Dự thảo 4 Luật Tín ngưỡng, Tôn giáo
"Bản Dự thảo 4 đi ngược lại với Tuyên Ngôn Nhân
Quyền Quốc Tế (Điều 18) và Hiến pháp Nước CHXHCN Việt Nam sửa đổi năm 2013 (Điều
24)" (HĐGMVN)
Văn phòng Hội Đồng Giám Mục Việt Nam
72/12 Trần Quốc
Toản. P.8. Q.3. Tp. Hồ Chí Minh
HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC VIỆT NAM
NHẬN ĐỊNH VÀ GÓP Ý
DỰ THẢO 4 LUẬT TÍN NGƯỠNG, TÔN GIÁO
Kính gửi:
- Ông Nguyễn Sinh Hùng, Chủ tịch Quốc hội
Nước CHXHCN Việt Nam,
- Ông Phạm Dũng,
Trưởng ban Ban Tôn giáo Chính phủ,
Đáp lại yêu cầu
xin góp ý cho bản Dự thảo Luật tín ngưỡng, tôn giáo (sau đây gọi tắt là Dự thảo
4), chúng tôi, Ban Thường vụ, nhân danh Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, xin có một
số nhận định và đề nghị sau:
I. NHẬN ĐỊNH CHUNG
Bản Dự thảo 4 chưa làm rõ mục đích của luật, vì luật được tạo ra nhằm đảm bảo quyền
con người, tạo sự bình đẳng cho các tổ chức, cá nhân có cơ hội đóng góp vào sự
phát triển chung của đất nước, đem lại bình an cho xã hội cùng cộng đồng dân tộc.
Điều kiện tiên
quyết đem lại bình an cho cộng đồng dân tộc là việc người dân chu toàn bổn phận làm người, - tu thân, tề gia, trị quốc, - phải mang tính thiên thời, địa lợi, nhân hoà. Thiên thời là thuận ý trời. Địa lợi là lợi
cho truyền thống văn hoá đạo đức dân tộc. Nhân hòa là hoà với lòng nhân, lòng đạo
của người dân.
Trong bản Dự thảo
4 có những điều luật chỉ nhằm mang lại quyền lợi cho nhà cầm quyền (như Điều 9,
cùng những Điều nói về việc đăng ký…), mà quên đi quyền lợi của người
dân, chưa làm rõ tư cách pháp nhân của các tổ chức tôn giáo.
Điều thiếu sót
quan trọng nhất của Dự thảo 4 là không công nhận sự “tồn tại” hợp pháp của một
tổ chức tôn giáo trước pháp luật Việt Nam, qua việc không công nhận tổ
chức tôn giáo là một “pháp nhân” chiếu theo Điều 84-85 của Bộ Luật Dân sự 2005.
Nhìn chung, bản
Dự thảo 4 đi ngược lại với quyền tự do về tín ngưỡng và tôn giáo, gây lo ngại
nhiều hơn là đem lại sự bình an cho mọi người.
II. MỘT SỐ CHI TIẾT
Dự thảo 4 có rất
nhiều Điều, khoản và những chi tiết bất cập, không nói lên được thiện chí của
Nhà nước trong việc tôn trọng sự tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người dân. Ở
đây chúng tôi chỉ nêu ra một số Điều, khoản và chi tiết đáng quan tâm nhất:
1. Điều 2 khoản 4 chưa giải thích rõ cụm từ “quy định của pháp luật” là như thế
nào.
2. Điều 6 khoản 5b quy định quá chung chung và mơ hồ, vì có thể có những mâu thuẫn về đạo đức,
luân lý giữa quan điểm của tôn giáo và chính sách của Nhà nước, như vấn đề phá
thai, ly dị, hôn nhân đồng tính... Vì thế, không thể chấp nhận một sự cấm đoán ở
điểm này.
3. Điều 15 của Dự thảo 4 liệt kê các hoạt động
của tổ chức tôn giáo sau khi được cấp đăng ký hợp pháp. Trong các hoạt động
này, thiếu hẳn những quyền để duy trì sự “tồn tại” của tổ chức tôn giáo. Trong
khoản 1 chỉ công nhận việc “sửa chữa, cải tạo, nâng cấp công trình thuộc cơ sở
tôn giáo”, nhưng lại không nói đến quyền sở hữu và sử
dụng cơ sở.
4. Điều 18 Hiến chương Liên Hiệp Quốc và Điều
24 Hiến pháp Nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam (sửa đổi năm 2013) đều quy
định: “Mọi người có quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo.” Vì vậy những người đang bị giam, giữ được đáp ứng nhu cầu tôn
giáo theo quy định
của Hiến chương Liên Hiệp Quốc và Hiến pháp.
5. Điều 9 và Điều 44 Dự thảo 4 là không khả
thi, đòi hỏi này vô lý vì mâu thuẫn với Điều
2 khoản 2.
6. Điều 32: Hội nghị và đại hội của các tôn giáo không cần sự chấp thuận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, vì đây là việc nội bộ của các tổ chức tôn
giáo.
7. Điều 38: Điều này là một bước thụt lùi so với Điều 23 của “Pháp lệnh tín ngưỡng,
tôn giáo”, Điều 19 của Nghị định 22 và Điều 23 của Nghị định 92.
8. Điều 49: Đòi hỏi quá nặng nề và phiền toái. Chức sắc, chức việc, nhà
tu hành, tín đồ tham gia hoạt động tôn giáo, khóa đào tạo tôn giáo ở nước
ngoài là vấn đề thuần túy tôn giáo, không cần phải được sự chấp thuận của
cơ quan quản lý nhà nước. Nhà nước không nên xen quá
sâu vào công việc nội bộ các tôn giáo.
9. Điều 50 qui định khá mơ hồ: “tổ chức tôn
giáo quốc tế” là gì? Thế nào là “tham gia tổ chức tôn giáo quốc tế”? Qui định
mơ hồ sẽ gây khó khăn cho các hoạt động tôn giáo.
10. Điều 51 khoản 1: “…tổ chức tôn giáo… được tổ chức quyên góp, nhận tài sản hiến tặng,
cho trên cơ sở tự nguyện….” Điều này
vẫn không nói đến hay hạn chế các hoạt động
của tổ chức tôn giáo như: quản lý và sử dụng tài sản
hay tài khoản ngân hàng, mua bán hay chuyển nhượng cơ sở tôn giáo theo nhu cầu
thực tế…
11. Điều 52: Các tổ chức tôn giáo phải được tự do hoạt động
trong các lãnh vực từ thiện, nhân đạo và không có hạn chế nào.
12. Điều 54: Phải hiểu như thế nào là “tài sản hợp pháp” khi các tổ chức tôn
giáo chưa được công nhận tư cách pháp nhân?
13. Điều 66: Quy định về việc giải quyết khiếu nại, khiếu kiện, nhưng chỉ nói
đến việc khiếu nại, khởi kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính theo luật
tố tụng hành chính. Việc tổ chức tôn giáo có quyền khiếu kiện tại
toà án các cấp để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình không được đề cập: chẳng hạn khi bị lấn chiếm đất đai, cơ sở tôn giáo.
14. Chương X và chương XI không tôn trọng
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; hoàn toàn mang tính chất áp đặt quyền lực của
Nhà nước lên các tổ chức tôn giáo, tạo kẽ hở cho cơ quan hành pháp lạm dụng quyền
lực. Vì vậy, hai chương này tự mâu thuẫn với Điều
2 trong Dự thảo 4 cũng như
với Hiến pháp năm 1992 và sửa đổi năm 2013.
III. KIẾN NGHỊ
Bản Dự thảo 4
đi ngược lại với Tuyên Ngôn Nhân Quyền Quốc Tế (Điều 18) và Hiến pháp Nước
CHXHCN Việt Nam sửa đổi năm 2013 (Điều 24). Chúng tôi nhận thấy Dự thảo 4 này
là một bước thụt lùi so với Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo năm 2004. Bản Dự thảo
này tạo ra quá nhiều thủ tục rườm rà, nhiều cơ chế khắt khe, ràng buộc, khiến
các sinh hoạt tôn giáo bị cản trở.
Vì vậy, chúng
tôi đề nghị:
– Không đồng ý Dự thảo 4 Luật tín ngưỡng, tôn giáo.
– Soạn lại một bản Dự thảo khác phù hợp với xu thế tự do, dân chủ và mang tầm vóc của
xã hội tiến bộ.
– Bản
Dự thảo mới phải được tham khảo ý kiến từ
các tổ chức tôn giáo. Đặc biệt, các tổ chức tôn giáo phải được công nhận tư cách pháp nhân và
được pháp luật bảo vệ.
Tp.
Hồ Chí Minh, ngày 04 tháng 05 năm 2015
TM.
Ban Thường vụ Hội Đồng Giám Mục Việt Nam
Tổng
thư ký
(đã
ký)