạo sĩ Do
thái định rằng: “Khi có một người là dân của đất, thì đừng trao tiền cho nó, đừng
lấy chứng của nó, đừng nói điều bí mật cho nó, đừng đặt nó coi trẻ mồ côi, đừng
để nó giữ của bố thí, đừng đi đường với nó”. Có luật cấm đạo sĩ Do thái không
được mời một người dân của đất đến dùng bữa, cũng không được nhận lời mời của
ai trong hạng người đó. Luật cũng cấm đạo sĩ Do thái không được giao dịch thông
thường với họ, không được mua gì của họ hoặc bán gì cho họ. Các đạo sĩ Do thái
quyết tâm tránh hẳn mọi liên hệ với đám dân của đất, tức là những người không
giữ đủ các chi tiết tỉ mỉ trong luật pháp. Dĩ nhiên họ rất khó chịu khi thấy
Chúa Giêsu làm bạn với những người chẳng những thuộc hạng cùng đinh mà còn là tội
nhân nữa, vì liên hệ với hạng người này thì bị ô uế. Chúng ta sẽ hiểu các dụ ngôn
này đầy đủ hơn nếu chúng ta nhớ rằng người Do thái ngoan đạo không nói: “Cả
thiên đàng mừng vui vì một tội nhân ăn năn hối cải”. Nhưng họ nói: “Cả thiên
đàng mừng vui vì một tội nhân bị hủy diệt trước mặt Thiên Chúa!”. Họ hướng đôi
mắt độc ác chờ xem sự hủy diệt tội nhân chứ không mong chờ tội nhân được cứu
thoát.
Trước hết Chúa Giêsu nói cho họ dụ
ngôn về con chiên lạc và niềm vui của kẻ chăn. Chăn chiên ở xứ Do thái là một
công việc khó khăn và nguy hiểm. Đồng cỏ thì hiếm hoi. Cánh đồng cao nguyên ở giữa
xứ chỉ rộng chừng vài dặm thôi, còn phần nhiều là địa thế những khe trũng dốc đứng
và cảnh sa mạc hoang vu. Không có một bức tường chắn giữ nên chiên dễ đi lạc
đàn. Người chăn phải trực tiếp chịu trách nhiệm về bày chiên. Nếu một con chiên
bị mất, thì người chăn phải mang về nhà ít nhất là cái lốt chiên để chứng tỏ là
nó đã chết thế nào. Những người chăn chiên có tài theo dấu vết cách đặc biệt, họ
có thể theo dõi dấu chân của một con chiên đi lạc hàng dặm qua núi đồi. Không
có người chăn chiên nào không coi bổn phận mỗi ngày của mình là bỏ mạng sống
mình vì bầy chiên. Có nhiều bầy chiên là tài sản chung thuộc một làng và có hai
hay ba người chăn. Những người chăn có bầy chiên còn đầy đủ thì có thể về nhà
đúng giờ vào báo tin rằng còn có một người chăn đang lặn lội trên sườn núi để
tìm kiếm con chiên lạc. Cả làng sẽ chờ đợi, rồi khi thấy từ đàng xa một người
chăn chiên đang vội vã trở về, trên vai có một con chiên, cả làng sẽ reo vui cảm
tạ. Đó là hình ảnh Chúa Giêsu phác vẽ về Thiên Chúa. Người bảo Thiên Chúa cũng
thế, Ngài vui mừng vì tìm lại được một tội nhân đã lạc mất cũng như người chăn
tìm lại được con chiên đi lạc đem về chuồng.
Chúa nối tiếp tư tưởng bằng một dụ
ngôn khác. Đồng tiền nói đến ở đây là một đồng tiền nhỏ, dễ bị lạc mất trong
nhà dân quê xứ Palestin, và có khi phải mất rất nhiều thời giờ mới tìm lại được.
Nhà của người Do thái thường tối om, vì chỉ có một cửa sổ tròn đường kính khoảng
bốn mươi lăm phân. Nền nhà thì bằng đất nện được phủ bằng những tấm liếp sậy và
cành cây khô. Tìm kiếm một đồng bạc trên một nền nhà như thế khác nào tìm một
cây kim trong đống rác. Nhưng người đàn bà quét đi quét lại, tìm cho bằng được,
có hai lý do khiến người đàn bà sốt sắng và kiên nhẫn tìm kiếm đồng tiền.
1) Có thể vì nhu cầu.
Dù một đồng tiền không nhiều nhưng
nó cũng cao hơn công giá một ngày làm việc của một công nhân tại xứ Palestin. Họ
thường sống trong cảnh thiếu hụt và hầu như luôn bị nạn đói đe dọa. Có thể người
đàn bà nóng nảy tìm cho ra, vì nếu không, gia đình bà sẽ không có ăn.
2) Nhưng có thể còn có một lý do
khác thơ mộng hơn lý do trên.
Tại Palestin, dấu hiệu của người đàn
bà có chồng là một chiếc vành trên đầu làm bằng mười đồng tiền nhỏ bằng bạc xâu
lại với nhau bằng một sợi dây bạc. Trong nhiều năm, một cô gái làm lụng và để
dành cho đủ mười đồng tiền nhỏ đó. Bởi vì cái chuỗi trên đầu của nàng cũng đáng
giá gần bằng chiếc nhẫn cưới. Khi nàng đã sắm được nó thì trở nên của riêng
nàng, đặc biệt đến nỗi người khác không thể đoạt lấy của nàng món nữ trang đó để
trừ nợ. Có thể người đàn bà trong dụ ngôn đã đánh mất một đồng bạc thuộc loại
đó, và bà ta đã tìm kiếm nó như bất cứ người nào khác cũng làm thế khi đánh mất
cái nhẫn cưới vậy.
Vì thế chúng ta cũng dễ hiểu nỗi vui
mừng của người đàn bà khi tìm lại đồng bạc bị mất. Chúa Giêsu cho biết: cũng thế,
Thiên Chúa và các thiên sứ vui mừng khi một tội nhân ăn năn trở về, như khi một
gia đình vui mừng tìm lại được đồng bạc quyết định cái no hay đói của họ, hay
cũng giống người đàn bà đánh mất một tài sản có giá trị hơn tiền bạc rồi tìm lại
được.
Niềm vui lạ lùng này được sáng tỏ
hơn qua dụ ngôn người con hoang đàng. Theo luật Do thái, người cha không được
chia gia tài tùy ý mình thích, đứa con cả đương nhiên được hai phần ba, đứa con
thứ được một phần ba gia tài (x. Dnl 21,17). Không phải là một việc lạ khi một
người cha phân chia gia tài ngay khi còn sống nếu ông muốn được nghỉ ngơi khỏi
bận tâm buôn bán làm ăn. Nhưng có một sự trơ tráo nơi đứa con thứ khi chính nó
đề xuất việc chia gia tài. Khi nó nói vào mặt cha nó: “Cha hãy cho tôi ngay bây
giờ phần gia tài mà trước sau gì tôi cũng được lãnh sau khi cha chết, và hãy để
tôi ra khỏi nơi này”. Người cha không tranh luận gì, ông hiểu rằng nếu con ông
cần được một bài học thì nó sẽ có một bài học đắt giá, và ông đã cho như ý nó
xin. Tức khắc đứa con lấy phần dành cho nó và bỏ nhà ra đi…
Nó nhanh chóng tiêu xài hết tiền và
kết thúc bằng việc chăn heo, một công việc đáng nguyền rủa đối với người Do
thái. Và Chúa Giêsu cho nhân loại tội lỗi một lời khen lớn nhất chưa từng có:
“Khi nó hồi tâm tự nhủ, trở về với chính mình”. Chúa Giêsu tin rằng bao lâu con
người xa cách và chống lại Thiên Chúa, thì con người không thực sự là chính
mình khi đang trên đường trở về nhà. Nó quyết định trở về nhà và xin cha nhận lại
mình không phải để làm con, nhưng làm một tên nô lệ mạt hạng trong nhà, một tên
đầy tớ ở thuê, một tên lao động công nhật trong nhà. Theo một nghĩa thì người
nô lệ là một phần tử của gia đình, nhưng đầy tớ ở thuê thì có thể bị đuổi sau
khi chủ báo trước một ngày vì nó không thuộc về gia đình chút nào. Vậy khi đứa
con trở về, cha chàng không để chàng kịp mở miệng xin làm đầy tớ, ông đã lên tiếng
trước. Chiếc áo dài tiêu biểu cho việc được tôn trọng, chiếc nhẫn tượng trưng
cho quyền bính, đôi dày là dấu hiệu làm con, và yến tiệc được bày ra để mọi người
ăn mừng đứa con hoang nay đã trở về.
Nếu chúng ta chú ý, chúng ta sẽ thấy
ba câu chuyện xoay quanh một chủ đề: đã mất mà lại tìm thấy. Loài người bị mất,
Thiên Chúa mất loài người. Loài người đã bị mất tức là đã đi khỏi sự hiện diện
của Thiên Chúa, và đó là cái mất lớn lao nhất. Thiên Chúa không mất gì đáng tiếc
hơn mất loài người. Dụ ngôn nêu lên ba khía cạnh để giải thích giá trị của loài
người: con chiên bị mất, đồng tiền bị mất, đứa con bị mất.
Loài người có ba điều quý: tài sản,
tiền bạc và con cái. Cả ba đều mất, mất lớn lao đáng tiếc. Chúa không mất súc vật,
tiền bạc, nhưng mất loài người, mất cái quý báu nhất, không gì sánh bằng. Và
Ngài tiếc như ta tiếc của cải, tiền bạc, con cái.
Khi mất một phần trăm đã tiếc, mất
mười phần trăm tiếc hơn, mất năm mươi phần trăm tiếc hơn nữa. Nhưng Thiên Chúa
mất hết, mất từ thời Adam, nên Chúa lập cách cứu loài người: “Con Người đến tìm
kiếm những gì đã mất”.
Khi nghiên cứu nguyên nhân đưa tới
việc mất, chúng ta thấy khác biệt. Con chiên bị lạc mất vì hoàn toàn ngu dại.
Nó không biết suy nghĩ, nhưng có nhiều người sẽ tránh được tội lỗi nếu họ suy
nghĩ kịp thời. Đồng tiền bị mất vì không phải lỗi của chính nó. Có người đi lạc
đường vì bị kẻ khác lừa dối, và Thiên Chúa không kể là vô tội kẻ nào xui kẻ
khác phạm tội. Đứa con tự ý đi lạc, nhẫn tâm quay lưng lại với cha mình.
Nhưng Thiên Chúa có thể dùng tình
yêu của Ngài chiến thắng sự dại dột của con người, chiến thắng những tiếng cám
dỗ, và chiến thắng cả sự phản bội của con tim chúng ta nữa. Đứng trước một tình
yêu như vậy, chúng ta không thể không chìm trong kinh ngạc, ngợi khen và yêu mến
Ngài hơn nữa.
48. Đón nhận - Trao ban
lòng thương xót
Có thể nói cuộc đời của mỗi người
chúng ta từ lúc tượng thai đến lúc từ giã cõi đời là cả một chuỗi những sự đón
nhận. Chúng ta đón nhận sự sống từ nơi cha mẹ. Chúng ta cũng đón nhận sự chăm
sóc, nuôi nấng và dạy dỗ từ nơi cha mẹ. Và rồi chúng ta còn đón nhận bao nhiêu
sự chăm lo từ vật chất đến tinh thần từ những người thân quen, cả đến những người
chúng ta không hề biết mặt. Cũng vậy, là người có đức tin chắc hẳn không ai
trong chúng ta dám phủ nhận việc chúng ta đã, đang và sẽ mãi mãi đón nhận tình
thương từ nơi Thiên Chúa Đấng chúng ta tôn thờ.
Ba dụ ngôn nổi tiếng trong Tin mừng
Luca chương 15 hôm nay làm sáng tỏ về lòng thương xót vô bờ bến của Thiên Chúa
dành cho từng người trong chúng ta. Hình ảnh người chăn chiên có một trăm con
chiên lặn lội đi tìm cho bằng được cho được con chiên bị mất và vác trên vai
mang về. Hình ảnh người đàn bà có mười quan tiền thức đêm thức hôm tìm cho được
một đồng bị mất. Xúc động hơn là hình ảnh người cha nhân hậu có thái độ khoan
nhân đón nhận cả hai người con, cách riêng là với đứa con thứ hư hỏng trắc nết.
Sở dĩ Chúa Giêsu nói lên ba dụ ngôn
này là vì những người Pharisêu và các kinh sư đã có thái độ không bằng lòng khi
thấy Chúa Giêsu tiếp xúc cũng như đồng bàn với những người thu thuế và những
người tội lỗi.
Trong suy nghĩ của họ, Chúa Giêsu chỉ
được tiếp xúc với những người công chính. Còn những hạng người như vậy Chúa
Giêsu không được phép giao tiếp. Mà họ lại tự cho mình là những người công
chính.
Tuy nhiên, Chúa Giêsu đã có lần khẳng
định: "Người khoẻ mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần. Tôi
không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi sám hối ăn
năn." (Lc 5, 31b - 32)
Trước mặt Thiên Chúa tất cả mọi người
chúng ta đều là những con người đáng thương. Thiên Chúa sẵn sàng làm tất cả và
chẳng tiếc gì miễn sao chúng ta được sống và sống dồi dào hạnh phúc. Ai trong
chúng ta biết ăn năn sám hối trở về là niềm vui cho cả triều thần thiên quốc. Bởi
vì: "Tôi nói cho các ông hay: giữa triều thần Thiên Chúa, ai nấy sẽ vui mừng
vì một người tội lỗi ăn năn sám hối." (Lc 5, 10)
Chúng ta không thể đón nhận mà không
biết trao ban. Đón nhận càng nhiều bao nhiêu thì trao ban cần rộng lớn bấy
nhiêu: trao ban tình thương cho nhau, trao ban sự quan tâm lẫn nhau, trao ban sự
hy sinh cho nhau....Chúng ta trao ban cho những người thân yêu. Chúng ta trao
ban cho những người chưa quen biết. Thậm chí chúng ta còn được kêu mời trao ban
cho những kẻ thù nghịch với mình. Trao ban không phải là thái độ của người lớn
cho kẻ nhỏ mà là thái độ của những anh chị em con cùng một Cha - cùng một sự
đón nhận từ tình yêu của Thiên Chúa.
49. Suy niệm của Lm FX. Vũ Phan
Long
BA DỤ NGÔN VỀ LÒNG THƯƠNG XÓT CỦA
THIÊN CHÚA
Làm sao có thể tự nhận là môn đệ của
Đức Giêsu, khi khinh bỉ quay mặt tránh người anh em đang ở trong tình trạng bần
khốn nhất, do tội lỗi gây nên?
1.- Ngữ cảnh
Đoạn Tin Mừng chúng ta đọc hôm nay nằm
trong phân đoạn độc đáo nhất của Tin Mừng Luca (9,51–19,27): cuộc hành trình
lên Giêrusalem. Trong cuộc hành trình này, có đám đông dân chúng đi theo Đức
Giêsu.
Sau khi đã giáo huấn đám đông về những
điều kiện để làm môn đệ Ngươi (14,25-35), bây giờ Đức Giêsu dùng một số dụ ngôn
mà ngỏ lời với các người Pharisêu và các kinh sư, vì họ đã lẩm bẩm trách móc
Ngươi khi Ngươi tiếp đón những người thu thuế và tội lỗi, và cùng ăn uống với
những người ấy.
Ba dụ ngôn của chương 15 (con chiên
bị lạc mất [cc. 4-7], đồng bạc bị đánh mất [cc. 8-10], người con hư mất [cc.
11-32]) đã được gọi là “trái tim của Tin Mừng III” (Romaroson), vì được kết cấu
rất nghệ thuật để nêu bật được đề tài duy nhất là tình yêu của Thiên Chúa và
lòng thương xót đối với những kẻ tội lỗi qua lời Đức Giêsu kêu gọi hoán cải.
Hai dụ ngôn đầu nói về việc tìm được
cái đã mất, dụ ngôn thứ ba cũng triển khai cùng một đề tài, nhưng như một tổng
hợp với những hình ảnh được vận dụng rất tài tình. Trước đây dụ ngôn này vẫn được
gọi là “Dụ ngôn đứa con hoang đàng”, nhưng gọi là “Dụ ngôn người cha nhân hậu”
thì hợp lý hơn, bởi vì dung mạo trung tâm của truyện chính là người cha. Hoặc để
tương ứng với hai đầu đề của hai dụ ngôn trước, thì có thể gọi là “Dụ ngôn người
con hư mất”, nhưng nhớ rằng nhân vật chính là người cha, cũng như trong hai dụ
ngôn trước, nhân vật chính là người mục tử và người phụ nữ.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành hai phần:
1) Một dẫn nhập (15,1-3);
2) Ba Dụ ngôn về lòng thương xót của
Thiên Chúa (15,4-32):
a) Dụ ngôn Con chiên bị lạc mất và
được tìm thấy (cc. 4-7);
b) Dụ ngôn Đồng bạc bị đánh mất và
được tìm thấy (cc. 8-10);
c) Dụ ngôn Người con hư mất và được
tìm thấy (cc. 11-32).
3.- Vài điểm chú giải
- Tất cả những người thu thuế và những
người tội lỗi (1): Đây là những người ở bên lề xã hội Do Thái, những kẻ vô đạo,
sống vô luân. Họ đến nghe Đức Giêsu như đã từng đến nghe Gioan Tẩy Giả
(3,12-13). Tác giả Luca đã nói quá khi dùng từ ngữ “tất cả”, nhưng mục đích là
cho thấy chiều hướng căn bản của sứ điệp và cách xử sự của Đức Giêsu: Người đến
để tìm và cứu những gì đã mất, nghĩa là tất cả.
- lẩm bẩm (2): Cũng như ở 5,30 và sau này ở 19,7, thì vị hồn (imperfect)
cho hiểu đây là thái độ thường xuyên của người Pharisêu và các kinh sư.
- ông này (2): Đại từ chỉ định houtos có nghĩa xấu: “tên này”.
- Người nào trong các ông có một
trăm con chiên (4): Đây là một mục tử vô danh,
được dùng như biểu tượng của Thiên Chúa giàu lòng từ bi thương xót (xem Cựu Ước:
Tv 23,1-3; Ed 34,11-16).
- hơn là vì chín mươi chín người
công chính không cần phải sám hối ăn năn (7): Nếu chín mươi chín người này là các kinh sư và người
Pharisêu, thì câu kết này có giọng mỉa mai. Nhưng rất có thể đây chỉ là cách
tác giả Lc phóng đại niềm vui của Thiên Chúa khi có một người tội lỗi hối cải.
- mười đồng bạc (10): Đồng
drachmê là đồng bạc cổ. Chúng ta khó biết giá trị chính xác của đồng bạc này.
Có một thời người ta có thể dùng một đồng drachmê mà mua được một con chiên, hoặc
được nhận như lương làm việc một ngày. Vào thời hoàng đế Nêrôn, đồng denarius
được dùng đểthay thế đồng drachmê và coi như tương đương.
- Một người kia có hai con trai (11): Có thể giả thiết đây là một ông chủ trang trại giàu có xứ
Paléttina.
- phần tài sản con được hưởng (12): Theo tập tục xứ Paléttina, một người cha có thể định đoạt
về của cải của ông hoặc bằng một di chúc (HL. diathêkê) được thi hành sau khi
ông qua đời (Ds 36,7-9; 27,8-11) hoặc bằng một tặng-dữ ban cho các con trong
khi ông còn sống (HL. dôrêma; x. Hc 33,19-23). Trưởng nam được hưởng “hai phần
sản nghiệp”, nghĩa là gấp đôi phần được ban cho mỗi người con khác (Đnl 21,17).
Ở đây, vì chỉ có hai đứa con, người con cả được nhận hai phần ba và người con
thứ nhận một phần ba. Khi đó, người con có quyền sở hữu, nhưng quyền thu hoa lợi
vẫn thuộc về người cha cho đến khi ông qua đời. Nếu người con bán phần gia sản
của mình, người mua chỉ được nhận lấy sau khi người cha chết. Khi làm như thế,
người con sẽ không còn có quyền đòi hỏi gì về của cải, cả về vốn lẫn lãi.
- sống phóng đãng (13): Trạng từ asôtôs có nghĩa là “một cách không lành mạnh”.
Chúng ta không biết là “không lành mạnh” cụ thể là thế nào; ở c. 30, người anh
cả mô tả là “nuốt hết của cải với bọn điếm”, nhưng phải chăng anh đã phóng đại?
- chăn heo (15): Theo
Lv 11,7 (x. Đnl 14,8), con heo, tuy có chân chẻ làm hai móng, nhưng không là
loài nhai lại, nên bị coi là “ô uế” đối
với người Do Thái. Chi tiết này cho thấy sự sa sút của chàng trai.
- nhưng chẳng ai cho (16): Thế thì anh ta lấy thức ăn ở đâu, tác giả không nói, bởi
vì điều này không quan trọng.
- chạy ra (20): Chi tiết
này diễn tả sáng kiến của người cha, tình yêu bền bỉ của ông đối với đứa con đã
bỏ đi.
- và hôn lấy hôn để (20): Không
phải chỉ là để chào đón, nhưng là bày tỏ sự tha thứ (x. 2 Sm 14,33).
- Thưa cha … con (21): Người con lặp lại lời thú lỗi đã soạn trước (cc. 18-19),
nhưng trước khi anh ta kịp nói ra lời thỉnh cầu, người cha đã can thiệp rồi.
- áo đẹp nhất (22): dịch sát là “chiếc áo thứ nhất”, tức là áo hạng nhất. Như
thế, người cha không xử với người con như anh ta yêu cầu (“như người làm
công”), nhưng như một người khách được tôn kính.
- xỏ nhẫn… xỏ dép (22): Nhẫn
là dấu chỉ quyền bính (St 41,42; Et 3,10; 8,2); dép là dấu chỉ một con người tự
do.
- đã mất mà nay lại tìm thấy (24): Đây là cụm từ móc nối liên kết dụ ngôn này với hai dụ ngôn
trước.
- con hầu hạ cha (29): Người
con cả dùng động từ douleuein, “phục vụ”, “hầu hạ”, hàm ý là anh ta không chỉ tự
liệt mình vào hạng người làm công (misthios), nhưng là hạng nô lệ (doulos): “hầu
hạ cha trung thành như một tên nô lệ”.
- chẳng khi nào trái lệnh (29): Anh ta
ý thức về sự trung thành của anh, anh nhấn mạnh đến lòng trung thành này, tức
nêu bật điều nghịch lý ở đây là nhân đức lại được ban thưởng tồi tệ hơn là tật
xấu!
- một con dê con (29): Chi tiết này cho thấy người con cả không tin tưởng vào
cha, anh tính toán, kể công.
- thằng con của cha đó (30): Người
con cả diễn tả mức khinh bỉ cao độ; anh ta không thể chấp nhận nói về người con
thứ như là “em con”. Ở đây thêm một lần nữa, tính từ houtos được dùng với nghĩa
xấu.
- lúc nào con cũng ở với cha (31): Người cha không trách móc, than thở, không nói rằng người
con cả sai; ông cũng chẳng phê phán thái độ cao ngạo hoặc bình phẩm gì cả. Ông
coi mọi chuyện đó là đúng như thế. Nhưng ông chỉ nhấn mạnh trên sự liên kết
thâm sâu giữa cha con: “Lúc nào con cũng ở với cha” (= con chưa bao giờ chết;
con chưa bao giờ mất).
- tất cả những gì của cha đều là của
con (31): nghĩa là tất cả của cải (x. c. 12), những gì còn lại sau
khi người con thứ đã lấy đi phần của anh ta; tất cả những thứ này sẽ thuộc về
người con cả, sau khi cha chết.
- em con (32): Câu trả
lời của người cha làm vọng lại công thức của người anh, và là một cách sửa chữa.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Một dẫn nhập (1-3)
Đức Giêsu đã đến để cứu tất cả mọi
người; những người thu thuế và tội lỗi phải đến với Người bởi vì họ không gặp
được ở nơi nào khác lời đưa lại niềm hy vọng và sự tiếp đón ân cần nhưng-không.
Cách xử sự này khiến người Pharisêu và các kinh sư phải lẩm bẩm trách móc. Họ
trách Đức Giêsu hai điểm: đón tiếp người tội lỗi và ăn uống với họ. Các kinh sư
thường nói: “”Chớ có một ai đi giao du với những kẻ xấu xa, cho dù là thử thuyết
phục họ đi theo luật của Thiên Chúa”. Những người thu thuế và tội lỗi không được
thuộc về cộng đoàn, vì Thiên Chúa đã ngoảnh mặt đi tránh họ; do đó, Israel cũng
phải làm như thế. Vậy mà Đức Giêsu lại đón tiếp họ! Đã thế, Người lại còn ăn uống
với họ, tức là làm một việc đáng trách hơn nữa, vì ăn uống với ai là kết giao,
chia sẻ tình bạn, tình liên đới với người ấy.
Dẫn nhập này đưa lại cho [các] dụ
ngôn một đặc tính là biện hộ, là bào chữa cho cách xử sự của Đức Giêsu đối với
người tội lỗi. Qua cách xử sự này, Đức Giêsu cho thấy là sự hoán cải không là
điều kiện tiên quyết người ta phải có để được Thiên Chúa đón tiếp; trái lại
Thiên Chúa đã thực hiện “sự hoán cải” trước, để người ta có thể lại đi vào quan
hệ an bình với Ngài.
* Ba Dụ ngôn về lòng thương xót của
Thiên Chúa (4-32)
Từ dụ ngôn đầu đến dụ ngôn thứ ba của
chương 15, tác giả cho thấy có một sự tiệm tiến: một con chiên trong số một
trăm, một đồng bạc trong số mười đồng, rồi một đứa con trong số hai người. Bản
văn càng đi tới càng cho thấy rằng điều đã mất nay lại tìm thấy càng lúc càng
trở nên quí báu hơn.
Người mục tử, người phụ nữ và người
cha đều vô danh, bởi vì cả ba được đề ra như một biểu tượng của Thiên Chúa yêu
thương.
Một con chiên có giá trị của nó. Không
phải vì còn chín mươi chín con kia, mà con chiên bị lạc không đáng kể. Người mục
tử sẽ kiên nhẫn đi tìm con chiên lạc cho đến khi tìm thấy nó. Chín đồng bạc còn
lại vẫn không miễn cho người phụ nữ khỏi tha thiết đi tìm đồng đã mất. Một người
con thì còn đáng giá hơn muôn vàn con chiên hoặc đồng bạc. Các kinh sư dạy rằng
Thiên Chúa vui mừng khi người công chính sống lại, và kẻ gian ác phải tiêu
vong. Đứcd Giêsu lại nói rằng Thiên Chúa vui mừng khi kẻ gian ác được sống lại,
“trên trời cũng thế, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối,
hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần phải sám hối ăn năn” (c.
7). Ở đây không phải là một lời kêu gọi hãy phạm tội, nhưng là một lời mời gọi
hãy nhìn nhận rằng tất cả chúng ta là những kẻ tội lỗi trước mắt Thiên Chúa.
Không có một ai là “công chính” cả. Vị thần linh ban thưởng tùy theo các công
trạng chỉ hiện hữu trong tâm trí người Pharisêu (xưa và nay). Vị Thiên Chúa của
Đức Giêsu là một vì Thiên Chúa ban tặng nhưng-không ơn cứu độ cho tất cả chúng
ta mặc dù chúng ta không đáng nhận.
Giờ đây chúng ta suy niệm về truyện
người con thứ và người con cả. Thật ra, cả hai người con được nói tới chỉ là để
cho người cha có cơ hội diễn tả các tâm tình của ông ra.
a) Người con thứ:
Sau khi đã nhận đủ phần gia tài, người
con thứ đi đến một xứ xa xôi, hẳn là một miền đất dân ngoại. Tại đó, anh đã xài
hết tiền của. Rơi vào tình trạng khốn đốn, anh phải chăn heo: đây là sự sa cơ
thất thế cùng cực! Anh ta suy nghĩ. Nhưng không phải là hối hận về lối sống,
không phải là tiếc nuối vì đã làm cho cha đau buồn. Anh ta chỉ tự trách là ngu
ngốc chịu đói chịu khát ở đây trong khi các tôi tớ ở nhà có ăn dư thừa. Thế là
để có thể trở về và được nhạn vào nhà như người làm công, anh chuẩn bị một bài
“diễn từ cảm đông” để mong cha nguôi giạn: các lời lẽ hối tiếc không đi đôi với
các tâm tình của anh.
Quả thật hình ảnh này không tôn vinh
kẻ tội lỗi chút nào. Đây đúng là chân dung mà người Pharisêu chờ đợi.
b) Người con cả:
Lúc người con thứ trở về, người con
cả đang làm việc ngoài đồng. Khi trở về, anh nhận ra trong nhà có chuyện lạ.
Sau khi hỏi một người đầy tớ, anh ta hiểu chuyện; anh không thể chấp nhận được,
anh nổi giận. Ta thông cảm với anh. Vì anh không chịu vào nhà, người cha đã ra
gặp. Thế là anh cho tuôn ra hết những gì vẫn chất chứa tận đáy lòng: anh nói với
giọng chua cay, nhưng kể ra đúng các sự việc. Theo anh, đúng là người cha đã xử
sự bất công! Những người Pharisêu và các kinh sư cũng nghĩ rằng họ có lý khi tỏ
ra khó chịu với Đức Giêsu.
Trước tiên người con cả nói về chính
mình: “Bao nhiêu năm trời con hầu hạ cha, và chẳng khi nào trái lệnh”. Chắc chắn
đấy cũng là lý tưởng của người Pharisêu và các kinh sư: “phục vụ” Thiên Chúa bền bỉ, và rất chú ý để
không bao giờ vi phạm một điều răn nào.
Sau đó, người con cả nói về em với
giọng hết sức khinh bỉ. Anh không gọi là “em con”, nhưng nói là “thằng con của
cha đó”. Điều này cũng giống như người Pharisêu trong dụ ngôn Lc 18,10-14 nói đến
“tên thu thuế kia” với giọng miệt thị.
Như thế, Đức Giêsu đã ngỏ lời với những
người vẫn nghĩ rằng mình là những tôi tớ tốt lành, luôn quan tâm để không bao
giờ thiếu sót một điều răn nhỏ. Khi đó, họ nghĩ họ có nhiều quyền; họ tỏ ra khó
chịu, không phải đối với người tội lỗi, nhưng đối với chính Thiên Chúa vì Ngài
đã đối xử với kẻ tội lỗi như vậy: Nếu như thế, sống đạo đức còn ích lợi gì? Nếu
như thế, sống trung thành và vâng phục Thiên Chúa còn có ý nghĩa gì nữa?
c) Người cha:
Người cha trông mong người con thứ từng
ngày, nên ngay khi anh còn ở đàng xa, ông đã trông thấy. Ông vội vã chạy ra đón
con, ông cuống quýt thúc đầy tớ chuẩn bị lễ mừng. Ông chẳng màng đến bài diễn từ
bần tiện của anh ta. Ở nhà có con bê béo, ông quyết định cho giết ngay để ăn mừng.
Rõ ràng trong lòng ông, niềm vui đang bùng nổ. Ông chưa bao giờ thôi thương yêu
con. Nó đi xa, nó đã mất; nay nó lại được tìm thấy. Quá khứ không còn gì đáng kể,
Điều quan trọng là nó đã trở về!
Đã không muốn nghe lời hối lỗi của
con thứ, nay người cha lại để cho người con cả tha hồ nói lên những tâm tình
chua chát. Sau đó, ông đã trả lời với giọng dịu dàng âu yếm. Qua lời ông nói,
người con cả chẳng còn lý do gì mà nói rằng cha xử bất công với mình nữa. Nhưng
ông tế nhị điều chỉnh: “vì em con đây…”. Nếu cha đã sung sướng đến thế khi gặp
lại con, lẽ nào người anh lại không vui sướng khi gặp lại em?
Chúng ta không bao giờ biết được phản
ứng sau đó của người con cả (nghe theo đề nghị của cha? Đi vào nhà và chào em?
Đi vào ăn tiệc chung vui?). Chúng ta cũng không biết người con thứ được sống
theo chế độ nào, anh ta sẽ đáp lại thế nào. Dù sao, toàn chương 15 giống như một
bài ca chan hòa niềm vui được tấu lên để mừng niềm hạnh phúc của người đã tìm lại
được điều mà họ đã mất.
+ Kết luận
Nếu đọc cả ba dụ ngôn, chúng ta sẽ
thấy hai dụ ngôn đầu kết “có hậu”, còn dụ ngôn thứ ba có kết mở: Người con cả
có vào nhà theo lời cha mời chăng? Như thế, hai kết luận tốt đẹp đầu nhằm đưa tới
chúng ta một câu hỏi: Chúng ta có hết lòng chia sẻ niềm vui của Thiên Chúa mà
đón người tội lỗi hối cải vào Nước Thiên Chúa không? Trong thực tế, chúng ta vẫn
được Thiên Chúa vui lòng đón tiếp, chúng ta cũng hãy sẵn lòng đón lấy người anh
em trở về.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Mỗi con người đều có giá trị vô
song trước mặt Thiên Chúa. Ngài đã tạo nên từng con người
với tất cả những phong phú làm nên nhân vị con người ấy. Ngài hỗ trợ cho con
người ấy phát triển đến mức tối đa, để cuộc đời người ấy thành một tuyệt tác
cho Ngài và cho loài người. Khi chúng ta phục vụ anh chị em, chúng ta phục vụ từng
con người có giá trị độc đáo duy nhất, hay là chúng ta chỉ coi như là những con
số, những “con chiên” không tên tuổi, theo nhau lầm lũi trước mặt chúng ta?
2. Thiên Chúa thương tất cả mọi người
và muốn cho mọi người đều được cứu độ. Nhưng “tất cả” không
có nghĩa là một khối người tương đối đông, mà là “từng người”. “Tất cả” là “từng người” trong thế giới, không
bỏ sót một ai. Thiên Chúa chiếu cố đến từng con người y như chỉ có một mình người
ấy trên đời.
3. Chúng ta có thể thấy mình như người
con thứ: không phải là tên ăn cắp, chỉ lấy
đúng phần mình; chúng ta cũng còn biết nói “thưa cha!”, nhưng không hề vui
thích được ở với cha, mà chỉ muốn ra đi “ăn chơi” cho thỏa thích. Và mỗi khi gặp
khó khăn, thì chỉ dâng lên Thiên Chúa một lời cầu nguyện đầy vụ lợi, tính toán.
Người con thứ không biết nghĩ rằng xin làm một “người làm công”, thì sỉ nhục cha
quá nặng nề, bởi vì cha vẫn chỉ mong đón mình về để làm “con”. Nay được cha đón
vào nhà rồi, anh có biết đáp lại tình cha không? Phần này, chính chúng ta sẽ phải
viết tiếp bằng đời sống thực tế của mình.
4. Chúng ta cũng có thể thấy mình
như người con cả, không bao giờ trái lệnh cha,
nhưng cũng chẳng thích ở với cha; trái lại chỉ tính toán, mong có ngay “thoát
ly” để đi vui chơi với bạn bè. Đã thế, chúng ta lại tỏ ra khinh bỉ, miệt thị những
kẻ bị coi là “tội lỗi”. Nay đã được cha ra gặp để tâm sự rồi, anh có vào nhà để
chung vui không? Phần này, chính chúng ta cũng sẽ phải viết tiếp bằng đời sống
thực tế của mình.
5. Vì không hiểu tình yêu của cha, cả
hai người con, đặc biệt anh cả, không hiểu tiếng gọi kèm theo sự hiểu biết đó: anh chỉ thực sự là con của cha, khi yêu thương anh em mình. Ta
không thể phục vụ Thiên Chúa như Ngài muốn nếu không yêu mến Ngài và thông chia
tình yêu của Ngài cho anh chị em mình, cho dù họ thế nào. Làm sao có thể tự nhận
là môn đệ của Đức Giêsu, khi khinh bỉ quay mặt tránh người anh em đang ở trong
tình trạng bần khốn nhất, do tội lỗi gây nên?
50. Chú giải của Noel Quesson.
Tin Mừng hôm nay, nếu đọc đầy đủ, gồm
“ba dụ ngôn nổi tiếng về lòng nhân hậu, mà Luca đã tập họp trong chương 15: *1.
Con chiên bị mất và tìm lại được *2. Đồng bạc bị đánh mất và tìm lại được *3. Đứa
con đi mất và trở về. Ba dụ ngôn này được xây dựng trên cùng một sơ đồ và đạt đỉnh
cao trong dụ ngôn thứ ba mà nhan đề truyền thống là “dụ ngôn đứa con hoang
đàng”. Tuy nhiên, vì dụ ngôn thứ ba này đã được suy gẫm vào Chúa nhật IV Mùa
Chay của cùng năm Phụng vụ này, nên hôm nay chúng ta chỉ cần chú giải hai dụ
ngôn đầu.
Các người thu thuế và các người tội
lỗi đều lui tới với Đức Giêsu để nghe Người giảng. Những người Pharisêu và các
kinh sư bèn xầm xì với nhau: “Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với
chúng.
“Ông này đón tiếp phường tội lỗi, đó
là một định nghĩa về Chúa Giêsu, đồng thời cũng là một mạc khải của Thiên
Chúa!”. “Ai thấy tôi là thấy cha tôi” (Ga 14,9).
Những người Pharisêu và các kinh sư
là những người rất được trọng vọng. Họ thật sự bị sỉ nhục vì Đức Giêsu thường
tiếp phường tội lỗi. Phần chúng ta, chúng ta có thể hoàn toàn bỏ qua khía cạnh
“Tin Mừng” của ngày hôm nay, nếu chúng ta không nhận ra rằng bài Tin Mừng này
cũng vì chúng ta. Phải chăng chúng ta là những người nói rằng: “Tôi không làm
gì xấu, tôi là một người tử tế, tôi không có tội”.
Tuy nhiên, trong phần thư của Thánh
Phaolô mà chúng ta đọc hôm nay, thánh nhân lặp lại với chúng ta: “Đức Kitô
Giêsu đã đến thế gian, để cứu những người tội lỗi mà kẻ đầu tiên là tôi” (1
Timôtê I,15). Phụng vụ ngày Chúa nhật đầy rẫy thực tại “cứu độ” “tội lỗi được tha thứ”. Chúng ta có
đem lại một nội dung cụ thể cho các từ đó? Chúng ta có thuộc phái Pharisêu chỉ
nhìn thấy tội lỗi. Trong những người khác? Trước khi đi xa hơn trong sự suy niệm
của tôi, tôi cần phải bình tâm và sáng suốt nhận thực rằng tôi là kẻ tội lỗi”
khi nhớ đến những thiếu sót mà tôi phạm phải trong đời tôi.
Đức Giêsu mới kể cho họ dụ ngôn này:
Người nào trong các ông có một trăm con chiên mà bị mất một con, lại không để
chín mươi chín con kia ngoài đồng hoang để tìm cho kỳ được con chiên bị mất?”
Đức Giêsu hỏi. Người kêu gọi kinh
nghiệm của các cử tọa, các ông nghĩ gì? Các ông sẽ làm gì? Thật ra, không một mục
đồng nào chịu mất dù chỉ một con chiên, nhưng lo lắng để tìm lại nó.
Các triết gia đã biến Thiên Chúa
thành một ý niệm vững chắc: Một hữu thể bất động, không hề thay đổi... Còn ở
đây chúng ta đứng trước một Thiên Chúa “chuyển động”, đang mở chiến dịch tìm kiếm
cái mà Người đã mất? Và Đức Giệsu đặt trước mắt - chúng ta các cậu mục đồng
vùng đồi núi Galilê đang chạy hết tốc độ, chân trần trên sỏi đá để tìm lại một
con chiên đi lạc khỏi đàn. Chúng ta đoán được sự ngoan cường của các cậu trai ấy,
“tìm kiếm cho tới khi nào tìm thấy!”
Thiên Chúa là như thế...
Không bao giờ có người nào bị Thiên
Chúa bỏ rơi.
Không bao giờ có người nào “bị mất”
hẳn, bởi vì có Đấng yêu thương người ấy không ngừng đi tìm người ấy. Thiên Chúa
không chịu ngồi chờ kẻ tội lỗi trở về. Người ra đi tìm họ.
Chúng ta còn phải chiêm niệm lâu dài
Thiên Chúa đó, Đấng mà Đức Giêsu mạc khải cho chúng ta. Khi người ta yêu
thương, thì số học không còn như cũ. Lúc đó, có thể đặt dấu bằng (=) ở giữa số
1 và số 99. Đối với Thiên Chúa, mỗi người đàn ông, mỗi phụ nữ có một giá trị độc
nhất, vô giá. Tôi nhìn thấy con chiên độc nhất ấy đã bò trốn hoặc đã bị mất. Đó
là con chiên chiếm hết ý nghĩ của cậu mục đồng. Và xem ra chỉ có nó mới là đáng
kể. Chúng ta có một Thiên Chúa như thế. Một Thiên Chúa tiếp tục nghĩ đến những
ai đã bỏ rơi Người, một Thiên Chúa yêu mến những ai không yêu mến Người, một
Thiên Chúa đau khổ chỉ vì một trong số các con chiên của Người làm Người lo lắng.
Đôi khi, tôi chẳng phải là con chiên
đó sao? Và, xung quanh tôi, như ông nọ, bà kia, cô X..., ông Y... không người
nào bị bỏ rơi. Thiên Chúa đang tìm kiếm họ.
“Tìm được rồi, người ấy mừng rỡ vác
lên vai...”
Đây là một hình ảnh kỳ diệu, một
trong những tranh thánh đã thể hiện Đức Giêsu như thế ngay từ những thế kỷ đầu:
Một người chăn chiên sung sướng, tươi cười, vác trên vai một con chiên. Trong nội
tâm mình, chúng ta còn phải chiêm niệm hình ảnh ấy của Thiên Chúa. Đức Giêsu đã
có một sự quan sát rất tinh tế với chi tiết đơn giản đó: “vác con chiên trên
đôi vai”, khi một con chiên đi lang thang nhiều giờ hoặc nhiều ngày xa đàn
chiên, nó kiệt sức và nằm xuống. Thật ra phải vác nó thời. Và một con chiên nặng
đấy? Nhất là khi người chăn chiên cũng đã chạy nhiều giờ trên những ngọn đồi
nhiều sỏi đá dưới ánh nắng mặt trời... Chính người chăn chiên cũng rất mệt nhọc?
Nhưng, Đức Giêsu nói, hoàn toàn vui mừng, người đó quên đi sự mệt nhọc của
mình, bế nó lên tay và vác nó.
Chính Thiên Chúa được giới thiệu với
chúng ta như thế! Vả lại hình ảnh ấy không mới mẻ. Toàn thể Kinh thánh đã thể
hiện Thiên Chúa dưới những đường nét của “Người chăn chiên” (Isaia 40,11; 49,10
v.v...). Và mỗi Kitô hữu thỉnh thoảng phải đọc lại Thánh Vịnh 26 tuyệt vời:
“Chúa là đấng chăn dắt tôi, tôi không thiếu thốn chi”.
“Về đến nhà, người ấy mời bạn bè,
hàng xóm lại và nói: “Xin chung vui với tôi, vì tôi đã tìm được con chiên của
tôi, con chiên bị mất đó”.
Niềm vui của người chăn chiên rất mạnh
mẽ nên người ấy không thể, giữ lại cho một mình mình. “Xin chung vui với Ta”
Thiên Chúa nói. Vậy giờ đây Thiên Chúa là hữu thể đang vui mừng và chia sẻ nềm
vui. Chúng ta hoàn toàn khác với các người Pharisêu và kinh sư hay càu nhàu, bẳn
gắt!
Vậy tôi nói cho các ông hay: “Trên
trời cũng thế, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối, hơn là
vì chín mươi chín người công chính không cần phải sám hối ăn năn”.
Thiên Chúa vui mừng tha thứ cho những
kẻ tội lỗi.
Thiên Chúa vui mừng để cứu độ, vì
Người không biết kết án ai. Trên trời có niềm vui! Vậy khi nào? Mỗi lần một kẻ
tội lỗi hoán cải. Chỉ một thôi ư! Mỗi lần mà sự ác lùi lại một chút trên mặt đất.
Hoặc người phụ nữ nào có mười đồng
quan, mà chẳng may đánh mất một đồng, lại không thắp đèn, rồi quét nhà moi móc
tìm cho kỳ được?
Luca, vốn rất quan tâm đến các phụ nữ
là người duy nhất thuật lại cho chúng ta dụ ngôn đầy “nữ tính” này, để nói lại
với chúng ta cùng một sự việc dưới một hình ảnh bổ sung. Sự lặp lại này không
đơn thuần là một minh họa mới: Đức Giêsu nhấn mạnh, như để nói với chúng ta rằng
điều Người vừa mới mạc khải không phải là một sự nói quá hoặc một sự nhầm lẫn
ngẫu nhiên. Tình yêu phi thường của Thiên Chúa được tái xác nhận ở đây.
Tìm được rồi, bà ấy mời bạn bè, hàng
xóm lại và nói: “Xin chung vui với tôi vì tôi đã tìm được đồng quan tôi đã đánh
mất”.
Vậy giờ đây một niềm vui rất đơn sơ
được chia sẻ giữa những Người phận nhỏ. Đây cũng là một sự quan sát cụ thể của
Đức Giêsu. Người phụ nữ được đưa lên sân khấu này là một Người nghèo: Bà không
sở hữu “một trăm con chiên”, bà chỉ có mười “đồng quan “! Đồng quan này chỉ số
tiền lương trung bình một ngày công nông nghiệp (Mt 20;2). Vì thế không phải là
gia tài to lớn gì mà bà đã tìm lại được Nhưng bà cũng muốn chia sẻ niềm vui.
Thiên Chúa là như thế đó. Chúng ta còn chưa hiểu đủ bầu khí vui mừng xuất phát
từ tấm lòng của Thiên Chúa nằm rải rác khắp nơi trong toàn bộ Tin Mừng như một
“Tin Mừng”, và niềm vui ấy muốn tràn ngập nhân loại được “cứu thoát”.
“Cũng thế, tôi nói cho các ông hay:
Giữa triều thần Thiên Chúa ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối”.
Hình ảnh này rất đẹp. Không nên cụ
thể hóa nó. Có một cuộc lễ trên thiên giới. Niềm vui của Thiên Chúa lan truyền
và trở thành niềm vui của các thiên thần.
Tất cả lễ hội hân hoan này chỉ vì sự
hối cải của một người tội lỗi?
Tư tưởng Kitô giáo, phản ánh tư tưởng
của Đức Giêsu đầy sự tinh tế. Phải nhấn mạnh rằng, không hề có một sự làm hại
thanh danh với “tội lỗi” trong thái độ đó. Đức Giêsu không bao giờ nói rằng tội
lỗi không quan trọng. Trái lại, sự lên án của Người đối với tội lỗi thì mãnh liệt
và không chút mơ hồ. Như mọi ngôn sứ, Đức Giêsu đòi hỏi sự hoán cải và sám hối
(Máccô 1,15). Và nếu các dụ ngôn mà chúng ta vừa nghe là một lời rao giảng về
tình yêu Thiên Chúa thì chúng cũng là một lời rao giảng về sự hoán cải cần thiết
của kẻ tội lỗi. Nhưng điều được nói ở đây một cách mạnh mẽ là luôn luôn Thiên
Chúa có sáng kiến “đi tìm” điều đã bị mất. 'Tình yêu cốt ở điều này; không phải
chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Người đã yêu thương chúng ta trước”
(1Ga 4,10 -19).
Chúng ta có để Thiên Chúa yêu thương
chúng ta không? Chúng ta có mang lại niềm vui cho Thiên Chúa không? Và có bước vào
trong niềm vui của Thiên Chúa không? Cần phải đọc lại phần kế tiếp là dụ ngôn về
đứa con hoang đàng, trong Chúa nhật IV Mùa Chay.
51. Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
TIN VÀO SỰ THA THỨ ĐỂ LÀM HÒA VỚI
CHÚA VÀ VỚI ANH EM
Kính thưa quý OBACE
Trên tầm mức thế giới chúng ta thấy
các cuộc nội chiến tại một số quốc gia hiện nay dường như mỗi ngày một khốc liệt
hơn, anh em chém giết lẫn nhau. Các quốc gia khác, kể cả Tòa Thánh cũng đã nỗ lực
hết mình để mong tìm được giải pháp hòa bình, hòa giải cho các quốc gia nội chiến
này, mà dường như vẫn chưa đạt được kết quả như mong đợi. Quốc gia này còn đang
đánh nhau thì quốc gia khác lại bắt đầu khai chiến chém giết, đàn áp, trả thù…
con người dường như khó chấp nhận sự tha thứ và hòa giải với nhau. Ngay trong một
gia đình, một xóm nhỏ cũng đã xảy ra như thế, những cuộc cãi vã qua lại giữa
hàng xóm, giữa vợ chồng thường xuyên xảy ra, bởi vì ai cũng cho rằng mình là
người đúng, còn bên kia hoàn toàn có lỗi. Trong lãnh vực đời sống tâm linh đối
với Thiên Chúa cũng thế, nhiều người đã cố tình sai phạm, quay lưng lại với
Thiên Chúa nhưng họ vẫn cho là mình đúng, và tìm mọi cách để biện minh cho những
hành động sai trái của mình.
Thưa quý vị, con người chỉ có thể thực
sự hòa giải được với Thiên Chúa, làm hòa được với anh em khi mỗi người nhận ra
tình trạng sai lỗi của mình, tin vào sự tha thứ và quyết tâm làm lại cuộc đời.
Nếu như Chúa nhật tuần trước, Tin Mừng mời gọi chúng ta sám hối cách cụ thể
chân thành, thì Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta tin vào sự tha thứ của một
Thiên Chúa là Cha để trở về với Ngài làm hòa cùng Thiên Chúa và anh em, làm lại
cuộc đời mới.
Câu chuyện Người Cha nhân hậu mà
Thánh Luca thuật lại hôm nay, trước hết muốn diễn ta một Thiên Chúa là cha yêu
thương con người và sẵn sàng tha thứ cho những ngỗ nghịch của con người. Đứa
con thứ tượng trưng cho sự ngỗ nghịch ấy. Trong ánh mắt của người con thứ, người
cha dường như chẳng con vị trí nào quan trọng, mặc dù rằng ông yêu thương kể cả
chiều chuộng nó, ông đáp ứng cho nó đầy đủ không thiếu thứ gì. Khi khôn lớn,
người con thứ đòi chia gia tài của ông, ông cũng sãn lòng chia cho nó, rồi nó bỏ
nhà ra đi mang theo của cải của ông. Ông biết rõ, là nó sẽ phung phí hết số tài
sản đó, và nó sẽ không còn nhớ gì đến ông, nhưng ông vẫn đợi vẫn chờ. Đến khi
nó trở về với thân tàn ma dại quần áo tả tơi thì ông lại chạy ra ôm lấy nó mà
hôn, ông còn ra lệnh cho đầy tớ đem áo, đem nhẫn và giày dép mang vào cho nó và
còn giết bê béo ăn mừng với chỉ một lý do duy nhất: Vì con ta đã chết nay sống
lại, đã mất nay lại tìm thấy. Mặc dù nó trở về vời lý do khác, nhưng ông vẫn
tin vào sự trở về của nó và đã trả lại cho nó quyền được làm con cái trong nhà.
Điều đó cho thấy rằng Thiên Chúa không bao giờ thất vọng về tình trạng của con
người, dù con người có tội lỗi xấu xa, nếu biết quyết tâm chỗi dậy, thì Thiên
Chúa luôn tin vào sự hoán cải của con người, để đón nhận và tha thứ.
Đứa con thứ đã lao vào tình trạng tồi
tệ, tội của nó đáng chết đến trăm lần, nó đã bỏ tình yêu và cuộc sống hạnh phúc
trong nhà Cha để lao đầu vào cuộc sống hưởng thụ sa đọa, nó lấy tiền của cha nó
để ăn chơi đàng điếm. Chỉ khi nó sa cơ thất thế, không còn tiền bạc của cải,
không còn chỗ dựa nào nữa, nó đã rơi xuống tận đáy của xã hội, đến tột cùng của
sự nhục nhã nó phải đi chăn heo cho người khác, và thậm chí còn phải giành ăn đồ
ăn của mấy con heo. Chính từ lúc cùng quẫn nhục nhã đó, nó có cơ hội để nhìn lại
quãng đời của mình, và thấy rằng, chỉ có quãng thời gian ở trong nhà với cha là
quãng đời đẹp nhất và hạnh phúc nhất, trong khi đầy tớ trong nhà cũng được ăn uống
dư thừa, còn nó thì đang phảỉ đói khát phải sống cùng bầy heo. Nó tin rằng nó
trở về, thì cha nó sẽ tha thứ, sẽ đón nhận nó, dù cho nó sẽ phải sống kiếp đầy
tớ trong nhà, thì vẫn còn hạnh phúc hơn là cảnh xa nhà: Nó hồi tâm và tự nhủ
tôi sẽ chỗi dậy và trở về với Cha tôi và thưa Người rằng: Thưa Cha con đã lỗi
phạm đến trời và đến Cha, con không đáng được gọi là con cha nữa, xin Cha đối xử
với con như đầy tớ trong nhà của cha. Nhận ra tình trạng của mình, tin vào sự
tha thứ của Cha, và nó đã chỗi dậy làm một cuộc trở về với Cha, bỏ lại quá khứ
để làm lại cuộc đời, bắt đầu một cuộc đời mới, và nó đã đón nhận được sự tha thứ
vượt trên cả sức nó tưởng tượng. Người cha đã chạy ra ôm nó vào lòng, trả lại
danh dự cho nó, và đón nhận nó với niềm vui mừng hân hoàn: Vì con ta đã chết
nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy.
Nếu như lý do thúc đẩy cho sự trở về
làm hòa với Thiên Chúa là: Tin vào tình yêu tha thứ của Thiên Chúa, thì việc
làm hòa với anh em, đòi phải nhìn thấy tình huynh đệ con cùng một cha nơi người
anh em mình, để có thể tha thứ và đón nhận nhau, đó là câu chuyện xảy ra cho
người con cả. Anh này không chấp nhận và không tin vào sự hối hận trở về của em
mình, vì thế anh ta đã giận dỗi và từ chối không chỉ người em, mà vì giận người
em, anh từ chối không bước vào nhà cha nữa. Khi người ta giận dỗi nhau, thì người
ta cũng từ chối gặp mặt Thiên Chúa, đó cũng là thái độ của nhiều người hôm nay:
khi có vấn đề xích mích với anh em thì bỏ bê việc đến với Chúa. Người anh cả
này đã nhất định từ chối người em, và từ chối bước vào nhà cha để dự bữa tiệc
vui: Cha coi, đã bao năm tôi hầu hạ cha chẳng hề trái lời, vậy mà có bao giờ
cha cho riêng tôi được một con bê để ăn mừng với bạn bè. Còn thằng con của Cha
kia sau khi đã phung phí hết tài sản thì cha lại cho làm thịt bê béo để ăn mừng.
Anh đã tự mãn với đời sống hiện tại
của mình, anh ganh tị với người em, anh không nhìn nhận nó là em của anh nữa,
anh đã gọi nó là: thằng con của cha kia, chứ không phài là em tôi. Anh ở với
Cha, nhưng lại không cảm nhận được tình thương của cha, anh có đầy đủ, cả khối
tài sản được chia giống như người em, nhưng anh vẫn không thỏa mãn, anh còn
tham một con bê nhỏ. Anh không thể tha thứ khi nhìn em của anh được cha tha thứ,
anh muốn tiếp tục đẩy người em ra khỏi nhà, và khi anh giận dỗi với em mình,
thì anh cũng đã tự tách mình ra khỏi nhà của cha, trở thành kẻ đứng ngoài.
Thưa quý OBACE, người cha trong câu
chuyện của Tin Mừng hôm nay là hình ảnh của Thiên Chúa là cha yêu thương đang vẫn
đang ngày ngày đợi chờ chúng ta là những đứa con trở về với Ngài. Có thể chúng
ta giống như đứa con thứ đã xa lìa tình cha, vô ơn bội nghĩa với thiên Chúa, để
mình chìm đắm trong cuộc sống hoang đàng, song chúng ta không thất vọng, chỉ cần
mỗi người cũng hãy tự nhủ với mình rằng: Tôi sẽ chỗi dậy và trở về với cha tôi
và thưa với ngài rằng: thưa cha, con đã lỗi phạm đến trời và đến cha, và chỗi dậy
trở về, thì chúng ta sẽ được Thiên Chúa là Cha chạy ra ôm lấy chúng ta và tha
thứ cho chúng ta.
Cũng có thể nhiều khi chúng ta thấy
mình không đến nỗi tội lỗi, cũng không bỏ nhà đi hoang như người con thứ, thì rất
có thể chúng ta đang giống như người con cả, mặc dù vẫn ở gần Cha nhưng lòng
thì xa Cha, và nhất là chúng ta đang để trong mình sự so đo tính toán với cha,
ganh tị với anh em khác và cũng nhiều lần chúng ta đã khép lòng từ chối anh em,
và không cho họ có cơ hội trở về, và cũng nhiều lần vì ghét bỏ anh em, mà chúng
ta đã không đáp lại lời mời của Thiên Chúa từ chối tình thương của Thiên Chúa…
tất cả chúng ta đều được mời gọi trở về để xin lỗi cha và làm hòa với anh chị
em.
Thánh Phaolo đã cho thấy, tất cả
chúng ta đã trở nên tạo vật mới, con người mới, với cuộc đời mới, nhờ Đức Giêsu
Kitô, Đấng đã hòa giải chúng ta với Thiên Chúa, và vì thế chúng ta hãy mạnh dạn
đến cùng Thiên Chúa là cha, và nhất là mỗi người chúng ta đã lãnh nhận ơn tha
thứ của Chúa, thì chúng ta cũng phải biết đón nhận và tha thứ cho nhau.
Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi người,
mỗi gia đình, hãy mau chóng làm hòa cùng Thiên Chúa và làm hòa lại với nhau, đừng
ngại ngần, hãy bước đến với Thiên Chúa nơi Bí tích Hòa giải, để mỗi người sẽ cảm
nhận được tình yêu tha thứ của Thiên Chúa là cha, được an ủi và được chữa lành.
Hãy rà soát lại các mối tương quan với anh chị em, hãy gỡ bỏ những bất đồng
thành kiến, những giận hờn thù oán, hãy chủ động bước tới và đưa tay ra để bắt
tay người anh em, để xóa đi những mặc cảm và giận dỗi, để cùng nhau sống tình
huynh đệ con cùng một cha.
Xin Chúa cho mỗi người chúng ta đừng
bao giờ thất vọng về tình trạng của mình, nhưng luôn tin tưởng vào lòng bao
dung của Thiên Chúa để làm lại cuộc đời. Amen.
52. "Hãy chia vui với
tôi" – Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Trong ba dụ ngôn
của bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đều kết thúc bằng những lời nói đến niềm
vui. Người chăn chiên tìm được chiên lạc và vác chiên lên vai rồi về nhà mời bạn
hữu láng giềng đến chia vui; người đàn bà tìm thấy đồng bạc mất cũng mời lối
xóm đến chia vui; người cha có đưa con đi hoang trở về liền mở tiệc ăn mừng.
Ba dụ ngôn đều đề cao hình ảnh một
Thiên Chúa giàu lòng thương xót. Ngài xót xa khi một người lầm đường rơi vào tội
lỗi. Do đó Ngài tha thiết tìm cứu người tội lỗi. Khi cứu được một người tội lỗi,
Ngài rất vui mừng.
Chúa Giêsu bày tỏ niềm vui của Thiên
Chúa khi người tội lỗi hối cải. Ở dụ ngôn thứ nhất, "trên trời sẽ vui mừng
vì một người tội lỗi hối cải"; ở dụ ngôn thứ hai "các thiên thần của
Thiên Chúa sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải"; và ở dụ ngôn thứ ba
"phải ăn mừng, vì em con đây đã chết, mà nay lại sống, đã thất lạc mà nay
lại tìm thấy".
Tội nhân hối cải, không những được
tha thứ, nhưng còn được chờ đợi, được đón tiếp. Niềm vui của Thiên Chúa thật lớn
lao khi người tội lỗi biết từ bỏ con đường xấu xa, trở về sống trong tình
thương của Thiên Chúa.
Hôm nay xin suy niệm về dụ ngôn thứ
ba. "Dụ ngôn đứa con hoang đàng" được gọi là "Dụ ngôn người cha
nhân hậu" thì hợp lý hơn, bởi vì dung mạo trung tâm của câu chuyện chính
là người cha.
Đại văn hào người Anh, Charles
Dickens, xem dụ ngôn "Người cha nhân hậu" là câu chuyện hay nhất, là
hạt ngọc đẹp nhất của Tin mừng.
Tình thương của cha đối với hai con,
nổi bật nơi người con thứ.
1. Người con thứ
Người con thứ đòi Cha chia gia tài rồi
bỏ đi vô tình, rời khỏi ngôi nhà, nơi mình sinh ra, nơi mình được nuôi dưỡng và
lớn lên. Trẩy đi miền xa, người trai trẻ mang nổi khát khao mãnh liệt là ra khỏi
luỹ tre làng, muốn nhìn xem thế giới mới lạ bên ngoài, thích miền xa hơn là gần
gũi quê nhà. Người con thứ bỏ nhà ra đi với tiền bạc và lòng kiêu ngạo, quyết sống
riêng khỏi gia đình và cộng đoàn. Anh ta ra đi không phải để học hành, tìm việc
làm mà là ăn chơi đàng điếm, phung phí hết tài sản, sức khoẻ, bất kể đó là mồ
hôi nước mắt của cha mẹ, bất chấp tiếng tốt của gia đình. Chơi bời nên mau
chóng suy sụp. Anh ta trở nên hèn hạ khi đi chăn heo và muốn ăn thức ăn của
heo. Heo là con vật người Do thái ghê tởm.
Khi trở về chẳng còn gì: tiền bạc, sức
khoẻ, danh giá, lòng tự trọng... mọi thứ đã bị tiêu xài hoang phí. Anh ta chỉ
còn lại một điều duy nhất là "đứa con nhỏ của cha nó".
Động lực nào đã khiến nó trở về?
Thánh Luca viết rõ: "Hồi tâm lại, nó nói: biết bao người làm công cho Cha
tôi có dư thừa bánh ăn, còn tôi thì phải chết đói ở đây! Thôi, đứng lên, tôi sẽ
về cùng Cha tôi". Như vậy động lực nó trở về là đói, vì miếng ăn. Trước
khi bị đói chắc chắn nó không bao giờ nhớ đến Cha, không bao giờ sám hối vì bỏ
Cha ra đi, không thấy băn khoăn hồi tâm về mái ấm gia đình, nơi còn có Cha già
chẳng biết đau yếu ra sao, không thấy tiếc nuối vì phá tan cả sự nghiệp của
Cha. Khi bị cơn đói hành hạ, phải đi chăn heo, nó mới băn khoăn tìm đường về.
Cái hồi tâm, cái băn khoăn của nó là làm sao để được ăn. Nó dự tính nói với Cha
là nó trót phạm lỗi nghịch với trời, nó không còn đáng gọi là con, nó chỉ xin
được đối xử như người làm công.
Đó phải chăng là một cuộc trở về trọn
vẹn? Đó là cuộc lên đường được thúc đẩy bởi lòng sám hối hay sao? Sự thống hối
của nó chỉ là vị kỷ nhằm khả năng có thể sống sót thôi. Nếu người con thứ thành
công xây dựng cơ nghiệp, có lẽ sẽ không hiểu được tình Cha. Vì nếm mùi thất bại
chua chát của cuộc đời nên nó lên đường trở về. Nó không đủ can đảm đi làm người
ăn xin, nó không đủ liều mạng để đi trộm cướp, nó không dám đánh đổi cả cuộc đời
để gây tiếng xấu. Nó sống bằng nghề lương thiện là đi chăn heo, sống bằng sức
lao động của mình. Từ kinh nghiệm của vực thẳm này, nó mới hiểu được mặt trái
cuộc đời. Đó không là chốn nương thân cho kẻ nghèo khổ, không là chỗ hạnh phúc
cho kẻ khố rách áo ôm, không là chỗ cho kẻ cô thân cô thế. Vì vậy chỉ còn một
con đường duy nhất là trở về xin tha thứ và làm công cho Cha để có cơm ăn áo mặc.
Tất cả ý nghĩa của cuộc trở về được diễn tả cách cô đọng trong những lời
"Cha ơi... con không đáng gọi là con Cha nữa".
Đọc câu chuyện, tôi nhận thấy sự trở
về của người con thứ chẳng phải là mẫu mực. Sự trở về lý tưởng phải là sự trở về
của lòng sám hối với tình yêu tha thiết. Nhưng trong thực tế cuộc sống, khi ngồi
giải tội có nhiều hối nhân sau 5 năm, 10 năm thậm chí đến 20 năm, 30 năm mới trở
về cùng Chúa; mỗi người mỗi hoàn cảnh khác nhau. Những bầm dập của của cuộc đời,
những gian truân vất vả, những thất bại chua chát... đã cho họ rút kinh nghiệm
là cần trở về với Chúa, nguồn mạch của bình an nội tâm, của niềm vui và hạnh
phúc. Chính Chúa đã yêu thương, đã tác động và một khi nào đó như Chúa muốn họ
trở về cùng Ngài. Như thế họ đã chọn lấy sự sống. Gặp gỡ nhiều người như thế,
tôi cảm thông với người con thứ.
2. Người con cả
Hiếu thảo, vâng phục cha, không đi
hoang, không ăn chơi. Con người lao động cần cù có tinh thần trách nhiệm, không
rượu chè trác táng, chỉ lo ruộng rẫy nương vườn. Anh là con người mẫu mực. Thế
nhưng, biến cố đứa em trở về đã bộc lộ con người thật của anh.Tuy ở trong nhà
cha nhưng lại xa trái tim cha. Tại sao cha đãi tiệc bê béo cho thằng em bất hiếu,
còn anh một con bê nhỏ để vui với bạn bè cũng không có. Anh tức giận vì thấy
quyền lợi bị xúc phạm. Anh chẳng chịu vào nhà. Hoá ra cả hai người con vừa khác
lại vừa giống nhau. Cả hai đều ở ngoài nhà cha. Con thứ không thấy hạnh phúc
bên cha nên ra đi. Con cả không chia sẽ được hạnh phúc của cha nên không vào
nhà. Anh thiếu bao dung và thiếu sự tha thứ cho em. Thái độ của người con cả là
thái độ tiêu biểu của người biệt phái, luật sĩ hôm qua và hôm nay. Ích kỷ cho
quyền lợi riêng mình. Tự mãn về cách giữ luật "con không hề trái lệnh cha
một điều nào", tự hào về cách sống đạo " không như thằng con của
cha" Chỉ muốn kẻ lỗi lầm không được cứu thoát mà phải chết.
Lúc sự giận dữ bùng nổ đến cực điểm,
anh cả gặp lại tình cha. Cha đi ra năn nỉ, anh chẳng chịu nghe. Cha bộc bạch
tâm tình với anh: "con ơi, mọi sự của cha đều là của con, chúng ta phải ăn
mừng vì em con đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy". Lời cha làm
anh bàng hoàng xúc động vì anh hiều rằng mình quá ích kỷ, quá nhỏ mọn. Cái ích
kỷ làm anh tẩy chay sự trở về của đứa em. Cái nhỏ mọn làm anh làm anh xua tan
lòng bao dung của cha. Tình cha lớn hơn cuộc đời anh, lớn hơn tính ích kỷ trong
anh.
Hình ảnh người con cả thật gần với
chúng ta. Phụng dưỡng cha mẹ với trách nhiệm, chứ chưa phải là tình thương.
Không chia sẽ nổi buồn, nổi khổ tâm, nổi âu lo của cha mẹ. Chỉ biết than trách
và đòi quyền lợi cho mình thật nhiều. Ghen tị, chỉ trích phê bình, đặt mình là
tiêu chuẩn cho mọi việc đạo đức. Thiếu lòng bao dung, không chịu tha thứ. Hình ảnh
đó thật giống tinh thần biệt phái, có đạo mà không có đức.
Cả hai người con cần phải trở về.
Sám hối chính là trở về với tình cha, trở lại với tình yêu, tìm lại niềm vui và
sự sống.
3. Người cha
Khi chia gia tài cho con lòng cha
đau đớn. Vì tôn trọng tự do của con chứ không phải cha nhu nhược. Ngày nhìn con
ra đi, bóng nó nhạt dần cuối chân trời như cánh chim bay, lòng cha thấy trống
trải, muộn phiền vì thiếu vắng hình bóng con. Ngày ngày cha ngóng trông đợi con
trở về. Thế rồi một ngày kia, đứa con trở về thật. Nó về trong dáng vẻ thất bại
thảm hại, thất thểu rách nát. Thua cuộc đời nó về làm dấy lên những lời bình phẩm
của làng xóm. Giả như nó không về, người ta sẽ lãng quên. Nay nó trở về nhắc
cho bà con làng xóm thấy sự thất bại của gia đình ông. Con ông về trong thất bại
chua cay là câu chuyện đám tiếu đầu làng cuối xóm. Vậy mà ông mở tiệc ăn mừng.
Thật lạ lùng!
Ở đời, khi con thi đậu đại học, khi
con công thành danh toại vinh quy bái tổ, khi con là Việt kiều về thăm, cha mẹ
mở tiệc ăn mừng, mời bà con làng xóm đến chia vui. Người ta thường dấu kín chuyện
thất bại của con cái, người ta mắc cở không dám kể về đứa con bất hiếu, ngổ nghịch,
ăn chơi đàng điếm. Người ta chỉ khoe đứa con ngoan, tự hào đứa con học hành
thành đạt, vui mừng khi con có việc làm có sự nghiệp. Thế mà, người cha lại mở
tiệc lớn. Mừng đứa con trở về thất bại tả tơi. Khách mời ngỡ ngàng khi chủ nhà
giới thiệu con ông về nhà sau những ngày chăn heo đói khổ. Thế nhưng, người hiểu
tình yêu là gì, tình phụ tử là gì thì thông cảm và chia vui với người cha. Cha
đã tha thứ cho con trước khi con tự thú. Cha vui vì đứa con đã chết nay sống lại,
đã mất nay tìm thấy.
Dung mạo người cha đó, chính là
Thiên Chúa, Đấng giàu lòng xót thương. Thái độ người cha đối với hai đứa con là
thái độ của Thiên Chúa đối với con người. Trong trái tim Thiên Chúa chỉ có tình
thương. Người không có trí nhớ về tội lỗi con người. Cha yêu con dù con hư hỏng,
bất trung. Cha yêu con không vì con ngoan được việc, cha yêu con chỉ vì con là
con. Cha không muốn mất một đứa con nào. Thiên Chúa của Đức Giêsu mạc khải là
người cha nhân hậu, hiền từ, bao dung, hay tha thứ.
Hành trình thiêng liêng của cuộc đời,
cả hai người con trong dụ ngôn đều có mặt trong mỗi con người chúng ta. Nhiều lần
ta nghe theo cơn cám dỗ của thế gian xác thịt mà nên hoang đàng, hoang phí, gặp
thất bại đau khổ mới hối hận trở về với Chúa. Nhiều lần ta là con cả tưởng mình
đạo đức mà lên án tẩy chay người khác. Cần trở về với Cha, về với Thiên Chúa, Đấng
giàu lòng xót thương.
Để có được niềm vui trong Chúa, điều
căn bản là phải tin tưởng gắn bó cuộc đời với Chúa, phải thực lòng yêu mến
Ngài. Chính niềm tin và tình yêu dành cho Thiên Chúa thúc đẩy con người hoán cải
khi lầm lỗi. Cuộc sống sẽ vui tươi hạnh phúc khi chúng ta có Chúa trong cuộc đời
của mình. Niềm vui đức tin là niềm vui trong Chúa và có Chúa ở giữa chúng ta.
"Hãy chia vui với tôi",
Thiên Chúa vui mừng khi con người sống thân mật với Ngài trong tình cha con.
"Hãy chia vui với tôi", đó
cũng là lời mời gọi mỗi kitô hữu chia sẻ niềm vui đức tin với anh em mình trong
cuộc sống hàng ngày.
53. Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn
Hữu An
CHÚA GIÊSU TRỞ NÊN “NGƯỜI CON HOANG
ĐÀNG” VÌ CHÚNG TA.
Lm Jude Siciliano OP, viết suy niệm
trong bài “cuộc trở về an toàn”: Nếu từ “hoang đàng” có nghĩa là phung phí thái
quá, thì chúng ta có thể gọi cả hai cha con trong dụ ngôn hôm nay là hoang
đàng, tuy mỗi người một kiểu. Người cha về tình thương và người con về tiền bạc
vật chất. Theo thói quen chúng ta gọi dụ ngôn là người con hoang đàng. Nhưng
nhiều nhà mô phạm cũng gọi người cha là hoang đàng nữa. Ông đã phung phí tình cảm
trên hai đứa con vô độ, không có giới hạn nào. Người cha thế gian dù dễ dãi đến
đâu cũng phải có chút hạn chế cho những đứa con của mình. Đàng này, trước các lỗi
lầm của hai con, ông chỉ biết trông chờ, vui mừng và nài nỉ…Thiên Chúa là Đấng
phung phí lòng xót thương trên các tội nhân.
Người con thứ đòi cha chia gia tài.
Với tiền bạc, nó bỏ đi vô tình và ăn chơi trác táng. Hết tiền, nó đi chăn heo
và muốn ăn thức ăn của heo. Khi trở về, nó chẳng còn gì cả. Tiền bạc, sức khoẻ,
danh dự, lòng tự trọng… mọi thứ đã bị nó tiêu xài hoang phí.
Người cha mòn mỏi đợi chờ con trở về.
Kể từ ngày con cất bước ra đi, cha ngong ngóng mong con về. Đứa con đã trở về
thật rồi. Nó về vì chẳng có chỗ nào đón nhận, chẳng còn chỗ nào nuôi dưỡng, chẳng
còn người bạn nào tiếp đón. Không sao cả, con trở về là cha mừng vui. Người cha
không cần lời thú lỗi của con, cha đã tha thứ cho con rồi. Trong một thoáng,
khi đứa con chưa có một động tác nào thì người cha đã có 4 động tác: nhìn thấy,
chạnh lòng thương, chạy đến, ôm hôn. Trong một thoáng ngắn ngủi, khi chàng trai
tuổi trẻ còn bất động thì ông lão già nua đã thực hiện 4 động tác rất nhanh nhẹn.
Ông thật là người cha phung phí. Ông đã phung phí sức lực trong cuộc gặp gỡ với
đứa con trở về. Ông đã phung phí tiền bạc khi chia gia tài một cách dễ dãi. Ông
đã phung phí khi đem áo mới, giày mới, nhẫn vàng, lại còn tổ chức một bữa tiệc
mừng có bê béo, có cả đàn hát múa nhảy để đón đứa con đi hoang trở về. Làm thế
chẳng sợ hàng xóm cười cho sao! Tắt một lời, ông đã phung phí tình yêu thương.
Yêu thương quá độ. Yêu thương đến vô lý. Mà có lý lẽ nào giải nghĩa được yêu
thương? Chỉ có tình yêu thương mới giải nghĩa được những điều vô lý đó.
Nhiều người không chấp nhận lối hành
xử nhân lành của Thiên Chúa theo dụ ngôn “Người Cha nhân hậu”. Kiểu cách suy tư
và thái độ của người anh cả là một biểu trưng. Người anh cả tưởng rằng, Thiên
Chúa chỉ có nhiệm vụ thưởng người có công, phạt kẻ có tội. Người anh cả không
hiểu rằng, Thiên Chúa không thể đứng yên nhìn cảnh con người bị hư mất, chịu thất
bại trong ơn gọi làm người do chính Ngài tạo dựng nên; Ngài gìn giữ, yêu thương
quí mến, nâng niu trong bàn tay nhân hiền của Ngài hay sao? Ðể cứu rỗi loài người
khỏi hư mất, khỏi thất bại trong ơn gọi cao cả ấy, Thiên Chúa đã nhập thể làm
người, làm anh, làm cha, làm mẹ để đem người con trở về trong vòng tay yêu
thương của Ngài.
Anh Piere Marie người sáng lập Huynh
Đoàn Giêrusalem, một cộng đoàn các tu sĩ sống trong thành phố, đã suy niệm về
Chúa Giêsu như người con hoang đàng theo Phúc Âm một cách thú vị. Xin trích dẫn
tác phẩm “Người Cha Nhân Hậu” của Henri J. M. Nouwen, trong đó có một đoạn anh
Pierre Marie đã viết:
“Đức Giêsu được sinh ra không bởi
dòng dõi, ước muốn hay ý chí của con người, nhưng bởi chính Thiên Chúa. Một
ngày kia, Ngài đã để mọi sự dưới chân Người và ra đi với gia sản của Ngài, là
tước hiệu làm Con Thiên Chúa của Ngài…
Với giá chuộc tất cả, Ngài đã ra đi
tới miền xa... miền đất rất xa... nơi mà Ngài đã trở thành như con người và đã
làm trống rỗng chính mình. Chính dân của Ngài cũng không nhận biết Ngài và cái
giường đầu tiên của Ngài là một nệm rơm. Giống như một cây đâm rễ nơi đất khô cằn,
Ngài trưởng thành trước chúng ta, đã bị khinh bỉ là hạng thấp nhất trong con
người. Chẳng bao lâu Ngài đã nếm sự lưu đày, sự chống đối, sự cô độc... sau khi
đã cho đi mọi thứ trong đời sống cách rộng rãi, của cải, bình an, ánh sáng, sự
thật, chính đời sống của Ngài... mọi kho tàng hiểu biết, khôn ngoan và mầu nhiệm
đã được giữ kín từ muôn đời.
Sau khi đã hạ mình xuống ở giữa những
con cái hư mất của nhà Israel, Ngài đã phung phí thời giờ của Ngài với những
người đau ốm tật nguyền, với những người tội lỗi, ngay cả với những gái điếm,
Ngài cũng hứa cho họ vào Nước của Cha Ngài; sau khi đã bị đối xử như một tên
tham ăn, như một bợm nhậu, như một người bạn của bọn thu thuế và tội lỗi, như một
người Samaria, một người bị quỷ ám, một kẻ phạm thượng; sau khi đã hiến dâng tất
cả mọi sự, ngay cả thân xác và máu Ngài; và khi linh hồn Ngài cảm thấy một nỗi
buồn sâu xa, hấp hối, phiền sầu; sau khi đã đi tới đáy của sự tuyệt vọng, Ngài
muốn mặc lấy nơi mình sự bị bỏ rơi bởi Cha, lìa xa ngưồn Nước Hằng Sống, Ngài
đã kêu lên từ Thánh Giá nơi Ngài bị đóng đinh: ”Ta khát”. Ngài đã yên nghỉ
trong bụi đất và bóng đêm sự chết. Ba ngày sau Ngài Phục Sinh, chỗi dậy từ chiều
sâu ngục tối nơi Ngài đã xuống, Ngài đã mang lấy tội lỗi của chúng ta, Ngài đã
gánh hết những đau thương của chúng ta. Đứng thẳng, Ngài kêu lên: ”Phải, Ta lên
Trời với Cha Ta cũng là Cha của con, là Thiên Chúa Ta cũng là Thiên Chúa các
con”. Và Ngài đã trở lại Thiên Đàng...
Trong sự thinh lặng chiêm ngắm tất cả
con cái trong Người Con từ khi Người Con trở thành tất cả cho mọi người, Người
Cha nói với các tôi tớ: “Nhanh lên, hãy mang áo đẹp nhất mặc cho cậu, hãy xỏ nhẫn
vào tay cậu, giày vào chân cậu. Chúng ta hãy mở tiệc ăn mừng, vì con Ta đã chết
nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy... Người Con Hoang Đàng của Ta đã mang tất
cả mọi ngươì trở về...”
Và tất cả bọn họ bắt đầu dự tiệc,
mang trên mình chiếc áo trắng dài đã được giặt sạch trong máu của Con Chiên...”
54. Bài học về lòng
xót thương – Lm. Anmai
Có người nói rằng, xếp quyển Thánh
Kinh lại, chỉ để lại trang Luca chương 15 mà hôm nay chúng ta được nghe.
Chương 15 của Luca là một trong những
chương sách đẹp nhất của toàn bộ Thánh Kinh Tân Ước. Cả chương sách bừng lên niềm
vui chan chứa, niềm vui của tình yêu mà những ai sống trong quỹ đạo của ích kỷ
không cảm nếm được. Bối cảnh là những người thu thuế và tội lỗi đến với Chúa
Giêsu để nghe Người giảng, làm cho người Pharisêu và các kinh sư khó chịu. Bối
cảnh đó làm nổi bật lòng thương xót của Thiên Chúa đối với tội nhân và là lời cảnh
giác cho những kẻ tự hào mình là người công chính.
Trang Tin Mừng Tin Mừng Lc
15,1-3.11-32 đã từng được gọi là dụ ngôn đứa con hoang đàng. Với sự quyến định
trở về của mình, người con này được đề cao hơn cả cuộc đời hoang đàng của anh
ta. Ngày nay, người ta lại chuyển hướng và nhìn vào hình ảnh từ bi đại hải của
người cha. Nhìn như thế để như là trách khứ tấm lòng không bao dung, không nhân
hậu và miệt thị của người anh cả.
Dẫu sao đi nữa, dụ ngôn ngôn trên
đây có ý nghĩa rất phong phú liên quan đến cách sống và cách xử sự của cả ba
nhân vật: Người cha và hai người con. Dường như nhân vật nổi bật của dụ ngôn là
người anh cả. Bởi vì trong câu chuyện, những nhân vật đang nghe Đức Giêsu kể dụ
ngôn có cách sống và cách xử sự giống như người con cả.
Nét độc đáo nổi bật trong chân dung
của Luca về Chúa Giêsu đó là lòng thương xót. Trong sách Tin Mừng thứ ba, Chúa
Giêsu thường xuyên quan tâm đến người nghèo, các tội nhân, những người bị gạt
ra bên lề xã hội. Không phải các đạo sĩ nhưng chính những người chăn chiên mới
là người đến máng cỏ đầu tiên (2,8-18); Chúa đón tiếp người phụ nữ tội lỗi
nhưng có lòng thống hối (7,36-50); Chúa nói những điều tốt lành về người
Samaria (10,30-37); Chúa đến thăm người thu thuế (19,1-10); Chúa kể những dụ
ngôn tuyệt vời về lòng thương xót (chương 15). Các phụ nữ cũng chiếm vị trí đặc
biệt trong Tin Mừng Luca. Vào thời đó, phụ nữ chỉ là công dân hạng hai và bị
coi thường, nhưng Chúa Giêsu lại trân trọng họ (10,38-42), đón nhận sự giúp đỡ
của họ (8,1-3), và cho thấy đức tin kiên cường của các bà trong những giai đoạn
thử thách nhất (23,49; 24,1; Cv 1,14).
Tin Mừng Luca chương 15 được gọi là
các dụ ngôn về lòng thương xót, chương này gồm một lời mở đầu và ba dụ ngôn. Lời
mở đầu có tầm quan trọng đặc biệt, vì đó là chìa khoá để hiểu Đức Giêsu nói dụ
ngôn trong bối cảnh nào, có ẩn ý gì và nói cho ai. Người thuật chuyện cho biết
bối cảnh và lý do Đức Giêsu kể các dụ ngôn ở Lc 15,1-3: “1Các người thu thuế và các người tội
lỗi đều lui tới với Đức Giêsu để nghe Người giảng. 2Những người Pharisêu và các
kinh sư bèn xầm xì với nhau: ‘Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với
chúng.’ 3Đức Giêsu mới kể cho họ dụ ngôn này:…”
Lc 15,1-3 cho biết nhiều chi tiết
liên quan đến lý do Đức Giêsu kể các dụ ngôn. Trước hết là những người thu thuế
và những người tội lỗi đến với Đức Giêsu để nghe Người giảng. Tiếp đến là lời xầm
xì của những người Pharisêu và các kinh sư: “Ông này đón tiếp phường tội lỗi và
ăn uống với chúng.” Lời xầm xì này cho biết thêm hai yếu tố mới. Không chỉ là
việc những người thu thuế và tội lỗi đến với Đức Giêsu và nghe Người giảng, mà
chính Đức Giêsu tiếp đón họ và ăn uống với họ. Nghĩa là sự đón nhận đến từ hai
phía. Về phía Đức Giêsu, Người tiếp đón và ăn uống với những người thu thuế và
tội lỗi. Về phía họ, họ đến với Đức Giêsu để nghe Người giảng.
Dụ ngôn “Tìm chiên lạc” (câu 4-7) mô
tả Thiên Chúa như người mục tử bỏ 99 con chiên lại để đi tìm chiên lạc, và niềm
vui tràn bờ khi Ngài tìm lại được con chiên lạc, đến nỗi vác nó lên vai đem về,
và mời mọi người đến chung vui vì đã tìm lại được con chiên bị mất. Trong mắt của
Chúa, mỗi một con người, bất kể yếu đuối và tội lỗi đến đâu, đều là một nhân vị
độc đáo và không thể thay thế. Vì thế, Ngài chăm sóc từng con chiên và đau đáu
đi tìm khi nó lạc bầy. Chính vì thế, không ai có quyền thất vọng về tình thương
của Chúa vì tình thương ấy dứt khoát lớn hơn tội lỗi của chúng ta. Điều duy nhất
cần thiết là sám hối ăn năn, nghĩa là thay đổi cách nhìn, cách nghĩ và cách sống
của mình.
Trong chùm dụ ngôn về lòng thương
xót, dụ ngôn “Người con hoang đàng” vẫn là dụ ngôn nổi tiếng nhất, cả về văn
chương lẫn nội dung (15,11-32). Không phải vô lý mà có tác giả đã đề nghị đặt
tên cho dụ ngôn này là “Người cha phung phí” thay vì “Đứa con hoang đàng”. Bởi
lẽ trọng tâm của dụ ngôn không phải là sự phung phí của cải vật chất của đứa
con thứ, mà chính là lòng thương xót của người cha dành cho cả hai đứa con,
lòng thương xót vô bờ đến độ không thể hiểu nổi… cho nên được gọi là ‘phung
phí’ tình yêu.
Con đầu lòng được hưởng gấp đôi phần
gia sản theo luật lệ của người Do thái (Đnl 21,17). Và bởi thế, người con út
trong dụ ngôn được chia một phần ba sản nghiệp. Việc phân chia tài sản phải đợi
đến khi người cha qua đời theo lẽ thường của sự đời . Nếu như việc chia gia tài
tiến hành trước thời gian thì có những khoản về hình phạt đi theo đó. Tuy nhiên
điều quan trọng của luật ở khía cạnh tinh thần chứ không nằm ở khía cạnh lề luật.
Người con út đã đoạn tuyệt với gia đình, không thương tiếc cha mình, anh mình
sau khi có tài sản trong tay. Bất chấp tất cả, anh ta đòi hỏi chia gia tài rồi
bỏ nhà đi,. Với quyết định như thế, anh ta đem mọi sự theo mình và không có hi
vọng gì sẽ trở lại. Dĩ nhiên đây là sự mất mát lớn đối với gia đình, cách riêng
với người cha.
Phải chăn heo, đó là kết cục bi tham
cho cuộc sống phóng đãng và phung phí dẫn người con út. Chăn heo, với người Do
thái, gợi lên ý tưởng ô uế, “lạc đạo” và như thế, người con út đã đánh mất tư
cách là thành viên trong gia đình cũng như trong Dân Chúa. Trong dụ ngôn, người
con út thậm chí còn tệ hơn cả heo, vì “ao ước lấy đậu muồng heo ăn mà nhét cho
đầy bụng nhưng chẳng ai cho”.
Người con út hồi tâm khi đối diện với
nỗi cơ cực đến tột cùng. Được trở về nhà trong tư cách kẻ làm thuê, đó là ước
muốn của anh ta. Để cuộc trở về được thành công theo ước muốn, anh chuẩn bị kỹ
lưỡng những gì phải thưa thốt với cha mình, và lường trước sẽ bị mọi người tiếp
nhận bằng cái nhìn soi mói và nghi ngờ. Chuyện đặc biệt là dù thế nào đi chăng
nữa nhưng cha anh vẫn thương anh. Ông vẫn ngày đêm trông ngóng, và khi thấy con
ở đàng xa, “ông chạy ra ôm cổ anh ta và hôn lấy hôn để” (câu 20) đến độ người con không kịp
nói hết bài diễn văn đã soạn sẵn! Cuộc đoàn tụ này rất giống với cuộc đoàn tụ của
Esau và Giacóp (St 33,4). Giacóp nhớ đến tội ác mình đã phạm chống lại anh,
nhưng giống như người cha trong dụ ngôn này, Esau chỉ nghĩ đến hoà giải. Người
cha ra lệnh cho gia nhân chăm sóc mọi sự cho đứa con của mình, nào là áo, nào
là nhẫn, nào là bê béo… tất cả diễn tả sự nhìn nhận đây là đứa con của chủ nhà
chứ không phải tôi tớ. Không có chuyện hỏi tội, không có chuyện tra khảo, cũng
không có chuyện bàn bạc xem thằng con hư hỏng này có xứng đáng được tha tội
không… chỉ có điều quan trọng duy nhất là: “con ta đã chết mà nay sống lại, đã
mất mà nay lại tìm thấy” (câu 24).
Câu chuyện đẹp tưởng chừng đã hạ màn
với cảnh đẹp tuyệt vời như thế, không ngờ lại thêm cảnh khác xen vào. Người con
cả đã nổi đóa lên. Anh đã cố gắng, đã tự nhủ rằng anh đã cố gắng sống công
chính đến thế: “Đã bao năm con hầu hạ cha và chẳng khi nào trái lệnh” (câu 29),
thế mà “chưa bao giờ cha cho lấy một con dê con để ăn mừng với chúng bạn”. Và
nhân danh sự công chính đó, anh khước từ việc chia sẻ niềm vui với gia đình khi
“thằng con của cha” (chứ không phải đứa em của tôi) trở về. Lại một lần nữa, tình
yêu và lòng thương xót của người cha bừng sáng và xua tan mọi hận thù ghen
ghét. Ông đã bước ra đón đứa con hoang đàng thì ông cũng bước ra đón người con
cả, vì ông mong muốn cả hai đứa con đều được hạnh phúc. Anh con cả chỉ nhìn thấy
gia tài và nỗ lực làm việc của bản thân anh. Người cha không từ chối điều đó,
nhưng những điều đó đều không quan trọng bằng điều này là: một đứa con và một
người anh em đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy. Vì thế, mọi chuyện
khác đều phải dẹp sang một bên để “chúng ta phải ăn mừng, phải vui vẻ” (câu 32). Lại một lần nữa, tâm trí ta
nhớ đến câu chuyện Giacóp. Giống như Esau, đến giai đoạn cuối đời, Giacóp khám
phá ý nghĩa và tầm quan trọng của đoàn tụ, nên khi nghe tin Giuse vẫn còn sống,
ông quên hết những tội ác mà chính những anh em trong nhà đã gây ra cho Giuse,
và chỉ nhớ một điều: “Thế là đủ. Giuse con ta vẫn còn sống” (St 45,28).
Thiên Chúa, là Cha giàu lòng thương
xót, Ngài mãi mãi xót thương chúng ta. Chúng ta, có quay về với Chúa như người
em và chúng ta có bao dung cho em chúng ta khi em chúng ta lầm lỗi hay không, vẫn
là lời mời gọi lòng bao dung thương xót của mỗi người chúng ta.
55. Ai là con thực sự? Ai là người làm
công?
(Suy niệm của Lm Giuse Lê Minh
Thông)
Dụ ngôn người cha nhân hậu và hai
người con.
Tìm hiểu Lc 15,1-3.11-32
Nội dung
Dẫn nhập
1. Đức Giêsu kể dụ ngôn cho ai và để
làm gì?
2. Vị trí của ba dụ ngôn
3. “Con thứ đi hoang” xin được coi
như “người làm công”
4. “Con cả ở nhà” sống như “người
làm công”
5. Áp dụng dụ ngôn vào nhân vật
trong trình thuật
6. Áp dụng dụ ngôn cho độc giả
Kết luận
Dẫn nhập
Đoạn Tin Mừng Lc 15,1-3.11-32 đã từng
được gọi là dụ ngôn đứa con hoang đàng. Nhưng bản văn đề cao quyết định quay trở
về của người con này hơn là sự hoang đàng của anh ta. Hiện nay người ta thường
gọi là dụ ngôn người cha nhân hậu, nhưng có lẽ bản văn nhấn mạnh hơn đến sự
không nhân hậu của người con cả, là người đã trách cha và miệt thị em mình. Có
thể dụ ngôn trên đây có ý nghĩa rất phong phú liên quan đến cách sống và cách xử
sự của cả ba nhân vật: Người cha và hai người con. Dường như nhân vật nổi bật của
dụ ngôn là người anh cả. Bởi vì trong câu chuyện, những nhân vật đang nghe Đức
Giêsu kể dụ ngôn có cách sống và cách xử sự giống như người con cả.
Sự phong phú về ý nghĩa của bản văn
làm cho việc đặt một tựa đề thường là rất khó. Một câu chuyện mô tả ba cách
nhìn cuộc đời khác nhau của ba nhân vật thì không thể tóm tắt chỉ trong dăm ba
chữ. Có lẽ nên tìm hiểu ý nghĩa của dụ ngôn này trong bối cảnh văn chương của
nó, để từ đó có thể thưởng thức, lắng nghe và sống với dụ ngôn hơn là loay hoay
tìm cách đặt một tựa đề.
1. Đức Giêsu kể dụ ngôn cho ai và để
làm gì?
Tin Mừng Lu-ca chương 15 được gọi là
các dụ ngôn về lòng thương xót, chương này gồm một lời mở đầu và ba dụ ngôn. Lời
mở đầu có tầm quan trọng đặc biệt, vì đó là chìa khoá để hiểu Đức Giêsu nói dụ
ngôn trong bối cảnh nào, có ẩn ý gì và nói cho ai. Người thuật chuyện cho biết
bối cảnh và lý do Đức Giêsu kể các dụ ngôn ở Lc 15,1-3: “1Các người thu thuế và
các người tội lỗi đều lui tới với Đức Giêsu để nghe Người giảng. 2Những người
Pharisêu và các kinh sư bèn xầm xì với nhau: ‘Ông này đón tiếp phường tội lỗi
và ăn uống với chúng.’ 3Đức Giêsu mới kể cho họ dụ ngôn này:…”
Lc 15,1-3 cho biết nhiều chi tiết
liên quan đến lý do Đức Giêsu kể các dụ ngôn. Trước hết là những người thu thuế
và những người tội lỗi đến với Đức Giêsu để nghe Người giảng. Tiếp đến là lời xầm
xì của những người Pharisêu và các kinh sư: “Ông này đón tiếp phường tội lỗi và
ăn uống với chúng.” Lời xầm xì này cho biết thêm hai yếu tố mới. Không chỉ là
việc những người thu thuế và tội lỗi đến với Đức Giêsu và nghe Người giảng, mà
chính Đức Giêsu tiếp đón họ và ăn uống với họ. Nghĩa là sự đón nhận đến từ hai
phía. Về phía Đức Giêsu, Người tiếp đón và ăn uống với những người thu thuế và
tội lỗi. Về phía họ, họ đến với Đức Giêsu để nghe Người giảng.
Trong bối cảnh trên, “Đức Giêsu kể
cho họ dụ ngôn:…”. “Họ” – thính
giả nghe các dụ ngôn trong bản văn – chính là những người Pharisêu và các kinh
sư. Có thể hiểu thêm là có cả những người thu thuế và những người tội lỗi nữa,
vì bản văn nói về họ. Như thế, mục đích việc Đức Giêsu kể dụ ngôn là để giải
thích và trả lời cho câu hỏi đặt ra: Tại sao Đức Giêsu và những người thu thuế
và tội lỗi lại đến với nhau? Đây là điều mà những người Pharisêu và các kinh sư
cho là chướng tai gai mắt, nên dẫn đến việc xầm xì. Đồng thời, dụ ngôn cũng cho
biết thực chất về cách cư xử của họ.
Ngày nay, nhân vật “họ” là bất kỳ ai đọc bản văn. Thực vậy, độc
giả mới là thính giả đích thực của câu chuyện, vì bản văn được viết ra cho họ.
Độc giả trực tiếp là cộng đoàn Lu-ca cuối thế kỷ I, tiếp đến là độc giả qua mọi
thời đại, với tư cách là người đọc bản văn. Vậy, dụ ngôn này có ý nghĩa gì cho
độc giả? Câu chuyện này nói gì với độc giả là tất cả chúng ta ngày nay?
2. Vị trí của ba dụ ngôn
Trong Lc 15, Đức Giêsu kể ba dụ
ngôn, trong đó, hai dụ ngôn đầu tiên rất ngắn, nói về con chiên đi lạc (Lc
15,4-7) và đồng bạc bị đánh mất (Lc 15,8-10). Hai dụ ngôn này diễn tả tấm lòng
của Thiên Chúa dành cho những người lạc lối, qua hình ảnh người mục tử đi tìm
cho bằng được chiên lạc và người phụ nữ tìm cho bằng được đồng tiền bị mất. Điều
hai dụ ngôn này nhấn mạnh là chính Thiên Chúa đi bước trước để tìm kiếm những
gì đã mất. Áp dụng vào bối cảnh câu chuyện thì hai dụ ngôn đầu tiên muốn ám chỉ
Đức Giêsu, Người đến để tìm kiếm những con chiên lạc, tìm kiếm những gì đã mất.
Cụ thể là Người đến với những người thu thuế và tội lỗi để dẫn họ trở về với
Thiên Chúa.
Dụ ngôn thứ ba, tạm gọi là dụ ngôn
người cha nhân hậu, dài hơn và ý nghĩa phong phú hơn. Dụ ngôn thứ ba này bổ túc
thêm những gì hai dụ ngôn trước chưa diễn tả được. Điểm mới trong dụ ngôn này
là chính “con chiên lạc” tự tìm đường trở về với người mục tử, qua việc đứa con
hoang đàng quyết định trở về với cha của mình, chứ người cha không đi tìm. Như
thế, thay vì đi tìm chiên, đi tìm đồng bạc như trong hai dụ ngôn trước, thì dụ
ngôn thứ ba trình bày hoàn cảnh và tâm tư của những người đi lạc. Đi lạc theo cả
hai nghĩa: Bỏ nhà đi hoang (người con thứ) và đi lạc ngay tại nhà mình (người
con cả), anh ta ở nhà mà sống như người làm công.
Tóm lại, hai dụ ngôn đầu giải thích
tại sao Đức Giêsu tiếp đón và ăn uống với phường tội lỗi, dụ ngôn thứ ba giải
thích hành động tích cực của những người thu thuế và những người tội lỗi: Họ đến
với Đức Giêsu và nghe Người giảng. Dụ ngôn thứ ba còn cho biết thái độ của người
cha và đề cao sự tự do của hai người con trong sự lựa chọn của mình.
3. “Con thứ đi hoang” xin được coi
như “người làm công”
Người con thứ tự quyết định ra đi và
tự quyết định trở về sau khi học được bài học quý giá từ cuộc sống. Người cha
không ngăn cản con mình ra đi. Đó là cách tốt để người cha huấn luyện con mình
có trách nhiệm với lựa chọn của mình. Như thế, nhận ra mình đã lạc đường và can
đảm quyết định quay trở về là một bước tiến lớn trong sự trưởng thành nhân
cách. Anh ta đã đi một bước dài trong tiến trình tự đào tạo bản thân. Điều anh
ta tự nhủ đáng cho người đọc qua mọi thời đại học hỏi: “17Biết bao nhiêu người
làm công cho cha ta được cơm dư gạo thừa, mà ta ở đây lại chết đói! 18Thôi, ta
đứng lên, đi về cùng cha và thưa với người: ‘Thưa cha, con thật đắc tội với Trời
và với cha, 19chẳng còn đáng gọi là con cha nữa. Xin coi con như một người làm
công cho cha vậy.’ 20Thế rồi anh ta đứng lên đi về cùng cha” (15,17-20).
Hoàn cảnh sống và quyết định của người
con thứ là lời mời gọi độc giả hãy học lấy từ cuộc sống, từ những thất bại, những
bài học quý giá để làm cho mình trưởng thành hơn. Nhờ học trường đời mà người
con thứ đã can đảm làm lại cuộc đời và biết lấy quyết định đúng đắn, không mặc
cảm tự ti hay tự tôn, cũng không sợ mất thể diện.
4. “Con cả ở nhà” sống như “người
làm công”
Nhân vật phản diện của dụ ngôn người
cha nhân hậu là “người con cả”. Thái độ và cách xử sự của anh ta ám chỉ thái độ
của những người Pharisêu và các kinh sư. Lời xầm xì giữa họ với nhau được đặt
song song với lời người con cả trách cha mình và nhục mạ em mình: “29Cha coi,
đã bao nhiêu năm trời con hầu hạ cha, và chẳng khi nào trái lệnh, thế mà chưa
bao giờ cha cho lấy được một con dê con để con ăn mừng với bạn bè. 30Còn thằng
con của cha đó, sau khi đã nuốt hết của cải của cha với bọn điếm, nay trở về,
thì cha lại giết bê béo ăn mừng” (Lc 15,29-30). Lời trách móc cha (ám chỉ Đức
Giêsu trong lời xầm xì ở 15,2) và lời chối bỏ em mình (ám chỉ những người thu
thuế và tội lỗi ở 15,1-2) cho thấy người con cả đã không sống “tư cách làm con”
và “tư cách làm anh” trong gia đình. Những người Pharisêu và các kinh sư cũng
đang xử sự như người con cả.
Không sống và cư xử như một người
con, không đứng ở địa vị con cái, người con cả suy nghĩ và hành động như một đứa
ở trong nhà. Từ trước đến bây giờ anh ta không biết đến điều cha anh nói: “Con
à, lúc nào con cũng ở với cha, tất cả những gì của cha đều là của con” (Lc
15,31).
Người con cả cũng không sống tư cách
làm anh vì đã không đón nhận sự trở về của em mình. Anh ta đã phủ nhận tư cách
làm anh và hạ thấp em mình khi nói: “Thằng con của cha đó, sau khi đã nuốt hết
của cải của cha với bọn điếm, nay trở về, thì cha lại giết bê béo ăn mừng”
(15,30). Đó là “thằng con của cha” chứ không phải là “đứa em của con”, một đứa
em đáng quý trọng vì đã biết ăn năn hối cải trở về.
Điều trớ trêu và châm biếm trong bản
văn là tương phản giữa hai người con: Người con thứ quay trở về chỉ xin được
cha xem là “người làm công”, vì nghĩ rằng mình không xứng đáng “làm con”, thì
người con thứ lại được hưởng trọn vẹn quyền “làm con” qua các biểu tượng: Mặc
áo đẹp, đeo nhẫn, đi dép và dự tiệc mừng (15,22-23). Ngược lại người anh cả tự
cho mình là “người con gương mẫu”, đã có công “hầu hạ” cha trong nhiều năm, anh ta lại sống
và suy nghĩ “như người làm công”, “như người làm thuê”, “như đứa ở” chứ không phải là “người con thực sự”.
Tình trạng của người con cả trầm trọng
hơn nhiều so với việc bỏ nhà đi hoang của người con thứ. Bởi vì người con cả ở
nhà với cha nhưng không sống tư cách làm con mà anh ta lại không biết điều ấy,
nghĩa là vẫn nghĩ mình là đứa con ngoan và hiếu thảo.
5. Áp dụng dụ ngôn vào nhân vật
trong trình thuật
Người con cả tưởng mình là con cái
trong nhà, nhưng thực ra là không phải. Cũng vậy, những người Pharisêu và các
kinh sư tưởng mình thuộc về Thiên Chúa, làm công việc của Thiên Chúa, phục vụ
Thiên Chúa, nhưng thực sự không phải. Họ đang đi ngược lại ý định của Thiên
Chúa khi chống lại Đức Giêsu.
Sự tương phản giữa các nhân vật:
“con cả – con thứ”, “những người Pharisêu và các kinh sư – những người thu thuế
và những người tội lỗi” song song với nhau. Bên ngoài, người con cả ở nhà là đứa
con ngoan, chăm lo hầu hạ cha nhưng thực chất bên trong anh ta là đứa ở. Bên
ngoài, người con thứ bỏ nhà đi hoang, không nhận ra lòng thương xót của cha,
nhưng tự trong lòng, anh đã biết hối cải quay về. Như thế người con đi hoang trở
về mới là “người con đích thực”. Mạch văn cho phép hiểu: Những người thu thuế
và những người tội lỗi sám hối trở về với Thiên Chúa mới thực sự là con cái
Thiên Chúa. Còn những người Pharisêu và các kinh sư là những người làm thuê.
Liệu những người Pharisêu có hiểu và
có nhận ra sự trớ trêu này qua dụ ngôn không? Bản văn không cho độc giả biết,
vì dụ ngôn kết cách đột ngột với lời dạy của người cha: “31Con à, lúc nào con
cũng ở với cha, tất cả những gì của cha đều là của con. 32Nhưng chúng ta phải
ăn mừng, phải vui vẻ, vì em con đây đã chết mà nay lại sống, đã mất mà nay lại
tìm thấy” (15,31-32). Dụ ngôn kết dở dang ở đây để lại nhiều câu hỏi: Người anh
cả phản ứng thế nào trước lời dạy của cha mình? Liệu lời giáo huấn này có làm
người con cả thay đổi lập trường để biến tức giận thành niềm vui và trở lại làm
con cái trong nhà hay không? Liệu người anh có đổi cách suy nghĩ của người nô lệ
để sống và ứng xử với cha với tư cách là con và đón nhận em mình với tư cách là
anh hay không?
Khi áp dụng dụ ngôn cho những người
Pharisêu và các kinh sư, độc giả biết câu trả lời cho những câu hỏi trên là
“KHÔNG”, bằng chứng là trong phần tiếp của Tin Mừng, những người Pharisêu và
các kinh sư đã đeo đuổi cho đến cùng việc chống đối Đức Giêsu và họ đã góp phần
vào việc giết chết Đức Giêsu trên thập giá.
6. Áp dụng dụ ngôn cho độc giả
Những điều trên đây là diễn tiến
trình thuật trong Tin Mừng, điều quan trọng mà bản văn nhắm tới là quyết định của
độc giả, vì bản văn được viết ra cho độc giả. Ở đây là độc giả của cộng đoàn
Luca cuối thế kỷ I và cũng độc giả qua mọi thời đại. Độc giả nghĩ gì và quyết định
thế nào sau khi đọc trình thuật. Thiết nghĩ độc giả có thể rút ra ba bài học từ
câu chuyện:
1) Bài học nơi người con thứ. Dám quyết định, dám ra đi, dám sống hết mình, dám nhìn nhận sự
thật về mình, dám nhận trách nhiệm về sự lựa chọn của mình. Đáng phục hơn cả là
dám đứng lên, dám làm lại cuộc đời, dám quay lưng lại với quá khứ, dám hối cải
và trở về để sống trọn vẹn tư cách làm con trong tình yêu thương của cha mình.
Trong trình thuật, việc những người thu thế và tội lỗi “đến với Đức Giêsu và
nghe Người giảng” (15,1) được ví như là người con thứ đã can đảm hối cải trở về.
Vậy, độc giả đang ở giai đoạn nào trong hành trình tìm kiếm của người con thứ?
2) Bài học từ người anh cả. Có bao giờ chúng ta nghĩ mình là “con cái trong nhà” mà thực sự
đang sống như “người làm công” hay không? Trong tương quan với anh chị em mình,
làm thế nào để đón nhận và cùng chia sẻ trách nhiệm với anh chị em mình chứ
không dùng kiểu nói của người con cả: “Thằng con của cha đó”. Liệu lời dạy của
người cha có làm cho độc giả nhận ra sự thật trong tương quan với Cha trên trời
và với anh chị em mình không?
3) Bài học nơi cách xử sự của người
cha. Có nhiều điều để học hỏi nơi người cha về cách giải quyết những
vấn đề phức tạp và tế nhị trong cuộc sống. Có thể nói, khởi đầu dụ ngôn, người
cha có hai người con, nhưng trong thực tế lại không có đứa con nào cả. Một đứa
thì đi hoang, một đứa thì sống ở nhà với cha nhưng lại sống như một người làm
công chứ không phải là con. Làm thế nào để vừa tôn trọng tự do của đứa con muốn
ra đi, vừa biết chỉ dạy cho đứa con ở lại về cách thức làm con? Bản văn mời gọi
các bậc cha mẹ – cũng như những người có trách nhiệm trên người khác – biết áp
dụng cách giáo dục của người cha: Dùng tình thương để cảm hoá và tôn trọng sự tự
do để giáo dục sự tự do. Nhờ đó con người có khả năng lấy những quyết định đúng
đắn cho mình.
Cả ba bài học trên được trao vào tay
người đọc là tất cả chúng ta. Câu chuyện vẫn chỉ là câu chuyện, dụ ngôn vẫn mãi
mãi là dụ ngôn. Bản văn luôn là những gợi ý, những đề nghị chứ không trả lời
thay cho chúng ta.
Kết luận
Trình thuật mở đầu (Lc 15,1-3) và dụ
ngôn người cha nhân hậu với hai người con (Lc 15,11-32) vẽ lên một bức tranh với
nhiều màu sắc mạnh mẽ có khả năng dẫn người đọc đến suy tư và nhận ra chính
mình trong các nhân vật ấy.
Phần mở đầu (15,1-3) và phần dụ ngôn
(15,11-32) soi sáng cho nhau và nối kết chặt chẽ với nhau. Đứa con hoang đàng
sám hối trở về là hình ảnh của những người thu thuế và những người tội lỗi đến
với Đức Giêsu và nghe Người giảng dạy. Cách xử sự của người con cả là hình ảnh
của những người Pharisêu và các kinh sư. Họ tưởng mình phụng thờ Thiên Chúa,
nhưng khi chống đối và bách hại Đức Giêsu, họ đã lạc đường và không sống tư
cách làm con Thiên Chúa nữa. Tất cả những tình tiết trong toàn bộ trình thuật
được gửi đến độc giả như một lời mời gọi độc giả đọc ra được ý nghĩa của câu
chuyện.
Ước mong độc giả thưởng thức được những
chi tiết độc đáo trong bản văn, với những nét đẹp, nét tương phản, nét châm biếm,
cùng với những lời trách móc và sự hiểu lầm của các nhân vật… Nhờ việc sống với
bản văn và suy niệm dụ ngôn, người đọc sẽ được biến đổi để dần dần sống trọn vẹn
tư cách làm con và xây dựng tình anh em nhờ sự hối cải và trở về với Tình Yêu
đích thực của Cha trên trời.