Tân Phúc-Âm-hoá hay Tân-Phúc-Âm hoá?
Phúc Âm hoá: Làm cho đời sống thấm nhuần tinh
thần Phúc Âm.
1. “Tân Phúc Âm hoá”: vấn đề mang tính thời sự
Dưới nhan đề: “Vatican đang nỗ lực khuếch
trương ‘Tân Phúc Âm hoá’”, John L. Allen Jr., chuyên gia nghiên cứu kỳ cựu về
Vatican của tờ National Catholic Reporter và cũng là phóng viên của đài truyền
hình CNN, trong bài viết ngày 04/03/11, ông nói:
“Trong một triều đại giáo tông mà đôi khi bị buộc tội là thiếu hướng hành
chính, toàn bộ Vatican dưới triều của Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI ít nhất đã bị
buộc chặt vào một điểm: Tính cấp thiết của một cuộc “tân Phúc Âm hoá”
Bằng mọi cách có thể, Đức Thánh Cha
Bênêđictô đã cho thấy rằng ngài đang quan tâm đến việc “tân Phúc Âm hoá”, hiểu
một cách rộng rãi là đánh thức tinh thần truyền giáo trong Giáo Hội, như là một
ưu tiên tột đỉnh. Ví dụ: Mặc dù nổi tiếng là luôn có ác cảm với các bộ máy quan
liêu, nhưng gần đây ĐTC Bênêđictô XVI đã phải thành lập ngay tại Vatican một cơ
quan hoàn toàn mới để xúc tiến dự án, Hội Đồng Giáo Tông Cổ Vũ Việc Tân Phúc Âm
Hoá. Ngài đã bổ nhiệm một chức sắc người Ý, kỳ cựu và đầy quyền lực, là Đức Tổng
Giám Mục Rino Fisichella, đứng đầu Hội Đồng này, và một danh sách thành viên Hội
Đồng gồm các vị giáo sĩ cao cấp trong Giáo Hội Công Giáo từ khắp nơi trên thế
giới, trong đó có Đức Hồng Y Christoph Schönborn của Vienna, ĐHY Angelo Scola của
Venice, ĐHY George Pell của Sydney, và Đức Tổng Giám Mục Timothy Dolan của New
York.
ĐTC Bênêđictô cũng đã dành cho Thượng Hội Đồng
Giám Mục - một cuộc họp của các giám mục từ khắp nơi trên thế giới sẽ diễn ra từ
ngày 07-28/10/2012 - sắp tới, một chủ đề “Tân Phúc Âm hoá để thông truyền đức
tin Kitô giáo” mà Bản đề cương (Lineamenta) của Thượng Hội Đồng đã được trình
bày trong cuộc họp báo sáng nay tại Vatican. ”.
Tự Sắc Porta Fidei công bố khai mạc năm Đức
Tin ngày 11/10/2012 cũng nhắc đến tân Phúc Âm hoá. Hơn thế nữa, trong Sứ điệp dài
4 trang giấy khổ Letter, Hội nghị toàn thể lần thứ X của Liên Hội Đồng Giám Mục
Á Châu đã dành cả 2 trang để nói về một số chiều kích cơ bản của “nền linh đạo
tân Phúc Âm hoá”.
Vài sự kiện nêu trên cho thấy tầm quan trọng
của vấn đề tân Phúc Âm hoá đối với Giáo Hội hiện nay như thế nào.
Tân Phúc Âm hoá tiếng Anh là New
Evangelization, nhưng có người lại không thể hiểu được tại sao tiếng Việt dịch
là “tân Phúc Âm hoá”, có người còn cho rằng nói như thế là rối đạo. Vậy chúng
ta thử tìm hiểu New Evangelization có nghĩa gì, và nên dịch như thế nào trong
tiếng Việt.
2. Evanglization: Phúc Âm hoá.
Chữ này phát xuất từ động từ Evangelise
(truyền giảng Phúc Âm) và Evangelise có nguồn gốc từ danh từ Evangel (Phúc Âm).
Chúng tôi đã có dịp bàn tới hai thuật từ Phúc
Âm và Phúc Âm hoá trong hai bài “Evangelium” và “Missio” đăng trong nguyệt san
Bài giảng Chúa nhật và đăng lại trong quyển “Tìm hiểu từ vựng Công Giáo”. Lm.
Giuse Phan Tấn Thành, OP. đã tầm nguyên và phân tích về hai thuật từ
Evangelizatio và Missio rất công phu trong bài đăng trong bản tin Hiệp Thông số
73. Vì vậy ở đây, chúng tôi chỉ xin nhắc lại mấy ý chính:
2.1. Evangelium (Anh: Evangel; Pháp:
Évangile) được dịch là Phúc Âm hay Tin Mừng, nhưng theo chúng tôi, thuật từ
Phúc Âm có nội dung phong phú và sâu sắc hơn, bao hàm mọi điều thiện hảo mà con
người mơ ước theo triết lý Đông phương và như vậy có tính hội nhập văn hoá cao
hơn.
2.2. Thuật
từ Evangelizatio xuất hiện từ thế kỷ XIX và được du nhập vào thần học Công Giáo
vào thế kỷ XX, đặc biệt từ Công Đồng Vaticanô II. ĐTC Phaolô VI sử dụng từ này
với hai nội dung chính là truyền bá Phúc Âm (hoạt động truyền giáo cho lương
dân) và Phúc Âm hoá (hoạt động tông đồ cho giáo dân).
Evangelizatio (Anh: Evangelization; Pháp:
Évangélisation) là "đem Phúc Âm đến cho tất cả mọi tầng lớp nhân loại, để
rồi, nhờ ảnh hưởng của Phúc Âm, biến đổi nhân loại từ bên trong và làm cho nhân
loại nên mới" (EN 18). Đưa Phúc Âm vào lòng người, vào cách suy nghĩ, cách
hành động của con người, vào các lãnh vực hoạt động như xã hội, văn hoá, chính
trị, kinh tế... Nói cách khác là đem các giá trị Phúc Âm thấm nhuần vào trong
các thực tại trần thế như men ở trong bột. Vì vậy, nếu hiểu cách tổng quát
Evangelizatio được thực hiện vừa bằng lời nói, vừa bằng chứng tá đời sống cũng
như bằng những hoạt động để biến đổi mọi sự cho hợp với tinh thần Phúc Âm.
2.3.
Evangelizatio thường được dịch là (việc, cuộc, công cuộc) Phúc Âm hoá, truyền
bá Phúc Âm, truyền giảng Phúc Âm, loan báo Tin Mừng, rao giảng Tin Mừng, việc
truyền giáo... Tuy nhiên, theo chúng tôi, các từ truyền bá, truyền giảng, rao
giảng, loan báo, loan truyền... không có ý nghĩa tổng quát như chữ “hoá” trong
từ Phúc Âm hoá. Là một nguyên vị tiềm tàng giữ vai trò hậu tố từ,
"hoá" tạo ý nghĩa là: biến đổi, làm cho thấm nhuần hoặc làm cho trở
thành... Do đó, so với các cụm từ truyền bá Phúc Âm, truyền giảng Phúc Âm hay
loan báo Tin Mừng, rao giảng Tin Mừng.... thì thuật từ Phúc Âm hoá vừa ngắn gọn,
lại có nội dung bao quát, phong phú và diễn tả ý niệm Evangelizatio thích hợp
hơn.
2.4. Về mặt
từ ngữ, chúng ta có thể định nghĩa: Phúc Âm hoá là làm cho thấm nhuần tinh thần
Phúc Âm. Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo đã cung cấp một định nghĩa khác:
“Phúc Âm hoá, nghĩa là loan báo Ðức Kitô bằng đời sống chứng tá và lời nói” (Số
905).
3. Nghĩa các chữ
tân, phúc, âm, hoá.
3.1. Nghĩa của tân.
Tân có 12 chữ Hán: 新, 濱 (滨), 津, 賓 (宾), 薪, 辛, 鋅 (锌), 檳 (槟), 莘, 繽 (缤), 獱, 蠙, trong
trường hợp này là chữ 新. Tân 新 là chữ gốc
của chữ 薪 tân (nghĩa là: củi đuốc, tiền lương). Chữ
do 辛 (tân) và 斤(cân) tạo
thành. Trong giáp cốt văn, tân chỉ âm, và cân là cái rìu.
Tân nghĩa là (dt.) (1) Mới: Thôi trần xuất
tân (trừ cái cũ đi, đem cái mới ra). (2) Họ Tân. (3) Quốc hiệu của Vương Mãng
sau khi cướp ngôi nhà Hán (năm 8-22). (đt.) (4) Thay đổi cho mới: Nhật tân hựu
tân (ngày càng đổi mới). (tt.) (5) Những cái mới: Tân y (áo mới). (6) Những gì
mới xuất hiện: Tân sinh nhi (con mới sinh ra). (7) Những người hay vật thuộc về
thời gian mới cưới: Tân phòng (phòng cưới). (pht.) (8) Mới bất đầu: Tân tả (mới
viết).
Nghĩa Nôm: (dt.) (1) Xử nữ: Gái tân. (2)
Màng trinh: Còn tân.
3.2. Nghĩa của phúc.
Phúc có 9 chữ Hán: 福, 腹, 復 (复), 覆, 輹, 輻 (辐), 蝮, 愊, 鍑, ở đây là
chữ 福. Trong bài “Evangelium” tôi có phân tích
chữ này, nay xin trích lại: “Theo Lục thư, chữ phúc (福) thuộc
“hình thinh”. Viết bộ thị (示còn đọc kỳ) và thinh bức (畐 bị), có
nghĩa phù hộ, là thần ban điều lành giúp con người, nên viết bộ thị (示) và dùng
bức (畐) với âm bị, có nghĩa là mãn (nghĩa là có đầy
đủ, không gì không thuận lợi là phúc), tức là: trời đất ban xuống những điều tốt
lành để thoả mãn nguyện vọng của con người, nên dùng thinh (畐). Thuyết
Văn dùng chữ phúc với nghĩa là bị (bị là mọi việc đều thuận lợi). Chữ phúc (福) đọc âm
“phúc”, có nghĩa là mình xin cho được nhiều phúc.” Chữ 福 (phúc)
nghĩa là (dt.) (1) Những sự tốt lành, Kinh Thi chia ra năm phúc: - Giàu 富, - Yên
lành 安 寧,- Thọ 壽, - Có đức
tốt 攸 好 德, - Vui hết tuổi trời 考 終 命. (2) Điều may: Phúc Âm (tin lành). (3) Thịt phần tế. (4) Rượu tế còn thừa.
(5) Họ Phúc. (đt.) (6) Thần bảo hộ, giúp: Phúc hựu. (7) Bộ điệu người nữ ngày xưa
chào bằng cách chắp tay đặt ở eo: Đạo vạn phúc (Kính chào). (tt.) May mắn: Phúc
tướng (tướng may mắn).
3.3. Nghĩa của âm.
Âm có 11 chữ Hán: 音, 暗, 陰 (阴), 隂, 侌, 瘖, 喑, 蔭, 廕, 荫, 愔, trong mục
từ Tân Phúc Âm hoá, Âm là chữ 音, tôi đã từng phân tích chữ này: “Âm (音) trong từ
phúc âm (福音) có nghĩa là tiếng, tin, thuộc loại “chỉ sự”.
Viết chữ ngôn (言, lời ) ngậm dấu ngang (—) là cái dấu để tạo
chữ, không phải là chữ nhất (一), quy định dấu ngắn thì đặt ở trên dấu
ngang, dấu dài đặt ở dưới. Như vậy chữ ngôn (言) phần dưới
có chữ khẩu (口), chữ khẩu ngậm dấu ngang (—). Thinh do
tâm sinh ra, biểu lộ ra ngoài là âm, tức là cái hợp thinh mà được nhịp nhàng
hoà hợp với các thinh để thành văn, thì gọi là âm. Chữ 音 (âm)
nghĩa là: (dt.) (1) Tiếng phát ra bởi vật thể bị chấn động, do không khí làm
môi giới mà truyền đi: Tạp âm (tiếng tạp). (2) Giọng điệu: Hương âm (giọng
quê). (3) Tiếng đọc của chữ: Chú âm (tiếng ghi). (4) Tin tức, thư từ: Âm tín.
(5) Tiếng kính trọng kẻ khác: Đức âm. (6) Họ Âm.
3.4. Nghĩa của hoá.
Hoá có 2 chữ Hán: 化, 貨 (货), chữ cần bàn là chữ 化. Hoá (化) có hai
hình người, một đứng thẳng, một đứng lộn xuống dưới, giống diễn viên đang làm
xiếc hoặc biểu diễn ảo thuật, chỉ nghĩa “biến hoá”. Có những nghĩa mở rộng như
“Tạo Hoá”, “tử vong”, và “hoà tan”.
Hoá có nghĩa là (dt.) (1) Giáo dục: Giáo
hoá. (2) Tập tục: Phong hoá. (3) Trời đất hay số mệnh: Tạo Hoá. (4) Lễ, nhạc,
chế độ: Văn hoá. (5) Lấy ân nghĩa mà dạy: Đức hoá. (đt.) (6) Thay đổi: Thiên biến
vạn hoá. (7) Trời đất sinh thành vạn vật: Hoá dục. (8) Chết: Vật hoá. (9) Dần dần
ít đi, có rồi lại không còn: Tiêu hoá. (10) Thiêu huỷ: Hoả hoá. (10) Ăn xin:
Hoá duyên. (11) Đặt sau danh từ hay tĩnh từ, để chuyển biến trạng thái hay tính
chất của vật: (i) thay đổi tính chất: ảo hoá, Âu hoá, ẩn dụ hoá, bần cùng hoá,
bình thường hoá, biệt hoá, cá biệt hoá, cá tính hoá, cải hoá, cảm hoá, công hữu
hoá, công nghiệp hoá, cơ khí hoá, cụ thể hoá, chính quy hoá, chính thức hoá,
chuẩn hoá, chuẩn mực hoá, dân chủ hoá, dị hoá, đa dạng hoá, điện khí hoá, đồng
bộ hoá, đồng hoá, đơn giản hoá, hiện đại hoá, hợp thức hoá, khái quát hoá, lý
tưởng hoá, nhân cách hoá, phàm tục hoá, phân hoá, phức tạp hoá, tập thể hoá, thần
bí hoá, tổng quát hoá, tuyệt đối hoá, tư bản hoá, tự động hoá... (ii) làm cho
trở thành: cốt hoá (hoá xương), dẻo hoá, điện hoá, lưu hoá, nhũ hoá, nhựa hoá,
ion hoá, oxy hoá, khí hoá, từ hoá, xà phòng hoá, mã hoá...
Trong từ Phúc Âm hoá, hoá có vai trò hậu tố
từ, nghĩa là làm cho thấm nhuần.
Nghĩa Nôm: Goá: Hoá vợ.
4. New
Evangelization: Tân-Phúc-Âm hoá?
4.1. Tân Phúc Âm - Đức tin loại gì đây?
Có người thắc mắc: "Nói đến Đức Tin
Công Giáo mà nói đến “tân phúc âm, tân tin mừng” là nói đến đức tin loại gì
đây?" - Chúng tôi thử vào Google để tìm kiếm cụm từ "tân phúc
âm" và "tân tin mừng", thì không thấy chỗ nào nói Tân Phúc Âm
hay Tân Tin Mừng mà chỉ có Tân Phúc Âm hoá hay Tân Tin Mừng hoá mà thôi!
Thiết nghĩ: Người Công Giáo, dù là tân
tòng, cũng hiểu rằng Hội Thánh Công Giáo là "duy nhất", và vì duy nhất
trong đức tin nên không có chuyện "Tân Phúc Âm" hay "Tân Tin Mừng".
Thực ra chữ "Tân Phúc Âm" cũng đã có người sử dụng rồi. Tự điển của
Lm. Vũ Kim Chính dùng chữ này để dịch chữ Neo-Evangelism, danh xưng của một
giáo phái Tin Lành. Cho nên, nếu hiểu Tân Phúc Âm là một giáo phái, thì
"Tân Phúc Âm hoá" (nếu có) sẽ có nghĩa là "làm cho trở thành tín
đồ Tân Phúc Âm". Nhưng trong thực tế, anh em Tin Lành dịch từ
Neo-Evangelism là "Phong trào Tin Lành Hiện đại", chứ không sử dụng từ
Tân Phúc Âm.
4.2. Cũng tại thiếu cái dấu...
Tôi nhớ khi cha già Phaolô Nguyễn Huỳnh Điểu
- cha sở Nhà Thờ Đức Bà Sài Gòn - từ trần, một cha khẩn cấp báo tin cho bạn bè
của ngài bên Paris: "DIEU EST MORT"! Các cha bên Pháp đã hết sức kinh
ngạc, không thể hiểu nội dung của bức điện nên phải liên lạc hỏi lại... Cũng tại
chữ "Điểu" đã viết thành chữ "Dieu" (Thiên Chúa).
Trước năm 1975, tại miền Nam, người ta thêm
dấu gạch nối (-) giữa những mục từ ghép Hán Việt hoặc thuần Việt. Như trường hợp
trên, tân Phúc Âm hoá là từ ghép có cấu trúc theo quan hệ cú pháp thuận Hán, tức
tĩnh từ tân đứng trước danh từ Phúc Âm hoá. Để hiểu "tân" là từ bổ
nghĩa cho "Phúc Âm hoá", người ta viết là: "tân
Phúc-Âm-hoá", Phúc-Âm-hoá là một mục từ được giải thích theo nghĩa riêng
biệt của mục từ này mà không bị hiểu sai. Còn muốn chỉ "hoá" là hậu tố
từ của "Tân-Phúc-Âm" thì viết là: "Tân-Phúc-Âm hoá". Nay bỏ
gạch nối giữa những từ ghép ấy làm cho nhiều người không thể hiểu nổi những
danh từ kép hay từ ghép biệt nghĩa.
Đã có người đề nghị Quốc Hội cho dạy lại
Hán Nôm trong trường học, điều này hoàn toàn không thực tế. Để giải quyết vấn để,
chúng ta chỉ cần phục hồi dấu gạch nối trong những trường hợp nói trên, vấn đề
sẽ được giải quyết dễ dàng hơn.
5. New Evangelization:
Tân Phúc-Âm-hoá.
5.1. “New
Evangelization” là tên gọi được dành cho kế hoạch của Hội Thánh muốn thể hiện một
cách mới mẻ sứ mệnh cơ bản của Hội Thánh, căn tính và lý do hiện hữu của Hội
Thánh. Để có thể hiểu chính xác nguồn gốc và nội dung của thuật từ này, thiết
tưởng không gì bằng đọc tác phẩm mới xuất bản của Đức TGM Rino Fisichella, vị
chủ tịch đầu tiên của Hội Đồng Giáo Tông Cổ Vũ Việc Tân Phúc Âm Hoá: "The
New Evangelization- Responding to The Challenge of Indifference" hoặc bài
của Đức Ông Giuse Đinh Đức Đạo và Lm. Giuse Phan Tấn Thành trong Bản tin Hiệp
Thông nói trên. Dưới đây chúng tôi chỉ lưu ý vắn tắt về nội dung và nhận xét về
những cách phiên dịch của từ New Evangelization trong tiếng Việt mà thôi.
5.2. Năm
1983, tại Haiti, khi nói chuyện với Hội Đồng Giám Mục Châu Mỹ La Tinh về tầm
quan trọng của công cuộc Phúc Âm hoá tại các nước này, ĐTC Gioan Phaolô II nói:
“Việc kỷ niệm nửa thiên niên kỷ Phúc Âm hoá sẽ có đầy đủ ý nghĩa của nó nếu chư
huynh trong tư cách giám mục biết dấn thân cùng với hàng linh mục và giáo dân của
mình, một dấn thân không phải để tái Phúc Âm hoá mà là để tân Phúc Âm hoá. Nó sẽ
mới trong nhiệt tâm, mới trong phương pháp và mới trong cách truyền đạt của nó.
Về phương diện này, cho phép tôi uỷ thác nơi chư huynh, gói ghém trong ít lời,
các khía cạnh đối với tôi xem ra là căn bản nhất đối với việc tân Phúc Âm hoá”
Như vậy, tân Phúc Âm hoá nghĩa là ta công bố
Phúc Âm với một nhiệt tâm mới, một ngôn ngữ mới, một ngôn ngữ dễ hiểu trong ngữ
cảnh văn hoá dị biệt, và một phương pháp mới có khả năng thông truyền ý nghĩa
sâu sắc nhất của sứ điệp, ý nghĩa bất biến của nó. Về mặt từ ngữ, chúng ta có
thể giải thích: Tân Phúc Âm hoá là việc (hay cuộc, công cuộc) Phúc Âm hoá mới.
Mới, không phải ở bản chất hay nội dung của Phúc Âm, mà là "mới trong sự
nhiệt thành, trong phương pháp và trong lối diễn tả".
Hiện nay, bên cạnh "tân Phúc Âm
hoá", thuật từ “New Evangelization” còn được dịch là: tái truyền giảng Tin
Mừng, cách tân truyền giảng Tin Mừng, việc tân truyền bá Phúc Âm hoá, cuộc loan
báo Tin mừng mới.
6.
Re-Evangelization: Tái Phúc Âm hoá.
Chữ tái trong tiếng Việt (cũng như iterata
trong La ngữ và tiếp đầu ngữ Re- trong tiếng Anh, Pháp) có nghĩa là lặp lại, trở
lại lần nữa, nhưng (1) Nó có thể chỉ việc lặp lại một hành động, như trong trường
hợp tái diễn một vỡ kịch (re-enacting); (2) Nó cũng có thể diễn tả việc trở về
với giai đoạn trước đó, như tái thủ đắc (re-acquiring); (3) Nó cũng có nghĩa
đem lại một giá trị mới cho một hành động có trước như tái sinh
(re-generation)... Nếu hiểu chữ tái theo nghĩa thứ 3 này, thì "tái Phúc Âm
hoá" sẽ bao hàm ý tưởng về một sự thay đổi, đổi mới trong nội dung của
hành động "Phúc Âm hoá". Có thể đó là lý do mà ĐTC Gioan Phaolô II từ
sau thông điệp Redemptoris Missio (1990) đã không sử dụng thuật từ
Re-Evangelization nữa, và Đức TGM Rino Fisichella, chủ tịch Hội Đồng Giáo Tông
Cổ Vũ Việc Tân Phúc Âm Hoá, khuyên chúng ta nên tránh kiểu nói này.
7. Renewed
Evangelization: Cách tân truyền giảng Phúc Âm.
Trong tiếng Anh có những kiểu nói: The Proclamation
of Salvation, The Proclamation of the Gospel, The Preaching of the Gospel...
hay Renewed Evangelization, Renewed Integral Evangelization, The Renewed
Mission of the Church... là những cách diễn tả ý niệm Evangelization hoặc New
Evangelization ở mặt nào đó, không toàn diện và nhất là không thể thay thế cho
những thuật từ này. Cũng thế, trong tiếng Việt cũng có những kiểu nói: Loan
truyền Ơn cứu độ, rao giảng Tin Mừng, truyền bá Phúc Âm... hay cách tân việc
truyền giảng Tin Mừng, canh tân Phúc Âm hoá toàn diện, canh tân sứ mạng của Hội
Thánh... Chúng tôi thiết nghĩ có thể sử dụng trong những hoàn cảnh để trình
bày, diễn giải... chứ không thể dùng như những thuật từ chuyên môn định danh
cho ý niệm Evangelization hoặc New Evangelization.
Theo giáo sư Hoàng Xuân Hãn, tác giả bộ
"Danh từ Khoa học" và rất nhiều công trình khoa học có giá trị lớn để
làm mẫu mực cho việc giáo dục và quốc học nước ta, để tạo một danh từ chuyên
môn cần phải tuân thủ tám điều kiện và ba phương sách như sau: Năm điều kiện về
nội dung: (1) Mỗi ý phải có một danh từ để gọi; (2) Danh từ ấy phải riêng về ý ấy;
(3) Một ý đừng có nhiều danh từ; (4) Danh từ phải làm cho dễ nhớ đến ý; (5)
Danh từ trong các môn phải thành một toàn thể duy nhất và liên lạc. Ba điều kiện
về hình thức: Danh từ (6) phải gọn; (7) phải có âm hưởng Việt Nam; và (8) phải
đặt theo lối đặt các tiếng thường và phải có tính cách quốc gia. Ba phương
sách: (1) Dùng tiếng thông thường; (2) Phiên âm; (3) Lấy gốc chữ Nho.
Giáo sư Hãn còn viết: "Nói thế không
phải rằng ta đặt một chữ nào cũng phải theo cho đủ các điều kiện trên kia. Những
điều kiện trên có khi nó thành ra mâu thuẫn, nên trong sự định đoạt, ta lại xem
cách nào tiện hơn mà chọn. (...) Nói tóm lại, một danh từ khoa học cốt có những
đức tính sau đây: đủ rành mạch, dễ nhớ, gọn. Chớ cách đặt thì không duy nhất được.
Thế cũng không ngại gì, quí hồ tiếng đặt có âm hưởng Việt Nam và có tính cách
Việt Nam là được".
Các linh mục tiền bối trong Ban giáo sư Trường
Thần học Bùi Chu khi xưa cũng đã đồng ý tuân thủ những điều kiện và phương sách
này khi biên soạn quyển "Danh từ Thần Học và Triết Học". Nhờ đó Hội
Thánh tại Việt Nam đã có được bộ thuật ngữ làm nền tảng cho việc học tập và giảng
dạy thần học và triết học bằng Việt ngữ hơn nửa thế kỷ qua.
Vì vậy, trên phương diện học thuật, chúng
tôi nhận thấy cụm từ "tân Phúc Âm hoá" có thể dùng như một thuật từ để
định danh cho ý niệm "New Evangelization". Còn các cách dịch: việc
tân truyền bá Phúc Âm hoá, cuộc loan báo Tin mừng mới, cách tân truyền giảng
Tin Mừng, tái truyền giảng Tin Mừng... mang tính định nghĩa hơn là định danh.
8. Kết luận.
Việt Nam chưa có hàn lâm viện, không ai có
thể bảo ai phải làm thế nào. Nên chăng, Hội Thánh tại Việt Nam theo gương các bậc
tiền bối, đi bước đầu làm trong sáng lại tiếng Việt.
Để tiếp tục đóng góp vào bộ thuật ngữ quý
báu này, chúng ta cần cẩn trọng khi chọn lựa từ ngữ để dịch những khái niệm mới
trong các khoa ngành của Hội Thánh.
14. “Nova
evangelizatio ad christianam fidem tradendam - The New Evangelization for the
Transmission of the Christian Faith”.
15. John L. Allen Jr.:
VATICAN TRIES TO FLESH OUT 'NEW EVANGELIZATION', xem: http://ncronline.org/blogs/ncr-today/vatican-tries-flesh-out-new-evangelization.
16. Tự sắc Porta
Fidei, số 4, 7.
17. Bài Giảng Chúa Nhật,
TGM GP. TP.HCM, Số 3/2006 và 10/2009.
18. Lm. Stêphanô Huỳnh
Trụ, TÌM HIỂU TỪ VỰNG CÔNG GIÁO, 2012, tr. 19-25; 298-315.
19. Lm. Giuse Phan Tấn Thành, OP., “LOAN BÁO
TIN MỪNG, TÁI LOAN BÁO TIN MỪNG, LOAN BÁO TIN MỪNG CÁCH MỚI MẺ: NHỮNG BÀI HỌC LỊCH
SỬ” - Hiệp Thông, Số 73, tháng 11&12 năm 2012, tr. 52-79.
20. Các văn kiện của Công Đồng Vaticanô II đã
sử dụng danh từ Evangelizatio 31 lần, đặc biệt trong Sắc Lệnh Truyền Giáo 21 lần.
Tuy bản dịch tiếng Việt của Giáo Hoàng Học Viện Thánh Piô X (Đà Lạt, 1970) dịch
là “truyền bá Phúc Âm” nhưng cũng đã thấy có vài nơi sử dụng thuật từ “Phúc Âm
hoá” (tr. 348, 796).
21. xem Tông huấn EVANGELII NUNTIANDI, số 18.
22. Nguyên vị tiềm
tàng là những yếu tố gốc Hán có ý nghĩa phản ánh gián tiếp hiện thực. Theo cách
nói của Gs. Hồ Lê: CẤU TẠO TỪ TIẾNG VIỆT HIỆN ĐẠI, Nxb KHXH, TP.HCM, 2003,
tr.154.
23. Sáu quy tắc tạo
nên chữ Hán gọi là Lục thư: (1) Tượng hình. (2) Chỉ sự. (3) Hội ý. (4) Hình
thinh. (5) Chuyển chú. (6) Giả tá.
24. Bài Giảng Chúa Nhật,
tháng 3/2006, Bài “Phúc Âm và Tin Mừng”, tr. 93.
25. Nếu đặt vấn đề: Đối
với người lương thì sao? - Thưa, thì phải tìm hiểu mới biết được. Vì đã là thuật
từ thì dù thuộc ngành nào, bộ môn nào, thì cũng phải “học nhi tri chi”. Tương tự
như các thuật từ “Mẹ Thiên Chúa” hay “bất khả ngộ” vv...
26. Lm. Vũ Kim Chính,
SJ., TỰ ÐIỂN THẦN HỌC TÍN LÝ ANH VIỆT, Đài loan, 1999.
27. Neo-Evangelism: Một
phong trào có từ năm 1940, phát nguồn từ Phái Phúc Âm (Evangelicals: Phong trào
Tin Lành), với các đặc điểm là tập trung vào nỗ lực truyền bá Phúc Âm, trải
nghiệm qui đạo, lời chứng về đức tin cá nhân, và có quan điểm truyền thống về
Thánh Kinh. Phái này tin rằng Phúc Âm cần phải được tái khẳng định và tái công
bố trong một cung cách mới. Vì vậy, xuất hiện thuật ngữ Neo - mới hoặc được làm
cho mới. Danh xưng Neo-Evangelism do Harold Ockenga đặt ra năm 1947, mà anh em
Tin Lành Việt Nam dịch là “Phong trào Tin Lành Hiện đại”, để phân biệt với giáo
phái Căn Bản (Fundamentalists: Phong trào Nền Tảng) mới được hình thành vào đầu
thế kỷ 20. Ngày nay, với ảnh hưởng rộng lớn trong cộng đồng Tin Lành, Phái Tân
Phúc Âm được xem là đồng nghĩa với Phái Phúc Âm, đại diện cho những Kitô hữu
liên kết đức tin của mình với các giá trị truyền thống của Giáo Hội tiên khởi.
28. Đề cương
(Lineamenta) của THĐGM Lần thứ XIII, số 10.
29. Archbishop Rino
Fisichella: THE NEW EVANGELIZATION- RESPONDING TO THE CHALLENGE OF
INDIFFERENCE, Gracewing Publishing, 2012.
30. Xem bài của Đức
Ông Giuse Đinh Đức Đạo (tr. 29-51) và Lm. Giuse Phan Tấn Thành (tr. 52-79)
trong Hiệp Thông, Số 73, tháng 11&12 năm 2012.
31. John Paul II,
Address to CELAM (Opening Address of the Sixth General Assembly of CELAM, 9
March 1983, Port-au-Prince, Haiti), L’Osservatore Romano English Edition 16/780
(18 April 1983), no. 9.
32. Insegnamenti di
Giovanni Paolo II, VI, 1 (1983), Editrice Vaticana, 1983, p.698.
33. Lm. G. Trần Đức
Anh, OP.: SỨ ĐIỆP THƯỢNG HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC lần thứ XIII Gởi CỘNG ĐỒNG DÂN CHÚA
(http://gpbanmethuot.vn); ĐTC MỜI GỌI CÁC TÍN HỮU TÁI TRUYỀN GIẢNG TIN MỪNG
(http://tgpsaigon.net/baiviet-tintuc/20111017/12964) hay VAI TRÒ CỦA BÍ TÍCH
HOÀ GIẢI TRONG VIỆC TÁI TRUYỀN GIẢNG TIN MỪNG (http://tgpsaigon.net/baiviet-tintuc/20120310/15017);
đối chiếu với: POPE: CONFESSION A KEY PART OF EVANGELIZATION (http://www.zenit.org/article-34434?l=english)
34. Lm. Px. Nguyễn
Hùng Oánh: TÂN PHÚC ÂM HOÁ: CÁCH NÓI NGUY HẠI CHO ĐỨC TIN???
(http://titocovn.com/article/20121208/36320)
35. Lm. Đaminh Maria
Cao Tấn Tĩnh, TÂN PHÚC ÂM HOÁ, xem:
http://www.thoidiemmaria.net/TDM2010/MucVuTruyenGiao/TanPhucAmHoa.htm
36. Sr, Therese Tran,
MTG-DL: CÔNG CUỘC LOAN BÁO TIN MỪNG MỚI - XÂY DỰNG NỀN VĂN MINH TÌNH THƯƠNG,
xem: http://www.simonhoadalat.com/HOCHOI/Giaohoi/PhucAmHoa/GiaoHoiAChau/TaiLieu/01new_Evangelization.htm;
FX. Trần Kim Ngọc, OP.: LOAN BÁO TIN MỪNG? xem:
http://www.daminhvn.net/trang-chu/3050-suc-manh-nao-de-loan-bao-tin-mung.html
37. Archbishop Rino
Fisichella, http://americamagazine.org/issue/100/new-evangelization.
38. Msgr. Manny
Gabriel: THE PURSUIT OF THE BEC DIRECTION IN THE ARCHDIOCESE OF MANILA: IN
SEARCH OF SHARED FRAMEWORK: "New Evangelization" is not just
"renewed evangelization", or "integral evangelization" or
both "renewed, integral evangelization". (Xem: http://frpicx.
tripod.com/refl-gabriel.htm)
39. Hoàng Xuân Hãn,
DANH TỪ KHOA HỌC, Vĩnh Bảo, Sài Gòn, 1948.