SUY NIỆM LỜI CHÚA
CN 4 THƯỜNG NIÊN C
CN 4 THƯỜNG NIÊN C
MỤC LỤC
31. Video
Thánh Vịnh Nhóm thánh vịnh Nauy
32. Ngôn
sứ cho nơi khác Catholic.org.tw
33. Ngôn
sứ bị từ chối Lm
Carolô Hồ Bạc Xái
34. Thân
phận tiên tri Lm Giuse Đinh lập Liễm
35. Hôm
nay ứng nghiệm Lm, Gioan M. Nguyễn Thiên Khải, CMC
1. Tiên tri
Giêrêmia là một vị tiên tri sống vào thời dân Do Thái bị băng
hoại từ bên trong, và bị kẻ thù đe doạ từ bên ngoài. Tình hình ấy đã làm cho
ông hết sức đau xót. Có lẽ vì thế Chúa đã kêu gọi ông làm tiên tri cho đồng bào
của ông. Tuy nhiên, lần nào được Chúa kêu gọi, thì ông cũng đáp lại bằng một
thái độ miễn cưỡng vì ông biết rằng làm tiên tri nơi quê hương mình là điều rất
khó khăn. Nhưng rồi ông cũng phải lên tiếng và thẳng thắn nói với dân chúng con
đường duy nhất họ phải đi là canh tân đời sống, quay trở về với Chúa. Nghe ông
rao giảng dân chúng bèn nổi giận: Ông ấy là ai mà dám phê phán chúng ta.
Chúa Giêsu cũng đã cảm nghiệm được những khó khăn và bẽ bàng khi
lãnh nhận sứ mạng làm tiên tri ngay trong xứ sở mình. Đoạn Tin Mừng cho thấy,
dân làng Nadarét đã tức tối và lẩm bẩm: Anh ta là ai mà dám tự nhận mình là
Đấng Thiên Sai. Anh ta há chẳng phải là con ông Giuse thợ mộc đó sao? Sự căm
tức lên tới cao điểm khi họ định xô Ngài xuống vực thẳm.
Hẳn chúng ta còn nhớ lời ông già Simêon nơi cửa đền thờ: Trẻ này
sẽ là dấu chỉ cho người ta chống đối.
Nếu dân làng Nadarét đã đòi Ngài phải đưa ra bằng cớ chính mình
Ngài là tiên tri thế nào, thì các nhà lãnh đạo tôn giáo Do Thái cũng đòi buộc
Ngài phải chứng minh giáo lý của Ngài là chân thật. Nếu dân làng Nadarét đã tố
cáo Ngài là kẻ lộng ngôn phạm thượng thế nào, thì bọn biệt phái cũng đã thẳng
thừng kết án Ngài là khí cụ của ma quỷ. Nếu dân làng Nadarét đã tìm cách giết
Chúa thế nào, thì dân thành Giêrusalem cũng đã kêu la: Đóng đinh nó vào thập
giá.
Số phận của Chúa Giêsu cũng là số phận của chúng ta, nhưng môn
đệ của Ngài: Nếu họ đã bắt bớ Thầy thì họ cũng sẽ bắt bớ các con. Bất cứ ai
sống đúng địa vị người Kitô hữu cũng sẽ nhận ra sự thật ấy.
Tuy nhiên không vì thế mà chúng ta đón gió trở cờ, thấy khó khăn
là xoá bỏ đức tin, khước từ lối sống lành mạnh và lương thiện. Bởi vì Chúa đã
từng nói với chúng ta: Các con là muối ướp cho đời khỏi ươn thối. Các con là
tấm men làm cho khối bột là xã hội đang băng hoại phề phương diện đạo đức, được
dậy lên sự thánh thiện. Các con là ánh sáng chiếu soi vào thế gian tăm tối. Ánh
sáng của các con phải toả ra trước mặt mọi người, để họ nhìn thấy những việc
thiện các con làm, mà ngợi khen Cha các con ở trên trời.
Để kết thúc, tôi xin ghi lại nơi đây lời thánh Phaolô viết:
Người Kitô hữu chúng ta được Chúa kêu gọi để toả sáng như những vì sao giữa
lòng thế giới tối tăm này.
2. Những người thân.
Như chúng ta đã thấy Chúa Giêsu khởi sự công việc rao giảng của
Ngài. Thoạt đầu, Ngài đã gây được hứng khởi nơi người nghe. Thánh Luca viết về
những hoạt động của Ngài trong lúc này như sau: Danh tiếng Ngài lan tràn cả
miền chung quanh. Ngài giảng dạy trong các hội đường và được mọi người ca tụng.
Nhưng cũng chính thánh Luca đã cho chúng ta thấy một cách sống động rằng ngay
từ điểm khởi đầu này, lời giảng dạy của Chúa Giêsu đã tạo nên những chống đối.
Chẳng hạn ngày hôm nay, những người làng Nadarét sau khi đã ca ngợi Ngài, thì
họ bắt đầu thắc mắc về Ngài. Họ bàn tán: Ông này hẳn không phải là con bác phó
mộc Giuse hay sao? Và từ thắc mắc, họ đi đến chỗ căm thù, thậm chí còn muốn thủ
tiêu Ngài, như lời thánh Luca đã viết: Mọi người trong hội đường đều đầy lòng
căm phẫn, họ đứng dậy, đuổi Ngài ra ngoài thành và điệu Ngài lên tận triền núi,
nơi thành họ được xây cất, cố ý xô Ngài xuống cho chết.
Qua đoạn Tin Mừng này, chúng ta không khỏi liên tưởng tới lời mở
đầu của Tin Mừng theo thánh Gioan, trong đó thánh Gioan cũng đã viết: Ánh sáng
đã chiếu soi trong u tối, nhưng u tối không tiếp nhận ánh sáng. Ngài đã đến nhà
nhưng gia nhân đã không tiếp nhận Ngài. Từ đó chúng ta đi tới hai nhận định cho
việc sống đạo.
Nhận định thứ nhất đó là mầu nhiệm làm
người và mầu nhiệm cứu rỗi của Chúa Giêsu phải chăng chỉ là một? Cuộc khổ nạn
ngày thứ Sáu Tuần Thánh và cuộc sống lại vinh hiển ngày phục sinh, chỉ là phần
kết thúc của một tiến trình duy nhất, bắt nguồn từ lúc giáng sinh làm người?
Thái độ từ chối và chống đối của người Do Thái, không phải chỉ xuất phát từ
những tình cảm hời hợt bên ngoài, nhưng bắt nguồn từ một lựa chọn căn bản giữa
ánh sáng và u tối, giữa yêu thương độ lượng và hận thù ích kỷ. Chúng ta không
thể vừa theo Chúa lại vừa phủ nhận chương trình và đường lối cứu chuộc của
Ngài.
Nhận định thứ hai đó là như chúng ta đã
biết: Dân làng Nadarét đã tỏ ra cứng lòng, không tin những điều Ngài giảng dạy.
Sở dĩ như vậy là vì họ đã quá quen thuộc với bản thân Ngài, gia đình Ngài nên
mới có thái độ: Gần chùa gọi bụt bằng anh. Tại Nadarét, Chúa Giêsu bị chống đối
không phải bởi những người ngoại đạo, mà bởi những người có đạo, bị oán ghét
không phải bởi kẻ thù địch, mà bởi những người họ hàng thân thích.
Hình ảnh những người làng Nadarét của thánh Luca, cũng như những
hình ảnh gia nhân không tiếp đón Ngài của thánh Gioan, phải chăng là những hình
ảnh tượng trưng cho người tín hữu chúng ta. Bởi vì mặc dù đã biết Chúa mà nhiều
lúc chúng ta vẫn không tin Chúa. Mặc dù nhận lãnh những ơn lành của Chúa mà
nhiều lúc chúng ta vẫn lăng nhục và thù ghét Chúa. Mặc dù đã được Chúa thứ tha,
mà nhiều lúc chúng ta vẫn xua đuổi Chúa. Hãy khử trừ tội lỗi và hãy thực thi
những điều Chúa truyền dạy, để nhờ đó chúng ta không cứng lòng như những người
làng Nadarét, cũng như không xua đuổi Chúa như những gia nhân mà thánh Gioan đã
nói đến.
3. Tiên tri.
Có người đã mô tả các tiên tri trong Cựu Ước là những kẻ an ủi
những ai phiền não, nhưng đồng thời cũng là những kẻ gây phiền não cho những ai
tự mãn.
Chẳng hạn như tiên tri Giêrêmia. Ông sống vào thời kỳ dân Do
Thái đang bị băng hoại từ bên trong và bị quân đội ngoại bang đe doạ từ bên ngoài.
Tình thế như vậy làm cho ông rất đau xót vì ông yêu mến tổ quốc và đồng bào của
mình. Có lẽ vì thế, Chúa đã kêu gọi ông làm tiên tri cho quê hương mình. Thế
nhưng lần nào được kêu gọi ông cũng đáp lại một cách miễn cưỡng vì ông biết
rằng làm tiên tri nơi xứ sở mình là điều rất khó. Nhưng rồi ông cũng phải rao
giảng cho dân chúng con đường sống còn duy nhất là phải canh tân đời sống, quay
trở lại với Ngài. Nghe ông rao giảng như thế, dân chúng đã nổi giận và căm ghét
ông, đến ỗi co lần ông đã bị đánh đòn, có lần ông đã bị cột vào trong bao, có
lần ông đã bị xô vào đống phân.
Chúa Giêsu cũng đã cảm nhận được những khó khăn khi lãnh nhận sứ
mệnh làm tiên tri ngay trên quê hương mình. Ngài đã từng bị bà còn lối xóm
ruồng rẫy, họ định xô Ngài xuống vực thẳm cho chết luôn.
Suy nghĩ về thái độ của dân làng Nagiarét, chúng ta bỗng nhớ tới
lời tiên báo của ông già Simêon: Trẻ nhỏ này sẽ nên như dấu chỉ cho người ta
chống đối.
Lời tiên báo này đã trở thành sự thật. Nếu dân làng Nagiarét đã
từng đòi Chúa Giêsu trưng ra bằng chứng xác minh Ngài là tiên tri thế nào, thì
các nhà lãnh đạo tôn giáo Do Thái cũng buộc Ngài phải xác minh Ngài là Con
Thiên Chúa như vậy.
Nếu dân làng Nagiarét đã từng tố cáo Ngài là kẻ lộng ngôn thế
nào, thì bọn biệt phái cũng đã kêt án Ngài là dụng cụ của ma quỷ như vậy.
Nếu dân làng Nagiarét đã từng tìm cách giết Ngài thế nào, thì
đám đông dân thành Giêrusalem cũng hò hét: Đóng đinh nó đi, đóng đinh nó vào
cây thập giá.
Chúa Giêsu quả là đã bị chống đối và bị khích bác. Còn chúng ta
thì sao? Chúng ta hãy nhớ lại lời Chúa đã nói với các môn đệ: Nếu thế gian
đã ghét Thầy, thì họ cũng sẽ ghét các con.
Bất cứ ai cố gắng sống đúng danh hiệu người Kitô hữu sẽ hiểu
được những lời nói trên có giá trị như thế nào? Tuy nhiên, cho dù chúng ta có
bị ghét bỏ, có bị nhạo cười, nhưng cũng đừng vì thế mà từ bỏ nếp sống lương
thiện và trong sạch của mình. Lý do thật đơn giản vì Chúa đã từng nói với chúng
ta: Các con là muối đất. Các con là ánh sáng. Người ta không đốt đèn rồi để
dưới đáy thùng nhưng đặt trên giá đèn. Cũng thế, ánh sáng của các con phải toả
ra trước mặt mọi người để họ nhìn thấy việc thiện các con làm mà ngợi khen Cha
các con ở trên trời.
Hay như lời thánh Phaolô: Là Kitô hữu, chúng ta được Chúa mời
gọi để toả sáng như những vì sao giữa lòng một thế giới đầy tăm tối.
4. Cần cái nhìn mới để đón nhận sự thật
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)
Đức Giêsu trở về Nadarét, nơi Ngài được nuôi dưỡng và trưởng
thành, để rao giảng.
Cái nhìn cũ không thể nhận ra và đón nhận Đức Giêsu
“Hôm nay đoạn sách thánh các người vừa nghe được ứng nghiệm.”
Dân làng Nadarét hỏi nhau: “đây không phải là con ông Giuse sao?” Nếu người này
là con ông thợ Giuse, thì có gì lạ? Liệu ông ta có thể là người đặc biệt sao,
vì từ trước đến nay ông ta quá bình thường? Dân làng Nadarét không thể tin
được, một người bình thường trong làng ai cũng biết, lại có thể là một người
đặc biệt, Đấng Kinh Thánh đề cập tới.
Cái nhìn của người làng Nadarét cũng rất phổ thông đối với con
người thời đại này. Phán đoán đánh giá con người qua dáng vẻ bên ngoài, qua qúa
khứ. Nếu không dựa vào qúa khứ của một người mà xét đoán, thì dựa vào đâu?
Nhưng khi làm như vậy, là đã có thành kiến về người đó. Trong một làng quê,
người ta biết nhau từ nhỏ, biết cả tông ti họ hàng, nếu ai phạm một lầm lỗi nghiêm
trọng, người đó và họ hàng rất khó sống tại địa phương đó. Chỉ còn cách bỏ làng
mà đi. Trong một xã hội thời xưa, không dễ gì bỏ làng đi được, những người đó
khổ như thế nào.
“Đừng kết án để khỏi bị kết án”. Hơn nữa, cần có cái nhìn rộng
mở với mọi người, để có thể đón nhận những gì Thiên Chúa đang làm qua một
người. Một người qúa khứ tội lỗi, bây giờ Thiên Chúa có thể biến đổi họ, có thể
họ không như trước, có thể hiện tại họ là những người tuyệt vời. Theo kinh
nghiệm sống, điều này rất khó xảy ra, nhưng khó không có nghĩa là không có. Đối
với Thiên Chúa, tất cả đều có thể. Chị Maria Magdala là một điển hình.
Năm mới, xin cho chúng ta có cái nhìn “mới” về con người, đặc
biệt những người vẫn sống với chúng ta, để chúng ta lạc quan và trông cậy vào
Thiên Chúa hơn.
Khiêm tốn để đón nhận và cho đi
Sự đối kháng không chỉ ở mức độ không thích, không muốn nghe,
nhưng đã đến độ người làng Nadarét muốn giết Đức Giêsu. Họ dẫn Đức Giêsu tới
sườn đồi, và muốn xô Đức Giêsu xuống vực, nhưng Ngài đã băng qua giữa họ mà đi.
Được sống với Đức Giêsu, được là người đồng hương (cùng làng) với Đức Giêsu,
đáng lẽ là một ơn phúc, nhưng bây giờ lại là mối họa, là điều ngăn cản nhận
biết Đức Giêsu. Tại sao vậy?
Tiên tri không được đón nhận tại quê hương mình. Vì người ta cho
rằng họ đã biết rõ về con người đó. Và như vậy, con người đó đâu có gì để mình
học, đâu có gì đặc sắc để mình phải lắng lòng. Không cần gì thêm, là một thái
độ tự mãn, không thể đón nhận gì khác được, ngay cả Thiên Chúa. Người ta thường
ví người tự mãn như một ly đầy nên không thể nhận gì hơn. Nếu không nhận, đâu
có gì để cho. Một đại dương hay một dòng sông, luôn sẵn sàng đón nhận khe suối
hay những giọt nước dù rất nhỏ, nên có thể cho mãi mãi mà không bao giờ cạn.
Một người tự mãn tự kiêu thường lấy mình làm tiêu chuẩn, và
không mở lòng ra đón nhận sự thật. Vì coi mình vượt trên người khác, nên khi
thấy người khác “có vẻ” coi thường mình, thì họ sẵn sàng hạ bệ hoặc tiêu diệt
người khác. Đó là lý do tại sao người làng Nadarét muốn xô Đức Giêsu xuống vực.
Xin cho con có tâm hồn khiêm tốn, để con có thể đón nhận Đức
Giêsu và Tin Mừng cứu độ trong đời sống từng ngày của con.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Hiện tại không ai trong chúng ta thấy Thiên Chúa bằng mắt
trần, nhưng bạn có tin rằng Thiên Chúa đến với bạn mỗi ngày không? Xin bạn cho
vài thí dụ.
2. Có khi nào bạn “thấy” Thiên Chúa đến với một người bạn quen
qua biến cố nào đó, nhưng người đó không nhận ra? Tại sao vậy, và làm sao để có
thể nhận ra Thiên Chúa đến với mình?
3. Tết này dịp bạn về quê, đâu là dự định của bạn? Điều bạn dự
tính có ích lợi gì cho cha mẹ, anh chị em, bạn bè, người thân, người yêu không?
4. Năm mới, nếu cho bạn một điều ước, bạn sẽ ước điều gì?
5. Đức ái – Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Tiên tri Giêrêmia được sinh ra trong một gia đình thuộc dòng tư
tế ở miền Bắc Giêrusalem. Thiên Chúa đã gọi, thúc giục và tác động cách mạnh mẽ
trong tâm hồn của ông ngay khi còn thơ trẻ. Giêrêmia chấp nhận sứ mệnh ra đi
giữa bao thử thách và khó khăn. Sứ mệnh của ngài kéo dài qua nhiều thập niên
trong lịch sử của cộng đồng Giêrusalem. Ngài đã tiên báo về sự đe doạ và sụp đổ
của thành Giêrusalem. Tiên tri có cá tính riêng và rất mạnh mẽ chịu đựng những
khổ cực cùng với đoàn dân. Giêrêmia đã giúp mọi người nhận ra những hậu qủa xấu
mà họ phải gánh chịu do sự bất trung và tội lỗi gây nên. Đôi khi ông cũng cảm
thấy đuối sức và ngại ngùng, nên đã muốn chối từ sứ vụ đặc biệt này. Nhưng cánh
tay của Chúa luôn dẫn dắt ông trong mọi nẻo đường. Ông thố lộ tâm tư qua sự mạc
khải: "Trước khi cho ngươi thành hình trong dạ mẹ, Ta đã biết ngươi; trước
khi ngươi lọt lòng mẹ, Ta đã thánh hoá ngươi, Ta đặt ngươi làm ngôn sứ cho chư
dân." (Gr 1,5). Chúng ta biết rằng sứ mệnh tiên tri là một ơn gọi đặc biệt
vì là trung gian giữa Thiên Chúa và dân Người. Thiên Chúa hứa ban sức mạnh và
đồng hành cùng ông trong cuộc hành trình đầy gian nan này. Đối diện với sự
ruồng bắt và cái chết, ai mà không lo sợ cho tính mạng của mình. Giêrêmia cũng
không ngoại lệ, ông cũng là con người mang nhiều sự yếu đuối và lỗi lầm như mọi
người. Sứ điệp của ông là kêu gọi mọi người hãy ăn năn sám hối để trở về cùng
Thiên Chúa. Ông đã đặt niềm tin vào Chúa là kiên thuẫn và dũng lực. Thiên Chúa
hứa: "Chúng sẽ giao chiến với ngươi, nhưng sẽ không làm gì được, vì sấm
ngôn của Thiên Chúa, có Ta ở với ngươi để giải thoát ngươi." (Gr 1,19)
Giêrêmia đã trung thành với sứ vụ được trao ban và đã chứng kiến bao cảnh thăng
trầm của Dân Dothái từ năm 627 tới khoảng năm 587 BC.
Sứ mệnh khó khăn của các tiên tri là phải đối đầu với đời sống
con người thế tục. Các nhà cầm quyền đã dùng mọi ảnh hưởng để loại trừ thần
quyền ra khỏi cuộc sống. Họ dùng sức mạnh và bạo lực của thế quyền để đàn áp,
tẩy chay và loại trừ các nhân chứng của sự thật và công chính. Lòng người thế
trần bị nhuốm màu tội lỗi vì sống thả theo bản năng thú tính và tìm thoả mãn
mọi đòi hỏi của tham sân si. Nhiều người không còn muốn nghe những lời khuyên
răn luân lý đạo đức. Đôi khi họ cho rằng những người sống đạo hạnh, công chính
và chân thật là những người dại khờ. Phải tranh đấu để sống. Sống là phải hưởng
thụ. Chúng ta biết đời sống là cuộc chạy đua. Không phải mọi người đều nhận ra
được con đường chính thật. Người ngu mà biết mình ngu là người có trí. Người
ngu mà tưởng mình có trí thì càng ngu hơn. Không biết chính mình là người vô
minh và ngu đần. Đôi khi họ lại tưởng nghĩ mình là người khôn ngoan và sành
đời. Luôn tìm cách tiêu diệt những người công chính và coi họ như là cản mũi kỳ
đà.
Chúa Giêsu biết rất rõ về số phận của các nhân chứng cho sự
thật. Từ xưa, số phận các tiên tri hoặc ngôn sứ đã thường bị bách hại, xua đuổi
và tẩy chay. Chính Chúa Giêsu cũng đã cảm nghiệm điều này ngay tại quê quán
mình: "Tôi bảo thật các ông: không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê
hương mình." (Lc 4,24). Làm nhân chứng cho sự thật giữa một xã hội bị tục hoá
như hiện nay là một sự dấn thân hy sinh và từ bỏ. Các trào lưu xuôi dòng đang
cuồn cuộn kéo lôi con người như thác lũ đi vào cuộc sống hưởng thụ thế tục.
Nhiều nhà cầm quyền có xu hướng chạy theo thị yếu và mị dân chấp thuận những
khuynh hướng của nền văn minh sự chết. Các thế hệ trẻ hiện nay dễ bị đầu độc
bởi nền văn hóa thụ hưởng rất tinh tế và nhẹ nhàng qua cách suy tưởng và phán
đoán thuận theo đa số. Là Kitô hữu, chúng ta không thể chạy theo những trào lưu
hào phóng bên ngoài, nhưng phải biết tìm kiếm nguồn chân thiện mỹ. Hãy yêu
chuộng những vẻ đẹp của đời sống lương tâm tự nhiên đã được in ghi trong tâm
hồn. Chúa Giêsu về lại làng quê mình để gặp gỡ và truyền rao sứ mạng cứu độ.
Người đồng hương ngạc nhiên về lời giảng dạy của Chúa nhưng họ không mở lòng đón
nhận chân lý. Họ đòi hỏi và thách thức quyền năng của Chúa: "Họ đứng dậy,
lôi Người ra khỏi thành, thành này được xây trên núi. Họ kéo Người lên tận đỉnh
núi, để xô Người xuống vực." (Lc 4,29) Chúa Giêsu đâu làm gì nên tội để bị
đối xử tệ như thế. Có lẽ tâm hồn của họ bị khép kín và trái tim bị đóng băng
lạnh lùng. Họ không chấp nhận lời giảng và cũng không đón nhận chính Chúa. Họ
đã vào hùa với nhau chống báng và xua trừ Chúa để khỏi phải nghe những lời chân
thật. Chúa Giêsu cùng đồng số phận với các tiên tri bị người đời ngược đãi và
thế gian chống đối ghét bỏ.
Số phận các ngôn sứ hôm nay cũng không khá hơn các vị tiền bối.
Những nhà truyền giáo và các nhân chứng sự thật đều phải đối diện với hiện
trạng thờ ơ và lạnh nhạt trong đời sống luân lý, đạo đức. Dù trong hoàn cảnh
nào, xem ra sự kiện có thực mới vực được đạo hay đi đạo lấy gạo mà ăn vẫn có
thể kéo lôi nhiều người. Khi cuộc sống ổn định về kinh tế và tài chính, đời
sống đạo cũng nhờ đó mà thăng hoa. Chúng ta chấp nhận rằng thực tế cuộc sống
luôn đòi hỏi phải đáp ứng những nhu cầu cụ thể trước. Chính Giáo Hội cũng đang
nỗ lực giúp đỡ những vùng truyền giáo xa xôi. Họ thiếu thốn cả tinh thần lẫn
vật chất. Nhân chứng sự thật không thể tách rời khỏi những nhu cầu căn bản cuộc
sống của người dân.
Một điều rất quan trọng mà thánh Phaolô nhắn nhủ chúng ta:
"Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác
tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho
tôi." (1 Cr 13,3) Đức mến là cốt lõi của việc ra đi làm nhân chứng. Là
nhân chứng cho Chúa Kitô, chúng ta không thể thiếu tình yêu chia sẻ. Nếu tất cả
mọi việc phục vụ tha nhân với trái tim yêu thương, sẽ mang lại niềm vui và ý
nghĩa đích thực. Yêu rồi làm. Tình yêu sẽ thăng hoa tất cả. Phaolô khuyên dạy:
"Đức mến thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không
tự đắc, không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi
hận thù, không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân
thật." (1 Cr 13,4-6)
Đức ái là nhân đức tuyệt hảo. Chỉ có tình yêu mới có thể tha
thứ, bao dung và liên kết nên một. Tình yêu như lửa hun đốt và hâm nóng những
tâm hồn nguội lạnh. Một thái độ cảm thông yêu mến có thể xoá nhoà mọi lỗi lầm.
Một cử chỉ yêu thương có thể khơi dậy niềm hy vọng. Một dấu ấn tình yêu có thể
đổi đời. Một lời nói dễ thương có thể vỗ về tâm hồn nguội lạnh. Ôi tình yêu
thật diệu vời! Ai trong chúng ta cũng có trái tim để yêu, chỉ cần chúng ta biết
mở cửa trái tim để trao ban và đón nhận. Tình yêu như dòng sông nước chảy, càng
chảy càng thấm nhuần. Yêu là cho đi và cũng là đón nhận. Một tình yêu tuôn trào
sẽ tạo nguồn sống tươi vui và hạnh phúc. Chúng ta đang ngụp lặn trong biển
tình: tình Chúa, tình gia đình và tình nhân lọai. Tình yêu chính là lẽ sống. Lạy
Chúa, Chúa là Tình Yêu. Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của kẻ dám hiến
thân mình vì bạn hữu. Chúa đã hiến mình vì yêu thương chúng con. Xin cho chúng
con biết yêu mến Chúa và yêu thương tha nhân. Chỉ có đức mến mới tồn tại muôn
đời: "Hiện nay đức tin, đức cậy, đức mến, cả ba đều tồn tại, nhưng cao
trọng hơn cả là đức mến." (1 Cr 13,13).
6. Không được chấp nhận.
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Tin là thái độ căn bản trong cuộc sống. Chẳng ai có thể sống mà
không tin. Không tin người này nhưng lại tin người kia. Không tin lý thuyết này
nhưng lại tin giả thuyết nọ. Thành ra ai cũng phải chọn một niềm tin. Không
phải chọn một cách vu vơ, mù quáng, nhưng một cách sáng suốt và tự do.
Điều khó là giữ cho lòng mình được tự do thanh thoát, không bị
những định kiến ràng buộc hay tư lợi chi phối, nhờ đó chúng ta dám chọn sự
thật, dù sự thật đó làm đổ nhào mọi điều ta nghĩ, và xoay lại hướng đi của cả
đời ta.
Có lẽ dân làng Nagiarét ít có thứ tự do này.
Khi Đức Giêsu giảng trong hội đường Nagiarét thân quen, họ đã
ngỡ ngàng thán phục trước lời Ngài nói. Hãnh diện biết mấy khi một thành viên
trong làng nay được tiếng tăm lẫy lừng khắp miền Galilê! Nhưng tin Đức Giêsu là
một ngôn sứ lại là điều họ không làm được.
"Ông này không phải là con ông Giuse đó sao?"
Ký ức của họ vẫn còn giữ nguyên những hình ảnh của Đức Giêsu
sống tại đây hơn ba mươi năm qua. Một cuộc sống quá đỗi bình thường! Một ông
thợ mộc, con một ông thợ mộc khác. Gốc gác, họ hàng của Đức Giêsu, họ đều nắm
rõ. Tiếc là họ đã không thể đi xa hơn.
Cái hiểu biết trước đây khiến họ mãn nguyện, tự hào, và tưởng
mình chẳng còn gì để biết thêm về Giêsu.
"Những gì ông đã làm ở Caphácnaum, hãy làm ở đây xem."
Người làng Nagiarét không tin Đức Giêsu là ngôn sứ. Họ muốn Ngài
chứng minh bằng phép lạ. Họ muốn thấy tận mắt, chứ không chỉ nghe nói thôi.
Nhưng Đức Giêsu không làm phép lạ để ép người ta tin.
Chính lòng tin đưa đến phép lạ, mà Ngài lại chẳng gặp lòng tin
nào nơi người đồng hương. Lòng chai đá cứng cỏi của họ chuyển thành sự phẫn nộ,
khi Đức Giêsu kể chuyện hai ngôn sứ Êlia và Êlisa được Thiên Chúa sai đến thi
ân cho dân ngoại.
Dân làng không giữ được Đức Giêsu cho riêng mình. Khi thấy mình
chẳng còn chút đặc quyền, đặc lợi, thì họ tìm cách thủ tiêu Ngài.
Tin Đức Giêsu là ngôn sứ, là Mêsia, là Con Thiên Chúa, điều đó
chẳng dễ dàng chút nào. Người không tin cũng có thể đưa ra bao lập luận.
Điều cần thiết là phải tìm kiếm chân lý với cả tâm hồn.
Chúa Thánh Thần vẫn soi sáng cho người thành tâm thiện chí.
Hôm nay, chúng ta đã biết, tin và gần gũi Đức Giêsu, nhưng chúng
ta vẫn có nguy cơ tương tự như người Nagiarét: tưởng mình đã múc cạn được mầu
nhiệm hay muốn độc quyền giữ Đức Giêsu cho mình.
Gợi Ý Chia Sẻ
Theo ý bạn, dựa vào đâu để bạn tin người khác? Dựa vào đâu để
bạn biết người đó thành thật?
Người dân làng Nagiarét gặp khó khăn khi phải tin Đức Giêsu. Con
người hôm nay gặp khó khăn nào khi tin Đức Giêsu là Con Thiên Chúa?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, dân làng Nagiarét đã không tin Chúa vì Chúa chỉ
là một ông thợ thủ công.
Các môn đệ đã không tin Chúa khi thấy Chúa chịu treo trên thập
tự. Nhiều kẻ đã không tin Chúa là Thiên Chúa chỉ vì Chúa sống như một con
người.
Cũng có lúc chúng con không tin Chúa hiện diện dưới hình bánh
mong manh, nơi một linh mục yếu đuối, trong một Hội Thánh còn nhiều bất toàn.
Dường như Chúa thính ẩn mình nơi những gì thế gian chê bỏ, để
chúng con tập nhận ra Ngài bằng con mắt đức tin.
Xin thêm đức tin cho chúng con để khiêm tốn thấy Ngài tỏ mình
thật bình thường giữa lòng cuộc sống.
7. Để tiếp đón Chúa – Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Đức Giêsu trở về thăm quê nhà. Ngày Sabat, ngày lễ nghĩ hàng
tuần, dân làng đến hội đường nghe đọc Sách Thánh và hát thánh ca từ 9 giờ đến
12 giờ trưa.
Đức Giêsu và các môn đệ cùng tiến vào hội đường cầu nguyện. Đọc
sách luật và thánh vịnh xong, Đức Giêsu đăng đàn giảng thuyết như một giáo dân
tham dự vào chức tư tế. Vẻ uy nghi trang trọng của Ngài khác thường. Gương mặt
Ngài luôn tỏa ra nét dịu hiền, mến yêu, đầy thiện cảm. Giọng nói tự nhiên của
Ngài càng hấp dẫn dân chúng hơn. Ý tứ Ngài trình bày đơn sơ trong sáng hợp với
tâm trí mọi người. Họ cảm thấy thấm thía sự kỳ diệu của nước Thiên Chúa. Họ cảm
nhận lòng nhân ái Chúa Cha trên trời. Họ cảm phục về tình yêu cứu độ của Thiên
Chúa. Đức Giêsu đòi hỏi mọi người phải sống thương yêu nhau như anh em ruột
thịt. Họ ngạc nhiên thì thầm với nhau: "Bởi đâu ông ta được như thế? Sao
ông ta được khôn ngoan như vậy? Ông ta làm được nhiều phép lạ, như thế nghĩa là
gì?".
Họ chẳng biết sự khôn ngoan và quyền phép của Đức Giêsu bởi đâu?
Họ tìm về nguồn gốc chỉ thấy: "Mẹ ông là bà Maria, anh em họ hàng là
Giacôbê, Giosê, Giuđa và Simon". Tất cả bà con lối xóm đều coi ông như bạn
bè từ gần 30 năm nay ở Nagiarét này, một thôn ấp nhỏ bé chỉ có độ 150 gia đình
nghèo nàn, tối tăm, mấy ai quan tâm đâu. Ông ấy lại là bác thợ mộc, con nhà lao
động, làm thuê làm mướn, lang thang từ nhà này sang nhà khác, đóng bàn sửa ghế,
ráp giường ghép tủ, đục đẽo cày bừa, thành phần địa vị thấp kém trong xã hội.
Có bao giờ thấy ông ấy nói năng, làm được gì hay lạ đâu? Ông ta bỏ quê nhà đi
lang thang mấy tháng, nay trở về, sao thay đổi nhanh như thế! Một quá khứ và
hiện tại như thế đã khiến họ vấp phạm. Họ không tin Ngài là một Ngôn Sứ, lại
càng không thể tin Ngài là Mêsia, và chắc chắn họ chẳng bao giờ dám nghĩ rằng
mình là người đồng hương với Ngôi Hai Con Thiên Chúa.
Còn Đức Giêsu, ai đã huấn luyện Ngài? Ai đã ban quyền phép làm
những việc kỳ diệu như thế? Thân nhân bảo Ngài "mất trí". Kinh sư
chụp mũ Ngài "nhờ tướng quỷ mà trừ quỷ". Dân chúng chỉ biết ngạc
nhiên: chưa từng thấy ai ăn nói, hành động có uy quyền lạ lùng như vậy. Môn đệ
đi theo sát Ngài cũng chỉ biết hỏi: "Ngài là ai mà bão biển phải tuân
lệnh". Chẳng thấy ai huấn luyện Ngài, chẳng thấy Ngài học tập kinh sư nào.
Chỉ thấy Ngài vào nơi thanh vắng, ngước mắt lên trời cầu nguyện. Trong âm thầm
Ngài cầu nguyện cùng Chúa Cha trên trời. Đó chính là bí quyết làm cho Ngài khôn
ngoan và đầy quyền phép để trừ hàng ngàn quỷ dữ, chữa hàng trăm bệnh nhân mà
loài người phải bó tay, cho kẻ chết sống lại, bắt cuồng phong lặng yên...
Dân làng biết Ngài khôn ngoan. Kinh sư thấy Ngài trừ quỷ. Môn đệ
được Ngài cứu khỏi chết giữa biển cuồng phong. Nhưng họ chẳng biết Ngài là Con
Một Thiên Chúa, chẳng biết Ngài là Ngôi Hai Thiên Chúa; vì thương yêu loài
người, đã xuống thế làm người sống với họ như anh em, như bạn bè, để cứu họ
khỏi chết đời đời.
Dân làng Nagiarét quá biết về gốc gác, gia cảnh, biết rõ ràng lý
lịch của Đức Giêsu. Với đầu óc thủ cựu, lại nặng thành kiến nên họ không thể
nhận ra thiên tính nơi con người của Ngài. Đức Giêsu trở thành nạn nhân của
"chủ nghĩa lý lịch". Mc. Kenzie nói: Người có tình yêu nhìn bằng viễn
vọng kính, còn người định kiến hẹp hòi nhìn bằng kính hiển vi.
Còn Đức Giêsu thì luôn âm thầm, kiên nhẫn, nhỏ nhẹ nói với họ
bằng câu ngạn ngữ: "Không ai là tiên tri cho xứ sở mình". Một câu
chuyện quen thuộc nhưng đáng buồn "Ngôn sứ không được quê hương mình chấp
nhận". Đức Giêsu thật ngạc nhiên vì thấy họ không tin. Ngài rất muốn giúp
đỡ họ nhưng cũng đành phải bó tay. Họ chỉ biết nhìn Ngài theo lối nhìn bên ngoài
đầy thành kiến, chẳng thấy được những điều sâu lắng bên trong, những cái tinh
thần cao thượng, những mầu nhiệm thiêng liêng chân thật.
Chính những điều sâu xa bí ẩn mới làm ích rất lớn cho con người.
Chính những chất màu mỡ nằm ẩn trong đất mới làm cho cây trái, hoa mầu trổ sinh
tươi tốt, đâm chồi nẩy lộc, nuôi sống muôn người, muôn vật. Chính những kho
tàng nằm sâu trong lòng đất, như mỏ dầu, mỏ vàng, mỏ bạc, đồng, sắt, kim cương,
đá quý mới là nguồn tài nguyên phong phú giúp phát triển nền văn minh nhân
loại. Chính những tài năng thượng đẳng, thiêng liêng trong con người như: tinh
thần tự do, trí khôn sáng suốt, ý chí mạnh mẽ, tình cảm nhân từ mới có sức
thăng tiến con người hơn chân tay, mắt mũi. Thế nhưng loài người vẫn thích thờ
bò vàng óng ánh hơn thờ Thiên Chúa siêu việt.
Chuyện ngày xưa cũng như chuyện ngày nay. Rất nhiều khi chúng ta
phán đoán giá trị lời nói của một người dựa trên bằng cấp, sự giàu có, uy tín
của họ nhiều hơn là dựa vào sự hợp lý, tính chính xác của câu nói ấy. Hễ ai có
chức có quyền, có địa vị, có của cải, có học vấn mà nói thì chúng ta tiên thiên
cho rằng họ nói đúng. Còn ai nghèo nàn, rách rưới, thấp cổ bé miệng, ít học mà
nói thì ta tiên thiên cho rằng họ nói sai hoặc chẳng có giá trị gì. Chính vì
tâm lý sai lạc này mà các ngôn sứ giả thường được người đời ưu đãi, còn ngôn sứ
thật thì thường bị bạc đãi (x. Lc 6,23.26). Lối hành xử như vậy là coi trọng
của cải, tiền bạc, chức quyền, địa vị chứ không phải là người coi trọng chân
lý, công lý và tình thương. Thực ra, một điều sai trái, dù kẻ nói ra có quyền
thế, học vấn hay giàu sang tới đâu thì cũng vẫn là sai trái. Còn một điều đúng,
thì dù người nói ra một đứa trẻ, một người nghèo thì cũng vẫn là đúng. Lời nói
sai đâu thể biến thành đúng, hay lời nói đúng đâu thể biến thành sai vì thế giá
hay trình độ học vấn của người nói ra câu nói đó.
Đức Giêsu buồn phiền nhưng không cay cú, thất vọng chứ không tức
giận. Ngài quyết định đem ánh sáng và quà tặng thần linh đi đến nơi khác.Những
người ở làng quê Nagiarét đã để lỡ cơ hội đón tiếp Đấng Cứu Thế. Con Thiên Chúa
làm một thường dân đến sống giữa họ mà họ không biết. Họ chỉ biết đó là con ông
thợ mộc Giuse. Họ chỉ biết gia đình Ngài rất nghèo, chẳng có danh giá gì trong
làng. Họ coi thường Ngài. Họ không tin Ngài. Họ hất hủi Ngài. Họ đã để lỡ cơ
hội nghìn năm một thuở. Đức Giêsu không làm một phép lạ nào ở đó. Ngài bỏ
Nagiarét đi đến các làng chung quanh. Và Ngài sẽ chẳng bao giờ trở lại Nagiarét
nữa. Một cơ hội vàng đã không được đón nhận nên dân làng Nagiarét đánh mất hồng
ân vô giá.
Hằng ngày chúng ta cũng đã bỏ lỡ biết bao nhiêu cơ hội như thế.
Ta đã bỏ lỡ không tiếp đón Chúa đến thăm khi ta bịt mắt không nhìn thấy những
cảnh khổ chung quanh; khi ta bưng tai không nghe những tiếng kêu than khóc lóc;
khi ta làm ngơ trước những cảnh ngộ nghiệt ngã, khi ta ngoảnh mặt quay lưng
trước những nạn nhân của thiên tai hoạn nạn. Nhất là ta bỏ lỡ không nghe thấy
tiếng Chúa cảnh báo để ăn năn sám hối. Chúa đã nhắc nhở ta nhiều lần nhiều
cách: qua các vị bề trên; qua các tai nạn; qua lời khuyên của những người thân;
qua lời phê phán của những người thù ghét ta... Hôm nay, Chúa còn tiếp tục nhắc
nhở. Nếu ta không nghe, biết đâu hôm nay sẽ là lần cuối cùng. Chúa sẽ không bao
giờ nhắc nhở nữa. Chúa sẽ bỏ ta mà đi như đã bỏ làng Nagiarét và không bao giờ
trở lại. Như thế thì thật nguy hiểm cho linh hồn ta. Để nhận biết Chúa, ta phải
rèn luyện cho mình một đức tin mạnh mẽ. Ánh mắt đức tin giống như ngọn đèn soi
chiếu vào đêm đen giúp ta nhận ra Chúa trong anh em, trong những biến cố Chúa
gửi đến. (Đức TGM Ngô Quang Kiệt).
Để đón tiếp Chúa, ta phải rèn luyện cho mình một trái tim luôn
luôn rộng mở yêu thương. Một trái tim yêu thương sẽ rất bén nhạy để nghe được
tiếng nói của Chúa, dù tiếng nói ấy chỉ thì thầm trong sâu thẳm lòng mình; hiểu
được những dấu chỉ của Chúa, dù những dấu chỉ ấy chỉ mơ hồ thoáng qua; nhận
được khuôn mặt của Chúa, dù khuôn mặt ấy đã bị biến dạng qua những đau thương
của cuộc đời.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con tỉnh thức để nhận ra và đón nhận
Chúa mỗi lần Chúa đến với con. Amen.
8. Tin Mừng vượt biên cương - Cố Lm Hồng Phúc
Trong đạo cũ, Thiên Chúa thường gửi những nhà Tiên tri đến dạy
dỗ dân riêng của Ngài. Thánh Kinh nhắc đến tên 16 vị Tiên tri tất cả, gồm 4 vị
Tiên tri lớn và 12 vị Tiên tri nhỏ.
Tiên tri là người phát ngôn nhân của Thiên Chúa. Và làm phát
ngôn nhân của Thiên Chúa không phải là dễ. Ông không thể chọn lựa điều phải
nói, mà phải nói điều Chúa muốn ông nói và nói nhân danh Chúa. Vì thế, mệnh
lệnh ông mang lại cho dân chúng và cách riêng cho giới cầm quyền, nhiều khi bị
đả kích chống đối và nhà Tiên tri phải chết vì sứ mạng. Nhiều đấng run sợ bị
chọn làm Tiên tri. Tiên tri Giona nghe Chúa gọi đã xuống thuyền trốn tiệt.
Chúa Giêsu, vị phát ngôn nhân của Đức Chúa Cha, cũng không tránh
khỏi định luật hy sinh ấy. Bài Phúc Âm hôm nay kể lại diễn tiến của cuộc thuyết
giảng trong Hội đường Nagiaret, quê hương Ngài.
Ngài tuyên bố thẳng thừng: “Lời tiên báo của Thánh Kinh về Đấng
Messia hôm nay đã thực hiện”. Thính giả đều hiểu: Ngài tuyên bố mình là Đấng
Messia phải đến và đã đến.
Sau những phút kinh hoàng bở ngỡ, họ đòi Ngài phải đưa ra bằng
chứng: “Chúng tôi nghe ông làm nhiều phép lạ ở Caphanaum, thì ông hãy làm ở đây
nơi quê hương ông, cho chúng tôi xem nào!” (Lc. 4, 23). Nhưng, Chúa Giêsu không
muốn cho họ một dấu, một phép lạ nào cả, để họ khỏi lầm tưởng về sứ mạng của
Ngài… Sứ mạng đó không bị gò bó hạn hẹp trong phạm vi gia đình quê quán, không
dành riêng cho dân Do-thái thôi. Tin Mừng sẽ vượt biên cương, kêu gọi mọi người
thiện chí. Để chứng minh, Chúa nhắc đến gương của hai nhà Tiên tri Elia và
Êlisê mà dân chúng đều biết. Hai vị đã thi ân giáng phúc cho bà góa xứ Sêrepta
và Naaman, sĩ quan ngoại bang thuộc xứ Syria.
Ơn cứu độ không dành riêng cho một số người được đặc ân mà là
một ân sủng cho hết mọi người. Phản ứng đồng hương của Ngài rất dễ hiểu; lòng
tự ái bị tổn thương, họ căm phẫn, đồng loạt đứng dậy, tống xuất Ngài ra khỏi
thành và muốn xô Ngài xuống hố thẳm cho chết đi.
“Không một Tiên tri nào được tiếp đón nơi quê hương mình”.
Câu chuyện Nagiaret mở màn cho những diễn tiến tương lai. Các
Giáo phụ coi đó là điềm báo của lối đối xử của toàn dân Do-thái dành cho Chúa.
Ngài cũng sẽ bị kết án, dẫn ra khỏi thành và bị đóng đinh trên cây Thập giá.
Luca, tác giả sách Công vụ Tông đồ còn muốn đối chiếu việc Chúa bị tống xuất khỏi
thành với việc Stêphanô bị lôi ra khỏi thành và bị ném đá chết (CV. 7, 58).
Cuộc bách hại tiếp theo sau cuộc tuẫn tiết của Stephanô đã làm cho Tin Mừng
loan đi khắp vạn nẻo đường thế giới. Lịch sử của Chúa Giêsu tiếp diễn trong
lịch sử Giáo hội. Giáo hội mở rộng vòng tay đón cả nhân loại.
Lạy Chúa, xin đừng để con ỷ lại vào ơn cứu độ đã được Chúa ban
nhưng không. Trái lại, biết làm lợi cho mình và làm lợi cho kẻ khác để Nước
Chúa trị đến.
9. Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt.
ĐIỀU KIỆN ĐỂ ĐÓN TIẾP CHÚA.
Sau khi rao giảng một thời gian, Chúa Giêsu trở về làng cũ.
Thoạt nghe Chúa rao giảng, họ khâm phục tán thành. Nhưng sau đó họ lại xua đuổi
và muốn giết Chúa. Thật là đáng buồn. Đúng như lời thánh Gioan đã viết: “Người
đã đến nhà nhưng người nhà không nhận biết Người”. Tại sao có cảnh trái ngang
đau lòng như thế? Thưa vì tư tưởng của Thiên Chúa khác với tư tưởng của họ.
Chúa đi tìm đức tin còn họ đi tìm lợi lộc. Khi
đi rao giảng, Chúa muốn đem cho ta niềm tin. Niềm tin đã là khởi điểm của nhiều
phép lạ. Chúa chỉ làm phép lạ khi người ta có niềm tin. Niềm tin đã là kết quả
của nhiều phép lạ. Chúa chỉ làm phép lạ khi phép lạ dẫn đến niềm tin. Nhưng dân
làng Nazareth không nhìn thấy điều đó. Họ không tin Người là Đấng Cứu Thế. Lời
giảng của Người không đưa họ tới đức tin và Thiên Chúa, vào Nước Trời. Họ chỉ
mong được có phép lạ. Vì họ chỉ mong được lợi lộc vật chất: được khỏi bệnh;
được ăn no. Mong ước của họ không gặp được mong ước của Chúa.
Chúa sống trong khiêm nhường nhưng họ sống trong kiêu căng. Chúa
không bao giờ làm phép lạ với mục đích biểu diễn. Chúa chỉ làm phép lạ đê giải
nghĩa mầu nhiệm Nước Chúa. Chúa không làm phép lạ khi ma quỷ cám dỗ Chúa trong
hoang địa. Chúa không xuống khỏi thập giá khi dân chúng thách thức Chúa trên
Núi Sọ. Nên hôm nay Chúa cũng không làm phép lạ để thoả mãn tính hiếu kỳ và
tính kiêu căng của dân làng Nazareth. Họ mong Chúa làm phép lạ để làng họ được
vinh dự có người đồng hương quyền phép. Họ mong Chúa làm phép lạ để làng họ
cũng được nở mày nở mặt với Capharnaum. Suy nghĩ của họ rất khác với suy nghĩ
của Chúa.
Chúa có tâm hồn mở rộng trong khi tâm hồn họ hẹp hòi. Họ
mong ước Chúa là người làng Nazareth thì phải dành mọi ưu tiên cho dân làng từ
việc rao giảng cho đến việc làm phép lạ. Tất cả phải bắt đầu và bó gọn trong
làng. Nhưng Chúa Giêsu, khi trích dẫn chuyện tiên tri Elia ở nhà bà goá Sarepta
trong thời hạn hán, làm cho bình dầu và hũ bột của gia đình bà không bao giờ
vơi và chuyện tiên tri Elisa chữa tướng Naaman, người Syria khỏi bệnh phong, đã
cho thấy Nước Chúa không chỉ bó hẹp lại trong phạm vi người thân thuộc nhưng
phải mở rộng tới tất cả mọi người. Không chỉ những người trong đạo Do Thái mà
cho cả những người ngoại đạo nữa. Hai nhãn quan khác hẳn nhau.
Tôi là người có đạo. Nhưng biết đâu tôi không đón nhận được Chúa
vì tôi cũng giống như dân làng Nazareth, đến với Chúa chỉ mong được lợi lộc vật
chất, đến với Chúa chỉ vì hư danh, đến với Chúa với tâm hồn hẹp hòi. Hôm nay
tôi xin Chúa thanh tẩy tâm hồn tôi khỏi thói ham mê lợi lộc, thói phô trương bề
ngoài và thói hẹp hòi khép kín, để tôi được đón nhận Chúa và để tôi trở nên
tông đồ của Chúa.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1. Giữ đạo tốt để được may mắn. Bạn có ý nghĩ như thế không?
2. Bạn khó chịu khi người ngoại đạo được may mắn. Thái độ này có
đúng không?
3. Thường thường, bạn đi tìm Chúa, tha thiết cầu nguyện để đạt
được điều gì? Để được may mắn, khỏi tai hoạ, hay để được hiểu biết, yêu mến
Chúa?
10. Biết can đảm chấp nhận lỗi lầm.
(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Hôm ấy, Chúa Giêsu trở về quê hương Nadarét. Vì ưu ái người đồng
hương, Ngài ưu tiên tỏ cho họ nhận biết vai trò và sứ mạng của Ngài là Người
được Thánh Thần xức dầu, được sai đi loan Tin Mừng cho người nghèo khó, công bố
ân xá cho những kẻ bị giam cầm, cho người mù tối đón nhận ánh sáng, cho người
bị áp bức được tự do và công bố thời kỳ hồng ân của Thiên Chúa... với hy vọng
là những người đồng hương cốt nhục của mình được đón nhận ơn cứu độ trước hết.
Thế nhưng đôi mắt của người dân Na-da-rét đã bị che phủ bởi
thành kiến nên họ đã không nhận ra vai trò và sứ mạng cao cả của Chúa Giêsu.
Với thành kiến rằng Đức Giêsu chỉ là một anh thợ mộc bình thường con của bác
thợ Giu-se, bà con thân thích của Ngài đâu có ai sáng giá... nên họ đã không
tin Ngài. Họ đã để tuột khỏi tầm tay một cơ hội ngàn vàng, đã đánh mất hồng ân
vô giá.
Để cảnh tỉnh họ, Chúa Giêsu chỉ cho họ thấy chỉ vì tổ tiên họ
ngày trước đã không đón nhận các ngôn sứ Thiên Chúa gửi đến cho mình, nên đã
đánh mất những ân huệ lớn lao. Cụ thể là vào thời ngôn sứ Isaia, khi trời hạn
hạn suốt ba năm sáu tháng, dân Ít-ra-en phải lâm vào cơn đói khát trầm trọng,
vậy mà ngôn sứ Isaia được sai đến, không phải để cứu giúp các bà goá trong dân
Ít-ra-en thời đó, mà là để cứu đói cho hai mẹ con bà goá ngoại giáo nghèo khổ
thành Xa-rép-ta, miền Xi-đôn.
Một sự kiện khác tương tự là vào thời ngôn sứ Ê-li-sa, đang khi
có nhiều người phong cùi trong dân Israen cần được cứu chữa, thế mà không ai
trong bọn họ được vị ngôn sứ chữa lành, ngoại trừ tướng Na-a-man ngoại giáo,
người nước Sy-ri.
Thế nhưng, những lời cảnh tỉnh của Chúa Giêsu không làm cho họ
tỉnh ngộ, trái lại càng khiến họ oán ghét Ngài khủng khiếp!
Họ oán ghét và nổi cơn phẫn nộ với Ngài chỉ vì Ngài đã chỉ cho
họ thấy những sự thật phũ phàng liên quan đến họ. Họ nhất tề đứng dậy, xông vào
túm lấy Ngài, lôi Ngài ra khỏi hội đường rồi kéo ra khỏi thành.
Thế mà vẫn chưa hả giận, họ còn kéo Ngài lên tận đỉnh núi, để xô
Ngài xuống vực, cho Ngài nát thịt tan xương, để vĩnh viễn loại trừ Ngài ra khỏi
cuộc sống, vì Ngài đã dám nói lên sự thật, một sự thật phũ phàng, đen tối liên
quan đến họ...
Ôi, khủng khiếp thay cơn giận của đám dân thành Na-da-rét!
Hành động như thế là thiếu tinh thần phục thiện, là hèn nhát
không dám đối diện với sự thật. Đúng ra, họ phải cám ơn Chúa Giêsu vì Ngài đã
giúp họ thấy được sai lầm của mình để sửa chữa cho tốt hơn. Đúng ra họ nên nhìn
lại sai lầm của mình thật rõ và những hậu quả do đó mà ra để rồi không còn tái
phạm nữa.
Tiếc thay họ đã đi vào vết chân của cha ông họ nhưng còn tồi tệ
hơn. Cha ông họ bạc đãi các tiên tri, còn chính họ thì toan giết hại Con Thiên
Chúa.
Thế nhưng hôm nay soi lại bản thân, chúng ta cũng thấy đôi khi
mình cũng đi theo vết chân đó. Khi có ai đó chỉ cho ta thấy những lầm lỗi
khuyết điểm của chúng ta, những sự thật đen tối về bản thân ta, thì thay vì cám
ơn người đã chỉ bảo cho mình điều hay lẽ phải, chúng ta lại lồng lên như một
thú dữ bị thương, gầm lên dữ dội và có thể có thái độ hung hãn đối với người đã
vạch ra lầm lỗi của mình. Thế rồi mình cứ cố chấp trong tội lỗi của mình. Và
như thế, chúng ta cứ mang thói hư tật xấu xuống mồ và sẽ không bao giờ biết cải
thiện. Thật đáng tiếc lắm thay!
Nếu ngôi nhà chúng ta bén lửa, bỗng có người phát hiện và báo
cho ta biết để chữa cháy, thì hẵn là chúng ta sẽ rất biết ơn người ấy và khẩn trương
chữa cháy cho ngôi nhà.
Còn nếu trong hoàn cảnh đó, thay vì cám ơn và lo chữa cháy,
chúng ta lại quay ra căm giận, hành hung người báo cháy cho mình thì thật là
điên rồ không thể chấp nhận được.
Thói hư tật xấu và những đam mê tội lỗi cũng là những ngọn lửa
âm ỉ đốt cháy đời mình mà chúng ta không hay biết. Vậy nếu có ai đó báo cho
chúng ta biết lỗi của mình, tức là báo cho biết có 'lửa' đang bén vào 'căn nhà
cuộc đời' của mình, thì đừng phẫn nộ với người đó như người dân thành Nadarét
năm xưa. Cần biết ơn họ sâu sắc vì nhờ họ cảnh báo mà chúng ta biết được những
'ngọn lửa' lầm lỗi, âm ỉ đốt cháy cuộc đời mình, để rồi cấp tốc cứu đời mình
khỏi cháy.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho Lời Chúa soi dọi vào những ngóc ngách
đen tối trong tâm hồn chúng con để vạch cho chúng con thấy những sự thật đen
tối trong đời mình.
Xin cho chúng con can đảm lắng nghe những lời phê bình chân thực
của người khác mà không tìm cách biện minh hay chống chế.
Xin cho chúng con dám nhìn thẳng vào những thói xấu của mình,
gọi đúng tên chúng, quan sát cách vận hành hay biểu lộ của chúng qua hành vi,
lời nói, và cách cư xử hằng ngày của chúng con...
May ra lúc đó, chúng con mới có thể cải thiện và đổi đời.
11. Ta về ta tắm ao ta – Lm Jos. Tạ Duy Tuyền
(Trích trong ‘Cùng Nhau Suy Niệm’)
Theo báo chí nhận xét: "Tết năm nay (2010) lượng trái cây
của Trung Quốc nhập về giảm mạnh. Các năm trước, đến thời điểm này, hàng trái
cây Trung Quốc đã chất hàng ngàn tấn tại chợ nhưng năm nay thì lại chưa thấy
gì". Có người còn độc miệng nói rằng: các loại trái cây của Trung Quốc chủ
yếu là lê, táo, nho... màu đẹp, bóng, để được lâu (khoảng tháng rưỡi) nên một
số người mua để cúng chứ không dám ăn. Không chỉ trái cây nhưng rất nhiều mặt
hàng Trung quốc đến nay người dân đã tẩy chay vì hàng kém chất lượng, nhất là
lại chứa nhiều độc tố. Điều đó dẫn đến một làn sóng trở về với dân tộc:
"Ta về ta tắm ao ta - Dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn".
Thực vậy, với xu hướng xính ngoại, lâu nay nhiều người không
dùng hàng Việt. Thích dùng hàng ngoại. Hậu quả là hàng ngoại kém chất lượng,
quá date, hàng giả... tràn ngập thị trường Việt Nam. Điều này không chỉ dừng
lại ở hàng hóa mà ngay cả trong vấn đề hôn nhân cũng vậy. Nhiều cô gái thích
lấy chồng ngoại. Đến nỗi có cả một thị trường tuyển chọn cô dâu. Nhưng có mấy
ai lấy chồng ngoại được yên bề gia thất? Có mấy ai thực sự hạnh phúc với hôn
nhân thiếu vắng tình yêu?
Chúa Giêsu trong thân phận con người, Ngài cũng từng cay đắng để
thốt lên rằng: "không một tiên tri nào được kính trọng nơi quê hương
mình". Người ta dễ "gần chùa gọi Bụt bằng anh". Người ta xem
thường đồng hương. Dù biết rằng tình đồng hương rất cần vì "tối lửa tắt
đèn có nhau". Dù biết rằng kẻ láng giềng rất cần thiết, cần thiết hơn là
anh em ruột thịt mà ở xa, như lời cha ông đã nói: "bán anh em xa, mua láng
giềng gần". Thế nhưng, thực tế cho thấy, người hàng xóm lại dễ mất lòng
nhau. Người hàng xóm lại dễ ganh tỵ với nhau. Thay vì sống với nhau để mang lại
sự chia sẻ, cảm thông, nhưng lại gây sóng gió cho nhau. Có mấy ai ở bên nhau mà
không lời qua tiếng lại? Có mấy ai ở bên nhau mà đùm bọc lấy nhau như là bí với
bầu "tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn"? Chúa Giêsu cũng từng
bị đồng hương tìm cách loại trừ. Đã có lần người ta cho rằng Người đang bị mất
trí. Chính vì cái nhìn thiển cận và đầy thành kiến của người đồng hương nên
Chúa Giêsu đã không thể làm một phép lạ nào nơi quê hương mình. Hôm nay, sau
thời gian dài, Ngài đi rao giảng và làm nhiều phép lạ, Ngài trở về dưới cái
nhìn xem thường của đồng hương. Họ không tin một Giêsu con bác thợ mộc lại có thể
làm nhiều phép lạ như lời đồn. Nói đúng hơn, là họ không thể chấp nhận sự thật
về con người Giêsu mà họ đã biết từ khi ấu thơ, nay lại có thể có những khả
năng phi thường như vậy. Họ đã bị vấp phạm vì Người. Họ đã tìm cách loại trừ
Chúa Giêsu, nhưng Người đã băng qua giữa họ mà đi.
Vâng, cuộc sống của chúng ta sẽ hạnh phúc biết bao khi người
người biết tôn trọng lẫn nhau, biết cảm thông, tha thứ và nâng đỡ lẫn nhau.
Thay cho lời kết án, ghen tỵ là lời chúc mừng, khuyến khích. Thay cho những cái
nhìn thiển cẩn, hẹp hòi là những cái nhìn nhân ái, bao dung. Cuộc sống sẽ thật
hạnh phúc biết bao khi chúng ta biết nhìn cái tốt nơi nhau, để khen ngợi, để
khuyến khích nhau, thay vì nhìn điểm yếu của nhau để kết án, xem thường nhau.
Cuộc sống sẽ hạnh phúc biết bao khi chúng ta biết trân trọng những thành quả,
những đóng góp của anh em, thay vì ghen ghét, dửng dưng.
Ước gì mỗi người chúng ta biết khiêm tốn để nhận ra sự cần thiết
của tha nhân trong đời sống của mình. Vợ chồng cần có nhau để bổ túc và mang
lại hạnh phúc cho nhau. Con cái cần đến cha mẹ để nương nhờ cậy trông. Hàng xóm
cần đến nhau để "tốt lửa tắt đèn có nhau". Và một khi đã nhận ra sự
cần thiết của tha nhân trong đời sống của mình, thì hãy sống tôn trọng và kính
trọng lẫn nhau, để cùng nhau xây dựng cuộc sống cho nhau những niềm vui và hạnh
phúc. Amen
12. Thân phận ngôn sứ.
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ)
Có người đã mô tả các ngôn sứ trong Kinh Thánh như những người
an ủi những ai phiền não và cũng là những người gây phiền não cho những kẻ giàu
sang, tự mãn. Chẳng hạn như ngôn sứ Giêrêmia. Ông sống vào thời kỳ Israel đang
bị băng hoại từ bên trong và bị quân đội ngoại bang hùng mạnh đe dọa từ bên
ngoài. Tình hình như thế làm cho Giêrêmia hết sức đau xót vì ông yêu tổ quốc và
đồng bào mình. Có lẽ vì vậy mà Chúa đã kêu gọi Giêrêmia làm ngôn sứ cho đồng
bào của ông. Nhưng lần nào được Chúa kêu gọi, Giêrêmia cũng đáp lại một cách
miễn cưỡng, vì ông biết rằng làm ngôn sứ nơi quê hương mình rất là khó khăn.
Nhưng rồi Giêrêmia phải giảng, ông tuyên bố thẳng thắn với dân chúng con đường
sống còn duy nhất của họ là phải canh tân đời sống, hướng về Chúa và kêu cầu
Ngài cứu giúp.
Nghe ông thuyết giảng như thế, đám dân liền nổi giận. Họ lẩm bẩm
kêu lên: “Ông nội Giêrêmia nầy dám nghĩ mình là ai mà bày đặt phê phán chúng
ta, vì dầu sao chúng ta cũng là đồng bào của ông ấy?”. Tình trạng căm ghét ngày
càng dâng cao đến nỗi có lần nhà cầm quyền đã công khai đánh đòn Giêrêmia, lần
khác thì cột ông vào trong bao, lần khác nữa thì xô ông vào một đống phân.
Chúa Giêsu cũng đã cảm nghiệm được những khó khăn và đau đớn ấy
khi lãnh nhận sứ mạng làm ngôn sứ ngay trong xứ sở của Ngài. Ngài đã từng bị
bạn bè và láng giềng ruồng rẫy. Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy những gì đã xảy
ra khi Chúa Giêsu lần đầu tiên thuyết giảng nơi quê nhà Ngài, sau khi lãnh nhận
phép Rửa từ sông Giođan trở về. Khi Chúa đứng lên tuyên bố với đồng bào đồng
hương rằng Thần Khí Chúa ngự xuống trên Ngài và chính Ngài làm ứng nghiệm lời
Thánh Kinh, thì lập tức họ cảm thấy khó chịu ngay. Khắp hội đường đều nghi hoặc
và dân chúng xầm xì bàn tán với nhau: “Anh ta không phải là con ông Giuse sao?
Anh ta chẳng phải là một người nghèo khổ trong làng Nagiareth sao? Anh ta nghĩ
mình là ai mà dám tự nhận mình là ngôn sứ? Đâu là bằng chứng cho thấy anh ta là
Đấng Thiên Sai chứ không phải là tên mạo nhận?”. Lời xầm xì càng lúc càng lớn
và chẳng bao lâu đám dân bắt đầu la lên. Rồi tình hình đột nhiên không thể kiềm
chế được nữa. Thánh Luca kể lại trong Tin Mừng như sau: “Dân chúng đứng dậy kéo
Chúa Giêsu ra khỏi thành và dẫn Ngài lên đỉnh đồi trong thành phố dự tính xô
Ngài lộn đầu xuống dưới. Nhưng Ngài đã bước qua giữa họ và bỏ đi nơi khác”.
Nếu đọc tiếp Tin Mừng, chúng ta thấy Chúa Giêsu phải đi tiếp tới
tận Giêrusalem. Trên con đường ấy, Ngài sẽ tiếp tục bị người Do Thái xô đẩy.
Cuối cùng họ lôi được Ngài lên thập giá trên đồi Golgotha, xô được Ngài xuống
mồ. Nhưng Ngài lại chỗi dậy từ trong cõi chết và tiếp tục con đường của Ngài:
đem lại ơn cứu độ cho muôn dân. Ngài còn sai các môn đệ tiếp tục con đường của
Ngài: đi làm chứng cho Ngài đến tận cùng trái đất.
Bài mô tả của Thánh Luca về những khó khăn đầu tiên Chúa Giêsu
gặp phải tại Nagiaret khiến cho người Kitô hữu đang hăng hái phấn khởi bỗng như
bị “té cái bịch” xuống đất. Nhưng sau khi suy niệm về kinh nghiệm chua chát đó,
chúng ta bỗng nhớ lại những lời phiền não cụ già Simêon đã thốt ra khi Chúa
Giêsu được dâng vào đền thánh: “Trẻ nầy… là một dấu chỉ cho người ta chống đối”
(Lc 2,34). Lời nói nầy sẽ còn vang đi vọng lại suốt thời kỳ giảng thuyết của
Chúa Giêsu. Nếu dân làng Nagiaret từng đòi Chúa Giêsu trưng ra bằng chứng xác
minh Ngài là Ngôn sứ thế nào, thì các nhà lãnh đạo tôn giáo Israel cũng buộc
Ngài chứng minh giáo lý của Ngài là chính thống y như vậy. Nếu dân làng
Nagiaret từng tố cáo Chúa Giêsu là kẻ dối trá, là kẻ lộng ngôn phạm thượng thế
nào thì bọn Biệt phái cũng thẳng thừng buộc tội Ngài là khí cụ của chính ma quỷ
y như thế (x. Mt 12,24). Và nếu dân làng Nagiaret đã từng cố công tìm cách giết
Chúa Giêsu vì lời tuyên bố của Ngài như thế nào, thì đám dân thành Giêrusalem
cũng hò hét khản cổ: “Đóng đinh nó đi! Đóng đinh nó đi!” y hệt như vậy. Thực sự
mà nói, Chúa Giêsu quả là một kẻ bị nhiều người chống đối và khích bác. Lời
tiên tri của cụ già Simêon về con trẻ Giêsu sẽ theo sát Đức Giêsu trong suốt
cuộc đời dương thế của Ngài.
Cùng với Giêrêmia, Chúa Giêsu đã là gương mẫu cho các sứ giả Tin
Mừng hôm nay. Phải luôn luôn ý thức về sứ vụ mang Lời Chúa của mình, biết rõ
những khó khăn, thử thách và nguy hiểm sẽ gặp, nhưng vẫn một lòng trung thành
hòa tất sứ vụ, liều chết vì sứ vụ Chúa đã trao phó để làm sáng danh Chúa và cứu
rỗi các linh hồn.
Ngay nay sứ vụ rao giảng Tin Mừng của Chúa vẫn được Giáo Hội
tiếp tục thi hành trên khắp thế giới. Biết bao người đã được ơn gọi lãnh lấy sứ
vụ đó và đã hân hoan đón nhận, đang thi hành sứ vụ của mình một cách can đảm,
nhiệt thành và kiên trì rất đáng thán phục. Họ cũng đang gặp đủ mọi thử thách,
chống đối, ghen ghét, hãm hại bởi những người không muốn đón nhận Tin Mừng họ
rao giảng. Họ đã sẵn sàng chịu đủ thứ hình khổ và cả cái chết nữa vì sứ vụ
chuyển thông Lời Chúa theo gương Đức Kitô. Chúng ta tiếp tục cầu xin Chúa ban
sức mạnh tinh thần cũng như thể xác cho họ như Chúa đã ban cho các vị Ngôn sứ,
các Tông đồ ngày xưa và cho các vị tử đạo.
Chúng ta cầu xin cách riêng cho những người đã lãnh sứ vụ mang
Lời Chúa, vì lý do nầy hay lý do khác mà sợ hãi, muốn tháo lui, muốn nín thinh…
biết nhìn vào gương của Giêrêmia, của Đức Giêsu, của các Tông đồ và bao nhiêu
người đã và đang hết sức trung thành với sứ vụ của mình trong đau khổ cả thể
xác lẫn tinh thần.
Và chính chúng ta nữa, thưa anh chị em, chúng ta cũng được tham
dự vào sứ vụ ngôn sứ của Đức Kitô khi chúng ta được xức dầu trong Bí tích Rửa
Tội, khi chúng ta được trở nên thành phần của Giáo Hội truyền giáo; vì thế
chẳng những chúng ta chỉ nghe Lời Chúa, sống Lời Chúa cho mình mà thôi, nhưng
còn phải để tâm đem Lời Chúa, những giáo huấn của Lời Chúa, của Giáo Hội đến
cho những người chung quanh, nhất là những người trong gia đình, hầu thánh hóa
xã hội chúng ta đang sống.
Hạnh phúc của chúng ta là còn đang được nghe Tin Mừng của Chúa
qua tiếng nói của các sứ giả Ngài đã chọn và sai đi. Ước chi chúng ta biết mau
mắn, chăm chú nghe Lời Chúa, suy nghĩ và đem áp dụng vào đời sống thường nhật.
Chớ gì chúng ta biết thay đổi đời sống, biết xây dựng cuộc sống của chúng ta
trên nền tảng Lời Chúa, trên giáo huấn của Giáo Hội.
Chúng ta hãy kết thúc với lời cầu nguyện nói lên cảm nghĩ của
bất cứ ai đã từng cố gắng trung thành bước theo Chúa Giêsu:
“Lạy Chúa, xin ban cho chúng con tình yêu của Chúa vì đôi khi
chúng con bị cám dỗ căm thù đám người ruồng rẫy chúng con.
Lạy Chúa, xin ban cho chúng con sức mạnh của Chúa, vì đôi khi
chúng con như muốn ngã lòng trước những cảnh ngộ gai góc.
Lạy Chúa, xin ban cho chúng con lòng dũng cảm, vì đôi khi chúng
con như muốn đầu hàng trước nhữn gánh quá nặng đè lên chúng con.
Xin giúp chúng con là muốn ướp mọi người, là đèn soi thế giới.
Xin hãy giúp chúng con tỏa sáng như những vì sao trong thế giới tăm tối nầy”.
Amen.
13. Đức Giêsu Kitô, vị thầy thuốc cao tay, đầy nhân ái
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Nếu như Chúa nhật thứ Ba Mùa Thường niên, Đức Giêsu đã thực hiện
lời ngôn sứ đã loan báo về mình, thì bước vào Chúa nhật thứ Bốn Mùa Thường
niên, Chúa Giêsu tiếp tục thi hành sứ vụ Thiên sai. Ngài dạy dỗ chúng ta những
Mối Phúc tuyệt vời mà chúng ta cần phải sống mỗi ngày để đạt được hạnh phúc
thật là Nước Trời (Phụng vụ Năm A). Ngài chữa lành những người bị quỉ ám (Phụng
vụ Năm B), nhưng Lời Ngài là Chân lý, nên được lan truyền khắp mọi nơi một cách
nhanh chóng, khiến cho những người mù sáng mắt, người què đi được, người điếc
nghe được, nói chung là vui mừng sung sướng ; mọi người đều ...thán phục Người
; các thần ô uế phải vâng lệnh, nhưng ngược lại, những người Do thái đầy căm
phẫn, chỗi dậy và trục xuất Người ra khỏi thành. Họ dẫn Người lên triền núi,
nơi xây cất thành trì của họ, để xô Người xuống vực thẳm " (Lc 4, 29)
(Phụng vụ Năm C).
* Phụng vụ Lời Chúa Năm A
- Soph 2, 3 ; 3, 12-13: Thiên Chúa muốn một dân tộc khiêm tốn,
nhỏ bé và nghèo hèn
- Tv 146, 7: Phúc thay ai có lòng khó nghèo, vì Nước Trời là của
họ
- 1 Cr 1, 26-31: Những điều Chúa chọn
- Mt 5, 1-12a: Bài giảng trên núi: Tám Mối Phúc
* Phụng vụ Lời Chúa Năm B
- Đnl 18, 15-20: Môisen loan báo vị tiên tri trong thời sắp tới
- Tv 95, 1: Hôm nay, các ngươi đừng cứng lòng nữa
- 1 Cr 7, 32-35: Sự trinh trong đối với Thiên Chúa
- Mc 1, 21-28: Đức Giêsu rao giảng và chữa lành người bị quỉ ám
* Phụng vụ Lời Chúa Năm C
- Gr 1, 4-5 ;17-19: "Ta sẽ làm cho ngươi trở thành tiên tri
của nhiều dân tộc"
- Tv 71, 5: Tới muôn đời, tôi sẽ loan báo sự chiến thắng và ơn
cứu độ của Người.
- 1 Cr 12, 31 à 13, 13: Bài ca Đức Aí
- Lc 4, 21-30: Sứ mạng phổ quát của Chúa Giêsu
Về điều này, thánh Augustinô (354-430), Giám mục thành Hippôn
(Bắc Phi), tiến sĩ Hội Thánh đã chủ giải như sau:
Nhưng Người rẽ qua giữa họ mà đi.
Một thầy thuốc cao tay là Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta đã đến
giữa chúng ta. Ngài đã rẽ ngang qua cuộc đời của mỗi chúng ta để làm cho chúng
ta được khỏe mạnh. Đức Giêsu đã đến, và Ngài thấy hội chứng mù lòa trong lòng
nhân loại, Ngài liền hứa trao ban sự sáng cho chúng ta được thấy, thật đúng là:
“Những điều mắt chẳng hề thấy, tai không hề nghe, và đã không hề nảy lên nơi
lòng một người phàm”. ( 1Cr 2, 9).
Thiên Chúa, Thầy thuốc đến để chữa bệnh gì cho nhân loại? Ngài
đã dùng phương thuốc nào? Ngài đến để chữa nhiều thứ bệnh, trong đó có bệnh
kiêu ngạo. Phương thuốc chữa trị cho căn bệnh kiêu ngạo là sự khiêm của Đức
Giêsu Kitô. Một vị thầy thuốc tôn trọng bệnh nhân khi chữa trị cho các bệnh
nhân, với phương thuốc: Hãy học cùng Người vì Người là Thiên Chúa khiêm nhường
trong lòng, như Ngài mời gọi ta. Thật vậy, Ngài biết rằng phương thuốc để chữa
lành bệnh tật của ta là sự khiêm nhường. Người biết rõ căn nguyên của bệnh tật
và bốc đúng liều lượng để chữa trị. Trong thực tế, người bệnh là chúng ta không
thể chạy đến cùng thầy thuốc, vậy mà đích thân thầy thuốc đã đến nhà chúng ta,
Ngài đến cứu giúp ta, vì Ngài biết điều chúng ta cần.
Thiên Chúa đã đến với con người trong sự khiêm nhường, để con
người có thể noi gương bắt chước Thiên Chúa. Ngài vẫn ở trên cao, làm thế nào
để ta có thể bắt chước Ngài được? Và, nếu không bắt chước được, thì làm sao con
người có thể được chữa lành? Ngài đến trong sự khiêm nhường, vì Ngài biết rõ
tính tự nhiên của một thầy thuốc là phải túc trực thường xuyên bên người bệnh:
thuốc có đắng, mới chữa được bệnh. Còn con người, con người tiếp tục nhạo báng
Ngài, tay cầm chén, và nói: "Lạy Thiên Chúa của con, Ngài là Đấng nào?
Ngài được sinh ra, Ngài đã chịu khổ hình, chịu đội mạo gai, bị đóng đanh và
chịu chết trên cây thập giá! Ôi, tâm hồn sầu khổ! Ta chứng kiến sự khiêm tốn
của thầy thuốc, mà lại không thấy được căn bệnh ung thư kiêu ngạo tiềm ẩn trong
ta, đó là lý do tại sao ta không thích sự khiêm nhường.
Thường thì kẻ mặc bệnh tâm thần mới đánh lại bác sĩ khi bác sĩ
đang chữa trị bệnh tật cho mình. Trong trường hợp này, bác sĩ đầy lòng thương
xót không chỉ không tức giận chống lại người đánh, nhưng bác sĩ còn sẽ cố gắng
để chữa bệnh cho người ốm. Bác sĩ của chúng ta là Đức Giêsu Kitô, Ngài không sợ
bị giết bởi bệnh nhân điên rồ: Ngài đã làm cho cái chết của mình trở nên thần
dược chữa lành họ, Ngài đã chết và đã sống lại.
Như thế, Đức Giêsu, Chúa chúng ta đã không cứu chúng ta bằng
cách làm phép lạ, nhưng bằng việc loan báo Tin Mừng, từ bỏ và hy sinh mạng sống
cho chúng ta. Chính lập trường của Đức Giêsu củng cố niềm tin của chúng ta.
Người chính là Đấng Mêsia đích thực của Thiên Chúa, một Đấng Mêsia không vận
dụng quyền lực mình để thực hiện một hoàn cảnh cứu độ trần thế, nhưng đặt tại
trung tâm sứ điệp về Thiên Chúa. Ngài đã chữa lành những bệnh hoạn tật nguyền
của chúng ta bằng liều thuốc khiêm nhường, để khi chúng ta sống trong một hoàn
cảnh khó khăn, cùng quẫn, ta có thể khiêm nhường đặt trọn niềm tin nơi Ngài,
bởi vì chính Ngài sẽ ban cho chúng ta ơn cứu độ vẹn toàn.
14. Chúa Giêsu không được chấp nhận.
(Trích trong ‘Tin Mừng Chúa Nhật’)
Sau khi đã sai nhóm Mười Hai đi từng hai người để thực tập việc
tông đồ tại miền quê xứ Galilê, Đức Giêsu một mình trở về thăm Nagiarét, nơi mà
Ngài đã được nuôi dưỡng và lớn lên trong mái ấm gia đình dứoi sự chăm sóc của
mẹ Maria và thánh Giuse. Sau khi làm cho cô bé con ông Giairô viên trưởng hội
đường sống lại, Ngài dừng chân tại Ca-phác-na-um. Các môn đệ đi theo Ngài ít
ngày đầu, nhưng sau đó, một mình Ngài trở về thăm quê, và tới dự một buổi thờ
phựơng nhằm ngày sabat. Được mời lên tiếng, Ngài có cơ hội đưa ra một thông
điệp quan trọng.
Các khán giả nghe Ngài với nỗi kinh ngạc. Họ không thể nào chống
lại vẻ dịu dàng của bài giảng, hoặc chối bỏ vẻ quyến rũ của lời Ngài nói, nhưng
họ cũng không thể chấp nhận lời tuyên bố của Ngài. Họ biểu lộ lòng không tin
bằng một câu hỏi: “Hẳn không phải là con ông Giuse sao?” Ý họ muốn nói: “Đây
không phải là người lân cận với chúng ta, một người thợ mộc mà chúng ta đều
quen biết, chúng ta đã không biết bản thân anh ta và cả gia đình anh ta sao?
Chắc chắn anh ta không thể là Đấng Mêsia được!”
Câu trả lời của Chúa Giêsu ngụ ý nói sở dĩ họ không nhận Ngài,
vì Ngài không làm trước mặt họ những phép là mà Ngài đã làm ở nơi khác. Khi
Ngài trích dẫn câu tục ngữ: “Thầy lang ơi, hãy chữa lấy mình” là Ngài có ý nói:
“Hãy chứng thực lời tuyên bố của anh ở đây như anh đã làm ở các nơi khác. Nếu
anh muốn chúng tôi nhận anh là Đấng Kitô.” Chúa cũng trích dẫn một câu tục ngữ
khác cắt nghĩa đầy đủ hơn về mối nghi ngờ ghen ghét của họ: “Không có ngôn sứ
nào được chấp nhận nơi quê hương mình.” Những kẻ quá quen thuộc với những bậc
vĩ nhân thường không thể nhận biết được sự vĩ đại của họ. “Quen quá hóa lờn”
(Bụt nhà không thiêng) vì người ta có khuynh hướng phán đoán kẻ khác theo tiêu
chuẩn giả dối, theo hình thức bên ngoài, vì người ta không hiểu biết những kẻ
mà họ tưởng họ từng quen biết hơn cả. Chính những nhận xét nông cạn này đã làm
tài hại cho đời sống ngày nay. Nó khiến ta không nhận thức được giá trị của bạn
hữu, của cơ hội để khi biết được thì quá trễ. Chính cái đó đã có một ảnh hưởng
bi đát trên chức vụ của Chúa Giêsu, có người chối bỏ Ngài vì những lý do hết
sức nông cạn và điên rồ, tưởng rằng họ đã biết Ngài vì đã quen thuộc với tên
Ngài từ lâu, trong khi trên thực tế họ không thể hiểu được vẻ đẹp của nhân vị
Ngài và quyền năng hối cải của ân điển Ngài.
Thái độ của khán giả biến thành tức giận khi Chúa Giêsu lấy hai
thí dụ trong Cựu ước, cả hai câu đều ám chỉ rằng dầu người đồng hương của Ngài
biết rõ về Ngài hơn hết, nhưng họ vẫn không xứng đáng hưởng ơn cứu rỗi do chức
vụ của Ngài đem lại hơn những người ngoại bang. Ngài tự ví sánh mình với Êlia
và Êlisê. Êlia đã đem ơn phúc lớn cho người ở Siđon và Êlisê cho người ở Syri,
trong khi dân Israel vẫn không nhận được ơn vì lòng họ cứng cỏi. Như vậy các
dân tộc trên thế giới sẽ nhận được ơn phúc cho Chúa Cứu Thế mang lại trong khi
những kẻ quen biết Ngài lại phải khổ sở vì không tin. Họ đâu có chịu nổi lời
quở trách nghiêm khắc ấy, điều làm họ tức giận là Ngài khen tụng dân ngoại.
Người Do thái vẫn đinh ninh rằng chỉ có họ là dân của Thiên Chúa, cho nên họ
xem khinh các dân tộc khác. Họ tin rằng “Chúa đã dựng nên các dân ngoại để làm
chất đốt cho lửa hỏa ngục”. Thế mà giờ đây chàng thanh niên Giêsu này, người mà
hết thảy họ đều biết, lại giảng như thể dân ngoại được Thiên Chúa ưu đãi, họ
nổi xung lên đuổi Ngài ra khỏi thành và toan làm hại mạng sống Ngài.
Ngay từ khi mới sinh ra, Đức Giêsu nhận được một định mệnh
“Thiên Chúa đã đặt cháu bé này làm duyên cớ cho nhiều người Israel phải vấp ngã
hay được chỗi dậy. Cháu còn là dấu hiệu bị người đời chống báng.” (Lc 2,34),
lời tiên tri ấy nay đã thành sự thật.
Hẳn thật, sau khi đã suy gẫm lâu dài về cuộc đời Thầy mình,
Gioan tông đồ đã phải đưa ra một nhận định cay đắng: “Ngài đã đến nhà mình
nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận!” (Ga 1,11). Việc xảy ra thật đáng buồn
nhất cho Chúa Giêsu là người giàu tình cảm đối với quê hương xứ sở. Đáng lẽ họ
phải mở rộng vòng tay đón tiếp Ngài, đáng lẽ Ngài được tiếp rước như một người
đi xa trở về, người đã làm mở mày mở mặt cho quê hương xứ sở. Nhưng Ngài đã bị
chối bỏ.
Bài học của Nagiarét đây vẫn luôn được lặp lại, nhiều người có
cơ hội để biết Chúa lại chối bỏ Ngài, nhưng nơi nào có đức tin thì những tấm
lòng tan vỡ được hàn gắn như thời Êlia, và những người phong sẽ được lành mạnh
như Na-a-man nhờ lời của Êlisê. Vậy trong khung cảnh nhà hội Nagiarét, Chúa
Giêsu đã nói, chẳng những về ơn lành của chức vụ Ngài mà còn về quyền năng phổ
thông của chức vụ ấy nữa. Ngài đến để thỏa mãn những nhu cầu của nhân loại
trong cả thế gian.
Jelana là một trong sáu em đã được phúc nhìn thấy Đức Mẹ trong
suốt mười tám năm, và được đích thân Đức Mẹ dạy dỗ, một lần có người hỏi cô về
số phận của những người theo đạo Công giáo, cô kể lại lời Đức Mẹ dạy: “Có lần
Đức Mẹ cho biết có một phụ nữ đang sống ở Mễ Du, bà ấy đã gần đạt tới sự thánh
thiện. Các thị nhân hỏi tên bà ấy, Đức Mẹ trả lời: bà ấy là một người Hồi giáo.
Nghe câu trả lời ấy, các thị nhân sửng sốt hỏi lại: sao lại thế được. Đức Mẹ
trả lời: “Chỉ mình Thiên Chúa mới có quyền xét đoán về những điều ấy.” Sau đó
Đức Mẹ giải thích: “Các con hãy nói cho mọi người biết là chính các con tự chia
rẽ nhau ở trần gian. Người Hồi giáo và Chính thống giáo cũng một thể như người
Công giáo, đều bình đẳng với nhau trước Con Mẹ và Mẹ. Các con hết thảy đều là
con cái Mẹ. Thật ra mọi tôn giáo không phải đều bằng nhau, nhưng hết mọi người
đều bình đẳng trước mặt Thiên Chúa. Không phải cứ thuộc về Giáo Hội Công giáo
là đủ để được cứu rỗi… Những người không Công giáo không phải là những thọ tạo
kém hơn đâu. Họ cũng được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa và được định phần
chung là cuộc sống trong nhà Thiên Chúa, Cha chúng ta. Ơn cứu độ được cống hiến
cho hết mọi người không trừ ai. Chúa Giêsu Con mẹ đã cứu chuộc toàn thể nhân
loại trên địa cầu. Chỉ những ai từ chối Thiên Chúa một cách cố tình thì bị kết
án, do bởi sự lựa chọn của chính họ.
15. Khước từ vì ghen tương – R. Gutzwiller.
Theo sau Lời Chúa Giêsu giải thích là một hồi thinh lặng. Cử toạ
nói với nhau, trao đổi cảm tưởng. Trước hết đây là một sự lôi cuốn pha lẫn vui
mừng, rồi lần lần có nhiều tiếng nói khác nổi lên, trước tiên là tiếng của các
luật sĩ có mặt trong buổi họp ấy. Bầu khí từ từ đổi thay, rồi biến đổi hẳn.
Phần thứ hai trong hoạt cảnh này diễn biến theo một chiều hướng hoàn toàn ngược
hẳn.
Nếu truy tầm lý do tại sao có sự thay đổi này, ta sẽ thấy phần
nào cách suy tư, lời nói và con người Đức Giêsu làm cho dân chúng Nagiarét bị
chưng hửng đối với ý tưởng họ sẵn có về Đức Messia và sứ mạng của Ngài. Con
người của Ngài không am hợp với những gì họ tưởng tượng. Ngài cũng giống như
bất cứ ai trong họ; chẳng có gì tỏ ra là người thiên thai cả. Ở đây Ngài cũng
chẳng thực hiện phép lạ nào trước mặt họ. Rồi sứ điệp của Ngài cũng chẳng nói
lên những điều họ đang thực sự ước ao: bởi lẽ Ngài không loan báo cho họ một
cuộc sống thế trần tiện nghi thoải mái, cũng không loan báo một nước Israel
hùng cường vĩ đại. Chắc chắn họ mong chờ nơi Chúa Giêsu những gì Ngài đã từ
khước khi bị cám dỗ trong sa mạc: bánh, sự lạ và quyền thế. Thế nhưng Ngài lại
mang đến Lời Chúa, mang đến một nước Thiên Chúa tuy đơn sơ nhưng thật là vĩ
đại. Các tiến sĩ luật mớm những chuyện đó cho dân chúng và làm thay đổi bầu
không khí.
Hơn nữa, Ngài đã thực hiện những phép lạ ở chỗ khác, trước hết
là ở là ở Caphanaum chứ không làm ở Nagiarét nơi họ cư ngụ; điều đó đụng chạm
đến lòng ái quốc quá khích của họ khiến họ nói: ‘Thày lang ơi! Hãy chữa lấy
mình. Mọi điều chúng tôi đã nghe xảy ra ở Caphanaum, thì ông hãy làm ở nơi quê
hương ông đây nữa đi!’ Chúa Giêsu trả lời: ‘Không có tiên tri nào được sùng mộ
ở quê hương mình’, Ngài không chút nhượng bộ lòng ái quốc sai lầm của họ. Ngài
không theo họ hướng dẫn, chính họ mới phải theo sự chỉ đạo của Ngài.
Ngài đi xa hơn nữa và cho họ thấy rằng việc họ được thuộc về dân
Thiên Chúa tuyển chọn không hẳn là bảo đảm được cứu độ, chỉ có những tâm hồn
biết chuẩn bị mới nhận được chứ không phải là những liên hệ máu mủ.
Xưa tiên tri Êlia đã bỏ những người đồng hương của ông để đi cứu
giúp một người ngoại bang: vì bà goá Sarepta thuộc xứ Siđon này đã tiếp đón ông
đang khi những người đồng hương lại không hiểu ông. Rồi Naaman, người Syria
cũng thế, ông đến với tiên tri Êlisêô và được chữa lành, còn những người đồng
quê với tiên tri lại luôn cản mũi kỳ đà. Vậy hai người của Thiên Chúa đó đã đủ
để cho thấy rằng cứ là người Israel mà thôi không đủ; người ta chỉ có thể lãnh
nhận ơn cứu độ bằng một con tim ngay thẳng và một tinh thần chân thành.
Dân cư Nagiarét đã hiểu được lời đe doạ. Qua câu trả lời, Chúa
Giêsu tỏ cho họ thấy rằng Ngài không theo cùng một lối suy tưởng như họ, không
cùng hy vọng như họ và họ cần thay đổi não trạng. Nhưng họ lại không chịu, thế
nên mới có sự thù địch giữa Ngài với họ.
Nhiệt tình ban đầu dựa trên tình cảm bỗng dưng đổi thành ghen
ghét. Họ biết rõ Chúa đòi hỏi phải hoán cải, nhưng họ lại không muốn quay lại.
Như thế là họ đã xua đuổi Ngài và ồn ào giận dữ, họ đuổi Ngài ra khỏi hội đường
đến cuối làng để rồi xô Ngài từ trên triền đá xuống. Nhưng Ngài đi qua giữa họ
mà họ chẳng thể hại được Ngài. Ngài ra đi để chẳng bao giờ trở lại Nagiarét
nữa.
Đối với chúng ta, việc Ngài từ bỏ ngôi làng nơi Ngài lớn lên là
một sơ thảo về những biến cố sẽ xảy ra trong tương lai: bị dân riêng khai trừ,
từ nay Ngài đi về phía các dân ngoại.
Sự thay đổi bất ưng và thiếu suy nghĩ, việc biến thương yêu ra
hận thù, tán dương thành bài xích ấy đáng cho ta suy nghĩ. Tự bản chất, Kitô giáo
khơi dậy nơi những ai không thành kiến một sự hấp dẫn tự phát, bởi vì Tin mừng
trả lời cho những vấn nạn thâm sâu nhất của con người và đáp lại nỗi thất vong
thầm kín nhất của tâm hồn. Nhưng rõ ràng con người lại tiếp nhận với tất cả
định kiến. Họ xét đoán theo mặt trái, nông cạn, dựa trên những thiên kiến đã
được hấp thụ qua nền giáo dục. Họ quan niệm ơn cứu chuộc, trợ giúp theo cách
thế của họ, kẻ theo chiều hướng coi trọng vật chất, ngưới lại theo xu hướng
chính trị hay xã hội. Họ không có ý nghe để hấp thụ mà để biện minh cho những
gì họ tưởng nghĩ hay mong ước. Họ lấy phán đoán cá nhân họ để đo lường Lời
Chúa.
Nếu Lời Chúa không am hợp với những tư tưởng và ước muốn của họ
thì họ liền kết án và khu trừ. Họ không muốn để mình được điều gì khác cân đo,
nhưng muốn mình là khuôn là thước cho chính mình; họ không muốn cái gì khác
thẩm định họ, nhưng muốn tự phán xét chính bản thân mình.
Bối cảnh đã xảy ra ở Nagiarét vẫn không ngừng tiếp diễn. Trong
lần xuất hiện đầu tiên này, Chúa Giêsu khuyên bảo và cảnh giác. Mặc kệ tất cả,
Ngài cứ bước đi giữa họ, đến với người khác, điều đó có nghĩa là sự bài xích
chẳng thể làm gì được Ngài, nhưng sẽ trở lại chính họ. Chúa Giêsu sẽ đi xa,
chính khi con người không muốn tiếp nhận Ngài. Khi họ ghét Ngài, thì Ngài đem tình
thương đi chỗ khác; khi họ có ý giết Ngài thì Ngài vẫn không ngừng trao ban sự
sống. Họ bị huỷ diệt, còn Ngài vẫn tiến bước đi.
16. Loại trừ Chúa Giêsu chăng?
Đây là một trang dễ sợ. Trang này bắt đầu bằng một phản ứng đúng
ra là đầy cảm tình: “họ thán phục các lời về ân sủng xuất bởi miệng Ngài”.
Nhưng kết thúc bằng sự bạo động: “mọi người trong hội đường đầy lòng tức tối;
đứng dậy họ đuổi Ngài ra ngoài thành”.
Loại trừ Chúa Giêsu! Loại bỏ Đấng là những cánh tay của Thiên
Chúa rộng mở để tiếp đón tất cả mọi người. Thật là dễ sợ! Điều này không thể
xảy đến với chúng ta.
Chúng ta hãy hy vọng điều đó, nhưng Tin Mừng cần phải luôn báo
động cho chúng ta. Tại sao những người Nagiarét đi từ khâm phục đến căm ghét?
Chúa Giêsu đã phải cảm thấy những thái độ ngập ngừng mạnh hơn
trong bài Tin Mừng này và Ngài không ngần ngại rút ra những hệ quả từ đó: những
ơn cứu độ mà ta vừa mang lại cho các ngươi, những người khác sẽ nhận lãnh, như
xưa kia bà goá người Phênixi và người cùi Syri là những người được nhậm lời chứ
không phải người Do thái.
Việc mở rộng cho dân ngoại xúc phạm đến người Do thái. Họ không
còn có thể tin vào người này nữa. Trong suốt các thế kỷ, người ta sẽ loại trừ
Chúa Giêsu vì những lý do khác nữa nhưng nền tảng của tất cả những sự loại trừ
này sẽ có chính sự từ chối cơ bản được gợi ra đây do sự bối rối của thính giả:
“Không phải ông ấy là con bác Giuse sao?”; đây chỉ là con trai của Giuse mà
thôi. Những người nghĩ rằng Chúa Giêsu chỉ là một con người mà thôi, mặc dầu họ
khâm phục Ngài nhiều, họ vẫn không thể gán cho Ngài trong tư tưởng và trong
cuộc sống của họ vị trí to lớn mà Ngài đòi hỏi. Họ chấp nhận con người, họ loại
trừ Con Thiên Chúa.
Lại một lần nữa đây không phải là trường hợp của chúng ta hay
sao? Không, nhưng chúng ta phải coi chừng một số loại trừ âm ỉ hơn thế nữa.
Trước tiên có một cách để sát nhập Chúa Giêsu vào các ý nghĩ của chúng ta hoặc
vào môi trường của chúng ta, mà môi trường này tương đương với việc từ chối
tinh thần của Ngài và do đó từ chối chính Ngài. Chúng ta hãy xác minh chẳng hạn
như những ngập ngừng của chúng ta và có thể là những giận dữ của chúng ta trước
những cởi mở của Giáo Hội, của Giám mục này, của linh mục nọ. “Tốt hơn hết là
chăm sóc các Kitô hữu tốt”. Mỗi lần chúng ta hạn hẹp món quà cứu độ là chúng ta
loại trừ Chúa Giêsu.
Tôi cũng gặp những tín hữu sẵn sàng chấp nhận Chúa Giêsu mà
không suy xét tỉ mỉ, bao lâu cuộc sống của họ yên ả. Nhưng một biến cố nào đó
đã đặt họ trước một sự bó buộc của Tin Mừng là điều đối với họ dường như không
thể chấp nhận được đến độ họ thốt lên sự từ chối: “Ngài không thể yêu cầu tôi
làm điều này!”. Họ loại bỏ Chúa Giêsu ‘ra ngoài thành’, ra ngoài cuộc sống của
họ. Không có gì ngao ngán cho bằng thấy biết bao niềm tin và thậm chí một cuộc
đời trung thành lâu dài chuyển đổi thành sự không biết, sự bỏ rơi, sự căm ghét.
Tôi nghĩ rằng phải rất thận trọng trong việc chọn lựa trong Tin Mừng điều hợp
và điều không hợp với chúng ta: chúng ta có nguy cơ chuẩn bị trong một góc nào
đó của con tim chúng ta sự loại trừ Chúa Giêsu.
“Ngài đã ngang qua giữa họ mà đi”. Chúa Giêsu đi qua với những
lời mời gọi và những dâng hiến của Ngài. Nói chung, nói vâng với Ngài là điều
rất dễ. Tin Mừng không phải được viết ra cho những người xuất chúng, mà là cho
những người bé mọn. Dầu sao nếu điều này trở nên khó hơn, chúng ta đừng buông
Đấng duy nhất “có lời ban sự sống đời đời”. Ngài đi con đường của Ngài, hướng
về những người khác có niềm tin và lòng can đảm hơn.
17. “Người nhà đã không tiếp nhận Ngài”
Sau khi đã sai nhóm Mười Hai đi từng hai người để thực tập việc
tông đồ tại miền quê xứ Galilê, Chúa Giêsu trở về thăm Nagiarét, nơi mà Ngài đã
được nuôi dưỡng và lớn lên trong mái ấm gia đình dưới sự chăm sóc của Mẹ Maria
và thánh Giuse. Sau khi làm cho cô bé con ông Giairô viên trưởng hội đường sống
lại, Ngài dừng chân tại Capharnaum. Các môn đệ đi theo Ngài ít ngày đầu, nhưng
sau đó, một mình Ngài trở về thăm quê, và dự một buổi thờ phượng nhằm ngày
sabát. Được mời lên tiếng, Ngài có cơ hội đưa ra một thông điệp quan trọng.
Các khán giả nghe Ngài với nỗi kinh ngạc. Họ không thể nào chống
lại vẻ dịu dàng của bài giảng, hoặc chối bỏ vẻ quyến rũ của lời Ngài nói, nhưng
họ cũng không thể chấp nhận lời tuyên bố của Ngài. Họ biểu lộ thái độ không tin
bằng một câu hỏi: “Không phải ông ấy là con bác Giuse sao?”. Ý họ muốn nói:
“Đây không phải là người thân cận với chúng ta, một người thợ mộc mà chúng ta
đều quen biết, chúng ta đã không biết bản thân anh ta và cả gia đình anh ta
sao? Chắc chắn anh ta không thể là Đấng Messia được!”.
Câu trả lời của Chúa Giêsu ngụ ý nói sở dĩ họ không nhận Ngài,
vì Ngài không làm trước mặt họ những phép lạ mà Ngài đã làm ở nơi khác. Khi
Ngài trích dẫn câu tục ngữ: “Thầy lang ơi! hãy chữa lấy mình!” là Ngài có ý
nói: “Hãy chứng thực lời tuyên bố của anh ở đây như anh đã làm ở các nơi khác, nếu
anh muốn chúng tôi nhận anh là Đấng Kitô”. Chúa cũng trích dẫn câu tục ngữ khác
cắt nghĩa đầy đủ hơn về mối nghi ngờ ghen ghét của họ: “Không có tiên tri nào
được sủng mộ nơi quê quán mình!". Những kẻ quá quen thuộc với những bậc vĩ
nhân thường không thể nhận biết được sự vĩ đại của các vĩ nhân đó. “Quen quá
hoá lờn” (Bụt nhà không thiêng) vì người ta có khuynh hướng phán đoán kẻ khác
theo tiêu chuẩn giả dối, theo hình thức bên ngoài, vì người ta không hiểu biết
những kẻ mà họ tưởng họ từng quen biết hơn cả. Chính những nhận xét nông cạn
này đã làm tàn hại cho đời sống ngày nay. Nó khiến ta không nhận thức được giá
trị của bạn hữu, của cơ hội để khi biết được thì quá trễ. Chính cái đó đã có
một ảnh hưởng bi đát trên sứ vụ của Chúa Giêsu. Người ta chối bỏ Ngài vì những
lý do hết sức nông cạn và điên rồ. Họ tưởng rằng họ đã biết Ngài vì đã quen
thuộc với tên Ngài từ lâu, trong khi thực tế họ không thể hiểu được vẻ đẹp của
nhân vị Ngài và quyền năng của Ngài.
Thái độ của khán giả trở thành tức giận khi Chúa Giêsu lấy hai
thí dụ trong Cựu Ước, cả hai đều ám chỉ rằng dầu người đồng hương của Ngài biết
rõ về Ngài, nhưng họ vẫn không xứng đáng hưởng ơn sủng do chức vụ của Ngài đem
lại hơn những người ngoại. Ngài tự sánh ví mình với Êlia và Êlisê. Êlia đã đem
ân phúc lớn cho người ở Siđon và Êlisê cho người ở Syri, trong khi dân Israel
vẫn không nhận được ơn vì lòng họ cứng cỏi. Như vậy, các dân tộc trên thế giới
sẽ nhận được ân phúc do Chúa Cứu Thế mang lại trong khi những kẻ quen biết Ngài
lại phải khổ sở vì không tin. Họ đâu có chịu nổi lời quở trách nghiêm khắc ấy.
Điều làm họ tức giận là Ngài khen tụng dân ngoại. Người Do thái vẫn đinh ninh
rằng chỉ có mình họ là dân của Thiên Chúa, cho nên họ khinh thường các dân tộc
khác. Họ tin rằng “Chúa đã dựng nên các dân ngoại để làm chất đốt cho lửa hoả
ngục”. Thế mà giờ đây, chàng thanh niên Giêsu này, người mà hết thảy họ đều
biết, lại giảng như thể dân ngoại được Thiên Chúa ưu đãi. Họ nổi xung lên, đuổi
Chúa Giêsu ra khỏi thành và toan làm hại mạng sống Ngài.
Ngay từ khi mới sinh ra, Chúa Giêsu nhận được một định mệnh
“Ngài có mệnh làm cớ cho nhiều người bổ nhào và chỗi dậy trong Israel, và làm
dấu gợi lên chống đối” (Lc 2,34), lời tiên tri ấy nay đã thành sự thật.
Hẳn thật, sau khi đã suy gẫm lâu dài về cuộc đời Thầy mình,
thánh Gioan tông đồ đã phải đưa ra một nhận định cay đắng: “Ngài đã đến nơi nhà
của Ngài, mà người nhà đã không tiếp nhận Ngài” (Ga 1,11). Việc xảy ra thật
đáng buồn nhất là cho Chúa Giêsu là người giàu tình cảm đối với quê hương xứ
sở. Đáng lẽ họ phải mở rộng vòng tay đón tiếp Ngài, đáng lẽ Ngài được tiếp rước
như một người đi xa trở về, người đã làm nở mày nở mặt cho quê hương xứ sở.
Nhưng Ngài đã bị chối bỏ.
Bài học của Nagiarét đây vẫn luôn được lập lại, nhiều người có
cơ hội để biết Chúa lại chối bỏ Ngài, nhưng nơi nào có đức tin thì những tấm
lòng tan vỡ được hàn gắn như thời Êlia, và những người phong sẽ được lành mạnh
như Naaman nhờ lời của Êlisê. Vậy trong khung cảnh nhà hội Nagiarét, Chúa Giêsu
đã nói, chẳng những về ơn lành của chức vụ Ngài mà còn về quyền năng phổ quát
của chức vụ ấy nữa. Ngài đến để thoả mãn những nhu cầu của nhân loại trong cả
thế gian.
Jelana là một trong sáu em đã được phúc nhìn thấy Đức Mẹ trong
suốt mười tám năm, và được Đức Mẹ đích thân dạy dỗ, có lần có người hỏi cô về
số phận của những người theo đạo Công giáo, cô kể lại lời Đức Mẹ dạy: “Có lần
Đức Mẹ cho biết có một phụ nữ đang sống ở Mễ Du, bà ấy đã gần đạt tới sự thánh
thiện. Các thị nhân hỏi tên bà ấy, Đức Mẹ trả lời: bà ấy là một người Hồi Giáo.
Nghe câu trả lời ấy, các thị nhân sửng sốt hỏi lại: sao lại thế được. Đức Mẹ
trả lời: “Chỉ mình Thiên Chúa mới có quyền xét đoán về những điều ấy”. Sau đó
Đức Mẹ giải thích: “Các con hãy nói cho mọi người biết là chính các con tự chia
rẽ nhau ở trần gian. Người Hồi Giáo và Chính Thống Giáo cũng một thể như người
Công Giáo, đều bình đẳng với nhau trước Con Mẹ và Mẹ. Các con hết thảy đều là
con cái Mẹ. Thật ra mọi tôn giáo không phải đều bằng nhau, nhưng hết mọi người
đều bình đẳng trước mặt Thiên Chúa. Không phải cứ thuộc về Giáo Hội Công Giáo
là đủ để được cứu rỗi … Những người không Công Giáo không phải là những thụ tạo
kém hơn đâu. Họ cũng được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa và được định phần
chung cuộc là sống trong nhà Thiên Chúa, Cha chúng ta. Ơn cứu độ được cống hiến
cho hết mọi người không trừ ai. Chúa Giêsu Con Mẹ đã cứu chuộc toàn thể nhân
loại trên địa cầu. Chỉ những ai từ chối Thiên Chúa một cách cố tình thì bị kết
án, do bởi sự lựa chọn của chính họ.
18. Kiên vững và dịu hiền – Thiên
Phúc.
(Trích trong ‘Như Thầy Đã Yêu’)
Thôi Trữ là quyền thần nước Tề, định giết vua Trang Công, bèn
hội họp sĩ phu lại cùng nhau thề thốt. Ai nấy đều sợ hãi răm rắp vâng lời. Duy
có Án Tử nghiễm nhiên như không, nhất quyết không chịu thề. Thôi Trữ bảo: Nếu
ngươi nghe ta, khi lấy được nước, ta sẽ cho một nửa. Bằng không, ta giết ngay
lập tức. Án Tử vẫn không biến sắc ung dung nói: lấy lợi nhử người ta, bảo người
ta phản bội vua là bất nhân; lấy binh khí hiếp người ta, làm người ta mất chí
khí là bất dũng. Giết thì giết, ta đây không theo việc bất nhân của nhà ngươi
đâu. Thôi Trữ nghe nói vậy, không dám làm gì. Án Tử đứng dậy, ung dung bước ra.
Thôi Trữ quyền hành là thế, mà chỉ một câu nói của Án Tử cũng đủ
làm ông phải chùn bước. Thế mới biết sự thật có sức mạnh hơn bạo lực quyền uy.
Bài Tin mừng hôm nay kể lại: “Nghe vậy, mọi người trong hội
đường đầy lòng tức tối; đứng dậy họ đuổi Ngài ra ngoài thành, và điệu Ngài lên
tận triền núi nơi thành họ đã được xây cất, có ý xô Ngài xuống. Nhưng Ngài đã ngang
qua giữa họ mà đi” (Lc 4,28-30). Những người đồng hương với Chúa Giêsu cảm thấy
khó chịu vì họ không thể tin rằng “Thần khí Chúa” lại ngự xuống trên con ông
Giuse thợ mộc. Họ cảm thấy nghi ngờ vì không thể chấp nhận một con người nghèo
khổ làng Nagiarét lại là tiên tri, lại là Đấng Thiên sai. Họ càng căm phẫn khi
con người ấy không chịu thực hiện những phép lạ mà họ yêu cầu. Thế là bạo động
nảy sinh, họ muốn tiêu diệt Ngài cho khuất mắt. Đúng như lời Ngài đã nói:
“Không một tiên tri nào được tiếp đón nơi quê hương mình”. Thế mới ứng nghiệm
lời ông già Simêon: Trẻ này là dấy hiệu bị người đời chống báng. Lời tiên tri
này còn theo Người suốt cả cuộc đời.
Nếu dân làng Nagiarét ép Ngài làm phép lạ để minh chứng Ngài là
tiên tri, thì các đầu mục Do Thái cũng đòi Ngài chứng minh giáo lý của Ngài là
chính thống. Nếu dân làng Nagiarét tố cáo Ngài là lộng ngôn phạm thượng thì bọn
pharisêu cũng kết tội Ngài dựa vào thế gía của quỉ vương. Nếu dân làng Nagiarét
cố tìm cách giết Ngài, thì dân thành Giêrusalem cũng quyết tâm đóng đinh Ngài
vào thập giá. Mỗi người Kitô hữu đều có thể hiểu được thế nào là bị xua đuổi,
bị loại trừ, bị kỳ thị và bị bỏ rơi, vì “nếu thế gian đã ghen ghét các con, thì
hãy nhớ rằng họ đã ghét Thầy trước”. Thế nhưng ít có ai cảm nghiệm được tâm
trạng của Chúa Giêsu vào những lúc như thế này: Ngài có căn thù những kẻ ruồng
rẫy Ngài không? Ngài có đầu hàng trước nghịch cảnh không? Nói như Martin Luther
King: Tôi vui mừng vì Thiên Chúa chúng ta thờ là Thiên Chúa có tinh thần kiên
vững và có con tim dịu hiền.
Vâng, nếu Thiên Chúa chỉ là Đấng có tinh thần kiên vững, thì
Ngài sẽ là một Thiên Chúa xa cách, lạnh lùng, ngự trị một nơi nào đó trên chốn
trời cao để ngắm nhìn thế sự thăng trầm. Nhưng nếu Ngài chỉ có con tim dịu
hiền, thì Ngài sẽ là một Thiên Chúa ủy mị nhu nhược, không thể hành động khi
mọi sự đi lệch hướng. Đứng trước cảnh bị ruồng rẫy hôm nay, con tim của Ngài
không hề chai đá và tinh thần của Ngài không chút bạc nhược. Ngài có đủ tinh
thần kiên vững để vượt trên thế giới và có con tim đủ dịu hiền để ở giữa con
người.
Bài học chúng ta cần rút ra từ bài Tin Mừng hôm nay, đó là:
Thiên Chúa mạnh mẽ vô song, có thể băng qua giữa họ mà đi, nhưng Ngài cũng là
Đấng giàu lòng thương xót. Khi chúng ta ngỗ nghịch xúc phạm đến Ngài, khi chúng
ta muốn xô Ngài xuống vực thẳm, thì chúng ta cần biết rằng chính lúc đó Ngài
đang yêu thương chúng ta và sẵn sàng cho chúng ta một cơ hội để quay trở về.
Thiên Chúa là Đấng có tinh thần kiên vững trong phán quyết công minh, nhưng
Ngài cũng là Đấng có tình dịu hiện trong tình thương và ân sủng.
Thiên Chúa ban ân sủng cứu độ cho hết mọi người, chứ không chỉ
dành riêng cho một số người được đặc ân.
Thiên Chúa ban ân sủng cứu độ để chúng ta sinh ích cho mình và
làm lợi cho anh em, chứ không phải để chúng ta khư khư giữ lấy cho riêng mình.
Lạy Chúa, Tiên Tri là ơn gọi và là sứ mạng của mỗi người tín hữu
chúng con. Xin cho chúng con luôn can đảm nói điều Chúa muốn nói, và nói nhân
danh Chúa, cho dù có phải bị chống đối, phẫn nộ.
Xin cho chúng con luôn xác tín rằng: Chúa đầy quyền năng cao cả
nhưng cũng rất giàu lòng xót thương, luôn dẫn dắt chúng con từ những hố sâu tăm
tối đến những nẻo đường chan hoà ánh sáng, tràn đầy hy vọng, nhờ đó, cuộc đời
chúng con được viên mãn. Amen.
19. Con cái trong nhà
Đọc lại Kinh thánh, chúng ta thấy Thiên Chúa đã xác quyết:
- Tư tưởng và đường nẻo của Ta không giống với tư tưởng và đường
nẻo của các ngươi. Như trời cao hơn đất bao nhiêu, thì tư tưởng và đường nẻo
của Ta cũng cao hơn tư tưởng và đường nẻo của các ngươi bấy nhiêu.
Thực vậy, trong cuộc sống chúng ta thường yêu thương những người
thân cận và đặc biệt là con cái trong nhà. Còn Thiên Chúa thì chưa hẳn đã là
như vậy, bởi vì Ngài vừa là Đấng giàu lòng thương xót, lại vừa là Đấng rất mực
công bằng và ngay thẳng.
Qua đoạn Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã đưa ra hai trường hợp
để chứng minh sự thật trên.
Trường hợp thứ nhất, đó là là khi trời hạn hán suốt ba năm sáu
tháng dưới thời tiên tri Elia khiến cho các dân nước lâm vào cảnh đói kém. Lúc
bấy giờ trong Israel không thiếu gì những bà góa, thế nhưng Thiên Chúa không
sai tiên tri Elia đến giúp cho một bà góa nào cả, mà chỉ sai đến giúp cho bà
góa tại Sarepta mà thôi.
Trường hợp thứ hai đó là dưới thời tiên tri Elisê, trong dân
Israel không thiếu gì những người phong cùi, thế nhưng chẳng một ai trong bọn
họ được tiên tri Elisê chữa lành, mà chỉ có một mình tướng Naaman, người Syria
mà thôi.
Từ đó, chúng ta có thể kết luận:
- Không phải cứ là người Do Thái, không phải cứ là người thuộc
về dân riêng của Chúa thì sẽ được Chúa yêu thương và chúc phúc.
Sự thật này còn được chứng tỏ rất nhiều lần trong Phúc âm. Thực
vậy, rất nhiều lần Chúa đã lên tiếng khen ngợi lòng tin của những người ngoại
giáo và Ngài còn xác quyết mạnh mẽ hơn nữa khi nói:
- Những kẻ tội lỗi, thu thuế và gái điếm sẽ được vào Nước Trời,
còn con cái trong nhà thì sẽ bị đuổi ra ngoài.
Đoạn Tin mừng hôm nay cũng cho thấy: Chúa Giêsu đã không làm một
phép lạ nào cho dân làng Nagiarét, những người thân cận và đồng hương với Ngài,
như đã từng làm ở những nơi khác, chỉ vì họ cứng lòng tin.
Vì thế, không phải cứ là bà con họ hàng với Chúa mà dành được từ
những ưu đãi này đến những ưu đãi khác. Chính Chúa Giêsu có lần cũng đã nói:
- Thiên Chúa có thể biến những hòn đá này trở nên con cháu
Abraham.
Lần khác Ngài cũng đã xác quyết:
- Mẹ Ta và anh em Ta chính là những người biết lắng nghe và tuân
giữ lời Thiên Chúa.
Với chúng ta cũng vậy. Chúng ta vốn tự hào vì mình là người đạo
dòng, đạo gốc. Chúng ta vốn hãnh diện vì mình đã được lãnh nhận bí tích Rửa tội
cũng như đã tin vào Chúa từ hồi còn tấm bé. Và chúng ta yên trí rằng: chắc chắn
mình sẽ được cứu rỗi.
Nếu quả thực đã nghĩ như vậy, thì chúng ta đã lầm to. Có tên
trong sổ sách của giáo xứ, có giấy chứng nhận đã chịu phép Rửa tội mà thôi cũng
chưa chắc là sẽ chiếm lấy được phần thưởng Nước Trời, bởi vì trong ngày sau hết
rất có thể con cái trong nhà sẽ bị loại ra ngoài.
Bởi đó, cách thức bảo đảm nhất để chiếm lấy niềm hạnh phúc vĩnh
cửu, đó là hãy tuân giữ lời Chúa, hãy thực thi những điều Ngài truyền dạy, nhất
là giới luật yêu thương, như Ngài đã từng nói:
- Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ Thày, là
các con yêu thương nhau.
20. Giáo Hội không biên giới
(Suy niệm của Lm Phêrô Bùi Quang Tuấn)
Đoạn Phúc âm tuần này tiếp nối sự kiện Đức Giêsu trở về Galilê,
như là cứ điểm xuất phát đầu tiên cho chương trình cứu thế của Ngài.
Galilê, miền bắc của nước Palestine, có kích thước khoảng 50 dặm
từ bắc xuống nam và 25 dặm từ đông sang tây. Danh xưng Galilê tự nó, trong
tiếng Do thái, có nghĩa là vòng tròn. Vùng đất này được đặt tên như thế là vì
vây quanh nó toàn là dân ngoại. Đã có thời các sử gia ghi nhận Galilê có đến
204 ngôi làng, với số dân trong mỗi làng không dưới 15 ngàn người. Vị chi có
tới 3 triệu người từng cư ngụ chen chúc nhau nơi đây.
Galilê còn là vùng đất màu mỡ phì nhiêu. Văn học dân gian Do
thái từng ví “Trồng một rừng cây ôliu ở Galilê còn dễ hơn nuôi một đứa bé ở
Giuđêa.” Khí hậu tươi mát và nguồn nước ngọt phong phú từ hồ Tibêria đã biến
Galilê thành vườn cây thiên nhiên trù phú của Palestine.
Riêng người dân Galilê thì được mô tả là “rất có óc sáng tạo,
hay canh tân đổi mới, và rất thích dấy động. Họ sẵn sàng đi theo bất kỳ người
nào dám đứng lên lãnh đạo một cuộc khởi nghĩa. Dân Galilê dễ nổi nóng và ưa
tranh biện. Họ không thiếu can đảm, nhưng bao giờ cũng lưu tâm đến danh dự hơn
vật chất bên ngoài.”
Đó là những nét đặc thù của Galilê, “cứ điểm cứu thế”. Đức Kitô
đã bắt đầu sứ vụ từ đó, trong một hội đường của người Do thái.
Hội đường là trung tâm sinh hoạt tôn giáo. Theo qui định, bất cứ
nơi đâu có 10 gia đình Do thái trở lên, chỗ đó phải có một hội đường cho vấn đề
phụng tự. Việc giảng dạy được thực thi trong các hội đường, còn việc sát tế súc
vật để dâng lên Thiên Chúa thì được cử hành tại Đền thờ Giêrusalem.
Chính trong một hội đường nơi làng Nazaret mà Đức Giêsu đã bắt
đầu sứ vụ cứu thế, bằng một bản tuyên ngôn hùng hồn: “Thánh Thần Chúa ngự trên
tôi, vì Ngài đã xức dầu cho tôi, sai tôi đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo
khó, ban bố ân xá cho kẻ tù đày, cho người đui mù được xem thấy, kẻ bị áp bức
được giải oan, và loan báo năm hồng ân của Thiên Chúa” (Lc 4:18-19).
Có lẽ bản tuyên ngôn trên không có gì mới lạ đối với dân Do
thái. Không chừng họ còn nghe nằm lòng. Chắc chắn đã vài ba lần, những người
được vinh dự công bố sách Luật và các Tiên tri đã đọc cho họ nghe lời tiên báo
trên đây. Nó được trích trong sách tiên tri Isaiah, chương 61, nói về Đấng Cứu
Thế.
Nhưng điều lạ lùng đến sinh ra bối rối kinh ngạc nơi người Do
thái là vì sau khi đọc lên đoạn ấy, Đức Giêsu gấp sách lại, dõng dạc tuyên bố
với cử toạ: “Hôm nay, lời Kinh thánh các ngươi vừa nghe đã ứng nghiệm” (Lc
4:21).
“Ôi! Đã ứng nghiệm rồi sao lời tiên báo của các tiên tri về Đấng
Cứu Thế? Phải chăng niềm an ủi của Israel, nỗi trông chờ trải bao thế kỷ đã
thành sự trước mắt chúng ta? Nhưng sao lại như thế được? Chàng Giêsu này thì ai
mà không biết. Chàng đã sống giữa chúng ta. Từng giúp đỡ chúng ta chuyện này
việc kia. Mới đây tự nhiên chàng bỏ làng ra đi. Không biết đi đâu. Nhưng tin
đồn thì cứ đổ về làng. Nào là chàng đã làm phép lạ hoá rượu ra hàng mấy trăm
lít bên làng Cana. Nào là chàng đã trừ ma diệt quỉ, chữa lành người bệnh bên
làng Caphanaum. Bây giờ trở về cố hương, chàng lại tự xưng là Messiah-Đấng Cứu
Thế. Chà, sao mà nghe chói tai quá,” có lẽ người Do thái xì xào bàn tán với
nhau như vậy.
Thế rồi tiếng xì xào lớn dần thành lời hằn học: “Tại sao hắn lại
không làm những sự cả thể thế kia nơi đây mà lại trổ tài nơi khác. Người nhà
bao giờ cũng phải được ưu tiên hơn chứ…. Nhưng kìa, tại sao hắn lại nói cái gì
về chuyện Êlia cứu giúp bà goá tại Sarepta trong thời kỳ hạn hán và Êlisê chữa
lành cho Naaman người Syria, khi ông này bị bịnh phung cùi. Mà mấy kẻ đó đâu có
phải là dân Do thái. Họ là những người ngoại, những người đáng bị kinh tởm. Ấy
thế mà họ lại được ưu tiên cứu chữa mới tức chứ… Còn tên Giêsu này, nghề ngỗng
thì có gì đặc biệt đâu. Anh ta không làm vài phép lạ cho bà con đồng hương xem
chơi đã đành, lại còn nhắc đến mấy cái chuyện chạm tự ái dân tộc thế kia thì
chịu sao nỗi.” Thế là họ đồng loạt xông lên, căm tức vô bờ, nhất tề tống xuất
Đức Giêsu ra khỏi hội đường. Kinh khiếp hơn, họ còn muốn đẩy ngài xuống chân
núi cho chết.
Thế mới hay lòng tự ái và ích kỷ của con người thật khủng khiếp,
chỉ mong đẩy kẻ khác đi đến cái chết! Nhưng Đức Giêsu không chấp nhận thái độ
ích kỷ và cục bộ đó. Tin mừng Nước Trời, niềm vui ơn cứu độ không thể giới hạn
trong một làng hay một dân tộc nào, nhưng tin mừng và niềm vui đó phải được phổ
quát đến tất cả mọi nước mọi dân.
Như lời tiên tri của Isaia đã ứng nghiệm nơi Chúa Giêsu thế nào,
thì lời của ngôn sứ Giêrêmia cũng thành sự nơi Ngài như vậy: “Thiên Chúa phán
cùng tôi rằng; Trước khi tạo thành ngươi trong lòng mẹ, Ta đã biết ngươi, và
trước khi ngươi ra khỏi lòng mẹ, Ta đã hiến thánh ngươi. Ta đã đặt ngươi làm
tiên tri cho các dân tộc” (Grr 1:4-5).
Không phải chỉ nơi dân tộc Israel mới có người “nghèo khó” cần
cứu giúp, người “tù đày” cần tự do, người “đui mù” muốn nhìn chân lý, kẻ bị “áp
bức” cần được minh oan, nhưng là khắp mọi nơi. Tin Mừng của “năm hồng ân” phải
vượt khỏi ranh giới Nazaret, vươn ra ngoài biên cương Galilê và Palestine, đến
cùng các dân tộc và mọi tâm hồn.
Thế nên, bao lâu mà người Kitô hữu vẫn chỉ lưu lại trong cái
nhìn cục bộ, lo tìm tư lợi hơn là mưu cầu ích chung, đòi hỏi ơn riêng thay vì
rộng tay ban phúc, chắc chắn “Chúa phải băng ngang giữa họ mà đi” (Lc 4:30). Vì
đạo Chúa phải là đạo Công giáo, đạo cho mọi người.
21. Nói tốt
Khi Đức Giêsu trở lại quê hương Nagiarét; người ta đã mời Ngài
giảng dạy ở hội đường. Phản ứng đầu tiên của họ đối với Ngài hết sức thuận lợi.
Họ ngạc nhiên về những lời nhân từ của Ngài. Tuy nhiên, sự thán phục của họ
chẳng bao lâu đã đổi thành nghi ngờ và kế đó là thù hận. Có lầm lẫn nào đã xảy
ra.
Họ vẫn còn coi Ngài chỉ là con ông Giuse. Và họ cảm thấy rằng
nếu Ngài có điều gì ban phát thì những người đồng hương như họ phải được hưởng
trước tiên. Không hề bày tỏ một niềm tin chân thật vào Ngài, họ yêu cầu Ngài
thực hiện ở Nagiarét một số phép lạ mà họ thấy Ngài đã làm ở nơi khác – dù sao,
bác ái phải bắt đầu ở tại nhà mình. Họ cảm thấy họ có quyền thiêng liêng được
hưởng những ơn của Ngài trước tiên.
Nhưng Ngài đã nói bất kể anh em là ai, điều quan trọng là anh em
có đức tin hay không. Không có chỗ trong vương quốc của Thiên Chúa cho những kẻ
có đặc quyền. Bác ái của Thiên Chúa bắt đầu ở bất cứ nơi nào mà con người đang
cần, và đức tin là điều kiện để nhận lãnh nó. Đức Giêsu đã cho hai ví dụ – cứu
chữa cho bà góa ở Xadépta và cho ông Naaman, và cả hai người này đều là dân
ngoại. Khi nghe những ơn huệ mà họ đã từ khước (vì thiếu niềm tin vào Đức
Giêsu) sẽ được ban cho dân ngoại, người dân Nagiarét đã phẫn nộ. Là những người
Do thái, họ là dân Thiên Chúa. Những người khác đều là những kẻ bên lề và tội
lỗi. Làm sao Đức Giêsu lại dám cho rằng dân ngoại sẽ được ưa thích hơn họ. Trong
sự bùng phát nhiệt tình của chủ nghĩa dân tộc, họ quay lưng với Ngài. Họ đưa
Ngài ra khỏi hội đường, và tìm cách thủ tiêu Ngài. Tại sao họ đã quay ra phẫn
nộ với Ngài như thế? Bởi vì những điều Ngài đã nói. Đó là lý do đầu tiên. Nhưng
có một lý do sâu xa hơn. Đó là vì Ngài đã nói ra những điều xấu xa nằm ẩn kín
trong lòng họ. Nếu bạn khuấy nước ao tù lên một lớp bùn sẽ nổi lên trên mặt
nước. Điều đáng tiếc là đôi khi tôn giáo làm lộ rõ điều xấu nhất trong lòng
người. Điều này làm cho họ trở nên hẹp hòi hơn, mù quáng hơn và có khả năng thù
ghét và giết chóc hơn. Chúng ta thấy một gương xấu của điều đó trong những
người dân Nagiarét. Nhưng những sự việc như thế vẫn còn xảy ra. Tôn giáo có thể
bị bóp méo và trở thành một điều ghê tởm như cuồng tín và mù quáng. Tôn giáo
trở thành đồng nghĩa với tâm lý hẹp hòi, nhỏ nhen và không dung thứ.
Nhưng tôn giáo cũng có thể nói lên điều tốt nhất trong con
người. Nó làm cho họ trở nên bao dung và có lòng yêu thương hơn. Tôn giáo chân
thật giải phóng tâm hồn và trí tuệ con người, và nuôi dưỡng những mối quan hệ
hài hòa với những người khác. Tôn giáo có như thế mới tốt đẹp. Mỗi người trong
chúng ta phải tự hỏi: “Tôn giáo thể hiện điều gì nơi tôi?” Có một dây liên kết
chủ yếu giữa đức tin và tình yêu, hay đức mến. Thánh Phaolô nói: “Đức tin, đức
cậy, đức mến cả ba đều tồn tại, nhưng cao trọng hơn cả là đức mến”. (Bài đọc 2)
Có đức tin và đức cậy để làm gì nếu chúng ta thiếu lòng yêu mến?
22. Ơn cứu độ nhưng không của Thiên Chúa
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Thành Long)
Trong bài diễn từ đầu tiên của mình tại Hội đường Nazareth, Chúa
Giêsu không những đã nói rõ sứ mạng của Ngài khi đến trần gian là để hoàn tất,
để làm “ứng nghiệm” tất cả những gì mà các tiên tri đã loan báo, mà còn cho
những người đồng hương của Ngài biết những chiều kích sâu xa của ơn cứu độ mà
Ngài mang đến cho con người.
1. Trước hết, ơn cứu độ của Đức Kitô - Ơn cứu độ mang tính thần
linh
Đức Kitô không loan báo một thứ ơn cứu độ đến từ con người, cho
dù người đó là một anh hùng, hay một siêu nhân, mà Ngài loan báo một thứ ơn cứu
độ đến từ Thiên Chúa. Ngài không phải là một nhà cách mạng, một nhà giải phóng
dân tộc thuần tuý phàm trần. Do đó, ơn cứu độ mà Ngài đem đến không phải là ơn
cứu độ thuộc hạ giới. Ơn cứu độ của Ngài là ơn cứu độ đến từ thượng giới, vì
Ngài là Đấng Thiên Sai, Đấng từ Thiên Chúa Cha mà đến.
Và chính vì ơn cứu độ đến từ thượng giới, nên để có thể đón
nhận, cần có niềm tin. Điều này dân làng Nazareth không có. Mặc dù, họ hài lòng
với sứ điệp của Chúa Giêsu, họ vỗ tay tán thưởng những lời từ miệng Người thốt
ra; nhưng họ đã từ chối đón nhận sứ điệp ấy từ Người. Trở ngại lớn nhất nơi họ
chính là “định kiến” về một Giêsu, con bác thợ mộc Giuse: “Ông này không phải
là con ông Giuse đó sao?” (Lc 4,22). Vì không ra khỏi óc thành kiến hẹp hòi đó,
nên họ không thể nhìn thấy nguồn gốc thần linh của Đức Giêsu quê làng Nazareth.
Tôi có thường “đóng khung” Thiên Chúa và các mạc khải của Ngài
trong cái nhìn hẹp hòi thành kiến không?
2. Thứ đến, ơn cứu độ của Đức Kitô - Ơn cứu độ mang tính nhưng
không
Ơn cứu độ mà Thiên Chúa tặng ban cho con người qua Đức Giêsu
Kitô hoàn toàn xuất phát tình yêu nhưng không của Ngài, chứ không phải vì con
người xứng đáng. Thân phận con người là tội lỗi và ngàn lần bất xứng. Không ai
có quyền đòi hỏi và cho rằng mình có công trạng.
Vì thế, để có thể đón nhận ơn cứu độ nhưng không ấy, cần có một
thái độ khác đó là thái độ chân thành tri ân. Dân làng Nazareth nghĩ rằng mình
xứng đáng với những phép lạ và những đặc ân đến từ Chúa Giêsu. Họ thiếu sự chân
thành để đón nhận. Hơn thế, họ còn yêu sách đối với Chúa Giêsu: bắt Chúa Giêsu
phải đáp ứng theo những đòi hỏi của họ, và vì thế khi Chúa Giêsu không đáp ứng
theo ý muốn của họ, lập tức họ nổi giận trục xuất Ngài ra khỏi hội đường.
Tôi có thường đỏi hỏi, yêu sách Chúa làm theo ý mình hay lời cầu
xin của mình vì nghĩ mình xứng đáng, mình có công đức hay không? Nếu tôi áp
lực, yêu sách Chúa làm theo ý muốn của mình thì một ngày nào đó, tôi sẽ “nghỉ
chơi” với Chúa, thậm chí là “khai tử” Chúa chỉ vì không được Chúa đáp ứng. (Dẫn
chuyện minh hoạ: Phơi nắng Chúa Giêsu).
3. Sau nữa, ơn cứu độ của Đức Kitô - Ơn cứu độ mang tính phổ
quát
Thiên Chúa muốn cứu độ hết mọi người. Ơn cứu độ của Ngài không
dành cho một dân tộc, một quốc gia, hay một nhóm người nào. Tin Mừng cứu độ
phải đến với hết mọi người (x. Lc 4,42); Tin Mừng không chỉ dành cho một số
người độc quyền. Những người không phải Do Thái không nằm bên ngoài ơn cứu độ
của Thiên Chúa.
Đối với Chúa Giêsu, mọi thứ tước hiệu “bà con”, “họ hàng”, “đồng
hương đồng khói”, “dòng dõi Abraham”… đều không có ý nghĩa gì, càng không thể
đổi lấy ơn cứu độ được.
Vì thế, để có thể đón nhận, cần có thái độ khiêm tốn cởi mở. Dân
làng Nazareth vì cho rằng mình có đặc quyền đặc lợi, mình là “con cháu Abraham”,
là “dân Chúa chọn”, là “người làng” của Chúa Giêsu, nên họ không muốn những
người khác được hưởng ơn cứu độ. Vì thiếu sự quảng đại và cởi mở, nên họ đã nổi
giận khi Chúa Giêsu có vẻ đề cao dân ngoại, ưu tiên cho dân ngoại. Và cũng vì
thiếu khiêm tốn và vị tha, nên khi Chúa Giêsu từ chối làm theo ý họ và ưu ái
đối với họ, họ đã tìm cách loại trừ Chúa Giêsu, theo kiểu “ăn không được thì
đạp cho đổ”. Tắt một lời, vì hẹp hòi, không muốn cho dân ngoại được hưởng những
ân huệ từ Thiên Chúa, nên dân làng Nazareth đã có ý hãm hại Chúa Giêsu, một
người đồng hương với mình. Thật phũ phàng! Tin Mừng thánh Luca cho thấy rõ điều
đó: “Họ đứng dậy, lôi Người ra khỏi thành và kéo Người lên tới đỉnh núi, để xô
Người xuống vực” (Lc 4,29).
Tôi có nhận ra mình ở trong số những người đồng hương của Chúa
Giêsu, khi sống hẹp hòi ích kỷ không? Tôi có muốn giữ Chúa cho riêng mình, giữ
chân lý do cho riêng mình, và giữ những ân huệ của Thiên Chúa cho riêng mình
không?
23. Loại bỏ
Sau nhiều năm rời bỏ ngôi làng nơi ông đã chào đời ở Transkei,
Nelson Mandela đã trở về thăm quê hương. Lúc bấy giờ ông đã là một luật sư và
sống ở Johannesburg. Sau này ông đã viết về cuộc thăm viếng đó: “Không có gì
giống như khi ta trở về một nơi vẫn không thay đổi để tìm lại những con đường
trong đó chính bạn đã đổi thay. Chốn cũ tiếp tục như trước đây, không đổi khác
với khi tôi lớn lên ở đó. Nhưng tôi nhận ra rằng quan điểm của tôi và thế giới
quan của tôi đã tiến triển”. Thật vậy, ông đã nói điều đó đúng lúc ông trở về
quê hương, ông không thể sống ở đó nữa – nó trở nên quá nhỏ đối với ông.
Đức Giêsu đã trở lại Nagiarét và với dân làng. Ngài đã lớn lên ở
giữa họ. Người cũng muốn đem lại cho họ những ơn ích của Người. Họ là những
người biết rõ Người. Hẳn bạn nghĩ rằng họ sẽ đánh giá Người cao nhất. Đáng buồn
là họ không tin Người.
Quang cảnh mà bạn có về một nhà thờ lớn thì một khoảng cách rất
khác với quang cảnh khi bạn ở thật gần. Từ một khoảng cách, ngôi nhà thờ đứng
rực rỡ trong khung cảnh xung quanh. Bạn có thể nhìn thấy những đường nét, hình
thể và vẻ đẹp của nó. Nhưng khi ở thật gần, bạn thấy toàn là bụi bẩn và rạn
nứt.
Một điều tương tự xảy ra với người ta. Một người không bao giờ
là một anh hùng với những người thân. Một thiên tài dường như không được chính
bạn bè mình khám phá. Những người ở gần phải chịu đựng vì các khuyết điểm và
giới hạn quá rõ ràng. Những người ở xa, trái lại, được sự quí trọng cổ vũ vì
chỉ những đức hạnh của người ấy được thấy rõ.
Nhưng điều đã xảy ra với Đức Giêsu ở Nagiarét còn sâu xa hơn
thế. Không phải chỉ vì họ không đánh giá đúng Đức Giêsu. Họ khước từ Người. Tại
sao? Bởi vì Người đã chỉ ra sự thiếu đức tin của họ và nói với họ rằng dân
ngoại còn cởi mở với Thiên Chúa hơn họ. Những ơn ích từ lời hứa trong giao ước
không có ý nghĩa là tất cả.
Đức Giêsu đã chịu đựng số phận của mọi ngôn sứ – bị dân của
Người khước từ. Lời ngôn sứ không phải để làm vui lòng người ta, nhưng để nói
lên sự thật mà người ta không muốn nghe, sự thật mà người ta thường che đậy.
Nhưng động lực khiến Đức Giêsu nói lên sự thật là lòng thương xót của Người.
Người phải làm gì? Hẳn Người có thể nói: “Tôi đã chán họ! Tôi đã
chán mọi người. Vì vậy tôi sẽ rút lui vào một cái lều trong rừng và để cho cỏ
dại mọc quanh trên mặt đất”.
Hoặc Người có thể nói: “Họ muốn gì nào?” Và khi đã tìm ra điều
họ muốn, Người có thể xúc tiến cho họ điều đó. Nhưng trong trường hợp này, ơn
đặc biệt mà Người muốn cho họ và họ hết sức cần sẽ bị bỏ mất.
Sau cùng, Người có thể cố gắng tìm ra một số ít người sẵn sàng
đón nhận điều Người muốn cho họ. Nếu Người tìm được ít người đó, Người có thể
cho họ điều đó tùy theo khả năng họ đón nhận. Đó là điều Người đã chọn để thực
hiện.
Bị những người thân quen của mình khước từ là một việc tổn
thương sâu sắc. Đức Giêsu đã đau buồn bởi những điều xảy đến với Người ở
Nagiarét, nhưng Người đã không trở nên cay cú và chôn vùi những ân huệ của
Người. Người làm điều Người có thể làm cho những kẻ đã tin Người ở Nagiarét, và
rồi Người mang những ân huệ của Người đi nơi khác.
24. Sứ vụ.
Người xưa thường nói: “Vạn sự khởi đầu nan”. Điều này cũng đã
xảy ra ngay khi Chúa Giêsu khởi đầu sứ vụ rao giảng công khai của Người tại hội
đường Nagiarét, nơi sinh trưởng của Người. Thành công vừa mới chớm nở, thì khó
khăn, thử thách, không mời đã chợt ập đến, không chịu uốn mình chiều theo những
toan tính vị kỷ của những người đồng hương, Chúa Giêsu đã bị chống đối khước
từ, thậm chí họ muốn thủ tiêu Người. Dẫu sao, Chúa vẫn dũng mạnh thi hành sứ vụ
của Người bằng một trái tim rộng mở, luôn đập những nhịp đập của yêu thương.
Thánh Luca đã ghi lại trong Tin Mừng hôm nay. Sau khi nghe Chúa
Giêsu đọc và giải thích đoạn sách của tiên tri Isaia, những người trong hội
đường xì xầm với nhau: “Ông này không phải là con ông Giuse đó sao? “. Có lẽ,
câu nói này không diễn tả một thái độ nghi ngờ, trần tục hóa sự thiêng liêng
cao cả của Đức Giêsu, bởi vì họ vừa mới chăm chú lắng nghe và thán phục những
lời thốt ra từ miệng Người. Đúng hơn, câu nói đó như diễn tả một sự toan tính
đầy ích kỷ, tư lợi của những người đồng hương với Chúa. Họ mang một tâm tính
vốn rất thường gặp ở đời: “Một người làm quan cả họ được nhờ”. Nếu người này là
con ông Giuse, bây giờ trở thành tiên tri và làm được các phép lạ, vậy tại sao
chúng ta lại không lợi dụng địa vị đó để mưu ích cho thôn xóm, bản làng của
mình. Câu ngạn ngữ Chúa Giêsu trưng dẫn để nói với họ: “Thầy lang ơi! Hãy chữa
lấy mình” cho thấy, họ muốn Chúa hãy làm cho họ hưởng các phép lạ trước rồi sau
đó mới cho người khác được hưởng. Họ muốn đưa ra một tối hậu thư bi đát ép Chúa
phải phục vụ họ trước. Vậy Chúa Giêsu đã xử trí thế nào trước thái độ hẹp hòi
của họ.
Biết rõ đầu óc cục bộ địa phương, còn nhiều ganh tỵ, mang đậm
tính mầu cờ sắc áo Nazareth của những người đồng hương như thế, Chúa Giêsu muốn
từ chối ràng buộc ơn cứu độ của Người trong mối liên hệ máu mủ thân quen nên
Người đã nói rõ ý định của Người: “Tôi bảo thật các ông, không một tiên tri nào
được chấp nhận tại quê hương mình”. Nghĩa là, vị tiên tri không có tình cảm ưu
ái với những người đồng hương hơn những người xa lạ. Chúa đã trưng dẫn hai vị
tiên tri lớn trong Cựu ước là Elia và Elisa đã có những hoạt động vượt ra ngoài
ranh giới tôn giáo cũng như lãnh thổ, để từ chối không ban cho những người
Nazareth, mà cả dân tộc Israel độc quyền chiếm hữu ơn cứu độ. Ý thức mình là
dân riêng Chúa chọn, nên người Do thái không thể tưởng tượng được một Đấng Cứu
thế được Thiên Chúa sai đến lại lưu tâm đến dân ngoại là người tội lỗi, hơn là
ghé mắt chiếu cố đến họ. Chính điều này đã khiến họ tức giận. Họ lôi Người ra
khỏi thành và xô Người xuống vực. Tuy nhiên, thánh Luca đã ghi lại: “Nhưng
Người băng qua giữa họ mà đi”. Nghĩa là, Chúa vẫn bình tĩnh thi hành sứ vụ
trước thái độ “được ăn cả, ngã về không” hay “không ăn được thì đạp đổ” của họ.
Thái độ hẹp hòi của người Nazareth và phản ứng của Chúa Giêsu
như thế có giúp chúng ta rút ra bài học gì cho cuộc sống hôm nay không?
Trong cuộc sống, người tín hữu nếu không tỉnh thức, không xét
mình đấm ngực hằng ngày và không thắp lên trong tim ngọn lửa truyền giáo sẽ dễ
trượt theo “vết xe đổ” của những người Do thái thời xưa.
Tự hào mình thuộc dòng dõi đạo gốc lâu đời, được rửa tội, được
hưởng nền giáo dục và đời sống ơn thánh, dễ làm cho người Công giáo có cảm
tưởng, Thiên Chúa thuộc về người Công giáo và phục vụ cho người Công giáo. Và
điều này dễ dẫn đến khuynh hướng đóng khung giam hãm Thiên Chúa để độc quyền
chiếm hữu Chúa Kitô và ơn cứu độ của Người hơn là chia sẻ cho những anh em chưa
được biết Chúa.
Có thể nói khuynh hướng này là “Tội thứ nhất, tội của những
người được soi sáng mà không sáng tỏa ra. Họ biết ý nghĩa của cuộc sống, biết
hướng đi, biết những điểm có nước, những trạm có xăng dầu nhưng họ không chỉ
dẫn cho ai”. Thế nên, thay vì là những rào cản, sẽ tốt hơn, đẹp hơn, ý nghĩa
hơn nếu mỗi người trở nên những nhịp cầu dẫn đưa người khác đến với Chúa. Đừng
vô tình tự nguyện biến mình thành một trở lực, nhưng hãy cố tình biến đổi thành
một trợ lực cho tha nhân.
Một nhà thần học rất nổi tiếng người Đức là cha Karl Rahner có
một ý tưởng rất đáng cho chúng ta lưu ý. Ngài nói: “Một cách nào đó, tất cả
chúng ta đều là những Kitô hữu ngoại đạo; trong số những người Công giáo, không
phải tất cả đều thực sự là con cái của Nước Trời. Bao nhiêu kẻ xem ra ở bên
ngoài thực sự lại ở trong, còn những người bẩm sinh là công dân Nước Trời thì
sẽ bị ném vào nơi tối tăm dầy đặc”.
Vì thế, sứ mạng loan báo Tin Mừng đòi hỏi chúng ta phải cố gắng
khám phá “những người ngoại có tâm hồn Kitô hữu”. Họ là những người ở gần Thiên
Chúa mà không hay biết. Họ bị bóng tối vị kỷ của chúng ta làm che mất ánh sáng.
Tuy nhiên, không thể có tâm hồn truyền giáo nếu không có đức ái. Không phải vô
tình mà thánh Phaolô đã dùng tới 10 lần chữ “đức ái” trong bài đọc 2 để nhấn
mạnh đức ái là nhân đức tuyệt đối cần và quí trọng nhất. Người loan báo Tin
Mừng cần phải có và cầu xin hơn cả, vì đây chính là con đường hoàn hảo.
Có lẽ là không quá cường điệu khi nhà bác học Pascal nói rằng:
“Tất cả mọi vật chất gộp chung lại, cộng với tất cả mọi tinh thần gộp chung
lại, cộng với tất cả mọi sản phẩm của hai thứ đó gộp chung lại, cũng không có
giá trị bằng một chút bác ái. Đó là một trật tự khác hẳn, vô cùng cao cả hơn”.
Ước chi “vết đen” của những người Nazareth thời xưa không lập
lại và trở thành “phách mạnh” trong đời sống chúng ta, nhưng chớ gì tấm gương
đời sống của Chúa hôm nay giúp chúng ta ý thức và mở lòng mình ra trước sứ vụ
truyền giáo, dẫu có gặp khó khăn thử thách, thậm chí là chống đối bách hại, vẫn
kiên trì và dũng mạnh thi hành sứ vụ bằng một trái tim chan chứa tình yêu như
Ngài, trong Ngài và nhờ Ngài.
25. Ân huệ
Đoạn Tin Mừng hôm nay tiếp liền đoạn Tin Mừng Chúa nhật tuần trước,
kể lại diễn tiến buổi thuyết giảng của Chúa Giêsu trong hội đường Nagiaret.
Thánh Luca, tác giả đoạn Tin Mừng này chỉ kể lại việc Chúa Giêsu đọc sách thánh
và câu mở đầu bài giảng của Chúa: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quí vị
vừa nghe”. Rồi ngừng lại ở đây, không cho biết thêm Chúa Giêsu đã giảng dạy
những gì ngày hôm ấy, để nói về phản ứng của những người nghe: “Mọi người đều
tán thành và thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Người”. Thái độ này
diễn tả một sự cảm phục, sung sướng, đồng thời nhận rằng những điều họ đang
nghe vượt khỏi sự chờ đợi, tức là họ không ngờ rằng: Người đang nói với họ
thông điệp ân sủng của Thiên Chúa lại chính là người làng của họ, người mà ngôn
sứ Isaia loan báo lại chính là con ông Giuse và bà Maria ở làng họ.
Nhưng Chúa Giêsu không muốn cho niềm thích thú bất ngờ này trở
thành một thái độ ích kỷ, muốn nhân danh tư cách đồng hương để đòi hỏi, chiếm
lãnh cho mình quyền hưởng thụ ân huệ của Đấng Mêsia. Chúa Giêsu phanh phui tâm
địa của họ: “Hẳn là các ông muốn nói với tôi câu tục ngữ: “Thầy lang ơi, hãy
chữa lấy mình!”, ý các ông muốn bảo tôi: Tất cả những gì chúng tôi nghe nói ông
đã làm tại Capharnaum, ông cũng hãy làm tại đây, tại quê ông xem nào!”. Qua lời
phanh phui của Chúa Giêsu cho chúng ta hiểu tâm trạng của dân làng Nagiarét là
muốn đòi quyền ưu tiên hưởng những ân huệ Chúa mang đến. Vì thế, Chúa đưa ra
hai thí dụ trong Cựu ước để từ chối không thỏa mãn yêu sách đó. Thí dụ thứ nhất
xảy ra thời ngôn sứ Elia, khi trời hạn hán, ông Elia chẳng được Thiên Chúa sai
đến với người đàn bà góa nào trong dân Israel, nhưng chỉ được sai đến xứ Xiđôn,
đến với một bà góa ở Xarépta. Thí dụ thứ hai xảy ra thời ngôn sứ Elisa, có
nhiều người phong hủi tại Israel, nhưng chẳng ai được lành sạch, chỉ có ông
Naaman, người xứ Xyri.
Chúa Giêsu nhấn mạnh đến sự tự do của Thiên Chúa khi ban ơn, và
vai trò của ngôn sứ là người được Thiên Chúa dùng để ban ơn. Thiên Chúa sai các
ngôn sứ Elia và Elisa đem ân huệ của Ngài cho người ngoại giáo. Đối chiếu lại
trường hợp Chúa Giêsu, Chúa được sai đến làm phép lạ ở Capharnaum chứ không
phải ở Nagiarét. Như thế, qua hai thí dụ rút từ Cựu ước, Chúa Giêsu muốn bảo
cho dân làng thấy tính phổ quát của ơn cứu độ. Chúa được sai đến không phải để
cứu riêng người Do thái mà là cứu tất cả mọi người. Phản ứng cuối cùng của
thính giả là sự công phẫn tột độ. Họ đứng dậy, xô Chúa Giêsu ra ngoài, đẩy Ngài
lên đồi, để xô Ngài xuống vực thẳm cho chết đi. Nhưng Chúa Giêsu ngang qua giữa
họ mà tiếp tục con đường của Ngài. Con đường của Ngài phải đưa Ngài tới Giêrusalem.
Trên con đường ấy Ngài tiếp tục bị người Do thái xô đẩy, và cuối cùng họ xô
được Ngài lên thập giá trên đồi Gôngôtha, xô được Ngài xuống mồ. Nhưng Ngài lại
chỗi dậy từ trong cõi chết và tiếp tục con đường của Ngài: Ngài đem ơn cứu độ
đến cho muôn dân. Ngài sai các môn đệ của Ngài tiếp tục con đường: đi làm chứng
cho Ngài đến tận cùng mặt đất.
Từ chối hay đón nhận Chúa là những thái độ hoàn toàn tự do của
con người. Người ta có quyền chối bỏ hay có quyền chấp nhận. Thiên Chúa không
áp đặt ai hay cố tình đưa họ vào một thế triệt buộc nào đó. Nhưng thời nào cái
quyền tự do kia cũng là con dao hai lưỡi khiến phải đề phòng. Kẻ khôn ngoan bao
giờ cũng dè dặt. Giả như chúng ta thử đặt mình vào số những người có mặt trong
hội đường Nagiarét ấy để nghe Chúa Giêsu, chúng ta sẽ phản ứng thế nào? Người
bên tả, kẻ bên hữu tôi sao vội vàng đến nóng nảy như vậy trước câu Kinh Thánh
và những lời chú giải tuyệt mỹ xuất phát từ miệng Chúa. Chúa đã lặp lại lời
ngôn sứ Isaia, một vị ngôn sứ được kính trọng nhất của niềm hy vọng Israel, rồi
Ngài đã bình giảng những lời đó. Nhưng sau khi nghe, mọi người trong hội đường
đều đầy căm phẫn, trục xuất Ngài và muốn giết Ngài. Chứng kiến cảnh tượng ấy
chúng ta có quyền trách họ vội nóng, hay tiếc thay cho họ bỏ lỡ cơ hội ngàn vàng.
Nhưng nếu suy nghĩ kỹ, chúng ta sẽ tự trách mình và còn tiếc xót biết bao cơ
may trong đời chúng ta đã đánh mất.
Chúa muốn chúng ta trở về với đời sống cụ thể của mình để nhận
ra những ơn cao cả Chúa ban cho chúng ta. Phải nhận ra mình được yêu thương,
cũng như phải yêu thương đáp trả. Chúng ta hãy nhớ lại biết bao hồng ân đã lãnh
nhận để tạ ơn Chúa và cố gắng sống tốt hơn với những hồng ân ấy.
26. Thành kiến
Với thành kiến sẵn có đối với những người da đen,bà Anna cho họ
là những kẻ lười biếng, trộm cắp, nghiện ngập, độc ác và giết người không gớm
tay. Bà luôn lưu ý những nơi mình đi qua và mỗi lần thấy bóng dáng một người da
đen là bà lánh sang nơi khác. Một hôm bà vừa bước vào thang máy thì một bóng
người da đen to lớn cùng bước vào đóng ngay cửa lại làm bà không thể trở lui,
bà chết điếng người và té xỉu. Tỉnh dậy nơi nhà thương, bàrất lấy làm hổ thẹn
khi biết được rằng chính người da đen cùng đi trong thang máy với bà là một ca
sĩ nổi tiếng tên là Vicky. Anh được mọi người mộ mến và chính anh đã đỡ bà khi
té xỉu và đưa đến nhà thương.
Thành kiến làm chúng ta ra mù quáng không thể nhận diện được
thực tại về những người chúng ta gặp thường ngày một cách đúng sự thật. Những
người làng Nagiarét thời Chúa Giêsu cũng mắc phải khuyết điểm như bà Anna. Sau
thời gian rao giảng tại Capharnaum, Chúa Giêsu trở về quê hương Nagiarét và rao
giảng tại hội đường. Dân chúng biết rõ nguồn gốc nhân trần của Ngài nên nói:
Người này không phải là con ông thợ mộc Giuse hay sao? Họ đã nghe biết những sự
lạ Ngài thực hiện tại Capharnaum, những sự lạ chứng minh nguồn gốc thần linh,
Ngài là con Thiên Chúa được Chúa Cha sai xuống trần gian để cứu rỗi con người.
Bởi vậy, những thành kiến không cho phép những họ nhìn xa hơn. Họ bị giới hạn
trong cảm nghĩ trần tục của họ, muốn Ngài thực hiện những sự lạ để hưởng lợi.
Họ không thể vượt qua khía cạnh trần tục, khía cạnh vật chất ích kỷ để có lòng
tin vào Chúa. Vì thế họ đã bị Chúa nhắc khéo nhớ lại chuyện xưa đã xảy ra trong
cuộc đời của tiên tri Elia và Elisêô, đó là trường hợp của bà góa tại Sarepta
và tướng Naaman người Syria. Lời nhắc khéo của Chúa làm cho họ bực tức và chống
đối. Họ đem Ngài lên nơi cao để xô Ngài xuống vực thẳm cho chết. Quả thật,
thành kiến đã làm cho họ mù quáng và dẫn đến những hành động điên rồ như vậy.
Nhưng thử hỏi chúng ta hôm nay thì sao? Chúng ta tin thờ Đức
Kitô nào đây? Một Đức Kitô chỉ àm phép lạ để thỏa mãn những nhu cầu ích kỷ của
riêng mình? Hay một Đức Kitô Con Thiên Chúa, Đấng cứu độ chúng ta và mời gọi
chúng ta bước theo Ngài? Làm thế nào để chứng thực trong đời sống là chúng ta
đã tin vào một vị Thiên Chúa làm người để cứu rỗi chúng ta? Không có cách nào
khác ngoài con đường bác ái yêu thương trong cuộc sống thường ngày.
Xin Chúa giải thoát chúng ta khỏi những thành kiến ngăn cản
chúng ta nhìn thấy Chúa đến với dung mạo con người nơi những người anh chị em,
nơi những biến cố của cuộc sống. Vì thành kiến, chúng ta đã không nhận ra điều
tốt nơi những người anh chị em và vì không nhận ra những điều tốt ấy, thì làm
sao chúng ta có thể nhận ra Chúa thực sự hiện diện nơi họ được.
27. Người tốt thì khó tìm
Chúng ta đã nghe câu đố: "Con gì buổi sáng thì đi bằng bốn
chân, buổi trưa bằng hai chân, và buổi chiều bằng ba chân?" Có người giải
thích rằng đó là con người. Khi còn bé, con người đi bằng cả hai tay và hai
chân. Đến khi trưởng thành thì con người đi bằng hai chân, tuy nhiên, đến tuổi
già thì con người đi bằng ba chân bởi vì đó là cây gậy. Điều
thú vị ở trong câu truyện này đó chính là thế hệ của chúng ta đang sống đây
cũng phải đương đầu với câu hỏi liên quan đến con người: "Tôi là ai và con
người là gì?" Trừ phi chúng ta trả lời được câu hỏi này, nếu không thì
cuộc sống của chúng ta sẽ dần dần chấm dứt một cách vô ích. "Tôi là
ai?" là một câu hỏi thúc bách trong thời đại chúng ta. Herman Hesse, một
tác giả người Thụy Sĩ mà nhiều bạn trẻ rất thích, đã nói rằng "Who I
Am?" là một câu hỏi rất quan trọng bởi vì nó là cốt lõi và nền tảng của
tất cả những câu hỏi khác, cách xử sự của chúng ta với chính chúng ta, sự giao
tế với những người khác, và sự tiếp xúc với thế giới của chúng ta. Đúng thế,
một trong những vấn đề mà chúng ta đã phải đương đầu, ở trong xã hội thế giới
này, những người không biết họ là ai đang chạy vòng quanh thế giới để nói với
chúng ta trở nên những con người như thế nào. Và như thế sự lộn xộn càng thêm
lộn xộn. Chúng ta sẽ không tiến lên được một chút nào hết cho tới khi chúng ta
trả lời câu hỏi này.
Thiên Chúa nhân từ, người đã dựng nên chúng ta, đã cho chúng ta
câu trả lời cho câu hỏi "Tôi là ai?" Ngài đã không trả lời chúng ta cách
trừu tượng và chúng ta nên tạ ơn Ngài về điều này. Thường thường những câu hỏi
này được đặt ra và chúng ta bị điên đảo với những câu trả lời trừu tượng.
Platô, một triết gia nổi tiếng, định nghĩa con người là con vật hai chân và ít
lông lá. Diogenes ngay sau đó đã bắt một con gà, nhổ hết lông của nó và giơ lên
cho Platô coi và nói, "Này triết gia, đây là con người!" Đây là
chuyện xảy ra khi chúng ta dùng triết lý để định nghĩa tôn giáo một cách chung
chung. Thiên Chúa đã làm một cách khác. Các bạn hãy suy nghĩ một phút, hãy suy
nghĩ xem coi nếu chúng ta nhìn thấy một tấm gương tốt của một người thì điều đó
có nghĩa là gì. Không phải là nguyên lý hoặc chung chung, nhưng là điều mà khoa
học thường nói rất nhiều ngày nay: một thần tượng, một mẫu người tốt. Tuy nhiên
người tốt thì thật là khó tìm!
"Anh em hãy có những tâm tình như chính Đức Kitô
Giêsu" (Pl 2:5), chính là điều mà Thánh Phaolô đã viết. Tất cả khoa thần
học đều dựa trên câu nói này. "Hãy lấy Chúa Kitô làm biểu tượng."
Chúng ta vẫn thường nghe câu nói này trong cuộc sống của mình. Hết nhà giảng
thuyết này đến nhà giảng thuyết khác cũng đều lập đi lập lại câu nói này,
"Hãy lấy Chúa Kitô là khuôn mẫu cho cuộc sống." Thế nhưng vấn đề mà
nhiều người chúng ta gặp đó là chúng ta chỉ nghe và biết câu nói này một cách
hời hợt bên ngoài mà không biết đem vào thực hành trong cuộc sống để thân thể,
tinh thần, lý trí của chúng ta trở nên giống Chúa Kitô. Đây là điều mà Thánh
Phaolô đề cập đến. Ngài van nài chúng ta hãy hiểu điều vĩ đại mà Thiên Chúa
đang làm cho chúng ta; hãy hiểu Thiên Chúa đang chỉ cho chúng ta một Thần
Tượng, một Con Người tốt, Ngài sẽ nói cho chúng ta cách làm người.
Nếu Chúa Kitô là thần tượng, thì chúng ta cần phải hiểu biết
Ngài. Tuy nhiên, đó là chỗ mà chúng ta sẽ phải đương đầu với nhiều khó khăn. Có
rất nhiều người mang danh là Kitô hữu, đi nhà thờ đều đặn, nhưng không biết một
tí chút gì về đời sống và sứ mạng của Chúa Kitô. Đó thật là một điều phi lý khi
chúng ta gọi mình là Kitô hữu, mà chúng ta không biết Chúa Giêsu Kitô. Một cách
ngẫu nhiên, đó là điều mà nhiều người trên thế giới đang nói với chúng ta. Có
lẽ đang có những điều xảy ra trong giây phút chúng ta tụ họp nơi đây, tuy nhiên
có thể có một điều gì đó đặc biệt sẽ xảy ra. Chúng ta nên dành thêm thời giờ để
học hiểu về Chúa Giêsu. Chúng ta nên quyết định, ngay bây giờ, sẽ tìm giờ để
đọc Thánh Kinh theo chiều sâu của nó. Chúng ta sẽ được biến đổi thành người tốt
như Chúa Giêsu.
Trong câu truyện "Cry the Beloved Country" của tác giả
Alan Paton, một người thanh niên trẻ được sinh ra khi cả hai bố mẹ anh đã đứng
tuổi. Khi lớn lên, anh đã bỏ nhà và đi đến thành phố để kiếm sống. Anh đã không
có liên lạc gì với gia đình cả. Sau cùng, người cha già đã quyết định vào thành
phố để thăm người con. Bởi vì ông không quen thành thị, nên ông đã gặp nhiều
vất vả không biết phải bắt đầu từ con đường nào để tìm con ông. Sau đó, ông bắt
gặp được một vị mục sư và được vị này giúp đỡ để đi tìm con của ông. Khi sự
việc được tiến triển tốt đẹp, người cha già đã cố gắng để tìm những lời lẽ đẹp
đẽ để cám ơn vị ân nhân của mình, nhưng ông không biết phải nói làm sao, chỉ
biết nói câu, "Mục sư là một người tốt!" Vị mục sư trả lời, "Tôi
không phải là một người tốt. Tôi là một kẻ tội lỗi và ích kỷ. Thế nhưng nhờ
Chúa Giêsu đã đặt tay Ngài trên tôi, chỉ có vậy thôi."
Một người tốt thì thật là khó tìm, nhưng Thiên Chúa đã ban cho
chúng ta một người rất tốt, đó chính là Con Một Ngài, Đức Giêsu để chúng ta có
thể noi theo mà không sợ bị lừa dối.
28. Suy niệm của JKN
Có bao giờ chính người Kitô hữu chối bỏ Đức Kitô không?
Câu hỏi gợi ý:
1. Tại sao Đức Giêsu lại bị từ chối tại chính làng của mình? tại
chính đất nước Do Thái? còn dân ngoại thì lại đón nhận Ngài để cuối cùng trở
nên Dân Ngài? Liệu lịch sử có thể tái diễn tương tự như thế đối với Kitô giáo
không?
2. Đức Giêsu có muốn dành ưu tiên cho quê hương hay dân tộc mình
không? Ngài có thành công trong việc dành ưu tiên ấy cho quê hương hay dân tộc
mình không? Tại sao?
3. Điều đã xảy ra với Do Thái có thể xảy ra tương tự với Kitô
giáo không? Chúng ta phải làm gì để tránh vết xe đã đổ?
CHIA SẺ
1. Các ngôn sứ thường bị từ chối tại chính quê hương mình
Đoạn Tin Mừng hôm nay và những đoạn khác tương tự trong các sách
Tin Mừng khác cho thấy: những người cùng quê cùng làng với Đức Giêsu có vẻ coi
thường Ngài và không tin ở Ngài cho lắm. Vì đối với họ, Đức Giêsu chỉ là con
của một bác thợ mộc nghèo hèn, và của một phụ nữ không danh giá gì trong làng.
Nếu chúng ta ở vào địa vị của dân chúng làng Nagiarét, chưa chắc chúng ta đã
suy nghĩ và đánh giá về Ngài khác hơn họ. Và nếu có một ngôn sứ nào xuất hiện ở
thời đại này, tại thành phố hay tỉnh ta đang sống, chưa chắc ta đã nhận ra và
đánh giá vị ấy một cách đúng đắn.
Thông thường, người ta thường đánh giá một người tùy theo những
gì thấy được ở bên ngoài, chứ không thấy được giá trị thâm sâu ở bên trong. Và
càng là người thân quen với vị ngôn sứ, thì càng khó đánh giá đúng đắn vị ngôn
sứ ấy, vì các ngôn sứ thường mặc lấy những dáng vẻ bên ngoài rất bình thường,
và cũng thường có quan niệm rất khác với người đương thời. Chính vì thế, các
ngôn sứ ít được người đồng thời và đồng hương biết được giá trị con người mình,
thậm chí còn bị coi thường, khi rẻ, kết án. Vì thế, Đức Giêsu nói: “Tôi bảo
thật các ông: không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình”.
2. Các ngôn sứ có muốn ưu đãi quê hương mình cũng không được
Vì thường bị người đồng thời, đồng hương hay đồng đạo coi thường
và không tin, nên các ngôn sứ thường không thể hoạt động hữu hiệu hay có kết
quả tốt đẹp tại quê hương hay thời đại mình. Chẳng hạn Đức Giêsu không thể làm
được nhiều phép lạ tại Nagiarét, vì họ cứng lòng tin (x. Mt 13,58); đồng bào và
đồng đạo của Ngài chẳng những không tin Ngài mà còn tìm cách giết Ngài nữa.
Thái độ của những người đồng hương, đồng đạo hoặc đồng thời với Ngài như thế,
khiến họ không được lợi lộc gì vì được làm người đồng hương, đồng đạo hay đồng
thời với vị ngôn sứ cả.
Đức Giêsu đã kể ra những trường hợp cụ thể minh chứng điều ấy,
chẳng hạn trường hợp của hai ngôn sứ Êlia và Êlisa. Thời Êlia, khi Israel bị
đói, ông chẳng giúp một bà góa khốn khổ nào trong nước cả, mà lại giúp một bà
góa ở tận đâu đâu, vì bà này tỏ ra yêu quí, tin tưởng và trọng vọng ông một
cách đặc biệt. Thời Êlisa, biết bao người Israel bị phong hủi thì ông chẳng
chữa cho ai, mà lại chữa cho một người từ ngoại quốc đến.
3. Thực tế ấy đã xảy ra trên nhiều bình diện khác nhau
Do tình cảm tự nhiên, ngôn sứ nào cũng đều muốn dành ưu tiên
quyền lợi cho quê hương mình, nhưng nhiều khi vì thái độ khinh thường và cố
chấp của người đồng hương, nên quê hương của các vị không hưởng được cái quyền
ưu tiên mà các vị muốn đặc biệt dành cho. Để rồi cuối cùng sự ưu đãi đó lại
được dành cho những người hay dân tộc xa lạ ở đâu đâu nhưng lại xứng đáng với sự
ưu đãi đó hơn.
Thật vậy, Đức Giêsu luôn luôn muốn dành ơn cứu độ ưu tiên cho
người Do Thái (x. Ga 4,22; Mt 10,6; 15,24). Nhưng Người Do Thái lại từ chối sự
ưu tiên đó, nên ơn cứu độ lại được đem đến cho các dân tộc khác. Nhiều dụ ngôn
của Đức Giêsu nói lên thực trạng đó. Chẳng hạn dụ ngôn những tá điền sát nhân
(x. Mt 21,33-46; Mc 12,1-12; Lc 20,9-19), dụ ngôn tiệc cưới (x. Mt 22,1-14; Lc
14,15-24).
Bài Tin Mừng lễ Hiển Linh cho thấy các kinh sư Do Thái - đại
diện cho dân tộc được Thiên Chúa ưu tiên dành cho mọi quyền lợi thiêng liêng -
mặc dù có Kinh Thánh trong tay và biết được chính xác Đức Giêsu sinh ra ở đâu,
nhưng họ lại không thèm tìm đến Ngài, mà lại còn muốn làm hại Ngài. Còn các đạo
sĩ - đại diện cho dân ngoại, dân không được ưu tiên - từ mãi đâu đâu tới và
phải nhờ tới các kinh sư Do Thái mới biết được Đức Giêsu sinh ra tại Bêlem, thì
lại quyết tâm tìm kiếm Ngài và họ đã tìm thấy.
Sự việc ấy là hình bóng của thực tế xảy ra sau đó: Mặc dù Đức
Giêsu sinh ra tại Do Thái, và dân Do Thái là dân được ưu tiên hưởng ơn cứu độ,
thì thực tế là cho tới nay, dân Do Thái vẫn chưa nhìn nhận Đức Giêsu là Đấng
Cứu Tinh Nhân Loại, mà vẫn còn tiếp tục chờ đợi. Còn những dân tộc đang tin vào
Đức Giêsu hiện nay thì lại là những dân tộc bị dân Do Thái xưa khinh thị và gọi
là dân ngoại. Thế là ứng nghiệm điều Đức Giêsu tiên báo trong hai dụ ngôn vừa
nêu trên.
4. Nói người lại nghĩ đến ta
Lịch sử thường hay tái diễn lại theo kiểu tương tự. Điều đó
khiến ta phải suy nghĩ vì nó có thể xảy ra cho chính chúng ta. Hiện nay, Kitô
giáo luôn tự hào mình là tôn giáo do chính Thiên Chúa thiết lập, được chính
Thiên Chúa mặc khải những chân lý thâm diệu nhất, và là con đường chính thống
nhất dẫn đến ơn cứu độ. Kitô giáo với các tôn giáo khác cũng phần nào tương tự
như Do Thái giáo với dân ngoại xưa. Liệu điều đã đúng với Do Thái giáo có đúng
một cách tương tự với Kitô giáo không?
Dân Do Thái xưa lúc nào cũng tự hào về tôn giáo của mình là tôn
giáo duy nhất đúng đắn vì là tôn giáo duy nhất được Thiên Chúa mặc khải. Còn
các dân tộc khác thì thờ thần tượng, đi trong sai lạc. Nhưng kết cục ra sao?
Dân Do Thái không chỉ phủ nhận Đức Giêsu mà còn giết Ngài nữa. Họ từ chối ơn
cứu độ, và ơn cứu độ đã được trao cho dân ngoại. Dân ngoại lại đón nhận ơn cứu
độ và gia nhập Giáo Hội. Thế thì xét cho cùng, đối với dân Do Thái, việc có tôn
giáo duy nhất đúng đắn, việc nắm được nhiều chân lý hơn các dân tộc khác có ích
lợi gì?
Như thế, xem ra điều quan trọng không phải là có tôn giáo chân
chính cho bằng sống đúng những gì tôn giáo mình đòi hỏi, sống đúng theo lương
tâm của mình. Hãy nghe thánh Phaolô nói: “Người ta được Thiên Chúa coi là công
chính, không phải vì nghe biết Lề Luật, nhưng là vì tuân giữ Lề Luật” (Rm
2,13). Vì thế, nếu “bạn tự hào vì có Lề Luật, mà bạn lại vi phạm Lề Luật, thì
như vậy bạn làm nhục Thiên Chúa!” (Rm 2,23). Tương tự, nếu chúng ta có tôn giáo
chân chính mà lại không thèm sống đúng theo tôn giáo ấy, thì ta cũng làm nhục
Thiên Chúa, Đấng thiết lập tôn giáo ấy. Lúc ấy chúng ta rất xứng đáng với lời
kết án của thánh Phaolô: “Thật đúng như lời chép: Chính vì các người mà danh
Thiên Chúa bị phỉ báng giữa chư dân” (Rm 2,24). Lúc ấy, tôn giáo chân chính có
ích lợi gì cho ta, hay đó chính là lý do để Thiên Chúa kết án chúng ta?
Bài Tin Mừng hôm nay chính là lời cảnh tỉnh chúng ta: Đừng để
tinh thần yêu thương của Kitô giáo lại bị chính các Kitô hữu như chúng ta coi
thường, không thèm sống, mà người sống tinh thần ấy lại là những người thuộc
các tôn giáo khác. Vậy tốt nhất, chúng ta hãy đem tinh thần yêu thương của Đức
Giêsu ra áp dụng thật sự vào đời sống. Đừng để trường hợp của Do Thái giáo lại
tái diễn một cách tương tự với Kitô giáo, trong đó người chủ động tái diễn
trường hợp ấy lại chính là chúng ta!
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu đã gián tiếp cảnh
giác chúng con: chính quê hương, đất nước, dân tộc và đồng đạo của Ngài - là
những người mà Ngài muốn dành ưu tiên hưởng ơn cứu độ Ngài đem lại - lại từ
chối Ngài. Hiện nay, rất có thể chúng con đang đi vào vết xe đã đổ ấy: ngoài
miệng chúng con luôn tuyên xưng mạnh mẽ niềm tin vào Đức Giêsu, nhưng đời sống
của chúng con thì lại đi ngược lại những điều Ngài dạy. Chúng con tuyên xưng
hay biểu lộ đức tin mạnh mẽ ra ngoài để che lấp thực tế phủ nhận đức tin ấy ở
bên trong. Xin giúp chúng con ý thức rằng thái độ giả hình ấy vô cùng có hại
cho chúng con. Xin Cha cứu chữa chúng con khỏi thái độ ấy.
29. Chúa Giêsu thất bại tại Nagiarét
(Chú giải và suy niệm của Lm. PX. Vũ Phan Long)
Với việc dân Nadarét từ khước Đức Giêsu, bắt đầu tiến trình kết
án sẽ đưa Người đến thập giá. Nhưng chính lập trường của Đức Giêsu củng cố niềm
tin của chúng ta.
1.- Ngữ cảnh
Đoạn văn chúng ta đọc hôm nay nằm trong bối cảnh là "Hoạt
động rao giảng của Đức Giêsu tại Galilê" (Lc 3,1–9,50), và thuộc về phân
đoạn 4,16-30, "Đức Giêsu tại Nadarét". Chúng ta có thể xác định cầu
trúc của bản văn 4,16-30 như sau:
+ Mở: Đức Giêsu đến Nadarét (c. 16a); Người vào hội đường (c.
16b).
I. Đọc sách Isaia
a) Dẫn nhập (c. 16c)
b) Chuẩn bị đọc (c. 17)
c) Bản văn Isaia (cc. 18-19)
b') Kết thúc việc đọc (c. 20ab)
a') Kết luận (c. 20c)
-
Chuyển tiếp: Mọi người trong hội đường chăm chú nhìn Người (c. 20d)
II. Các lời nói của Đức Giêsu
A- Can thiệp thứ nhất của Đức Giêsu
a) lời nói về hoàn tất (c. 21)
b) các hậu quả đầu tiên nơi các thính giả (c.
22)
B- Can thiệp thứ hai của Đức Giêsu
a) lời nói về thầy thuốc (c. 23)
b) lời nói về ngôn sứ (c. 24)
C- Can thiệp thứ ba của Đức Giêsu
a) dân Israel trước Êlia (cc. 25-26)
b) dân Israel trước Êlisa (c. 27)
+ Kết:
Dân Nadarét đuổi Đức Giêsu khỏi hội đường (cc. 28-29)
Người rời Nadarét (c. 30)
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành bốn phần:
1)
Phản ứng tích cực của cử tọa đối với các lời Đức Giêsu nói (4,21-22);
2) Đức
Giêsu xác định chiều hướng của sứ vụ của Người (4,23-24);
3) Đức
Giêsu chứng minh bằng các lối xử sự của các ngôn sứ (4,25-27);
4) Dân
chúng loại trừ Đức Giêsu (4,28-30).
3.- Vài điểm chú giải
- Hôm nay (21): Trạng từ
sêmeron hiếm khi được hiểu theo nghĩa tổng quát là "vào ngày hôm nay,
nowadays". Do vị trí nhấn mạnh ở đầu câu, trạng từ này đánh dấu một điểm
quan trọng trong các nhìn lịch sử của tác giả Lc (x. 4,21; 5,26; 19,5.9;
23,43): những điểm này, những lời nói này của Đức Giêsu vẫn còn giá trị cho
cuộc sống của người Kitô hữu hôm nay.
- đều tán thành (22): dịch sát là
"đều làm chứng cho (emartyroun) cho điều này? / cho ngài?". Đa số các
nhà chú giải hiều là đại từ autô ở tặng cách (dative) nam-tính và có nghĩa là
"cho Người", tức là ca ngợi Người. Chúng tôi nghĩ rằng giáo sư Fitzmyer
có lý khi cho rằng đại từ autô ở tặng cách (dative) trung-tính (neuter) và có
nghĩa là "về điều này".
- thán phục (22): Động từ
thaumazein có thể diễn tả sự kinh ngạc (đi đôi với chỉ trích, nghi ngờ, phê
phán; x. Lc 11,38) hoặc sự thán phục (đi đôi với sự thích thú bất ngờ; x. Lc
1,63; 2,18; 2,33; 7,9.8.25; 9,43;11,14; 20,26 ...). Theo ngữ cảnh (đến sau
"tán thành" và được nối với động từ bằng "và"), chỉ có thể
chọn nghĩa "thán phục".
- không phải là con ông Giuse đó sao? (22):
Câu này có thể diễn tả sự khó chịu, bực bội, khinh bỉ hoặc một sự ngạc nhiên
đầy thích thú, sự thán phục. Theo ngữ cảnh, có thể hiểu là sự thán phục.
- Thầy lang ơi, hãy chữa lấy mình (23):
Đức Giêsu dùng câu tục ngữ này để diễn tả ra nguyện vọng thầm kín của người Do
Thái: Vì họ đã nghe biết nhiều về hoạt động của Đức Giêsu tại Caphácnaum, họ
ước muốn Người cũng làm như thế cho quê hương. Câu nói tiếp theo câu tục ngữ đã
giải thích ý nghĩa của câu tục ngữ. Người dân Nadarét đang tính toán vụ lợi.
- không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương (24):
Khi dịch tính từ dektos bằng "được chấp nhận", Bản Dịch CGKPV đã coi
dektos có ý nghĩa tương tự như atimos trong Mc 6,4 và Mt 13,57, mà thật ra đây
cũng là cách dịch của các Bản dịch nổi tiếng thế giới là BJ, TOB và NAB, và là
ý kiến của một giáo sư chuyên về truyền thống Luca, J.A. Fitzmyer (x. The
Gospel according to Luke I-IX, The Anchor Bible, Doubleday NY 1970, 537). Tuy
nhiên, lúc ấy ta thấy là phản ứng mạnh của Đức Giêsu như thế không phù hợp với
thái độ của cử tọa. Hơn nữa, các lời Đức Giêsu nói lại không thống nhất: người
ta xin Người làm phép lạ (điều này giả thiết là người ta có tin, dù chút ít),
Người lại than trách là bị tiếp đón tệ bạc (c. 24). Đã thế, các ví dụ Người nêu
ra ở cc. 25-27 lại không phù hợp với hoàn cảnh: không phải là các ngôn sứ bị
tiếp đón tệ bạc (như Người), nhưng lại là các ngôn sứ mới từ chối làm những
phép lạ để giúp đỡ người đồng hương. Như vậy, phải kết luận là bản văn Lc thiếu
mạch lạc?
Vấn đề là các học giả đã hiểu bản văn Lc theo hướng của các bản
văn song song Mc và Mt, thế mà bản văn Lc lại khác: thay vì dùng từ atimos
("bị khinh bỉ"), tác giả dùng dektos. Dektos là một tính từ phái sinh
từ động từ dechomai ("đón nhận, đón tiếp, chấp nhận") và thường có
nghĩa bị động (passive); trong trường hợp này, dektos tương đương với atimos.
Tuy nhiên, tính từ này cũng có một nghĩa chủ động (active) (x. M. Zerwick,
Biblical Greek, Rome 1963, số 142), "đón nhận, ân cần, thuận thảo, thuận
lợi". Và trong thực tế, cách đó năm câu, từ dektos có ý nghĩa chủ động
("Năm hồng ân = năm thuận lợi; năm đón nhận"). Nếu như thế, câu nói
của Đức Giêsu hẳn sẽ có nghĩa là: không một ngôn sứ nào dành ưu tiên / thiên vị
cho / với quê hương; và hiểu cụm từ "không một ngôn sứ nào" là một
cụm từ nói "ngoa", chứ không theo nghĩa chữ và nghĩa xấu (= một ngôn
sứ luôn luôn tỏ ra bất thuận lợi với quê hương mình), bởi vì trong thực tế Mt
13,58 và Mc 6,5 cho thấy là Đức Giêsu cũng có làm một vài phép lạ tại Nadarét.
Cuối cùng, câu nói của Đức Giêsu có ý nghĩa là: Một ngôn sứ không tỏ ra thuận
thảo với quê hương mình hơn là với người ngoại quốc; tất cả là vấn đề đức tin
và tình trạng tâm hồn sẵn sàng. Hiểu như thế, bản văn rất mạch lạc.
Có người bẻ lại: bản văn nói "en tê patridi": patri,
"quê hương"; giới từ en, "tại, trong"; vậy en tê patridi có
nghĩa là "tại quê hương", mà như thế, nghĩa bị động của dektos được
biện minh. Thật ra, trong hy-ngữ phổ thông [koinê] (hy-ngữ Tân Ước là hy-ngữ
này), en không chỉ có nghĩa nơi chốn, mà còn có nghĩa thời gian, dụng cụ,
nguyên nhân, v.v. Trong nhiều cách sử dụng ấy, en thường được dùng với các động
từ nói về tình cảm để diễn tả "điều mà tâm tình hướng về" (W. Bauer,
A Greek-English Lexicon of the New Testament and Other Early Christian
Literature, The University of Chicago Press, Chicago 1957, tr 160: III,3b).
- nhưng quả thật, tôi nói cho các ông hay (25):
De, "nhưng", tiêu từ ở đầu c. 25 này rất quan trọng, diễn tả một ý
đối lập.
- hạn hán ba năm sáu tháng (25): 1 V 18,1 nói
rằng có mưa "vào năm thứ ba". Ở đây, tác giả Lc kế thừa một truyền
thống khác, có được nhắc đến trong Gc 5,17. Theo truyền thống này, thời gian
hạn hán kéo dài bằng thời gian khốn quẫn trong văn chương khải huyền (thời gian
này được rút ra từ thời gian cuộc bách hại dưới triều Antiôkhô IV Êpiphanê: Đn
7,25; 12,7; x. Kh 11,2; 12,6.14. Tác giả Lc không quan tâm đến ý nghĩa khải
huyền. Trời hạn hán": dịch sát là "trời bị đóng [cửa] lại": thái
bị động thay tên Thiên Chúa.
- không được sai đến (26): Đây là thái bị
động thay tên Thiên Chúa. Xem cả c. 27, "được sạch".
- bà góa thành Sarépta (26): xem 1 V 17,9
(LXX).
- ông Naaman (27): xem 2 V 5,1-19
- thành này được xây trên cao (29):
Nadarét hiện đại được xây trên một triền đồi, xung quanh có các đồi khác vây
bọc. Nhưng ta không thể xác định được nơi nào đã xảy ra sự cố kể đây; với lại,
thật ra cũng khó tìm được một chỗ nào ở đây có dốc núi để có thể xô người ta
xuống cho chết, hoặc để ném đá. Vào thế kỷ ix, có một truyền thống đã coi địa
điểm này là một chỗ cách Nadarét khoảng ba cây số về phía đông nam, nhưng nay
người ta không chấp nhận giả thuyết này nữa. Đây rất có thể là dấu chứng tỏ Lc
không biết rõ địa lý Paléttina và cũng có thể cho hiểu là tác giả đã ép các dữ
kiện để báo trước việc Israel giết Đức Giêsu.
- Người băng qua giữa họ mà đi (30):
Không nhất thiết đây là một phép lạ. Điều chính yếu đối với Lc là cho thấy Đức
Giêsu còn phải tiếp tục con đường của Người để loan báo Tin Mừng, và con đường
này chỉ kết thúc tại Giêrusalem (x. 13,33).
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Phản ứng tích cực của cử tọa đối với các lời Đức Giêsu nói
(21-22)
Người dân Nadarét đang ca ngợi và thán phục Đức Giêsu. Do đó, họ
bắt đầu tính toán: "Ông này không phải là con ông Giuse đó sao?" (c.
22). Nếu đây đúng là con ông Giuse, nay đã thành ngôn sứ và thầy chuyên làm
phép lạ, sao ta lại không tận dụng cơ hội để có lợi cho làng ta? Câu trả lời
sau đó của Đức Giêsu cho hiểu là quả thật dân chúng đang tính toán như thế.
* Đức Giêsu xác định chiều hướng của sứ vụ của Người
(23-24)
Đức Giêsu đã dùng một tục ngữ để lật tẩy lối giải thích của
những người đồng hương về sứ mạng của Người: "Thầy lang ơi, hãy chữa lấy
chính mình" (c. 23); "chính mình" đây là dân làng của Người.
Người lập luận: Đơn giản chỉ vì các ông là người đồng hương với tôi, mà các ông
đòi hỏi tôi phải làm ở đây những phép lạ giống như tôi đã làm ở Caphácnaum! Họ
muốn Nadarét cũng được hưởng nhờ quyền lực của Người là "thầy thuốc-thầy
làm phép lạ". Nhưng một ngôn sứ không hề chiếu cố riêng đến quê hương mình
(c. 24). Người phải làm việc theo kế hoạch của Thiên Chúa.
* Đức Giêsu chứng minh bằng các lối xử sự của các ngôn sứ
(25-27)
Các ông cứ nghĩ đến trường hợp ngôn sứ Êlia và Êlisa. Có biết
bao bà góa Israel phải đói, khi trời hạn hán ba năm sáu tháng; thế mà Êlia lại
chỉ nuôi bà góa Sarépta mà thôi (1 V 17,9-16). Vào thời Êlisa, tại Israel đâu
có thiếu người phong hủi; thế mà Êlisa chỉ chữa lành một người ngoại quốc mà
thôi (2 V 5,1-19). Đức Giêsu từ chối liên kết các ân huệ thiên sai với những
quan hệ thân tộc hoặc tình làng nghĩa xóm. Người là ngôn sứ; Người phải chu
toàn một sứ mạng Thiên Chúa giao; chẳng phải là những yêu cầu của dân Nadarét
có thể xác định hướng hoạt động cho Người. Đứng trước Thiên Chúa, phải bỏ đi
mọi yêu sách, mọi đòi hỏi: Thiên Chúa hòan toàn tự do trong việc ban tặng các
ân huệ; chỉ có một đức tin khiêm nhường và tín thác mới có thể trông chờ (chứ
không đòi hỏi) một phép lạ.
* Dân chúng loại trừ Đức Giêsu (28-30)
Bởi vì Đức Giêsu không chiều theo ý họ, họ đã nổi giận và loại
trừ Người. Nhưng Người còn phải tiếp tục ra đi để loan báo Tin Mừng và tiến về
Giêrusalem (9,51; 13,22.33; 17,11; 19,28), tiến đến thập giá và vinh quang. Lúc
này người ta chưa chặn được sứ vụ của Người. Người sẽ tiếp tục phục vụ những
người nghèo ở Israel và cả các dân nước.
+ Kết luận
Con người không có quyền gì để được hưởng các ân huệ của Thiên
Chúa. Không một tư cách nào cho phép con người được quyền hưởng ơn cứu độ thiên
sai. Ơn cứu độ được ban cho nhân loại, nơi bản thân Đức Giêsu, hoàn toàn là ân
huệ. Đó là điều mà dân Nadarét đã không muốn hiểu. Chính thái độ này, khi đã phổ
biến khắp Israel, đã khiến Đức Giêsu đi ngỏ lời với mọi người ngoài Do Thái.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Vì thấy Đức Giêsu là đồng hương, dân Nadarét nghĩ Người có
bổn phận chiếu cố đến họ trước. Đức Giêsu đã thẳng thắn đánh tan ngộ nhận này.
Sự sai lầm của người Nadarét, người tín hữu vẫn có thể mắc phải, khi nại ra tư
cách đã được rửa tội, đã sống đạo lâu năm (là người "đạo dòng, đạo
gốc", là tu sĩ, là linh mục ...), đã đóng góp nhiều cho Giáo Hội bằng công
sức và của cải... Thiên Chúa hoàn toàn tự do ban phát các ân huệ cho bất cứ ai,
như và khi Ngài muốn. Trước mặt Thiên Chúa, chúng ta mãi mãi là những con người
nghèo hèn, bất xứng, luôn luôn cần được Ngài chiếu cố đến. Đức Giêsu không cứu
chúng ta bằng cách làm phép lạ, nhưng bách cách loan báo Tin Mừng của Người và
hy sinh mạng sống cho chúng ta. Phép lạ chính là Lời của Người; chính Lời này
làm ra các phép lạ và biến đổi dân chúng và sẽ tạo ra một thế giới mới.
2. Bằng cách nêu bật sứ mạng của hai ngôn sứ Êlia và Êlisa, Đức
Giêsu cho hiểu rằng hoạt động của Người cũng nhằm chiếu cố đặc biệt đến Dân
ngoại. Đấy là điều Đức Giêsu còn chứng tỏ khi đến sống tại Capha1cnaum, một
thành đầy người ngoại giáo. Ở đây sứ mạng của người Kitô hữu được phác họa ra.
Họ cũng được sai đi để chuyển trao ân phúc của Thiên Chúa cho Dân ngoại, như
Đức Giêsu ngày trước, và như thế, chương trình sống của Đức Giêsu được công bố
tại Nadarét (Is 61,1-2; 58,6) cũng phải là chương trình sống của mỗi Kitô hữu.
3. Với việc dân Nadarét từ khước Đức Giêsu, bắt đầu tiến trình
kết án sẽ đưa Người đến thập giá. Nhưng chính lập trường của Đức Giêsu củng cố
niềm tin của chúng ta. Người chính là Đấng Mêsia đích thực của Thiên Chúa, một
Đấng Mêsia không vận dụng quyền lực mình để thực hiện một hoàn cảnh cứu độ trần
thế, nhưng đặt tại trung tâm sứ điệp về Thiên Chúa. Nhu thế, khi sống trong một
hoàn cảnh khó khăn, cùng quẫn, ta có thể đặt trọn niềm tin nơi Ngài, bởi vì
chính Ngài sẽ ban cho chúng ta ơn cứu độ trọn vẹn.
4. Trong tư cách là Con Thiên Chúa, với uy quyền lớn lao nhất,
Đức Giêsu loan báo Tin Mừng cho người nghèo. Là Đấng sống một cuộc sống nghèo,
Đức Giêsu chính là lời chuẩn nhận rằng Thiên Chúa dủ thương chiếu cố đến những
người nghèo. Đức Giêsu quy hướng niềm hy vọng của loài người không vào của cải
trần thế, nhưng vào lòng nhân lành của Thiên Chúa.
5. Đức Giêsu nói năng tự do bởi vì Người không lo lắng tìm kiếm
thành công riêng tư hay lợi lộc hoặc tránh né tiếng xấu có thể lan tỏa đi các
làng phụ cận, hoặc mất sự tín nhiệm nơi các thính giả. Người chứng tỏ là một
nhà rao giảng có tinh thần hoàn toàn tự do. Người cho thấy có một tầm nhìn bao
trùm thế giới, nhìn tới các chân trời của chính Thiên Chúa.
30. Chú giải của Noel Quesson
Người bắt đầu nói với họ: "Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh
Thánh quý vị vừa nghe
Đấy là kết luận bài giảng đầu tiên của Đức Giêsu trong hội
trường làng quê Nagiarét: Qua bài đọc của ngôn sứ Isaia, Đức Giêsu vừa đưa ra
một chương trình hành động: Rao giảng Tin Mừng cho Người nghèo hèn, giải phóng
những tù nhân, đem lại sự giải thoát cho những người bị áp bức, loan báo năm
hồng ân của Chúa. Lời chú giải duy nhất của Đức Giêsu nói rằng! Hôm nay, mọi sự
ấy đã ứng nghiệm. Trước sự ngạc nhiên của cử tọa, Người khẳng định rằng bản
thân Người đã đáp lại trọn vẹn mọi sự chờ đợi của Israel. Đức Giêsu kéo Lời
Chúa từ "quá khứ" xa xôi nơi người ta muốn luôn luôn giam hãm Lời
Chúa. Người yêu cầu nhân loại chớ đặt Thiên Chúa "trong quá khứ” hoặc
"trong tương lai": phải là sự lan tỏa của Thiên Chúa, dự án của Thiên
Chúa, trong đời sống hàng ngày của chúng ta... Hôm nay!
Và hôm nay, chẳng phải chúng ta cũng đã cố gắng kéo lui Tin Mừng
trở về phía sau, vào hai mươi thế kỷ trước đây đó sao? Vậy còn những người
nghèo hèn nào, những tù nhân và người bị áp bức nào hôm nay ở chung quanh chúng
ta? Chúng ta sẽ mang đến cho họ Tin Mừng nào?
Mọi người đều tán thành và thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra
từ miệng Người
Tôi chiêm ngưỡng "miệng" Đức Giêsu mà Luca là người
duy nhất thường nói với chúng ta (Lc 4,22; 11,54; 22,71). Những "lời ân
sủng" từ miệng Đức Giêsu mà ra. Như thế, sự rao giảng của Đức Giêsu đã bắt
đầu với việc khẳng định rằng thời kỳ mà Thiên Chúa ban ơn "không mất
tiền" và ban sự tha thứ đã đến và đó là hôm nay: ý nghĩa sít sao của từ
"giải phóng" trả lại tự do, hay "giải thoát" ("aphésis"
trong tiếng Hy Lạp) là thế. Đức Giêsu đến để mang lại một "sứ điệp của ân
sủng", một sự ban ơn, một quà tặng vô giá mà không ai xứng đáng được.
Chúng ta phải ghi nhận rằng toàn bộ thần học của thánh Phaolô về "ân
sủng" trong thư gởi tín hữu Rôma đã được viết ra khi Luca soạn thảo Tin
Mừng của Người. "Ở đâu tội lỗi đã lan tràn, ở đó ân sủng càng chứa chan
gấp bội" (Rm 5,20).
Luca đã là một môn đệ và một người bạn đồng hành của Phaolô.
Không giống như Máccô (6,1-6), trước tiên Luca ghi nhận rằng việc rao giảng của
Đức Giêsu được đón nhận: “Mọi người đều tán thành và thán phục?". Những
người dân ở Nagiarét không xấu xa hơn ở những nơi khác: Vậy thì, tại sao họ sắp
sửa trở mặt?
Họ bảo nhau: "Ông này không phải là con ông Giuse đó sao?
Luca biết rất rõ đó là một biểu lộ sự ngu dốt của họ về nguồn
gốc thật sự của Đức Giêsu như ngài vừa viết ra trên giấy trắng mực đen:
"Thiên hạ vẫn coi Người là con ông Giuse" (Lc 3,23). Vậy thì, người
ta hài lòng với "sứ điệp của Đức Giêsu, nhưng Người ta không muốn nhận sứ
điệp ấy từ Người: Đó là cớ vấp phạm rất thông thường của nhân loại! Dẫu sao, đó
chỉ là "con ông Giuse". Giáo Hội cũng luôn gây ra cùng một cớ vấp
phạm. Người ta sẵn sàng tiếp đón sứ điệp của Giáo Hội, nhưng người ta không
chấp nhận sự yếu đuối của con người trong Giáo Hội.
Giáo Hội cơ cấu giống như phần lớn các hiệp hội, với tài chính
của nó, với sự nặng nề trong việc điều hành, nhưng sơ cứng của sức nặng quá khứ
trong huyết quản, những tội lỗi của cách thành viên, chứng nhận định thiếu sót
của một số viên chức, sự sợ hãi canh tân, những mâu thuẫn giữa “nói" và
"làm". Người ta không bao giờ nhận xét hết những khía cạnh
"quá" con người của Giáo Hội. Như thế, những người dân ở Nagiarét bị
kẹt cứng trong định kiến "con ông Giuse".
Người nói với họ: "Hẳn là các ông muốn nói với tôi câu tục
ngữ: Thầy lang ơi, hãy chữa lấy mình! Tất cả những gì chúng tôi nghe nói ông đã
làm tại Ca-phác-na-um, ông cũng hãy làm tại đây, tại quê ông xem nào!
Đức Giêsu không tìm cách làm giảm nhẹ cuộc xung đột mà Người
đoán trước: Chính Người đã tấn công. "Vậy ông hãy làm cho chúng tôi những
phép lạ như ông đã làm ở những miền lân cận!". Người ta không ngừng đặt
"cơn cám dỗ" lớn ấy dưới chân Đức Giêsu. Đó là cơn cám dỗ của satan
(Lc 4,l-14). Người ta đòi hỏi Đức Giêsu những "dấu chỉ từ trời xuống"
(Lc 11,16).
Một trong những cách chối bỏ Thiên Chúa là yêu cầu Chúa làm các
phép lạ. Chúng ta tiếp tục có thái độ của người dân ở Nagiarét. Chúng ta muốn
có một Thiên Chúa tỏ mình ra thêm chút nữa, một Thiên Chúa giải quyết những vấn
đề của chúng ta thay cho chúng ta. Vả lại Thiên Chúa không thích vai trò mà
chúng ta muốn ép Người làm. Thiên Chúa không thích điều ngoại lệ, kỳ diệu và ly
kỳ. Khi Người chữa lành một người mù không phải để làm cho chúng ta kinh ngạc
mà để ám chỉ cho chúng ta biết rằng Người muốn chữa sự mù lòa vốn có của tất cả
chúng ta. Khi Người chữa lành một người bị liệt nằm trên cáng, vì Người mong
muốn chữa lành mọi người chúng ta khỏi một bệnh liệt còn nặng hơn nhiều là tội
lỗi của chúng ta. Điều đó được nói rõ ràng trong Tin Mừng (Lc 5,17-26).
“Vậy ông cũng hãy làm tại đây một phép lạ cho chúng tôi”. Chúng
ta cũng thế, có lúc chúng ta tưởng rằng mình phục vụ Thiên Chúa theo cách đó.
Vả lại, muốn xếp đặt Thiên Chúa "để phục vụ chúng ta" chính là chối
bỏ Người. Tối hậu thư bi đát. Tối hậu thư buồn cười. Con người tìm đến trước
mặt Chúa và yêu cầu Người "làm" điều mà mình mong mỏi, điều phục vụ
cho mình? Thách thức Thiên Chúa? Giảm lược Thiên Chúa để Người chỉ còn là một
"động cơ phụ gỡ rối cho chúng ta khi cái xe: không còn chạy được nữa. Oi!
Lạy Chúa, con nhận ra mình ở trong số những người đồng hương của Chúa ở
Nagiarét! Xin Chúa giúp con trở lại với lòng con để bắt đầu phục vụ Chúa, thay
vì đòi Chúa phục vụ con. Thay vì lúc nào cũng nói ‘nguyện ý con được thể hiện
bởi Chúa, con phải nói trong chân lý rằng nguyện ý Cha được thể hiện bởi con’
Người nói tiếp: "Tôi bảo thật các ông: không một ngôn sứ
nào được chấp nhận tại quê hương mình
Không, người ta chẳng chịu nghe cách ngôn sứ.
Làm ngôn sứ chẳng dễ chịu chút nào, phiền toái là đằng khác!
Nghĩa là làm “người phát ngôn" của Thiên Chúa. Giêrêmia trong bài đọc một
của chủ nhật này nói với chúng ta điều đó một cách thật đau đớn. Thiên Chúa
không phải lúc nào cũng nói những lời dễ nghe. Vì thế nhiều ngôn sứ đã phải
chết: "Giêrusalem! Ngươi giết các ngôn sứ và ném đá những kẻ được sai đến
cùng ngươi!” (Mt 23,37). Đấy là một chủ đề của Luca (6,23; 11,47-50; 13,33-34;
Cv 7,52).
Còn chúng ta, trong thế giới mà đa số là vô tín và duy vật,
nhưng chúng ta có phải là những ngôn sứ không? không phải trong những lúc đặc
biệt mà trong đời thường mỗi ngày; nắm chắc "chính nghĩa của Thiên
Chúa", nắm chắc lời "vì Chúa” (từ ngôn sứ trong tiếng Hy Lạp do chữ
"pro-phèmi" có nghĩa là "tôi nói vì").
Thật vậy, tôi nói cho các ông hay: vào thời ông Êlia, khi trời
hạn hán suốt ba năm sáu tháng, cả nước phải đói kém dữ dội, thiếu gì bà goá ở
trong nước Israel; thế mà ông không được sai đến giúp một bà nào cả, nhưng chỉ
được sai đến giúp bà goá thành Xarépta miền Xiđôn.
Luca, môn đệ của thánh Phaolô, tông đồ dân ngoại, là người duy
nhất đưa ra sự so sánh này lấy ra từ Cựu ước để nhấn mạnh đến những ân huệ mà
Thiên Chúa ban cho những người không phải là dân Do Thái. Biến cố ở Nagiarét
mang dáng dấp của một chủ đề thần học: ơn cứu độ không dành riêng cho một số
người đặc quyền. Thiên Chúa muốn cứu chuộc mọi người. Thiên Chúa yêu thương dân
ngoại. Không có Đất Thánh, không có Dân được chọn. Chúng ta sẽ lạm dụng ngôn
ngữ mạc khải nếu chúng ta sử dụng những cách diễn tả của Kinh Thánh một cách cố
chấp như thể những miền đất khác bên ngoài Israel là phàm tục, như thể các dấn
tộc khác bị loại trừ khỏi Giao ước Thiên Chúa không có biên giới! Thiên Chúa
còn bao la, cao cả hơn những chân trời nhỏ bé của bản thân chúng ta! Người ta
không thể giam hãm con ông Giuse trong cái "hố" ở Nagiarét của Người.
Thiên Chúa cao cả hơn Giáo Hội hữu hình. Những người ngoài Kitô giáo không nằm
bên ngoài ân sủng của Thiên Chúa.
Cũng vậy, vào thời ngôn sứ Êlisa, thiếu gì người phong hủi ở
trong nước Israel, nhưng không người nào được sạch, mà chỉ co ông Naaman, người
xứ Xyri thôi
Trong sự so sánh giữa Israel và các dân ngoại, mọi ưu điểm thuộc
về dân ngoại. Khi nào có thể, Đức Giêsu đều thán phục đức tin của các dân
ngoại, những người không phải là Do Thái, những người Samari dị giáo (Lc
9,23.47; 10,33; 17,16). Thật lạ lùng khi tôn giáo có thể làm sơ cứng lòng
người. Từ hai ngàn năm rồi Israel đã chờ đợi Đấng Mêsia, nhưng đức tin của họ
bị sơ cứng. Đó là lời cảnh báo cho tất cả những ai tưởng rằng mình thân thiết
với những việc của Thiên Chúa, tưởng rằng mình được hưởng, một nền giáo dục
Kitô giáo tốt đẹp, và việc thường xuyên tham dự các bí tích bảo đảm.
"Những người thu thuế và gái điếm sẽ vào Nước Thiên Chúa trước các
ông" (Lc 7,34).
Nghe vậy, mọi người trong hội đường đầy phẫn nộ. Họ đứng dậy,
lôi Người ra khỏi thành -thành này được xây trên núi. Họ kéo Người lên tận đỉnh
núi, để xô Người xuống vực
Đây là sự tiên báo số phận sau cùng của Đức Giêsu. Người bị giết
bên ngoài thành (Lc 20,15; Cv 7,57). Chúng ta hẳn sẽ lầm khi vội vã tưởng rằng
mình ở về phía những người lương thiện và được miễn trừ thái độ của những người
đồng hương với Đức Giêsu. Rất nhiều lần, chúng ta cũng "lôi" Đức
Giêsu ra khỏi những quyết định của chúng ta, nhà chúng ta, nghề nghiệp chúng
ta. Ong không can dự gì ở nhà tôi! Hỡí ngôn sứ, đi chỗ khác mà thuyết giáo.
Nhưng Người băng qua giữa họ mà đi
Những từ khước của tôi không thể ngăn Con Thiên Chúa theo đuổi
kế hoạch của Người với những người khác. Điều tệ hại là tôi không biết ngạc
nhiên nhiều hơn! Giữa những trào lưu của lịch sử, những từ khước của con người,
Đức Giêsu tiếp tục "con đường của Người”. Lạy Chúa, cám ơn Chúa!