Chủ đề: CHÚA TỂ CỦA THIÊN NHIÊN
-
Bài đọc I (G 38,1.8-11): Giavê cho ông Gióp biết Ngài là chúa tể của thiên
nhiên.
-
Đáp ca (Tv 106): Ca tụng uy quyền Thiên Chúa trên biển cả.
-
Tin Mừng (Mc 4,35-41): Đức Giêsu dẹp yên bão tố.
I. DẫN VÀO THÁNH Lễ
Anh chị em thân mến
Đồng bào chúng ta vẫn tin ở Ông Trời, coi
Ông Trời là Đấng làm chủ gió mưa, thời tiết, mùa màng và nắm vận mạng của con
người. Phần chúng ta, nhờ đức tin, chúng ta được biết Ông Trời ấy chỉ là một ý
thức mơ hồ về Thiên Chúa. Chúng ta cảm tạ Thiên Chúa đã cho chúng ta được biết
Ngài và chúng ta hãy cố gắng yêu mến thờ phượng Ngài cho xứng đáng, nhất là trong
Thánh lễ này.
II. GỢI Ý SÁM HỐI
-
Thiên Chúa là chủ tể thiên nhiên. Đối với Ngài, chúng ta thường cầu xin ơn
này ơn nọ, nhưng ít khi để ý tới việc thờ phượng Ngài.
-
Thiên Chúa là Đấng quan phòng chăm sóc mọi loài. Nhưng ít khi chúng ta
trông cậy phó thác vào Ngài.
-
Ngày xưa, Đức Giêsu đã trách các môn đệ thiếu đức tin. Huống chi chúng ta,
đức tin chúng ta cũng rất yếu kém.
III. LỜI CHÚA
1. Bài đọc I (G 38,1.8-11)
Gióp là một người công chính nhưng phải gặp
rất nhiều tai họa. Thân nhân ông trách móc Chúa và không tin vào Chúa nữa. Phần
ông, ông không dám trách mà chỉ than thở và cầu xin Chúa cho ông một lời giải
đáp về lý do những khổ sở ông đang chịu.
Trong trích đoạn này, Thiên Chúa đưa ra một
lời giải đáp gián tiếp: Ngài là chủ tể của thiên nhiên. Chính Ngài điều hành sức
mạnh của nước: Ngài tạo dựng ra nó, ấn định cho nó được chảy tới đâu, ngăn
không cho nó tràn bờ…
Lời giải đáp hàm chứa trong Lời Chúa là: mọi
sự lành hay sự dữ đều được Chúa cho phép mới xảy tới, con người phải biết phó
thác vào sự sắp xếp của Ngài.
2. Đáp ca (Tv 106)
Tv này là một bài ca tụng uy quyền Thiên
Chúa trên biển cả.
3. Tin Mừng (Mc 4,35-41)
Biển hồ Galilê thường có bão, nhất là vào
buổi chiều. Chiều hôm ấy Đức Giêsu bảo các môn đệ dùng thuyền đi từ bờ bên này
sang bờ bên kia. Xem ra Ngài cố ý để cho họ gặp bão.
Khi bão đến, Đức Giêsu lại bình thản dựa
vào chiếc gối sau lái mà ngủ. Đây lại là một việc làm cố ý để thử xem các môn đệ
phản ứng thế nào trong cơn bão.
Phản ứng của họ là "kinh hãi", lại
còn trách Chúa "Chúng con chết mất mà Thầy không quan tâm sao!"
Đức Giêsu đứng lên, và chỉ cần phán một lời,
bão liên ngưng. Một bằng chứng rõ ràng Ngài là chủ tể của thiên nhiên.
Sau đó, Đức Giêsu vừa trách các môn đệ vừa
kêu gọi họ hãy tin vào uy quyền của Ngài.
4. Bài đọc II (2 Cr 5,14-17)
Chúng ta có thể tóm tắt ý tưởng của Phaolô
trong trích đoạn này là: Đức Giêsu Kitô là tất cả.
Sau đây là các chi tiết trong lập luận của
thánh Phaolô:
-
Vì Đức Kitô đã chết thay cho chúng ta, nên đáp lại chúng ta phải sống
cho Ngài chứ đừng sống cho mình nữa.
-
Chúng ta cũng chẳng cần biết ai khác ngoài một mình Đức Kitô.
-
Đức Kitô đã ban cho chúng ta một cuộc sống mới, vậy từ nay chúng ta phải
bỏ hết những gì thuộc cuộc sống cũ để sống một cuộc sống hoàn toàn mới trong Đức
Kitô.
IV. GỢI Ý GIẢNG
* 1. Chúa tể thiên nhiên
Bài đọc thứ I của Thánh Lễ hôm nay trích từ
sách Gióp, trong đó có một hình ảnh hơi lạ: Chúa đã đóng cửa và gài chốt để
ngăn không cho nước chảy tràn lan khắp mặt đất. Đó là một lối diễn tả, dựa theo
vũ trụ quan của thời kỳ quyền sách này được biên soạn, tức thế kỷ thứ V trước
Công nguyên, nghĩa là cách đây đến 2.500 năm. Thời đó người ta nghĩ rằng trái đất
như một cái đĩa nổi bồng bềnh trên mặt đại dương. Chung quanh trái đất và bên
dưới trái đất toàn là nước. Phía trên trái đất là vòm trời như một cái chụp
tròn úp xuống, và cũng chứa đầy nước. Tất cả lượng nước trên vòm trời và dưới
biển ấy được chặn lại bằng những cánh cửa. Khi cửa trời mở ra thì nước mưa rơi
xuống ; khi cửa biển mở ra thì nước thuỷ triều dân lên ; còn khi cả cửa trời và
cửa biển đều đóng kín lại trong một thời gian lâu dài thì đó là hạn hán. Và người
giữ quyền đóng hay mở các cửa đó chính là Thiên Chúa. Đây quả là một lối nhìn
vũ trụ rất là đơn sơ và có phần ngây ngô nữa. Tuy nhiên chúng ta có thể thông cảm
với tác giả, vì ông sống cách chúng ta đến 2.500 năm, làm sao ông có thể diễn tả
chính xác như các nhà khoa học thế kỷ 21 này được. Chúng ta chỉ cần ghi nhận tư
tưởng của ông, đó là: chính Thiên Chúa là Đấng làm chủ thiên nhiên, và điều khiển
thiên nhiên vận hành để giúp có thể sinh sống.
Có một điều hay, là tư tưởng ấy được chính
các nhà khoa học ngày nay xác nhận. Mặc dù không trực tiếp nói đến Chúa như là
Chúa tể thiên nhiên, nhưng các nhà khoa học đã cho thấy thiên nhiên đã vận hành
theo một trật tự xít xao, nhờ đó mà loài người mới có thể sinh sống được. Thí dụ
như trật tự vận hành của trái đất, mặt trời và mặt trăng. Cả 3 đều di chuyển
không ngừng, mỗi cái theo quỹ đạo riêng của nó. Nhưng khoảng cách của chúng thì
hình như đã được tính toán và điều khiển thật xít xao: chỉ cần mặt trời và trái
đất gần nhau hơn một chút nữa thì trái đất sẽ nóng khủng khiếp, do đó loài người
sẽ chết cháy ; ngược lại chỉ cần trái đất và mặt trời xa nhau thêm một khoảng nữa
thì mặt đất, sẽ giá lạnh, loài người sẽ chết cóng. Còn khoảng cách giữa mặt
trăng với trái đất cũng thế: xích gần hơn chút nữa thì thuỷ triều sẽ dâng phủ
ngập mặt đất, loài người chết chìm ; còn dang xa hơn một chút thì không còn thuỷ
triều, mọi loài trên mặt đất sẽ chết khô.
Ngay cả một hiện tượng thiên nhiên mà người
ta thường coi là tai hoạ, đó là giông bão, nhưng khoa học cũng xem là có lợi.
Khi nào có giông bão? Thưa là khi một vùng quá nóng, không khí bốc lên cao tạo
thành một khoảng trống. Không khí ở các vùng khác liền ùa về để lấp đầy khoảng
trống đó. Dĩ nhiên, khi mà không khí di chuyển như thế với một tốc độ nhanh thì
sẽ tạo ra những luồng gió mạnh, có thể làm gãy cây cối, sập nhà, và có người chết.
Nhưng nếu nhìn hiện tượng ấy một cách bao quát thì sẽ thấy giông bão là có lợi,
và cần thiết nữa, vì nhờ đó mà không khí trên mặt đất được điều hoà.
Rõ ràng thiên nhiên đã được điều khiển theo
một trật tự diệu kỳ bởi một Đấng đầy quyền năng. Đấng quyền năng ấy là ai? Nhiều
người chưa được biết, nhưng từ xưa tác giả sách Gióp đã biết và gọi đó là Thiên
Chúa. Hôm nay Tin mừng lại nói cho chúng ta biết thêm một lần nữa. Chúng ta hãy
nói đến cơn giông bão trên biển hồ Gênêzarét. Vị trí của Biển hồ này hơi đặc biệt:
nó giống như một cái lòng chão dưới thấp, chung quanh được bao bọc bởi những rặng
núi. Như đã nói ở trên giông bão là do không khí di chuyển đổi vùng với một tốc
độ nhanh mạnh. Vậy thì cái Biển Hồ này, do địa thế đặc biệt của nó nên nó rất
thường gặp giông bão. Bởi vì khi những luồng gió mạnh thổi qua, gió bị núi ngăn
chặn nên không lướt ngay đến vùng khác được., nhưng chạy vòng vòng giữa các rặng
núi tạo thành những cơn lốc xoáy, và thế là có bão trên mặt biển. Tuy nhiên những
cơn bão này cũng chóng tan. Hôm ấy, Đức Giêsu và các tông đồ đang di chuyển bằng
thuyền trên mặt Biển Hồ thì gặp giông bão. Đức Giêsu vì đã nắm rõ bản chất của
những cơn bão loại đó nên an tâm cứ nằm ngủ. Còn các tông đồ thì hoảng sợ cuống
cuồng. Các ông còn trách móc Chúa "Thưa Thầy, chúng con chết đến nơi rồi
mà Thầy không quan tâm sao?" Đức Giêsu bình tĩnh đứng dậy ra lệnh cho gió
và biển, lập tức bão yên, biển lặng. Sau đó Chúa trách lại các tông đồ
"Sao các con sợ hãi thế? Các con không có đức tin ư?" Qua sự kiện
này, Đức Giêsu muốn chứng tỏ rằng Ngài chính là chúa tể của thiên nhiên, và mời
gọi chúng ta hãy tin vào Ngài.
Thế nào là tin vào Chúa là chúa tể thiên
nhiên?
-
Trước hết là đừng kiêu căng: có một số người có chút ít kiến thức về khoa học,
hay có được một vài công trình khoa học ứng dụng trên thiên nhiên, rồi tưởng
mình đã là giỏi lắm, đã hoàn toàn điều khiển được thiên nhiên, và từ đó tự coi
mình là chúa tể, phủ nhận cả Thiên Chúa. Thực ra khoa học không tạo ra thiên
nhiên, khoa học cũng không sửa đổi được những quy luật điều khiển thiên nhiên.
Tất cả những gì mà khoa học có thể làm được chỉ là nghiên cứu thiên nhiên có sẵn,
tìm hiểu những quy luật có sẵn trong thiên nhiên, rồi ứng dụng để mưu lợi ích
cho loài người. Thí dụ như khoa học làm ra được một chiếc tàu chạy trên mặt biển,
thì cũng nhờ dựa vào những quy luật thiên nhiên có sẵn, như luật về sức đẩy
Archimède khiến cho thân tàu có thể nổi trên mặt nước, luật về sức đẩy của gió
được ứng dụng để thổi những cánh buồm v.v. Có gì là ghê gớm lắm đâu? có gì mà
đã lên mặt coi mình giỏi hơn cả Thiên Chúa? Có gì mà kiêu căng?
-
Thứ hai là đừng mê tín dị đoan: nếu như người kiêu căng là người quá tự phụ
vì những hiểu biết khoa học của mình đến nỗi phủ nhận vai trò của Chúa, thì người
mê tín dị đoan là người vì không có những kiến thức cơ bản của khoa học và của
giáo lý nên không đủ tin vào Chúa mà lại tin những điều nhảm nhí. Ngày xưa vì
ngu dốt nên người ta nhìn đâu đâu cũng cho là có thần: như thần sấm sét, thần
gió, thần lửa, thuỷ thần, hà bá... Còn ngày nay cũng có người coi các thứ bệnh
tật như là do tà ma, do quỷ ám, do bị thư, bị bùa, bị ngãi... Thực ra bệnh tật
là gì? Theo giáo lý, đó là thân phận tự nhiên của loài người kể từ sau tội
nguyên tổ. Còn theo khoa học, bệnh là do cô thể suy yếu mà ra. Có bệnh thì phải
chữa trị bằng vệ sinh, bằng y dược, chứ không phải chỉ cầu xin, khấn vái hay uống
bùa uống ngãi mà hết được, vừa không hết bệnh, lại vừa phạm tội thiếu lòng tin
vào Chúa.
-
Điều thứ ba để tỏ lòng tin vào Chúa là Chúa tể thiên nhiên là an tâm vui sống
dưới ánh mắt Chúa Quan phòng: Chúa đã tạo dựng muôn loài, Chúa còn tiếp tục
chăm sóc cho muôn loài, trong đó đương nhiên và hơn hết là loài người chúng ta.
Đức Giêsu đã phán "không một sợi tóc nào trên đầu chúng con rụng xuống mà
không do ý của Chúa". Vì thế cho dù sự đời có lúc suy, cuộc đời có lúc
thăng lúc trầm, nhưng nếu ta biết mọi sự đều năm trong tay Chúa quan phòng thì
chúng ta hãy an tâm phó thác đời mình cho Chúa, không có gì phải sợ hãi quá
"Sao các con sợ hãi thế? Các con không có đức tin ư?"
* 2. Quyền năng Thiên Chúa và phát minh
khoa học.
Trong vài thế kỷ gần đây, loài người đã có
nhiều phát minh khoa học rất to lớn:
·
Cuối thế kỷ 19, Lilienthal làm ra chiếc máy bay có 2 cánh rộng để lượn theo
chiều gió. Sau đó Ader đã cải tiến cho chiếc máy bay chạy bằng động cơ.
·
Cũng trong thế kỷ 19 đó, Thomas Edison đã phát minh ra bóng đèn điện. Phát
minh đó đã khiến cho người ta mừng rỡ và nhiều người đã coi ông như là Thần Ánh
Sáng.
·
Đến thế kỷ 20, người ta đã bước lên cung trăng và còn đang tiếp tục đi đến
các hành tinh khác.
·
Cách đây vài năm, người ta đã biết phương pháp "nhân bản" sinh vật
(cloning), nghĩa là lấy một tế bào của một sinh vật rồi làm cho thụ tinh để
sinh ra một hoặc nhiều sinh vật giống y sinh vật gốc.
·
Và hiện nay người ta đang giải mã bộ gien của người và các sinh vật. Kết quả
này sẽ giúp trị được rất nhiều chứng bệnh nan y.
·
Những thành công to lớn ấy của khoa học đã khiến cho một số người nghĩ rằng
loài người có thể làm được mọi sự, không cần đến Thiên Chúa nữa... Có kẻ còn
cho rằng chẳng có Thiên Chúa nữa. Có đúng như vậy không?
·
Xét kỹ những phát minh khoa học chúng ta sẽ nhận ra rằng loài người thực ra
chẳng làm gì hơn là khám phá ra những quy luật có sẵn trong thiên nhiên và áp dụng
những quy luật ấy để phục vụ cho đời sống. Chẳng hạn như những phát minh mà
chúng ta vừa nói ở trên:
·
Chiếc máy bay: đây không phải là sáng kiến mới mẻ gì, mà chỉ là bắt chước
khả năng của loài chim thôi.
·
Còn về dòng điện: cũng không phải là do con người sáng tạo ra. Điện đã có sẵn
trong thiên nhiên từ khi mới có vũ trụ. Đến cuối thế kỷ 18, Benjamin Franklin mới
khám phá ra nó có trong sấm sét. Về sau người ta mới đưa điện vào sử dụng trong
nhiều việc.
·
Và việc người ta tạo ta những bào thai trong ống nghiệm cũng không phải là
vượt quyền Chúa sáng tạo nên một con người. Người ta vẫn phải dùng đến những tế
bào nam nữ có sẵn và cho kết hợp trong ống nghiệm thay vì kết hợp trong bụng mẹ
thế thôi.
Tóm lại, Khoa học chỉ là bắt chước thiên
nhiên, làm lại những gì mà thiên nhiên đã từng làm từ ngàn triệu năm trước. Do
đó, nếu ai biết nhìn xa cho tới Đấng đã sáng tạo nên thiên nhiên thì người đó
càng đi sâu vào khoa học chừng nào thì càng ngưỡng mộ Thiên Chúa bấy nhiêu. Chỉ
có những kẻ thiển cận mới tưởng những khám phá ấy là do chính mình sáng tạo và
phủ nhận quyền năng của Thiên Chúa. Chúng ta thấy có 2 thái độ nơi những nhà
khoa học: một là thái độ khiêm tốn của một nhà thiên văn kia, ông nói "Tôi
đã nhìn ra Thiên Chúa qua ống kính viễn vọng của tôi" ; và một nhà du hành
vũ trụ khác thì ngạo mạn tuyên bố "Tôi đã bay lên tận trời, nhìn khắp nơi
mà chẳng thấy có Thiên Chúa đâu cả". Hai thái độ khác nhau ấy xuất phát từ
hai lối nhìn khác nhau: một nhìn xa và một nhìn gần ; xuất phát từ hai tâm trạng
khác nhau: một là khiêm tốn, hai là kiêu căng.
-
Bài Tin mừng hôm nay giúp chúng ta xác định rõ ai là chủ thực sự của thiên
nhiên: chỉ có Chúa mới là chủ thiên nhiên đích thực và đúng nghĩa. Con
người chẳng làm gì hơn là khám phá những bí mật của thiên nhiên. Nếu có nói con
người là chủ thiên nhiên thì chỉ là theo nghĩa con người được Thiên Chúa ban
quyền quản lý thiên nhiên và ban cho những khả năng để khám phá những bí mật
trong thiên nhiên ấy. Con người biết suy nghĩ chín chắn và khiêm nhường không
thể nào phủ nhận vai trò của Thiên Chúa được. Con người chỉ khám phá những gì
có sẵn thôi. Chừng nào con người không cần dùng tới những gì có sẵn ấy, chỉ nói
một lời mà có được mọi sự (như Đức Giêsu trong bài Tin mừng hôm nay chỉ phán một
lời thì gió liền yên, biển liền lặng) thì khi đó con người mới có quyền tuyên bố
mình là chủ thực sự của thiên nhiên.
Chúng ta phải nhìn nhận rằng khoa học kỹ
thuật ngày nay đang tiến những bước thật xa thật nhanh đến nỗi có thể khiến
chúng ta say sưa khâm phục. Sự say sưa khâm phục ấy có thể giúp con người suy
nghĩ xa hơn, tìm đến chính Đấng là tác giả của những việc kỳ diệu ấy trong
thiên nhiên. Nhưng cũng sự say sưa khâm phục ấy có thể làm choáng mắt con người
khiến con người chỉ thấy tài năng của mình mà ngạo mạn phủ nhận vai trò của
Thiên Chúa.
-
Cầu mong cho việc học hỏi tìm tòi không làm chúng
ta xa Chúa nhưng khiến chúng ta càng tới gần Chúa hơn. Cầu mong cho việc học hỏi
tìm tòi của chúng ta không biến chúng ta thành những kẻ kiêu căng, nhưng giúp
các bạn càng khiêm nhường hơn, như lời của một danh nhân nọ "Càng học thì
thấy mình càng dốt".
* 3. Cha em là người cầm lái.
Trong một cuộc hải trình vượt Đại Tây
Dương, khách du lịch đang thư thái ngắm cảnh hoàng hôn trên boong tàu.
Nơi tít mù xa, mặt trời đỏ cam đang chiếu
những ánh vàng cuối cùng của một ngày còn sót lại.
Bỗng mây đen ùn ùn kéo tới, tối sầm cả một
vùng trời. Sấm chớp đổ xuống liên hồi, giông tố cuồn cuộn nổi lên, càng lúc
càng thét gào dữ dội.
Mọi người trên boong chen lấn nhau chạy về
phòng mình. Duy chỉ có một bé trai cứ tiếp tục chạy giỡn trên boong giữa trận
cuồng phong.
Được hỏi tại sao em không sợ hãi trước cơn
giông tố?
Em thản nhiên đáp lại:
-
Vì cha em là người cầm lái con tàu!
*
Giống như khách du lịch trong câu chuyện
trên, các môn đệ cũng gặp một trận cuồng phong khi vượt biển. Các ngài kinh
hoàng vì thấy mình sắp bị nuốt chững. Bó tay bất lực trước phong ba bão táp,
các ngài đã vội đánh thức Đức Giêsu và xin Người ra tay cứu giúp: "Thưa Thầy,
chúng con chết mất, Thầy không quan tâm sao" (Mc. 4,38). Người liền đe gió
và phán với biển như một người bị quỉ ám: "Hãy im đi". Tức thì sóng
yên biển lặng.
Ai cũng thích sóng yên biển lặng, xuôi chèo
mát mái. Nhưng cuộc đời nào mà chẳng có những cơn giông? Đại dương nào mà không
có những bão tố?
Tuy nhiên, chính giông tố mới giúp chúng ta
nhận ra chính mình: mình còn yếu đuối và bất lực, còn nhát đảm và kém tin.
Cũng chính giông tố sẽ đưa ta đến với Chúa,
để ta hoàn toàn phó thác cho sự quan phòng của Người. Cũng chính giông tố sẽ
giúp ta biểu lộ đức tin. Có thể nói, đức tin sẽ lớn lên ít nhiều sau mỗi lần
giông tố.
Thánh Phaolô viết: "Thiên Chúa không
ban cho ta một thần khí nhát sợ nhưng mạnh mẽ, bác ái và tự chủ"
(2Tm.1,7),
Mỗi người chúng ta không khác chi chiếc
thuyền nan chông chênh giữa cơn lốc cuộc đời, khó khăn nối tiếp khó khăn. Giống
như cậu bé đã tin tưởng ở cha mình cầm lái con tàu, mỗi người chúng ta cũng hãy
vững tin ở Thiên Chúa tình yêu. Người sẽ hướng dẫn cuộc đời của mỗi chúng ta.
Có Chúa trong đời, những cô đơn như bị xóa nhòa, những khó khăn dường như nhỏ lại,
những yếu đuối như được mạnh sức. Chúng ta không cầu xin cho cuộc đời mình như
biển lặng, nhưng xin cho cõi lòng chúng ta được tĩnh lặng ngay giữa lúc biển động.
Thánh Phanxicô Salêsiô dạy: "Phải ở lại
trong con thuyền mà Thiên Chúa đã đặt chúng ta vào, để hành trình từ cõi đời
này về chốn đời sau. Chúng ta phải sẵn sàng ở lại trong sự bình an thanh thản".
*
Lạy Chúa, thuyền đời chúng con chẳng bao giờ
được êm ả, nó chỉ êm ả khi tới bến thiên đàng. Xin cho lòng chúng con luôn bình
an ngay cả khi Chúa còn đang ngủ, miễn là có Chúa trong thuyền, vì Chúa chính
là thuyền trưởng của đời chúng con. Amen. (Thiên Phúc, "Như Thầy đã
yêu")
* 4. Vượt tầm kiểm soát
Chiều hôm ấy, Đức Giêsu và các môn đệ đi
thuyền vượt biển. Một cơn bão nổi lên. Ban đầu, các môn đệ còn chèo chống và giữ
được con thuyền vẫn còn đứng vững trước phong ba bão táp. Đó là tình trạng còn
trong tầm kiểm soát. Khi mọi sự còn trong tầm kiểm soát nghĩa là chúng còn nằm
trong khả năng xoay sở của ta. Khi đó ta rất dễ nghĩ rằng mình có đức tin. Lèo
lái con thuyền đời mình cũng thế. Khi ta còn kiểm soát được những sự việc xảy
ra cho đời mình thì ta cảm thấy hạnh phúc. Ta xác định những mục tiêu, ta hoạch
định chương trình, ta làm chủ tình thế. Những khi đó, ta không thực sự cảm thấy
cần đến Chúa.
Nhưng giông tố ngày càng lớn. Các môn đệ dù
đã làm hết sức mình nhưng vẫn không giữ được con thuyền, nó sắp chìm. Các ông
chợt nhận ra rằng tình thế đã vượt tầm kiểm soát của họ. Trong đời chúng ta
cũng có những lúc tương tự như thế. Đó là khi ta gặp một hoàn cảnh quá khó
khăn, hay khi ta bệnh nặng, ta sắp chết. Những khi đó ta thấy mình như không
còn sức lực, ta hoang mang, sợ hãi. Chính những khi đó ta mới biết đức tin của
mình còn quá yếu kém, thậm chí không có đức tin thực sự. Ta nghĩ rằng không có
Chúa hoặc Chúa đã bỏ ta. Trong bài Tin Mừng này, các môn đệ cũng cảm thấy như
thế. Họ chạy đến tìm Đức Giêsu nhưng họ thấy Ngài đang ngủ. Họ còn trách Ngài nữa.
Giữa phong ba bão táp, Đức Giêsu vẫn ngủ.
Đó là dấu chỉ một đức tin vững mạnh vào Thiên Chúa. Ngược hẳn với đức tin yếu
kém của các môn đệ. Khi họ kêu cầu Ngài, Ngài thức dậy, và chỉ một lời thôi,
Ngài dẹp yên bão táp.
Con thuyền trong bão táp, đó là hình ảnh cuộc
đời chúng ta. Nên nhớ là trong thuyền có Đức Giêsu. Mặc dù Ngài ngủ nhưng Ngài
không ở xa và không bỏ chúng ta một mình. Ngài ngủ để thử đức tin của chúng ta
đó thôi, để chúng ta biết được đức tin của mình đã vững mạnh hay vẫn còn yếu
kém. Chỉ cần chúng ta nhớ đến Ngài, kêu xin Ngài thì Ngài sẵn sàng thức dậy và
dẹp yên bão táp đang đe dọa chúng ta.
5. Chuyện minh họa
a/ Câu chuyện của cây vả
Một cây vả kia đã đứng vững suốt mùa đông
trước bao cơn gió mạnh. Nhưng đến đầu mùa hè, khi gặp một cơn gió trung bình
thôi, nó đã ngã sập xuống. Nhiều người lấy làm lạ.
Thực ra cũng chẳng có gì lạ lắm: Trong mùa
đông, cũng như hầu hết các cây khác, cây vả này bị rụng trụi lá. Gió đông có thổi
đến thì cũng lọt qua các cành trơ trụi khẳng khiu của nó và bay đi. Bởi thế bao
nhiều cơn gió mùa đông cũng không làm cho nó nhúc nhích. Nhưng đông tàn, xuân tới,
cây vả bắt đầu đâm chồi nẩy lộc. Đến mùa hè thì cành lá đã xum xuê. Khi gió thổi
đến, lá cây cản lại làm sức tấn công của gió càng mạnh hơn. Chính vì thế mà cây
vả không còn đứng vững được nữa.
Câu chuyện này giúp ta hiểu thế nào là
"giông tố mùa đông" và "giông tố mùa hè". "Giông tố
mùa hè" gây hại nhiều hơn "giông tố mùa đông". "Mùa
hè" nói đây là lúc cuộc đời ta đang đầy đủ, thoải mái, sung sướng.
b/ Loại máy bay đầu tiên
Ngày kia, tôi đang ngồi trong phòng, một
con ruồi vo ve bay vào. Nó bay dập dờn và vù xuống ăn những thức ăn thừa....Nó
làm bất cứ điều gì nó thích và bất cứ khi nào nó muốn.
Một con ruồi chỉ là một sinh vật. Nó hơn hẳn
chiếc máy bay.... Nó cất cánh mà không cần chạy như máy bay. Nó đáp xuống ngay
tức khắc. Nó không bao giờ rơi và không bao giờ đâm vào bất cứ vật gì hoặc gặp
một tai nạn nào. Phi hành đoàn của nó không phải học cách lái hoặc kiểm tra. Nó
không có những động cơ trục trặc hay hết nhiên liệu. Và hơn thế nữa: nó có thể
sản xuất ra những chiếc máy bay tương tự mà chỉ cần một chút sức lực.
Thật khó có thể kiếm được một thiết bị điện
tử hoặc động cơ nào sánh với tất cả những gì một con ruồi có thể làm.
Nó chỉ là một trong nhiều sinh vật của
Chúa.....và cho ta thấy rằng có ai đó đã tạo ra nó.
c/ Điều huyền bí.
Một
thanh niên đi du lịch tới một thành phố lớn. Đến một nhà thờ, cậu ngả mũ cung
kính cúi chào. Thấy điều này, một hành khách vẻ trí thức bên cạnh cậu nhận định:
-
Ồ, tôi biết bạn có đạo. Bạn học gì ở đó?
-
Tôi học những điều huyền nhiệm của tôn giáo.
-
Huyền nhiệm? Bạn không biết rằng chúng ta chẳng bao giờ tin những gì
chúng ta không hiểu? Ít ra đó là nguyên tắc của tôi.
-
Vậy anh hãy nói cho tôi biết tại sao ngón tay anh cử động khi anh ngoáy
nó?"
-
Nó cử động vì sự sống trong tôi làm nó cử động.
-
Nhưng tại sao nó cử động?
-
Vì tôi muốn thế.
-
Tại sao tai của anh không cụp lại khi anh muốn?
Lúc đó cuộc đối thoại chấm dứt.
6. Tin vào quyền năng Thiên Chúa
Một
sinh viên y khoa người Tây Ban Nha đi viếng trung tâm hành hương kính Đức Mẹ tại
Lộ Đức. Ở đại học Madrid, người sinh viên này đã từng nghe các giáo sư vô tín
ngưỡng nói về Lộ Đức như xuất xứ của những thứ mê tín dị đoan vẫn còn được loan
truyền đi nhiều nơi. Ba tháng ở Lộ Đức, anh muốn theo dõi việc làm của văn
phòng xác minh các phép lạ xảy ra tại trung tâm này.
Vậy
thời gian ba tháng ở Lộ Đức, người sinh viên này đã được chứng kiến ba phép lạ.
Cả ba trường hợp đều có các bác sĩ vô thần theo dõi để xác minh tính đích thực
của phép lạ.
Hãy
nghe người sinh viên này chia sẻ điều mắt thấy tai nghe về một trong ba phép lạ
đó.
Tại
Lộ Đức
"Hôm đó tôi đang ở tiền đường vương cung
thánh đường Lộ Đức cùng với các chị của tôi hiện có đó chỉ mấy phút trước khi
Kiệu Mình Thánh Chúa đi qua. Khi ấy một người đàn bà tuổi trung tuần đang đẩy
chiếc xe lăn qua trước mắt chúng tôi. Một người chị tôi lưu ý chứng tôi khi nói
"Kìa hãy coi cậu con trai đáng thương trên chiếc xe lăn!" Đó là một
chàng trai chừng 20 tuổi bị bệnh bại liệt làm biến dạng. Mẹ của chàng khi ấy lần
chuỗi to tiếng, lúc lúc lại thở dài thưa với Đức Mẹ "Lạy Đức Nữ Đồng
Trinh, xin giúp đỡ chúng con!" Quả là một cảnh tượng cảm động gợi nhớ lại
bệnh nhân xưa đã thưa với Đức Giêsu: "Lạy Chúa, xin cho con được sạch khỏi
bệnh phong." Người đàn bà đẩy xe lăn không muốn chậm trễ nhưng đã tới ngay
chỗ những người đang chờ Đức Giám Mục rước Mình Thánh đi ngang qua.
Đã đến
lúc Đức Giám Mục sắp ban phép lành Mình Thánh cho chàng thanh niên bại liệt.
Khi ấy chàng thanh niên nhìn thẳng mặt nhật đựng Mình Thánh Chúa. Đó xem ra là
cách anh biểu lộ niềm tin của anh. Thế rồi khi Đức Giám Mục ban phép lành với dấu
thánh giá bao quát, cậu thanh niên bại liệt liền chỗi dậy, ra khỏi xe lăn, hoàn
toàn khỏi bại liệt! Dân chúng liền hô to trong niềm vui: "Đó là một phép lạ!
Đó là một phép lạ!"
Nhờ
có giấy phép đặc biệt, tôi được chứng kiến những xác minh tiếp theo để thấy quả
thật, Chúa đã chữa lành người thanh niên. Tôi không thể nào diễn tả hết được những
điều tôi cảm nhận và tâm trạng tôi lúc đó. Tôi đến từ trường Y Khoa Đại Học
Madrid, nơi có nhiều giáo sư vô tín (và nhiều vị nổi tiếng). Nhiều sinh viên bạn
học tôi luôn nhạo báng các phép lạ. Và giờ đây, tôi được thấy tận mắt một phép
lạ. Đây là một phép lạ do Đức Giêsu Thánh Thể thực hiện, cũng Đức Giêsu xưa đã
từng chữa lành bao người bại liệt và bệnh nhân khác. Tôi nghiệm được một niềm
vui lớn lao. Tôi có ấn tượng tôi được ở ngay bên cạnh Chúa. Khi ấy tôi cảm nhận
sức mạnh vô song của Chúa và cảm thấy thế giới bao quanh tôi bỗng trở nên cực kỳ
nhỏ bé. Tôi đã trở về Madrid, Tây Ban Nha. Những chồng sách, những bài học, những
cuộc thí nghiệm tôi đã từng thực hiện với bao là hứng khởi nay không còn là sức
nặng lôi kéo tôi nữa. Các bạn tôi hỏi tôi: "Điều gì đã xảy ra cho cậu
trong niên học này vậy? Điều gì khiến cậu sững sờ?" Quả thật tôi bị sững sờ
do kỷ niệm khiến tôi bị khuynh đảo mỗi ngày. Duy hình ảnh Mình Thánh Chúa được
giơ lên để ban phép lành khiến cậu thanh niên bại liệt kia nhảy vọt ra khỏi chiếc
xe lăn, hình ảnh ấy in sâu vào ký ức và vào trái tim tôi. Ba tháng sau đó tôi
nhập Tập Viện Dòng Tên. Đó là ngày 15 tháng 1, 1927."
Tại
Nhật Bản
Chàng sinh viên ấy tên là Pedro Arrupe. Suốt đời
chàng sẽ không bao giờ quên được phép lạ Chúa làm trước mắt anh. Được củng cố mạnh
mẽ do phép lạ như dấu chỉ về quyền năng vô cùng của Thiên Chúa, anh sẽ không
bao giờ lùi bước trên đường dấn thân phục vụ Người:
+ Bị trục xuất khỏi quê hương Tây Ban Nha ngày 13 tháng 02,
1932 cùng với tất cả các tu sĩ Dòng Tên.
+ Nhận thừa tác vụ Linh Mục ngày 30
tháng 7, 1936 tại Hà Lan.
+ Được phái đi truyền giáo tại Nhật
Bản ngày 15 tháng 10, 1938
+ Phục vụ nạn nhân bom nguyên tử
giáng trên Hiroshima ngày 6 tháng 8, 1945.
+ Được bầu làm Tổng Quyền thứ 29
Dòng Tên ngày 22 tháng 5, 1965 sau nhiều năm làm giám đốc Tập Sinh và làm giám
tỉnh Dòng Tên ở Nhật.
Quả
thật phép lạ xưa cũng như nay chỉ có ý nghĩa khi là dấu chỉ về Nước của Thiên
Chúa như lời Đức Giêsu tuyên bố với người Pharisêu: "Nếu tôi dựa vào Thần
Khí của Thiên Chúa mà trừ quỷ thì quả là triều đại Thiên Chúa đã đến giữa các
ông" (Mt 12,28). Ai nhận ra dấu lạ Chúa làm cũng được thúc đẩy dấn thân hết
mình để phục vụ Nước Thiên Chúa.
Câu chuyện phép lạ chàng thanh niên bại liệt
được chữa lành tại Lộ Đức khiến chàng sinh viên Pedro Arrupe được hoán cải như
thế nào trên con đường phục vụ Nước Chúa. Cuộc hoán cải ấy không thấm vào đâu
so với cuộc hoán cải của Simon Phêrô và các bạn một khi nhận biết quyền năng của
Thiên Chúa nơi Đức Giêsu Phục Sinh. Họ đã hy sinh cả mạng sống mình để phục vụ
Nước Thiên Chúa. Họ đã thực sự trở nên giềng cột của Hội Thánh Chúa nhờ tin vào
quyền năng của Thiên Chúa nơi Đức Giêsu. (Lm Augustine sj, Vietcatholic 2001)
V. LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
CT: Anh chị em thân mến
Trong niềm tin tuyệt đối vào Thiên Chúa là
chủ tể thiên nhiên, chúng ta hãy dâng lên Ngài những lời cầu xin của chúng ta:
1. Hội Thánh có sứ mạng rao giảng cho mọi
người nhận biết Thiên Chúa là chủ tể của thiên nhiên. Chúng ta hiệp lời cầu xin
cho nhân loại đón nhận lời rao giảng của Hội Thánh.
2. Khoa học kỹ thuật ngày nay rất tiến bộ,
phát minh ra nhiều điều kỳ diệu. Chúng ta hiệp lời cầu xin cho những phát minh
đó không làm cho loài người kiêu căng chối bỏ Chúa, trái lại giúp loài người
càng nhận biết và khâm phục Chúa hơn.
3. Mặc dù y học đã tiến bộ rất nhiều, nhưng
cũng đành phải bó tay trước cái chết, nghĩa là không thể làm cho con người
thành bất tử được. Chúng ta hiệp lời cầu xin cho những người mang những chứng bệnh
ngặt nghèo và nhất là những người hấp hối, để họ biết bình an phó thác mạng sống
của mình trong tay Chúa.
4. Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn
giáo xứ chúng ta thực sự là một cộng đoàn đức tin, một cộng đoàn phượng tự,
nghĩa là luôn tin tưởng vào Chúa và thờ phượng Chúa như chủ tể mọi loài.
CT: Lạy Đức Giêsu, ngày xưa Chúa đã trách
các môn đệ rằng "Sao các con sợ hãy thế? Các con không có đức tin ư?".
Ngày nay cũng vì thiếu đức tin mà chúng con phải sợ hãi nhiều điều. Xin Chúa
ban thêm đức tin cho chúng con, để trong mọi hoàn cảnh chúng con biết hoàn toàn
cậy dựa vào Chúa và phó thác trong tay Chúa. Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị
muôn đời. Amen.
VI. TRONG THÁNH LỄ
-
Trước kinh Lạy Cha: Chúng ta có một người Cha "ở trên trời",
nghĩa là một người Cha uy quyền, làm chủ mọi loài mọi vật. Chúng ta hãy tin tưởng
cầu nguyện với Ngài.
-
Chúc bình an: Chúng ta hãy chúc cho nhau được bình an, bình an vì biết
mình đang sống trong vòng tay yêu thương của Chúa.
VII. GIẢI TÁN
Cuộc sống ví như một cuộc đi thuyền giữa biển
cả cuộc đời nhiều phong ba bão táp. Nhưng có Chúa trên thuyền thì mọi sự đều
bình an. Chúng ta hãy trở lại cuộc sống với tâm tình trông cậy phó thác tất cả
trong tay Chúa. Chúc anh chị em luôn bình an.