Suy niệm CHÚA NHẬT 12
THƯỜNG NIÊN - B
MỤC LỤC
25.Video Thánh Vịnh Nhóm thánh vịnh Nauy
26.Tin cậy Thiên Chúa toàn năng Catholic.org.tw
27.Chúa tể của thiên nhiên Lm Carolo Hồ Bạc Xái
28.Quyền năng của Thiên Chúa Lm Giuse Đinh lập Liễm
29.Đức Giêsu biểu lộ quyền năng Lm. Phêrô Lê văn Chính
30.Tại sao Thiên Chúa để... Linh mục Inhaxiô Trần Ngà
31.Hãy tin vào Chúa Lm. Jos Tạ duy Tuyền
1.
Sóng gió
Con thuyền của các môn đệ trong bài Tin Mừng sáng hôm nay chính
là hình ảnh cuộc đời chúng ta. Thực vậy, cuộc đời chúng ta với bao nhiêu phong
ba bão táp, đó là những thất bại của bản thân, những khó khăn của cuộc sống,
của xã hội, những khổ đau của những người xunh quanh, làm cho chúng ta nhiều
lúc chán nản tuyệt vọng.
Tại sao lại có những sóng gió trong cuộc đời? Phải chăng Thiên
Chúa đã bỏ rơi chúng ta? Có người cho rằng chính Thiên Chúa thử thách để rèn
luyện và củng cố niềm tin nơi chúng ta. Có người lại cho rằng do trình độ hạn
chế của con người trước sức mạnh của thiên nhiên. Nhưng có lẽ nguyên nhân trực
tiếp nhất vẫn là do cách đối xử của con người đối với con người trong cuộc
sống.
Thực vậy, chính thái độ vô trách nhiệm của những người làm cha
làm mẹ đã dẫn đến tình trạng tuổi trẻ lang thang, bụi đời. Chính sự ích kỷ tàn
nhẫn của một số người đã tước đoạt đi những phương tiện sống và phẩm giá của
những người khác.
Nghịch cảnh và sóng gió như vẫn tồn tại song song với số phận và
lịch sử con người. Các môn đệ cũng như chúng ta phải đương đầu, phải đối phó
với cuồng phong. Thế nhưng chúng ta sẽ tìm thấy niềm an ủi nơi Thiên Chúa bởi
vì dưới bàn tay quyền năng và yêu thương của Ngài, sóng gió cũng phải khuất
phục và sự bình an sẽ trở lại với chúng ta.
Sự dữ tuy tràn lan, nhưng ơn sủng của Ngài vẫn dư đầy, bởi vì
Ngài luôn yêu thương chúng ta, Ngài không hề bỏ rơi con người. Bằng chứng là
Đức Kitô đã đến, Ngài tìm mọi phương cách, thậm chí cả đến cái chết của mình để
cho chúng ta thêm xác tín vào tình thương của Ngài. Một vị Thiên Chúa nhân lành
như vậy, nhất định sẽ không bao giờ muốn cho con người phải đau khổ, nhất định
Ngài sẽ cứu chúng ta.
Làm sao chúng ta có thể thất vọng và chán nản khi Ngài vẫn ở bên
chúng ta và vẫn yêu thương chúng ta. Mặc dù ngày nay Thiên Chúa không còn trực
tiếp làm phép lạ để truyền cho sóng gió phải yên lặng, nhưng Ngài dùng bàn tay
của những người nhiệt tâm làm vơi giảm những nghịch cảnh, những bất công trong
cuộc sống. Và cũng không ít những con người đang đấu tranh cho công bằng xã
hội. Nhiều khi họ cũng đã phải trả giá cho những đấu tranh ấy bằng chính mạng
sống của mình.
Còn chúng ta thì sao? Niềm tin vào một Thiên Chúa toàn năng và
yêu thương lẽ nào lại để cho chúng ta phải buông xuôi và tuyệt vọng bởi vì Đức
Kitô chính là niềm hy vọng, chính là sức sống trong cuộc đời chúng ta.
THỬ THÁCH TRONG CUỘC ĐỜI
Trong đời ta gặp nhiều trường hợp giả vờ rất đáng yêu. Chẳng hạn
bà mẹ trẻ giả vờ trốn đứa con nhỏ, để nó phải lo âu đi tìm. Và khi thấy nó đã
lo âu đến độ tuyệt vọng, sắp khóc đến nơi, bấy giờ bà mẹ mới xuất hiện. Vừa
thấy bà mẹ xuất hiện, đứa trẻ vui mừng khôn xiết. Và nó càng yêu mến, càng bám
chặt lấy mẹ nó hơn nữa.
Chúa Giêsu cũng có nhiều lần giả vờ như thế. Lần giả vờ được
minh nhiên ghi lại trong Tin Mừng là khi Người cùng hai môn đệ đi trên đường
Emmaus. Khi đã đến nơi, Người giả vờ muốn đi xa hơn, làm cho các môn đệ phải
tha thiết nài nỉ Người mới chịu ở lại. Khi Người ở lại, các môn đệ vui mừng
khôn xiết. Và niềm vui lên đến tuyệt đỉnh khi các môn đệ nhận ra Người lúc bẻ
bánh.
Hôm nay tuy Tin Mừng không minh nhiên ghi lại, nhưng ta có thể
đoán biết Chúa Giêsu đang giả vờ. Vì sóng to gió lớn dập vùi làm cho thuyền
chòng chành nghiêng ngả, nước tràn vào đến nỗi thuyền có nguy cơ bị chìm đắm,
trong khi đó các tông đồ xôn xao chạy ngược chạy xuôi, hò hét nhau tìm cách tát
nước ra. Giữa khung cảnh như thế, làm sao có thể nằm ngủ ngon lành được. Chỉ có
thể là giả vờ. Việc giả vờ của Chúa phát xuất do tình yêu.
Vì yêu thương ta, Chúa muốn ta đáp lại tình yêu thương của Chúa.
Đó là định luật thông thường trong tình yêu. Khi yêu ai cũng muốn được đáp trả.
Chúa không đi ra ngoài định luật thông thường đó. Người tha thiết yêu ta. Người
mong ta yêu mến gắn bó với Người, nên đôi khi Người giả vờ lãng quên để ta nhớ
mà chạy đến với Người, gắn bó với Người hơn. Như bà mẹ muốn đứa con tỏ ra cần
đến mẹ, tha thiết đi tìm mẹ, hốt hoảng khi không thấy mẹ, Chúa cũng mong ta cần
đến Chúa, tha thiết đi tìm Chúa và hốt hoảng lo âu khi thấy vắng bóng Chúa.
Vì yêu thương ta, Chúa muốn rèn luyện ta nên người.
Để rèn luyện ta, Chúa gửi những thử thách tới. Cuộc đời ví như mặt biển cả mênh
mông. Mỗi người là một con thuyền lênh đênh trên mặt nước. Sóng gió là những
thử thách trong cuộc đời. Những thử thách Chúa gửi đến giúp ta trưởng thành ở
ba phương diện.
Những thử thách giúp ta biết mình hơn.
Bình thường ta nghĩ mình chẳng kém thua ai. Nhưng khi gặp thử thách mới biết
mình thật yếu đuối. Thánh Phêrô thấy Chúa đi trên mặt nước thì tưởng mình cũng
đi được. Nhưng chỉ được mấy bước đã chìm xuống. Các tông đồ là những bạn chài
đã quen với sóng nước. Thế mà vẫn kinh hoảng trước bão tố. Đã chứng kiến biết
bao phép lạ Chúa làm, nhưng khi gặp gió bão vẫn hoảng kinh. Thử thách giúp ta
biết mình. Biết mình để thêm khôn ngoan, thêm trông cậy và nhất là để biết rèn
luyện bản thân cho tiến bộ hơn.
Thử thách giúp ta biết yêu mến, cậy trông vào Chúa hơn.
Có thử thách ta mới biết sức mình, biết có những việc ở ngoài tầm tay của mình,
chẳng ai có thể giúp mình ngoài Chúa. Vì thế gặp nhiều thử thách giúp ta biết
cậy trông phó thác vào Chúa hơn. Gặp thử thách ta mới biết chẳng ai yêu thương
ta bằng Chúa. Chúa sẽ không để ta bị thử thách quá sức chịu đựng, nên ta sẽ
biết yêu mến Chúa hơn.
Thử thách giúp đức tin vững mạnh.
Chẳng có thử thách nào kéo dài mãi mãi. Chúa chỉ cho thử thách một thời gian.
Rồi Chúa lại can thiệp để sóng yên biển lặng. Khi sóng yên biển lặng rồi, các
môn đệ càng vững tin nơi Chúa hơn. Để từ nay các ngài không còn cuống quít lo
sợ mỗi khi gặp gian nan nữa. Đời sống mỗi người chúng ta cũng thế. Ai càng gặp
nhiều thử thách thì càng trở nên từng trải, vững vàng.
Đời sống không thể thiếu thử thách. Hãy biết rằng Chúa cho phép
thử thách vì yêu thương ta, để rèn luyện ta nên người. Hơn nữa Chúa luôn ở bên
ta. Vì thế ta hãy vững tin, hãy cậy trông phó thác và hãy biết tận dụng những
khó khăn để đức tin thêm vững mạnh. Thử thách rồi sẽ qua đi. Nhưng cách ta phản
ứng trước thử thách lại tồn tại và tạo thành giá trị đời ta. Ước gì mọi thử
thách ta gặp trong đời đều biến thành cơ hội cho ta được thêm lòng, lòng cậy và
lòng mến Chúa.
GỢI Ý CHIA SẺ
1) Tại sao Chúa cho ta bị thử thách? Thử thách có cần thiết
không?
2) Thử thách giúp ta trưởng thành thế nào?
3) Ta phải sống thế nào trong thử thách để vượt lên trên thử
thách?
(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty)
“Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi mà Thầy chẳng lo gì sao?”
Cũng như hai dụ ngôn ‘hạt giống tự mọc’ và ‘hạt cải nhỏ bé’ được
kể trước đó, sự kiện cuồng phong nổi lên và sóng nước ập vào làm cho con thuyền
các môn đệ hòng chìm, trong khi đó Đức Giê-su ‘đang ở đàng lái, dựa đầu vào
chiếc gối mà ngủ’ buộc ta phải suy nghĩ khi giáp mặt với những nghịch lý đầy
thách thức trong chính đời sống Tin Mừng. Tự nhiên, khi nghĩ về Thiên Chúa cũng
như về vương quốc của Ngài, thì quyền năng và sức mạnh mới chính là điều mà mọi
người thường nghĩ tới trước nhất. Chính vì vậy mà khi nhìn thấy đau khổ tràn
lan, bất công ngập tràn và sự ác thống trị, trong khi sự thiện lại thoi thóp
trong tuyệt vọng, nhiều người đã cho rằng, đó là một bằng chứng thuyết phục cho
thấy không hề có Thiên Chúa; vì nếu Ngài thật sự hiện hữu, thì với tất cả quyền
năng và thánh thiện như thế, tại sao lại không can thiệp, không giáng phạt bằng
tất cả sức mạnh của Ngài? Thiên Chúa lẽ nào lại vô tâm tới mức đó sao? Giải đáp
duy nhất mà người ta thường nại tới để giải quyết nghịch lý này là sự kiên nhẫn
chịu đựng có giới hạn của Thiên Chúa, sự nhẫn nhục này chỉ tồn tại trong thời
gian ngắn ngủi của cuộc đời này, để rồi tới kiếp sau sự công thẳng và quyền
bính của Ngài sẽ hiển trị qua việc nghiêm minh xét xử, với phần thưởng thiên
đàng dành cho người thiện, hay hình phạt hỏa ngục dành cho người dữ. Giải đáp
này trên thực tế hình như được hầu hết các tôn giáo trưng ra, tuy với những
hình thái khác nhau, chẳng hạn như thuyết luân hồi của Phật Giáo.
Vẫn biết Thiên Chúa là quyền năng và quyền năng này vượt trên
tất cả mọi sự, ‘Thức dậy, Người ngăn đe gió và truyền cho biển: “Im đi! Câm
đi!” Gió liền tắt, và biển lặng như tờ’. Thiên Chúa đương nhiên có quyền trên
cả sự dữ! Trong trường hợp cụ thể này, theo lối suy nghĩ của các môn đệ, biển
cả dậy sóng là hình ảnh quen thuộc của sức mạnh sự dữ, của tà thần (xem Mc
1:25). Có điều là ít tôn giáo nào dám nghĩ rằng quyền năng lớn lao nhất của
Thiên Chúa (Thượng Đế…) lại chính là quyền năng buộc Ngài phải câm nín. Ngoài
Ki-tô giáo, có tôn giáo nào dám nghĩ rằng có một Thiên Chúa mà quyền năng và
bản chất tuyệt hảo nhất của Người lại chính là lòng nhân từ và thứ tha? Đặc
tính ‘nhân từ và hay thương xót’ của Thiên Chúa, nếu có tìm thấy trong Do Thái
giáo, Hồi giáo…, thì cũng chỉ mang tính tạm bợ và hạn hẹp, và chỉ dành cho một
số đối tượng nhất định mà thôi (các tín hữu trung thành, những người công chính
chẳng hạn). Chỉ riêng Tin Mừng của Đức Giê-su mới cho ta hiểu rằng Thiên Chúa
là tình yêu, và bản chất của Tình Yêu đó trước hết và trên hết là thứ tha và
hay thương xót. Phải chăng từ muôn thuở yếu tính của Thiên Chúa chính là điều
này… và sẽ còn tiếp tục mãi mãi cho tới muôn đời? Mạc khải lớn nhất của Đức
Giê-su Ki-tô chính là đây: Thiên Chúa không lên án, Ngài không luận phạt, Ngài
chỉ làm một điều duy nhất là cứu độ và xót thương. Luận phạt hay lên án là do
chính con người tự quàng vào cổ mình “vì đã không tin vào danh của Con Một
Thiên Chúa” (Ga 3:16-21). Kể từ mạc khải vĩ đại này, thinh lặng trước sự dữ,
thay vì là yếu đuối sợ hãi, lại biểu lộ sức mạnh vô địch nhất của Thiên Chúa.
“Ông không nói lại được một lời sao? Mấy người này tố cáo ông gì đó?... Nhưng
đức Giê-su vẫn làm thinh” (Mt 26:62-63).
Thần lực Người làm cho gió im biển lặng đã làm cho các môn đệ
hoảng sợ, mối hoảng sợ này có lẽ lớn không kém lúc cuồng phong bão tố nổi lên,
‘Các ông hoảng sợ nói với nhau…’ Mô-sê trước bụi gai bốc cháy (Xh 3:1), hoặc
I-sai-a khi thoáng nhìn thấy vinh quang Thiên Chúa (Is 6:5), hoặc bất cứ ai
khác cũng đều run sợ trước mọi biểu hiện của quyền lực thần linh. Chỉ duy uy
quyền tình yêu của Thiên Chúa là không gây sợ hãi! Và chỉ có sức mạnh tình yêu
tha thứ mới làm cho con người được thư thái và an bình thực sự. “Bình an cho
anh em… Thầy đây đừng sợ!” (Lc 24:36). Một khi được Đức Giê-su tỏ cho biết
Thiên Chúa là ai trong thực chất của Ngài, và Thần Khí giúp ta khám phá ra
Thiên Chúa thật gần gũi, thấu hiểu hết các yếu đuối lỗi lầm của con người cho
dù họ có gian ác tội lỗi tới đâu đi nữa, bất cứ ai cũng sẽ cảm thấy tràn ngập
một niềm an bình độc đáo, một thứ an bình không ai trên cõi đời này có thể ban
cho. “Thầy ban cho anh em bình an của Thầy… không theo kiểu thế gian. Anh em
đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi…” (Ga, 14:27)
Tuy nhiên, một khi khám phá ra và hiểu rõ hơn về sức mạnh tình
yêu tha thứ và xót thương của Thiên Chúa, con người sẽ không khỏi cảm thấy một
mối kinh ngạc thú vị, gần giống như một cảm giác ngất ngây. Hy vọng rằng các
Ki-tô hữu chúng ta, một khi nghiệm thấy cảm giác tuyệt diệu đó, hãy để cho mối
‘kinh ngạc ngất ngây’ này tiếp tục tràn ngập tâm hồn mình… bây giờ và cho tới
muôn đời!
Lạy Vua Tình Yêu nhân ái, cảm tạ Chúa đã một lần cho con nếm cảm
được uy lực tình yêu nhân ái Chúa trong đời sống con. Xin cho con luôn nghiệm
thấy Thiên Chúa tình yêu đang thinh lặng hiện diện trong con giữa mọi sóng gió
cuộc đời. Xin đừng bao giờ cất khỏi lòng con sự bình an ngây ngất của Thần Khí
hiện diện trong con, để con luôn có thể mở miệng kêu lên ‘Áp-ba’ giữa mọi
nghịch cảnh. A-men.
Một phái đoàn quan khách đến thăm quan một trại cùi. Họ rất cảm
phục vì thấy các nữ tu vui vẻ săn sóc cho bệnh nhân. Một người trong phái đoàn
hỏi một chị: “Vì sao chị lại sống ở đây? Cho tôi một triệu tôi cũng không dám!”
Người nữ tu trả lời: “Cho tôi hai triệu tôi cũng không ở. Sở dĩ tôi muốn ở đây
và sống chết ở đây vì tình yêu Chúa Kitô thúc đẩy tôi.”
Với giáo đoàn Côrintô, Thánh Phaolô cũng từng nói như vậy: “Lòng yêu mến Đức Kitô
thúc bách tôi”. Từ ngày ngài được biết Chúa Kitô và cảm thấy tình thương của
Chúa đến độ “hiến thân mình vì tôi” (Ga.2,20), Phaolô như bị đè nặng dưới khối
tình yêu của Chúa. Từ trong thâm tâm, người nghe như có tiếng vọng lại: Hãy yêu
mến Ta như Ta đã yêu mến ngươi. Hãy tiến lên nữa. Hãy để Ta dùng ngươi để yêu
mến kẻ khác. “Chúa Kitô đã chết thay cho hết mọi người, để những ai đang sống
không sống cho mình nữa, mà chỉ sống cho Đấng đã chết và sống lại vì ta.”
Đối với tất cả chúng ta, tình yêu Thiên Chúa cũng thúc bách và
đè nặng như vậy.
Bài Phúc Âm hôm nay, dưới ngòi bút linh động của Marcô, là một
bài phóng sự một cơn bão táp xảy ra trên mặt biển hồ Tiberiade hay có những cơn
gió lốc về chiều do bầu khí bị dồn ép trong thung lũng sông Giordan. Sau khi
giải tán đám đông, Chúa truyền cho các môn đệ chèo thuyền qua bên kia biển hồ.
Ngài lên thuyền. Sau một ngày giảng dạy mệt nhọc, Ngài đến phía sau lái, dựa
trên một chiếc gối và ngủ say. Một cơn gió lốc thổi đến, cuộn lên những ngọn
sóng lớn làm cho thuyền đầy nước. Các môn đệ tay chống tay tát…, còn Ngài, Ngài
vẫn ngủ. Các ông đến thức Ngài dậy: “Chúng con chết mất, Thầy không quan tâm
sao?” Ngài bèn đe gió và phán với biển, như một người bị quỉ ám: “Hãy im đi!”
Tức thì gió và biển lặng.
Tường thuật cơn bão táp im lặng có ý nghĩa gì? Đối với Chúa
Giêsu, Ngài muốn dạy cho chúng ta phải có niềm trông cậy và phó thác nơi Chúa:
“Sao các con sợ hãi? Các con không có đức tin ư?” Trong mọi hoàn cảnh, mọi hiểm
nguy, chúng ta đều nằm trong bàn tay của Cha trên trời. Trong một hoàn cảnh
tương tự, viên lái đò chở hoàng đế César qua sông, thấy sóng cả đã ngã tay
chèo, được nghe một câu nói bất hủ: Anh không biết là anh đang chở vua César?
Thì huống hồ ở đây, không phải là một vị vua trần thế mà là Vua Cả trên trời,
“Ngài làm cho bão táp dừng yên phăng phắc, sóng biển yên lặng như tờ” (Tv. 107,
29).
Đối với nhiều người đã chứng kiến, vì Marcô nói: “Có nhiều
thuyền khác theo”, thì đây là một phép lạ nói lên quyền năng của Chúa Giêsu,
Đấng chỉ cần phán lên một lời thì gió yên biển lặng, Đấng có quyền trên vạn
vật, là Đấng tạo thành vạn vật. Các Thánh Giáo phụ nhìn thấy ở đây tác động của
hai bản tính của Chúa Giêsu. Thánh Gioan Kim-Khẩu nói: “Họ vừa nhìn thấy Ngài,
dựa trên gối, ngủ say, đó là một con người, họ nhìn thấy Ngài bắt biển cả phải
lặng yên, đó là vị Thiên Chúa.” Trong khi các nhà thần học minh giáo lại đề cao
ý tưởng “con thuyền Giáo hội” giữa sóng gió ba đào (Tertullien). Chúa Kitô vẫn
ở trong con thuyền Giáo hội cũng như Ngài ở trong tâm hồn chúng ta. Một hôm Bà
Thánh Catarina Sienna phải chiến đấu mãnh liệt với chước cám dỗ, Bà kêu lên:
“Lạy Chúa, trong khi con phải chống lại những ý tưởng nhuốc nha thì Chúa ở đâu?
Chúa phán: Ta đang ở trong tâm hồn con, để hỗ trợ con và để chia sẻ sự toàn thắng
của con.”
“Lạy Thầy, xin cứu chúng con vì chúng con sắp chết mất!”
(Trích trong ‘Tin Vui Xuân Lộc’)
Lời Chúa trong đoạn Tin Mừng hôm nay thánh Maccô thuật lại một
hành trình trên biển để “sang bờ bên kia” của Chúa Giêsu và các môn đệ. Hành
trình này được ví như hành trình đức tin của mỗi chúng ta. Hành trình trên biển
gặp sóng gió là chuyện không lạ lắm đối với những người thường xuyên đi biển và
sống bằng nghề biển như các môn đệ. Tuy nhiên, chiếc thuyền của Chúa Giêsu và
các môn đệ hôm nay không gặp những con sóng ngọn gió hiền lành bình thường, mà
là gặp “cuồng phong”… “sóng ập vào”… “thuyền đầy nước”… Các môn đệ lo lắng như
“chết đến nơi rồi”, còn Chúa Giêsu thì “chẳng lo gì”… Các môn đệ kêu cầu đến
Chúa và Chúa đã ra tay uy quyền, Chúa mắng các môn đệ “làm sao mà anh em vẫn
chưa có lòng tin?”
Chúng ta ngắm nhìn xem, tại sao Chúa Giêsu lại mắng các môn đệ
chưa có lòng tin?
Qua trình thuật này chúng ta có thể hiểu rằng, giữa Chúa Giêsu
và các môn đệ đã có một tương quan rất thân thiện với nhau rồi. Cùng làm việc
và cùng thi hành sứ vụ chung với nhau. Tuy nhiên, chúng ta cũng dễ dàng cảm
nghiệm rằng, dường như tương quan ấy chỉ mới có ở bề mặt bên ngoài, có nghĩa là
các môn đệ mới chỉ gặp gỡ, gần gũi làm việc chung, mới tương quan trên bình
diện công việc và cuộc sống, chứ các môn đệ chưa đi vào tương quan sâu, chưa
hiểu hết Chúa như thế nào, quyền năng của Ngài ra sao?
Chúa mắng các môn đệ “chưa có đức tin” quả thật là phải lẽ, vì
hành trình của các ông đang có Chúa đó, nhưng các ông chẳng ý thức về sự hiện
diện đồng hành của Ngài, các ông không nhận biết quyền năng của Chúa, các ông
cũng chẳng trông cậy vào Ngài… Sóng gió ập đến, các môn đệ mới sực nhớ đến
Chúa, và rồi các ông vội trách Chúa “chẳng lo gì”.
Cuộc sống thường ngày của chúng ta dường như cũng thế, chúng ta
ít khi ý thức sự hiện diện của Chúa, chúng ta thường đi với Chúa cách vô ý
thức, coi như Chúa không biết gì, Chúa chẳng quan tâm. Đến lúc nguy khó mới nhớ
chạy đến Chúa và kêu la rối rít. Thái độ sống này, chắc chắn sẽ bị Chúa mắng là
“chưa có lòng tin”. Tuy nhiên, một thái độ ngược lại cũng đáng quan tâm. Cuộc
sống đôi lúc chúng ta cũng rơi vào tâm trạng thất vọng nặng nề, chúng ta cũng
chẳng còn nhớ đến Chúa, và quên rằng Ngài ở bên chúng ta và chờ chúng ta khiêm
tốn lên tiếng kêu cầu Ngài. Thái độ chỉ kêu đến Chúa khi gặp khó khăn, hoặc là
thất vọng đến quên cả Chúa mà lầm lũi bước đi đó là thái độ “chưa có lòng tin”.
Thánh Maccô thuật tiếp, sau khi các môn đệ kêu đến Chúa, tin
tưởng vào quyền năng của Chúa, Chúa bắt đầu ra tay. Nhưng sau khi Chúa ra tay
truyền sóng biển im lặng, thì các ông hoảng sợ và nói với nhau: “Vậy người này
là ai…?”
Gặp sóng gió, các môn đệ hoảng sợ, không tin đủ vào Chúa. Sau khi
Chúa tỏ quyền năng thì các ông lại thắc mắc “Ngài là ai?” Điều này chứng tỏ nền
tảng đức tin của các môn đệ chưa vững chắc, đi bên Chúa, gặp gỡ Chúa nhưng
không khao khát tìm biết Chúa là ai? Lẽ ra các ông phải tìm hiểu về Chúa, biết
Chúa là ai khi bắt đầu cất bước theo Ngài! Còn nghi ngờ vào chính Thiên Chúa
thì chắc chắn là chưa có lòng tin. Tin Chúa là phải học cho biết Ngài là ai và
đi vào trong tương quan sâu để cảm nghiệm Ngài như ta đã được học biết. Tin vào
Chúa là hiểu điều Chúa làm, mong điều Chúa muốn và phó thác cho Ngài cuộc sống
của ta.
Sau phép lạ Chúa làm truyền sóng biển im lặng, chắc chắn các môn
đệ phải tìm được câu trả lời Chúa là ai khi quan sát sự kiện và khi tương quan
gần gũi song hành với Chúa. Vậy mà không hiểu sao các ông lại còn hoảng sợ và
thắc mắc “ông này là ai?” Câu hỏi này chứng tỏ lòng tin của các ông chưa có và
bị Chúa mắng thì cũng không oan uổng gì.
Bởi vì các môn đệ chưa có lòng tin, nên chưa ý thức sự hiện diện
của Chúa. Chưa có niềm tin nên còn nghi ngờ “ông này là ai?”. Chưa có lòng tin
nên còn dành quyền điều khiển và kiểm soát hành trình. Khi các môn đệ dành
quyền kiểm soát và điều khiển hành trình đời mình, thì Chúa dành cho họ ưu tiên
đó, Ngài nghỉ ngơi. Giả như chúng ta tin tưởng trao phó cho Chúa để Ngài điều khiển
và an tâm nghỉ ngơi, thì chính lúc ấy Chúa sẽ giang tay ra hành động, Ngài chở
che, bao bọc và cứu giúp.
Thái độ của những người “chưa có lòng tin” là thái độ của những
người ưa thích đảo lộn tình thế, đứng vào vị trí điều khiển của Chúa, quên đi
vai trò lệ thuộc của chính bản thân mình.
Có lòng tin là ý thức Chúa hiện diện trong mọi nẻo hành trình;
Có lòng tin là trả lời xác tín với mọi người về chính Chúa, bằng sự cảm nghiệm
của chính cá nhân mình; Có lòng tin là để Chúa điều khiển và kiểm soát cuộc
sống của mình; Có lòng tin là khiêm tốn kêu xin khi gặp gian nan khốn khó.
Giờ đây, chúng ta khiêm tốn dâng lên Chúa lời nguyện xin ơn đức
tin:
Lạy Chúa Giêsu,
Chúng con cám ơn Chúa vẫn hiện diện trong cuộc sống chúng con.
Xin cho chúng con tin vào quyền năng Chúa vẫn
hiển trị trong cuộc đời chúng con.
Lạy Chúa, cuộc sống quanh chúng con có biết
bao điều xảy đến.
Tất cả đều nằm dưới bàn tay tình thương quan phòng của Chúa.
Xin Chúa giúp chúng con biết cùng với vạn vật
dâng lời ca khen quyền năng Chúa.
Xin giúp chúng con biết đón nhận ân ban của
Chúa trong sự khiêm tốn thẳm sâu.
Xin dạy chúng con biết chạy đến với Chúa
khi gặp những gian nan thử thách,
Xin giúp chúng con biết bám vào Chúa để đi qua những giông bão
trong cuộc đời.
Lạy Chúa, Chúa luôn nâng đỡ những ai kêu cầu
Chúa.
Chúng con xin phó dâng cuộc sống trong tình thương quan phòng
của Chúa. Amen.
Tôi đã được nghe một câu chuyện về Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII
(1881-1963). Ngài chỉ ở trên ngôi vị Giáo Hoàng trong vòng 5 năm (1958-1963),
nhưng được nhiều người sùng mộ. Sau khi Ngài qua đời, rất nhiều người đã đến
viếng mộ của Ngài, đến nỗi di hài của Ngài đã được đưa từ hầm mộ lên trên nền
Đền Thờ Thánh Phêrô để dễ dàng cho giáo dân kính viếng. Ngài có một niềm ưu tư
đặc biệt về việc hiện đại hóa Giáo Hội. Ngài cũng luôn quan tâm về nền hòa bình
thế giới. Một trong những thông điệp nổi tiếng của Ngài là Thông Điệp “Hòa Bình
Trên Thế Giới” (Pacem in Terris), ra ngày 11-4-1963, trong đó Ngài kêu gọi mọi
người có thành tâm thiện chí hãy chung tay xây dựng Hòa Bình và sự Công Chính
trên thế giới, để “làm cho trái đất này trở nên nơi ở tốt đẹp hơn cho nhân
loại!”(Lời kết Thông Điệp) Một đêm khi Ngài đang ngủ, Ngài chợt nghĩ đến bao
nhiêu những điều cần phải thực hiện trong Giáo Hội. Ngài mong cho đến sáng để
xin vào trình bày với Đức Giáo Hoàng về những việc cần phải làm ngay. Nhưng
Ngài sực tỉnh và mới nhận ra chính Ngài đang là Giáo Hoàng! Lúc đó, Ngài cảm
thấy hết sức sợ hãi! Nhưng như có tiếng Chúa nói với Ngài: “Giáo Hội là của Cha
chứ không phải của con!” Bấy giờ Ngài mới lấy lại can đảm và cầu nguyện xin
Chúa soi sáng cho Ngài biết phải làm gì để canh tân Giáo Hội. Rồi Ngài đã mở Đại
Công Đồng Vatican II (1962-1965), mời các vị Hồng Y và Giám Mục từ các nơi trên
thế giới trở về Rôma họp để cùng nhau đưa ra những ý kiến hiện đại hóa Giáo
Hội.
Thánh Lễ Chúa Nhật hôm nay, trong Bài Phúc Âm (Mc 4, 35-41),
chúng ta thấy các Thánh Tông Đồ đang chèo thuyền trên Biển Hồ Tibêriat trong
đêm tối, thì sóng to gió lớn nổi lên, nước ùa vào trong thuyền đến nỗi thuyền
sắp chìm, mà Chúa Giêsu cứ ‘ngủ yên’ trên mạn thuyền, như không biết gì cả. Các
Tông Đồ phải đánh thức Chúa dậy: “Chúng con sắp chết đến nơi mà Thày không quan
tâm đến sao?” Chúa Giêsu đã ‘thức dậy’ và làm phép lạ cho gió yên, biển lặng!
Rồi Chúa trách các Tông Đồ: “Các con không có đức tin ư? Sao mà qúa sợ hãi như
vậy!”
Trong cuộc đời mỗi người chúng ta, mỗi gia đình chúng ta có
nhiều lúc cũng gặp “bão tố nổi lên” và chúng ta có cảm tưởng Chúa cứ ‘ngủ yên’
mà không thương cứu giúp chúng ta. Y như trong trường hợp khổ đau của ông Gióp
trong Bài Đọc I (Gióp 38, 1.8-11). Nhưng ông Gióp đã luôn vững tin nơi Chúa,
không phàn nàn, kêu trách; rồi Chúa đã làm cho sóng gió cuộc đời ông chấm dứt,
và ban lại cho ông một cuộc sống tốt đẹp hơn. Trong Bài Đọc II (2Cr 5,14-17),
Thánh Phaolô nhắc nhở chúng ta: Vì thương yêu chúng ta, “Chúa Giêsu Kitô đã
chết vì tội lỗi chúng ta, nhưng Ngài đã sống lại!..”, đem lại cho chúng ta một
niềm tin vững chắc vào tình thương của Chúa.
Là những tín hữu của Chúa, chúng ta hãy noi gương ông Gióp, luôn
biết tin tưởng, phó thác nơi Chúa trong mọi biến cố xảy ra cho chúng ta, gia
đình chúng ta, thế giới chúng ta và ngay trong Giáo Hội Chúa nữa; vì Chúa là
Thiên Chúa toàn năng, và là Cha yêu thương của chúng ta. Trong Phúc Âm Chúa
Giêsu cũng bảo chúng ta hãy luôn tin tưởng nơi sự quan phòng của Chúa là Cha
luôn yêu thương chúng ta và lo lắng mọi điều cần thiết cho chúng ta. (Mt 6,
25-34)
Trong thế giới ngày nay, người ta thường thiếu niềm tin nơi
Chúa, và vì thế dễ lo lắng, sợ hãi trước những biến cố đau thương xảy ra trong
cuộc đời, và trở nên khủng hoảng tinh thần, bất mãn với cuộc đời, tâm trí bị
căng thẳng, rồi suy nhược (depressed) và có những trường hợp đưa đến loạn trí,
hành động điên rồ gây nên những tội ác khủng khiếp: như tự hủy chính mình, có
khi giết hại mạng sống cả gia đình, có khi giết hại những người vô tội, như
những cuộc bắn giết tại các trường học, tiệm ăn, sở làm và các trung tâm thương
mại v.v...
Trong Thánh Lễ hôm nay, chúng ta hãy cầu nguyện cho chúng ta
được vững niềm tin phó thác nơi tình thương che chở của Chúa là Cha chúng ta.
Xin cho chúng ta biết nhìn lên Thánh Giá Chúa để chấp nhận mọi đau khổ, thử
thách xảy ra cho chúng ta, gia đình chúng ta. Chính những đau khổ, thử thách
tôi luyện đức tin của chúng ta, làm cho đức tin của chúng ta trở nên vững chắc
hơn. Đau khổ và thử thách cũng là những dịp để chúng ta được thông phần với sự
đau khổ Chúa đã chịu để cứu chuộc chúng ta (Xin xem 1 Pr 1, 6-9; 2 Cr 4, 17-18;
Rm 8,18).
“Anh em hãy phó thác mọi nỗi lo âu cho Chúa; vì Chúa luôn lo
lắng cho anh em!” (1Pr 5,7).
“Hãy phó thác đường đời cho Chúa,
Người sẽ lo liệu mọi sự cho chúng ta!”
(TV 37).
“Tôi tin, tôi tin Chúa đã thương tôi, nên Người đã chết, chết vì
tôi…
“Tôi tin Chúa vẫn thương tôi, cho dù đời tôi bao phen giông tố…”
(Bản Thánh ca “Tôi Tin” của Thành Tâm)
Đoạn Tin Mừng sáng hôm nay cho chúng ta thấy các tông đồ đang ở
vào một tình thế tuyệt vọng. Lời van xin của họ dường như bị sóng biển vùi lấp:
- Lạy Thầy, xin cứu chúng con.
Chúa Giêsu rất có thể lên tiếng trách cứ các ông:
- Bộ các con không hiểu rằng bao lâu Thầy còn ở với các con, thì
không một tai ương hoạn nạn nào có thể xảy ra.
Thế nhưng lời van xin ấy lại rất bình thường và gần gũi với bản
tính của chúng ta. Lời van xin xuất phát từ trái tim của một tạo vật nhỏ bé,
như muốn xác quyết rằng: Vấn đề thật vô phương cứu chữa, chỉ mình Chúa mới có
thể giúp đỡ.
Thế nhưng ngày hôm nay, liệu chúng ta có còn tìm thấy những lời
van xin đầy tin tưởng và hy vọng như thế hay không? Nếu chúng ta hỏi những
người lính chiến rằng: Vào những lúc nguy hiểm có bao giờ các bạn đã nghĩ tới
Chúa và xin Ngài giúp đỡ hay không. Hầu như tất cả đều trả lời rằng không.
Nếu chúng ta hỏi những người lái xe rằng khi xảy ra tai nạn có
bao giờ các bạn nghĩ tới đời sau và xin Chúa phù trợ hay không. Hầu như tất cả
đều trả lời rằng không.
Chiếc tàu Dora với một ngàn bảy trăm hành khách, chẳng may gặp
nạn và chìm dần xuống biển, người ta đã ghi nhận được một cảnh tượng thật trái
ngược trong thời điểm hoảng hốt đó. Các cô thì lo giữ lấy đôi giày của mình.
Các bà thì lo giữ lấy những bộ áo của mình. Các ông thì lo giữ lấy ví tiền của
mình. Chỉ có một em bé năm tuổi là đã quỳ gối cầu nguyện.
Ngay cả bản thân chúng ta cũng thế. Mỗi khi gặp phải tai ương
hoạn nạn, chúng ta vùng vẫy, chúng ta kêu gào, chúng ta làm mọi cách để thoát
khỏi tai ương hoạn nạn ấy, nhưng lại không biết mở miệng kêu xin:
- Lạy Chúa, xin Chúa cứu giúp con kẻo con chết mất. Chỉ mình
Chúa mới có thể bảo đảm cho con được an toàn.
Chúng ta cũng giống như dân ngoại. Chẳng tìm thấy hướng đi cũng
như ánh sáng cho cuộc đời chúng ta. Ngày xưa mỗi khi mất mùa đói kém giặc giã
xảy ra, người ta kêu cầu Chúa:
- Lạy Chúa xin giúp đỡ con.
Người ta tổ chức những cuộc rước kiệu, những cuộc hành hương để
kêu cầu Chúa. Còn chúng ta ngày hôm nay thì sao?
Ngày hôm nay, người ta có rất nhiều phương tiện, chẳng hạn như
thuốc trụ sinh, công ty bảo bảo hiểm, và người ta cảm thấy không còn cần đến sự
trợ giúp của Chúa nữa. Và tệ hơn nữa, người ta muốn trục xuất Thiên Chúa ra
khỏi những sinh hoạt cá nhân và xã hội. Người ta muốn thay trời vắt đất làm
mưa. Người ta sống như không còn sự hiện diện của Ngài nữa.
Từ những điều vừa trình bày chúng ta đi tới kết luận: Bao lâu
Chúa Giêsu còn ở trong chúng ta thì không một tai nạn nào có thể xảy ra. Tuy
nhiên con người thời nay lại không hiểu là như thế. Do đó, vấn đề cần phải đặt
ra cho mỗi người, đó là Chúa Giêsu có thực ở trong thuyền đời chúng ta hay
không. Tôi đã phản ứng và hành động như thế nào trong những hoàn cảnh đen tối.
Tôi có biết hướng tới Chúa và xin Ngài giúp đỡ hay không? Đó là những câu hỏi
mà mỗi người chúng ta phải tự tìm lấy lời giải đáp.
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Các môn đệ gặp trận cuồng phong khi vượt biển. Họ kinh hoàng vì
thấy mình sắp bị nuốt chửng. Bất lực trước cơn cuồng nộ của sóng gió, họ đã
đánh thức Đức Giêsu, xin Ngài giúp đỡ.
Cuộc đời nào tránh được mọi cơn giông tố?
Ai trong chúng ta cũng thích biển lặng sóng yên, nhưng giông tố
lại giúp ta nhận ra mình: yếu đuối, chao đảo, mong manh, bất lực, không đủ khả
năng đương đầu với bao thách đố.
Giông tố đưa ta đến với Đức Giêsu, và phó thác cho sự trợ giúp
của Ngài. “Chúng con chết mất!”
Cái chết thể lý và cái chết tinh thần. Cái chết của bản thân và
của tập thể mình gắn bó. Cái chết của những công trình mình xây dựng.
Chúa là sự sống, sao Chúa lặng yên để chúng con chịu chết? Sao
Chúa để sự dữ tung hoành trên thế giới? “Mà Thầy không lo sao?”. Một lời trách
móc?
Nhiều khi chúng ta cũng trách Chúa như vậy. Có vẻ Chúa quá vô
tư, lãnh đạm, hững hờ. Chúa yên ngủ khi đời ta gặp cơn giông tố.
Đức Giêsu đã thức dậy, ra lệnh cho gió và biển: “Câm đi! Im
đi!”. Gió ngừng ngay và biển lặng xuống.
Sự lặng đi của biển đưa đến sự trầm lặng của lòng. Nỗi kinh
hoàng tan biến, nỗi sợ chết cũng bay xa.
Nhưng chúng ta không đòi phép lạ biển lặng trong đời. Điều quý
hơn, đó là lòng ta được lặng.
Lòng lặng không phải vì biển lặng, mà lặng ngay giữa lúc biển
động. Đó là một phép lạ lớn hơn nhiều, và đó cũng là thái độ Chúa muốn ta phải
có.
Tại sao các anh lại kinh sợ? Sóng gió làm gì được các anh khi
Thầy đang cùng các anh ở chung một con thuyền?
Đức Giêsu đòi các môn đệ không được khiếp sợ.
Thầy đã làm bao phép lạ trước mắt các anh, vậy mà các anh vẫn
chưa có lòng tin ư? Nếu có lòng tin thì đâu có cuống cuồng như vậy.
Đức tin chỉ lộ ra khi biển động. Và có thể nói, biển động giúp
hình thành đức tin. Đức tin lớn lên ít nhiều sau mỗi lần biển động.
Thuyền đời Kitô hữu chẳng bao giờ êm ả. Nó chỉ êm ả khi về tới
bến. Nhưng lòng ta lại phải giữ cho bình yên, ngay cả khi Ngài không thức dậy,
dù ta đã gọi Ngài nhiều lần giữa tiếng sóng gào thét. Ta tin rằng Ngài sẽ cứu
ta theo cách của Ngài.
Gợi Ý Chia Sẻ
Điều gì khiến bạn sợ hơn cả trong cuộc sống? (Sợ thất nghiệp, sợ
thi rớt, sợ không được yêu, sợ mất uy tín, hay sắc đẹp...). Sự sợ hãi có làm
đời bạn bớt vui không? Có làm bạn bớt tự do không?
Khi bạn bị căng thẳng, lo âu, mất bình an, bạn thường làm gì để
trở lại bình thường? Cầu nguyện có giúp gì cho bạn không?
Cầu Nguyện
Khi bị bao vây bởi muôn tiếng ồn ào, xin cho con tìm được những
phút giây thinh lặng.
Khi bị rã rời vì trăm công ngàn việc, xin cho con quý chuộng
những lúc được an nghỉ trước nhan Chúa.
Khi bị xao động bởi những bận tâm và âu lo, xin cho con biết
thanh thản ngồi dưới chân Chúa để nghe lời Người.
Khi bị kéo ghì bởi đam mê dục vọng, xin cho con thoát được lên
cao nhờ mang đôi cánh thần kỳ của sự cầu nguyện.
Lạy Chúa, ước gì tinh thần cầu nguyện thấm nhuần vào cả đời con.
Nhờ cầu nguyện, xin cho con gặp được con người thật của con và khuôn mặt thật
của Chúa.
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
John Newton là con trai một đại uý hải quân người Anh. Khi John
lên 10 tuổi, mẹ cậu qua đời. Từ đó cậu bé thường theo bố đi biển. Nhờ vậy mà
cậu rành rẽ đường lối ngoài biển khơi. Tuy nhiên vào năm cậu 17 tuổi, cậu bé
bất mãn với bố. Cậu bỏ thuyền ra đi lao vào cuộc đời gió bụi. Cuối cùng cậu
nhận được việc làm trên chiếc tàu hàng buôn nô lệ từ Phi Châu đến Mỹ Châu. Cậu
thăng quan tiến chức rất lẹ và chẳng bao lâu đã trở nên thuyền trưởng. Chẳng
bao giờ Newton bận tâm suy nghĩ đến việc buôn nô lệ là đúng hay sai. Cậu chỉ
làm công việc của mình nhằm mục đích kiếm tiền mà thôi. Thế nhưng một biến cố
quan trọng đã xẩy đến thay đổi tất cả cuộc đời cậu.
Một đêm nọ một cơn bão dữ dội xuất hiện trên mặt biển. Sóng dâng
cao như thác núi xô đẩy và quay vòng chiếc thuyền của Newton như món đồ chơi
trẻ con. Mọi người trên thuyền vô cùng kinh khiếp. Lúc bấy giờ bỗng dưng Newton
buột lời cầu nguyện. Đây là điều cậu không hề làm kể từ khi rời khỏi thuyền của
bố cậu, cậu kêu to: “Lạy Chúa, nếu Ngài thương, xin cứu vớt chúng con, con
nguyện sẽ mãi mãi làm nô lệ cho Ngài”.
Chúa nhậm lời cầu xin của cậu và cứu vớt con thuyền. Thế rồi sau
khi vào được bờ, Newton đã giữ lời hứa và bỏ nghề buôn nô lệ. Sau đó cậu đi tu,
và một thời gian sau trở thành mục sư coi sóc một nhà thờ nhỏ ở Olney, nước
Anh. Ở đây vị mục sư trở nên một nhà giảng thuyết kiêm nhà soạn thánh ca lừng
danh. Một trong những bản thánh ca cảm động nhất mà Newton đã sáng tác là bản
nhạc ca ngợi Chúa về cuộc trở lại của cậu.
Giống như Newton, các Tông đồ cũng gặp phải bão biển dữ dội.
Giống như Newton, các ông đã kêu to lên cùng Chúa: “Xin hãy cứu chúng con”.
Giống như Newton, các ông cũng đã được biến đổi hoàn toàn sau khi Chúa nhậm lời
cầu xin. Các ông hoảng sợ và nói với nhau: “Ông này là ai, mà cả đến gió và
biển cũng phải tuân lệnh?”.
“Ông này là ai?”. Đây chắc chắn là một câu hỏi căn bản. Dĩ nhiên
câu trả lời đã có sắn trong bài đọc 1 và trong Thánh Vịnh đáp ca hôm nay. Bài
đọc 1 mô tả Chúa là Đấng Tạo Hoá, chính Ngài đã tạo dựng biển cả, đã đặt ranh
giới cho chúng và truyền lệnh cho chúng tuân theo ý muốn của Ngài. (x.G 38,1.8-11).
Thánh Vịnh đáp ca là lời kêu cầu Chúa của những thuỷ thủ gặp bão biển. Và Chúa
đã ra tay cứu họ. Họ vui sướng, vì trời yên biển lặng. Và Chúa dẫn đưa về bờ
bến mong chờ. Họ tạ ơn Chúa, vì Chúa từ nhân (x. Tv 107).
Trong cả hai bài đọc Cựu Ước này, chúng ta thấy Chúa đang thi
hành chủ quyền của Ngài trên sóng gió. Ngài truyền lệnh cho chúng và chúng tuân
phục Ngài. Đây cũng là điều chúng ta thấy Chúa Giêsu đang thực hiện trong Tin
Mừng hôm nay.ngài đang biểu lộ chủ quyền của Ngài trên sóng gió. Ngài truyền
lệnh và chúng tuân phục ngay. Như thế các bài đọc hôm nay cho thấy Thiên Chúa
trong Cựu Ước và Đức Giêsu của Tân Ước là một. Ngài đang thực thi quyền năng
của một Thiên Chúa. Thánh Marcô không chỉ muốn nói lên quyền năng của Chúa mà
còn muốn khẳng định Ngài chính là Thiên Chúa, là Đấng Cứu Độ, và mời gọi chúng
ta hãy hoàn toàn tin vào Ngài.
Các môn đệ ở chung một thuyền với Chúa, các ông đã biết Chúa
quyền năng, có thể làm nhiều phép lạ, nhưng khi sóng gió nổi lên, các ông vẫn hoảng
hốt. Các ông quên rằng dù thức hay ngủ, Chúa vẫn là Chúa. Các ông chưa hoàn
toàn tin vào Chúa. Chúng ta thường nghĩ mình có đức tin, nhưng trong thử thách,
khi cần biểu lộ lòng tin thì nhiều khi ta lại hoảng sợ.
Đời tự nó đã là khó. Đi trong cuộc đời với niềm tin theo cách
Chúa dạy lại càng khó hơn. Chúng ta đã vâng lệnh Chúa mà nhổ neo ra khơi, đã
tin tưởng vì có Chúa ở đàng lái, ở vị trí hoa tiêu, nhưng có thể đã có lần
chúng ta đau đớn vì Chúa lại ngủ giữa phong ba. Điều đó có thật, là kinh nghiệm
muôn đời của những ai tin Chúa. Niềm tin không phải là giải đáp dễ dãi, không
miễn trừ những khó khăn. Cần phải dày công học tập mới chấp nhận được thực tế
đó. Người có niềm tin trưởng thành là người “giữa phong ba khốn cùng ngàn nỗi
vẫn luôn thành tín ngợi khen Chúa là thuẫn đỡ, là khiên che, là đồn luỹ”. Phải
dám ra đi dù trời đã về chiều, dù có thể gặp phong ba. Nếu không thì chẳng bao
giờ sang được “bờ bên kia” của cuộc sống. Chúa có thể ngủ, nhưng Chúa luôn thức
vào lúc quyết định để trợ giúp những ai bằng lòng để cho “Chúa ở đằng lái”.
Bão lớn, nước sắp đầy thuyền thì ai mà không sợ? Vậy mà Chúa còn
trách: “Sao các con sợ thế, các con không có đức tin ư?”. Các môn đệ lâm nguy
thật sự. Trong hoàn cảnh đó, chẳng những nên kêu cứu Chúa, mà đúng là phải kêu
cứu Chúa. Nhưng đừng kêu cứu với tâm trạng sợ hãi đến tuyệt vọng như vậy. Phải
kêu cứu nhưng hãy kêu cứu trong niềm cậy trông tín thác tuyệt đối. Lời trách cứ
của Chúa Giêsu khai mở cho chúng ta một kinh nghiệm đức tin quý báu: niềm tin
vững vàng làm chúng ta thêm can đảm lắm mới có thể tin. Vì tin Chúa, thực tế
chính là “ trao thân gởi phận” cho Chúa. Người tin Chúa thực sự thì không sợ,
còn người sợ thực sự thì không tin. Trong rất nhiều trường hợp, “yếu tin” đồng
nghĩa với “hèn tin”!
Câu hỏi của các môn đệ sau khi được Chúa cứu nguy: “Ngài là ai
mà cả gió lẫn biểu cũng đều vâng lệnh?” phải là câu hỏi căn bản cho những ai
muốn tin và muốn đạt tới niềm tin trưởng thành vào Chúa Giêsu. Phải trả lời cho
thật, cho đúng, cho sâu và sát với hoàn cảnh đời mình. Tin không phải chỉ là
xác tín về một chân lý lý thuyết cho thoả trí óc, nhưng là “trao thân gởi phận”
cho Chúa, nên phải biết rõ Chúa là ai, đáng tin đến mức nào. Thánh Phaolô là
chứng nhân đức tin kiệt xuất, đã trải qua bao gian nan mà vẫn tín trung với Chúa,
vì thánh nhân “biết mình đã tin vào ai” (2Tm 1,13). Nếu thực sự muốn tin, chúng
ta cũng phải biết: Chúa Giêsu Kitô là ai? Tin Mừng cho chúng ta biết: Chúa
Giêsu chính là Thiên Chúa. Chân lý ấy quá đơn sơ, chúng ta đều đã biết. Nhưng
có thể chúng ta mới biết bằng “cái đầu”, bằng trí óc, chứ chưa biết bằng “con
tim”, bằng lòng yêu mến. Tin cuối cùng là yêu, là trung thành gắn bó với Chúa
Giêsu trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời. Vậy lòng ta cần phải biết Ngài là Chúa,
nghĩa là không chỉ biết rằng Ngài quyền trên cuộc đời mình, Ngài là Chúa của
mình. Khi lòng ta chưa biết điều đó, thì dù không nói hay không dám nói ra, tự
thâm tâm ta vẫn nghĩ: Lời Chúa chói tai quá! Lệnh Chúa truyền khó khăn qúa! Và
sẽ bỏ đi như người Do Thái, vì thầy tin Chúa là phải là phiêu lưu và quá khó
khăn! Người có đức tin trưởng thành là người “biết điều”: họ nhận ra Đấng mời
gọi là Đấng có quyền, nên họ dấn thân theo lời mời gọi của Ngài vì đó là đòi
hỏi của tình yêu.
Hãy vận dụng đức tin để dấn thân vào đời, lấy sức chèo chống, ngăn
chận sự ác đang hoành hành. Hãy chạy đến Chúa và phó thác cho Ngài mọi lo lắng
của cuộc đời, kiên trì tin tưởng Chúa sẽ cứu thoát chúng ta.
Một sĩ quan người Anh cùng gia đình xuống tầu đi tới một miền xa
lạ. Đang lênh đênh trên biển thì bỗng có giông bão khủng khiếp ập tới. Hành
khách trên tầu cuống cuồng lo sợ, nhất là bà vợ của viên sĩ quan. Bà thấy ông
vẫn bình thản thì bực bội và trách ông không quan tâm đến nỗi lo lắng của bà và
các con. Ông này ra khỏi phòng một lát rồi trở lại, ông nghiêm nét mặt, rút
kiếm ra dí vào ngực vợ. Bà vợ hơi tái mặt, nhưng lát sau bà phá lên cười. Viên
sĩ quan hỏi: - Thấy mũi kiếm sắp đâm vào người mà em không sợ sao? - Việc gì em
phải sợ? Em biết anh vẫn thương em mà.
- Thế tại sao em bắt anh phải sợ khi anh biết Thiên Chúa luôn
yêu thương chúng ta? Và cơn bão này cũng ở trong bàn tay Thiên Chúa?
Chúng ta thường nghĩ mình có đức tin, nhưng trong thử thách, khi
cần biểu lộ lòng tin thì nhiều khi ta lại hoảng sợ. Chính vì thế, Chúa nhắc bảo
ta luôn nhớ cầu nguyện để xin ơn tăng cường đức tin. Các môn đệ ở chung một
thuyền với Chúa, các ông đã biết Chúa có quyền năng có thể làm nhiều phép lạ,
nhưng khi sóng gió nổi lên, các ông vẫn hoảng hốt. Các ông quên rằng dù thức
hay ngủ, Chúa vẫn là Chúa. Các ông chưa tin vào Chúa hoàn toàn. Chúng ta có thể
nghĩ rằng Chúa làm ra vẻ ngủ say để thử lòng tin của các môn đệ. Nhưng cũng có
thể Chúa ngủ thực, vì Chúa cũng mang bản tính con người như ta. Chúa mệt mỏi vì
bao công chuyện dồn dập mấy bữa qua: đi lại, giảng dạy, chữa bệnh cho bao nhiêu
người. Sự mệt mỏi đã đưa Chúa vào giấc ngủ say.
Có những bất trắc, những tai nạn, rủi ro xảy tới cho đời ta, ta
kêu cầu hoài mà không thấy Chúa đáp cứu. Những nhà duy vật thời nay thường nói:
“Thiên Chúa đã chết”. Đôi khi, chính chúng ta là tín hữu Kitô, cũng có cảm
tưởng như vậy. Chúng ta bị đe dọa, bị xô đẩy, bị chèn ép, chúng ta bất lực mà
Thiên Chúa cứ làm thinh cho thiên nhiên hoành hành, cứ để cho bạo động xảy tới,
xem ra Thiên Chúa đang ngủ quên. Tuy hoảng sợ, các môn đệ cũng còn chút tin
tưởng ở Chúa, các ông tới đánh thức Chúa: “Thưa Thầy, chúng con chết đến nơi mà
Thầy không quan tâm sao?”. Chúa thức dậy, đứng lên, quát nạt sóng gió và sóng gió
trở lại yên tĩnh tức thì.
Sau khi trời yên biển lặng, Chúa bảo các môn đệ: “Sao các con sợ
hãi? Các con không có đức tin ư?”. Chúa trách các môn đệ thiếu lòng tin. Không
tin rằng có Chúa đang ở với mình trong thuyền. Không tin rằng Chúa vẫn yêu
thương săn sóc các ông. Nhiều khi chúng ta còn đáng trách hơn các môn đệ, vì
những lần chúng ta than thân trách phận, oán trời, trách Chúa: Sao Chúa để
chúng ta đau khổ, kêu mãi kêu hoài mà Chúa vẫn làm ngơ.
Lạy Chúa, xin ban cho chúng con sức mạnh để chúng con lướt thắng
mọi thử thách trên đường đức tin. Xin giúp chúng con luôn nhận ra Chúa trong
những biến cố cuộc đời để chúng con an tâm phục vụ Tin Mừng. Quyền năng và tình
thương của Chúa luôn làm cho con vững dạ an lòng
(Tv 23,4).
Chúng ta phải liên lỉ băng qua bờ bên kia. Thường thường biển
động. Nhưng Chúa Kitô ở với chúng ta. Việc băng qua hồ Tibêriát, như thánh
Marcô kể lại, mang một ý nghĩa tượng trưng, cho ta thấy một kinh nghiệm quan
trọng và sâu sắc mà các môn đệ đã có được. Kinh nghiệm này có một giá trị gương
mẫu đối với chúng ta. Thường thường chúng ta phải sống những kinh nghiệm tương
tự.
Sang bờ bên kia.
Chúa Giêsu bảo bạn hữu của Chúa sang bờ bên kia. Vấn đề không
phải chỉ đơn giản là đi từ nơi này đến nơi khác, nhưng là sống một biến cố sẽ
giúp họ lớn lên. Lúc đó họ chưa biết được điều này.
Nhiều lần cả chúng ta nữa, chúng ta đứng trước một tiếng gọi của
Chúa Kitô. Gọi vươn lên, gọi sống đời sống Kitô hữu của chúng ta mãnh liệt hơn,
gọi dấn thân một cách mới mẻ… Nếu chúng ta đáp trả tiếng gọi ấy chúng ta không
biết trước những gì sẽ xảy ra cho mình hoặc nó sẽ đưa mình đến tận đâu.
Từ biển lặng đến sóng gió.
Không chút do dự các tông đồ chấp nhận qua bờ bên kia, thậm chí
họ còn có sáng kiến chuẩn bị nữa. Lúc khởi hành, mọi sự diễn ra suôn sẻ. Biển
hồ yên lặng. Họ là những tay chèo giỏi. Chúa Kitô nằm ngủ ở mạn thuyền.
Rồi gió nổi lên. Đó là giông bão. Các môn đệ hoảng hốt. Từ đáy
lòng họ la lên: “Lạy Thầy, chúng con chết mất!”.
Sự kiện này có thể áp dụng vào chính cuộc sống của chúng ta.
Nhiều lần chúng ta phải đáp lại những lời mời gọi của Thiên Chúa. Không thể
nghi ngờ thiện chí của chúng ta: Như các môn đệ, chúng ta thưa vâng trước những
tiếng gọi này. Nhưng việc thực hành những gì tiếng gọi ấy thường có vẻ khó khăn
và gắt gao hơn ta tưởng. Các khó khăn nhất thiết sẽ xảy đến. Chúng rất thường
nhiều hơn và lớn hơn điều ta dự tính.
Thế giới này trong đó chúng ta sống cũng giống như mặt biển động
vậy. Sống đạo trên một mặt biển như thế không dễ dàng, không đơn giản! Không dễ
dàng lớn lên về mặt Kitô hữu trong một xã hội như xã hội của chúng ta, đang
loan truyền đủ mọi thứ khác trừ sứ điệp của Chúa Kitô và lôi cuốn đến mọi nơi
khác trừ những con đường của Tin Mừng.
Lúc đó ta bị cám dỗ buông xuôi hết. Trở thành những kẻ không dấn
thân. Không đi nhà thờ nữa, chỉ còn sống cho mình, chỉ còn mang tên là tín hữu
mà thôi. Người ta vớt vát cho bộ mặt bên ngoài nhưng trong lòng thì không còn
gì nữa.
Phải làm một hành vi đức tin.
Giữa cơn giông tố, các tông đồ có ý tưởng rất hay là quay về với
Thầy của mình và cầu cứu Ngài. Kết quả thật lạ lùng. Chúa Kitô ra lệnh cho
biển. Biển lặng như tờ. Ngài trách họ: “Sao lại sợ? Tại sao các con không có
lòng tin?”. Phản ứng của các môn đệ có thể làm chúng ta ngạc nhiên. Thay vì kêu
lên: “Lạy Chúa, chúng con tin”, họ lại tự hỏi: “Ngài là ai mà ngay cả đến phong
ba và biển cả cũng phải vâng phục Ngài?”.
Không phải một sớm một chiều mà ta có được một niềm tin vững
chắc và sâu xa. Cần thời gian. Phải trải qua nhiều kinh nghiệm trong cuộc đời
làm Kitô hữu.
Ba điểm cần nhớ.
Những gì cần nhớ trong bài Tin Mừng hôm nay có thể tóm tắt trong
ba điểm.
Một là: đừng sợ qua bờ bên kia.
Đây là một điều kiện phải có để lớn lên. Khi cứ ở lại mãi trên bờ yên tĩnh của
thế giới bé nhỏ an toàn của mình, người ta không bao giờ trở thành một Kitô hữu
biết nhìn xa thấy rộng được Chúa Kitô luôn luôn mời gọi đi xa hơn, cao hơn.
Hai là: đừng ngạc nhiên về những khó khăn gặp phải
khi muốn sống một cuộc đời Kitô chân chính. Biển động là thành
phần của cuộc sống ấy, đó là dịp để tiến bộ.
Ba là: không nghi ngờ về sự hiện diện và quyền năng của Chúa
Kitô. Ngài ở với chúng ta. Cùng với Ngài, chúng ta
luôn luôn tới được những bến bờ khác. Chính Ngài đã đi qua cái chết… và đã tới
bờ của một cuộc sống mới. Những lần chúng ta phải đi từ bờ bên này sang bờ bên
kia trong cuộc sống hằng ngày đó là chúng ta được chuẩn bị cho cuộc vượt qua
cuối cùng.
Coi chừng những cuộc sống Kitô quá yên ổn, quá an toàn. Chúa
Kitô chờ đời chúng ta trên biển động. Thường thường đó chính là nơi mà Ngài tự
mặc khải cho chúng ta cách mạnh mẽ. Và chính ở đó, ở ngoài khơi mà rất thường
đức tin của chúng ta có thể được thức tỉnh hơn hết và có thể lớn lên.
Qua hình ảnh mặt biển dạy sóng Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta
những gì?
Mặt biển dạy sóng trước hết là hình ảnh của tâm hồn chúng ta.
Thực vậy, nhiều lúc chúng ta đã cảm thấy: những quyến dũ bất
chính, những đam mê mù quáng, những cám dỗ nặng nề, quả thực đã trở nên như
những ngọn sóng ngầm. Những quyến dũ ấy, những đam mê ấy, những cám dỗ ấy như
muốn đè bẹp con thuyền nhỏ bé là tâm hồn chúng ta, nhận chìm nó xuống đáy nước
tội lỗi, nếu như Chúa Giêsu, Đấng có quyền làm cho gió yên biển lặng đã không
đến can thiệp và giúp đỡ chúng ta. Vì thế chúng ta hãy kêu xin Chúa như các
tông đồ ngày xưa:
- Lạy Chúa, xin hãy cứu giúp chúng con không thì chúng con chết
mất.
Mặt biển dạy sóng còn là hình ảnh của thế gian.
Đúng vậy, thế gian là một mặt biển dạy sóng, trong khi đó Giáo
hội chỉ là một con thuyền nhỏ bé, mà người cầm lái, là Đức Kitô thì dường như
lại đang ngủ say. Những phong ba bão táp và những ngọn sóng trào dâng là những
cấm cớ bách hại, là những lập trường bài bác vu khống và chụp mũ, khiến cho
chúng ta, những môn đệ của Chúa cũng phải bàng hoàng kinh hãi, nếu không muốn
nói là đã đi đến chỗ tuyệt vọng.
Tại sao chúng ta lại sợ hãi? Phải chăng là vì yếu đức tin. Chúng
ta nên nhớ rằng, tình thương và sự quan phòng của Ngài luôn canh giữ chúng ta.
Chỉ một cái nhìn của Ngài cũng đã đủ để làm cho sóng yên biển lặng, tất cả trở
lại trật tự.
Kinh nghiệm của Giáo hội, cũng như của bản thân mỗi người cũng
làm chứng như vậy. Điều quan trọng, chúng ta phải luôn xác tín rằng: Chúa Giêsu
luôn ở với chúng ta. Mặc dù đôi lúc Ngài dường như có vẻ ngủ say, nhưng thực sự
thì tình thương của Ngài luôn canh giữ chúng ta. Và một khi Ngài đã ở với chúng
ta thì không ai có thể chống lại chúng ta.
Thánh nữ Cartarina Sienna ngày kia đã hỏi Chúa, sau khi đã thoát
khỏi sự cám dỗ nặng nề:
- Lạy Chúa, Chúa ở đâu khi con phải chiến đấu. Chúa Giêsu đã trả
lời:
- Ta ở bên cạnh con để giúp đỡ con.
Chính vì thế, giữa những gian nguy thử thách, giữa những cám dỗ
đe dọa, chúng ta hãy biết chạy đến và kêu van:
- Lạy Chúa, xin cứu chúng con, không thì chúng con chết mất.
Điều quan trọng là làm thế nào để Chúa Giêsu thực sự ở trong
chúng ta với tất cả tình thương của Ngài?
Tôi xin đưa ra một pháp đó là hãy xa tránh tội lỗi.
Vì tội lỗi sẽ đẩy chúng ta xa lìa tình Chúa và làm dấy lên trong tâm hồn cũng
như xã hội một trận cuồng phong thảm khốc.
Chính vì thế muốn trấn áp cuồng phong, muốn tái lập trật tự,
chúng ta phải biết hãm dẹp những dục vọng xấu xa, những khuynh hướng tội lỗi.
Tuy nhiên, để bảo đảm sự thành công, chúng ta hãy bắt chước các môn đệ đã kêu
lên với Chúa giữa cơn phong ba bão táp:
- Lạy Chúa, xin cứu giúp chúng con, không thì chúng con chết
mất.
Hồ Tibêria nằm ở mạn bắc Palestine, còn gọi là hồ Gênêsarét hay
biển Galilê, nhưng quen gọi là Biển Hồ, có hình bầu dục, chiều dài 21 km, chiều
ngang 12 km, thấp hơn mặt biển Địa Trung Hải 208m, lại nằm bên rặng núi Hemon
cao ngất, luôn có tuyết phủ, vì thế, các luồng gió mạnh đều dốc đổ vào hồ, gây
nên những cơn giông và bão tố bất thường.
Cựu Ước ít nhắc tới Biển Hồ này, nhưng trong Tân Ước, hồ này nổi
tiếng, vì nơi đây Chúa Giêsu đã làm một số phép lạ và giảng dạy nhiều điều.
Phép lạ kể lại trong bài Tin Mừng hôm nay xảy ra ở Biển Hồ này, vào một buổi
chiều đầy kỷ niệm của một ngày tháng chạp, năm thứ nhất công khai giảng dậy của
Chúa.
Hôm ấy, sau khi dùng thuyền làm tòa giảng dạy dân chúng nhiều dụ
ngôn, Chúa Giêsu giải tán cho họ ra về, rồi bảo các môn đệ kéo buồm ra khơi
sang bờ bên kia đến thành Gêrasa. Khi thuyền ra gần giữa khơi thì gặp biển động
mạnh, gió thổi dữ dội, sóng nước quật mạnh vào thuyền khiến thuyền chòng chành,
chồm lên chồm xuống muốn chìm. Các môn đệ ra sức chèo chống, tuy là những ngư
phủ đã quen với những cơn giông bão trên biển, mà lần này các ông cũng hoảng
sợ, vậy mà Chúa Giêsu vẫn nằm ngủ ngon lành ở cuối thuyền như không có sự gì
nguy hiểm đang xảy ra.
Các môn đệ không còn biết xoay sở làm sao đưa thuyền vào bờ, trở
lui không được vì bị sóng gió cản lại, mà tiến sang bờ bên kia thì còn xa quá.
Thật là tiến thoái lưỡng nan, các ông chỉ còn biết cầu cứu đến Chúa, mà Chúa
thì lại đang ngủ. Các ông đánh thức Chúa dậy và xin Chúa cứu giúp. Lời kêu cứu
này chứng tỏ các môn đệ tin Chúa có quyền phép. Nhưng Chúa đã quở trách các
ông: “Sao nhát thế? Anh em vẫn chưa có lòng tin sao?” Chúa trách các môn đệ như
vậy là vì mấy tuần qua các ông đã được chứng kiến Chúa làm nhiều phép lạ tỏ ra
Chúa là Đấng có quyền phép, nên đáng lẽ các ông phải tin tưởng nơi Chúa mà
không hoảng sợ trước cơn giông bão. Nhưng đức tin của các ông còn yếu kém, gặp
cơn giông bão, tuy có Chúa ở trong thuyền mà các ông vẫn hốt hoảng sợ hãi, nên
Chúa mới quở trách như vậy. Tuy nhiên, Chúa vẫn đứng dậy, truyền cho sóng gió
yên lặng, tức khắc biển trở lại bình thường.
Qua phép lạ này, Chúa Giêsu muốn cho các môn đệ thấy uy quyền
Thiên Chúa toàn năng của Ngài, đồng thời cũng cho họ biết: họ phải vững tin vào
Ngài, có Ngài ở bên, họ không được sợ hay không phải lo sợ gì cả, vì không có
gì Ngài không làm được, mọi sự đều tùy thuộc uy quyền toàn năng của Ngài.
Khi tìm hiểu về cơn bão tố xảy ra trên Biển Hồ, một nhà chú giải
Kinh Thánh đã giải thích: “Chúa Giêsu đã muốn đem các môn đệ của mình đi trên
biển, giữa bão tố kinh hoàng để cho họ thấy trước những bão tố sau này là những
bắt bớ, những hành hạ mà họ sẽ gặp trên đường tông đồ. Đối với họ, là những
người sẽ cầm lái thế giới sau này, con thuyền nhỏ bị sóng gió dữ tợn đánh chòng
chành sắp chìm, là hình ảnh của những trận bão tố sau này sẽ tấn công Giáo hội
mà họ phải kiên gan chống đỡ”.
Các nhà giảng thuyết thường áp dụng việc Chúa Giêsu làm cho sóng
gió yên lặng vào việc Chúa luôn ở cùng Giáo hội, và bênh vực gìn giữ Giáo hội
trải qua những cơn sóng gió trần gian. Chiếc thuyền của Phêrô là tượng trưng
cho con thuyền Giáo hội của Chúa mà Phêrô là đầu. Những cơn sóng gió là những
cơn thử thách bách hại mà Giáo hội luôn gặp phải. Cũng như khi xưa các tông đồ
trên thuyền đã được an toàn qua cơn sóng gió vì có Chúa Giêsu ở với các ông, thì
ngày nay cũng nhờ có Chúa Giêsu luôn hiện diện trong Giáo hội mà trải qua bao
cơn thử thách bách hại, Giáo hội vẫn đứng vững và trường tồn.
Nhìn vào lịch sử Giáo hội, qua dòng thời gian, trải qua các thời
đại, chúng ta thấy Giáo hội đã gặp phải bao cơn gió bão, thuyền Phêrô, tức là
Giáo hội, đã vượt biển được hai ngàn năm, thuyền đó ra đi, mặc dầu gặp bao sóng
gió, nhưng vẫn luôn đứng vững, lý do là vì Chúa Giêsu luôn hiện diện trong Giáo
hội như Ngài có mặt trên thuyền của các môn đệ xưa kia. Đôi khi xem ra Ngài ngủ
và có vẻ buông xuôi tay lái, nhưng thực ra đó chỉ là những cơ hội để nêu cao sự
hiện diện đầy quyền năng của Ngài.
Đối với mỗi người chúng ta cũng vậy, Thiên Chúa toàn năng cai
trị những bão tố bên ngoài, thì Ngài cũng thống trị những cơn bão, những sóng
gió trong tâm hồn, trong cuộc sống, trong cuộc đời thăng trầm của mỗi người.
Cuộc đời chúng ta là một đời lữ khách, vui buồn chen nhau. Là thân lữ khách,
chúng ta biết phận mình là thế, và trong muôn cảnh ngộ, chúng ta luôn có hy
vọng về tới bến. Đức tin vững chắc là bánh lái thuyền đưa chúng ta về tới bến
cứu độ. Chúa Giêsu luôn ngồi đàng sau con thuyền để trợ giúp chúng ta. Chúng ta
cứ yên trí lớn chèo thuyền ra đi, điều cần thiết nhất là chúng ta có luôn tin
tưởng vững chắc vào Chúa hay không?
Vì thế, giữa những bão tố, những sóng gió của biển đời, chúng ta
cần bắt chước gương các tông đồ, chạy lại với Chúa Giêsu và xin Ngài cứu giúp:
Lạy Chúa, xin cứu chúng con kẻo chúng con chết mất. Tin tưởng và cầu xin Chúa,
chúng ta sẽ được bình an.
(Trích trong "Như Thầy đã yêu")
Trong một cuộc hải trình vượt Đại Tây Dương, khách du lịch đang
thư thái ngắm cảnh hoàng hôn trên boong tàu.
Nơi tít mù xa, mặt trời đỏ cam đang chiếu những ánh vàng cuối
cùng của một ngày còn sót lại.
Bỗng mây đen ùn ùn kéo tới, tối sầm cả một vùng trời. Sấm chớp
đổ xuống liên hồi, giông tố cuồn cuộn nổi lên, càng lúc càng thét gào dữ dội.
Mọi người trên boong chen lấn nhau chạy về phòng mình. Duy chỉ
có một bé trai cứ tiếp tục chạy giỡn trên boong giữa trận cuồng phong.
Được hỏi tại sao em không sợ hãi trước cơn giông tố?
Em thản nhiên đáp lại:
- Vì cha em là người cầm lái con tàu!
***
Giống như khách du lịch trong câu chuyện trên, các môn đệ cũng
gặp một trận cuồng phong khi vượt biển. Các ngài kinh hoàng vì thấy mình sắp bị
nuốt chững. Bó tay bất lực trước phong ba bão táp, các ngài đã vội đánh thức
Đức Giêsu và xin Người ra tay cứu giúp: "Thưa Thầy, chúng con chết mất,
Thầy không quan tâm sao" (Mc. 4,38). Người liền đe gió và phán với biển
như một người bị quỉ ám: "Hãy im đi". Tức thì sóng yên biển lặng.
Ai cũng thích sóng yên biển lặng, xuôi chèo mát mái. Nhưng cuộc
đời nào mà chẳng có những cơn giông? Đại dương nào mà không có những bão tố?
Tuy nhiên, chính giông tố mới giúp chúng ta nhận ra chính mình:
mình còn yếu đuối và bất lực, còn nhát đảm và kém tin.
Cũng chính giông tố sẽ đưa ta đến với Chúa, để ta hoàn toàn phó
thác cho sự quan phòng của Người. Cũng chính giông tố sẽ giúp ta biểu lộ đức
tin. Có thể nói, đức tin sẽ lớn lên ít nhiều sau mỗi lần giông tố.
Thánh Phaolô viết: "Thiên Chúa không ban cho ta một thần
khí nhát sợ nhưng mạnh mẽ, bác ái và tự chủ" (2Tm.1,7),
Mỗi người chúng ta không khác chi chiếc thuyền nan chông chênh
giữa cơn lốc cuộc đời, khó khăn nối tiếp khó khăn. Giống như cậu bé đã tin
tưởng ở cha mình cầm lái con tàu, mỗi người chúng ta cũng hãy vững tin ở Thiên
Chúa tình yêu. Người sẽ hướng dẫn cuộc đời của mỗi chúng ta. Có Chúa trong đời,
những cô đơn như bị xóa nhòa, những khó khăn dường như nhỏ lại, những yếu đuối
như được mạnh sức. Chúng ta không cầu xin cho cuộc đời mình như biển lặng,
nhưng xin cho cõi lòng chúng ta được tĩnh lặng ngay giữa lúc biển động.
Thánh Phanxicô Salêsiô dạy: "Phải ở lại trong con thuyền mà
Thiên Chúa đã đặt chúng ta vào, để hành trình từ cõi đời này về chốn đời sau.
Chúng ta phải sẵn sàng ở lại trong sự bình an thanh thản".
Lạy Chúa, thuyền đời chúng con chẳng bao giờ được êm ả, nó chỉ
êm ả khi tới bến thiên đàng. Xin cho lòng chúng con luôn bình an ngay cả khi
Chúa còn đang ngủ, miễn là có Chúa trong thuyền, vì Chúa chính là thuyền trưởng
của đời chúng con. Amen.
Sau một ngày giảng dạy dân chúng, Chúa Giêsu bảo các môn đệ chèo
thuyền đưa Ngài sang bên kia Biển Hồ. Biển Galilê dài 21km, rộng 12km, xung
quanh có những rặng núi bao bọc. Nhiệt độ ở Galilê thuộc miền Bắc Israel và ở
Biển Chết thuộc miền Nam chênh lệch nhau, thỉnh thoảng tạo ra những cơn gió
mạnh. Biển Galilê nổi sóng dữ dội vì hình thể lòng chảo với núi non bao quanh.
Vì thế, người xưa quan niệm rằng, biển là biểu hiện cho những gì nguy hiểm, tối
tăm và sợ hãi. Biển động sóng gào biểu trưng cho một thế giới hỗn loạn và
phường tội lỗi (x. Is 57, 20). Ý định băng qua bên kia Biển hồ lúc trời đã về
chiều quả là một ý định táo bạo, liều lĩnh, bất chấp hiểm nguy.
Tuy vậy, Chúa Giêsu quyết định ra đi và thực hiện phép lạ trên
biển với mục đích củng cố đức tin cho các môn đệ, đồng thời biểu lộ uy quyền
của Thiên Chúa vượt trên mọi thế lực sự dữ.
Chúa Giêsu cùng với các môn đệ và có một số thuyền khác vượt
biển giữa trời đêm. Thuyền lướt sóng ra khơi giữa màn đêm. Bão tố cuồng phong
bỗng dưng ập đến. Các môn đệ, dù nhiều trải nghiệm về biển cả vẫn hốt hoảng lo
lắng hoang mang. Chỉ mình Chúa Giêsu vẫn an nhiên tự tại, vẫn ngủ như không có
gì xảy đến. Lạy Chúa, đến nước này mà Ngài vẫn ngủ sao? Trong dòng lịch sử,
không ít lần dân Do thái thấy như Chúa ngủ quên: “Lạy Chúa, Ngài quên con mãi
tới bao giờ? Tới bao giờ còn ngoảnh mặt làm ngơ? Tới bao giờ hồn con vẫn còn lo
lắng và lòng con ủ rũ đêm ngày? Tới bao giờ kẻ thù con thắng mãi?” (Tv 13,1-2).
Các môn đệ cuống cuồng lo sợ và hỏi: “Thầy ơi, chúng ta chết đến
nơi rồi, Thầy chẳng lo gì sao?” Tiếng kêu cứu trong tuyệt vọng. Gặp bão tố
cuồng phong trên biển cả, không lẽ những dân chài thứ thiệt như các ngư phủ lại
phải cậy đến sự trợ giúp của một bác thợ mộc ư? Kinh nghiệm thợ mộc giúp được
ích gì cho các ông lúc này? Ở đây rõ ràng là các ông cần sự trợ giúp thần linh,
cần một phép lạ. Khi con người đối diện với những gian nan khốn khó, với những
mãnh lực ác thần, họ mới thấy sức người quá hèn yếu, nhỏ bé. Bài đọc 1 cho thấy
con người yếu đuối tìm đâu được một chỗ dựa vững vàng ngoài niềm tin vào Thiên
Chúa toàn năng: “Bấy giờ, giữa cơn bão táp, Đức Chúa lên tiếng trả lời ông Gióp
như sau: Cửa đại dương, ai ra tay khép lại khi nước tuôn trào từ đáy vực sâu,
khi Ta giăng mây làm áo nó mặc, phủ sương mù làm tã che thân?” (G 38,1.8-9).
Đứng trước số phận ngàn cân treo sợi tóc, họ mới thấy cần biết bao quyền năng
Thiên Chúa trợ giúp. Thiên Chúa sẽ ra tay đúng lúc để đáp ứng tiếng van nài của
họ.
Không phải bằng một kỹ năng hàng hải mà bằng uy quyền của trời
cao, Chúa Giêsu thức dậy và ra lệnh cho sóng biển: “Im đi! Câm đi!”. Cử chỉ và
lời nói của Chúa giống như lúc Ngài trừ quỉ. Lập tức, gió ngừng thổi và biển
yên lặng như tờ. Rồi Chúa quở các môn đệ: sao các con lại sợ hãi thế? Đức tin
của các con như thế nào? Rõ ràng, Chúa không nói các môn đệ không có đức tin;
Chúa cũng không nói các môn đệ có đức tin bé nhỏ; ở đây đức tin của các môn đệ
giới hạn quyền năng của Thiên Chúa, thua sức mạnh thiên nhiên, sự hiện diện của
Chúa Giêsu không thể cứu nguy cho những người cùng thuyền được nên họ phải đánh
thức Chúa dậy.
Khi Chúa dùng lời quyền năng dẹp yên gió bão, các môn đệ ngạc
nhiên và hỏi: "Người này là ai mà cả đến gió và biển cũng tuân
lệnh?". Thông cảm với các môn đệ vì các ông chưa biết rõ Chúa là ai, quyền
năng thế nào để phó thác mạng sống mình cho Chúa. Nhờ phép lạ này, các ông nhận
ra Thầy có quyền trên cả gió và biển, có quyền như Thiên Chúa vậy. Từ đó, các
ông suy nghĩ, tìm hiểu con người Thầy hơn.
Những trắc trở đến từ thiên nhiên chỉ nói lên một phần nhỏ sự yếu
đuối của con người khi phải đối diện với trăm ngàn đợt sóng mãnh liệt từ các
dục vọng làm xáo động tâm hồn họ. Những sự ác dữ dội như sóng biển ấy chẳng để
ai ngủ yên, mà bắt người ta phải đặt niềm tin vào Chúa trong khi chống cự để có
được sự sống muôn đời: “Xin Chúa thấy cho: thù địch con đông vô kể, chúng ghét
thân này, ghét cay ghét đắng. Xin bảo toàn sinh mạng và giải thoát con, đừng để
con tủi nhục, bởi vì con ẩn náu bên Ngài” (Tv 25,19-20).
Giông bão bắt người ta phải tin, nhưng niềm tin lại cần đến thử
thách của giông bão, vì niềm tin cần được thử thách để lớn lên. Sóng gió là
những thử thách trong cuộc đời. Những thử thách Chúa gửi đến giúp ta giúp ta
biết mình hơn, biết yêu mến cậy trông vào Chúa hơn và giúp đức tin vững mạnh
hơn. Chúa phán với ông Gióp trong gió bão, dạy dỗ ông những lẽ khôn ngoan. Ông
Gióp đã luôn vững tin vào Chúa, không phàn nàn, kêu trách; rồi Chúa đã làm cho
sóng gió cuộc đời ông chấm dứt, và ban lại cho ông một cuộc sống tốt đẹp hơn.
Các Tông đồ cũng gặp bão táp trên biển cả. Chúa dùng lời quyền năng dẹp yên
giông bão. Khi sóng yên biển lặng rồi, các môn đệ càng vững tin nơi Chúa hơn,
từ nay các ngài không còn cuống quít sợ hãi mỗi khi gặp gian nan nữa. Ai càng
gặp nhiều thử thách thì càng trở nên từng trải, vững vàng hơn. Thánh Phaolô
nhắc nhở: vì thương yêu chúng ta, “Chúa Giêsu Kitô đã chết vì tội lỗi chúng ta,
nhưng Ngài đã sống lại!” đem đến cho chúng ta một niềm tin vững chắc vào tình
thương của Thiên Chúa.
Tàu thuyền một khi đã lênh đênh trên mặt biển rồi thì không thể
nào tránh được những cơn sóng to nhỏ và chẳng có cách chi thoát khỏi những chao
đảo, bập bềnh và lắc lư do bão táp và cuồng phong gây nên. Cũng vậy, mọi người
không ai tránh khỏi những sóng gió và bão tố to nhỏ do biển đời này gây ra!
- Khi tôi lâm vào cảnh hoang mang, sợ hãi, lúng túng, lo lắng,
bất an, phiền muộn, chán chường, thất vọng…
- Khi gia đình tôi chạm trán với những biến cố đau thương như
tai nạn xe cộ, tai nạn nghề nghiệp, thất nghiệp, vợ chồng con cái bất hòa xung
đột với nhau, đau ốm, tang chế…
- Khi trong cộng đoàn giáo xứ của tôi xảy ra những gương mù,
gương xấu: đố kị, ghen tương, kèn cựa, tranh giành quyền lợi, chia bè, kéo
phái, tố cáo nhau, mạt sát, thù ghét nhau …
- Khi trong cộng đoàn dòng tu của tôi phải đương đầu với những khủng
hoảng về mặt nhân sự, tài chánh, huấn luyện, đào tạo, kỳ thị, chia rẽ, phân
biệt, thiên vị…
- Khi Giáo Hội bị bêu xấu, hạ nhục, và bị công kích bởi gương mù
gương xấu do một số nhỏ giáo sĩ gây ra…
Thuyền trên biển gặp sóng gió, bão táp là chuyện rất bình
thường. Khi thuyền đời của mình không thể tránh được sức va chạm và những ảnh
hưởng của sóng gió, bão táp giông tố của cuộc đời này thì tôi phải làm gì để
giữ cho thuyền khỏi bị lật úp?
Cách hay nhất là bắt chước các môn đệ, chạy đến với Chúa Giêsu
để xin Ngài dẹp tan sóng gió và bão tố bảo vệ thuyền của mình khỏi bị nhận
chìm. Chỉ khi nào tin vào sự hiện diện của Chúa Giêsu Kitô, Đấng có quyền năng
trên sóng gió mưa bão và mở miệng van xin Ngài ra tay cứu giúp thì lúc đó
thuyền đời mới được bình an, bởi lẽ “Không có Thầy thì các con không thể làm gì
được!” (Ga 15,5).
Tin mừng hôm nay giúp chúng ta luôn sống an tâm. An tâm, bởi con
thuyền cuộc đời chúng ta ra khơi, giữa phong ba bão táp, giữa những thử thách
gian truân vẫn luôn có Chúa là thuyền trưởng hướng dẫn thuyền vượt sóng. An
tâm, bởi Chúa luôn xuất hiện đúng lúc đúng thời để ra tay nâng đỡ chúng ta
trước những khó khăn. An tâm, bởi chúng ta biết chúng ta tin vào Đấng chiến
thắng mọi thế lực ác thần và sự chết. An tâm, bởi từ nay, cuộc đời chúng ta đã
trao vào tay Chúa, tín thác mọi sự trong sự quan phòng của Thiên Chúa, vì như
thánh Phaolô, “tôi biết tôi tin vào ai” (2 Tm 1,12).
Xin cho Lời Chúa hôm nay giúp mỗi người chúng ta vững tin vào sự
hiện diện của Chúa, để trong mọi hoàn cảnh cuộc đời, chúng ta luôn có Chúa ở vị
trí hoa tiêu để hướng dẫn và can thiệp kịp thời, giúp chúng ta đến bến bờ bình
an.
Cuộc ra khơi nào cũng chứa đựng những bất trắc, những hiểm nguy.
Dòng đời nào cũng có biết bao cạm bẫy giăng ngang. Biển khơi luôn làm cho con
người sợ hãi. Dòng đời luôn làm cho con người lo âu. Con người luôn cảm thấy
mình quá nhỏ bé trước biển khơi và biển đời. Biển đời và biển khơi mãi mãi làm
cho con người cảm thất bất lực. Sóng gió vẫn thét gào. Sự dữ vẫn tung hoành.
Con người luôn phải đối phó trước những tình huống rủi ro có thể xảy đến.
Thời gian qua báo chí nói nhiều về những nguy hiểm của các ngư
dân Việt Nam đánh cá xa bờ. Lênh đênh trên biển. Không được bảo vệ. Một mình
đối phó với biết bao hiểm nguy do thiên nhiên đưa đến, và ghê sợ hơn là do
chính con người gây ra. Sự táo bạo của bọn cướp biển. Sự tranh giành phần biển
đánh cá của các nước lân bang. Nhiều ngư dân cảm thấy sợ hãi khi phải rời bến
xa bờ. Họ cảm thấy bất lực trước gian nguy trước mặt. Họ không dám mạo hiểm
đánh đổi tính mạng mình để đổi lấy một vài con cá. Họ đành rút lui. Họ sợ không
thể đương đầu với bao sóng gió nghi nan. Kẻ bán thuyền. Người để thuyền nằm bờ
chờ đợi thời cơ. Có mấy ai đủ can đảm ra khơi lúc này? Họ biết rằng ở nhà thì
đói. Nhưng ra đi càng thêm nợ nần, có khi còn mất cả tính mạng!
Năm xưa các tông đồ đã từng hoảng loạn, sợ hãi trước sức mạnh
của thiên nhiên, của giông bão. Giông bão như muốn nhấn chìm tất cả: con người
và tài sản. Con thuyền của họ thật mong manh! Họ đâu nghĩ rằng đêm nay biển dậy
sóng trào. Họ đâu lường hết được những rủi ro có thể đến với họ đêm nay. Họ
phải đối đầu với nguy nan, với bất trắc, với rủi ro. Một chiếc thuyền nan mong
manh trên biển cả biết bám víu vào đâu? Làm sao họ có thể vào bờ an toàn trước
gió biển và cuồng phong lồng lộng. Họ bất lực. Họ muốn buông xuôi cho dòng đời
xô đẩy. Nhưng may thay, họ đã nhớ đến Thầy. Thầy vẫn hiện diện bên họ. Có Thầy
hiện diện tại sao không cầu cứu? Thầy có thể làm cho kẻ chết sống lại. Thầy có
thể đẩy lùi sự dữ. Thầy có thể làm mọi sự. Tại sao không chạy đến cùng Thầy?
Dầu sao Thầy cũng là một cái phao duy nhất để các ông bám víu trong lúc nguy
nan của dòng đời.
Các ông đã chạy đến kêu cầu Thầy: “Thầy ơi, chúng con chết
mất!”. Đó là tiếng kêu từ thẳm sâu tâm hồn cần đến sự trợ giúp từ Thầy Chí
Thánh. Đó là tiếng cầu cứu nói lên sự bất lực của con người trước sóng gió ba
đào.
Đó cũng là tiếng kêu cứu của con người hôm nay khi đứng trước
biết bao nghịch cảnh xảy đến trong đời. Biển đời vẫn đưa đẩy những sóng gió
nghi nan, những bất trắc đau thương. Thiên tai vẫn ập xuống địa cầu. Sự dữ vẫn
đang tung hoành. Có nhiều người như muốn thất vọng buông xuôi vì không tìm được
lối thoát. Có nhiều người oán trời oán đất vì quá sức chịu đựng. Có nhiều người
ôm phiền muộn trong đau thương một mình vì chẳng tìm được sự an ủi, cảm thông
và tin tưởng nơi tha nhân. Dòng đời vẫn còn đó tiếng kêu van tha thiết dâng lên
Đấng tối cao. “Xin cứu chữa chúng con, Chúa ơi!”.
Vâng, cuộc đời vẫn còn đó biết bao sóng gió nổi trôi. Cuộc đời
tựa như chiếc thuyền nan chòng chành trước bao cám dỗ mời mọc, bao sự dữ bủa
vây. Chúa vẫn mời gọi chúng ta hãy tín thác vào Chúa. Hãy kêu cầu Chúa. Hãy đưa
tay để Chúa dìu chúng ta đi qua những thăng trầm của dòng đời. Dòng đời đâu mấy
khi bình yên. Con người mãi chơi vơi trong bể khổ trần gian. Nhưng có Chúa vẫn
đang đi trong cuộc đời chúng ta. Hãy tin tưởng phó thác vào Chúa. Hãy tin tưởng
vào tình thương quan phòng của Chúa, Ngài sẽ luôn làm những điều tốt đẹp nhất
cho con cái của Ngài.
Nguyện xin Chúa Giêsu là Đấng luôn hiện diện bên cạnh các tông
đồ và bên cuộc đời chúng ta, xin thương đến những cảnh đời đầy khó khăn thử
thách của kiếp người chúng ta. Amen.
(Giải thích bản văn Tin Mừng của Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang
Tiến)
Nằm trong văn mạch 4:35-5:43, trình thuật 4:35-41 là một trong
những đoạn trình bày quyền năng của Chúa Giêsu được biểu lộ cho các môn đệ sau
khi Người đã giảng dạy (4:1-34): giải thoát khỏi nguy hiểm sự chết (4:35-41);
khỏi quyền lực thù nghịch với Thiên Chúa (5:1-20), khỏi bệnh tật (5:25-34), và
khỏi sự chết (5:21-24.35-43). Điểm chung của các trình thuật nầy là: - sự hiện
diện của các môn đệ ( 4:35; 5:13; 5:31.37); - sự bất lực của con người - cầu
cứu ở Chúa Giêsu (4:38; 5:3; 5:23; 5:26); - Chúa Giêsu giải thoát mọi sự dữ
(4:39; 5:12-13; 5:29; 5:41tt); - Người đòi hỏi lòng tin (4:40; 5:34.36). Cấu
trúc của đoạn 4:35-41 có thể phân ra như sau: 1- Nhập đề: bối cảnh và nhân vật
(cc. 35-36); 2- Chúa Giêsu làm sóng gió lặng yên (cc. 37-29); 3- Kết luận: Thắc
mắc của cả Chúa Giêsu và các môn đệ (cc. 40-41).
Câu 4:34 là móc nối giữa hai đoạn 4:1-34 và 4:35-5:43. Như khi ở
riêng với các môn đệ, Chúa Giêsu đã thường cắt nghĩa mọi sự cho họ, Người cũng
sẽ tỏ chân dung của Người qua những việc quyền năng Người thực hiện khi Người
và họ đã tách khỏi dân chúng (x. 3:9.20.32; 4:1). Họ cần “ở với Người” (c. 36)
như lần đầu tiên họ được kêu gọi để có thể có kinh nghiệm sâu đậm về Người
(3:14; x. 5:37). “Buổi chiều” trong Marcô thường là khung cảnh của những việc
không tốt lành sẽ xảy đến (4:35; x. 6:47; 11:11; 14:17; 15:42). Đây là lần duy
nhất Marcô nói là các môn đệ “đem Người theo” (paralambanò). Động từ nầy
nói đến quan hệ giữa Chúa Giêsu-môn đệ. Thông thường Người đem các môn đệ theo
để tỏ cho họ chân tính của Người (9:2), cho họ hiệp thông vào cuộc thương khó
của Người (10:32; 14:33). Ngược lại, các môn đệ đem Người theo và cuối cùng tỏ
lộ cho Người thấy sự yếu đuối của họ (4: 40).
Trong hành trình sang bờ bên kia, các môn đệ kinh nghiệm ba
điều: vũ lực của gió bão kéo theo nguy hiểm chết người, sự bất lực của con
người và quyền năng của Chúa Giêsu (cc. 37-39). Gió bão được kể là quyền lực
thù nghịch gây hại cho con người. Chúa Giêsu ngăm đe và ra lệnh “Im đi!” cho ma
quỷ và gió bão (x. 1:25; 3:12; 4:38; 8:33; 9:25). Các môn đệ thấy lâm nguy cho
tất cả “chúng ta”, nhưng lại tỏ ra bất lực chế ngự gió bão, nên phải làm Người
chỗi dậy (egeirò). Mỗi lần Chúa Giêsu “làm ai chỗi dậy” là Người đã chữa
lành người đó (x. 1:31; 5:41; 9:27). Trái lại, các môn đệ chờ đợi sự can thiệp
từ phía Người. Việc Người ngủ trong khi thuyền gặp bão tố cho thấy Người không
sợ bị hại do những gì có thể xảy ra (x. 13:36; 14:37.40tt). Không cần ngăn ngừa
và tránh né, vì Người làm chủ trên gió bão.
Khi gió bão đã biến mất, Chúa Giêsu đặt câu hỏi với các môn đệ,
cũng như họ cũng tự hỏi về Người là ai. Hai câu hỏi của Người không mâu thuẫn
nhau; trái lại, mở một con đường. Trong tình huống gió bão có thể gây chết
người, vì đã để mình cuốn lôi bởi vũ lực vô nhân tính, nên các môn đệ đã cảm
nghiệm cách thâm sâu sự bất lực mà biểu hiện của nó là sự sợ hãi. Trái lại,
cũng trước nguy hiểm ấy, nếu để Chúa Giêsu và sự hiện diện của Người dẫn dắt vô
điều kiện, sẽ không cảm thấy bị đe dọa và không sợ hãi. Đó là đức tin vô điều
kiện Người muốn nơi môn đệ của Người (x. 11:22). Còn câu tự hỏi của các môn đệ
rất giống với những câu hỏi của dân chúng trước đây, chỉ sự kinh ngạc và thán
phục trước công cuộc cao cả tỏ hiện quyền năng của Thiên Chúa nơi Chúa Giêsu
(x. 1:27).
Biết Chúa Giêsu không chỉ bằng tri thức, mà cả kinh nghiệm bản
thân. Đức tin cần thiết để nhận biết Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa đang thực
hiện những điều không thể cho con người, và để sống hiệp thông với Người (x.
4:11).
Cơn bão số hai đổ bộ vào tỉnh Quảng Nam, Đà Nẵng từ chiều 24 đến
25 tháng 05 năm 1989, sức gió giật cấp 12 kèm theo mưa to đổ xuống như thác. Đây
là cơn bão mạnh nhất từ trước đến nay ở tỉnh này. Thống kê đầu tiên cho biết
gần 500 người bị chết và mất tích. Hàng trăm người bị thương, hàng vạn ngôi
nhà, nhiều trường học, bệnh viện, trạm trại, kho tàng … bị sụp đổ, hàng nghìn
tầu thuyền bị chìm, hư hỏng, thất lạc. Trên 50.000 mét khối kinh mương thủy lợi
bị vỡ lở … Bị tổn thất rất to lớn chưa thể tính hết được.
Chỉ một cơn bão ở một miền nhỏ so sánh với cả nước, và nếu sánh
với cả địa cầu nó chỉ là một chấm nhỏ đã phải chịu một cơn bão khủng khiếp như
thế, thì trên trái đất này còn phải chịu bao nhiêu cơn bão khủng khiếp đến
chừng nào! Biển cả đối với loài người vẫn là mối nguy cơ lớn đe dọa ghê gớm,
một mãnh lực không thể chế ngự được. Trước nguy cơ của biển, con người quá bé
nhỏ mong manh không ai dám cậy tài, cậy sức vào bất cứ một con tàu nào, dù nó
là con tàu khổng lồ như Titan, hay tối tân như con tàu nguyên tử, chỉ đụng sơ
vào tảng băng, đá ngầm đều vỡ tan, chìm mất tích dưới đáy đại dương.
Biển hồ Tibêria xưa tới nay vẫn nổi tiếng sóng gió đột ngột nổi
lên dữ dội do những luồng gió thổi từ cao nguyên Giôlăng tới. Thêm vào đó, thời
các tông đồ, thuyền bè chỉ là mấy miếng gỗ, tre, nứa thô sơ, khi gặp bão biển,
chỉ còn cách nộp mình cho thần chết. May cho các môn đệ, các ông đã biết Đức
Giêsu, Đấng đã trừ khử quỷ dữ (Mc. 1, 25), Đấng chế ngự thần chết (Mc. 5,
35-43), Ngài đang ngủ ở đàng sau thuyền, chắc chắn sẽ khắc phục được bão biển.
Nhưng sao Ngài vẫn ngủ yên trước cuồng phong dữ dội? Thật lạ
lùng! Các ông không thể kiên nhẫn chờ Ngài thức dậy. Sóng đã ập vào thuyền đầy
tràn nước rồi, mau mau chạy đến kêu gào Ngài cứu nguy: “Lạy Thầy, xin Thầy cứu
vớt, chúng con chết mất”.
Chìm thuyền, chết đến nơi rồi, thế mà Ngài còn than trách: “Sao
nhát đảm, hỡi kẻ yếu lòng tin?”. Lòng tin quá yếu, nhưng các ông vẫn còn một
chút tin tưởng cầu xin Ngài, nhờ đó, Thầy đã quát bảo bão biển phải im lặng
ngay. Kinh ngạc bao nhiêu, Ngài là ai mà bão tố, sóng gió biển cả phải tuân
lệnh. Thứ mãnh lực vô tri, vô giác, sao biết nghe lời Ngài? Sao những thứ có
tri, có giác, không biết nghe lời Ngài mà lặng yên đi, đừng nổi loạn nữa? Tại
sao loài người dám nổi loạn chống lại Ngài? Phải chăng họ cậy có tri, có giác,
có tài? Vì cậy có tri, có giác, có tài nên đã bị những thứ vô tri, vô giác, vô
tài nổi loạn chống lại loài người. Chừng nào loài người mới biết mở mắt ra thấy
mình quá yếu đuối, quá bất lực trước thiên nhiên vô tri giác, lúc đó loài người
mới biết chạy đến cầu cứu Đấng đã dựng nên và an bài mọi sự. Thiên Chúa nhiều
lần đã dạy cho loài người những bài học đích đáng như đại hồng thủy, động đất,
cháy rừng, hạn hán, bệnh tật để đừng bao giờ dám cậy mình đòi bằng Thiên Chúa
hay chối bỏ Ngài.
Các môn đệ, phải chăng lúc ra khơi cũng tự mãn cho mình là dân
biển lành nghề, chẳng sợ chi ai, mặc kệ Thầy nằm đó, Thầy đang nhờ cậy ta vượt
biển! Viết đoạn Phúc Âm này, Marcô không phải chỉ giản dị kể lại một phép lạ,
mà chủ đích làm nổi bật câu hỏi: “Ngài là ai mà bão và biển phải tuân lệnh?”.
Không phải Ngài vô tình dẫn môn đệ sang bờ biển đối diện bên kia, miền đất của
lương dân thù địch với Galilê, miền đất của dân Do thái. Suốt cuộc đời Ngài
phải trải qua những cuộc chiến gay go chống lại kẻ tin ma thờ quấy, sự dữ, tội
lỗi, bệnh tật và cái chết khốc liệt. Những sự dữ đó Kinh thánh thường gọi đêm
tối, vực sâu biển cả, Ngài ngủ trong đêm tối giữa biển cả trần gian, bao nhiêu
cuồng phong bão lực đang phá xiềng, phá xích, xổ lồng tung hoành khủng khiếp.
Giấc ngủ kinh hoàng của Ngài là cuộc thương khó; Ngài ở đàng lái, cuối thuyền,
dựa đầu vào gối mà ngủ giữa đêm bão biển. Cuối đời Ngài, Ngài cũng phải dựa đầu
vào cây thập giá mà chết giữa những địch thù khát máu. Hôm nay, giữa bão biển
đêm tối, Ngài muốn thao dượt đức tin non yếu của các ông, để ngày mai giữa cơn
khủng hoảng thương khó của Ngài, các ông “đừng sợ”. Nhưng các ông vẫn khiếp sợ
chạy trốn. Phúc cho các ông, Ngài thức dậy, dẹp yên sóng gió. Ngài chỗi dậy từ
trong kẻ chết cho các ông được bình an! được chỗi dậy với Ngài trong vinh
quang, Ngài bảo trước cho Phêrô: “Khi con chỗi dậy, con hãy làm cho anh em con
nên vững mạnh” (Lc. 22, 32).
Giờ đây Phêrô đang kể lại kinh nghiệm sống chết này cho giáo
đoàn Rôma đang lâm cảnh cuồng phong bão táp gây nên cảnh chết chóc tử đạo khốc
liệt để họ kiên trì vững mạnh trong đức tin mà biết dựa đầu vào Đức Giêsu mà
chỗi dậy trong “Đấng đã chết và sống lại vinh quang vì họ” (2Cr. 5, 17).
Lạy Chúa, biển đời đầy dẫy những nguy hiểm: “nguy hiểm về sông
ngòi, nguy hiểm về trộm cướp, nguy hiểm về đồng bào, nguy hiểm về dân ngoại,
nguy hiểm nơi thành thị, nguy hiểm chốn hoang vu, nguy hiểm trên biển cả, nguy
hiểm vì anh em giả dối … nào ai yếu đuối mà tôi không yếu đuối? Ai vấp ngã mà
tôi không bỏng xót!” (2Cr. 11, 26-29).
Lạy Chúa xin cho chúng con biết dựa đầu vào Chúa mà chỗi dậy
luôn luôn.
Hôm qua ngồi nghe sư huynh Phong giảng tĩnh tâm tại giáo xứ Lộ
Đức, Hoa Kỳ, tôi thấy rùng mình khi thấy những cô bé Việt nam bị bán sang các
lầu xanh bên Cambodia. Có những em mới chỉ hơn mười tuổi. Kết quả một số em bị
mắc bệnh liệt kháng và đã sớm kết thúc cuộc đời trong hoang lạnh. Có cảnh bé
thơ Việt nam bị bán đi với giá hai trăm đô. Nhưng em bị trả lại vì có bệnh liệt
kháng. Suýt nữa em đã bị giết ngay trước mặt người mua. May thay, đứng trước
cảnh đau lòng đó, người mua đành hy sinh mất hai trăm để cứu mạng em.
Những cảnh tang thương đó đã đập vào mắt các bạn trẻ Việt nam
hải ngoại. Sư huynh lạc quan về giới trẻ Việt nam Hải ngoại. Chỉ cần năm ngàn
đô để cứu các cô gái kém may mắn. Nhưng các bạn trẻ ở Los Angeles đã lạc quyên
được mười lăm ngàn. Với số tiền lớn gấp ba như thế, sư huynh đã hết sức cảm
động và đầy tin tưởng xông pha đi tìm đường cứu sống những cô gái đó. Nhiều nơi
các bạn trẻ, như tại Lộ Đức, tự động đứng ra rửa xe, lạc quyên, hớt tóc giúp
người nghèo khổ, bệnh tật, già nua, xây trường học v.v.
Tất cả những khốn cùng của dân tộc đều do sự nghèo đói. Đứng
trước biển cả nghèo đói bao la của dân tộc, nhiều người đã tự hỏi: Thiên Chúa ở
đâu? Chúa có biết gì về những khốn cùng của kiếp người không? Chúa đang ngủ hay
thức? Thất vọng tràn trề. Thất vọng như những môn đệ của Chúa trên khoang
thuyền năm xưa.
Hôm ấy, sau khi rời đám đông sang bờ bên kia (x. Mc 5:35), Chúa
Giêsu đã lôi cuốn một số thuyền theo Người. Chắc lúc đó trời yên bể lặng nên
các thuyền mới có thể nối đuôi nhau như thế. Các thuyền đi đông vừa vui vừa cảm
thấy an toàn khi hữu sự. Chúa Giêsu cũng chỉ là một người ngồi trong khoang
thuyền nào đó mà thôi. Gió biển thổi lên mát quá. Chúa chìm vào giấc điệp bao
giờ không hay. Chắc Chúa phải ngủ say lắm mới không nghe tiếng các môn đệ đang
thi nhau thét gào cùng sóng biển.
Gió rít mạnh. Các con thuyền lắc lư quá đến nỗi nước trào vào
đầy khoang thuyền (x. Mc 5:38). Mạnh đến thế mà sóng gió cũng không kéo Chúa ra
khỏi giấc nồng. Đó là dấu chứng tỏ, sau một ngày hoạt động mục vụ, Chúa bị dân
chúng “quần thảo” dữ dội lắm. Nhưng như thế mới biết tâm hồn Chúa bình an chừng
nào! Quả thế, “ai có tâm hồn trong sạch, mới ngủ được. Và ai ngủ được đều có
tâm hồn trong sạch.”(Péguy 1962:27) Đố ai ngủ được như Chúa!
Nhưng Chúa càng bình an, các môn đệ càng bấn loạn lên. Bao nhiêu
chiếc thuyền vẫn không thể nương dựa nhau trong cơn sóng bão. Bao nhiêu ngư phủ
lành nghề vẫn không đủ tài trí bảo đảm an toàn cho bấy nhiêu sinh mạng đang
treo sợi mành. Vận dụng hết năng lực vẫn không tát hết nước ra khỏi các khoang
thuyền. Tình hình càng lúc càng nguy ngập. Bí quá, các môn đệ mới chợt nhớ đến
Thày như giải pháp cuối cùng. Các ông vội vàng đến kéo Chúa ra khỏi giấc nồng.
Các ông không ngại gài thêm một lời trách móc: “Thày ơi, chúng ta chết đến nơi
rồi, Thày chẳng lo gì sao?” (Mc 5:38) Đối với các ông, Thày thuộc loại người
“vô ăn vô lo.” Sao Thày vô tư đến thế?!
Choàng tỉnh khỏi giấc nồng, Thày liền bắt tay vào việc. Các ông
nghĩ, nếu mình không đánh thức, chắc chìm xuống đáy biển Thày vẫn còn ngủ.
Nhưng thực ra, họ đánh thức Thày, hay Thày đánh thức họ? Thực tế, họ còn ngủ
sâu hơn Thày nữa. Họ ngủ vùi trong sự hèn nhát và vô tín (x. Mc 5:40). Bởi vậy,
sau khi dẹp tan biển cả, Chúa lôi các ông ra khỏi cảnh tối tăm. Té ra, chính họ
mới cần đánh thức, chứ không phải Chúa. Chứng kiến cảnh Chúa ra tay uy quyền
trên biển cả, họ mới ngạc nhiên về quyền năng vô biên của Chúa. Từ đó, họ mới
biết Chúa là ai.
Nếu chỉ là người phàm, hẳn Chúa không thể nào có quyền năng lớn
lao như vậy. Trước sức mạnh biển cả, họ mất bình tĩnh. Nhưng trước quyền năng
của Chúa, họ mới “hoảng sợ.” (Mc 5:41) Biển cả có gầm thét cũng chỉ làm cho các
ông đâm lo vì sự bất lực của mình. Nhưng quyền năng Chúa mới thực sự làm cho
các ông phải đứng trước một thần lực lớn lao trổi vượt hơn thủy thần như
Bơhêmốt, Giao long, Raháp. Biển cả vẫn là nơi quỷ dữ hoành hành. Như thế, “Chúa
Giêsu chứng tỏ thần lực của Người trên quyền lực sự dữ.” (Các Giờ Kinh Phụng Vụ
2005:184) Nếu không là Thiên Chúa, làm sao Chúa Giêsu có thể có quyền toàn năng
đến như vậy?!
Đứng trước những thống khổ mênh mông như biển cả của hàng triệu
người Do thái đã bị Đức Quốc Xã tiêu diệt hồi thế chiến thứ hai, ĐGH Bênêđictô
XVI cũng đã ngạc nhiên về sự im lặng của Chúa. Có lẽ cũng như các môn đệ trên
biển cả, ĐGH cũng thắc mắc: “Thày chẳng lo gì sao?” (Mc 5,38) Câu hỏi đó đã dẫn
nhiều người xa Chúa. Nhưng cũng chính thắc mắc đó lại đặt môn đệ trước một mầu
nhiệm vô cùng lớn lao. Mầu nhiệm này vượt quá khả năng con người. Bởi thế, muốn
đi sâu vào mầu nhiệm đó, con người phải có đức tin. “Chỉ có lòng tin tưởng vào
Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, Đấng đã chiến thắng quyền lực sữ dữ, mới cho phép
họ vượt qua sự sợ hãi.” (Các Giờ Kinh Phụng Vụ 2005:184) Đức tin trở thành sức
mạnh khiến ta đứng vững trước tất cả mọi giông tố cuộc đời. Chỉ có đức tin mới
là câu trả lời đích xác nhất cho những gì chúng ta đang quan tâm lo lắng hôm
nay. Đức tin sẽ không trình bày một Chúa Kitô theo quan điểm loài người (x. 2
Cr 5:16), nhưng một Chúa Kitô đã chết cho mọi người theo đúng ý định Thiên
Chúa.
Cám ơn Chúa vẫn cho đức tin sống mạnh trong các bạn trẻ Việt nam
hôm nay. Nhìn kỹ vào niềm tin tuổi trẻ chúng ta sẽ thấy tất cả sức mạnh của
niềm tin. Bạn trẻ đã mở ra một lối thoát mới cho những bế tắc hôm nay. Chúng ta
có quyền hy vọng và học hỏi nơi các bạn!
Trên con đường theo Chúa Giêsu, mặc dù các môn đệ đã được Người đào
tạo, dậy dỗ, uốn nắn… các ông vẫn chưa hiểu gì về đường lối của Chúa: Người đã
giảng dậy, đã làm nhiều phép lạ nhưng các môn đệ vẫn sống trong sự mờ ảo của
cuộc sống, các ông vẫn chưa làm sao hiểu được ý của Thầy Giêsu. Do đó, đã có
lúc các ông tưởng Thầy mình là ma, đã có lúc các ông lánh xa Chúa, đã có lúc
các ông phản ứng lại những lời nói, cách sống, cử chỉ, thái độ của Thầy mình.
Đức tin của các môn đệ nhiều lúc tưởng như lu mờ, hay nói một cách khác các ông
chưa có lòng tin. Tin Mừng Mc 1, 35-41 là một bằng chứng nói lên quyền năng vô
biên của Chúa giống như sách Gióp khẳng định:” Chỉ Thiên Chúa là Đấng sáng tạo
quyền năng, chủ tể muôn loài, muôn vật, chủ tể mọi sự”. Phép lạ Chúa Giêsu làm
cho sóng to, gió lớn phải im bật nói lên quyền uy của Chúa. Đáng lẽ các môn đệ
phải vui mừng vì Thầy có quyền năng khiến gió to, biển động im hơi lặng tiếng,
các môn đệ lại hoảng hốt sợ sệt. Chúa Giêsu đã phải lên tiếng:” Sao nhát thế?
Anh em chưa có lòng tin sao?”.
CÁI TRỚ TRÊU CỦA CÁC MÔN ĐỆ
Theo Chúa gần ba năm, các môn đệ đã được Chúa dậy bảo nhiều
điều: Người đã nói thực tế, đã làm những phép lạ, đã dùng những dụ ngôn, những
ví dụ xẩy ra chung quanh các môn đệ để làm sáng tỏ lòng tin của các ông, nhưng
các ông vẫn còn u tối, các ông vẫn chưa cảm nghiệm được quyền năng và tư cách
thần linh của Chúa Giêsu. Các môn đệ luôn tỏ ra không hiểu hay tỏ ra hiểu lờ mờ
về Thầy mình. Các ông luôn mơ tưởng đến việc Chúa Giêsu sẽ khôi phục lại nước
Israen và rồi các ông được ăn trên ngồi trốc trước mọi người khi Chúa Giêsu đăng
quang làm vua theo ý nghĩ trần gian của các ông. Điều đó không lấy gì làm lạ
khi phép lạ hôm nay xẩy ra. Bối cảnh phép lạ được Chúa Giêsu thực hiện vào một
buổi chiều trên biển hồ. Thuyền của các môn đệ rời bến để qua bờ bên kia. Chi
tiết này giúp chúng ta hiểu phép lạ diễn ra trong đêm. Chúa Giêsu ngồi ở đằng
lái, gối đầu mà ngủ. Bỗng gió to, sóng lớn nổi lên, sóng ập vào thuyền, đến nỗi
thuyền đầy nước.
Các môn đệ hoảng hốt, xôn xao, nhốn nháo đánh thức Chúa: “Thầy
ơi, chúng ta chết đến nơi rồi, Thầy chẳng lo sao?”(Mc 4, 38). Chúa Giêsu liền
can thiệp bằng một lời và chỉ một lời truyền của Người: “Im đi! Câm đi!”(Mc
4,39). Gió liền im. Biển lặng như tờ. Điều làm chúng ta ngạc nhiên không phải
là phép lạ, nhưng là cách Chúa Giêsu thực hiện phép lạ: “Tại sao Chúa biết
trước sẽ có cuồng phong, biết trước việc Người sẽ làm?. Tại sao Người không can
thiệp liền, tại sao Người cứ gối đầu mà ngủ?
Thực ra khi gió to, biển động, sóng gào, các môn đệ xốn xáo,
chạy lại đánh thức Chúa dậy, các ông xin Chúa can thiệp hai điều xem ra như là
một tối hậu thư: “Thầy ơi, chúng con chết đến nơi rồi”. Điều thứ hai: “Thầy
chẳng lo gì sao?”. Câu nói thứ hai của các môn đệ hàm ý sao Thầy vô tư quá,
chúng con sắp chết mà Thầy cứ tỉnh bơ ngủ say. Chúa Giêsu đã trả lời cả hai điều
các môn đệ yêu cầu. Điều thứ nhất, Chúa truyền cho biển yên, gió lặng. Điều thứ
hai, Người khiển trách: “Sao nhát thế? Anh em chưa đủ đức tin hay sao?” (Mc 4,
40). Cái trớ trêu hầu như khờ khạo của các môn đệ ở chỗ Chúa luôn có mặt, luôn
hiện diện dù Người đang ngủ, Người hay biết mọi sự nhưng các môn đệ đâu có nhận
ra điều ấy. Vậy, khi Người khiếm diện, khi Người không có mặt ở đấy, các môn đệ
sẽ ra thế nào!: “Làm sao mà anh em vẫn chưa có lòng tin?”(Mc 4, 40). Anh em để
đức tin ở đâu? Ở đây, trong tình huống này, các môn đệ có thể nghĩ đến những
can thiệp của Thiên Chúa đối với số mệnh của dân tộc các ông. Thiên Chúa đã cứu
thoát cha ông của các ông, đã giữ lời Giao Ước của Ngài cho dù có lúc Thiên
Chúa hầu như im lặng. Thiên Chúa đã không bỏ rơi dân tộc. Bốn mươi năm sau, dân
lưu đầy bên Ai Cập đã được Thiên Chúa giải thoát, đoàn người lưu đầy kéo về
Giêrusalem được thanh luyện và lớn lên trong thử thách.
CHÚA MỜI GỌI CÁC MÔN ĐỆ VÀ NHÂN LOẠI TIN VÀO CHÚA:
Đối diện với quyền lực của sự dữ, của ma quỷ vì theo não trạng
của người Do Thái, biển là biểu tượng của quyền lực ma quỷ. Các môn đệ cuống
quýt đã quên cả lòng tin của mình vào Chúa Giêsu. Vậy phải chăng Tin Mừng hôm
nay mời gọi con người, nhân loại hãy tin vào Chúa, hãy bám chặt lấy Chúa, hãy
tin vào uy quyền tuyệt đối của Chúa trên mọi loài, mọi vật, mọi sự. Tiếng la
hoảng hốt của các môn đệ trước trận cuồng phong bão táp, phải chăng đang là thử
thách của con người, của mỗi người khi họ gặp cơn cám dỗ, gặp sự thử thách gian
nan giữa cuộc đời, giữa hành trình đức tin đầy cam go? Liệu Chúa có bỏ con
người hay con người chỉ ngờ ngợ, yếu tin chưa có lòng tin mạnh mẽ và gắn chặt
vào Chúa Giêsu? Chúng ta hãy đọc lại nhiều dụ ngôn trong Tin Mừng, chúng ta sẽ
thấy nhiều lòng tin làm ta ngạc nhiên. Và khi ta tin thật sự vào Chúa, chắc
chắn sự an bình sẽ đến với chúng ta. Thiên chúa không ở xa ta, Ngài ở bên ta,
Ngài yêu thương ta, Ngài sẵn sàng can thiệp vào mọi biến cố của đời ta. Nhưng
chắc chắn chúng ta cũng có thái độ như các môn đệ hoảng hốt, như ông Môsê trước
bụi gai bốc cháy (Xh 3,1), như ngôn sứ Isaia khi nhìn thấy vinh quang của Thiên
Chúa trong đền thờ (Is 6,5). Tất cả đều tùy thuộc vào lòng mến và vào sự phó
thác tuyệt đối của mỗi người chúng ta trong bàn tay yêu thương của Thiên Chúa.
Lạy Chúa, xin ban thêm đức tin cho chúng con để chúng con luôn
bám chặt lấy Chúa vì Chúa là Đấng uy quyền và hay thương xót.
Câu chuyện thầy trò Chúa Giêsu và các môn đệ vượt biển đã gặp
phải cuồng phong đe dọa, cho chúng ta hình ảnh một Đức Giêsu Con Thiên Chúa đầy
quyền năng trừ phong dẹp vũ, trong một con người Giêsu mệt mỏi nằm ngủ trên
thuyền sau một ngày làm việc vất vả.
Câu chuyện này gợi lại hình ảnh được nói tới trong Thánh Vịnh
78:
“Bấy giờ Chúa như người đang ngủ,
như tướng hùng đã thấm men say,
bỗng tỉnh giấc, đánh cho quân thù quay lưng chạy,
phải thảm thê nhục nhã muôn đời”.
(Tv 78,65-66).
Kẻ thù ở đây là biển cả cuồng phong. Theo não trạng người
Do-thái, biển là biểu tượng của quyền lực ma quỷ. Mỗi ngày, biển cũng nhắc mọi
người nhớ lại thời hỗn mang nguyên thủy: tại đây hải thần thủy quái vẫy vùng và
chỉ có một mình Thiên Chúa Toàn Năng mới thách thức và chế ngự được chúng. Khi
Chúa Giêsu thức dậy “ngăm đe gió và biển” như khi Người truyền cho ma quỷ ( x.
Mc 1,25), cho thấy Chúa Giêsu chứng tỏ thần lực của Người trên quyền lực sự dữ.
Chúa Giêsu chứng minh sức mạnh và sự phát triển không có gì
chống lại được của Nước Thiên Chúa. Người chứng tỏ điều này bằng một dấu chỉ
quyền năng là phép lạ dẹp tan sóng gió trước khi đi vào miền đất dân ngoại,
nghĩa là chiến thắng của Tin Mừng trên ma quỷ vượt ra ngoài biên giới Israel.
Khi đối mặt với mọi hình thức sự dữ đang tấn công con người
trong các trận cuồng phong nó gây nên, đôi khi chúng ta tự hỏi: Phải chăng
Thiên Chúa đang ngủ?
Thật vậy, cảm nhận của con người giữa biển đời lắm khi như Thiên
Chúa ẩn mình hay vắng bóng. Và rồi giữa phong ba bão tố cuộc đời, con người lựa
chọn đương đầu ít nhất với 3 cách:
- Dùng sức mình để vật lộn với sóng gió để rồi thất bại tuyệt
vọng,
- Chạy đến với Thiên Chúa mọi nơi mọi lúc nên không bao giờ sợ
hãi,
- Gặp khi khó khăn mới chạy đến kêu cứu Chúa, nghĩa là coi Chúa
chỉ như một phương thế giải quyết tức thời, mà thiếu đi đức tin thật sự và lòng
yêu mến nồng nàn.
Trường hợp thứ ba này là trường hợp của dân Do-thái xưa, sách
Xuất Hành và đặc biệt là sách Thủ Lãnh là một câu chuyện lặp đi lặp lại khi dân
bị quân thù ức hiếp thì kêu cứu Chúa, Chúa giải cứu rồi lại tiếp tục phản
nghịch Ngài…
Và có thể nói, đây cũng là thái độ của các môn đệ của Chúa Giêsu
trong bài Tin Mừng hôm nay, khi họ chưa có niềm tin và lòng yêu mến Thầy cho
đủ, đến nỗi ngay khi chứng kiến phép lạ rồi vẫn ngỡ ngàng không hiểu Thầy là
ai. Thầy Giêsu đang ở trên thuyền nhưng có vẻ như không có Người hiện diện, cho
đến khi sóng gió bủa vây mà kinh nghiệm chống đỡ của dân làng chài như mấy ông
đã bất lực mới chạy đến cầu cứu Thầy.
Đó cũng là cách sống và giữ đạo của không ít người trong chúng
ta ngày nay. Khi an vui hạnh phúc chúng ta quên mất sự hiện diện của Thiên
Chúa, đến khi gặp khó khăn thất bại mới tìm về cầu cứu Chúa. Sống đạo như thế
là hời hợt, thiếu niềm tin đích thật và thiếu lòng lòng mến Chúa Giêsu. Cũng
không thiếu những người ỷ lại vào khả năng mình mà thiếu đi lòng tín thác vào
Chúa nên khi gặp sóng gió đã dễ ngã lòng kêu trách Người.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho mọi người chúng con luôn tin tưởng vào
sự hiện diện của Chúa trên con thuyền cuộc đời chúng con giữa biển đời sóng
gió. Để chúng con không bao giờ nao núng vì Chúa đã chiến thắng nên chúng con
cũng sẽ chung phần chiến thắng và cập bến Nước Trời. Amen.
“Sao nhát thế? Làm sao mà anh em vẫn chưa có lòng tin?”
* Vài hàng sơ lược
- Từ đoạn thánh kinh này Mc 4,35-41 đến 5,43, Mác-cô bắt đầu kể
về những phép lạ của Chúa Giêsu. Qua đó những hành động quyền năng của Chúa
được nêu bật. Vì vậy mà sau đó người ta bắt đầu thắc mắc về Giêsu: “Bởi
đâu ông ta được như thế? Ông ta được khôn ngoan như vậy, nghĩa là làm sao? Ông
ta làm được những phép lạ như thế, nghĩa là gì?” (Mc 6, 2)
Ngoài ra, tất cả những phép lạ này đều có một khung cảnh chung,
đó khung cảnh biển hồ Ga-li-lê-a. Và hình ảnh thuyền đều xuất hiện trong mỗi
phép lạ (x. 4, 36.37; 5,2.18.21)
Một điều luôn được nhấn mạnh trong chuỗi phép lạ này. Đó là niềm
tin tưởng. (x. 4, 40; 5. 34.36) Thêm vào đó có thể nhắc đến việc thiếu lòng tin
trong 6,6. Ngoài ra, một thái độ đi đôi với niềm tin tưởng được nhắc lại 3 lần
trong chuỗi phép lạ này. Đó là thái độ bái lạy, sụp xuống và phủ phục trước Đức
Kitô (x. 5, 6.22.33) Điều này làm nổi bật sự “chào thua” của những quyền lực đe
dọa trước Chúa Giêsu: quyền lực thiên nhiên (4, 35-42), quyền lực ma quỷ 5,
1-20, quyền lực của bệnh hoạn (5, 24-34) và quyền lực của sự chết (5, 21-23 và
35-43)
- Liên quan đến những đoạn thánh kinh về các dụ ngôn trước đó,
chúng ta thấy đoạn thánh kinh này nối kết với đoạn 4,1, mở đầu cho các bài
giảng với các dụ ngôn: “Đức Giê-su lại bắt đầu giảng dạy ở ven Biển Hồ”. Như
vậy, khung cảnh biển hồ đức Giêsu giảng dạy vẫn là khung cảnh của câu chuyện
phép lạ này, chỉ khác là giờ đây Giêsu lên thuyền và đi trên biển hồ. Ngoài ra,
theo Adolf Pohl thì sau những bài giảng bằng lời nói của Giêsu, thì tiếp nối
bằng những hành động của Ngài, để qua đó chứng thực về một Thiên Chúa không chỉ
nói hay mà còn làm giỏi nữa. Lời nói và hành động đi đôi với nhau.
- Ngoài ra, khi đọc đoạn Thánh Kinh này, người ta có thể liên hệ
ngay với đoạn thánh kinh ở Giona chương 1. Theo Rudfolf Pesch thì đoạn thánh
kinh là câu chuyện kể lại câu chuyện của Giona, với sự phụ họa của thánh vịnh
107, 23-30. Mục đích chính là sự tuyên xưng: Giêsu lớn hơn tiên tri.
Ở đây, chúng ta có thể so sánh hai câu chuyện với nhau:
(a) Trong Giona 1, 4 ĐỨC CHÚA tung ra một cơn gió to trên biển.
Còn ờ trong đoạn phúc âm của Mác-cô thì gió bão đến như là quyền lực muốn
chống lại Thiên Chúa.
(b) Trong Giona 1, 5 Giona đi ngủ vì không muốn tuân phục Thiên
Chúa. Còn theo Mác-cô thì Giêsu ngủ vì mệt mỏi sau những ngày tuần phục Thiên
Chúa làm việc phục vụ mọi người.
(c) Trong Giona 1, 14 mọi người trên tàu sợ hãi và kêu cầu Thiên
Chúa. Còn ở Mác-cô thì chính Giêsu là Thiên Chúa đã lên tiếng.
(d) Trong Giona 1, 14 các người dân ngoại trên tàu có niềm tin
vào Chúa, còn các môn đệ trong đoạn Mác-cô này lại là những người thiều niềm
tin.
(e) Trong Giona 1, 15 Biển dừng cơn giận dữ, vì Giona đã vâng
lời Chúa và đồng ý để người ta quăng xuống biển. Ở Mác-cô thì biển hồ và cuồng
phong vâng lệnh Giêsu.
- Trong đoạn Thánh Kinh Mc 4, 35-41 này tích cách Kitô học và
Giáo Hội học được nêu bật, trong khi những sự kiện lịch sử cụ thể không đóng
vai trò quan trọng.
- Ngoài ra, theo Johannes Bours, trong câu chuyện mà Mác-cô kể
lại ở trên, có hai câu hỏi đã đụng độ nhau. Câu hỏi đầy sợ hãi của các môn đệ
đã gặp gỡ câu hỏi đầy trách cứ của Giêsu. Khi đọc câu chuyện này, tôi cảm nhận
rằng, câu chuyện đang kể về chính cuộc đời của chúng ta. Và câu hỏi sống còn
của các môn đệ cũng liên hệ đến chính câu hỏi sống còn của mỗi người chúng ta:
Cái gì có thể chiến thắng sự sợ hãi? Ai là người mạnh hơn? Thần Dữ, kẻ muốn
nhấn chìm chúng ta xuống biển sâu, hay là Đấng mà trong đoạn Thánh Kinh này đã
nhắc đến: “Người thức dậy.”
- Biển hồ Genesareth được người Ả-rập gọi là “Ajn Allah” – Mắt
của Chúa”. Biển hồ này theo Adolf Pohl, nằm 212 m dưới mặt nước biển và ba phía
của biển hồ được bao bọc bởi ba vách núi cao đến 300 m. Và biển hồ này có khí
hậu bán nhiệt đới. Giữa tháng 5 và tháng 6 nhiệt độ nóng đến 40 độ C. Sự điều
hòa nhiệt độ nhờ luồng khí lạnh trong miền cao, kết hợp với nhiệt độ nóng nực ở
trên biển hồ, có thể được những trận gió lớn kéo theo một cách bất ngờ, như
Luca diễn tả: “Một trận cuồng phong ập xuống hồ; các ngài bị ngập nước và lâm
nguy” (8,23). Vì sự bất ngờ không thể dự đoán trước của các trận cuồng phong
tại biển hồ này, mà các ngư dân ở đây rất sợ hãi. Và để tránh sự bất ngờ này
nên các con thuyền đều cố gắng hướng về phía đông, nơi mà các ngư dân qua
tiếng gió thổi, có thể đoán được xem có cuồng phong hay không.
* Suy niệm
- “35 Hôm ấy, khi chiều đến, Đức Giê-su nói với các môn đệ:
“Chúng ta sang bờ bên kia đi!”
“Hôm ấy, khi chiều đến” Câu chuyện được bắt đầu như vậy.
Chiều đến nghĩa là ngày sống từ từ chào tạm biệt, công việc từ từ được gác
xuống, giờ đây là thời gian để nghỉ ngơi. Ngày sống vừa qua của Giêsu là một
ngày làm việc miệt mài. Ngài đi giảng dạy ở ven Biển Hồ. Ngài đã giảng gì vậy?
Đọc lại các đoạn trước đó, chúng ta nhận ra rằng, Giêsu đã giảng dậy nhiều dụ
ngôn khác nhau: Dụ ngôn người gieo giống; dụ ngôn cái đèn và đấu đong, dụ ngôn
hạt cải. Từ ở trên thuyền Giêsu đã giảng dạy những điều đó cho dân chúng. Giờ
đây khi bóng dương từ từ ngả xuống, Giêsu cũng từ từ muốn ngả lưng, Ngài cũng
cần giờ cho mình, cần giờ để nghỉ ngơi, để ngủ nữa chứ. Vì thế, các môn đệ đã
chở thầy mình qua bờ bên kia. Trên thuyền Giêsu mệt nhoài đã thiếp ngủ. Theo
sau thuyền của Giêsu là rất nhiều thuyền khác nữa.
- 36 Bỏ đám đông ở lại, các ông chở Người đi, vì Người đang ở
sẵn trên thuyền; có những thuyền khác cùng theo Người.
Giêsu bỏ đám đông ở lại mà không chia tay gì với họ, là dấu hiệu
Ngài mệt mỏi lắm rồi. Điều này được chứng minh qua câu 38 qua sự thiếp ngủ của
Chúa. Thuyền mà Giêsu đang ở sẵn trên đó theo Adolf Pohl thì chắc không nhỏ, vì
trên đó có cả một nhóm người. Ngoài ra, có những thuyền khác theo Người. Động
từ “theo với, ở với” trong Mác-cô luôn hướng về Giêsu (x. 1, 13; 2,19; 3, 14;
5, 18; 14,57). Điều này nói lên tương quan chặt chẽ với Chúa Giêsu. Không chỉ
là nhóm 12 thôi, mà còn cả những môn đệ khác nữa (ss. 4, 10)
- 37 Và một trận cuồng phong nổi lên, sóng ập vào thuyền, đến
nỗi thuyền đầy nước.
Hôm ấy, khi chiều đến cũng còn là thời gian ánh dương từ từ lặn
dần để nhường bước cho đêm đen.
Và đêm càng đen hơn nữa, khi những con thuyền lênh đênh trên mặt
hồ bao la kia. Phải chăng đêm đen này như đang dẫn đời người vào trong cái vòng
ma quái? Hay đêm đen kia đang như muốn nuốt chửng không chỉ ánh mặt trời, mà
tất cả những con người đang ở trên thuyền kia, những con người mệt mỏi sau một
ngày vất vả với công việc?
Không chỉ đen, mà thêm vào đó là một trận cuồng phong nổi lên,
sóng ập vào thuyền, đến nỗi thuyền đầy nước. Ở đây cần nhắc đến một yếu tố.
Trong bản gốc của Hy-lạp, câu chuyện này được kể tiếp nối với nhau trong thì
hiện tại và quá khứ. Ngoài ra, chữ “Kai” trong tiếng Hy-lạp, có nghĩa là
“Và”, được nhắc đến tất cả 12 x. Theo Johannes Bours, thì điều đó làm cho câu
chuyện ly kỳ hơn. Cái thảm cảnh trong câu chuyện theo đó được diễn tả thảm não
hơn. Thêm vào đó, trong thời cổ đại, thì thần dữ luôn gắn liền với cuồng phong
bão táp của biển khơi. Phải chăng đại dương là nơi chốn của thần dữ với sức
mạnh tàn phá và nuốt chửng?
Vâng, sự ly kỳ và thảm não của câu chuyện trong Thánh Kinh bắt
tôi phải dừng bước một chút, để lật lại những trang sách kể về các chuyến vượt
biển của người Việt thân thương. Lênh đênh trên mặt biển chứ không phải là mặt
hồ đâu. Đêm đen không chỉ làm đen cả bầu trời xanh ngát, mà còn làm đen cả bao
tâm hồn chan chứa hy vọng, khi xuống thuyền ra đi. Rồi chiếc thuyền có lớn lao
bao nhiêu đâu. Xăng dầu cũng đã gần cạn rồi. Thuyền nào chẳng may bị bọn hải
tặc “ghé thăm” một lần hay nhiều lần, thì còn thê thảm hơn nữa. Có một số
thuyền không chỉ đầy nước mà còn bị vỡ tan tành, giờ đây chỉ là những mảnh gỗ
của thuyền, làm bè cho một vài thân xác mệt nhoài, lực đã tàn sức đã kiệt, thả
cuộc đời trôi theo sóng, trôi theo biển, trôi theo bóng đen, mà không còn nhìn
thấy một tia hy vọng, không còn nhận ra một bến bờ để tấp vô. Mà có bờ đâu để
tấp để đậu. Phải làm sao đây? Không lẽ đứng chết chân một chỗ? Hay chấp nhận
một cái chết thê thảm trong bóng đêm, trong lòng biển? Không, ít nhất cần phải
hò hét! Nhưng “hò” thì ai “thưởng thức” và hét thì có ai nghe giữa đại dương
mênh mông này không? Đó là câu hỏi của những con người đụng tới đường cùng của
cuộc sống. Truớc đường cùng này, tôi cũng xin không chỉ dừng bước, mà với tất
cả tấm lòng xin cầu nguyện cho bao người Việt đã qua đời trên biển cả. Xin Chúa
thương nhìn đến và đón nhận tất cả vào Nước của Chúa.
Vâng, chúng con dù sao vẫn tin vào lòng nhân từ và ơn giải thoát
của Chúa, như Chúa đã nói:
“1 Bấy giờ, giữa cơn bão táp, ĐỨC CHÚA lên tiếng trả lời ông
Gióp như sau:
8 Cửa đại dương, ai ra tay khép lại
khi nước tuôn trào từ đáy vực sâu,
9 khi Ta giăng mây làm áo nó mặc,
phủ sương mù làm tã che thân?
10 Đường ranh giới của nó, chính Ta vạch sẵn,
lại đặt vào nơi cửa đóng then cài;
11 rồi Ta phán: “Ngươi chỉ tới đây thôi,
chứ không được tiến xa hơn nữa,
đây là nơi các đợt sóng cao phải vỡ tan tành!”
(Gióp 38, 1.8-11)
Dù tin đấy, nhưng không dậm chân tại chỗ. Niềm tin cũng cần biết
tạo sáng kiến. Niềm tin cũng cần phải lên tiếng. Vâng, lên tiếng để đánh thức
Chúa dậy. Một hành động tuyệt vời. Đến đường cùng rồi, vì thế cần phải đánh
thức Ánh Dương, cần phải đánh thức Thiên Chúa đang ngủ dậy. Bóng đêm kia không
thể mạnh hơn Ánh Sáng. Cuồng phong kia không thể mạnh hơn Thần Khí Thiên Chúa
được. Cuồng phong và biển cả đều phải có ranh giới. Chúng phải ở đàng sau cánh
cửa kia. Thiên Chúa chính là người không chỉ vạch ranh giới, không chỉ đặt then
cài, mà Ngài còn là người có đủ quyền năng để gài then cửa.
- 38 Trong khi đó, Đức Giê-su đang ở đàng lái, dựa đầu vào chiếc
gối mà ngủ. Các môn đệ đánh thức Người dậy và nói: “Thầy ơi, chúng ta chết đến
nơi rồi, Thầy chẳng lo gì sao?”
Và quyền năng của Thiên Chúa cũng được trao cho Giêsu, Người con
dấu ái. Vì thế, các môn đệ đã đánh thức thầy: “Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi
rồi, Thầy chẳng lo gì sao?”
Một câu hỏi chất chứa sợ hãi và âu lo, một câu hỏi mang chút
trách cứ và hờn giận Thiên Chúa. Joachim Gnilka, một nhà chú giải thánh kinh đã
cắt nghĩa rằng, câu hỏi của các môn đệ đã diễn tả thái độ sai lầm của họ: Khi
gặp hiểm nguy họ chỉ nghĩ về mình và về sự an toàn của mình mà thôi. Một cách
nào đó họ đã không chia sẻ nỗi hiểm nguy của họ với Thiên Chúa. Họ không để cho
Thiên Chúa cùng gánh vác nỗi hiểm nguy của họ. Thái độ này được nhắc lại rất rõ
ràng trong biến cố họ chạy trốn trước thánh giá tử nạn của Giêsu. Còn với
Rudolf Pesch thì lòng yếu tin của các môn đệ nằm ở chỗ, là họ không hiểu được
và chấp nhận được một Thiên Chúa ẩn mình. Và trên con đường thương khó, các ông
cũng đã ngựa quen đường cũ, không hiểu được tại sao Giêsu thầy mình phải chịu
bắt bớ, tra khảo, kết án và chết tất tưởi trên thập tự.
Đâu rồi niềm tin và sự cậy trông vào một Thiên Chúa đã sinh ra
làm người nghèo khổ trong hang lừa, để chia sẻ và gánh vác với đời người những
âu lo, những khổ đau? Đâu rồi sứ điệp và tin mừng Phục Sinh của một Giêsu chiến
thắng sự chết? Giêsu đó, Thiên Chúa đó ngay từ đầu và mãi mãi nói với con người
chúng ta rằng: “Đừng sợ!”
Hay sức mạnh của bóng đêm và sự đe dọa của cuồng phong bão táp
đã làm tắt lịm đi chút ánh sáng của niềm tin, và chút hơi ấm của niềm hy vọng?
Không, ngay từ ngày đầu tiên, khi Thiên Chúa sáng tạo con người, Thiên Chúa đã
thấy rằng, hành động sáng tạo này là hành động tuyệt vời nhất. Còn tạo vật nào
hơn con người mà Thiên Chúa yêu thương nữa. Vì thế, dù biển sâu hay cuồng
phong, dù bão táp hay đêm đen, dù thần dữ hay lòng người gian dối, không có gì
có thể làm cho tình yêu của Thiên Chúa phai nhòa.
Thiên Chúa vẫn hiện diện. “Emmanuel - Thiên Chúa luôn ở cùng với
chúng ta”.
Ngay cả trong những đêm tăm tối nhất của cuộc sống, Ngài vẫn
không hề bỏ mặc chúng ta một mình. Ngay cả trong những lúc khó khăn nhất của
cuộc đời, Ngài vẫn luôn hiện diện với chúng ta. Và thậm chí, ngay cả trong đêm
cuối đời, trong giây phút cô đơn hiu quạnh cuối cùng của cuộc sống, vốn dĩ
không ai có thể đồng hành cùng với chúng ta, trong đêm cuối cùng trước giờ lâm
tử đó, Thiên Chúa vẫn không hề từ bỏ chúng ta.... (Đức Thánh Cha Bênêđíctô XVI)
Lời của Đức Thánh Cha chất chứa niềm hy vọng. Niềm hy vọng này
cũng chính là nguồn sống cho Alfred Delp, một linh mục dòng Tên bị phát xít Đức
giam cầm trong ngục tù đen tối. Cha Alfred kể lại rằng: “Vào một buổi tối
tôi cảm thấy tâm hồn mình chao đảo. Tôi bị hành hạ rất dã man và sau đó bị tống
trở lại vào ngục. Những tên lính phát xít giải tôi vào ngục đã nói những lời
như sau: “Như vậy là đêm nay mày không thể nhắm mắt được đâu. Mày sẽ cầu
nguyện, nhưng không có một Thiên Chúa và cũng chẳng có một thiên thần nào đến,
để cứu thoát mày. Phần chúng ta sẽ đánh một giấc ngon lành, và sáng sớm ngày
mai chúng ta sẽ tiếp tục hành hạ mày.’
Alfred kể tiếp: Thiên Chúa đã thử thách tôi. Giờ đây làm thế nào
để có thể bền bỉ đứng vững được thôi. Tôi vẫn luôn tin tưởng vững vàng và hy
vọng nơi Bàn Tay nhân từ, Bàn Tay đã đón nhận chúng ta và hướng dẫn chúng
ta.... và Thiên Chúa đã ban tặng cho tôi một không gian thật đẹp với sự bình
tâm thẳm sâu. Tôi cảm thấy lúc này Chúa thật gần và thương tôi thật nhiều....Với
tôi có những lúc thật là khó khăn. Tôi đã trải qua những giờ phút rất đau
thương với nước mắt và máu. Nhưng tôi đã luôn luôn cố gắng đưa những giọt nước
mắt và máu của mình vào trong hai hành động thật nhỏ bé, để nhờ đó có thể đứng
vững được. Hai hành động đó là: Cầu Nguyện và Yêu Thương. Tất cả mọi hành động
khác trong lúc đó đều sai cả.... Hôm nay là một ngày tồi tệ. Thiên Chúa như
đang thử thách tôi, xem tôi có giữ những lời mà tôi đã từng xác tín không: Chỉ
với Chúa thì cuộc sống mới tồn tại và phận người mới đứng vững được.
Giờ phút của Phêrô lại đến. Gió bão và sóng lớn lại đe
dọa... Phêrô bắt đầu run lẩy bẩy... Giờ đây mọi sự nằm trong bàn tay của
Chúa... Ngài có nhiều cách để vực chúng ta dậy và dìu chúng ta tiếp tục tiến bước.
Tôi đã thường cảm thấy điều này trong những tuần lễ thê thảm đầy sợ hãi và dài
đằng đẵng. Tôi luôn hy vọng vào Thiên Chúa, và vào tình yêu cùng sự trung thành
của Ngài...Tôi muốn đốt lên những ngọn lửa cho các bạn. Các bạn đã cùng đi với
tôi trong những đêm đen của cuộc đời. Các bạn cũng đã từng bị gió bão và cuồng
phong đe dọa, và các bạn đã đứng vững. Vai kề vai chúng ta cùng gánh vác chung
với nhau nhé... Giữa đêm đen Ánh Sáng sẽ bừng lên!”
Hành động của Cha Alfred chắc chắn là một bài học thật quý giá
cho chúng ta. Thực vậy, trên con thuyền của cuộc đời, chúng ta chỉ cần tin
thôi. Chúng ta hãy cứ an tâm. Dù cho Giêsu có ngủ, nhưng ngủ ở đàng lái đấy! Và
không chỉ ngủ ở đàng lái, mà theo Hans Urs von Balthasar, thì Giêsu còn nằm
nghỉ trong lòng của Chúa Cha, Đấng canh giữ cuộc sống của Giêsu và sứ mạng của
Giêsu, không bao giờ cho phép sức mạnh của thiên nhiên ảnh hưởng đến sứ mạng
của Giêsu.
Nhưng sứ mạng của Giêsu là gì? Là yêu thương mọi người, là trao
ban tình yêu của Cha cho mọi người, là chở che mọi người trước bao nỗi hiểm
nguy, là giải thoát con người khỏi mọi nỗi sợ hãi, và đưa mọi người về với bờ
bến của bình an, của hạnh phúc. Vâng, chúng ta hãy an tâm và đừng sợ, Giêsu
luôn gìn giữ chúng ta, và không bao giờ để cho chúng ta mất đi. Như người mục
tử nhân lành, chính Ngài chứ không ai khác sẽ che chở đoàn chiên trước thú dữ
đang nhâm nhe đe dọa.
Vì thế, dù gió có lớn, bão có to đến mấy, thì Giêsu vẫn vững tay
lái, vững mái chèo trên con thuyền của cuộc đời. Và dù Ngài đang ngủ, nhưng
Ngài vẫn hiện diện. Dù vì mệt mỏi đang nghỉ ngơi, nhưng Ngài nghỉ ngơi trên con
thuyền của chúng ta, của con người yếu đuối, chứ ngài không nằm nghỉ trên
giường êm nệm ấm. Và kìa Ngài đã nghe tiếng kêu của các môn đệ. Chúng ta
hãy nhìn xem. Ngài đứng dậy. Rồi Giêsu làm gì? Ngài sẽ mắng các môn đệ chăng?
Không, điều đầu tiên là:
- “39 Người thức dậy, ngăm đe gió, và truyền cho biển: “Im
đi! Câm đi!” Gió liền tắt, và biển lặng như tờ.”
Tuyệt vời quá sức! Tuyệt vời như từ thuở xa xưa:
“Khi gặp bước ngặt nghèo, họ kêu lên cùng CHÚA,
Người đưa tay kéo họ ra khỏi cảnh gian truân.
Đổi phong ba thành gió thoảng nhẹ nhàng,
sóng đang gầm, bỗng đâu im tiếng,
họ vui sướng, vì trời yên bể lặng
và Chúa dẫn đưa về bờ bến mong chờ.”
(Tv 107, 28-30)
Vâng, dù tiếng sóng có gầm vang, có thét lên đến long trời lở
đất, thì cũng cần phải im tiếng đi, cần phải nhường bước cho Thiên Chúa, Đấng
là tình yêu, Đấng từ thuở đời đời luôn ở đó bên người con nhỏ yêu dấu của Ngài:
“Sóng nước đã gầm lên, lạy CHÚA,
sóng nước đã gầm lên tiếng thét gào.
Sóng nước đã gầm lên, long trời lở đất.
Nhưng hơn hẳn tiếng nước ngàn trùng,
hơn hẳn sóng oai hùng ngoài biển cả,
CHÚA oai hùng ngự trị chốn cao xanh.”
(Tv 93, 3-4)
Sự hiện diện đầy quyền năng của Chúa đã làm cho biển phải câm
lặng. Quyền năng này các môn đệ ngày xưa không thể hiểu được. Có lẽ chính vậy
mà niềm tin của các ông còn nhỏ lắm. Và có lẽ Giêsu hiểu thấu được niềm tin của
môn đệ mình, nên Ngài chỉ mắng:
- “40 Rồi Người bảo các ông: Sao nhát thế? Làm sao mà anh em vẫn
chưa có lòng tin?”
Ở đây một điều thú vị là, trước hết Giêsu ra lệnh cho biển phải
im lặng, sau đó Ngài mới mắng các môn đệ. Vâng, ngài đã hiểu thấu sự sợ hãi của
các ông, nên điều đầu tiên cần làm không phải là trách mắng người đang sợ hãi,
mà ra tay giúp đỡ giải thoát họ ra khỏi sự sỡ hãi trước, sau đó muốn nói gì thì
nói, muốn mắng gì thì cũng không sao.
Lời mắng các môn đệ nhát sợ được Giêsu lập lại nhiều lần khác
(x. Mc 4, 13.40; 7,18; 8,17tt.21.33; 9, 19). Nhưng khi mắng các môn đệ như thế,
Giêsu có ý chống lại sự nghi ngờ của các môn đệ vào chính Ngài, Thầy của họ,
cũng như chống lại sự nhát sợ của người được chọn, người môn đệ Chúa. Như vậy
lời mắng của Giêsu như là lời tỉnh thức giúp cho những ai theo Chúa cần dừng
bước lại, để nhận ra sự yếu đuối rất hay nhát sợ của con người mình, và ý thức
bám vào Chúa nhiều hơn. Vâng, ai càng bám vào Chúa và sống trong tình thân với
Ngài, thì sẽ chẳng sợ gì, họ càng ngày càng bình tâm hơn. Một sự bình tâm tín
thác và tin tưởng hoàn toàn vào Chúa, đến nỗi không ước muốn sức khỏe hơn bệnh tật,
giàu sang hơn nghèo khổ, danh vọng hơn nhục nhã, sống lâu hơn chết yểu và tương
tự thế đối với mọi sự khác, nhưng chỉ ước muốn và lựa chọn cái gì dẫn đưa chúng
ta tới cứu cánh của mình hơn cả, và cái gì đúng theo thánh ý của Chúa mà thôi
(ss. Sách Linh Thao số 23)
Điều thứ hai mà Giêsu mắng các môn đệ là việc yếu lòng tin của
các ông. Về điều này chúng ta cũng thấy Máccô nhắc đến nhiều lần. Vâng, dù cho
các ông đã theo Giêsu và ở với Người (ss. Mc 3, 14), dù cho mầu nhiệm Nước Trời
đã được trao cho các ông (ss. Mc 4, 11), và giải nghĩa cho các ông cặn kẽ (ss.
Mc 4, 34b), nhưng các ông vẫn chưa có lòng tin. Adolf Pohl chú ý chúng ta về từ
ngữ “chưa có lòng tin”. Với từ ngữ này chúng ta có thể nhận ra rằng, sự chậm
hiểu và thiếu lòng tin của các môn đệ là dấu hiệu của sự thiếu kinh nghiệm
thiêng liêng về Thiên Chúa và về niềm tin.
Phải chăng niềm tin không chỉ là một món quà của Chúa ban tặng
một lần là xong, mà niềm tin còn cần phải được chăm bón, cần phải được thử sức
và tôi luyện, cần phải luôn luôn được lấy ra khỏi “kinh tin kính”, để đem vào
cuộc sống, để nhìn lại và để rút ra thêm kinh nghiệm. Và cũng thật quan trọng,
khi ý thức như Luca cầu xin Chúa: “Lạy Chúa, con tin Chúa, nhưng xin Chúa tăng
thêm lòng yếu tin của con.” Thực vậy, không ai dám nói rằng, khi tôi bước theo
Chúa và trở thành môn đệ của Ngài, thì niềm tin của tôi vào Ngài đã vững vàng
100%, đến nỗi tôi không cần phải “vào nhà tập lại”, không cần phải đi tĩnh tâm
năm, không cần phải cầu nguyện hằng ngày, không còn phải ra sức học hành và trau
dồi Lời Chúa nữa.
Ai dám nghĩ như thế, thì thật là “tuyệt”, vì họ là con người
hoàn hảo rồi. Mà đã hoàn hảo rồi thì đi tu để làm gì nữa? Vì vậy, thật hay từ
ngữ “tu” của Việt Nam ta: Tu là để sửa chữa, để ngày ngày học biết tinh thần
của Giêsu và ý thức sửa đổi bắt chước Giêsu mỗi ngày nhiều hơn một chút. Hay
theo thiển ý của tôi, có thể nói theo kiểu của Linh Thao: Tu là một chuỗi ngày
tập thể thao cho linh hồn của mình, bằng cách ngày ngày ý thức dọn dẹp và chuẩn
bị linh hồn để xa bỏ những quyến luyến lệch lạc và sau đó tìm kiếm ý Chúa trong
cách xếp đặt cuộc sống để mưu ích cho linh hồn mình (ss. Linh Thao số 1)
- 41 Các ông hoảng sợ và nói với nhau: “Vậy người này là ai, mà
cả đến gió và biển cũng tuân lệnh?”
Sau khi chứng kiến quyền năng của Giêsu trên thiên nhiên, thì
các môn đệ hoảng sợ. Ở đây, Adolf Pohl so sánh một điều rất hay. Trong câu 37
nói về một trận cuồng phong lớn. Và sau đó ở câu 39 là “biển lặng như tờ” nghĩa
là sự thinh lặng lớn. Và ở câu 41 này thì các môn đệ “hoảng sợ”, nghĩa là nỗi sợ
thật lớn. Như vậy, nỗi sợ thật lớn này không còn là sự nhát sợ mà Giêsu mắng
các ông ở câu 40, mà là sự sợ hãi lớn trước sự mạc khải của Thiên Chúa. Sự sợ
hãi này cũng là sự công nhận của con người nhỏ bé trước quyền năng phi thường
của Thiên Chúa. Vâng, nỗi sợ lớn lao trước Thiên Chúa này không trói buộc con
người lại, mà thúc đẩy con người biết ý thức phủ phục, biết ý thức tỏ lòng thờ
lạy Chúa của mình, như trong Giona 1, 16: “Những người ấy sợ ĐỨC CHÚA, sợ lắm;
họ dâng hy lễ lên ĐỨC CHÚA và khấn hứa.” Như vậy, trong sự sợ hãi này chứa đựng
những điều thật tích cực: Tin tưởng và thờ lạy. Vâng, sau khi biển và cuồng
phong đã phải tuân phục và bái lạy Thiên Chúa, thì giờ đây đến lượt con người
chúng ta.
Nỗi sợ hãi lớn lao này cũng thúc đẩy con người đi vào trong giao
động mới, đó là đi tìm căn tính của Đức Kitô: Vậy người này là ai, mà cả đến
gió và biển cũng tuân lệnh? Theo R. Pesch thì những ai chứng kiến cảnh tưởng
này chỉ có thể trả lời rằng: Đấng mà cả gió và biển phải tuân lệnh thì
lớn hơn tiên tri Giona. Ngài hành động với sức mạnh của chính Gia-vê Thiên
Chúa. Ngài là Đấng lớn hơn cả sức mạnh và bạo lực của hỗn mang. Phần bạn và
tôi, chúng ta hãy luôn để câu hỏi này đi với mình trong cuộc đời: “Đức Kitô là
ai đối với tôi vậy?” Chắc chắn rằng, mỗi thời điểm câu trả lời sẽ khác, vì kinh
nghiệm về niềm tin và về Giêsu của chúng ta cũng sẽ khác đi và dồi dào hơn.
(Chú giải và Suy niệm của Lm. FX. Vũ Phan Long)
1.- Ngữ cảnh
TM Máccô theo một cái khung quen thuộc để kể truyện này: một trở
ngại phải vượt qua (một trận cuồng phong trên biển), hành động quyền năng của
Đức Giêsu (lệnh truyền im lặng), và sự xác nhận (sự yên lặng hoàn toàn và nỗi
sợ hãi của các môn đệ). Bối cảnh của câu truyện này rất có thể là quan niệm cổ
xưa của Cận Đông về biển: đây là biểu tượng của những quyền lực của hỗn mang và
sự dữ đấu tranh chống lại Thiên Chúa. Các độc giả đầu tiên của Mc nắm được ý
nghĩa của biểu tượng này đến mức nào, thì khó mà biết. Nhưng chắc chắn câu hỏi
của các môn đệ (“người này là ai?”) cho thấy là tác giả muốn nhấn mạnh trên
chân tính của Đức Giêsu. Câu hỏi ấy trở thành một lời tung hô mặc nhiên mang
tính Kitô học nhìn nhận bản tính thần linh của Đức Giêsu, bởi vì Người làm được
những việc Thiên Chúa làm.
Ở đầu bản văn, rõ ràng Mc bận tâm tạo ra một móc nối với những
phần đi trước. Ngày sắp tàn là ngày đã có bài giảng dài trên hồ (x. 4,1). Chiếc
thuyền Đức Giêsu dùng để qua hồ vẫn là chiếc thuyền Người đã dùng làm bệ giảng
trên hồ (x. hình ảnh con thuyền trong Mc: 5,1.21; 6,45; 8,31). Bỏ đám đông ở
đầu c. 36 cũng là một điểm móc nối. Riêng với chiếc thuyền: Chuyến vượt hồ bằng
thuyền tương ứng với việc dừng lại nơi một ngôi nhà; và cũng như có những giáo
huấn đặc biệt Đức Giêsu ban cho các môn đệ được nối kết với lần dừng lại nơi
một ngôi nhà (x. 7,17-23; 9,28t; 9,33-50; 10,10-12), thì cũng có những hành vi
quyền lực đặc biệt được liên kết với chuyến vượt hồ bằng thuyền. Chiếc thuyền là
nơi để Đức Giêsu mạc khải đặc biệt cho các môn đệ (4,35-41; 6,45-52) và là nơi
Người chờ đợi các ông tỏ ra hiểu biết các hành vi quyền lực của Người
(8,17-21). Chiếc thuyền là nơi có sự hiệp thông đặc biệt chặt chẽ giữa Đức
Giêsu và các môn đệ. Và chính là trong sự hiệp thông rất chặt chẽ này và không
thiếu hiểm nguy, mà các hành vi cứu độ và mạc khải quan trọng của Đức Giêsu
được thực hiện.
2.- Bố cục
Sau khi đã giản lược một số chi tiết, chúng ta có thể xác định
bố cục như sau:
1) Đức Giêsu và các môn đệ trước khi gặp sóng gió (4,35-37);
2) Đức Giêsu và các môn đệ trong sóng gió (4,38-39);
3) Đức Giêsu và các môn đệ sau sóng gió (4,40-41).
3.- Vài điểm chú giải
- Hôm ấy, khi chiều đến (35): Tác giả quen dùng hai thành
ngữ đi liền nhau để chỉ thời gian, trong đó vế thứ hai xác định vế thứ nhất (x.
1,32.35).
- sang bờ bên kia: nghĩa là sang bờ phía đông của Hồ
Galilê. Tại sao Đức Giêsu muốn sang đó: để tránh sự chống đối? để tìm một vùng
đất mới mà rao giảng? Ta không được rõ.
- ngủ (38): Giữa trận cuồng phong dữ dội, Đức Giêsu vẫn
có thể ngủ, có lẽ vì Người quá mệt, nhưng cũng chắc chắn vì Người vừa hoàn toàn
tin tưởng vào Thiên Chúa (x. Tv 4,9; 3,24-26) vừa chứng tỏ Người luôn làm chủ
mọi tình huống.
- Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi, Thầy chẳng lo gì sao?
(38) Câu hỏi này của các môn đệ đã được làm nhẹ đi rất nhiều trong Mt 8,25
(“Thưa Ngài, xin cứu chúng con, chúng con chết mất”) và Lc 8,24 (“Thầy ơi!
Chúng ta chết mất!”).
- truyền cho biển (39): x. 1,25. Đức Giêsu có thể kiểm
soát biển, đây là mặc nhiên khẳng định rằng Đức Giêsu có quyền năng của Thiên
Chúa, bởi vì chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể điều khiển biển (x. Tv
73/74,13-14; 88/89,10-12).
- Câm đi! x. 1,25: động từ phimoô. Cơn bão được coi như
một thú dữ. Động từ này cho hiểu rằng Đức Giêsu đang chứng tỏ Người có thể kiểm
soát các mãnh lực của tà thần.
- Gió liền tắt và biển lặng như tờ: Nhận định này cho
thấy Đức Giêsu hoàn toàn kiểm soát được biển.
- nhát (HL. deiloi, 40): Nhiều lần các tác giả Tân Ước đã
cảnh giác về deilia (“sự nhát đảm”). Ở Kh 21,8, những người nhát đảm
được kể ra cùng với những người không tin (x. 2 Tm 1,7; Ga 14,1).
- Làm sao mà anh em vẫn chưa có lòng tin? Lời trách này
rất nặng, do nhắm thẳng vào các môn đệ (x. 8,14-21). Phải chăng họ đã mất niềm
tin vào Thiên Chúa hoặc vào Đức Giêsu? Nếu họ đã mất niềm tin vào Thiên Chúa,
chính là vì họ đã không chịu noi theo Đức Giêsu đặt hết tin tưởng vào Thiên
Chúa (4,38). Nếu họ đã mất niềm tin vào Đức Giêsu, chính là họ vì họ đã không
cậy dựa vào quyền lực của Đức Giêsu.
- Vậy người này là ai? (41): Bởi vì chỉ một mình Thiên
Chúa mới có thể chế ngự gió và biển, câu hỏi này của các môn đệ hàm chứa một
lời tuyên xưng mặc nhiên rằng Người làm được những việc mà truyền thống Cựu Ước
thường trình bày là chỉ Thiên Chúa mới làm được.
4.- Ý nghĩa của bản văn
Bản văn vừa cho thấy tương quan mật thiết giữa Đức Giêsu và các
môn đệ vừa diễn tả lộ trình các môn đệ khám phá ra mầu nhiệm Đức Giêsu: họ bước
theo Người, họ chứng kiến các biến cố trong đó Người can thiệp, họ khám phá ra
mầu nhiệm bản thân Người. Chi tiết “có những thuyền khác cùng theo” chỉ được
nêu ra ở câu đầu, rồi sau đó cho đến cuối, không xuất hiện nữa.
* Đức Giêsu và các môn đệ trước khi gặp
sóng gió (35-37)
Sáng kiến vượt hồ là sáng kiến của Đức Giêsu. Các môn đệ luôn
thinh lặng bước theo Người và tận tình thực hiện những việc Người đề nghị. Đức
Giêsu luôn tỏ ra là chủ, nắm vững mọi hướng đi.
* Đức Giêsu và các môn đệ trong sóng gió (38-39)
Nguy hiểm được mô tả bằng các chi tiết về sóng to gió lớn. Nhưng
Đức Giêsu vẫn tỏ ra là chúa tể, làm chủ tình hình: Người ngủ. Bình thường các
môn đệ chờ đợi Đức Giêsu phản ứng và dạy bảo rồi mới làm theo; nhưng ở đây,
thấy bão táp quá nguy hiểm, các ông bị chao đảo trong đức tin, các ông đã phản
ứng trước Thầy, các ông thúc bách Thầy bằng giọng hốt hoảng và trách móc. Người
đã trỗi dậy, dẹp yên sóng gió. Ở đây, bão và biển được truyền lệnh như những
sinh vật; chúng được yêu cầu “im đi!”, “câm mõm lại!”. Quả thật, từ vựng của
bản văn là từ vựng của một truyện trừ quỷ.
* Đức Giêsu và các môn đệ sau sóng gió (40-41)
Dù sao chúng ta thấy phản ứng của các môn đệ (hoảng sợ và đánh
thức Thầy) là chuyện hợp lý. Khó hiểu hơn, đó là những câu hỏi của Đức Giêsu:
“Sao nhát thế? Làm sao mà anh em vẫn chưa có lòng tin?” (c. 40). Làm sao có thể
cấm các môn đệ sợ hãi khi gặp nguy hiểm chết người? Đức tin này là loại đức tin
nào, mà ngay trong nguy hiểm cùng cực vẫn loại trừ được nỗi sợ hãi? Đức Giêsu
trách các môn đệ là chỉ nhìn đến nguy hiểm và những sức mạnh đe dọa của thiên
nhiên chứ không hiểu biết ai là người đang cùng ở trên thuyền với họ.
Chỉ sau khi đã thực hiện phép lạ, Đức Giêsu mới ngỏ lời với các
môn đệ; lúc này, họ lại trở về đúng vị trí là những người bước theo, đón nhận
giáo huấn. Câu nói: “Làm sao mà anh em vẫn chưa có lòng tin?” chứng tỏ các môn
đệ đã được sống với Đức Giêsu khá lâu rồi. Câu hỏi “Vậy người này là ai…?” vừa
nhìn nhận quyền lực của Đức Giêsu vừa như muốn tìm ra câu trả lời nơi những
người nghe kể lại sự cố. Ta sẽ gặp câu trả lời được đề nghị trên môi Phêrô ở
8,29.
+ Kết luận
Đoạn văn nêu bật sự cần thiết của đức tin trong đời sống người
môn đệ. Nếu chúng ta hiểu rộng ra rằng trận bão trên biển ấy là một hình ảnh
báo trước cuộc Khổ Nạn mà Đức Giêsu sẽ đi vào, thì bước theo Đức Giêsu, dù ngày
hôm qua hay ngày hôm nay, luôn luôn là bước theo Người xuyên qua Khổ Nạn. Và
như thế, cần phải có đức tin. Chỉ với giá ấy, người môn đệ mới được tham dự vào
cuộc Phục Sinh vinh quang với sự an bình thẳm sâu được.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Hình ảnh con thuyền trong đó các môn đệ
sống chung với Đức Giêsu là biểu tượng cho cộng đoàn gồm những môn đệ
hôm nay vẫn đang muốn bước theo Người. Đó chính là một cuộc “cộng đồng sinh
mệnh”, sống chết có nhau. Phản ứng của các môn đệ trong biến cố này là một tấm
gương và một lời nhắc nhở cho cộng đoàn Kitô hữu là đừng rơi vào một thái độ
không tin như thế. Nếu chúng ta gắn bó với Đức Giêsu, thì không có hoàn cảnh
nào có thể tiêu diệt chúng ta, bởi vì không có hoàn cảnh nào mà Người không chế
ngự được.
2. Sai lầm của các môn đệ là chỉ nghĩ đến mình chứ không sẵn
sàng chia sẻ nguy hiểm với nhau và với Đức Giêsu.
Hoàn cảnh này sẽ được lặp lại khi họ chạy trốn trong đêm Đức Giêsu bị bắt và bị
đưa đi đóng đinh. Cơn sóng gió cuối cùng chúng ta sẽ gặp, và không có cách nào
tránh được, đó là cái chết. Mỗi người chúng ta đều sẽ phải đương đầu với cái
chết; cái chết có thể đến bất ngờ một trận cuồng phong hay chậm chạp từ từ.
Nhưng cho dù cái chết đến bằng cách nào đi nữa, chúng ta cũng lo sợ. Bài Tin
Mừng này cho chúng ta biết là chúng ta phải tin rằng Đức Giêsu luôn nghĩ đến
chúng ta, Người sẽ không để chúng ta phải lo sợ quá mức. Chúng ta tin rằng khi
chúng ta cần, Người sẽ lên tiếng bảo cơn sóng gió “Câm đi! Im đi!”
3. Lời mời gọi “Hãy sang bờ bên kia”
có nhiều ý nghĩa đối với chúng ta. Với Giáo Hội, “bờ bên kia” mang ý nghĩa là
những người hiện giờ không ở trong cộng đoàn chúng ta, họ đang ở “bờ bên kia”,
có thể họ là những người vừa di chuyển đến trong xã hội chúng ta, những người
“bên phía kia”, là người cao niên, người tàn tật, người bệnh chờ chết, hay
người di dân vì chiến tranh trong trại di cư... Đức giáo hoàng Phanxicô dạy
trong Tông huấn Niềm vui Tin Mừng: “Mỗi Kitô hữu và mỗi cộng đồng phải phân
định đường đi nước bước mà Chúa vạch ra, nhưng tất cả chúng ta đều được yêu cầu
vâng theo tiếng gọi của Người là ra đi khỏi khu vực tiện nghi của mình để đến
mọi vùng ngoại vi đang cần ánh sáng Tin Mừng” (s. 20).
4. Lời Đức Giêsu trách các môn đệ:
“Làm sao mà anh em vẫn chưa có lòng tin?” rất đúng cho chúng ta là những người
đã biết Đức Giêsu từ lâu, đã sống với Người, đã được chứng kiến biết bao nhiêu
việc kỳ diệu Người làm trong đời sống chúng ta, mà vẫn không biết phản ứng hay
lấy những quyết định tương hợp với kinh nghiệm ấy. Nhận biết đúng đắn chân tính
của Đức Giêsu thì sẽ có một thái độ đúng đắn đối với bản thân Người.
5. Các cộng đoàn chúng ta phải đưa Đức Kitô đến cho người ngoại,
nên không thể nào tránh khỏi những khó khăn và đối kháng.
Chẳng hạn, không phải mọi nhóm tôn giáo đều tôn trọng tự do của cá nhân; những
sứ giả Tin Mừng có thể gặp những nguy hiểm chết người… Tuy nhiên, vì loan báo
Tin Mừng là sứ mạng làm nên bản chất Kitô hữu, chúng ta không thể tránh né.
Giáo huấn bằng dụ ngôn của Đức Giêsu đã nói lên sự phân biệt rõ
ràng giữa hai loại người: Đối với những “người ở ngoài”, thì tất cả đều bí
hiểm. Còn đối với các “môn đệ”, thì mọi sự đều sáng tỏ trong các mạc khải về
mầu nhiệm mà “vị Thầy “ đã thông tỏ riêng cho họ. Trong Tin Mừng theo Thánh
Mác-cô, tiếp theo một chuỗi những dụ ngôn là bốn phép lạ. Những phép lạ này có
đặc tính rõ ràng: Không được thực hiện trước công chúng, nhưng chỉ “trước mặt
các môn đệ”. Phải chăng những phép lạ này là những dụ ngôn bằng hành động, phải
được hiểu trên bình diện biểu tượng cũng như bình diện thực tế? Các tông đồ
giữa cơn bão tố được kể lại hôm nay, gọi Đức Giêsu là “Thầy” (tiếng Hy Lạp là
didaskalos có nghĩa là “Thầy dạy dỗ”), việc này phải chăng có một giá trị mạc
khải lớn? Vậy chúng ta hãy lắng nghe giáo huấn của Người trong biến cố này. Đọc
một biến cố để nêu ý nghĩa thần học, không làm cho biến cố đó mất tính cách
lịch sử, nhưng mang lại cho nó chiều kích sâu xa hơn.
Chiều hôm ấy, Đức Giêsu nói với các môn đệ: “Chúng ta sang bờ
bên kia đi?”. Vì Người đang ở trên thuyền, các ông cứ thế chở Người đi bỏ dân
chúng ở lại; có những thuyền khác cùng theo Người”.
Trên bình diện thực tế lịch sử, tôi tưởng tượng một buổi chiều
hè đẹp trời, Đức Giêsu mượn chiếc thuyền của Simon Phêrô và từ từ rời xa bờ
biển Ca-phác-na-um. Sau một ngày nóng bức, bây giờ là buổi chiều tà mát mẻ. Sau
khi đã tiếp xúc với đám đông ồn ào, bây giờ là lúc thân mật ân tình với nhóm
bạn hữu trên biển. Chính Đức Giêsu đã có sáng kiến tạo ra những giây phút yên
tĩnh này:
“Chúng ta hãy qua bờ bên kia”.
Gió tốt, cánh buồm căng phồng đang nhẹ rung - Người ta chỉ nghe tiếng nước vỗ
nhẹ vào mạn thuyền đang rẽ sóng và tiếng kêu của một vài con chim biển. Sau một
ngày giảng dạy bằng dụ ngôn, Đức Giêsu mệt mỏi thiếp ngủ nơi cuối thuyền. Bên
cạnh Người là Phêrô đang cầm bánh lái. Nhưng nếu chỉ dừng ở những trang này thì
thật đáng tiếc. Chúng ta biết rằng, từng câu, từng chữ trong trình thuật Tin
Mừng, đều được khoa Giáo lý ban đầu chú giải. Do đó chúng ta cũng phải đọc và
hiểu theo nghĩa tượng trưng, như những chú giải của các Giáo phụ minh chứng.
“Ngày hôm đó”: Đây không phải là
một kiểu nói thông thường, có nghĩa là: Ngày giảng dạy bằng dụ ngôn đã chấm
dứt. Đối với Thánh Maccô “sự trình bày cán sự kiện nối tiếp nhau là một cấu
trúc thần học hơn là một phóng sự “Ngày hôm đó” sẽ không phải một ngày thường.
Phêrô sẽ nhớ ngày đó suốt đời. Vì ông gợi nhớ những hình ảnh Thánh kinh: “Ngày
hiển hách của “Giavê”, “Ngày Thiên Chúa quyền năng can thiệp mạnh mẽ”, ngày đó
có những tai họa cánh chung đi trước (Ga 2,3).
“Chiều tối đến”: Không chỉ là màn đêm
buông xuống, mà còn “giờ của bóng tối”, giờ thử thách (Mc 14,17; Ga 9,4-13.30).
“Bờ bên kia”: Không chỉ là bờ hồ
đối diện mà còn là bước đi vĩ đại sang bên kia thế giới. Đó là số kiếp của mỗi
người vào lúc hoàng hôn của cuộc đời. Đó là ngày trọng đại Ngày của Thiên
Chúa”... Tất cả những ngày khác đều phải chuẩn bị cho ngày đó.
Bỗng nổi lên một trận cuồng phong, sóng ập vào thuyền, đến nỗi
thuyền đầy nước.
Bão tố thực sự. Ngày nay hồ Tibêria vẫn nổi tiếng về những cơn
bão bất ngờ và mãnh liệt từ đồi Gôlăng thổi xuống. Hơn ai hết, vì nghề nghiệp
Phêrô đã biết rõ điều này. Những cơn gió thổi mạnh đập vào cánh buồm và làm
nghiêng ngả chiếc tàu thật nguy hiểm. Nhưng không cần phải đi biển mới bị những
cơn bão tố như thế. Tất cả các ngôn ngữ trên thế giới đều dùng chữ bão tố để ám
chỉ “một cơn thử thách bất ngờ đổ xuống trên con người”. Trong Thánh Kinh, đề
tài bão tố thường được dùng để nói về sức mạnh của sự dữ. Công cuộc tạo dựng ta
được hiểu như sự chiến thắng của Thiên Chúa trên cảnh hỗn loạn của biển khơi
nổi dậy (St 1,2). Theo khoa huyền thoại xưa của Do Thái. Biển cả là “vực thẳm
vĩ đại”, nơi những con rồng, những thủy quái, Lêviathan, biểu tượng của Satan,
thống trị (Is 27,1; Tv 74,13; G 9,13; Đn 7; Kh 12,13).
Trong khi đó, Đức Giêsu đang ở đàng lái, dựa đầu vào chiếc gối
mà ngủ.
Tôi ngắm nhìn Đức Giêsu đang ngủ, đôi mắt nhắm, hơi thở đều đặn,
vẻ bình thản, ở đằng lái thuyền, trong cớn bão tố. Chi tiết này gợi cho tôi tâm
tình cầu nguyện nào? Lạy Chúa, Chúa đưa chúng con đi đến đâu? Chúa làm cho
chúng con bối rối biết bao? Trong Thánh kinh, có một người khác cùng ngủ trong
cơn bão táp, đó là Giona. Người ta phải đến đánh thức ông dậy (Gn 1,3-16). Có
phải tình cờ, mà Đức Giêsu nói về “dấu lạ của Gio-na” như một dấu hiệu duy nhất
để diễn tả về: Cái chết và sự Phục sinh của Người? (Mt 12,39-40; Lc 11,29-30;
Mc 8,12-13). Vả lại các tác giả Kinh thánh thường nói về “cái chết” bằng từ
“giấc ngủ” (Tv 13,4; Đn 12,2; Ep 5,14; Ga 11,11; Mc 5,39-41). Hình ảnh này cũng
dùng để diễn tả sự “lãnh đạm của Chúa”, sự “vắng mặt của Chúa”: Lạy Chúa, xin
Chúa chỗi dậy đi, tại sao Chúa lại ngủ? Chúa hãy thức dậy đi (Tv 44,24; 45,23;
59,6; 78,65; Is 51,9-10). Vâng, đúng vậy trong những cơn bão tố cuộc đời chúng
con, dường như Chúa vẫn ngủ. Lạy Chúa, không phải chỉ có con người hiện đại
nghĩ ra đề tài “cái chết của Thiên Chúa”, nhưng đó là tình cảm tự nhiên của
thân phận con người, khi thấy mình bất lực, bị đe dọa trước một Thiên Chúa
không can thiệp để cho lực lượng của thần chết hành động, một Thiên Chúa dường
như đang ngủ.
Các môn đệ đánh thức Người dậy, và nói: “Thầy ơi! chúng ta chết
đến nơi rồi, Thầy chẳng lo gì sao?”
Đây là một lời cầu tuyệt diệu, đáng cho chúng ta bắt chước, trước
những bão tố cuộc đời.
Người thức dậy, ngăn đe gió, và truyền cho biển: “Im đi? Câm
đi?” Gió liền tắt, và biển lặng như tờ.
Ở đây chữ được dịch là “thức dậy”, “diégertheis” cũng chính là
chữ được dùng để nói “được sống lại, Phục sinh” (Mc 5,41- 16,6.14).
Qua tình tiết có thực mà Maccô kể lại (đó là bài giảng của
Phêrô), chúng ta có lý do chính đáng để nhận ra cuộc khổ nạn của Đức Giêsu là
một cơn bão dữ dội: Nó làm lắc lư con thuyền nhỏ bé của cộng đoàn tông đồ, vào
lúc Đức Giêsu đã ngủ yên trong cái chết của Người. Nhưng đối đầu với lực lượng
thần chết được tượng trưng là “biển cả” Đức Kitô đã Phục sinh. Chúng ta gặp lại
kiểu nói của người Do Thái về biển cả, hình ảnh những lực lượng thù địch với
con người, vì ở đây, Maccô dùng chính những từ như khi Đức Giêsu “hăm dọa” quỷ
dữ để “bắt chúng im lặng” (Mc 1,25; 9,25).
Đức Giêsu nói với họ: “Tại sao lại sợ? Tại sao các người không
có đức tin?”
Câu nói rất nghiêm khắc: “Các anh không có đức tin”, “các anh đã
mất lòng tin”, thực sự đã được áp dụng vào lúc Đức Giêsu chịu khổ nạn, lúc này
tất cả các tông đồ chạy trốn, chối bỏ, hoài nghi. Chúng ta sẽ nghe lặp lại ba
lần rằng, các tông đồ “đã không tin”: “Chúa trách sự cứng lòng tin của họ, vì.
họ đã không tin những người đã thấy Chúa Phục sinh” (Mc 16,11-13).
Những cơn bão tố đời tôi thế nào? Chúa có làm nhẹ bớt những cơn
bão đó không?
Nếu đọc Thánh kinh một cách ngây ngô, chúng ta có thể tin điều
đó. Sự bình lặng của hồ Tibêria làm chúng ta mơ tưởng một cuộc sống an bình,
trong đó Chúa sẽ thường xuyên can thiệp vào những nguyện nhân tự nhiên để tránh
cho chúng ta sự thử thách và cái chết.
Nhưng đọc Thánh kinh cách đúng đắn, sẽ dẫn chúng ta đến sự
“thanh tẩy đức tin” theo lời mời gọi của Chúa. Chính qua giấc ngủ của sự chết,
Chúa Kitô đã giải thoát chúng ta khỏi những thế lực của hỏa ngục và sự chết.
Không phải đức tin nào cũng dẹp yên được bão tố, mà chỉ đức tin
nới “Đức Kitô tử nạn và Phục sinh” mới có khả năng. Sự cứu độ mà chúng ta tin,
không làm cho chúng ta thoát khỏi những đau khổ gắn liền với bản chất con người
cách lạ lùng và đặc biệt.
Sự xác tín vào quyền lực của Chúa đã không ngăn cản Chúa Kitô
trải qua, giấc ngủ ở trong hồ. Chính chúng ta cũng phải trả qua thử thách mới
đến được “bến bờ bên kia”. Nhưng Đức Giêsu đang ở đó với chúng ta trong những
thử thách. Quả thật trang Tin Mừng này có một biểu tượng đáng phục.
Các ông hoảng sợ và nói với nhau: “Người là ai, mà cả đến gió và
biển cũng phải tuân lệnh?”
Đây là lần đầu tiên Thánh Maccô ghi lại câu hỏi này của các môn
đệ. Câu hỏi chủ yếu nhắm đến lai lịch sâu xa của vị “Thầy” trẻ trung. Người
phải chăng chỉ là một ông “Thầy” (Rabbi) như bao ông thầy khác? Người là ai?
Người sẽ đưa họ đến đâu? Một ngày gần đây, Đức Giêsu sẽ hỏi Phêrô: “Đối với
anh, Thầy là ai?” (Mc 8,29).
Không người nào có thể tự miễn cho mình khỏi phải đặt câu hỏi
đó. Và nếu không trả lời thì đó là chấp nhận rằng, những cơn bão trong cuộc đời
sẽ kết thúc bằng một sự chìm đắm vào hư vô. “Nhưng nếu người nào ở trong Đức
Giêsu, người đó sẽ là một tạo vật mới” (1Cr 5,7). Đức tin được thanh luyện đưa
chúng ta vào cuộc sống mới. Lạy Chúa, Chúa đã nói: “Chúng ta hãy sang bờ bên
kia”.