Các bài suy niệm
CHÚA NHẬT 15 THƯỜNG NIÊN - B
CHÚA NHẬT 15 THƯỜNG NIÊN - B
MỤC LỤC
29. Video Thánh
Vịnh Nhóm thánh vịnh Nauy
30. Chúa Giêsu
mời gọi và sai đi Catholic.org.tw
31. Chúa sai chúng
ta đi Lm.
Carrolo Hồ Bạc Xái
32. Sứ mạng làm
chứng cho Chúa Lm
Giuse Đinh lập Liễm
36. Giáo huấn
bằng các việc làm thực tập Achille Degeest
37. Dự định của
Cha dành cho chúng ta Charles E. Miller
1. Phục vụ
người nghèo
Như chúng ta đã biết: thánh Phanxicô Assisi, sinh trong một gia
đình giàu có. Thuở niên thiếu, người là một cậu bé lêu lỏng hoang phí. Thế rồi
vào năm 1202, thành phố Assisi và Perugia bỗng trở nên thù địch nhau. Phanxicô
gia nhập quân đội Assisi và lên đường chiến đấu. Chàng bị bắt làm tù binh. Sau
đó bị xiềng và giam trong hầm ngục dơ bẩn suốt một năm. Khi được trả tự do,
phải mất một thời gian dài, sức khoẻ chàng mới được khôi phục. Chính biến cố
này đã thay đổi cuộc đời chàng. Chàng dẹp bỏ những bộ quần áo đắt tiền và khoác
lên người bộ quần áo công nhân nghèo khổ. Chàng từ giã gia đình để sống đời ẩn
sĩ khổ hạnh. Chàng đặc biệt lưu tâm tới những kẻ bị xã hội ruồng bỏ. Sở dĩ tình
thương ấy lớn mạnh trong tâm hồn chàng là do mối xúc cảm sâu xa trước hai lời
giáo huấn trong Kinh Thánh.
Lời giáo huấn thứ nhất nằm trong sách Sáng Thế Ký, đó là mọi
người đều được dựng nên theo hình ảnh Chúa. Giáo huấn thứ hai nằm trong sách
Phúc Âm, đó là sự gì chúng ta làm cho một kẻ bé nhỏ nhất là chúng ta đã làm cho
chính Chúa vậy. Chàng đã xác tín và thực thi đúng với những lời giáo huấn kể
trên. Lần kia, đang lúc đi đường, Phanxicô gặp một người cùi. Mặc dù rất ghê
tởm, nhưng Phanxicô xấn tiến lại ôm hôn con người bất hạnh đó.
Hơn thế nữa, chính đoạn Tin Mừng hôm nay, ngài được nghe đọc
trong một thánh lễ đã thay đổi toàn bộ nếp sống của ngài. Ngài từ giã nếp sống
ẩn sĩ, dùng đức khó nghèo làm hành trang lên đường để rao giảng Tin Mừng. Nếp
sống này chẳng bao lâu đã lôi cuốn được nhiều thanh niên. Và những tu sĩ đầu
tiên của dòng Phanxicô này ra đi khắp nơi, chăm sóc các bệnh nhân và giúp đỡ
những người nghèo. Họ lấy trời làm nhà và ăn uống bất cứ thứ gì người ta bố thí
cho. Đức khó nghèo biến họ trở nên một với những kẻ nghèo khó. Và đó cũng chính
là nếp sống mà Chúa Giêsu đã chọn.
Thánh Phanxiô kêu gọi mọi người giúp đỡ kẻ nghèo tuỳ theo hoàn
cảnh của mình, và nhường cho kẻ khác trách nhiệm động viên quần chúng và chính
quyền tấn công vào cội rễ phát sinh ra sự nghèo khổ. Điều đó dẫn chúng ta đến
một kết luận thật quan trọng. Đó là ngày nay hơn bao giờ hết, xã hội đang cần
những loại chứng từ phục vụ người nghèo như Chúa Giêsu, như thánh Phanxicô, như
Mẹ Têrêsa...
Phải, thế giới đang rất cần những người biết giúp đỡ kẻ nghèo
tuỳ theo hoành cảnh riêng của mình. Lời giáo huấn của Chúa trong đoạn Tin Mừng
sáng hôm nay thật rõ ràng. Tất cả chúng ta đều được mời gọi rao giảng Phúc Âm.
Và chúng ta có thể rao giảng Phúc Âm bằng cách biểu lộ tình yêu và sự quan tâm
đối với kẻ khác, nhất là những kẻ nghèo túng và khổ đau.
Và để kết luận, chúng ta hãy nhớ lại kinh Hoà Bình của thánh
Phanxicô Assisi: Vì chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh, chính lúc quên
mình là lúc gặp lại bản thân. Vì chính khi thứ tha là khi được tha thứ. Chính
lúc chết đi là khi vui sống muôn đời.
2. Tông đồ.
Có một câu chuyện tưởng tượng kể lại:
Sau khi hoàn tất sứ mạng trần gian, Chúa Giêsu trở về trời và
được thiên thần Gabriel ra tiếp đón. Gặp Chúa, thiên thần lên tiếng hỏi ngay:
Lạy Chúa, xin Chúa cho biết công trình của Chúa sẽ được tiếp tục như thế nào ở
dưới thế? Chúa Giêsu đáp: Ta đã chọn 12 tông đồ và Ta đã trao phó cho họ sứ
mạng rao giảng Tin Mừng cho đến tận cùng bờ cõi trái đất. Nghe Chúa trả lời như
thế, thiên thần Gabriel hình như chưa hoàn toàn thoả mãn nên hỏi tiếp: Nếu
chẳng may họ thất bại thì Chúa có dự tính chương trình nào khác nữa không? Chúa
Giêsu mỉm cười: Ta không dự tính một chương trình nào khác, Ta tin tưởng ở họ.
Đúng thế, Chúa Giêsu hoàn toàn tin tưởng vào các tông đồ, mặc
dầu xét về nhiều phương diện, khi Ngài về trời, Ngài đã để lại một nhóm tông đồ
ít ỏi xem ra không đủ khả năng để chu toàn sứ mạng đi rao giảng Tin Mừng cho
muôn dân. Hơn thế nữa, ngay cả sau khi Chúa đã sống lại, đức tin của các ông
vẫn còn chập chững và chao đảo. Chẳng hạn lần kia Chúa Giêsu gặp gỡ họ trên bờ
biển Tibêria, sau khi nghe theo lời Chúa truyền, các ông đã được một mẻ lưới
đầy cá. Lên bờ, thấy sẵn có than hồng, với cá đang nướng và bánh. Các ông được
Chúa ân cần mời: Hãy ăn đi các con. Tuy nhiên các ông vẫn còn nghi ngờ, chưa
nhận ra ngay là Chúa. Và sách Tông Đồ Công Vụ còn cho chúng ta thấy thái độ sợ
sệt và khép kín của các ông sau khi Chúa đã về trời. Thế nhưng, chính nơi các
ngư phủ quê mùa này mà Chúa Giêsu đã trao phó trọn vẹn sứ mạng hoàn tất chương
trình Chúa muốn thực hiện. Đó là chương trình biến trần gian trở thành Nước
Trời. Cũng trong sách Tông Đồ Công Vụ, chúng ta còn thấy được một hình ảnh khác
hẳn khi các ông nhận lãnh Chúa Thánh Thần.
Thực vậy, các ông đã can đảm ra khỏi những gian phòng đóng kín,
nơi các ông đã từng sợ hãi và trốn tránh, để lên đường rao giảng Tin Mừng Đức
Kitô ở khắp mọi nơi, bất chấp mọi cấm đoán, mọi đòn vọt, mọi giam cầm, sẵn sàng
chấp nhận cái chết để nêu cao niềm tin. Tất cả các tông đồ, ngoại trừ một mình
Gioan, đều đã lấy máu đào để minh chứng lời mình rao giảng.
Nước Trời từ một hạt cải nhỏ bé, đã trở thành một cây to cho
chim trời tới đậu. Đã hai mươi thế kỷ trôi qua, có biết bao nhiêu người, thuộc
đủ mọi thành phần, mọi sắc dân, đáp ứng lời mời gọi của Chúa Giêsu, Đấng là
đường là sự thật và là sự sống.
Và bây giờ đến lượt chúng ta. Đúng thế, có lẽ lúc này Ngài đang
nhìn mỗi người chúng ta và đưa ra một câu hỏi để chúng ta có được một thái độ
dứt khoát. Câu hỏi ấy như thế này: Còn con, con có muốn trở nên tông đồ, cộng
tác với Ta bằng lời nói cũng như bằng chính việc làm và cuộc sống của mình, để
đem Tin Mừng đến cho những người chung quanh hay không? Thế nhưng, trước câu
hỏi ấy, chúng ta đã trả lời như thế nào và chúng ta sẽ làm gì để đáp trả tiếng
Chúa.
3. Tông đồ.
Một trong những ưu tư lớn trong cuộc đời công khai của Chúa
Giêsu, đó là tìm những người cộng tác với mình trong công cuộc truyền bá Phúc
âm, bởi vì Ngài luôn ý thức rằng: Lúa chín thì nhiều, mà thợ gặt thì ít. Chính
vì thế Ngài đã kêu gọi và chọn lựa các môn đệ. Ngài đã để cho các ông sống bên
cạnh mình và trực tiếp huấn luyện các ông, bằng cách để cho các ông được nghe
những lời Ngài giảng, xem những việc Ngài làm. Và cắt nghĩa cho các ông những
điều các ông chưa hiểu.
Rồi hôm nay, Ngài đã sai các ông đi để thực tập truyền giáo. Và
trước khi các ông lên đường, Ngài đã căn dặn: Đừng mang theo bao bị, đừng mang
theo cơm bánh, đừng mang theo tiền bạc và đừng mặc hai áo, nghĩa là Ngài bảo
các ông phải ra đi trong một hoàn cảnh bấp bênh nhất, để tập trung vào việc rao
giảng Tin Mừng, cũng như luôn phó thác vào tình thương và quyền năng của Thiên
Chúa.
Lầm lỗi nặng nề nhất của người tông đồ hăng say và nhiệt thành,
đó là họ quá cậy dựa vào tài năng riêng của mình mà quên mất tác động và sự trợ
giúp của Chúa, bởi vì không có Chúa, chúng ta không thể làm được gì. Hay như
lời thánh Phaolô xác quyết: Phaolô trồng, Apollo tưới, nhưng chính Thiên Chúa
mới là Đấng đem lại kết quả.
Đối với chúng ta cũng vậy, một khi đã lãnh nhận Bí tích Rửa tội
và Bí tích Thêm sức, chúng ta cũng được Chúa kêu mời cộng tác với Ngài trong
công cuộc truyền bá đức tin, để rồi chúng ta cũng sẽ là những môn đệ của Ngài.
Và cách thức để chúng ta thể hiện ơn gọi và sứ mạng của mình một cách hiệu quả
nhất vẫn là đời sống gương mẫu của chúng ta.
Vì thế, sau khi công bố tám mối phúc thật, Chúa Giêsu đã truyền
dạy: Các con là ánh sáng thế gian. Ánh sáng ấy phải chiếu dãi trước mặt thiên
hạ, để mọi người nhìn thấy những công việc của các con mà ngợi khen Cha các con
là Đấng ở trên trời.
Tục ngữ Việt Nam cũng bảo: Lời nói như gió lung lay, việc làm
như tay lôi kéo. Chính đời sống gương mẫu của chúng ta mới là một bài giảng
hùng hồn có sức lôi cuốn và hấp dẫn mọi người đến cùng Chúa.
Tuy nhiên, nói tới việc tông đồ, nhiều người trong chúng ta vẫn
cảm thấy xa lạ bởi vì họ cho rằng đó là bổn phận của giới tu hành, chứ không
phải là bổn phận của họ, những người giáo dân sống giữa lòng đời. Đây là một
quan niệm sai lạc, bởi vì đã là con cái Giáo Hội, chúng ta đều có bổn phận làm
cho Giáo Hội được phát triển, được rộng mở, tùy theo hoàn cảnh và đấng bậc của
mình.
Mẹ Têrêxa Calcutta kể lại một mẩu chuyện cảm động như sau: Ngày
kia có một thiếu phụ cùng tám đứa con đến gõ cửa xin gạo. Mẹ đích thân trao cho
bà ta một bao. Bà nhận gạo rồi chia làm hai phần, Mẹ ngạc nhiên hỏi tại sao thì
bà trả lời: Tôi dành một phần cho gia đình Hồi giáo bên cạnh vì đã mấy ngày
qua, họ không có gì để ăn.
Người nghèo khổ nhất cũng có thể thực thi tinh thần chia sẻ
huynh đệ, nghĩa là họ vẫn có thể làm việc tông đồ, làm sáng danh Chúa bằng
chính đời sống của họ.
4. Hành trang người môn đệ - ĐTGM. Ngô Quang
Kiệt
Ai đi xa cũng phải chuẩn bị hành trang.
Chuyến đi càng xa thì hành trang càng nhiều. Chuyến đi càng quan trọng thì hành
trang càng phải chọn lựa, tính toán. Hôm nay Đức Giêsu sai các môn đệ đi một
chuyến quan trọng: tiếp nối sứ mạng của Người đem Tin Mừng đến khắp các làng
mạc xa xôi. Để chuẩn bị cho chuyến đi quan trọng này, Đức Giêsu đã giúp các môn
đệ sắp xếp hành trang. Sau khi đã loại bỏ những loại hành trang cồng kềnh không
cần thiết, có hại cho nhiệm vụ, Đức Giêsu đã trao cho các môn đệ những hành
trang thực sự cần thiết và hữu ích cho sứ vụ Tông đồ.
Hành trang của người môn đệ là sự gắn bó mật thiết với Đức
Giêsu. Các môn đệ chỉ được sai đi sau khi đã có một thời gian sống bên
cạnh Người. Thời gian sống bên Đức Giêsu cần thiết để các môn đệ hiểu biết, cảm
thông và nhất là yêu mến, gắn bó mật thiết với Người. Đây chính là hành trang
quan trọng nhất. Người được sai đi phải gắn bó mật thiết với Đấng đã sai mình.
Sự gắn bó mật thiết là nguồn mạch, bảo đảm tính trung thực, là chìa khoá thành
công của sứ vụ. Đức Giêsu đã nêu gương về điểm này khi luôn gắn bó mật thiết
với Đức Chúa Cha, Đấng đã sai Người. Sự gắn bó ấy giúp Người hoàn toàn kết hiệp
với Đức Chúa Cha, trở nên một lòng một ý với Đức Chúa Cha, luôn cầu nguyện,
luôn từ bỏ ý riêng để làm theo ý Chúa Cha. Chính vì thế, sứ vụ của Người đã
thành công tốt đẹp.
Hành trang của người môn đệ là tâm hồn đơn sơ phó thác. Khi
chỉ thị cho các môn đệ: “không được mang gì khi đi đường, chỉ trừ cây gậy;
không được mang lương thực, bao bị, tiền giắt lưng; được đi dép, nhưng không
được mặc hai áo”, Đức Giêsu muốn các ông sống trong cảnh nghèo khó để hoàn toàn
tin tưởng phó thác vào Chúa. Tiền của, tiện nghi vật chất dễ tạo ra một thứ an
tâm giả tạo, dẫn con người đến chỗ tự mãn, tự kiêu, tự phụ cho rằng mọi thành
công là nhờ tài sức riêng mình. Vì thế, dễ tha hoá, làm theo ý mình hơn là làm
theo ý Chúa, sắp đặt chương trình cho Chúa hơn là tìm thực hiện chương trình
của Chúa. Nghèo khó sẽ giúp người môn đệ ý thức sự nghèo nàn thiếu thốn, sự yếu
ớt của mình, ý thức đó sẽ giúp người môn đệ biết khiêm nhường, tin tưởng phó
thác cho Chúa. Tôi chỉ là hư vô, là cát bụi. Mọi thành công đều của Chúa, nhờ
Chúa. Những thành công do tài sức con người sẽ mau tàn. Chỉ có công trình của
Chúa mới bền vững. Vì thế đơn sơ phó thác là một hành trang rất cần thiết cho
người môn đệ. Không mang theo gì của loài người, chỉ mang theo niềm tin yêu phó
thác vào Thiên Chúa, đó chính là mang theo tất cả.
Hành trang của người môn đệ là tình liên đới. Đức
Giêsu không sai các môn đệ đi riêng lẻ, nhưng sai từng hai người một. Người
biết khả năng con người yếu kém, cần có tập thể nâng đỡ mới hoàn thành sứ mạng.
Lời chứng của một cá nhân chưa đủ sức thuyết phục. Cần có sự đồng tâm nhất trí
của một tập thể lời chứng mới thực sự đáng tin. Hơn nữa, Đức Giêsu không sai
các môn đệ đi làm việc với giấy tờ hay đất đai, nhưng sai các ngài đến với con
người. Các ngài phải sống giữa mọi người, nhờ mọi người giúp đỡ, chia sẻ cuộc
sống với họ. Phải liên đới với con người. Tình liên đới không những cần thiết để
giúp các ngài làm việc tông đồ một cách hữu hiệu. Chính qua tình liên đới mà
Tin Mừng dễ dàng được đón nhận.
Hành trang của người môn đệ là trái tim biết cảm thương. Đức
Giêsu sai các môn đệ đến với những người đau yếu bệnh tật, hoang đàng tội lỗi,
bị quỷ ma hành hạ. Tức là đến với những người kém may mắn ở đời. Những người
nghèo hèn yếu đuối. Những người bị xã hội bỏ quên. Để đến với những người anh
em bé nhỏ, người môn đệ phải có trái tim biết cảm thương. Các ngài phải mang
trái tim của Thiên Chúa luôn chạnh lòng thương khi nhìn thấy đám đông bơ vơ tất
tưởi, túng thiếu, đói khát. Phải sẵn sàng băng rừng vượt suối đi tìm một con
chiên lạc. Phải mở rộng vòng tay đón nhận đứa con hoang đàng trở về. Phải sẵn
sàng tha thứ cho kẻ tội lỗi thật lòng hối cải ăn năn.
Mỗi người chúng ta đều là môn đệ của Chúa. Khi chúng ta lãnh
nhận phép Rửa tội và Thêm sức, Chúa sai chúng ta đi rao giảng Tin Mừng của
Người. Tôi thấy anh chị em ở Giáo xứ Cửa Nam rất tích cực trong việc tông đồ.
Nhưng có lẽ anh chị em vẫn băn khoăn, không biết làm sao để việc tông đồ có kết
quả tốt đẹp. Hôm nay, Đức Giêsu cho ta biết, muốn việc tông đồ có kết quả, ta
phải gắn bó mật thiết với Chúa, phó thác mọi sự cho Chúa, đồng thời phải có
tình liên đới và nhất là phải biết cảm thương anh chị em đồng loại. Một tay nắm
lấy tay Chúa, một tay nắm lấy tay anh em. Một tình yêu anh chị em trong tình
yêu mến Chúa. Liên kết mọi người trong tình yêu mến. Với tình yêu mến, chắc
chắn việc tông đồ của ta sẽ đi đúng đường hướng của Chúa. Với tình yêu mến,
chắc chắn việc tông đồ sẽ có kết quả tốt đẹp.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1- Chúa sai bạn đi làm tông đồ cho Chúa, bạn có cảm thấy điều đó
không?
2- Mỗi khi đi làm việc tông đồ, bạn thường chuẩn bị những loại
hành trang nào, những hành trang của bạn quan tâm có giống những hành trang
Chúa chuẩn bị cho các môn đệ không?
3- Theo bạn, đâu là phương thế hữu hiệu nhất làm cho những người
chung quanh nhận biết Chúa?
4- Đâu là những hành trang cần thiết của người môn đệ của Chúa?
5. Bài Sai – Lm Giuse Trần Việt Hùng
Tiên tri Amos xuất hiện khoảng năm 760 trước Công Nguyên dưới
thời của Vua Phương Nam Uzziah (783-742) và Vua Phương Bắc Jeroboam II
(786-746).
Tiên tri Amos làm việc nơi đồng áng và chăn nuôi súc vật. Ông
được Thiên Chúa tuyển chọn và sai đi rao giảng sám hối tại trung tâm miền Bắc
Bethel và Samaria. Quan niệm thần học tập trung việc cảnh cáo dân Do-thái rằng
Thiên Chúa sẽ trừng phạt và phá hủy dân Israel bởi vì tội lỗi của họ. Amos kêu
gọi dân chúng ăn năn sám hối và cải đổi đời sống theo giới răn của Chúa.
Phúc âm Chúa Nhật hôm nay tường thuật việc Chúa Giêsu gọi mười
hai tông đồ và sai từng hai người đi. Chúa ban cho các ông quyền trên các thần
ô uế. Với lời nhắn nhủ sống đơn sơ chân thành và đi làm nhân chứng với hai bàn
tay trắng. Các ông đã ra đi vào các làng mạc chuẩn bị các tâm hồn đón nhận ơn
Chúa. Các ông hoàn toàn cậy dựa vào sự quan phòng của Thiên Chúa. Chúng ta biết
Chúa Giêsu đã chọn những con người tầm thường, họ không có nhiều tài năng
chuyên môn, không có của cải và không có chỗ đứng trong xã hội. Chúa chọn những
người bình thường để làm những việc phi thường cho Nước Chúa.
Thật lạ lùng, Chúa Giêsu sai các tông đồ ra đi loan truyền sứ
mệnh quan trọng nhưng không ban cho các phương tiện, tiền bạc hay của cải. Ngày
nay trong công tác mục vụ, chúng ta thường chuẩn bị rất kỹ càng, nào là tiền
mặt, thẻ tín dụng, thức ăn thức uống, bản đồ, áo trong áo ngoài, máy móc đủ
loại và các dụng cụ cá nhân. Nếu khi phải ở qua đêm, chúng ta còn cần nhiều thứ
lỉnh kỉnh nữa. Chúng ta lo lắng cho những nhu cầu vật chất như chỗ ăn chỗ ở,
cái ăn cái mặc và những tiện nghi tối thiểu. Đôi khi chúng ta lại quá lo lắng
cậy dựa vào những nhu cầu vật chất của đời thường. Theo thông lệ một số các
đấng bậc khi thăm viếng mục vụ, các giáo đoàn phải chuẩn bị đón tiếp long trọng
và đôi khi còn phải chi tiêu hao tốn, thiếu đi tinh thần nghèo khó và sự phó
thác.
Mỗi năm kết khóa, mùa Hè là mùa ra trường. Các ứng sinh lãnh
nhận những mảnh bằng tốt nghiệp đã bắt đầu bước vào đời. Những vốn liếng thu
lượm qua việc trau dồi học hỏi trên ghế nhà trường nay đem ra áp dụng theo
những sở trường và khả năng. Trong sứ mệnh dâng hiến, mỗi năm Giáo Hội đón nhận
nhiều tu sĩ nam nữ khấn dòng, khấn tạm hoặc vĩnh khấn, các chủng sinh lãnh nhận
chức đọc sách, giúp lễ, phó tế và các tân chức linh mục. Mỗi tu sĩ hay tân chức
sẽ lãnh nhận những bài sai từ bề trên để ra đi làm nhân chứng cho Chúa Kitô.
Các sứ giả phúc âm không được tự chọn cho mình nơi chỗ, nhưng được sai đến bất
cứ nơi nào để phục vụ Giáo Hội và tha nhân.
Tháng Sáu vừa qua, tôi rất hân hạnh được tham dự thánh lễ truyền
chức linh mục tại Đài Đức Mẹ, Tân Hiệp, Địa phận Long Xuyên. Lễ phong chức cho
18 tân linh mục rất là hoành tráng. Với trên hai trăm linh mục trong Giáo phận
có mặt và có thêm nhiều vị từ khắp nơi đổ về. Với sự hiện diện trên mười ngàn
Giáo dân vui mừng hân hoan tụ về tham dự nghi lễ phong chức linh mục. Ngay sau
thánh lễ truyền chức, một vị linh mục đại diện đã công bố Bài Sai của Đức Giám
Mục Địa Phận cho từng tân linh mục. Một sự chọn lựa cắt đặt các tân chức vào
các sứ vụ tùy theo khả năng thích hợp của mỗi tân linh mục.
Chúng ta biết rằng lãnh nhận thiên chức linh mục không phải
riêng cho mình, nhưng cho Giáo Hội và chung cho mọi người. Các tân chức nhận
những Bài Sai khác nhau như về trụ sở Tòa Giám Mục, các Giáo Xứ và có những Bài
Sai về nơi truyền giáo vùng sâu vùng xa. Niềm vui trào dâng khi nhận lãnh thiên
chức cao cả. Khi nghe rao báo Bài Sai, các tân chức cũng có những cảm tình vui
buồn lẫn lộn. Có những bà mẹ nhảy cẫng vui mừng vì con mình được về giáo xứ
giầu có ổn định. Có những gia đình vỗ tay hãnh diện vì tân linh mục nhà mình
được về xứ lớn ở trung tâm thành phố. Có những vẻ mặt không được vui lắm khi
nghe Bài Sai sẽ đi phục vụ ở những nơi khai hoang truyền giáo. Thật vậy, được
sai đi nơi đâu, cũng là để phục vụ tha nhân. Chúa Kitô vẫn luôn là trung tâm
điểm của đời sống mục vụ và phục vụ.
Câu truyện vào thời chiến, có một sự kiện xảy
ra nơi một làng nhỏ ở nước Đại Hàn. Trước nhà thờ có một tượng Chúa Giêsu bị
trúng mảnh bom làm vỡ bể. Một nhóm binh sĩ Hoa Kỳ đã giúp linh mục lau dọn và
thu thập các mảnh vỡ vụn để gắn đặt lại tượng Chúa. Họ tìm thấy mọi phần của
tượng Chúa, trừ một cánh tay bị vỡ tan. Các binh sĩ đề nghị với linh mục là đưa
tượng Chúa về Hoa Kỳ để tu sửa và làm cánh tay mới. Linh mục bổn sở từ chối. Ngài
nói: Tôi có một ý tưởng. Cứ để tượng như thế, thiếu một cánh tay. Chúng ta hãy
viết trên bệ cho các khách hành hương chú ý: Hỡi bạn, cho tôi mượn cánh tay của
bạn.
Trong cách này, mỗi tu sĩ nam nữ, các thiện nguyện viên hay các
linh mục ra đi giúp mọi người nhận ra những nhu cầu trong sứ mệnh phục vụ của
mình. Chúng ta sẽ là những cánh tay nối dài của Chúa Giêsu để xây dựng lại
những đổ nát và hư mất. Cùng một suy tưởng, Chúa cần những đôi chân của chúng
ta để đi tìm kiếm những ai đã lạc bước. Chúa muốn những đôi tai của chúng ta để
nghe những tâm sự cô đơn buồn chán của tha nhân. Chúa dùng miệng lưỡi của chúng
ta để nói những lời thân thương, khuyến khích, ủi an và nâng đỡ những kẻ đau
buồn, khổ sở và thất vọng.
Trong thơ gởi cho tín hữu Ephêsô, thánh Phaolô đã viết rằng:
Trong Đức Kitô, Người đã chọn ta trước cả khi tạo thành vũ trụ, để trước thánh
nhan Người, ta trở nên tinh tuyền thánh thiện, nhờ tình thương của Người (Eph
1, 4). Sau khi hồi đầu, Phaolô đặt trọn niềm tin nơi Đức Kitô. Chúa đã chọn và gọi
Phaolô một cách đặc biệt. Biến đổi ông từ một người bách hại các Kitô hữu trở
nên nhân chứng cho niềm tin vào Chúa Giêsu Kitô. Phaolô đã được sai đi rao
giảng tin mừng cho dân ngoại. Tông đồ Phaolô đã không ngại gian khó rong ruổi
khắp các thành thị và làng mạc để loan báo về công cuộc cứu độ của Chúa Kitô.
Giáo Hội luôn kêu gọi chúng ta cầu nguyện cho ơn gọi dâng hiến.
Có rất nhiều tâm hồn đã và đang quảng đại đáp lại tiếng Chúa trong ơn gọi tu
trì. Mỗi tín hữu đều có bổn phận góp sức mình, của cải và khả năng để xây dựng
và loan truyền tin mừng cứu độ. Chúng ta không thể đổ dồn trách nhiệm cho môt
thành phần riêng biệt nào. Mỗi người chúng ta đều có bổn phận và trách nhiệm
sống động trong Nhiệm Thể Chúa Kitô. Sự cộng tác của chúng ta bằng lời cầu nguyện,
nâng đỡ tinh thần và khuyến khích hơn là sự chỉ trích, gây chia rẽ, đàm tiếu
hoặc phá đổ. Lạy Chúa, cánh đồng truyền giáo còn bao la bát ngát, xin Chúa
sai thêm những thợ gặt lành nghề. Chúng con cảm tạ Danh Chúa đến muôn ngàn đời.
Amen.
6. Sống thanh thoát – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Muốn đất nước phát triển: “Hãy loại trừ tham nhũng”, đó là vấn
đề được bàn luận sôi nổi nhất nơi các kỳ họp quốc hội Việt Nam.
Tham nhũng là gì? Tham nhũng không đơn thuần là lấy của công
thành của riêng. Tham nhũng không dừng lại ở việc lợi dụng chức quyền để vun
quén cho bản thân mà còn cho cả dòng họ. Đúng như cha ông ta đã nói: “Một người
làm quan cả họ được nhờ”. Điều tệ hại của tham nhũng đó là lòng tham đã ăn sâu
vào xương tủy những người làm quan. Lòng tham khiến họ không còn chí công vô tư
khi thi hành chức vụ. Lòng tham khiến họ không thể sống thanh liêm chính trực.
Lòng tham dẫn họ đi sâu vào tội ác và dối trá. Nếu xã hội không còn những người
thanh liêm thì làm sao tránh khỏi ăn bẩn, ăn chận của người thấp cổ bé miệng và
đói nghèo. Nếu xã hội không còn những con người chí công vô tư thì làm sao có
công lý và tình thương trong xã hội hôm nay. Tất cả chỉ là dối trả và phỉnh lừa
lẫn nhau.
Lời Chúa hôm nay gợi lên một hình ảnh thật đẹp về những sứ giả
tin mừng. Họ là những người được tuyển chọn để cứu nhân độ thế. Họ dấn thân vào
đời để giải cứu thế gian khỏi ba thù hiểm độc. Thế gian có quá nhiều mưu mô và
xảo quyệt. Ma qủy có quá nhiều phương cách để cám dỗ. Họ cần phải ra đi với đôi
chân nhẹ nhàng và lòng thanh thoát. Họ không được mang bao bị, không mang bạc
tiền của nhân thế. Họ là những người chấp nhận cuộc sống nổi trôi “ba chìm bảy
nổi chín lênh đênh”. Sứ mệnh của họ là đẩy lùi sự dữ và thi thố tình thuơng. Họ
không thể bận tâm đến của cải thế gian. Họ không để lòng mình bị ràng buộc bởi
nhu cầu vật chất và tiện nghi. Nếu họ quá quan tâm đến mình sẽ bỏ quên đồng
loại. Nếu họ quá chú trọng đến vật chất sẽ dẫn đến lo hưởng thụ và tích góp cho
bản thân. Thiện chí sẽ mất. Hướng đi sẽ chệch đường lạc lối. Lý tưởng ban đầu
sẽ bị đảo ngược. Thay vì cứu đời sẽ chỉ còn lại sự lợi dụng địa vị chức quyền
để vun quén cho bản thân.
Người ta kể rằng: có một đệ tử muốn từ bỏ mọi
sự của thế gian để sống tu trì. Anh quyết định vào rừng vắng sống ẩn tu. Hành
trang duy nhất anh mang là chiếc áo ăn mày để khất thực sống qua ngày.
Ngày kia, anh đau đớn vô cùng khi thấy chiếc
áo phơi ở bờ sông đã bị chuột cắn nát tả tơi. Không còn cách nào khác, anh phải
vào trong làng xin một chiếc áo khác. Chiếc áo thứ hai này cũng bị cùng chung
số phận, nát tả tơi vì chuột cắn. Anh nghĩ rằng chỉ có nuôi mèo mới giữ được
chiếc áo. Anh quyết định nuôi mèo. Thế nhưng, khi có mèo anh lại phải lo kiếm
thêm phần ăn cho con mèo được nuôi để đuổi chuột.
Ngày ngày vác bị đi khất thực, anh cảm thấy
mình như một gánh nặng đối với dân làng. Nghĩ thế, anh cố gắng chắt chiu để
kiếm tiền nuôi một con bò để thêm phần thu nhập. Nhưng có bò lại phải kiếm cỏ
cho bò ăn. Chăn nuôi gia súc khiến anh không thể có thời giờ cầu nguyện, anh
lại phải thuê người cắt cỏ nuôi bò. Càng ngày bò càng sinh sản, người cắt cỏ
cũng phải gia tăng. Thời gian trôi qua, mảnh đất hoang sơ đã biến thành một
trang trại rộng lớn. Gia súc và người làm ngày càng thêm đông. Con người đã một
thời muốn từ bỏ mọi sự để trở thành một tu sĩ, nay nghiễm nhiên trở thành một
ông chủ trang trại.
Có tiền của và tài sản to lớn, anh lại muốn có
người chia sẻ công việc của mình. Anh cưới vợ và sinh con. Anh trở thành một
người chồng, người cha trong một gia đình hạnh phúc. Thế là lý tưởng ban đầu đã
hết. Anh đã đánh mất lý tưởng chỉ vì mải lo gìn giữ một “cái áo rách”.
Chuyện có vẻ hoang đường nhưng lại là thật. Ma quỷ thường cám dỗ
từng bước. Ma quỷ thường gợi lên những điều hay, điều tốt để dẵn dắt con người
đi theo chương trình của nó. Adam – Evà đã nhìn thấy trái táo thơm ngon mà quên
đi thân phận phải vâng lời Thiên Chúa. Khi tỉnh lại chỉ còn thất vọng và hổ
thẹn lương tâm. Người tu sĩ đã lạc bước khi quá bận tâm đến nhu cầu vật chất,
đến đồng tiền bát gạo, khiến tâm hồn anh không còn thời giờ để vun đắp, định hướng
cho hướng đi của mình. Cái thất bại của anh thật tẻ nhạt, chỉ vì mải lo gìn giữ
một “chiếc áo rách”.
Thực vậy, vì tiền bạc, mà người ta có thể đánh mất lý tưởng cuộc
đời. Vì tiền mà “nhân chi sơ tính bổn thiện” đã không còn. Vì tiền mà người ta
có thể chối bỏ niềm tin. Đó là nguy cơ mà bất cứ ai cũng có thể rơi vào.
Đó là bài học cho tất cả chúng ta. Đồng tiền thật cần thiết cho
cuộc sống nhưng không phải là cứu cánh cho cuộc đời. Đừng quá lệ thuộc vào của
cải vật chất. Nó chính là con dao hai lưỡi có thể làm hại cuộc đời chúng ta,
nếu không khôn ngoan, sáng suốt để nhận định đúng giá trị của nó. Chúng ta cần
can đảm để trong khi mưu tìm của cải vật chất, chúng ta có đủ nghị lực khước từ
mọi hành vi bất chính, mọi thoả hiệp với lừa đảo, gian trá của thế gian.
Con người luôn hướng về sự thiện. Con người luôn mong muốn cống
hiến cuộc đời mình cho tha nhân. Đó chính là mục đích mà Thiên Chúa tạo dựng
con người giống hình ảnh Chúa. Thế nhưng ma quỷ luôn vẽ lối chúng ta đi sai
đường Chúa. Ước gì lời Chúa hôm nay thức tỉnh chúng ta, hãy lo tìm kiếm những
điều đẹp ý Chúa hơn là thế gian. Hãy để tâm làm việc phụng sự Chúa hơn là làm
tôi cho tiền bạc và tiện nghi. Đừng để lòng mình lệ thuộc vào vật chất mà quên
đi gía trị tinh thần. Xin Chúa giúp chúng ta biết sống theo lời Chúa để được
phúc lành mai sau. Vì “Phúc cho ai có tinh thần nghèo khó, vì nước trời là
của họ”. Amen.
7. Sứ mạng loan báo Tin Mừng
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Thành Long)
Sau khoá huấn luyện “trung cấp” 2 năm về “kỹ năng” loan báo Tin
Mừng, hôm nay Chúa Giêsu đặc phái các môn sinh của mình lên đường thực tập sứ
vụ trước khi cấp “chứng chỉ tốt nghiệp ra trường” cho các ông. Ngay trước lúc
lên đường, Chúa Giêsu đã không quên ân cần dặn dò các môn sinh cách thức để
việc loan báo Tin Mừng mang lại hiệu quả như ý. Tựu trung lời dặn dò đó chứa
đựng 3 bí quyết, như là “kim chỉ nam” cho các nhà truyền giáo mọi thời mọi nơi.
1. Loan báo Tin Mừng - sứ mạng phải được thực
hiện trong chiều kích cộng đoàn
Cá nhân chủ nghĩa không có chổ đứng trong công cuộc loan báo Tin
Mừng. Bởi chưng, Chúa Giêsu không sai các môn đệ đi từng người một, lẻ loi, đơn
độc, để rồi các ông cứ mãi hát khúc hát “Cô đơn một cõi đi về”. Ngài sai họ đi
là sai từng hai người một, cùng với các Tông đồ khác tạo thành nhóm, thành cộng
đoàn. Qua đó, các ông được huấn luyện tinh thần làm việc chung, làm việc với
người khác. Tinh thần làm việc chung, việc nhóm mới có khả năng tạo nên sức
mạnh kỳ diệu (các giải thưởng Nobel trong những năm gần đây chứng minh điều
này. Hầu hết đó là những công trình của một tập thể, một nhóm). Hơn nữa, trên
phương diện chứng tá, chứng của hai người trở lên bao giờ cũng có giá trị hơn.
Giá trị còn là vì cộng đoàn tính nói lên tinh thần liên đới và hiệp nhất của
người Tông đồ. Cộng đoàn tính còn là lời chứng sống động về tình huynh đệ yêu
thương mà họ rao giảng. Bởi thế, ta không ngạc nhiên khi thấy các vị thừa sai
thường được phái đi từ 2 hoặc 3 người đến một giáo điểm hay một vùng miền nào
đó để làm việc Tông đồ truyền giáo.
Chính Chúa Giêsu khi được Chúa Cha sai đến trần gian, Ngài không
đi một mình, nhưng có Chúa Thánh thần cùng đồng hành và cùng hoạt động với
Ngài.
2. Loan báo Tin Mừng - sứ mạng cần được thực
hiện với tinh thần siêu thoát
Siêu thoát khỏi những dính bén với của cải vật chất, tiền bạc để
sẵn sàng lên đường, sẵn sàng đi đến bất cứ nơi đâu một cách nhanh nhẹn và vui
tươi. Siêu thoát với mọi thực tại đời này để toàn tâm, toàn ý cho sứ mạng được
giao phó. Thái độ siêu thoát cũng là dấu chứng nói cho người khác biết lòng tin
tưởng phó thác của người môn đệ vào sự quan phòng của Chúa. Chúa Quan Phòng
phải là người bạn đường của người loan báo Tin Mừng. Nếu gạt Chúa Quan Phòng
sang một bên, người tông đồ chỉ còn loay hoay vun vén, “đào hang”, “xây tổ” cho
riêng mình.
Chúa Giêsu đã nêu gương cho các môn đệ của Ngài về tinh thần
siêu thoát và tín thác. Khi đến trong trần gian, Ngài không mang theo gì ngoại
trừ tình yêu của Chúa Cha. Khi sống trong trần gian, cũng như khi đi rao giảng
Tin Mừng, Ngài hoàn toàn sống phó thác vào sự quan phòng của Chúa Cha. Chính
Ngài đã bộc bạch: “Chim có tổ, cáo có hang; còn Con Người không có chổ tựa đầu”
(Lc 9,58).
3. Loan báo Tin Mừng - sứ mạng phải được thực
hiện với năng quyền của chính Chúa
Lệnh truyền và sứ điệp loan báo Tin Mừng không đến từ con người,
nhưng đến từ Thiên Chúa. Do đó, để có thể chu toàn sứ mạng, cần đón nhận năng
quyền Thiên Chúa ban. Đó là năng quyền rao giảng: công bố Tin Mừng cứu độ của
Đức Kitô. Đó là năng quyền chữa lành và thánh hoá nhằm cải thiện đời sống và
phong hoá trần gian. Đó còn là năng quyền trừ quỷ hầu chế ngự và đẩy lui các
thế lực sự dữ.
Kinh nghiệm của các Tông đồ ngày hôm nay cũng cho thấy Thiên
Chúa luôn dẫn dắt chúng ta đi: “Ơn ta đã đủ cho ngươi”. Đức Tổng Giám mục
Vacchelli, Tổng Thư ký Hội đồng Giám mục Ý quốc, khi được Đức Thánh Cha bổ
nhiệm làm Trợ lý Tổng Trưởng của Thánh Bộ Rao giảng Tin Mừng cho các Dân tộc và
Chủ tịch Hiệp hội Giáo hoàng Truyền giáo, ngài cho hay: “Gia nhập vào Thánh Bộ
là chịu trách nhiệm trực tiếp với 1.100 giáo phận trên toàn cầu, 2.000 giám mục
và vô số các giáo sĩ, nam nữ tu sĩ. Và trên hết vấn đề chính không chỉ là nghèo
đói, nhưng là xây dựng một đời sống theo đường lối Kitô giáo. Vì thế, phạm vi
rộng hơn nhiều”.
Đối mặt với lượng công việc đồ sộ như vậy, ngài vẫn tràn trề hy
vọng nói: “Khi anh làm việc cho Thiên Chúa, Người luôn đi trước anh, thu xếp
tính hèn yếu của anh bằng ân huệ của Người”. Nếu ý thức được như thế, các vị
thừa sai của Chúa sẽ bớt sợ bớt lo khi thấy trách nhiệm năng nề, đồng thời sẽ
bớt tự mãn kiêu căng khi làm được việc này việc nọ.
Qua Bí tích Rửa Tội, đặc biệt là Bí tích Thêm Sức, người Kitô
hữu, cũng là người được sai đi. Được sai đi cùng với người khác, được sai đi
với tính thần siêu thoát và được sai đi với ơn sức của Chúa. Đối tượng mà chúng
ta cần nói cho biết về Chúa, không ở đâu xa mà ngay trong gia đình, gia tộc và
xứ đạo của mình. Họ là những người thân thích với ta, là bà con lối xóm của ta.
Họ là những người đồng hương với ta. Họ là những người cùng nghề cùng sở làm
với ta...
Thế nhưng câu hỏi đặt ra là khi thực hiện ơn gọi loan báo Tin
Mừng, tôi đã nêu cao tinh thần chung, tinh thần cộng tác với anh chị mình chưa
hay vẫn còn cá nhân chủ nghĩa? Tôi đã đề cao tinh thần siêu thoát chưa, hay còn
quá dính bén với những thực tại đời này, và quá chú trọng đến việc “xây tổ”, “đào
hang” cho mình? Và nhất là tôi đã hết lòng giương cao sức mạnh của Chúa chưa,
hay chỉ toàn cậy dựa vào tài cán và sức riêng mình?
8. Không bánh mì, cũng chẳng tiền túi
(Suy niệm của Lm. Nguyễn Ngọc Thế)
* Vài hàng sơ lược
- Sau khi bị người đồng hương Na-za-réth của mình chối từ (Mc 6,
1-6a), thay vì bực mình giận dữ, Giêsu vẫn thản nhiên và Ngài tiếp tục lên
đường đến các làng chung quanh để giảng dạy. Sau đó, Ngài sai các môn đệ ra đi
thi hành sứ mạng giảng dạy như Ngài.
- Đoạn này có thể chia như sau: (1) 6b-7: Chuyển tiếp (câu 6b)
và dẫn vào câu chuyện. (2) 8-9: Chỉ thị các môn đệ phải trang bị những gì khi
ra đi. (3) 10-11: Chỉ thị các môn đệ về phản ứng trước sự đón tiếp của người
khác. (4) 12-13: việc rao giảng và chữa bệnh của các môn đệ.
- Trong cái nhìn nhất lãm, thì Luca nêu đoạn 9, 1-6, tương hợp
với đoạn phúc âm của Mác-cô ở đây. Còn trong Mát-thêu thì cũng nêu lên trong Mt
10, 1-15. Theo Helmut Klein thì Luca đã lấy lại đoạn phúc âm này của Mác-cô.
Tuy nhiên, có một vài sự khác biệt: Luca không đề cập đến việc đi giày trong
chỉ thị sai đi của Giêsu. Ngoài ra, Luca nêu bật ý nghĩa và nội dung của việc
Giêsu sai đi, trong khi Mác-cô thì lại không. Ý nghĩa nằm trong câu: “Người sai
các ông đi rao giảng Nước Thiên Chúa” (Lc 9,2). So sánh với Mát-thêu thì có khá
nhiều sự khác biệt. Mát-thêu nêu tên 12 tông đồ (câu 2-4). Đích đến cũng được
Mát-thêu nêu rõ: “Tốt hơn là hãy đến với các con chiên lạc nhà Ít-ra-en” (câu
6). Ý nghĩa việc sai đi của Mát-thêu thì gần giống như Luca.
* Suy niệm
“Rồi Người đi các làng chung quanh mà giảng dạy.”
Các làng chung quanh ở đây là các làng nằm chung quanh
Na-za-réth. Trong mạch văn của Mác-cô, thì việc giảng dạy của Giêsu ở đây có ý
nghĩa hướng dẫn các môn đệ vào trong sứ mạng rao giảng sắp tới.
“Người gọi Nhóm Mười Hai lại và bắt đầu sai đi từng hai người
một. Người ban cho các ông quyền trừ quỷ.”
Nhóm Mười Hai mà Giêsu thành lập (ss. Mc 3,14) giờ đây được
Giêsu gọi lại và bắt đầu sai họ đi. Sứ mạng thực sự bắt đầu. Sau những ngày
được kêu gọi để ở lại với Giêsu (Mc 3, 14), để đi sâu vào tương quan với Giêsu,
để học biết tinh thần của Ngài, thì giờ đây có lẽ các môn đệ đã phần nào “chín
chắn”, nên Giêsu sai các ông lên đường. Ngài sai các ông đi từng hai người một.
Tại sao lại từng hai người một? Theo các nhà chú giải thì trước hết liên quan
đến việc làm chứng của người Do-thái. Chỉ có một người làm chứng sẽ không có
tác dụng gì cả, hay nói mạnh hơn là không phải là người làm chứng. Nếu chỉ có
một người làm chứng thì không thế dẫn tới quyết định trong tòa án, mà cần phải
có hai người hay ba người làm chứng: “Một nhân chứng duy nhất không thể đứng
lên buộc tội một người về bất cứ một tội một lỗi nào; về bất cứ lỗi nào người
ấy phạm, phải căn cứ vào lời của hai nhân chứng hay căn cứ vào lời của ba nhân
chứng, sự việc mới được cứu xét.” (Đnl 19,15)
Ngoài ra, trong Thánh Kinh còn có một số đoạn nhắc đến cặp “hai
người”, như trong cuộc tranh luận với người Pha-ri-sêu về bản thân của Người,
Giêsu đã nói: “Trong Lề Luật của các ông, có chép rằng lời chứng của hai người
là chứng thật. Tôi làm chứng cho chính mình, và Chúa Cha là Đấng đã sai tôi
cũng làm chứng cho tôi.” (Ga 8,17-18), hay ở Mt 18,19: “Thầy còn bảo thật anh
em: nếu ở dưới đất, hai người trong anh em hợp lời cầu xin bất cứ điều gì, thì
Cha Thầy, Đấng ngự trên trời, sẽ ban cho. Vì ở đâu có hai ba người họp lại nhân
danh Thầy, thì có Thầy ở đấy, giữa họ.”
Như vậy, việc làm chứng của “hai người” còn có ý
nghĩa là làm cho sự thật được sáng tỏ, sự thật về chính Đức Kitô, con Thiên
Chúa, đến trần gian để rao giảng tin mừng Nước Thiên Chúa cho mọi người. Sự
thật về tin mừng này sẽ được tỏ lộ một cách thật rõ ràng và chất lượng hơn, khi
có hai người cùng đi chung để rao giảng và loan báo.
Có lẽ đây là điều quan trọng trong sứ mạng rao giảng, nên ngay
từ đầu chúng ta đã thấy các cặp đi rao giảng chung, như trong Tông Đồ Công Vụ
đề cập đến: Phao-lô và Ba-na-bê, Phêrô và Gioan.
Và Giêsu đã ban cho họ quyền trừ quỷ. Điều này được Mác-cô nêu
bật trong Phúc Âm của mình (ss. Mc 1, 21-28), qua đó quyền năng của Giêsu được
“tô đậm”, quyền năng giải phóng con người khỏi thần dữ. Vâng, Mác-cô chủ ý nêu
bật điều này, vì độc giả của ông là những người kitô giáo trở lại ở Roma. Họ
cần nhận ra sự gần gũi của Thiên Chúa, ngay cả khi thần dữ đang chế ngự. Sự gần
gũi và quyền năng Thiên Chúa chính là bảo đảm cho sự tự do của những người con
cái Thiên Chúa.
Trở về với đoạn Phúc Âm, các môn đệ ra đi với quyền năng của
Giêsu để trừ quỷ.
Thực, trong trận chiến đấu với thần dữ, thì nếu không mang vũ
khí của Thiên Chúa ban cho, thì không thể nào chiến thắng được: “Sau cùng, anh
em hãy tìm sức mạnh trong Chúa và trong uy lực toàn năng của Người. Hãy mang
toàn bộ binh giáp vũ khí của Thiên Chúa, để có thể đứng vững trước những mưu
chước của ma quỷ. Vì chúng ta chiến đấu không phải với phàm nhân, nhưng là với
những quyền lực thần thiêng, với những bậc thống trị thế giới tối tăm này, với
những thần linh quái ác chốn trời cao. Bởi đó, anh em hãy nhận lấy toàn bộ binh
giáp vũ khí của Thiên Chúa; như thế, anh em có thể vận dụng toàn lực để đối phó
và đứng vững trong ngày đen tối.” (Ep 6, 10-13) Đây chính là vũ khí thiêng
liêng các môn đệ cần đến.
Với sự sai đi và với quyền năng trừ quỷ của Giêsu ban cho, các
môn đệ và giáo hội nhận được một sứ mạng mới, sứ mạng loan báo Tin Mừng nước
Thiên Chúa, và sứ mạng trừ khử thần dữ trong thế giới.
“Người chỉ thị cho các ông không được mang gì đi đường, chỉ trừ
cây gậy; không được mang lương thực, bao bị, tiền đồng để giắt lưng; được đi
dép, nhưng không được mặc hai áo.”
Lời nhắn nhủ của Giêsu ở trên được coi như là chỉ thị, tiếng
Hy-lạp là paragge,llw (paraggellò). Theo từ điển chú giải Tân Ước của
Horst Balz và Gerhard Schneider xuất bản (Exegetisches Woerterbuch zum Neuen
Testament), thì động từ này xuất hiện 31 lần trong Tân Ước. Trong các sách Phúc
Âm, chỉ có Giêsu là người ra lệnh cho thần ô uế (Lc 8,29), và chỉ thị cho nhóm
12 (Mc 6,8).... Ở đây, trong đoạn phúc âm của Mác-cô, theo R. Pesch, với chỉ
thị này Giêsu muốn đặt nền tảng cho nguyên tắc sai đi của Ngài. Nguyên tắc đó
là gì vậy?
“Không được mang gì đi đường”,
nghĩa là phải từ bỏ của cải và không còn có nhu cầu gì cả. Đó là nguyên tắc rất
triệt để. Như vậy, trong bối cảnh xã hội thời đó, thì người môn đệ của Giêsu
còn phải triệt để hơn cả những nhà triết gia Kyniker, những nhà thuyết giảng
khắc khổ đi khắp mọi nơi. Và khi các triết gia Kyniker đi, thì họ không có nhu
cầu gì cả, nhưng họ có đem theo gậy, túi xin tiền và chiếc áo mantel giành cho
nhà triết gia. Còn các môn đệ của Giêsu thì có gậy đấy, nhưng không có túi xin
tiền hay ba lô hay túi ngủ gì cả, và cũng chẳng có tiền buộc bụng, đến cả của
ăn đàng cũng không có nữa. Dù vậy, có áo, nhưng chỉ là một thôi chứ không phải
là hai hay là ba.
Nhưng tại sao lại phải từ bỏ những vật dụng đó?
Không mang lương thực đi đường, không bánh trái gì cả. Điều này
còn vượt trội hơn các triết gia khắc khổ Kyniker thời đó, vì khi họ ra đi thì
họ đem theo bánh, trái vải và bình nước. Như vậy, người loan báo tin mừng của
Đức Kitô sẽ hoàn toàn tín thác vào Thiên Chúa, và cũng tự do và khiêm nhường
đón nhận tất cả những gì anh chị em ban cho mình. Ai cho ăn gì thì ăn nấy. Ai
cho ly nước thì uống nước, ai mời tách trà thì sẵn sàng ngồi lại nhâm nhi. Thật
đơn sơ và giản dị.
Giản dị hơn nữa, khi chẳng đem theo bao bị, chẳng có ba lô trên
vai. Rũ bỏ tất cả. Tự do hoàn toàn. Không vương vấn điều gì, không giữ lại sự
gì cả. Như vậy, thì không chỉ chân rảnh, mà tay cũng rảnh, người cũng nhẹ và
đầu óc cũng trở nên trống rỗng hoàn toàn, để tất cả cho Tin Mừng mà thôi.
Tất cả vì Tin Mừng nên tiền bạc cũng chẳng màng tới. Và nhờ vậy
mà tránh được biết bao nhiêu phiền toái tiền bạc có thể gây ra. Không tham lam,
không thu gom, không cất giữ, đỡ phải mệt mỏi ôm đống tiền trong lòng, đỡ phải
phí phạm chẳng đáng gì. Hơn nữa, trong xã hội Đông Phương thời đó, thì khi
không mang tiền bạc trên mình, sẽ tránh được sự trấn lột của kẻ cướp qua đường.
Thật là tuyệt, nếu tự do hoàn toàn với tiền bạc, tự do với thế
lực của đồng tiền mà người đời thường nói: “Có tiền mua tiên cũng được.”
Vật được mang theo là gậy và dép, còn áo thì chỉ một cái thôi
nhé!
Tại sao vậy? Cây gậy ở đây là vật dụng cần thiết cho người lữ
hành, cho người giảng thuyết phải đi khắp mọi chốn để loan báo tin vui. Với cây
gậy trên tay chứ không vũ khí nào khác, người giảng thuyết xuất hiện rất đơn sơ
và giản dị trước mọi người. Không ai phải sợ sệt người giảng thuyết cả, và
người rao giảng Tin Mừng cũng không cần phải hãi sợ ai hết: “Vậy anh em đừng sợ
người ta. Thật ra, không có gì che giấu mà sẽ không được tỏ lộ, không có gì bí
mật, mà người ta sẽ không biết. Điều Thầy nói với anh em lúc đêm hôm, thì hãy
nói ra giữa ban ngày; và điều anh em nghe rỉ tai, thì hãy lên mái nhà rao
giảng. “Anh em đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn” (Mt
10, 26-28a) Và người rao giảng sẽ “không phải chết, nhưng sẽ sống, để loan báo
những công việc CHÚA làm.” (Tv 118,17)
Dép được nhắc ở đây chính là Sandalion, tiếng Hy-lạp là sanda,lion,
có thể mường tượng như giày Sandal có quai như hiện giờ, là một vật dụng
cần thiết cho người rảo bước khắp mọi nơi loan báo Tin Mừng. Sandal được
sử dụng rất thường trong xã hội Do-thái thời đó, và rất cần thiết cho những
chặng đường dài, từ miền đất này qua miền đất khác. Cũng nên nhớ rằng, ở
Ít-ra-en có những miền đất sa mạc rất khô cằn và nóng, vì thế Sandal
thực là cần thiết. Còn khi đi chân không, thì đó là dấu hiệu của sự tang tóc và
chay tịnh. Vâng, người rao giảng tin vui đâu có ăn chay, đâu có mang tang tóc,
vì thế cần phải đi Sandal vào, và như vậy thì mới khỏe khoắn nhanh nhẹn rảo
bước, sẵn sàng lên đường đi bất cứ nơi đâu, đến với bất cứ ai đang cần đến Tin
Mừng.
Ngoài Sandal và gậy ra, người loan bao tin vui được phép mang
theo áo, nhưng chỉ một mà thôi. “Áo” ở đây dịch từ ngữ Hy-lạp citw,n (chitòn).
Theo từ điển chú giải Tân Ước của Horst Balz và Gerhard Schneider, thì áo này
là một loại áo dài bằng vải thô hay len, dài có thể tới đầu gối che thân mình
trên và thân mình dưới, có cả hai loại tay ngắn và tay dài.
Ngoài ra, theo Adolf Pohl, trong xã hội Đông Phương thời đó,
quần áo là dấu hiệu nói về sự giàu sang phú quý. Người giàu sang là người có nhiều
quần áo, trong khi người nghèo khổ chỉ có mỗi một chiếc áo che thân. Để khoe
khoang và muốn mọi người tiếp đón mình đàng hoàng, người giàu có thường thay
đổi áo và mang trên mình nhiều áo khác nhau. Nhưng cũng vì sự khoe khoang này,
mà họ trở thành nạn nhân của kẻ cướp đường.
Người loan báo tin mừng của Giêsu không cần phải khoe khoang,
không cần phải sửa soạn nhiều, không cần phải mang áo có hiệu vào mình. Vâng,
khi mọi người chẳng sợ hãi gì trước người loan báo tin mừng, thì cũng thế,
không ai phải ganh tị với người loan báo tin mừng về áo quần cả.
Như vậy, tinh thần của người loan báo tin mừng là trở nên tự do
hoàn toàn với mọi thứ. Mọi thứ đều trở thành thứ yếu. Chỉ có Tin Mừng, Nước
Thiên Chúa và ơn cứu rỗi cho mọi người là tất cả. Không có gì hơn cả. Cả quần
áo, cả tiền bạc, cả lương thực, cả balô. Vâng, nói theo tinh thần của thánh
I-nhã, thì người môn đệ của Chúa cần phải trở nên bình tâm và tự do hoàn toàn,
để luôn sống theo thánh ý Chúa, và luôn ao ước được trở nên nghèo khó như Đức
Kitô, Vị Giảng Thuyết đơn sơ nghèo hèn, nhưng đem lại biết bao nhiêu ơn lành
cho mọi người.
“Người bảo các ông: “Bất cứ ở đâu, khi anh em đã vào nhà nào,
thì cứ ở lại đó cho đến lúc ra đi.”
Sau các chỉ thị về việc từ bỏ tất cả những gì không cần thiết để
lên đường, Giêsu căn dặc các môn đệ thêm hai nguyên tắc, khi đi đến với những
người mà họ rao giảng. Điều thứ nhất liên quan đến lòng hiếu khách và đón tiếp.
Trong tục lệ Do-thái, sự hiếu khách đóng một vai trò quan trọng. Sự hiếu khách
hứa hẹn sự chúc phúc, và còn là sự tha thứ cho người lầm lỡ. Ngay cả đối với kẻ
thù, thì cũng khó lòng mà từ chối không đón tiếp. Về phía khách, ở đây là những
người rao giảng tin vui, thì không được phép thay đổi chỗ ở tùy ý. Trong ý
nghĩa mà Mác-cô diễn tả ở đây, có thể việc rao giảng và xây dựng một cộng đoàn
đòi hỏi nhiều thời gian, nên không không được thay đổi chỗ ở liên hồi. Trong
khi Tin Mừng chưa “đâm rễ” vào lòng người, vào cộng đoàn, thì cần phải ở lại.
“Còn nơi nào người ta không đón tiếp và nghe lời anh em, thì khi
ra khỏi đó, hãy giũ bụi chân để tỏ ý phản đối họ.”
Nguyên tắc thứ hai ở đây liên quan đến sự từ chối, không đón
tiếp, không lắng nghe của chủ nhà. Khi chối từ người rao giảng và sứ điệp anh
ta đưa lại, là chối từ chính Đấng sai anh ta. Sự chối từ đem lại hậu quả. Như
trong phản ứng của Giêsu với những người Na-za-réth, Giêsu nói với các môn đệ
mình hãy đi ra khỏi đó, và giũ bụi chân để tỏ ý phản đối họ. Thái độ giũ bụi
này trong xã hội Do-thái thời đó, được người Do-thái làm, mỗi lần họ từ đất dân
ngoại trở về lại biên giới của đất thánh. Theo truyền thống của các Rabbi, thì
bụi đó có thể sẽ làm ô uế. Vì vậy, họ muốn tẩy rửa và giũ lại tất cả những gì
dơ bẩn.
Theo các nhà chú giải, thì trong đoạn phúc âm này, thái độ giũ
bụi chân là biểu tượng của chứng từ mà người rao giảng tin mừng để lại, và hy
vọng có ngày người chối từ Tin Mừng sẽ suy nghĩ lại, tự chất vấn lại thái độ
của mình đối với Tin Mừng và đối với Đấng là chủ của Tin Mừng.
“Các ông đi rao giảng, kêu gọi người ta ăn năn sám hối. Các ông
trừ được nhiều quỷ, xức dầu cho nhiều người đau ốm và chữa họ khỏi bệnh.”
Nhóm Mười Hai ra đi theo lời sai đi của Giêsu, và họ đã làm được
nhiều điều tốt lành. Cụ thể họ đã ra đi rao giảng, kêu gọi người ta ăn năn sám
hối. Không chỉ thế, với quyền trừ quỷ mà Giêu đã trao, họ đã trừ được nhiều
quỷ. Mác-cô lại làm nổi bật điều này, để qua đó nói lên quyền năng của Thiên
Chúa trên thần dữ. Quyền năng giải thoát con người khỏi bóng đêm. Thêm vào đó
họ đã xức dầu cho nhiều người đau ốm và chữa họ khỏi bệnh.
Như vậy, khi ra đi theo lời kêu gọi của Đức Kitô, và sống đúng
theo chỉ thị và tinh thần của Ngài, các môn đệ đã cùng với Đức Kitô đem lại Tin
Mừng cho rất nhiều người, và qua đó họ nhận được sự tự do làm con cái Thiên
Chúa, sự tự do với bình an và niềm vui sống mà mọi người có thể tìm thấy trong
Nước Trời.
9. Những lời căn dặn cho việc thi hành sứ vụ.
(Suy niệm của Camille Gagnon)
Hôm nay, xin anh chị em cho phép tôi giảng một bài hơi nhẹ nhàng
một chút, một bài giảng cho kỳ nghỉ hè. Tôi muốn nói về gia đình Tremblay tuần
rồi đã đi cắm trại lần đầu tiên ra sao.
Điều khiến tôi nói về gia đình này, là Tin Mừng bảo rằng “Lần
đầu tiên” Chúa Giêsu sai các môn đệ, từng hai người một, đi rao giảng, và để
giúp họ, Ngài dặn dò họ ngay trước lúc lên đường. Tôi không biết các môn đệ có
hiểu rõ và nghe theo những lời dặn dò này không, nhưng tôi biết rằng gia đình
Tremblay đã không hiểu và không tuân theo, và họ là làm hỏng kinh nghiệm cắm
trại của mình. Và khi nói về kinh nghiệm cắm trại của gia đình Tremblay, tôi sẽ
nói một chút về các bạn và tôi.
“Đừng mang theo hành lý cồng kềnh”.
Lời căn dặn đầu tiên của Chúa Giêsu thật rõ ràng: “Đừng mang
theo hành lý cồng kềnh”. Vì ông Tremblay không biết điều gì sẽ xảy ra nên ông
đã chuẩn bị mọi sự: Hai túi ngủ cho mỗi người, những cây cọc để cắm lều, những
chiếc ấm lớn nhỏ, thùng dụng cụ, v.v… Đối với ông Tremblay thà chen chúc nhau
trong lều còn hơn là thiếu bất cứ món gì. Cuối cùng ông hầu như đã dọn hết đồ
đạc trong nhà đi và đã phải bận rộn chuẩn bị đồ đạc cả tuần.
Một người quen cắm trại, sẽ khôn ngoan hơn. Ít nhất họ biết phải
tránh mang theo những hành lý vô ích. Họ đã hiểu ý nghĩa thật của lời Chúa
Giêsu căn dặn. Khi nhìn ông Tremblay họ thấy được yếu điểm của ông. Trước một
công việc đòi hỏi phải dẹp đi mọi nhu cầu không cần thiết ông lại sợ phải bỏ đi
những thói quen và những bảo đảm cho cuộc sống của mình. Thật ra ông Tremblay
nghi ngờ rằng việc cắm trại sẽ không lấp đầy được cả một tuần lễ nghỉ ngơi, và
ông nghĩ sẽ buồn chán khi thiếu tiện nghi. Thế là, bị kẹt trong đống đồ đạc
lỉnh kỉnh của mình, ông không còn thảnh thơi để có được những ngày nghỉ ngơi
thực sự nữa.
“Đừng đi lăng xăng khắp nơi!”.
Lời căn dặn thứ hai là đừng đi lăng xăng khắp nơi. Nhưng cả ở
điểm này nữa, bà Tremblay đã không thành công. Tuy nhiên, bà đã có ý tốt. Đối
với bà, trong tuần cắm trại đó sẽ có dịp gặp gỡ nhiều người và bà cũng nghe nói
rằng khi đi cắm trại người ta rất tử tế và dễ làm quen. Vậy nên bà không ngồi
đấy mà chờ đợi: Bà vội vã đi bước trước, mỗi ngày bà đi thăm hết mọi người,
những chẳng tiếp xúc với ai lâu. Cuối tuần, bà đã “quen biết” nhiều người,
nhưng lại có ít bạn bè. Tuy nhiên, Chúa Giêsu đã nói: “Khi các con được đón
tiếp vào nhà nào thì ở lại đó cho đến lúc ra đi!”. Điều này có vẻ ngộ nghĩnh.
Hiển nhiên là phải ở nơi nào đó trước khi ra đi. Nhưng, suy nghĩ một chút, ta
thấy rằng ta có thể ở nơi nào đó mà không hiện diện, không bao giờ ở với ai cả.
Điều này cũng có nghĩa là chỉ có một cách để tạo nên những mối liên hệ thực sự
với kẻ khác: Đó là dừng lại, đừng bỏ đi ngay khi vừa gặp sự khó chịu nào đó và
đừng sợ làm quen. Chúa Giêsu bảo: Với thái độ ấy làm sao các con có thể loan
báo Thầy. Nói về Thầy thế nào nếu không tạo được những cuộc gặp gỡ thực sự? Nếu
các con chỉ chạy vội hết nơi này đến nơi khác?
Cuối cùng đừng luyến tiếc gì cả.
Bọn trẻ nhà Tremblay trở về rất thất vọng. Chúng cứ tưởng sẽ gặp
được nhiều bạn trẻ cùng lứa tuổi với chúng; dụng cụ thể thao cũ rích; huấn
luyện viên về bơi lội bị ốm hai ngày, hai ngày đẹp trời nhất, v.v… Chúng đã
mong một cái gì mới mẻ, nhưng bây giờ chúng chán cắm trại lắm rồi. Từ nay chúng
đã biết cắm trại chẳng thích thú gì cả. Từ lúc về nhà chúng cứ luyến tiếc mãi
những ngày đi chơi thất bại.
Điều Chúa Giêsu căn dặn cuối cùng là: “Nghe đây! Nếu các con đã
thất bại ở nơi nào đó, thì hãy bỏ đi và để lại tất cả đàng sau mình, nhất là
đừng luyến tiếc gì cả. Vì chúng sẽ chỉ ngăn cản các con bắt đầu lại công việc
cách tốt hơn mà thôi”.
Tóm lại sứ vụ của các môn đệ, cuộc đời của chúng ta, và cuộc cắm
trại của gia đình Tremblay lại chẳng cần những lời căn dặn này sao: “Hãy siêu
thoát đối với bản thân; hãy dừng lại để thiết lập những mối liên hệ thực sự; và
hãy quên đi những luyến tiếc để bắt đầu lại cách tốt hơn”.
10. Thiên Chúa nói qua trung gian
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)
Thiên Chúa luôn làm việc. Ngài trực tiếp tác động nơi tâm hồn
mỗi người, và Ngài cũng sai một số người đặc biệt để nói với con người của mọi
thời đại. Mỗi một người rao giảng đều phải là người đã biết lắng nghe và vâng
nghe Lời Chúa trong đời sống.
I. Amos đã được sai để nói nhân danh Thiên Chúa cho dân Ngài
Con người là tạo vật được yêu thương. Thiên Chúa luôn quan tâm
đến con người, Ngài mong ước con người sống hạnh phúc đời này lẫn đời sau. Khi
cần can thiệp để hướng dẫn dân một cách đặc biệt, Thiên Chúa dùng các tôi tớ
Ngài, cụ thể là các tiên tri. Sách tiên tri Amos cho thấy tiên tri Amos không
phải là tiên tri “chuyên nghiệp”, nghĩa là, Ngài không thuộc nhóm tiên tri,
hoặc con cháu tiên tri. Ngài là một người chăn cừu, người đi hái trái sung,
nhưng đã được Thiên Chúa gọi đi nói tiên tri, đi làm ngôn sứ.
Tiên tri Amos đã được Chúa sai tới nói với dân ở phía bắc, tại
đền thờ ở Bethel, nên đã bị tư tế Amaziah đuổi: “hãy cút đi, hỡi nhà thị kiến,
hãy trở lại đất Juđa mà nói tiên tri, mà kiếm cơm ở đó”. Amos không là người
kiếm cơm bằng nghề tiên tri, thầy chiêm, bói toán. Amos được Thiên Chúa gọi để
làm ngôn sứ, nói với dân nhân danh Thiên Chúa. Amos đã đáp trả lời mời gọi của
Thiên Chúa, ông đã tới miền bắc để nói tiên tri, để loan báo những gì sắp xảy
ra cho dân, để cho dân biết rằng Thiên Chúa vẫn yêu thương dân; những tai họa
sắp xảy tới là do nhà vua và dân chúng phía bắc đã không tuân giữ giao ước của
Thiên Chúa. Nếu vua chúa và dân không nghe, không đổi đời, thì sẽ có tai họa
xảy tới, sẽ bị mất nước. Khi rao giảng như vậy, dĩ nhiên vua chúa và đa số dân
chúng thuộc vương quốc phía bắc không đồng ý. Người ta muốn nghe điều tốt lành,
chứ không ai muốn nghe nói tai họa sẽ xảy ra. Tư tế Amaziah của đền thờ tại
Bethel đã trục xuất tiên tri Amos và không cho ông rao giảng nữa.
Tiên tri, là người của Thiên Chúa. Amos đã vâng nghe Chúa, đáp
trả lời mời gọi của Ngài. Ông đã bỏ nghề, đã đi tới vùng đất xa lạ và thậm chí
nói cả điều mà chính ông cũng biết sẽ không được người ta chấp nhận. Những nhà
tiên tri “chuyên nghiệp”, kiếm cơm bằng nghề bói toán (thầy chiêm, tiên tri) sẽ
không dám nói mất lòng dân chúng vì như vậy đâu có kiếm cơm được. Nhiều tiên
tri “thật” trong lịch sử đã phải khốn khổ vì đã nói lên sự thật, đã làm điều mà
nhiều người cho là ngu dại. Một tiên tri đúng nghĩa, là người của Thiên Chúa,
vâng theo Chúa bất chấp những gì xảy tới cho mình.
II. Đừng mang theo gì cả trừ cây gậy
Sau khi nhận phép rửa tại sông Yordan với Yoan Tẩy Giả, Đức
Giêsu đã ăn chay cầu nguyện bốn mươi đêm ngày trong hoang địa, đã rong ruổi rao
giảng khắp đất nước Do Thái. Khi đi rao giảng, Đức Giêsu không có gì ngoài
chính con người của Ngài. Ngài không sợ đói, không sợ vất vả, không sợ phải màn
trời chiếu đất (Mt.21, 18; Lc.21, 37). Đức Giêsu chấp nhận tất cả, Ngài chỉ có
sứ mạng phải nói với dân chúng, và chính Ngài đang là Lời cho dân chúng qua
cách sống và cách ứng xử của Ngài.
Đức Giêsu cũng sai các tông đồ đi rao giảng. Có lẽ Ngài đang
huấn luyện các tông đồ cho sứ vụ tương lai. Ngài ban cho các ông quyền trên
thần ô uế, sai các ông đi từng đôi một, dạy các tông đồ đừng mang gì cả ngoại
trừ cây gậy. Hành trang của một người tông đồ rất đơn giản: không trang bị
lương thực, không bao bị rương hòm, không hai áo! Chả có gì phải bận tâm ngoại
trừ chính sứ điệp phải rao giảng.
Người tông đồ của Chúa không chọn ở chỗ này chỗ kia vì được tiện
nghi hay kính trọng, nhưng cố gắng diễn tả tính thành tín của Thiên Chúa bằng
việc ở tại nhà nào thì ở lại đó cho tới khi ra đi. Nếu người ta không nghe, thì
hãy ra đi và không mang theo gì cả, kể cả bụi chân, cũng không ra đi với lòng
hận thù hay nguyền rủa. Người của Thiên Chúa mang bình an tới, nhưng nếu người
ta không đón nhận, nghĩa là họ không đủ điều kiện để sống bình an, thì người
tông đồ của Chúa cũng chấp nhận họ như Thiên Chúa đã chấp nhận họ.
III. Người được sai cũng là quà tặng của Thiên Chúa cho con
người
Thiên Chúa tạo dựng con người qua Lời của Ngài. Thiên Chúa ban
cho con người tự do. Qua lương tâm, Thiên Chúa mời gọi con người sống vươn lên
từng ngày, từng giây phút sống trọn vẹn trong yêu thương, để thành con cái yêu
quý của Thiên Chúa. Để thực hiện chương trình yêu thương con người, Thiên Chúa
đã sai Lời Ngài đến ở giữa con người, thành một người rất cụ thể là Đức Giêsu
Kitô. Đức Giêsu đã sống trọn vẹn thân phận con người, Ngài cũng phải chọn lựa
từng ngày, từng hành vi để thuộc về Thiên Chúa hoàn toàn. Đức Giêsu không là
một người giầu có về vật chất tiền bạc, Ngài không là một người có địa vị chức
quyền, Ngài trắng tay như bao người nghèo khác. Ngài chỉ có Thiên Chúa là Cha,
và sống trọn vẹn cho Thiên Chúa mỗi ngày.
Thiên Chúa muốn ban tất cả cho con người, không chỉ là sự hiện
hữu của mỗi người; nhưng Ngài còn muốn ban cho con người tất cả trong Đức Giêsu
Kitô. Đức Giêsu là mẫu gương, để mỗi con người nhìn vào và dõi theo, để sống
yêu thương và hạnh phúc từng ngày. Đức Giêsu là quà tặng vô cùng quý mà Thiên
Chúa đã trao ban cho con người. Qua Đức Giêsu, con người nhận ra Thiên Chúa yêu
thương con người biết bao, Thiên Chúa sẵn sàng cho con người tất cả trong Đức
Giêsu Kitô. Đức Giêsu là tất cả, diễn tả tất cả những gì Thiên Chúa muốn cho
con người.
Đức Giêsu Kitô là điều gì vô cùng mới, theo thánh Phaolô, được
dấu kín từ muốn thuở nay được tỏ lộ. Đức Giêsu Kitô là mặc khải tuyệt vời của
Thiên Chúa. Với Đức Giêsu Kitô, người ta hiểu hơn Thiên Chúa là ai, là Đấng yêu
thương con người đến độ nào, là Đấng có nhiều sáng kiến tuyệt vời như thế nào
để yêu thương con người. Đức Giêsu đúng là Lời của Thiên Chúa, là mặc khải của
Thiên Chúa cho con người, là bảo chứng tình yêu của Thiên Chúa đối với con
người. Đức Giêsu là bình an của con người, hiểu theo nghĩa, qua Đức Giêsu con
người biết Thiên Chúa yêu thương mình vô cùng, đến độ mình có thể phó thác tất
cả cho Thiên Chúa và sống bình an.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Bạn có nghĩ rằng bạn là người được Thiên Chúa sai để làm điều
gì chăng? Nếu có xin chia sẻ.
2. Theo bạn, Đức Giêsu được sai tới để làm gì? Ngài có làm trọn
sứ mạng của Ngài không?
11. Lời dặn dò cần thiết – Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Chúa Giêsu lập Nhóm Mười Hai. Ngài cho các ông sống bên cạnh
mình. Ngài trực tiếp huấn luyện, bằng cách cho các môn đệ được nghe những lời
Ngài giảng, được xem những việc Ngài làm. Sau đó, Ngài sai các môn đệ ra đi
thực tập truyền giáo. Hai động từ “gọi, sai đi” diễn tả rõ rệt ơn gọi của các
Tông đồ. Trước khi các học trò lên đường, Chúa Giêsu căn dặn nhiều điều như là
hành trang cần thiết cho sứ vụ tông đồ. M. Quesnel ví những lời đó như “một
loại thủ bản, một cẩm nang cho một nhà truyền giáo hoàn hảo” (“Comment lire un
évangile?”, Seuil, trang 103).
1. Hành trang người tông đồ
a. Hành trang đi đường: cây gậy, đôi dép, không mang hai áo. Ý
nghĩa ở đây là những kẻ được sai đi phải là những con người thanh thoát, không
cồng kềnh nặng nề với của cải vật chất để có thể luôn sẵn sàng lên đường ra đi
cho sứ vụ.
Các môn đệ được tham dự vào ba chức năng tư tế, tiên tri và
vương đế của Chúa Giêsu. Cây gậy của vương đế, đôi dép của tiên tri, và tấm áo
của tư tế.
- Cây gậy
Cây gậy trong tay biểu trưng cho sức mạnh của Thiên Chúa thông
ban cho người thi hành sứ vụ loan báo Tin Mừng. Ra đi với niềm tin vào năng
quyền của Thiên Chúa trao ban: công bố Tin mừng cứu độ của Đức Kitô, chữa lành
và thánh hoá nhằm cải thiện đời sống, xua trừ ma quỷ hầu chế ngự và đẩy lui các
thế lực sự dữ.
- Đôi dép
Đôi dép là hình ảnh luôn lên đường. Truyền giáo là ra đi. Đi để
mang sứ điệp Tin mừng đến với muôn dân. Sứ vụ sai đi khởi phát từ Chúa Cha “Như
Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em”.
- Tấm áo
Người ra đi mang áo là mặc lấy tâm tình Chúa Giêsu. Nhờ đó, các
môn đệ làm cho cuộc đời mình trở nên của lễ hiến dâng hợp với hiến lễ Chúa
Kitô.
Chúa Giêsu trao cho các ông những quyền năng Ngài có: quyền rao
giảng, quyền chữa bệnh, quyền trừ quỷ. Đó là hành trang quan trọng hàng đầu.
Mọi hành trang khác chỉ là phụ thuộc: một chiếc áo đang mặc, một cây gậy và đôi
dép khi đi đường.Với những hành trang như thế, Chúa Giêsu muốn tỏ cho thấy sự
thành công trong hoạt động tông đồ không do tài lực của con người nhưng là do
quyền năng Thiên Chúa.
b. Phương tiện sinh sống: không được mang lương thực, bao bị,
tiền bạc. Hành trình như vậy đặt các người được sai đi trong tư thế tuỳ thuộc.
Không vướng víu, không “mọc rễ” bất cứ đâu để nhẹ nhàng ra đi nơi đâu Chúa
muốn.
c. Tương lai bấp bênh. Chúa Giêsu cũng không giấu diếm họ điều
gì. Con đường truyền giáo là con đường đầy chông gai, lắm gian khó. Cũng như
Ngài, họ đón nhận sự rủi ro bị từ chối, bị xua đuổi. Cần phải hy sinh bản thân.
Đó là thân phận kẻ được gọi, được sai đi. Ra đi mà không gì bảo đảm, ra đi mà
không mảy may dính bén. Sẵn sàng đến mà cũng sẵn sàng đi. Thành công cũng không
thụ hưởng mà thất bại cũng chẳng đắng cay. Bởi lẽ như lời Thánh phaolô nòi: Tôi
trồng, Apollô tưới, Chúa cho mọc lên.
Người truyền giáo luôn bị cám dỗ định cư, tìm an toàn bảo đảm
bản thân, an nghĩ trong những thành công tạm bợ...và không muốn ra đi. Càng gắn
bó, lúc cách xa càng luyến nhớ. Sâu đậm bao nhiêu, lúc giã biệt sẽ nuối tiếc
bấy nhiêu. Vì vậy, Chúa muốn các môn đệ luôn sẵn sàng ra đi. Lên đường bao giờ
cũng đẹp. Hạnh phúc chỉ dành cho ai dám lên đường tìm kiếm.
2. Phương thức hoạt động:”từng hai người một”
Khi sai đi “từng hai người một “, Chúa Giêsu mong các ông hợp
tác và liên đới với nhau, khích lệ và bàn hỏi nhau khi gặp khó khăn “Hai người
có giá trị hơn một, nếu họ ngã, người này đỡ người kia dậy” (Gv 4,9). Hai người
làm việc chung, nâng đỡ nhau biểu lộ tình yêu thương nhau như một dấu chỉ đặc
trưng của môn đệ của Chúa (x. Ga 13,35). Dấu chỉ này là một chứng từ sống động
và lôi cuốn người khác.
Trong Công vụ Tông đồ, các nhà truyền giáo thường lên đường với
nhau “từng hai người một”: Phêrô đi với Gioan (Cv 3,1; 4,13); Phaolô với Banabê
(Cv 1 3,2); Giuđa và Sila (Cv 15,22)... Hoạt động tông đồ luôn là tạo thành
nhóm. Nếp sống huynh đệ là một bài giảng về tình yêu. Chứng tá Kitô hữu phải
nhắm đến một hình thức cộng đoàn trong Giáo Hội. Cuộc sống yêu thương trong
cộng đoàn vừa là dấu hiệu của người môn đệ Chúa Giêsu, vừa là lời rao giảng
sống động, hùng hồn nhất về Tin Mừng.
3. Tinh thần tông đồ là ra đi
Trao “Sứ vụ” cho các môn đệ, Chúa Giêsu không bảo các ông “phải
giảng điều gì”. Ngài chỉ căn dặn các ông những chi tiết “phải sống”. Đối với
Chúa Giêsu, ra đi làm chứng tá bằng cuộc sống quan trọng hơn chứng tá bằng lời
nói.
Suốt mấy năm ra mặt với đời để thi hành sứ vụ, Chúa Giêsu không
ngừng đi rày đây mai đó. Ngài luôn ngang dọc trên mọi nẻo đường đất nước để
truyền giáo. Từ hội đường này đến hội đường khác (Mt 4,23). Đôi khi ở ngoài
trời, ở ngoài đường. Trên một sườn núi cũng có (Mt 5,1), bên một bờ hồ hiu
quạnh cũng có (Mc 6,30-34). Có khi “mệt mỏi vì đường sá”, một mình ngồi trên
thành giếng nói chuyện với người phụ nữ đến kín nước (Ga 4,6). Có lúc vì dân
chúng chen lấn xung quanh đông đảo quá thì “Ngài mới lên một chiếc thuyền,
thuyền của Simon và xin ông ấy chèo ra xa bờ một tí. Ngài ngồi xuống rồi từ
ngoài thuyền nói vào mà giảng dạy dân chúng” (Lc 5,3). Chúa Giêsu thực hiện một
cuộc hành trình liên miên. Theo ngôn ngữ của Phúc âm Marcô chương 1: Ngài bỏ
Nazareth để đến gặp Gioan bên sông Giođan, rồi đến Galilê, dọc theo bờ biển
Galilê, và Ngài đi rao giảng trong các hội đường khắp xứ Galilê. Trong chương
2: ít lâu sau, Ngài lại về Capharnaum... Ngài ngang qua đồng lúa ... Cứ đi và
đi như vậy mãi.
Chính giữa khung cảnh đường dài trời rộng thênh thang ấy mà lời
giảng dạy của Chúa bao giờ cũng khởi hứng từ một hoàn cảnh cuộc sống. Các hình
ảnh cuộc sống đời thường gần gũi tràn ngập trong lời rao giảng. Cánh huệ mọc
ngoài đồng. Đàn chim sẻ đang bay. Một đám ruộng lúa chín vàng mở rộng đến chân
trời. Một mẻ cá lớn bên biển hồ. Những hạt giống người nông phu gieo vương vãi
trên đường mòn,giữa bụi gai, trên sỏi đá. Một đàn cừu người chăn lùa về buổi
chiều tối. Từng tảng đá, từng hạt sạn người ta nhặt từ một đống muối để vất đi.
Từng con còng người đánh cá nhặt ra bỏ lại bên bờ sau một mẻ cá...
Việc thu thập môn đệ, Ngài cũng vừa đi, vừa gọi, vừa nhận... Như
các môn đệ đầu tiên (Mc 1,16-20). Chúa Giêsu không dừng lại, yên nghĩ, hưởng
thụ hay cũng cố vị trí người ta dành sẵn cho mình. Sau một ngày thành công rực
rỡ ở Capharnaum chẳng hạn: “Sáng đến, Ngài ra đi vào nơi hoang vắng. Dân chúng
đi tìm Ngài và đến nơi Ngài,họ cố giữ Ngài lại, không để Ngài đi khỏi chỗ họ.
Nhưng Ngài bảo họ: Ta còn phải đem Tin mừng Nước Thiên Chúa cho các thành khác
nữa” (Lc 4,42-43).
Như thế, suốt đời Chúa Giêsu đã không hề có trụ sở, không hề có
nhà thờ. Ngài đi khắp mọi nẻo đường trên thế giới Ngài đang sống.
Chúa Giêsu bị bắt lúc đang cầu nguyện giữa vườn Giệtsêmani hoang
vắng. Bị điệu đến Hanna rồi Caipha. Từ toà đạo qua toà đời. Hết bị điệu đến
dinh Philatô lại bị gửi qua dinh Hêrôđê, rồi bị đưa trả về cho Philatô. Không
đầy một ngày một đêm mà kẻ tử tù đã phải đi không biết bao nhiêu dặm đường trên
con đường “công lý” của loài người.
Bị kết án thập hình. Hai tay dang rộng, bị đóng đinh trên thập
giá. Tảng đá lấp cửa mồ (Mc 14,32 -15,47). “Lính canh phòng cẩn mật, niêm phong
tảng đá lại” (Mt 27,62-66).Thế nhưng, Chúa Giêsu đã không dừng chân cả trong
cái chết. Ngày thứ ba Ngài sống lại, vượt cái chết qua sự sống bất diệt.
Sau khi phục sinh, Ngài cũng đi nhiều nơi, đến với với các môn
đệ, cũng cố lòng tin và sai họ ra đi loan báo Tin mừng.
Hoàn thành sứ mạng, “Ngài lên trời ngự bên hữu Chúa Cha” (Mc
16,19) và luôn đồng hành cùng Giáo hội “Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến
tận thế”. (Mt 28,20).
Chúa Giêsu gọi các môn đệ và “thiết lập Nhóm Mười Hai” để họ ở
với Ngài và để Ngài sai đi. Giáo hội tiếp nối sứ vụ được sai đi, ra đi đến với
muôn dân. Ra đi là dấn thân đi đến gặp gỡ mọi người với tinh thần đơn sơ, từ bỏ
và tự do, để loan báo tin vui và mang đến cho họ ơn cứu độ.
Cuộc đời người Kitô hữu cứ phải ra đi không ngơi nghĩ. Ra khỏi cái
cũ và đi tới cái mới. Ra khỏi cái đang có để đi tới cái chưa có. Ra khỏi cái
mình đang là để đi tới cái mình phải là. Như thế, hành trình xa xăm nhất lại
chính là hành trình của con tim.
Đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi.
Nhưng khó vì lòng người ngại núi e sông.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã ra đi từ trời cao xuống đất thấp, mang
Tin mừng chiếu soi nhân trần. Xin sai chúng con ra đi nhẹ nhàng và thanh thoát,
không chút cậy dựa vào khả năng bản thân hay vào những phương tiện trần thế.
Xin Chúa giúp chúng con chỉ biết cậy dựa vào Chúa. Chỉ mình Chúa là đủ cho
chúng con. Amen.
12. Suy niệm của Lm. Đaminh Trần
Đình Nhi
Nếu các ngôn sứ là những người nói thay cho Thiên Chúa trong
thời Cựu Ước, thì các Tông đồ là những ngôn sứ của Chúa Kitô và được Người sai
đi rao giảng Tin Mừng cho muôn dân. Phụng vụ Lời Chúa Chúa Nhật trước đã nói
với ta về những đặc nét của ngôn sứ trong Cựu Ước, đồng thời cũng giới thiệu
cho ta vị Ngôn Sứ Con Thiên Chúa là Đức Kitô. Bài Tin Mừng hôm nay là những lời
Chúa Giêsu căn dặn các Tông đồ trước khi sai họ lên đường thực tập việc rao
giảng.
1. Ông A-mốt, một nông dân được kêu gọi làm ngôn sứ (bài
đọc Cựu Ước – A-mốt 7,12-15)
Câu truyện ngôn sứ A-mốt bị tư tế A-mát-gia sỉ nhục và xua đuổi,
cho ta hiểu đâu là điều giúp ta nhận ra một ngôn sứ đích thực. Vốn là một nông
dân chỉ biết miệt mài với công việc chăn nuôi và trồng cây, ông A-mốt không hề
nghĩ một ngày nào đó Thiên Chúa sẽ gọi ông làm công việc của một vị ngôn sứ.
Đáp lời gọi của Chúa, ông rao giảng ở miền bắc vương quốc Ít-ra-en, dưới thời
Gia-róp-am II (783-743 trước công nguyên). Với tính tình chất phác của người
nông dân, lời giảng của ông giản dị, dễ hiểu, nhưng cũng hết sức mạnh mẽ và
thẳng thắn. Chính những lời ông cảnh cáo tội ác của mọi giới trong Ít-ra-en đã
khiến cho các nhà lãnh đạo khó chịu và không muốn thấy ông hiện diện tại miền
đất của họ nữa. Do đó, A-mát-gia, tư tế đền thờ Bết-Ên, đã quyết tâm xua đuổi
ông. Vị tư tế mỉa mai gọi ông A-mốt là “thầy chiêm”, danh từ ám chỉ người phục
vụ các thần ngoại chứ không phải Thiên Chúa. Tệ hơn nữa, ông ta còn coi sứ vụ
ngôn sứ của A-mốt là một “nghề” để kiếm ăn! Sau cùng ông ta đem cả cái nhãn
hiệu “Bết-Ên, thánh điện của quân vương và đền thờ của vương triều” để dọa nạt
A-mốt.
Trả lời cho vị tư tế, ông A-mốt đơn giản cho biết: ông không
phải là ngôn sứ, hay nói đúng hơn, ông không muốn được người ta xưng tụng là
ngôn sứ, mà chỉ là một nông dân thi hành những gì Thiên Chúa truyền dạy ông
phải làm, là “đi tuyên sấm cho Ít-ra-en dân Chúa”.
Thực thế, ngôn sứ là người đáp lại lời gọi của Chúa để thi hành
một tác vụ, chứ đâu phải một nghề nghiệp hay một địa vị xã hội để vênh vang lên
mặt. Ơn gọi khác với nghề nghiệp. Linh mục, tu sĩ, ngay cả những người chọn
sống bậc gia đình hay độc thân đều là những người sống ơn gọi. Còn bác sĩ, luật
sư, kỹ sư... là những người chọn một nghề nghiệp. Ơn gọi là để phục vụ, còn
nghề nghiệp thì mục đích chính là để kiếm tiền và nếu hành nghề với lý tưởng
phục vụ nữa thì càng hay biết mấy. Nếu vậy thì ngoài các linh mục tu sĩ là
những người chọn việc phục vụ, ta là những anh chị em giáo dân cũng vẫn có thể
phục vụ mặc dù ta cần phải có nghề nghiệp để sinh sống. Khi ta thi hành nghề
nghiệp của ta cho có lương tâm, sử dụng nghề nghiệp để không những kiếm sống,
mà còn giúp đỡ mọi người trong khả năng nghề nghiệp của ta tức là ta đang làm
công việc phục vụ rồi đó. Ta rao giảng bằng chính công việc của ta, bằng cách
giao tiếp với những người liên hệ trong đức ái Kitô, trong đức công bằng và
bình an như Giáo Hội dạy. Ta sử dụng những tài năng trong lãnh vực nghề nghiệp
để xây dựng cộng đồng, lo lắng cho công ích, chú tâm tới những người cần giúp
đỡ về mọi phương diện... Đó là ta đang cùng một lúc vừa thi hành nghề nghiệp,
vừa làm việc tông đồ, một phương thức thực tiễn nhất để chu toàn tác vụ ngôn sứ
của ta.
2. Tinh thần tông đồ (bài Tin Mừng – Mác-cô
6:7-13)
Trước khi sai các Tông đồ ra đi rao giảng, Chúa Giêsu đã phải
huấn luyện và đào tạo các ông. Mặc dù các ông có cơ hội “học việc” với Chúa khi
các ông theo Người đi khắp nơi, các ông vẫn cần một thời gian “thử việc” sau
khi nghe những lời căn dặn quan trọng của Chúa. Những lời căn dặn của Chúa hôm
nay không phải là một bản đề cương chi tiết với những nguyên tắc luật lệ rõ
ràng, nhưng là những lời đơn sơ nhắm nói lên tinh thần tông đồ hoặc hồn tông đồ
là điều các ông cần phải có. Nên nhớ đây không phải là một “nghề nghiệp” cần
phải có bản “mô tả công việc” như ta thấy nơi các sở làm, nhưng là một “ơn gọi
phục vụ” Chúa mời gọi để các Tông đồ đáp lời và ra đi phục vụ.
Trước hết Chúa sai họ đi từng hai người một, để họ không lẻ loi,
nhưng nâng đỡ và giúp nhau, nhất là khi gặp những gian nan thử thách. Tiếp đến,
Chúa “ban quyền” cho các ông, không phải để dùng quyền đó mà hống hách nạt nộ
hay áp bức người khác, nhưng là để sử dụng mà giải thoát người khác khỏi quyền
lực của ác thần, bệnh tật thể xác cũng như tinh thần.
Những lời căn dặn của Chúa Giêsu nhắm đến tinh thần tông đồ và
cách giao tiếp cũng như ứng phó với hoàn cảnh rao giảng. Nói đến tinh thần tông
đồ hoặc hồn tông đồ là nói đến tinh thần tự do, không vướng mắc vào tiền bạc,
của cải, đời sống vật chất hoặc danh vọng ở đời. Người tông đồ “không được mang
gì đi đường” và chỉ độc nhất có “cây gậy và đôi dép” làm hành trang! Không mang
theo gì cả, ngoài lý tưởng phục vụ, bởi vì lỉnh kỉnh với những hành trang nặng
nề sẽ làm tổn thương đến lý tưởng phục vụ. Chỉ có cây gậy là lòng tín thác cậy
dựa vào tình yêu cũng như quyền năng của Chúa. Chỉ có đôi dép là sức mạnh của
Chúa giúp họ bền bỉ và can đảm rảo khắp nẻo đường Chúa muốn họ đi.
Về cách giao tiếp và ứng phó với hoàn cảnh, người tông đồ phải
luôn thẳng thắn, đó là điều cần thiết nhất. “Khi anh em đã vào nhà nào” là cách
nói ám chỉ người tông đồ đã được người ta tiếp nhận và lắng nghe. Nếu thế thì
người tông đồ cứ tác vụ mình mà thi hành, “ở lại đó” mà rao giảng, mà phục vụ,
mà làm khí cụ bình an của Chúa, chứ đừng làm gì đi ngược với tinh thần tự do
đích thực, đừng vướng mắc bất cứ gì dù là vật chất hay tình cảm. Người tông đồ
thẳng thắn khi được tiếp nhận, nhưng cũng thẳng thắn khi bị xua đuổi. Dù không
được đón tiếp niềm nở hay thậm chí bị xua đuổi, người tông đồ không cay đắng
nguyền rủa những người xử tệ với họ, nhưng chỉ thẳng thắn “cảnh cáo” những kẻ
ấy đã không tiếp nhận Tin Mừng để hy vọng ngày nào đó họ sẽ thay lòng đổi dạ.
Lời dặn dò của Chúa Giêsu chẳng cần văn hoa hoặc đao to búa lớn,
nhưng là những điều đơn sơ nhất, cần thiết nhất và thực tế nhất. Tinh thần tự
do và tinh thần thẳng thắn đã đủ là hành trang của bất cứ ai muốn đáp lời Chúa
ra đi rao giảng hoặc làm chứng cho những giá trị Tin Mừng. Có lẽ ta tự hỏi: vậy
người giáo dân chúng tôi làm thế nào để áp dụng tinh thần tự do và thẳng thắn
ấy? Thì cũng vậy thôi, nghĩa là cứ sống như một người Công giáo không để cho
tiền bạc, danh vọng và quyền lực làm chủ mình. Nghĩa là cứ thẳng thắn và thành
thực trong những giao tiếp, đối xử với những người chung quanh, lúc nào cũng cố
gắng thực thi lời dạy “hãy yêu thương nhau như Thầy yêu thương chúng con” của
Chúa. Như thế là ta đang làm ngôn sứ của Chúa Kitô, làm chứng nhân cho Tin Mừng
của Người rồi. Thánh sử Mác-cô kể rằng các Tông đồ đã thực sự lên đường và cũng
đã gặt hái được những thành quả tốt đẹp. Chắc chắn việc lên đường ấy và gặt hái
được những hoa trái tông đồ ấy không phải là điều không thể đối với ta, những
Kitô hữu hôm nay.
3. Trong Đức Kitô, Thiên Chúa đã chọn ta làm nghĩa tử (bài
đọc Tân Ước – Ê-phê-xô 1:3-14)
Được Thiên Chúa chọn và gọi làm ngôn sứ là một ân sủng lớn lao.
Tuy nhiên được Người chọn làm nghĩa tử còn là một ân sủng lớn lao hơn nữa.
Chính vì thế thánh Phao-lô Tông đồ đã cảm nghiệm ân sủng cao sâu đó, nên mở đầu
thư gửi tín hữu Ê-phê-xô, ngài đã dành một đoạn hết sức tuyệt vời để dâng lời
chúc tụng Thiên Chúa. Thánh Phao-lô chúc tụng Chúa, vì trong Đức Kitô, Chúa đã
thực hiện cho nhân loại một điều vô cùng lớn lao mà ngài gọi là “kế hoạch yêu
thương”. Kế hoạch này được thực hiện đều là nhờ Chúa Kitô. Vậy trong Đức Kitô
và nhờ Đức Kitô, Thiên Chúa làm gì cho ta? Thánh Phao-lô kể ra những việc sau
đây: a) Thiên Chúa đã chọn ta và muốn ta nên tinh tuyền thánh thiện (Ep 1:4);
b) Thiên Chúa đã tiền định cho ta làm nghĩa tử nhờ Đức Kitô (1:5); c) Thiên
Chúa cứu độ ta nhờ máu Thánh Tử đổ ra (1:7); d) Thiên Chúa đã chọn các Tông đồ
làm gương mẫu đặt hy vọng vào Đức Kitô (1:11); e) Thiên Chúa đã cho ta được
diễm phúc đón nghe Tin Mừng (1:13); và f) Thiên Chúa ban Thánh Thần làm bảo
chứng phần gia nghiệp của ta (1:13). Tất cả những điều này đều là những điều
Thiên Chúa đã “tiền định”, tức là đã có kế hoạch từ trước muôn đời. Nói như vậy
tức là mọi thứ phúc họa ta gặp ở đời này chỉ là những may rủi hay trùng hợp,
chứ không thể là “Chúa định”! Chúa chỉ tiền định có một điều và Chúa chỉ tiền
định điều tốt thôi, đó là sắp đặt “kế hoạch yêu thương” để mong ta đáp lại,
cộng tác và sau hết được cùng Người hưởng phúc trường sinh. Mà chính khi tiền
định để cứu độ ta, Thiên Chúa vẫn tôn trọng quyền tự do cộng tác của ta, chứ
không tiền định một cách độc đoán đến độ “bắt” ta “phải” lên thiên đàng đâu!
Có khi nào trong đời Kitô hữu, ta biết dừng lại một chút để suy
nghĩ về kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa và dâng lời chúc tụng Người như
thánh Phao-lô đã làm không? Hay là cái điệp khúc “ta là con cái Chúa và được
Người cứu độ” đã trở thành quá quen thuộc đến độ ta không còn để ý tới ý nghĩa
sâu xa của nó nữa, nhất là ta quên rằng đó là một kế hoạch của tình yêu? “Như
Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em” (Ga 20:21; xem 17:18). Chúa Cha
đã sai Đức Kitô đi thực hiện kế hoạch yêu thương. Giờ đây đến lượt Đức Kitô sai
ta đi làm ngôn sứ và chứng nhân cho kế hoạch yêu thương ấy bằng chính đời sống
yêu thương của ta.
4) Sống Lời Chúa
Chúa Giêsu kêu gọi các thánh Tông đồ, đào tạo họ trong tinh thần
truyền giáo và sai họ đi rao giảng Tin Mừng. Tất cả đều nhắm mục đích thực hiện
kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã chu toàn sứ mệnh và Người còn
kêu gọi ta tiếp tục sứ mệnh của Người nếu ta sống tất cả những ân sủng đã lãnh
nhận được từ kế hoạch yêu thương ấy. Ý thức sứ mệnh tông đồ và truyền giáo ta
được chia sẻ với Chúa Kitô, ta cố gắng sống cuộc đời Kitô hữu gương mẫu, để
không chỉ rao giảng bằng lời nói, nhưng bằng việc làm và qua những giao tiếp
đầy tình thương bác ái với anh chị em.
Suy nghĩ: Tông đồ nghĩa là
người được sai đi. Vậy tôi được Chúa sai đi tới đâu và làm gì với tính cách là
tông đồ của Người? Những lời Chúa căn dặn các Tông đồ có ý nghĩa gì đối với
tôi?
Cầu nguyện: Lạy Chúa, nhờ Con Chúa hạ mình xuống,
Chúa đã nâng loài người sa ngã lên; xin rộng ban cho các tín hữu Chúa niềm vui
thánh thiện này: Chúa đã thương cứu họ ra khỏi vòng nô lệ tội lỗi, xin cũng cho
họ được hưởng phúc trường sinh. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Kitô, Chúa chúng
con. Amen. (Lời nguyện Nhập lễ, Chúa Nhật 14 mùa Thường niên).
13. Loan báo Tin Mừng.
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Lịch sử truyền giáo ở Việt Nam ghi lại tên tuổi hai vị giáo sĩ
truyền giáo nổi tiếng: Đức Cha Lambert de la Motte và Đức Cha Francois Pallu.
Vào thế kỷ 17, Toà Thánh đã đặt hai giám mục này làm Giám Quản Tông Toà đầu
tiên ở Việt Nam: Đức Cha Lambert de la Motte phụ trách Đàng Trong (từ sông
Gianh trở vào Nam) kiêm Camquchia, Lào, Thái Lan. Đức Cha Francois Pallu phụ
trách Đàng Ngoài (từ sông Gianh trở ra Bắc) kiêm Trung Quốc.
Đức Cha Francois Pallu là người pháp, từ bỏ gia đình và quê
hương vào ngày 3.1.1662, ngài dùng tàu buồm vượt qua Địa Trung Hải rồi men theo
đường bộ một thời gian lâu dài, qua hết các nước Trung Đông, Vịnh Ba Tư, Ấn Độ
mới đến Thái Lan. Năm 1670, trên đường đến miền Bắc Việt Nam, lúc đi ngang qua
Huế, thuyền của ngài bị một cơn bão đánh giạt vào Philippin. Ngài bị người Tây
Ban Nha bắt bỏ tù rồi đem giải về Tây Ban Nha.Với sự can thiệp của Toà Thánh,
Tây Ban Nha trả tự do cho Đức Cha. Tuy phải trải qua nhiều gian khổ, nhưng tim
ngài vẫn luôn sáng chói một niềm hy vọng. Ngài nói: “Tôi phải đem Tin Mừng đến
tận Trung Quốc”. Vừa được trả tự do, ngài tìm mọi cách đến Bắc Kinh, và cuối
cùng thân xác ngài được chôn vùi tại đây theo như ngài mơ ước. một câu nói của
ngài đáng cho chúng ta ghi nhớ: “Tôi tự cho mình hạnh phúc nếu có thể đem xương
cốt mình bắc một nhịp cầu tới Bắc Việt và tới Trung Quốc!”.
Thưa anh chị em, cuộc đời truyền giáo của Đức Cha Francois Pallu
tại đất nước ta cũng như biết bao nhà truyền giáo khác trên thế giới gắn liền
với đời tông đồ và cái chết tử đạo của mười hai Tông Đồ. Chính Chúa Giêsu tuyển
chọn Nhóm Mười Hai để nhóm này ở lại bên Ngài và để được huấn luyện. Mục tiêu
của huấn luyện là để các ông trở nên những người được Chúa Giêsu sai đi rao
giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa. Ngay từ khi còn ở trần gian, Chúa Giêsu đã thấy
mình đứng trước một cánh đồng mênh mông, có biết bao nhiêu người cần được nghe
Tin Mừng cứu độ. Ngài thấy mình cần những cộng tác viên nhiệt thành cho công
cuộc truyền bá Tin Mừng. Chúa Giêsu đã trao tất cả những gì mình có cho Nhóm
Mười Hai: quyền rao giảng, chữa bệnh, trừ quỷ. Hoạt động của các ông là một sự
nối dài và mở rộng sứ vụ của mình Chúa Giêsu.
Chia tay Thầy Giêsu, Nhóm Mười Hai lên đường. Đâu là hành trang
của người tông đồ? Chúa Giêsu trả lời: “Không được mang gì khi đi đường”. Không
bánh trái, không bao bì, không tiền bạc, không mặc hai áo. Như thế, các ông lên
đường với tất cả sự nhẹ nhàng. Càng nhẹ nhàng thì càng dễ thi hành sứ mạng và
càng được tự do hơn. Tuy nhiên sự nhẹ nhàng này thật là một thách đố. Khi người
tông đồ phải lên đường với hai bàn tay trắng, không có lộ phí, không có lương thực
dự trữ, lúc đó họ phải hoàn toàn lệ thuộc vào lòng nhân hậu của Thiên Chúa và
lòng tốt của tha nhân. Ra đi tay trắng như thế là chấp nhận mọi bất trắc có thể
xẩy ra dọc đường, nhưng cũng là đặt mình thường xuyên dưới sự quan phòng của
Chúa. Chính Chúa lo mọi sự cho tôi, để tôi chuyên tâm lo việc của Chúa. Sự an
toàn của tôi không dựa vào những phương tiện trần thế, nhưng vào chính Thiên
Chúa.
Chúa Giêsu cũng dạy cho các ông biết thái độ phải có khi đến với
dân chúng. Nếu được đón tiếp thì hãy ở lại, không tìm một nhà khác tiện nghi
hơn. Người tông đồ cần có đời sống nghèo, đón nhận những gì được trao cho mình
với lòng biết ơn. Nếu không được đón tiếp thì cũng không nên nản lòng. Cử chỉ
giũ chân ra đi cho thấy người tông đồ chẳng hề muốn lấy đi điều gì ở nơi đã từ
chối đón tiếp mình.
Anh chị em thân mến, hôm nay, Chúa Giêsu Phục Sinh cũng sai
chúng ta đến với thế giới. Thế giới không phải là chuyện xa xôi. Thế giới là
nơi chúng ta đang sống, đang làm việc. Thế giới là gia đình, bạn bè, là trường
học, cơ quan, xí nghiệp. Thế giới là nơi giải trí, nơi du lịch, bãi biển. Thế
giới là sách báo, phim ảnh, video, quảng cáo. Thế giới là mọi ngành khoa học,
nghệ thuật, văn chương. Chúng ta ở trong thế giới và Chúa muốn sai chúng ta đi
vào thế giới của mình trong tư cách là người Kitô hữu. Kitô hữu là người có khả
năng biến đổi thế giới mình đang sống để nó biến thành thế giới của Thiên Chúa.
Các Tông Đồ đã rao giảng, đã mời gọi con người hoán cải để đón nhận Nước Thiên
Chúa gần bên. Chúng ta cả những gì phá huỷ phẩm giá con người, loại trừ sự sống
của Thiên Chúa, đều phải bị loại trừ. Kitô hữu là người phải hoán cải trước khi
mời gọi người khác hoán cải, phải tỉnh thức trước khi đánh thức người khác,
phải thuộc về Chúa trước khi trừ quỷ.
Thế giới hôm nay cũng là một thế giới bị thương tích, cần được
chữa lành. Bệnh tật của thân xác và bệnh tật của tinh thần vẫn hoành hành trên
thế giới. Con người đau khổ vì mất lòng tin, lo âu, tuyệt vọng. Con người nô lệ
cho chính những sản phẩm của mình. Tiến bộ khoa học kỹ thuật lại đặt ra những
vấn đề mới mà tự sức con người không giải quyết được. Kitô hữu là người tiếp
nối sứ mạng của Chúa Giêsu, băng bó vết thương của thế giới bằng sự hiện diện
đầy yêu thương.
Chúng ta không rõ nếu hôm nay Chúa Phục Sinh chỉ thị cho chúng
ta, thì Ngài sẽ nói gì trước khi ngài sai chúng ta ra đi. Chắc Ngài sẽ nói khác
với đoạn Tin Mừng hôm nay, những ý chính vẫn không thay đổi. Ngài dạy chúng ta
tin cậy và quyền năng của Thánh Linh hơn là vào khả năng và phương tiện tự
nhiên của mình. Ngài nhắc nhở chúng ta tín thác và Cha trên trời và Chuyển cầu
cầu nguyện, vì chẳng ai có thể rao giảng Tin Mừng nếu không có tình bạn thân
thết với Chúa.
Mỗi Thánh Lễ Chúa Giêsu tập họp chúng ta lại thành một cộng đoàn
môn đệ của Ngài, để rồi sai chúng ta ra đi loan truyền Tin Mừng Phục Sinh của
Ngài cho mọi người ở mọi nơi. Tin Mừng này chỉ có thể được công bố bằng cuộc
sống làm chứng của mỗi người chúng ta và của Giáo Hội, một cuộc sống trung
thành với Chúa Giêsu nghèo khó và chịu đóng đinh thập giá. Đó là bằng chứng đáng
tin của tình thương cứu độ mọi người.
14. Chúa sai các tông đồ đi từng hai - Noel
Quesson.
Gandhi là vị cứu tinh của Ấn Độ, ông rất cảm phục Đức Kitô. Ông
đọc Tin Mừng hằng ngày và lấy “bài giảng trên núi” của Chúa làm phương châm
hành động. Một hôm, muốn tìm hiểu cụ thể hơn về Giáo Hội, ông đi tới một nhà
thờ Công Giáo. Vừa tới cửa nhà thờ, một người chực việc tiến lại bảo ông: “Nếu
những người Công Giáo sống đúng theo Tin Mừng Đức Kitô thì dân tộc của tôi bớt
khổ”. Ông Gandhi mới có ý nghĩ đó. Nhiều người chúng ta cũng lấy làm
tiếc vì không được chính Chúa Giêsu đích thân điều hành sinh hoạt Giáo Hội. Và
thấy rằng trong các cộng đoàn nhỏ, có nhiều người ở cấp điều hành đã làm người
ta hiểu sai về Tin Mừng ở Đức Kitô. Nhưng biết làm sao được? Khi Chúa Giêsu
nhập thể làm người, Chúa phải chịu chi phối do không gian và thời gian. Muốn
thiết lập một Giáo Hội trường tồn trong lịch sử, Chúa phải trao Giáo Hội Chúa
vào tay con người trần thế. Ngay từ khi bắt đầu cuộc sống công khai, Chúa đã
huấn luyện các môn đệ để các ông tiếp tục sứ mệnh của Chúa. Cũng vậy, hôm nay
đây, Chúa trao sứ mệnh tiếp tục công việc Chúa làm nơi trần gian cho mỗi người
chúng ta. Mọi Thánh Lễ chúng ta tham dự, đều kết thúc bằng lệnh truyền sai đi:
Thánh lễ đã xong, chúc anh chị em ra đi bình an.
Theo lệnh Chúa, các Tông đồ ra đi, làm những việc Chúa đã làm:
xức dầu cho bệnh nhân, chữa họ lành, rao giảng Tin Mừng, thúc giục người ta cải
thiện đời sống. Nhân danh Chúa, các ông làm được nhiều việc lạ, đã trừ quỉ.
Chúa sai các ông đi từng hai người, như vậy, Chúa đã thiết lập
những cộng đoàn nhỏ. Các ông là những chứng nhân, và chứng nhân càng nhiều thì
càng có giá trị. Một cộng đoàn, bao giờ cũng có lợi hơn là một người đơn độc.
Trong cộng đoàn người ta nhắc nhở nhau, nâng đỡ nhau sống trung thành với luật
Chúa, nhất là việc làm chứng tình thương của Chúa ngay trong cộng đoàn. Chúa
đòi hỏi các Tông đồ phải nhất thiết trở nên mẫu mực về tình bác ái huynh đệ. Và
làm sao thực thi bác ái được, nếu mỗi người chỉ sống một mình. Dân chúng thời các
tông đồ đã nhận ra dấu chứng này nơi cộng đoàn tín hữu đầu tiên: “Coi kìa, họ
yêu thương nhau biết bao!”. Và đó cũng là định hướng của chính Đức Kitô: “Người
ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ Thầy, là thấy các con yêu thương
nhau”. Cuộc sống yêu thương trong cộng đoàn vừa là dấu hiệu của người môn đệ
Chúa, vừa là lời rao giảng sống động, hùng hồn nhất về Tin Mừng của Chúa.
Lạy Chúa, xin giúp chúng con biết dùng cuộc sống yêu thương để
làm chứng cho Tin Mừng ngay trong cộng đoàn và trong môi trường sống của chúng
con.
15. Ngài gọi và sai đi.
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Đức Giêsu là người làm nên Nhóm Mười Hai.
Sau một thời gian ở với Ngài (x. Mc 3,14), họ đã được Ngài sai
đi rao giảng.
Người được sai đi phải là người có đời sống gần gũi thiết thân
với Chúa.
Đức Giêsu sai họ lên đường. Ngài trao cho các ông những quyền
năng Ngài có: quyền rao giảng, quyền chữa bệnh, quyền trừ quỷ. Đó là hành trang
lên đường của các ông. Mọi hành trang khác chỉ là phụ thuộc: một chiếc áo đang
mặc, một cây gậy và đôi dép khi đi đường.
Đức Giêsu cấm các ông không được mang theo lương thực, bao bị,
tiền bạc... Không lương thực đi đường nên có thể bị đói. Không bao bị nên không
thể để dành. Không tiền bạc nên không thể mua sắm. Ngài muốn các ông hoàn toàn
nương tựa vào lòng tốt của Thiên Chúa và của con người.
Ra đi mà không có một chút bảo đảm. Các môn đệ đã đi từ nơi nọ
đến nơi kia, lê gót qua các làng mạc và thành phố. Họ không đóng đô ở một nơi,
dù gặp thành công, vì họ nhớ lời của Thầy: “Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các
làng xã chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa” (x. Mc 1,38)
Tính cơ động là đặc tính thiết yếu của người tông đồ. Sẵn sàng
đến và cũng sẵn sàng đi.
Các môn đệ loan báo về Nước Thiên Chúa đang đến. Đó là một tin
vui, nhưng đòi con người hoán cải.
Hoán cải là điều chẳng ai ưa. Người tông đồ cần can đảm nói điều
phải nói. Không làm nhẹ đi những đòi buộc của Tin Mừng, không bóp méo Tin Mừng
để tìm thành công cá nhân, cũng không mỵ dân để vuốt ve dư luận. Người tông đồ
phải chấp nhận được tiếp đón một cách nồng hậu hay lạnh nhạt.
Họ chỉ là những người phục vụ cho Tin Mừng.
Chúng ta cần cảm nghiệm niềm vui của các môn đệ. Những người
đánh cá nay trở thành nhà rao giảng. Những người ít học, bình dân, nay trừ quỷ
và chữa bệnh. Họ đem đến cho con người niềm vui, sự giải phóng toàn vẹn cả hồn
lẫn xác.
Hôm nay Đức Giêsu vẫn sai ta đến trong thế giới. Đi từng hai
người hay từng nhóm để nâng đỡ nhau. Chúng ta có thể mang theo nhiều đồ trang
bị hơn xưa, nhưng không vì thế mà bỏ rơi cậy dựa vào Chúa. Thế giới hôm nay vẫn
có nhiều bệnh tật: bệnh tuyệt vọng chán chường, bệnh hoài nghi khép kín... Ước
gì chúng ta chữa lành những nỗi đau hôm nay.
Gợi Ý Chia Sẻ
Lên đường là ra đi, nhưng cũng là ở lại môi trường mình đang
sống. Bạn thấy làm chứng cho Chúa tại nơi bạn học hành, làm việc, có khó không?
Đâu là những cản trở?
Thế giới hôm nay là thế giới bị nô lệ dưới nhiều hình thức. Bạn
thấy được những hình thức nào? (nô lệ cho vật chất, tiện nghi, chức vị, xác
thịt...)
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
Xin sai chúng con lên đường; nhẹ nhàng và thanh thoát, không
chút cậy dựa vào khả năng bản thân hay vào những phương tiện trần thế.
Xin cho chúng con làm được những gì Chúa đã làm: rao giảng Tin
Mừng, trừ quỷ, chữa lành những người ốm đau.
Xin cho chúng con biết chia sẻ Tin Mừng với niềm vui của người
tìm được viên ngọc quý, biết nói về Ngài như nói về một người bạn thân.
Xin ban cho chúng con khả năng đẩy lui bóng tối của sự dữ, bất
công và sa đọa.
Xin giúp chúng con lau khô những giọt lệ của bao người đau khổ
thể xác tinh thần.
Lạy Chúa Giêsu, thế giới thật bao la mà vòng tay chúng con quá
nhỏ. Xin dạy chúng con biết nắm lấy tay nhau mà tin tưởng lên đường, nhẹ nhàng
và thanh thoát.
16. Lên đường thi hành sứ vụ với Chúa Giêsu.
(Suy niệm của Lm. Ignatio Trần Ngà)
Mười hai môn đệ lên đường theo lệnh Chúa Giêsu mà chẳng mang
theo gì cả: không lương thực, không tiền bạc, không mang thêm chiếc áo thứ hai,
không bao bị, ngoại trừ hai vật dụng tối cần là cây gậy và đôi dép (Mc 6, 8-9).
Ngoài ra, các môn đệ lại là những người ít học, khả năng khiêm tốn...
Vậy mà các ngài đã đạt được những thành quả tuyệt vời: Xua trừ
nhiều ma quỷ, chữa lành nhiều bệnh nhân, kêu gọi người ta ăn năn sám hối! (Mc
6,13).
Nhờ đâu các ngài đạt được những thành quả phi thường nầy?
Tất cả là do quyền năng Thiên Chúa.
Khi sai các môn đệ lên đường không chút hành trang, Chúa Giêsu
muốn tỏ cho thấy sự thành công trong hoạt động tông đồ không do tài lực của con
người nhưng là do quyền năng Thiên Chúa. Chính Chúa Giêsu hoạt động qua các vị
như đôi bàn tay của Người.
Chúng ta là chi thể của Chúa Giêsu
Từ ngày lãnh bí tích rửa tội, chúng ta được tháp nhập vào Thân
Mình Chúa Giêsu như cành liền cây, như bàn tay nối liền cơ thể và từ đó, chúng
ta được thông dự vào sứ mạng ngôn sứ, tư tế và vương đế của Chúa Giêsu.
Từ đó, Chúa Giêsu muốn rao giảng qua chúng ta là môi miệng của
Người; Chúa Giêsu muốn chăm sóc bệnh nhân và người đau khổ qua chúng ta là đôi
tay của Người; Chúa Giêsu muốn tỏ lòng thương xót nhân loại qua chúng ta là
trái tim của Người.
Thế nên, chúng ta phải cùng hoạt động với Chúa Giêsu và để Người
sử dụng chúng ta như chi thể của Người mà tiếp nối sứ mạng loan Tin Mừng và đem
ơn cứu độ cho thế giới.
Chúng ta không thể viện cớ mình nghèo nàn, ít học, yếu đuối để
từ khước sứ mạng Chúa giao, vì mười hai môn đệ đầu tiên được Chúa sai đi cũng
không có nhiều khả năng, nhiều điều kiện hơn chúng ta hôm nay. Các vị lên đường
theo lệnh Chúa Giêsu dù không mang lương thực, không tiền bạc, không bao bị,
không cả chiếc áo thứ hai mà vẫn đạt được thành quả tốt đẹp khác thường. Chúng
ta cũng có thể đạt được hiệu quả như thế nếu chúng ta hiến mình cho Chúa Giêsu
sử dụng.
Đừng trở nên bàn tay tê bại
Nhân loại hôm nay đông đảo gấp hàng triệu lần so với thời các
môn đệ đầu tiên nên nhu cầu loan báo Tin Mừng lúc nầy càng cấp bách và khẩn
thiết hơn bao giờ hết. Hôm nay Chúa Giêsu vẫn liên lỉ kêu mời mỗi người chúng
ta tham gia sứ vụ loan Tin Mừng như các môn đệ xưa.
Là chi thể của Chúa Giêsu, chúng ta không thể từ chối tham gia
vào công việc cứu độ của Người.
Một chi thể không cùng các chi thể khác tham gia vào các hoạt
động của thân mình là một chi thể tê bại hoặc là một chi thể thừa (như ngón thứ
sáu -ngón tay thừa- trên một bàn tay).
Một chi thể tê bại (hoặc thừa) chẳng những không mang lợi ích gì
cho thân mình mà còn trở nên chướng ngại cho hoạt động của toàn thân.
Chắc chắn không ai trong chúng ta muốn làm một chi thể tê bại
trong Thân Mình Chúa.
Vậy thì hãy sẵn sàng hiến thân làm khí cụ cho Chúa Kitô.
Khi chúng ta hiến đời mình để Chúa Giêsu sử dụng như bàn tay của
Người, chắc chắn nhiều điều kỳ diệu sẽ được Người thực hiện qua con người mỏng
giòn yếu đuối của chúng ta.
17. Chân dung của Sứ giả Tin Mừng.
(Suy niệm của Lm Jos. Tạ Duy Tuyền)
Một cuộc đời đẹp là một cuộc đời dấn thân vì lợi ích cho tha
nhân. Một tâm hồn thanh cao là tâm hồn luôn thanh thoát khỏi những bon chen vật
chất, những vinh hoa phù phiếm mau qua. Đó chính là mẫu người mà xã hội hôm qua
cũng như hôm nay đang cần, rất cần họ để điểm tô cho xã hội thêm phong phú nhờ
những cống hiến vô vị lợi và đầy lòng quảng đại của họ.
Đó cũng chính là chân dung của các sứ giả Tin mừng. Họ đã để lại
cho nhân thế những bước chân thật thanh thoát, nhẹ nhàng nhưng đầy tình người.
Họ là những người được tuyển chọn để cứu nhân độ thế. Họ dấn thân vào đời để
giải cứu thế gian khỏi ba thù hiểm độc. Thế gian có quá nhiều mưu mô và xảo
quyệt. Ma qủy có quá nhiều phương cách để cám dỗ. Họ cần phải ra đi với đôi
chân nhẹ nhàng và lòng thanh thoát. Họ không được mang bao bị, không mang bạc
tiền của nhân thế. Họ là những người chấp nhận cuộc sống nổi trôi “ba chìm bảy
nổi chín lênh đênh”. Sứ mệnh của họ là đẩy lùi sự dữ và thi thố tình thuơng. Họ
không thể bận tâm đến của cải thế gian. Họ không để lòng mình bị ràng buộc bởi
nhu cầu vật chất và tiện nghi. Nếu họ quá quan tâm đến mình sẽ quên đồng loại.
Nếu họ quá chú trọng đến vật chất sẽ dẫn đến lo hưởng thụ và tích góp cho bản
thân. Thiện chí sẽ mất. Hướng đi sẽ chệch đường lạc lối. Lý tưởng ban đầu sẽ bị
đảo ngược. Thay vì cứu đời sẽ chỉ còn lại sự lợi dụng địa vị chức quyền để vun
quén cho bản thân.
Người ta kể rằng: có một đệ tử muốn từ bỏ mọi sự của thế gian để
sống tu trì. Anh quyết định vào rừng vắng sống ẩn tu. Hành trang duy nhất anh
mang là chiếc áo ăn mày để khất thực sống qua ngày.
Ngày kia, anh đau đớn vô cùng khi thấy chiếc áo phơi ở bờ sông
đã bị chuột cắn nát tả tơi. Không còn cách nào khác, anh phải vào trong làng
xin một chiếc áo khác. Chiếc áo thứ hai này cũng bị cùng chung số phận, nát tả
tơi vì chuột cắn. Anh nghĩ rằng chỉ có nuôi mèo mới giữ được chiếc áo. Anh
quyết định nuôi mèo. Thế nhưng, khi có mèo anh lại phải lo kiếm thêm phần ăn
cho con mèo được nuôi để đuổi chuột.
Ngày ngày vác bị đi khất thực, anh cảm thấy mình như một gánh
nặng đối với dân làng. Nghĩ thế, anh cố gắng chắt chiu để kiếm tiền nuôi một
con bò để thêm phần thu nhập. Nhưng có bò lại phải kiếm cỏ cho bò ăn. Chăn nuôi
gia súc khiến anh không thể có thời giờ cầu nguyện, tối mặt vì công việc, anh
lại phải thuê người cắt cỏ nuôi bò. Càng ngày bò càng sinh sản, người cắt cỏ
cũng phải gia tăng. Thời gian trôi qua, mảnh đất hoang sơ đã biến thành một
trang trại rộng lớn. Gia súc và người làm ngày càng thêm đông. Con người đã một
thời muốn từ bỏ mọi sự để trở thành một tu sĩ, nay nghiễm nhiên trở thành một
ông chủ trang trại.
Có tiền của và tài sản to lớn, anh lại muốn có người chia sẻ
công việc của mình. Anh cưới vợ và sinh con. Anh trở thành một người chồng,
người cha trong một gia đình hạnh phúc. Thế là lý tưởng ban đầu đã hết. Anh đã
đánh mất lý tưởng chỉ vì mải lo gìn giữ một cái áo rách. Chuyện có vẻ hoang
đường nhưng lại là thật. Ma qủy thường cám dỗ từng bước. Ma qủy thường gợi lên
những điều rất hấp dẫn để dẵn dắt con người đi theo chương trình của nó. Adam -
Evà đã nhìn thấy trái táo thơm ngon mà quên đi thân phận phải vâng lời Thiên
Chúa. Khi tỉnh lại chỉ còn thất vọng và hổ thẹn lương tâm. Người tu sĩ đã lạc
bước khi quá bận tâm đến nhu cầu vật chất, đến đồng tiền bát gạo, khiến tâm hồn
anh không còn thời giờ để vun đắp, định hướng cho hướng đi của mình. Cái thất
bại của anh thật tẻ nhạt, chỉ vì mải lo gìn giữ một chiếc áo rách.
Thực vậy, vì tiền bạc, mà người ta có thể đánh mất lý tưởng cuộc
đời.Vì tiền mà cái tính bổn thiện của con người ban đầu đã không còn. Vì tiền
mà người ta có thể chối bỏ niềm tin. Đó là nguy cơ mà bất cứ ai cũng có thể rơi
vào.
Đó là bài học cho tất cả chúng ta. Đồng tiền thật cần thiết cho
cuộc sống nhưng không phải là cứu cánh cho cuộc đời. Đừng quá lệ thuộc vào của
cải vật chất. Nó chính là con dao hai lưỡi có thể làm hại cuộc đời chúng ta,
nếu không khôn ngoan, sáng suốt để nhận định đúng giá trị của nó. Chúng ta cần
can đảm để trong khi mưu tìm của cải vật chất, chúng ta cần có đủ nghị lực
khước từ mọi hành vi bất chính, mọi thoả hiệp với lừa đảo, gian trá của thế
gian. Chúng ta không thể vì tiền mà đánh mất tính người. Vì tiền mà đánh mất
tình người. Vì tiền mà lòng mang dạ sói để hại người, hại đời, để làm tôi cho
ma quỷ sai khiến ra đi gieo vãi sự dữ cho trần gian.
Con người luôn hướng về sự thiện. Con người luôn mong muốn cống
hiến cuộc đời mình cho tha nhân. Đó chính là mục đích mà Thiên Chúa tạo dựng
con người giống hình ảnh Chúa. Thế nhưng ma quỷ luôn vẽ lối chúng ta đi sai
đường Chúa. Ước gì lời Chúa hôm nay thức tỉnh chúng ta, hãy lo tìm kiếm những
điều đẹp ý Chúa hơn là thế gian. Hãy để tâm làm việc phụng sự Chúa hơn là làm
tôi cho tiền bạc và tiện nghi. Đừng để lòng mình lệ thuộc vào vật chất mà quên
đi gía trị tinh thần. Xin Chúa giúp chúng ta biết sống theo lời Chúa để được
phúc lành mai sau. Vì “Phúc cho ai có tinh thần nghèo khó, vì nước trời là của
họ”. Amen.
18. Rao giảng.
Các con hãy đi rao giảng.
Đó là một mệnh lệnh đòi chúng ta phải ra đi.
Ra đi như các tông đồ, từ bỏ nghề nghiệp, từ bỏ quê hương, từ bỏ
những người thân yêu và ra đi như thế có nghĩa là hy sinh.
Ra đi như các tu sĩ, từ bỏ gia đình, từ bỏ bè bạn. Và ra đi như
thế cũng có nghĩa là hy sinh.
Hễ đã muốn hiến thân theo đuổi một sự nghiệp trong đạo, thì phải
bằng cách này hay cách khác, chấp nhận từ bỏ và hy sinh.
Nhưng từ bỏ những cái bên ngoài mà thôi thì vẫn chưa phải là ra
đi đích thực. Ra đi đích thực chính là từ bỏ bản thân, từ bỏ những tập quán và
những ý riêng tư để tin vào giá trị vô song của nước trời, một vương quốc mà
chúng ta phải hy sinh tất cả để xây dựng. Chấp nhận ra đi, chúng ta sẽ rao
giảng, sẽ nhắc lại lời Ngài đã nói:
- Nước trời đã gần.
Đó là tất cả những gì chúng ta phải rao truyền cho các tâm hồn.
Nhìn vào cuộc sống, chúng ta thấy còn quá nhiều người chưa nhận
biết nước Chúa. Ngày nay cũng chẳng hơn gì ngày xưa, vì nhân loại luôn đợi chờ
một cái gì khác nữa.
Vào thời Chúa Giêsu, người ta mong đợi Thiên Chúa sẽ can thiệp,
sẽ làm một phép lạ để đánh đuổi binh đội Rôma, biến nước Israel thành một địa
đàng mới, đầy đủ mọi vinh quang. Ngày nay người ta cũng mơ ước như thế. Nhưng
khốn nỗi là họ không mong đợi ở Thiên Chúa mà lại mong đỡi ở tài năng con người
như khoa học, kỹ thuật. Họ tin tưởng ở quyền lực và tổ chức con người để rồi
loại trừ Thiên Chúa. Dĩ nhiên không phải là tất cả, vì còn có những người biết
suy nghĩ cách sâu xa hơn, để rồi nghiêng mình suy tôn Thiên Chúa…
Nhưng xét cho cùng, vẫn còn biết bao nhiêu sự phủ nhận về nhiều
phương diện, hoặc công khai ngoài xã hội, hoặc âm thầm trong đời sống riêng tư.
Sở dĩ như vậy, vì Chúa Giêsu đã rao giảng một nước trời hoàn
toàn khác biệt với mộng ước của người Do Thái, một vương quốc thiêng liêng được
thiết lập trong tâm hồn người đón nhận.
Chúng ta cũng phải rao giảng như thế, mặc dù có trái với mộng
ước của thời đại. Chúng ta phải chèo ngược dòng nước đang cuốn trôi nhân loại.
Như các tông đồ, chúng ta hãy nhắc lại lời Chúa:
- Nước trời đã gần, và đang ở trong tâm hồn những người thiện
chí.
Mọi Kitô hữu đều có bổn phận rao giảng lời Chúa, nhưng rao giảng
bằng cách nào?
Trước hết, rao giảng bằng lời cầu nguyện.
Đây là cách rao giảng tốt nhất mà mọi người đều có thể áp dụng.
Thánh nữ Têrêxa với 24 tuổi đời trong bốn bức tường tu viện, đã được Giáo hội
đặt làm bổn mạng các xứ truyền giáo, phải chăng là nhờ lời cầu nguyện của thánh
nữ mà biết bao tâm hồn được ơn ăn năn sám hối.
Tiếp đến là rao giảng bằng gương sáng, bằng chính đời sống đạo
đức và thánh thiện, bác ái và yêu thương.
Các tu sĩ Phanxicô đầu tiên đã áp dụng phương cách này. Họ rao
giảng bằng cách sống Phúc âm, thực hiện sự khó nghèo giữa một thế giới đang
chạy theo giàu sang, kể cả những người con của Chúa. Họ sống khó nghèo nhưng
trên khuôn mặt luôn phản chiếu niềm vui của thiên đàng, và đó là một bài giảng
hùng hồn nhất. Bài giảng sẽ vô ích nếu người giảng không sống lời mình giảng,
Trái lại, khi đã sống một cách gương mẫu thì bài giảng hoàn tất. Một khi đã
sống thánh thiện và làm gương cho người khác, chúng ta có thể rao giảng bằng
lời nói, đó là cách thức thứ ba.
Nói càng ít càng tốt, nhưng phải nói những lời xuất phát từ một
tâm hồn thánh thiện, những lời được Chúa soi sáng, vì như lời thánh Phaolô:
Muốn tin thì phải được nghe biết, muốn nghe biết thì phải có người nói tới.
Chúng ta cũng đừng quên rằng đời sống càng thánh thiện thì lời giảng càng hiệu
lực.
Sau cùng, rao giảng bằng cách làm tròn bổn phận.
Thực vậy, địa vị nào cũng có thể là một bài giảng sống động, bổn
phận nào cũng có thể là một lời kinh, nếu chúng ta biết thánh hóa, hoàn cảnh
nào cũng có thể giúp chúng ta nên chứng tá cho Chúa ngay giữa lòng cuộc đời của
mình.
19. Chúa Kitô.
Chúa Giêsu mở rộng hoạt động của Người bằng cách sai các môn đệ
ra đi rao giảng Tin Mừng. “Nhóm Mười Hai” là một nhóm nhỏ các môn đệ, còn được
gọi là các tông đồ. Chúa Giêsu đã tuyển chọn để sai đi rao giảng. Họ loan báo
Tin Mừng của Chúa Giêsu và thúc giục người ta hoán cải cuộc sống, để có thể đón
nhận Nước Thiên Chúa đang đến qua con người của Chúa Giêsu.
Qua trình thuật của Tin Mừng, chúng ta thoáng thấy những qui
luật truyền giáo của Hội Thánh tiên khởi. Hoạt động truyền giáo của Giáo hội
được trình bày như là tiếp nối sứ vụ mà Chúa Giêsu đã ủy thác cho các tông đồ.
Các nhà thừa sai rao giảng bằng lời nói và các hoạt động bác ái. Như vậy, Tin
Mừng được chứng minh là công trình của Thiên Chúa nhằm cứu độ những người có
lòng tin.
Các giáo phụ luôn luôn nhắc nhở các tín hữu như sau: “Chúa Kitô
tiếp tục hoạt động trong các bí tích. Khi vị linh mục làm phép Thánh Tẩy, đó là
chính Chúa Kitô thanh tẩy chúng ta. Khi Đức Giám mục ban phép Thêm sức, đó là
chính Chúa Kitô tăng sức mạnh cho chúng ta. Khi linh mục ban phép Giải tội, đó
là chính Chúa Kitô tha tội cho chúng ta. Các thừa tác viên là những người tiếp
nối công trình của Chúa Kitô. Công việc của các ngài là chính hoạt động cứu độ
của Chúa Kitô”.
Những thành viên của phong trào Cursillo đã vẽ một bức tranh
Chúa Kitô không có tay chân. Mỗi một thành viên của phong trào Cursillo được
yêu cầu trở thành tay chân của Chúa Kitô, tiếp tục công trình cứu độ của Chúa
Kitô trong hiện tại. Nếu bức tranh đó mô tả nhiệm vụ của các thành viên trong
phong trào Cursillo, thì điều đó càng đúng hơn cho các thừa tác viên trong Giáo
hội. Họ tiếp tục công việc “rao giảng lòng thống hối, từ bỏ tội lỗi, xức dầu
cho các bệnh nhân và chữa lành cho nhiều người”.
Trở thành một thừa tác viên của Chúa Kitô là một ơn gọi cao quý,
nhưng cũng là một ân huệ. Không ai được tự cho mình có ơn gọi đó. Người ta phải
cầu nguyện, suy nghĩ và chuẩn bị chu đáo cho ơn gọi đó. Nhiều người được gọi
nhưng ít kẻ được chọn. Người ta phải sống gắn bó chặt chẽ với Chúa Kitô, theo
sát Chúa Kitô và sống cho Người. Bất cứ một do dự, một nghi ngờ nào về sự trung
tín của Thiên Chúa cũng là một sự phản bội. Nếu có một sự bất trung nào thì
người ta sẽ thấy đó là do lỗi của chính mình, bởi vì Chúa Giêsu không bao giờ
bỏ rơi những ai chân thành tìm kiếm và bước theo Người.
Lạy Chúa, xin Chúa cho các bậc làm cha mẹ biết quảng đại dâng
hiến con mình trong cuộc sống tận hiến cho việc phụng sự Chúa. Xin Chúa ban cho
chúng con những linh mục thánh thiện như lòng Chúa mong ước.
20. Rao giảng.
Tất cả những người đi tu, nhất là để làm linh mục, thường được
kêu gọi hai lần: lần thứ nhất, Chúa kêu gọi âm thầm trong lòng mỗi người bằng
những ước muốn, yêu thích và qua những biến cố do Chúa quan phòng xếp đặt để
hướng dẫn đương sự tới nơi tu trì hay tới bàn thờ. Lần thứ hai, Chúa kêu gọi
qua sự tuyển chọn và kêu gọi của bề trên hay Đức Giám mục.
Chúa Giêsu cũng đã hành động như thế trong việc kêu gọi các tông
đồ, các môn đệ đầu tiên của Ngài. Chúa kêu gọi họ ngay khi bắt đầu sứ vụ công
khai truyền giảng Tin Mừng. Ngài đã kêu gọi từng người một trong nhiều hoàn
cảnh khác nhau: người thì đang vá lưới, kẻ gặp ở giữa đường, người khác đang
ngồi thu thuế… Rồi Ngài qui tụ họ lại cho ở luôn bên cạnh Ngài, huấn luyện, dạy
dỗ, cho chứng kiến những phép lạ, các công việc Ngài làm, nghe Ngài giảng dạy
dân chúng, thấy gương sáng của Ngài. Giờ đây, muốn sai họ đi truyền giảng Tin
Mừng, Ngài lại chính thức gọi họ một lần nữa như bài Tin Mừng kể lại. Sở dĩ
Chúa làm như vậy là để cho họ thấy rằng: việc trở thành tông đồ, và linh mục
hay cả tu sĩ ngày nay, không phải là sáng kiến của cá nhân họ, nhưng là ơn
thiên triệu Chúa ban, là một thứ đoàn sủng.
Trước khi sai các tông đồ đi truyền giảng, Chúa Giêsu đã căn
dặn họ nhiều điều. Những điều này được coi là khuôn mẫu, là bộ luật chỉ
đạo cho các chiến sĩ truyền giáo. Chúng ta thấy Chúa không bảo họ phải giảng gì
và giảng như thế nào, nhưng phải ăn mặc thế nào, mang những gì, sinh sống đối
xử làm sao với những người mà họ tiếp xúc, đồng thời dùng quyền năng Chúa ban
mà trừ quỷ và chữa bệnh.
Có thể nói: Chúa không dạy các ông phải rao giảng bằng những bài
giảng thuyết tràng giang đại hải hay bằng những lý luận đanh thép, khôn ngoan,
thông thái nhằm thuyết phục mọi người, nhưng Chúa bảo các ông phải giảng
bằng chứng tích, tức là bằng chính đời sống của họ. Còn những điều các
ông phải nói, phải giảng, tóm lại vỏn vẹn có hai hay ba điều: chúc bình an –
báo tin Nước Trời đã đến hay đã gần – và thúc giục người ta ăn năn hối cải.
Nghĩa là Chúa muốn các môn đệ của Chúa nói ít và làm nhiều, dĩ nhiên Chúa không
cấm họ kể lại cho mọi người tất cả những giáo huấn mà họ đã được nghe.
Đối với chúng ta hôm nay, Chúa cũng kêu gọi và sai chúng ta đi
truyền giảng Nước Thiên Chúa. Bởi vì mỗi người chúng ta khi đã lãnh bí tích Rửa
tội và Thêm sức, chúng ta đều được kêu gọi và sai đi rao giảng: Có người bằng
lời nói, nhưng tất cả đều bằng việc làm, tức là bằng đời sống, bằng hành động
gương mẫu tốt lành. Nghĩa là tất cả chúng ta đều phải là chứng nhân của Chúa và
của Nước Trời, không ai được chuẩn chước, cho dù là một bệnh nhân bất toại nằm
trên giường cũng thế.
Rao giảng bằng lời nói của các chiến sĩ Phúc âm, của các vị thừa
sai, của các linh mục… cũng rất cần thiết, nhưng với điều kiện là phải đi đôi
với bằng chứng đời sống của chính các ngài, nếu không lời nói của các ngài chỉ
là tiếng thanh la não bạt rộn ràng. Ngược lại, việc rao giảng bằng đời sống, tự
nó có năng lực thuyết phục người ta chấp nhận chân lý mà không cần lời nói, tuy
rằng lời giảng vẫn có thể bổ túc một cách hữu hiệu. Chúng ta vẫn nói hay nghe
người khác nói: “Lời nói lung lay, gương bày lôi kéo”, lời nói mới chỉ làm lung
lay lòng người, nhưng đời sống sẽ lôi kéo người ấy về hẳn phía mình.
Mỗi Kitô hữu, mỗi người Công giáo là một chứng nhân cho Chúa,
cho đạo. Nếu chúng ta thiếu đời sống tốt lành, thiếu đời sống gương mẫu là
chúng ta đã bỏ mất ơn thiên triệu làm chứng nhân và không thi hành đầy đủ sứ
mệnh tông đồ của mình. Như vậy, cách rao giảng, cách làm chứng cho Chúa, cho
đạo tốt nhất, hữu hiệu nhất là đời sống tốt đẹp của chúng ta. Nghĩa là làm bất
cứ việc gì, ở đâu, với ai, chúng ta hãy để ý đối xử với họ thế nào để gây được
thiện cảm cho đạo, dù đó chỉ là những cử chỉ nhỏ nhặt hay những câu nói buông
trôi giữa trời, bởi vì chính những cử chỉ không tên tuổi, những câu nói giữa
trời, những thái độ dường như vô tình ấy cũng rất có ảnh hưởng và có khi còn
ảnh hưởng sâu xa nữa.
Phương ngôn Ả Rập có câu: “Nếu anh không làm được ngôi sao
trên trời, anh hãy làm cái đèn trong nhà anh”. Nếu đa số chúng ta không
có điều kiện để đi đây đó làm tông đồ, thì tất cả chúng ta đều có thể làm tông
đồ bằng gương sáng. Làm gương sáng là một nhiệm vụ chính Chúa Giêsu đã truyền
dạy: “Các con là cái đèn sáng, sự sáng của các con phải tỏa chiếu trước người
ta, để người ta thấy công việc của các con mà ngợi khen Cha trên trời”. Chúng
ta làm tông đồ bằng cách gây ảnh hưởng tốt và gây ảnh hưởng bằng ngôn ngữ, cử
chỉ, thái độ… Vậy nếu một lời nói, một cử chỉ, một thái độ có thể ảnh hưởng đến
người khác, thì phương chi một hành động, một công việc và nhất là một nếp
sống. Làm gương sáng bằng hành động của chúng ta có sức lôi cuốn hơn những lời
nói hoặc những bài giảng hay.
Gương sáng cụ thể nhất là những việc làm thể hiện tình yêu
thương của chúng ta. Có một người đàn bà kia đã khuyên đứa con cưng của bà
như sau: “Con ơi, ngày con mới sinh, đôi mắt con vừa nhìn thấy ánh sáng, mọi
người đều mỉm cười với con, mà con lại khóc. Con hãy sống thế nào để một ngày
kia, đến giờ sau hết, mọi người đều tràn lệ mà con lại mỉm cười”. Sống thế
nào để được như thế? Chỉ có một cách duy nhất là gieo vào tâm hồn những người
chung quanh một tình thương mến, để đến giờ cuối đó họ phải khóc vì thương
tiếc, và chúng ta mỉm cười vì đã thực thi được tình người, muốn như vậy cần
phải biết yêu thương và thể hiện tình yêu thương.
Xin Chúa cho chúng ta luôn ý thức nhiệm vụ tông đồ và cố gắng
thực hiện bằng cách làm gương sáng và thể hiện tình yêu thương để danh Chúa
được rạng sáng và nước Chúa được mở rộng.
21. Hoạt động tông đồ.
Rất nhiều lần trong Phúc âm, Chúa Giêsu đã than thở, đã tâm sự
với các môn đệ:
- Lúa chín thì nhiều mà thợ gặt thì ít…Ta mang lửa xuống trần
gian và chỉ mong cho lửa ấy bừng cháy lên.
Vì thế, nỗi lo lắng số một trong cuộc đời Chúa, đó là huấn luyện
các tông đồ, để các ông tiếp nối sứ mạng của Ngài.
Chính Ngài đã tuyển chọn các ông, cắt nghĩa cho các ông được
hiểu về giáo lý Tin Mừng, trao ban quyền hành và sai các ông đi truyền giáo.
Phần các tông đồ, các ông cũng đã hăng say đáp trả lời mời gọi của Chúa.
Còn chúng ta thì sao?
Với Bí tích Rửa tội, Chúa cũng đã kêu gọi chúng ta trở nên những
tông đồ. Với Bí tích Thêm sức, Chúa cũng đã sai chúng ta đi vào cuộc đời để làm
chứng cho Ngài. Thế nhưng, chúng ta đã làm được những gì, cho danh Chúa được cả
sáng, và nước Chúa được trị đến?
Nhiều người trong chúng ta đã phủi tay trước nhiệm vụ khẩn thiết
ấy. Họ cho rằng: Hoạt động tông đồ truyền giáo chỉ là một bổn phận dành riêng
cho linh mục và tu sĩ. Còn họ, đang phải vật lộn giữa dòng đời, thì còn hơi sức
đâu mà nghĩ tới.
Vậy họ đã đưa ra những lý do nào để biện minh cho thái độ của
mình.
Lý do thứ nhất như vừa trình bày, họ
cho rằng hoạt động tông đồ và truyền giáo không phải là bổn phận của họ.
Nghĩ như vậy là lầm, bởi vì một khi đã là chi thể của Hội thánh,
chúng ta phải liên đới chịu trách nhiệm về sự sống còn và phát triển của Hội
thánh.
Chính vì thế, Đức Thánh Cha Piô XII đã kêu gọi:
- Hãy liên kết với nhau để xây dựng lại thế giới.
Hơn thế nữa, Kinh thánh đã bảo chúng ta:
- Đức tin không có việc làm thì chỉ là một đức tin đã chết.
Bằng hoạt động, bằng việc làm, chúng ta sẽ biểu lộ được sức sống
của niềm tin.
Lý do thứ hai họ đưa ra, đó là tôi
không có thời giờ và tiền bạc.
Chúng ta nói rằng, chúng ta yêu mến Chúa hết lòng, nhưng thử hỏi
chúng ta đã dành cho Chúa những gì?
Nếu so sánh chúng ta với một đảng viên, một cán bộ, chúng ta sẽ
thấy mình thua xa. Trong một tuần lễ mà thôi, một đảng viên, một cán bộ đã bỏ
ra bao nhiêu thời giờ để hội họp, để thảo luận, để đi đây đi đó mà phổ biến
chính sách đường lối, còn chúng ta thì sao?
Đừng hỏi rằng Chúa đã làm gì cho tôi, mà hãy tự kiểm điểm xem
tôi đã làm được những gì cho Chúa.
Lý do thứ ba họ nghĩ rằng: mình
không có khả năng.
Thực vậy, tôi vừa quê mùa, lại vừa dốt nát, làm sao có thể đối
đầu với những người học rộng biết nhiều và trí thức?
Đọc lại Phúc âm chúng ta thấy các tông đồ là ai? Tôi xin thưa:
- Họ là những ngư phủ đơn sơ và chất phác, học thì ít mà thiện
chí thì nhiều.
Chính thiện chí mới là điều cần thiết, như là một câu danh ngôn
đã bảo:
- Người ta làm được nhiều điều tốt đẹp với một trái tim hơn là
với một cái đầu.
Ngoài ra, làm việc tông đồ đâu có phải chỉ là giảng giải, tranh
biện hơn thua mà còn bằng lời cầu nguyện, còn bằng đời sống đạo đức và thánh
thiện, bác ái và yêu thương của mình nữa.
Trong bàn tay của Chúa, một dụng cụ tầm thường nhất cũng có thể
tạo được những thành công rực rỡ.
Ngày nay chúng ta thường kêu ca:
- Đạo đức thì suy đồi, luân thường thì đảo lộn, con người như đã
đánh mất niềm tin vào những giá trị thiêng liêng.
Nhưng thử hỏi:
- Chúng ta làm được những gì để cải tạo xã hội, hay là chúng ta
cho rằng mình chỉ là một cánh én, làm sao tạo dựng nổi một mùa xuân?
Chúng ta lớn tiếng phê bình chỉ trích, nhưng lại không góp được
một phần nhỏ bé vào công cuộc truyền giáo, đem ánh sáng Phúc âm đến cho những
người chung quanh…
Thiết tưởng, chúng ta nên ghi nhớ và thực hành lời khuyên sau
đây, đó là:
- Thà thắp lên một ngọn nến còn hơn ngồi đó mà rủa xả bóng đêm.
22. Hãy đi rao giảng.
Lần đầu tiên sai các môn đệ đi thực tập rao giảng Chúa Giêsu đã
căn dặn họ nhiều điều. Đoạn Tin Mừng hôm nay chỉ nói đến hai điều: hành trang
phải mang theo là những gì và phải xử trí thế nào trước những thái độ khác nhau
của thính giả.
Bình thường, trước khi đi đâu, nhất là khi đi xa, lâu ngày, một
người cẩn thận, bao giờ cũng phải chuẩn bị, sửa soạn, sắm sửa hành trang. Chẳng
hạn: một người tính đi du lịch Đà Lạt hay Nha Trang, dù chỉ bốn, năm ngày hay
một tuần, trước khi đi, người ấy sẽ chuẩn bị quần áo và những vật dụng cần
thiết. Một người mẹ cho con gái đi ở riêng, trước khi tiễn con lên xe hoa, bà
thường sắm sửa cho con đủ thứ áo xống, vật dụng và căn dặn con đủ cách. Hoặc
khi tiễn người con trai đi nghĩa vụ quân sự, bà cũng lo lắng, sắm sửa, căn dặn
con nhiều điều. Trong phạm vi nghề nghiệp cũng vậy. Làm nghề gì người ta cũng
sửa soạn dụng cụ cần thiết: một bác nông dân đi làm thì phải có cày có cuốc.
Trẻ em đi học thì phải có bút mực, sách vở…
Vậy mà chúng ta thấy, trước khi sai các môn đệ đi rao giảng,
Chúa Giêsu bảo họ: không được mang gì cả, không mang bị, không mang tiền, không
mang hai áo… Tại sao vậy? Bởi vì Chúa muốn họ ra đi truyền giáo phải có tấm
lòng từ bỏ tất cả, thoát ly ra ngoài vòng cương tỏa của vật chất. Họ sẽ sống
một nếp sống bấp bênh. Có vậy họ mới biết bám víu vào Thiên Chúa quan phòng đã
sai họ ra đi.
Vấn đề ở đây, Chúa muốn dạy các môn đệ Ngài phải có một tấm lòng
sẵn sàng từ bỏ: từ bỏ cha mẹ, bà con và chính bản thân, từ bỏ những gì cần
thiết… để họ thảnh thơi ra đi, không bon chen, không dính bén, không vướng víu;
và đi đâu, đến đâu cũng được, nơi đâu cũng là quê hương. Chúa không muốn các
môn đệ Ngài trở thành những hành khách được trang bị đầy đủ để rồi không còn lo
sợ bất trắc. Không, Chúa muốn các môn đệ Ngài phải biết đặt lòng tin vào Thiên
Chúa quan phòng. Ngài muốn họ gặp bất trắc để họ biết phó thác vào Thiên Chúa.
Sau khi căn dặn các môn đệ từ bỏ, tín thác vào Thiên Chúa quan
phòng, Chúa cho họ biết ngay rằng: công việc rao giảng của họ không dễ dàng: có
người chấp nhận, có người không. Vậy họ phải xử trí thế nào? Chúa bảo: gặp được
nhà nào tốt lành, chính đáng, thì ở lại đó cho đến lúc ra đi. Làm như vậy là tỏ
lòng kính trọng, trung thành và biết ơn lòng hiếu khách. Còn làm khác đi dễ gây
hiểu lầm, bội tín. Sở dĩ có lời khuyên như thế là vì hồi xưa, các nhà truyền
giáo không có chỗ ở cố định mà phải nhờ vả rất nhiều vào các tín hữu để truyền
giáo dần dần.
Dĩ nhiên và đương nhiên họ sẽ không được một số nơi tiếp nhận và
còn ngược đãi nữa. Trường hợp đó, Chúa cho phép ra đi tới một nơi khác, và hãy
giũ bụi chân lại cho họ biết lỗi lầm bất kính cảu họ. Người Do thái có thói
quen làm như thế khi họ đi từ vùng dân ngoại vào vùng đất của họ để minh chứng
họ dứt bỏ mọi liên hệ xấu với dân ngoại. Vậy người môn đệ làm như thế để đánh
thức những ai từ chối họ, và cho những người ấy biết rằng cư xử của họ như vậy
là đã trở thành dân ngoại.
Việc Chúa Giêsu sai các môn đệ đi rao giảng và căn dặn các ông
nhiều điều, nhắc nhở chúng ta cũng hãy làm tông đồ cho Chúa. Và tất cả chúng ta
đều biết cách làm tông đồ tốt nhất, được Giáo Hội đề cao và cổ võ nhất, là làm
tông đồ bằng chính đời sống tốt lành của chúng ta. Bởi vì đời sống của một
người tín hữu chẳng những sống mà còn mang một sứ điệp, là người phát ngôn của
Chúa ở nơi mình sống. Thiên Chúa là tác giả viết thư, còn chúng ta là những
dòng chữ sống Thiên Chúa viết trên trần gian này. Đọc bức thư là người ta hiểu
được ý tưởng, vấn đề người chủ muốn viết. Cho nên, đời sống của người Kitô hữu
thánh thiện, tốt lành có giá trị thuyết phục hơn tất cả những bằng chứng khác.
Ngược lại, nếu chúng ta không sống như thế mà còn sống tệ hơn
những người khác thì sao? Chẳng hạn như vấn đề được nêu lên trên một tờ báo như
sau: Khu xóm tôi là một xóm toàn tòng theo đạo. Những ngày Chúa nhật hoặc lễ
trọng, nhà nhà đi lễ, người người đi lễ, rất là nhộn nhịp trong bầu không khí
thánh thiện của một ngày lễ. Đó là một điều đáng mừng đáng quí. Thế nhưng còn
một điều đáng buồn cũng xảy ra thường ngày trong xóm đạo tôi, đó là thiếu tình
thương, thiếu bác ái. Chẳng hạn: hai nhà gần nhau, mấy đứa nhỏ chơi với nhau
rồi đánh nhau. Thế là hai gia đình đó cãi nhau chí tử. Chẳng hạn: buôn bán, vay
mượn tiền bạc của nhau, không biết quên sót hay thiếu đủ sao đó, rồi cũng đi
đến chỗ cãi nhau cả ngày trời, náo động cả khu xóm. Những chuyện như vậy cứ xảy
ra thường xuyên ở khu xóm tôi, một xóm toàn những người có đạo. Thế mà mọi
người vẫn thản nhiên vui sống, vẫn cứ đi lễ, đọc kinh, vẫn cứ cãi lộn, chửi
nhau. Cuối cùng, tác giả bài báo này kết luận: Ước mong xóm đạo tôi ngày càng
sống đạo tốt hơn, tức là vẫn siêng năng đi lễ, cầu nguyện, nhưng cũng biết sống
bác ái, chia sẻ hơn với mọi người chung quanh.
Có lẽ đó cũng là điều ước mong của chúng ta. Chúng ta hãy sống
đạo ở trong nhà thờ, trong gia đình, ở khu phố, ở mọi nơi. Sống đạo thực sự như
thế là chúng ta cũng đang đóng góp phần mình vào công cuộc tông đồ của Chúa và
Giáo Hội.
23. Người sai họ đi.
Đức Giêsu sai các tông đồ ra đi. Kitô giáo luôn là thế. Nó không
bao giờ giữ lại điều gì cho mình. Nó luôn bao hàm sự vươn tới những người khác.
Nếu không có yếu tố này, không còn là Kitô giáo nữa. Và điều đó nhiều lần được
chứng tỏ bằng sự sẵn sàng hy sinh của mỗi người.
Cho tới lúc đó, các tông đồ ở với Đức Giêsu. Suốt thời gian qua,
Người đã giáo huấn họ. Nhưng Người đã chọn họ cho một sứ mạng – giúp truyền bá
Tin mừng về nước Thiên Chúa. Đã đến lúc họ phải góp phần vào công việc ấy.
Người sai họ đi từng hai người một để họ có thể nâng đỡ nhau và học làm việc
với những người khác. Người ban cho họ quyền nói và hành động nhân danh Người.
Hãy nhớ rằng đó chỉ là sứ mạng tạm thời, ngắn hạn và giới hạn
trong các thị trấn và làng mạc Do thái. Sứ vụ sau cùng, khi họ được sai đến
toàn thế giới, vẫn còn trong tương lai.
Sứ vụ của họ trước tiên là một sứ vụ tâm linh – rao giảng sự sám
hối và nước Thiên Chúa đã đến trong thế giới. Nhưng sứ vụ ấy cũng liên quan đến
việc chữa lành thể chất và tinh thần. Nó cho thấy Kitô giáo quan tâm đến hạnh
phúc tinh thần và vật chất của con người. Nói cách khác, nó quan tâm đến con người
toàn diện.
Họ không mang theo những vật chất để cho người ta. Trong bất cứ
trường hợp nào, họ không thể có được những thứ ấy. Nếu việc truyền giáo gắn sứ
điệp với những quà tặng vật chất luôn luôn là điều nguy hiểm. Bởi lẽ người ta
có thể chấp nhận sứ điệp với những lý do sai lầm. Sứ điệp của họ phải tự nó tỏa
sáng giá trị xứng đáng, và phải được chấp nhận chủ yếu bởi những lý do tinh
thần.
Về những trang bị cá nhân, họ chỉ được mang những cái hoàn toàn
cần thiết – dép và gậy. Về lương thực và chỗ ở, họ phải trông cậy vào lòng hiếu
khách của những người mà họ được sai đến. Thật vậy, điều đó có nghĩa là trông
cậy vào sự quan phòng của Thiên Chúa. Nhưng bằng cách ấy, dân chúng sẽ cảm thấy
họ cũng tặng lại một điều gì đó. Sẽ có một sự chia sẻ. Điều này tốt cho các
thừa sai: họ cần dân chúng nơi họ được sai đến. Và cũng tốt cho dân ở nơi
truyền giáo: tốt cho nhân phẩm của họ, và cũng để khuyến khích lòng quảng đại
của họ.
Các thừa sai phải làm chứng về đức nghèo khó bằng sự từ bỏ những
của cải vật chất. Và họ phải chứng tỏ sự liên đới với người nghèo bằng cách
liên kết trong các cuộc đấu tranh của họ và chia sẻ sự nghèo khó với họ. Nhiệm
vụ chính của họ là rao giảng sứ điệp. Nhưng họ không thể kiểm soát, điều khiển
sự đáp ứng của dân và cũng không nên làm như thế. Họ phải tôn trọng tự do của
người được rao giảng. Và họ phải chờ đợi có người sẽ khước từ nó.
Nếu sự rao giảng của họ bị chối bỏ, họ chỉ được phản ứng với một
cử chỉ tượng trưng, phủi bụi dính ở chân. Đây là một hành động có tính tượng
trưng cao đối với người Do thái trong thời đó. Dân chúng sẽ hiểu rõ ý nghĩa của
hành động đó. Nó có nghĩa là các tông đồ sẽ đoạn giao với họ hoàn toàn và kể từ
đó coi họ như người ngoại giáo. Tuy nhiên, cũng có nghĩa như một cữ chỉ quan
tâm. Mục đích của nó là làm cho họ nghĩ lại về những điều mà các tông đồ đã đem
đến cho họ và những hậu quả của việc khước từ. Nó cho thấy số phận của những
người khước từ quà tặng của Thiên Chúa.
Đoạn Tin Mừng này rất thích hợp với chúng ta. Tin Mừng vẫn cần
được rao giảng và cần có những người chấp nhận nó. Giáo huấn của Đức Giêsu vẫn
còn thích hợp cho các thừa sai hôm nay. Dù những điều kiện đã thay đổi, những
nguyên tắc căn bản những giữ nguyên. Những điều kiện ấy thách đố những người có
trách nhiệm rao giảng Tin Mừng và những người được rao giảng – Nó cho thấy tầm
quan trọng của việc cởi mở tâm hồn để đón nhận lời Chúa.
Tất cả chúng ta đều gặp một thách đố lớn là phải trở thành các
môn đệ hoạt động, chứ không phải là các môn đệ thụ động; không chỉ là những
người đón nhận mà còn là những người ban phát. Không phải là cành cây khô hoặc
gốc nho chết mà là những cành cây sống và trĩu quả.
Chúng ta thấy A mốt đã được kêu gọi bỏ công việc bình thường để
đi rao giảng sứ điệp (Bài đọc 1). Mười hai tông đồ cũng thế. Không phải chỉ một
số ít chúng ta được kêu gọi rao giảng Tin Mừng ngày nay. Nhưng tất cả chúng ta
đều được kêu gọi làm nhân chứng cho Tin Mừng. Chúng ta làm điều đó chủ yếu bằng
cách sống Tin Mừng – bằng cách làm môn đệ của Đức Kitô trong thực tế cũng như
trên danh nghĩa.
24. Trách nhiệm.
Trong một ý nghĩa, niềm tin vào Thiên Chúa rất phiền nhiễu bởi
vì nó gia tăng trách nhiệm của chúng ta. Nếu không có Thiên Chúa, thì cũng
không còn trách nhiệm – chỉ còn sự hỗn mang và đêm dài vô tận.
Nếu một người nào đến tìm chúng ta và cầu xin giúp đỡ, chúng ta
không thể xua đuổi người ấy với những lời đạo đức: “Bạn hãy có đức tin, hãy
dâng sự khó khăn này lên Thiên Chúa và Người sẽ giúp đỡ bạn”. Trong những
trường hợp như thế, bạn nên hành động như thể không có Thiên Chúa, như thể chỉ
có một người trên thế gian này có thể giúp đỡ, người ấy chính là tôi.
Nương tựa vào sự quan phòng của Thiên Chúa là một chủ yếu của
Kitô giáo. Nhưng nó không được viện dẫn như một cái cớ để không làm việc gì.
Chúng ta không nên lùi lại và chờ đợi Thiên Chúa làm hết. Thiên Chúa sẽ không
xuống và đích thân Người làm. Thiên Chúa hành động qua chúng ta.
Một ngày mùa đông một người đàn ông đi đến một cậu bé đang ngồi
ăn xin trên một cây cầu của thành phố, gió thổi lồng lộng. Cậu bé run lập cập
vì lạnh và rõ ràng đang cần một bữa ăn ngon. Nhìn thấy cậu bé, người đàn ông
rất tức giận bèn nói với Thiên Chúa:
“Lạy Chúa, tại sao Chúa không làm điều gì đó cho cậu bé này?”
Và Thiên Chúa đáp lại: “Ta đã làm một điều gì đó cho nó rồi”.
Điều này làm người đàn ông ngạc nhiên, vì thế ông nói “Con hy
vọng Chúa không nói rằng: Bất cứ điều gì Chúa làm đều có vẻ như không làm”.
“Ta cũng đồng ý với con điều đó” Chúa đáp.
“ Nhưng bằng cách nào Chúa đã làm điều đó?” Người đàn ông hỏi.
“Ta đã làm ra con” Chúa đáp.
Không có gì sai khi yêu cầu Thiên Chúa chỉnh đốn lại những điều
sai trái và an ủi nỗi khổ đau. Nhưng chúng ta phải nhớ một điều là Người đã
giao phó những nhiệm vụ ấy cho chúng ta.
Chúng ta là những công cụ của Thiên Chúa. Đó là phẩm giá và cũng
là trách nhiệm của chúng ta. Chúng ta phải xác tín rằng không có tình yêu
thương của chúng ta, những người khác sẽ không hoàn thành những việc mà Thiên
Chúa muốn họ làm. Chúng ta thấy điều này rất rõ trong bài Tin Mừng hôm nay. Ở
đây chúng ta thấy Đức Giêsu chia sẻ công việc mở rộng nước Thiên Chúa cho các
tông đồ.
Dĩ nhiên, chúng ta có thể tự hỏi: chúng ta có thể làm gì? Chúng
ta phải trả lời câu hỏi ấy cho chính mình. Nhưng ví dụ sau đây chỉ cho chúng ta
phương hướng đúng.
Một cặp vợ chồng thất nghiệp sống ở Dallas, Texas. Họ rất nghèo
và thường đi quanh thành phố nhặt những lon bia bằng nhôm để bán cho những nơi
tái chế. Trong công việc của họ, họ phải lục lọi trong những thùng đựng rượu
vứt làm rác.
Một buổi sáng họ có một khám phá rất đau buồn trong một thùng
bia đặc biệt. Trong đó họ thấy một cái xác của một trẻ sơ sinh. Họ báo cho cảnh
sát. Cảnh sát tiến hành một cuộc điều tra nhưng không tìm ra dấu vết của cha mẹ
đứa trẻ. Thế là không có ai là người chôn cất cho đứa bé.
Cặp vợ chồng biết ngay việc họ phải làm. Chính họ muốn nhìn thấy
đứa trẻ xa lạ được chôn cất tử tế. Nhưng việc này phải tốn tiền, trong khi họ
lại có quá ít. Người vợ đem cầm vật duy nhất có giá trị, một chiếc nhẫn cưới
hột xoàn, để trả các chi phí mai táng.
Nhờ có sự cố gắng của họ, đứa trẻ đã đến nơi an nghỉ cuối cùng
trong một quan tài màu trắng có phủ hoa. Nước mắt của cặp vợ chồng cũng thanh
khiết như nước mắt của Đức Giêsu trước nấm mồ của bạn Người, Ladarô.
Để trở nên suối nguồn ánh sáng trong thế gian, người ta không
cần giàu sang hoặc có tiếng tăm. Người ta chỉ cần có một tấm lòng yêu thương
nồng cháy.
25. Đức Kitô cần chúng ta.
Cuộc chiến tranh trên bán đảo Triều tiên trước đây là một cuộc
chiến tranh tàn khốc. Một ngôi làng nhỏ rơi vào dưới làn đạn của trọng pháo.
Trong làng, có một ngôi nhà thờ Công giáo. Bên ngoài nhà thờ có một bệ cao, bên
trên có đặt một bức tượng Đức Kitô. Tuy nhiên, khi cuộc chiến qua rồi bức tượng
đã biến mất. Bức tượng đã bị hất ra khỏi bệ vỡ ra từng mảnh trên mặt đất.
Một nhóm lính Mỹ đã giúp vị linh mục thu thập những mảnh vụn.
Một cách cẩn thận, họ đã ráp lại pho tượng. Họ tìm thấy tất cả các mảnh vỡ, trừ
đôi bàn tay. Họ đề nghị khi trở về Mỹ họ sẽ đặt làm đôi bàn tay ấy. Nhưng vị
linh mục đã từ chối.
“Tôi có một ý tưởng hay hơn”, ông nói. “Chúng ta hãy để pho
tượng không có bàn tay. Và chúng ta sẽ ghi vào chân đế lời này. “Bạn ơi, hãy
cho tôi mượn đôi bàn tay của bạn”. Bằng cách đó, những khách vãng lai sẽ nhìn
thấy giờ đây Đức Kitô không có tay nhưng chính tay chúng ta sẽ nâng đỡ người
vấp ngã; không có bàn chân chính chân chúng ta sẽ đi tìm người lạc mất, không
có tai nhưng chính tai chúng ta sẽ lắng nghe người cô độc, không có lưỡi nhưng
chính lưỡi chúng ta sẽ nói những lời an ủi người cô đơn.
Sự cố nhỏ ấy làm sáng tỏ sứ điệp Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu kéo
các tông đồ vào công việc của Người. Người chia sẻ sứ vụ thánh thiêng của Người
cho họ. Người đã cho họ quyền bính và sức mạnh của Người. Đương nhiên, họ cũng
phạm những lỗi lầm, điều này không làm người ta ngạc nhiên khi hiểu rằng họ là
những con người bình thường.
A mốt là một mục đồng bình thường (Bài đọc 1). Tuy nhiên Thiên
Chúa đã sai ông đi rao giảng sứ điệp hối cải cho dân. Hầu hết các tông đồ là
những ngư phủ. Tuy nhiên Đức Giêsu đã không ngần ngại chia sẻ công việc Người
cho họ. Càng ngạc nhiên hơn khi một ngày kia Người sẽ giao phó toàn bộ công
việc cho họ.
Nhiều người đang nắm quyền hành thường sợ kéo người khác vào
công việc, đặc biệt những người được gọi là tầm thường. Vì thế, người khác bị
loại ra với cảm giác rằng họ không đóng góp được điều gì. Để cho người khác
tham gia là điều tốt. Nó làm cho người ta có trách nhiệm. Nó cho người ta một
cơ hội sử dụng tài năng của mình. Nó xây dựng một cộng đoàn tinh thần.
Nhưng một đôi khi người ta không muốn tham gia. Giao việc ấy lại
cho các chuyên viên hẳn là dễ dàng hơn. Ngày nay, người ta thường giao việc cho
các chuyên môn. Vì thế, việc chữa bệnh được giao cho các bác sĩ và y tá. Việc
dạy học giao cho các thầy cô giáo. Còn việc lo cho người nghèo giao cho chính
phủ hoặc Hiệp Hội Bác ái Vinh Sơn Phao Lô.
Dĩ nhiên các chuyên gia rất cần trong các việc chuyên môn. Nhưng
người không chuyên môn cũng có nhiều việc đóng góp và thường có nhiều nhiệt
tình hơn. Người bệnh có thầy thuốc nhưng cũng cần có tình bè bạn. Người già cần
có người chia sẻ thời gian với họ. Người trẻ cần có người tỏ ra quan tâm đến
họ. Đây là công việc mà chúng ta có thể làm được. Nó không đòi hỏi tài chuyên
môn nào mà chỉ cần có một tấm lòng tận tụy.
Kinh Thánh bắt đầu với câu chuyện Thiên Chúa làm con người trở
thành những người cộng tác trong công trình sáng thế. Và Đức Kitô đã cho các
môn đệ tham gia công trình cứu chuộc của Người. Một trách nhiệm cao cả đã được
đặt lên vai chúng ta. Một vinh dự cao quí cũng đã được trao cho chúng ta. Chúng
ta có trách nhiệm về thế giới này của Thiên Chúa và về mỗi người khác. Chúng ta
là những người quản lý tạo vật và là người đồng cộng tác với Đức Kitô.
(Giải thích bản văn Tin Mừng của Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang
Tiến)
Sau khi bị dân chúng ở Nazaréth chối từ, Chúa Giêsu đi rao giảng
ở vùng phụ cận. Đoạn 6:6b-13 nằm trong bối cảnh những sinh hoạt cuối cùng của
Chúa Giêsu ở Galilêa (6:6b-8:26), mà việc trước hết là gởi các môn đệ đi
(6:6b-13), và họ sẽ trở lại tường thuật cho Người những việc họ đã làm (6:30).
Cấu trúc của đoạn: 1- Chúa sai các môn đệ đi trong khi gọi họ đến với Người và
ban cho họ quyền năng (6:7); 2- Chỉ thị cho họ những gì họ phải mang theo mình
(6:8-9); 3- Cách thức họ phải cư xử (6:10-11) và lời của thánh sử về việc họ đã
thi hành bổn phận của họ như thế nào (6:12-13).
Đây là lần đầu tiên các môn đệ được sai đi. Khi thiết lập nhóm
Mười Hai, Chúa Giêsu đã nhắm đến hai điều chính: là “ở với Người” và “để sai
đi” (3:14). Người đã nói với những người đầu tiên được kêu gọi là họ sẽ trở nên
những người đánh cá con người (x. 1:17). Sứ mạng của nhóm Mười Hai chứng tỏ một
cách mới mẻ quyền năng của Chúa Giêsu. Người kêu họ đến với Người, sai họ đi,
ban cho họ quyền năng và chỉ định cho họ cách hành xử. Họ đi rao giảng và làm
chứng không phải cho tin mừng của họ, mà của tin mừng đã lãnh nhận từ Người (x.
Mt 18:16). Việc xua trừ ma quỉ trước đây là của Người, bây giờ việc nầy được
trao phó cho họ để thi hành (x. 1:23-27.34.39; 3:11-12.22; 5:1-20; 3:15).
Chỉ thị trước tiên là các môn đệ không được có gì cả, ngoại trừ
chỉ một cây gậy, đôi dép và một cái áo là những thứ cần thiết của người đi trên
đường (c. 9). Họ không mang theo lương thực cần thiết cho bản thân, mà là sứ
điệp và quyền hành nhân danh Người để nuôi sống cách thiêng liêng người khác.
Phù hợp với điều nầy Phêrô đã nói với người què: “Vàng và bạc tôi không có.
Nhưng tôi cho anh điều tôi có là nhân danh Chúa Giêsu Kitô Nazaréth, anh hãy
bước đi” (Cvtđ 3:6). Tiếp đến là cách hành xử nếu như người ta từ chối đón nhận
sứ điệp họ mang đến. Với cử chỉ giũ bụi khỏi dép các môn đệ cho họ thấy là giữa
họ và những người không đón nhận họ không có một điểm chung và quan hệ nào cả
(x. Cvtđ 13:51; 18:6).
Sứ mạng của các môn đệ xem ra nằm ngoài thời gian và không gian.
Cũng không có một chỉ dẫn đặc thù nào về nơi chốn và thời gian mà họ được sai
đến. Tuy nhiên quan hệ giữa họ với Chúa Giêsu được xác định rõ ràng: Người sai
họ đi và họ sẽ trở về tường thuật với Người những điều họ đã làm. Như thế, sứ
mạng của họ lệ thuộc hoàn toàn vào Người. Marcô không cho biết nội dung của sứ
điệp, mà hành động đi rao giảng của họ. Mục đích của việc nầy làm làm cho người
ta hoán cải và trở về với Thiên Chúa. Sứ điệp nầy tương tự với sứ điệp Gioan
Tẩy Giả đã rao giảng (1:4); kèm theo đó, họ xua trừ ma quỉ và chữa bệnh họ.
Phần Chúa Giêsu, Người kêu gọi không chỉ sám hối mà cả tin vào Tin Mừng nữa
(1:14-15).
Từ khi được kêu gọi làm ngư phủ của con người (1:7) đến khi được
thiết lập thành nhóm Mười Hai (3:14-15), đây là lần đầu tiên họ được sai đi để
học kinh nghiệm bản thân về sứ mạng của họ. Họ lệ thuộc vào Chúa Giêsu, Đấng kêu
gọi họ, không chỉ như là môn đệ, mà là tông đồ, người được sai đi.
27. Đức Giêsu sai nhóm mười hai đi
(Chú giải và suy niệm của Lm. FX. Vũ Phan Long)
1.- Ngữ cảnh
Đức Giêsu đã thiết lập Nhóm Mười Hai với hai mục tiêu: họ phải ở
với Người và phải được Người cử đi loan báo Tin Mừng và trừ quỉ (Mc 3,14t). Kể
từ khi được Người chỉ định, Nhóm Mười Hai ở với Người, đồng hành với Người,
chứng kiến tất cả hoạt động giảng dạy và tất cả các hành vi quyền lực của
Người. Như thế, các ông chu toàn mục tiêu đầu tiên mà Đức Giêsu nhắm cho các
ông, khi các ông cùng đi với Người trong khi Người chu toàn sứ mạng của Người
(x. 1,38).
Đức Giêsu đang đi đường và giảng dạy các làng trong miền Galilê
(6,6). Kế đó, Người cử Nhóm Mười Hai đi, để các ông nối tiếp công việc của
Người.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành hai phần:
1) Đức Giêsu ban chỉ thị cho Nhóm Mười Hai (6,7-11):
a-
Nhóm Mười Hai được giao phó sứ mạng (c. 7),
b-
Giáo huấn của Đức Giêsu về hành trang (cc. 8-9),
c-
Giáo huấn của Đức Giêsu về cách xử sự (cc. 10-11);
2) Nhóm Mười Hai thi hành sứ mạng (6,12-13).
3.- Vài điểm chú giải
- Nhóm Mười Hai (7): Đời tông đồ là
một cuộc hành trình để nên đồng hình đồng dạng với Đức Giêsu. Điều này được tác
giả Mc diễn tả bằng cách dùng thuật ngữ “Nhóm Mười Hai” ở 7 điểm quan trọng.
Thuật ngữ này trở đi trở lại theo những khoảng cách đều đặn: từ khi Nhóm được
thành lập cho đến khi tan rã vào lúc Giuđa phản bội, Nhóm được nhắc đến ở mỗi
chặng quan trọng. Các ông đi theo Đức Giêsu từ lời đầu tiên loan báo về Nước
Thiên Chúa cho đến thử thách cuối cùng:
1) Lần đầu, ở ch. 3: Đức Giêsu “thành lập (= tạo thành) Nhóm
Mười Hai, để các ông ở với Người và để Người sai đi rao giảng” (3,14). Và xa
hơn: “Người thành lập Nhóm Mười Hai” (3,16).
2) Ở ch. 4: “Khi còn một mình Người, những người thân cận cùng
với Nhóm Mười Hai mới hỏi Người về các dụ ngôn” (4,10). Lần đầu tiên Nhóm Mười
Hai hỏi riêng Đức Giêsu: điều này chứng tỏ Nhóm được tuyển chọn để được đào tạo
riêng.
3) Ở ch. 6: “Đức Giêsu gọi Nhóm Mười Hai” (6,7). Trong TM Mc, từ
ngữ “tông đồ” chỉ được dùng ở 6,30.
4) Ở ch. 9: Đức Giêsu nhắc bảo các môn đệ vài điều: “Ngài gọi
Nhóm Mười Hai lại mà nói: “Ai muốn làm đầu, thì phải làm người rốt hết, và làm
tôi tớ mọi người” (9,35).
5) Ở ch. 10: Đức Giêsu loan báo Người sẽ chết và sống lại. Đức
Giêsu dẫn các ông; các ông kinh hoàng, còn nhưng kẻ theo sau cũng sợ hãi. Người
lại kéo riêng Nhóm Mười Hai ra, và bắt đầu nói với các ông về những điều sắp
xảy đến cho mình” (10,32).
6) Ở ch. 11: Đức Giêsu đã đi vào Giêrusalem: “Sau khi rảo mắt
nhìn xem mọi sự, Người ra khỏi thành…, và tiến về Bêtania cùng với Nhóm Mười
Hai” (11,11). Câu 11 là như lời dẫn nhập vào hoạt động của Đức Giêsu tại
Giêrusalem (nơi chốn, hoàn cảnh, chương trình hành động), và Nhóm Mười Hai là
những người tháp tùng Người.
7) Ở ch. 14 (tại Giêrusalem): Đây là khởi đầu cuộc Thương Khó,
Nhóm Mười Hai được nhắc đến thường xuyên, nhưng như là Nhóm trong đó có kẻ phản
bội: 14,10.17.20.43. Mỗi lần kẻ phản bội được nhắc tên cũng là mỗi lần Nhóm
được nhắc lại. Ở 14,17, Nhóm Mười Hai được nêu lên như là những người tháp tùng
Đức Giêsu vào Tiệc Ly và đồng bàn với Người.
Khi nêu bật Nhóm Mười Hai, Mc cho thấy rằng Tin Mừng không phải
là một hệ thống các giáo thuyết hoặc luật lệ. Khi nêu bật Nhóm Mười Hai, Mc cho
thấy rằng Tin Mừng được mạc khải và đón nhận xuyên qua một quan hệ riêng tư với
Đức Giêsu, được truyền đạt bởi những sứ giả được đào tạo từ chính quan hệ này,
và, cuối cùng, điều ngài muốn là đưa độc giả đi dần vào quan hệ riêng tư và
trọn vẹn này với Đức Giêsu.
- Quyền trừ quỉ: Mc trình bày sứ mạng
của Nhóm Mười Hai như là việc nối dài chính sứ vụ của Đức Giêsu là rao giảng và
chữa bệnh (chủ yếu là trừ quỉ).
- không được mang gì đi đường (8): Tình trạng
thiếu trang bị vật chất như thế phản ánh tính cấp bách của công tác và sự tin
tưởng ký thác hoàn toàn vào tay Thiên Chúa.
- chỉ trừ cây gậy: Mt 10,10 và Lc 9,3 cấm các môn
đệ cầm gậy đi đường. NJBC giải thích: hoặc bản văn Mc có khuynh hướng chế giảm
hoặc đây là cách đọc sai từ A-ram l’ (“không”) thành ’l’ (“ngoại trừ”). Hay là
phải chăng vào thời Mc, tình thế còn khá nguy hiểm, nên còn chấp nhận một vài
chế giảm như thế?
- bao bị: Từ Hy Lạp pêra là túi xách để đựng hành
trang đi đường hoặc của bố thí.
- được đi dép (9): Mt 10,10 và Lc 9,3 cấm các môn
đệ đi giày; có lẽ đây là cấm đi một đôi dư ra (Mt dùng từ hypodêma, vật bó dưới
chân; còn Mc dùng từ sandalion), bởi vì đi chân không trên các nẻo đường đầy
sỏi đá xứ Paléttina thì rất vất vả.
- hai áo: Từ Hy Lạp chitôn là áo trong, mặc sát
người.
- giũ bụi chân (11): Khi có nơi nào không đón tiếp
mình, người môn đệ được hướng dẫn làm thành một hành vi biểu tượng thôi, chứ
không trả đũa thô bạo. Hành vi này nhằm thúc bách những con người tại nơi ấy
phải suy nghĩ. Hành vi này cũng có thể có liên hệ với việc giũ bụi chân khi trở
lại xứ Paléttina. Khi ấy, ý nghĩa của hành vi này là thành thiếu lòng hiếu
khách thì không thuộc về Ít-ra-en chân chính.
- Các ông đi rao giảng, kêu gọi người ta ăn năn sám hối
(12): Câu tóm về lời rao giảng của các môn đệ làm vọng lại câu tóm về lời rao
giảng của Đức Giêsu trong 1,14-15: các môn đệ chia sẻ sứ mạng của Thầy (x. c.
13).
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Đức Giêsu ban chỉ thị cho Nhóm Mười Hai (7-11)
Đức Giêsu đã “gọi lại với mình” Nhóm Mười Hai: điều này chứng tỏ
uy quyền của Người và sự chọn lựa của Người. Người cử Nhóm Mười Hai đi, để các
ông nối tiếp công việc của Người. Các hình thái cơ bản trong hoạt động của các
ông là loan báo Tin Mừng và xua trừ ma quỉ (3,14t; 6,7.12t): đây cũng là những
nhiệm vụ của Đức Giêsu (1,14t; 1,21-27; 1,39). Người không chu toàn sứ mạng một
mình, nhưng chia sẻ sứ mạng đó cho những người mà Người đã uốn nắn và đào tạo
nhờ tiếp xúc thường xuyên với Người. Cũng như Người, các ông cũng phải loan báo
Tin Mừng là Triều Đại Thiên Chúa đã gần. Cũng như Người, các ông phải truyền
đạt với xác tín cao và vững chắc sứ điệp vui tươi và giải phóng này: chỉ mình
Thiên Chúa là Chúa tể; quyền làm chủ của Ngài trên muôn loài muôn vật, vào lúc
này, người ta chưa nhận ra được, nhưng đến một lúc nào đó, chắc chắn sẽ tỏ hiện
rõ ràng.
Chân lý hệ trọng này, các môn đệ phải loan báo không những bằng
lời nói, mà còn phải cho thấy nó có giá trị thực sự bằng hành động nữa. Hành
trang của các ông chỉ có những gì cần thiết cho một lữ khách: một cây gậy, một
áo choàng và đôi dép. Người ta phải thấy được rõ ràng là các ông không sở hữu
gì cả và các ông không có gì mà mang theo cả, ngoại trừ sứ điệp của các ông:
các ông chỉ là sứ giả mà thôi. Về lối sống của các ông, Đức Giêsu cho hai chỉ
thị: các ông không được đòi hỏi gì và phải ý thức về sứ mạng của các ông. Các
ông phải bằng lòng với mọi kiểu nơi ăn chốn ở có được, chứ không đi hết nhà này
đến nhà kia để tìm được nếp sống thoải mái hơn. Các ông phải nêu bật ý nghĩa
của sứ điệp. Ai không muốn nghe, các ông phải cho họ hiểu rõ ràng rằng khi từ
chối như thế, họ đã lấy một quyết định hệ trọng trong quan hệ đối với ơn cứu
độ: giũ bụi chân để cho hiểu rằng vừa xảy ra một việc tách biệt quyết liệt,
“giữa chúng ta, không còn liên hệ gì nữa!”. Từ chối sứ giả có nghĩa là từ khước
sứ điệp.
* Nhóm Mười Hai thi hành sứ mạng (12-13)
Giữa phần mô tả hoạt động của Nhóm Mười Hai (6,12t) và việc họ
trở về (6,30), TM II không nói gì đến hoạt động của Đức Giêsu. Hoạt động của
các tông đồ có trọng lượng riêng, chứ không phải là một chuyện phụ thuộc được
che phủ bởi hoạt động của Đức Giêsu. Hoạt động của các ông có trọn vẹn tầm quan
trọng của nó. Các ông đã ra đi thi hành hai điều cốt yếu trong chỉ thị của Đức
Giêsu: rao giảng và trừ quỉ.
+ Kết luận
Khi đọc đoạn văn trên đây, Giáo Hội (và mỗi Kitô hữu) được mời
gọi nhận ra câu truyện về ơn gọi của chính mình. Giáo Hội (và mỗi Kitô hữu)
không được khép kín trên chính mình, theo một số tiêu chuẩn xã hội học nào đó.
Giáo Hội sẽ phải ra đi đến mọi phương trời vào mọi thời đại.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Nhiệm vụ của người Kitô hữu hôm nay cũng không khác nhiệm vụ
của Nhóm Mười Hai xưa kia: loan báo Tin Mừng và giảm thiểu ảnh hưởng của sự dữ.
Nhưng sức riêng không giúp họ chu toàn được sứ mạng này; họ cần phải liên kết
mật thiết với Đức Giêsu (“ở với Người”; x. 3,14).
2. Người Kitô hữu không được chỉ giới hạn vào việc lắng nghe sứ
điệp về Triều Đại Thiên Chúa, mà còn phải nhận ra trong đời sống mình có quyền
lực của Thiên Chúa đang hoạt động để đưa lại sự giải thoát và niềm vui.
3. Làm chứng bằng lời nói là một khía cạnh của sứ mạng tông đồ.
Tuy nhiên, sứ mạng này sẽ khiếm khuyết nếu việc làm chứng bằng lời nói không
được phối hợp với việc làm chứng bằng hành động, bằng chính đời sống mình.
4. Người Kitô hữu luôn nhớ rằng mình là người được sai phái đi,
nên phải lệ thuộc vào các chỉ thị của Chúa mình và phải trả lời về cách thực
hiện các mệnh lệnh của Người. Như thế, ra đi loan báo Tin Mừng không phải là cơ
hội để truyền đạt và áp đặt các tư tưởng của riêng mình.
28. Chú giải của Noel Quesson.
Chúa gọi Nhóm Mười Hai lại, và sai đi từng hai người một.
Một trong những việc làm đầu tiên của Đức Giêsu, ngay từ bắt đầu
cuộc sống công khai, là chọn những cộng tác viên (Mc 1,16). Sau khi đã dần dần
bổ sung nhóm môn đệ (Mc 2,14), cuối cùng Đức Giêsu đã chọn 12 vị. Con số tượng
trưng ám chỉ ý định của Người muốn thành lập một dân tộc Israel mới, dựa theo
mười hai Tổ phụ hay mười hai Chi tộc. Trong phần đầu của Tin Mừng, chúng ta
thấy các Tông đồ đi theo Đức Giêsu và ở “với Người” (Mc 3,14).
Hôm nay, có thể nói, Đức Giêsu sắp ẩn mình đi và trao phó sứ vụ
của Người trong tay các tông đồ. Lần đầu tiên các ông đi rao giảng một mình,
không có Đức Giêsu. Đó là thời kỳ Giáo Hội đang bắt đầu. Trước tiên, chúng ta
có thể cầu nguyện dựa trên thái độ này của Người: Thiên Chúa của chúng ta,
Người trao cho chúng ta những trách vụ quan trọng: Người không điều khiển chúng
ta như những con rối. Tôi có những trách nhiệm nào? Lạy Chúa, Chúa chờ đợi gì
nơi con?
Chúa sai họ đi.
Trong năm chương đầu của trình thuật, Maccô đã nhấn mạnh cho
chúng ta thấy “Đức Giêsu với các môn đệ”, tạo thành một nhóm duy nhất và hợp
nhất đối lại với đám đông, với các đối thủ. Vào lúc “kêu gọi” các ông (Mc
3,13-14), Maccô ghi nhận, Đức Giêsu đã “thiết lập Nhóm Mười Hai” để ở với Người
và để Người “sai họ đi”. Đó cũng chính là chuyển động của trái tim: Tâm trương…
tâm thu... máu vào tim rồi chuyển đến các cơ quan. Hoạt động tông đồ thông
thường cũng như thế: Sống kết hợp mật thiết với Chúa Kitô, mang Đức Kitô đến
khắp nơi trên thế giới. Đó cũng là hoạt động của đời sống Kitô hữu: Tập họp
quanh Chúa vào mỗi Chúa nhật, tản mác trong cuộc sống hằng ngày để nên nhân
chứng sống động của Chúa.
“Anh hãy đi! Anh em được sai đi” “Ite, Missa est” chữ Messe
(Thánh Lễ) có nghĩa là “sự sai đi”. Chính Chúa đã thiết lập nhịp sống đó. Tôi
có sống như thế không? Tôi có thường sống “với Chúa” trong suy niệm, trong
nguyện cầu không? Tôi có ý thức mình được Chúa “sai đi” vào đời sống thướng
nhật để làm một việc gì đó, có liên quan đến Chúa không?
Người sai đi từng hai người một.
Phải có hai người thì chứng tá mới có giá trị (Ds 17,6; 19,5).
Dân gian đã khôn ngoan đặt ra nhiều câu ngạn ngữ để nói về điều này. “Hai người
có giá trị hơn một, nếu họ ngã, người này đỡ người kia dậy, nhưng khốn cho kẻ
đi một mình” (Gv 4,9).
Quy tắc đầu tiên của việc tông đồ là tạo thành nhóm. Nếp sống
huynh đệ là một bài giảng về tình yêu, trước khi bàn tới. “Các bạn hãy nhìn xem
họ thương nhau biết bao!”. Chứng tá Kitô hữu phải nhắm đến một hình thức cộng
đoàn trong Giáo Hội. Đó là ý muốn rõ ràng của Đức Giêsu. Vậy tôi phải tự vấn về
thái độ của tôi. Chủ nghĩa cá nhân có nhưng hình thức tinh vi và đáng sợ: Chúng
ta không thích những người anh em khác kiểm tra thái độ sống của riêng mình.
Tuy nhiên?
Người chỉ thị cho các ông không được mang gì đi đường, trừ cây
gậy; không được mang lương thực, mang bao bị, mang tiền giắt lưng; được đi dép,
nhưng không được mặc hai áo.
Điều đáng lưu ý là chúng ta không thấy Đức Giêsu dặn dò các Tông
đồ về nội dung giáo thuyết, “Sứ vụ” của các ông. Chúa không bảo các ông “phải
giảng điều gì”. Người chỉ nhắc nhở các ông những chi tiết “phải sống”. Đối với
Đức Giêsu, chứng tá bằng cuộc sống quan trọng hơn chứng tá bằng lời nói.
Thực tế lời khuyên duy nhất của Thầy liên quan đến đòi hỏi sống
nghèo khó. Những người đại diện Chúa phải tỏ ra mình không cậy dựa vào sự giúp
đỡ, vào uy tín nào của con người. Tất cả chỉ dựa vào niềm tin nơi Đấng đã sai
họ. Thánh Phaolô sẽ khai triển đòi hỏi này khi khẳng định: “Vinh quang của
Thiên Chúa rạng ngời lên gương mặt Đức Kitô, nhưng kho tàng ấy, chúng tôi lại
chứa đựng trong bình đất, để chứng tỏ quyền năng phi thường phát xuất từ Thiên
Chúa, chứ không phải từ chúng tôi” (2 Cr 4,6-7). Thánh Phaolô cũng khoe về sự
nghèo khó của mình: “Khi tôi đến với anh em, tôi đã không dùng lời nói hùng hồn
hoặc triết lý cao siêu... nhưng tôi thấy mình yếu kém, sợ sệt và run rẩy... có
vậy đức tin của anh em mới không dựa vào lẽ khôn ngoan người phàm, nhưng dựa
vào quyền năng Thiên Chúa” (l Cr 2,1-5).
Vâng, điều Đức Giêsu muốn, đó là những đoàn ngũ phải nhẹ nhàng,
không có những hành trang cồng kềnh, luôn sẵn sàng đi nơi khác. Lữ khách, phải
là người sẵn sàng. Có lẽ, Giáo Hội không ngừng tự “làm nhẹ bớt” để sẵn sàng
theo sự thúc đẩy của Thánh Thần.
Còn tôi? Tôi sống thế nào trước đòi hỏi nghèo khó này? Đức Giêsu
đã nói rõ với các bạn hữu của Người, chỉ mang theo những vật hết sức cần thiết.
Chiến thắng sự cám dỗ của tiền bạc là chiến thắng đầu tiên của Tin Mừng, là bài
giảng đầu tiên rất cần thiết cho một thế giới tham lam, là trận chiến hàng đầu
(nơi chính bản thân mình trước hết) chống lại một kẻ thù lớn của nhân loại: Sự
chiếm hữu của cải! Nguồn gốc của chia rẽ, tranh chấp và kiêu ngạo!
Lạy Chúa, xin giúp chúng con đến gần lý tưởng từ bỏ mà Chúa mong
muốn.
Còn nơi nào người ta không đón tiếp và nghe lời anh em, thì khi
ra khỏi đó, hãy giũ bụi chân để tỏ ý phản đối họ.
Chúng ta ngạc nhiên vi tầm quan trọng của thái độ khước từ “tiếp
nhận” trong diễn từ của Đức Giêsu. Nhưng môn đệ của Người có thành công lắm
không? Hình như không được khá lắm. Người ta dễ dàng đoán được những ý nghĩ:
“Các ông muốn chúng tôi trở lại chăng? Nhưng hiện nay chúng tôi rất tốt! Chúng
tôi là những người Do Thái tốt theo truyền thống. Tại sao phải thay đổi những
thói quen của chúng tôi? Xin các ông hãy đi giảng đạo nơi khác” Những khó khăn
của Kitô hữu khi trình bày đức tin không phải chỉ ngày nay mới có, Đức Giêsu
nói với chúng ta hôm nay: “Các con chớ có lo lắng. Đây là điều Thầy đã tiên
liệu, Thầy đã báo trước cho các con”. “Chúng ta chớ nên ảo tưởng”.
Ngày nay cũng như thời Đức Giêsu sứ điệp đích thực của đức tin
vẫn bị đa số khước từ, không đón nhận. Vì thế điều Đức Giêsu yêu cầu chúng ta
là: Luôn đứng vững đừng ngã lòng: “Nếu người ta không tiếp nhận các con, các
con hãy đi nơi khác”. Chịu đựng thái độ không tin, lãnh đạm, chối bỏ,... điều
đó xem ra hết sức bình thường đối với Đức Giêsu. Sự thật là khó khăn. Đức Giêsu
đã báo trước điều đó cho những người được sai đi rao giảng Tin Mừng.
Các ông đi rao giảng, kêu gọi người ta ăn năn sám hối. Các ông
trừ được nhiều quỷ, xức dầu cho nhiều người đau ốm và chữa họ khỏi bệnh.
Họ đã làm đúng những gì họ thấy Đức Giêsu làm khi họ “ở với
Người”. Nội dung của nỗ lực “truyền giáo” gồm 3 giai đoạn:
1. Rao giảng lời Chúa, đòi hỏi một sự thay đổi đời sống, một
cuộc hoán cải.
2. Chiến đấu chống sự dữ, xua đuổi ma quỷ ra khỏi con người để
giải thoát họ.
3. Hoạt động giúp người nghèo, cải thiện đời sống và chữa lành
bệnh tật.
Hoán cải
Đó là nội dung thứ nhất của việc rao giảng: Hãy thay đổi cách
sống. Hãy hoán cải. Chúng ta hiểu vì sao các Tông đồ được ít người nghe theo và
bị từ chối. Thông thường, con người không thích “thay đổi” cách sống: Hãy để
cho chúng tôi yên! Thế mà, Thiên Chúa lại hay gây phiền hà, Người yêu cầu chúng
ta dấn thân vào một cuộc sống mới. Chữ Hy Lạp “mitanoa” dịch ra là “hoán cải”,
có nghĩa là “đổi ngược tinh thần”. Vậy là phải đổi hướng: Chúng ta đã đi theo
một hướng, bây giờ phải quyết tâm đổi ngược lại. Đây không phải là điều dễ. Tin
Mừng luôn mang tính ác liệt. Chúng ta đã biến Tin Mừng trở nên loại gì? Một thứ
học thuyết thiếu năng động? Một thứ thuốc ngủ? Một thứ nâng đỡ cho trật tự hiện
hành? “Các Ngài đã kêu to” “ékèruxan” phải thay đổi cuộc sống “Metanoôsin”.
Trừ quỷ
Chắc hẳn Maccô đã dùng những cách mô tả theo tâm thức của những
người đương thời, nhưng rõ ràng sứ vụ mang tính chất bi kịch. Đó là một cuộc
chiến! Một cuộc chiến chống lại quyền lực của sự dữ trên thế giới. Những “nhà
truyền giáo” những người được Chúa “sai đi” không quảng cáo cho một sản phẩm để
bán chạy. Các Ngài đã lên đường để đương đầu với một đối thủ ghê gớm. Sự chống
đối mà các Ngài gặp không chỉ đến từ những người khước từ vì không hiểu. Có một
lực lượng đối kháng. Một sự chống lại Tin Mừng đến từ xa hơn: Đó là những điều
chúng ta gọi là 'tội lỗi thế gian’. Ngày nay, chúng ta có thể diễn tả thế nào
về những thế lực xấu xa mà chúng ta phải chống lại để xua đuổi chúng.
Chữa lành
Lôi kéo con người ra khỏi những thế lực xấu làm cho họ hư mất,
đó cũng là giúp họ thăng hoa phẩm giá một cách tích cực, là chữa lành họ. Đây
là một trong những đòi hỏi rõ ràng của Đức Giêsu. Mệnh lệnh vẫn có giá trị, mặc
dù trong bối cảnh văn minh hiện nay, nó mang một hình thức cụ thể khác.
Rao giảng Tin Mừng.
Không phải chỉ là “giảng dạy” mà đặc biệt còn là “giải thoát”.
Ngày nay rao giảng Tin Mừng phải có những hình thức tân tiến và thích ứng thế
nào để phù hợp với thời đại của chúng ta? Chúng ta phải chiến đấu chống lại
những sự dữ nào? Xã hội chúng ta cần sự chữa lành nào?
Tin Mừng vẫn luôn mang tính thời sự, nhưng chính chúng ta không
còn nghe được lời kêu gọi hoán cải của Tin Mừng nữa.