CHÚA NHẬT 4 THƯỜNG NIÊN
NĂM B
Dnl 18, 15-20; 1Cr 7,
32-35; Mc 1, 21-28
BÀI ĐỌC 1: Dnl 18, 15-20
Khi ấy, ông Mô-sê nói với dân Ít-ra-en rằng: “15 Từ
giữa anh (em), trong số các anh em của anh (em), Đức Chúa, Thiên Chúa của anh
(em), sẽ cho xuất hiện một ngôn sứ như tôi để giúp anh (em); anh (em) hãy nghe
vị ấy. 16 Đó chính là điều mà anh (em) đã xin với Đức Chúa, Thiên
Chúa của anh (em), tại núi Khô-rếp, trong ngày đại hội; anh (em) đã nói:
"Chúng tôi không dám nghe tiếng Đức Chúa, Thiên Chúa của chúng tôi nữa,
chúng tôi không dám nhìn ngọn lửa lớn này nữa, kẻo phải chết.”17 Bấy
giờ Đức Chúa phán với tôi: "Chúng nói phải. 18 Từ giữa anh em
của chúng, Ta sẽ cho xuất hiện một ngôn sứ như ngươi để giúp chúng, Ta sẽ đặt
những lời của Ta trong miệng người ấy, và người ấy sẽ nói với chúng tất cả những
gì Ta truyền cho người ấy. 19 Kẻ nào không nghe những lời của Ta,
những lời người ấy nói nhân danh Ta, thì chính Ta sẽ hạch tội nó. 20
Nhưng ngôn sứ nào cả gan nhân danh Ta mà nói lời Ta đã không truyền cho nói,
hoặc nhân danh những thần khác mà nói, thì ngôn sứ đó phải chết.”
ĐÁP CA: Tv 94
Đ. 7b
Ngày hôm nay, ước gì anh em nghe tiếng Chúa!
8a Người phán: Các ngươi chớ cứng lòng.
8a Người phán: Các ngươi chớ cứng lòng.
1 Hãy đến đây ta reo hò
mừng Chúa, tung hô Người là Núi Đá độ trì ta, 2 vào trước Thánh Nhan
dâng lời cảm tạ, cùng tung hô theo điệu hát cung đàn.
6 Hãy vào đây ta cúi mình
phủ phục, quỳ trước tôn nhan Chúa là Đấng dựng nên ta. 7a Bởi chính
Người là Thiên Chúa ta thờ, còn ta là dân Người lãnh đạo, là đoàn chiên tay
Người dẫn dắt.
7bNgày
hôm nay, ước gì anh em nghe tiếng Chúa! 8 Người phán: Các ngươi chớ
cứng lòng như tại Mơ-ri-va, như ngày ở Ma-xa trong sa mạc, 9 nơi tổ
phụ các ngươi đã từng thách thức và dám thử thách Ta, dù đã thấy những việc Ta
làm.
BÀI ĐỌC 2: 1Cr 7, 32-35
Thưa anh chị em, 32 tôi muốn anh chị em không phải bận
tâm lo lắng điều gì. Đàn ông không có vợ thì chuyên lo việc Chúa: họ tìm cách
làm đẹp lòng Người. 33 Còn người có vợ thì lo lắng việc đời: họ tìm
cách làm đẹp lòng vợ, 34 thế là họ bị chia đôi. Cũng vậy, đàn bà
không có chồng và người trinh nữ thì chuyên lo việc Chúa, để thuộc trọn về
Người cả hồn lẫn xác. Còn người có chồng thì lo lắng việc đời: họ tìm cách làm
đẹp lòng chồng. 35 Tôi nói thế là để mong tìm ích lợi cho anh chị
em, tôi không có ý gài bẫy anh chị em đâu, nhưng chỉ muốn đề nghị với anh chị
em một điều tốt, để anh chị em được gắn bó cùng Chúa mà không bị giằng co.
TUNG HÔ TIN MỪNG: Mt 4, 16
Hall-Hall:
Đoàn dân đang ngồi trong cảnh tối tăm, đã thấy một ánh sáng huy hoàng, những kẻ
đang ngồi trong vùng bóng tối của tử thần, nay được ánh sáng bừng lên chiếu
rọi. Hall.
TIN MỪNG: Mc 1, 21-28
21 Đức
Giê-su và các môn đệ đi vào thành Ca-phác-na-um, ngày sa-bát, Người vào hội
đường giảng dạy. 22 Thiên hạ sửng sốt về lời giảng dạy của Người, vì
Người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư.
23 Lập
tức, trong hội đường của họ, có một người bị thần ô uế nhập, la lên24
rằng: "Ông Giê-su Na-da-rét, chuyện chúng tôi can gì đến ông mà ông đến
tiêu diệt chúng tôi? Tôi biết ông là ai rồi: ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa!
"25 Nhưng Đức Giê-su quát mắng nó: "Câm đi, hãy xuất khỏi
người này! "26 Thần ô uế lay mạnh người ấy, thét lên một tiếng,
và xuất khỏi anh ta. 27 Mọi người đều kinh ngạc đến nỗi họ bàn tán
với nhau: "Thế nghĩa là gì? Giáo lý thì mới mẻ, người dạy lại có uy quyền.
Ông ấy ra lệnh cho cả các thần ô uế và chúng phải tuân lệnh! "28
Lập tức danh tiếng Người đồn ra mọi nơi, khắp cả vùng lân cận miền Ga-li-lê.
NGÔN SỨ
ĐÍCH THỰC CỦA THIÊN CHÚA
Giáo huấn của Hội Thánh qua các Bài đọc trong Thánh Lễ hôm nay
soi sáng cho chúng ta nhận ra chân dung của Vị Ngôn Sứ đích thực được Chúa sai
đến với loài người. Có bốn điểm đặc biệt cho ta nhận ra chân dung người Ngôn
Sứ.
-
Lời Ngôn Sứ của Chúa Giêsu là Lời toàn năng.
-
Ngôn Sứ của Chúa Giêsu chỉ tìm thấy trong Hội
Thánh.
-
Vị Ngôn Sứ đích thực làm rồi mới dạy.
-
Hiến dâng trọn đời để phục vụ Nước Thiên Chúa.
I. LỜI NGÔN SỨ CỦA CHÚA GIÊSU LÀ LỜI TOÀN NĂNG.
Ngay sau khi nguyên tổ Adam, Evà gạt bỏ lệnh truyền của Thiên
Chúa mà làm theo ý Satan, đã làm cho loài người phải đặt dưới quyền thống trị
của nó, họ rất sợ nghe tiếng Chúa (x St 3, 8-10). Điển hình như người bị qủy
ám, vừa nghe tiếng Chúa giảng trong hội đường, làm nó run rẩy tru trếu thét lên
hòng trốn thoát: “Ông Giêsu Nadarét, chuyện chúng tôi can gì đến ông mà ông
đến tiêu diệt chúng tôi? Tôi biết ông là ai rồi: ông là Đấng Thánh của Thiên
Chúa!” (Mc 1, 24: Tin Mừng)
Vì thế, Chúa phải hứa ban cho dân một vị ngôn sứ như ông Môsê: “Từ
giữa anh em của chúng, Ta sẽ cho xuất hiện một ngôn sứ như ngươi để giúp chúng,
Ta sẽ đặt những lời của Ta trong miệng người ấy, và người ấy sẽ nói với chúng
tất cả những gì Ta truyền cho người ấy.” (Dnl 18, 18)
Từ bấy giờ, dân Chúa mong đợi vị ngôn sứ mà Chúa đã hứa cho dân,
như có lần họ hỏi ông Gioan Bt: “Ông có phải là một ngôn sứ không?” Ông
đã phủ nhận (x Ga 1, 21. 25). Rồi người ta thấy các phép lạ Đức Giêsu làm, họ
liền xác nhận: “Hẳn Ngài là vị ngôn sứ, Đấng phải đến trong thế gian”
(Ga 6, 14).
Thực ra, lúc ấy có rất nhiều người, trong số đó có cả các Tông
Đồ, dù họ nhìn nhận Đức Giêsu là vị Ngôn Sứ nhưng không ai khiếp sợ, vì họ
không biết rõ Ngài là Thiên Chúa, chỉ biết chắc Ngài là con bác thợ mộc miền
Nadareth. Vả lại lúc ấy cũng chưa có Lời Chúa đúng nghĩa được ban cho loài
người, Lời Con Thiên Chúa chỉ được ban cho nhân loại trong giờ Tử Nạn của Ngài,
như Ngài nói: “Này là Giao ước Mới trong Máu Ta, đổ ra vì nhiều người”
(Mc 14, 24). Và chỉ sau khi Đức Kitô từ cõi chết sống lại vào ngày lễ Ngũ Tuần
(Lễ Hiện Xuống), Chúa Giêsu về trời sai Thánh Thần đến với các Tông Đồ, để soi
lòng mở trí và ban nghị lực cho các ông chính thức giảng Lời Chúa (x Cv 2).
Thực vậy, loài người không ai được trực tiếp nghe tiếng Chúa
Giêsu bằng lỗ tai xác thịt của mình, vì khi Ngài còn nơi dương thế, chẳng ai
tin Ngài là Thiên Chúa, và Đức Giêsu cũng chẳng viết để lại cho ta một chữ nào.
Bốn Tin Mừng đã ghi lại việc Thầy làm và Lời Thầy giảng, nhưng không giống
nhau, mỗi Thánh Ký tường thuật lại theo sự hiểu biết riêng của mỗi tác giả dưới
sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần.
Đan cử như ông Matthêu ghi Đức Giêsu thắng ma quỷ ở trên núi (x
Mt 4, 8t); trong khi đó ông Luca lại ghi Ngài thắng ma quỷ ở nóc Đền Thờ (x Lc
4, 9t). Hoặc ông Matthêu ghi sau khi Đức Giêsu về Trời, các môn đệ đi khắp thế
gian, ban Thánh Tẩy và giảng dạy (x Mt 28, 18t); trong khi ông Luca lại ghi các
môn đệ hằng ngày ở trong Đền Thờ chúc tụng Thiên Chúa (x Lc 24, 53). Như vậy,
mỗi Thánh Ký nhìn việc Đức Giêsu làm và nghe Lời giảng dạy của Ngài, họ lại
viết Giáo Lý tùy theo chủ đích Thần học do Chúa Thánh Thần linh hứng.
Ngày nay với Đức Tin và lòng Mến, chúng ta được hiệp dâng Thánh
Lễ là được trực tiếp nghe Lời Chúa Giêsu giảng dạy (x Dt 1, 1-2). Đây là Lời
quyền năng biến dữ ra lành, tội ra ơn, chết ra sống. Thực vậy “đoàn dân đang
ngồi trong cảnh tối tăm, đã thấy một ánh sáng huy hoàng, những kẻ đang ngồi
trong vùng bóng tối của tử thần, nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi” (Mt
4, 16: Tung Hô Tin Mừng), lại còn được đón nhận Thịt Máu Chúa Giêsu là đón nhận
trọn vẹn Chúa Giêsu Phục Sinh để trở nên cùng một sự sống với Thiên Chúa (x Ga
6, 57), nhờ đó chúng ta được lãnh nhận hết ơn này đến ơn khác (x Ga 1, 16).
II. NGÔN SỨ CỦA CHÚA GIÊSU CHỈ TÌM THẤY TRONG HỘI THÁNH.
Chúa phán với ông Môsê: “Từ giữa anh em của chúng, Ta sẽ cho
xuất hiện một ngôn sứ như ngươi để giúp chúng, Ta sẽ đặt những Lời của Ta trong
miệng người ấy, và người ấy sẽ nói với chúng tất cả những gì Ta truyền cho
người ấy. Kẻ nào không nghe những lời của Ta, những lời người ấy nói nhân danh
Ta, thì chính Ta sẽ hạch tội nó. Nhưng ngôn sứ nào cả gan nhân danh Ta mà nói
lời Ta đã không truyền cho nói, hoặc nhân danh những thần khác mà nói, thì ngôn
sứ đó phải chết.” (Dnl 18, 18-20: Bài đọc I). Do đó giáo huấn của CĐ Vat.
II trong Sắc Lệnh về Nhiệm Vụ Mục Vụ của các Giám mục số 14 dạy: “Các
Giám mục phải loan báo cho mọi người biết Tin Mừng Chúa Kitô, đây là một nhiệm
vụ trổi vượt trên các nhiệm vụ chính yếu của các ngài. Các Giám mục phải lo
lắng để việc tổ chức dạy giáo lý được thực hiện chu đáo cho các thiếu nhi, cho
thanh thiếu niên và cả những người trưởng thành”. Dạy giáo lý
phải dựa trên năm nền tảng sau:
1.
Thánh Truyền: Niềm
tin truyền thống trong Hội Thánh, bắt nguồn từ các Tông Đồ rao giảng. Do đó
Thánh Truyền có trước Thánh Kinh Tân Ước và phong phú sinh động hơn Giáo Lý
bằng văn tự (Thánh Kinh.) Ví dụ thầy giáo giảng bài thì phong phú hơn bài thầy
viết.
2.
Thánh Kinh: Lời
Chúa được Thánh Thần mạc khải cho các Thánh Ký viết tóm tắt lại lời giảng của
các Tông Đồ dựa trên việc làm và lời giảng dạy của Thầy Giêsu và dĩ nhiên chỉ
viết điều Thiên Chúa muốn, cũng như chỉ được Thần hứng trong lúc viết sách và
được Hội Thánh nhận vào Sổ Bộ Thánh Kinh: Cựu Ước có 46 cuốn, Tân Ước có 27
cuốn.
3.
Phụng Vụ: Những
Chân Lý siêu hình được diễn tả qua các nghi thức, dấu chỉ trong Phụng Vụ, và
lời cầu nguyện của Hội Thánh.
4.
Giáo huấn của Các Công Đồng Chung: Các Văn Kiện của Hội Thánh, đặc biệt là các quyết định của
Công Đông Chung và Giáo Luật, được Chúa Thánh Thần là linh hồn của Hội Thánh,
Ngài luôn hướng dẫn làm cho Hội Thánh trẻ trung và phát triển tùy theo thời
đại. Như Đức Giêsu đã nói với các Tông Đồ: “Thầy còn nhiều điều phải nói với
anh em. Nhưng bây giờ, anh em không có sức chịu nổi. Khi nào Thần Khí sự thật
đến, Người sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn. Người sẽ không tự mình nói điều
gì, nhưng tất cả những gì Người nghe, Người sẽ nói lại, và loan báo cho anh em
biết những điều sẽ xảy đến” (Ga 16, 12-13).
5.
Giáo Luật: Những
chỉ dẫn Mục Vụ trong đời sống Hội Thánh.
Đặc biệt trong Thánh Lễ phải giảng đúng Luật của Hiến Chế Phụng
Vụ:
-
Khi cử hành Phụng Vụ, Kinh Thánh giữ
vai trò tối quan trọng. Thực vậy, Hội Thánh đã trích từ Kinh Thánh những
Bài đọc để diễn giải trong Bài giảng” (số 24).
-
Bài giảng phải căn cứ vào Thánh Kinh để trình bày các mầu nhiệm Đức Tin và các quy tắc cho đời sống
Kitô hữu trong suốt chu kỳ năm phụng vụ. Bài giảng rất đáng được coi như một
phần của chính Phụng Vụ (số 52).
-
Bài giảng thuộc phần hoạt động của Phụng Vụ,
nên phải có thời giờ
thích hợp để giảng giải…Phải hết sức trung thành chu toàn thừa tác vụ giảng
giải đúng với Nghi Lễ. Tiên vàn bài giảng phải múc lấy từ nguồn Kinh Thánh
và Phụng Vụ, vì như thế là rao truyền việc kỳ diệu của Thiên Chúa trong lịch sử
cứu độ (số 35).
Như vậy bài giáo lý hay bài giảng đúng Luật Hội Thánh dạy mới
đích thực là Lời Chúa, còn chỉ chộp một đoạn Kinh Thánh để trổ tài hùng biện
thì chẳng hơn gì mục sư Tin Lành.
III. VỊ NGÔN SỨ ĐÍCH THỰC LÀM RỒI MỚI DẠY.
Ông Môsê đưa ra câu hỏi và trả lời: “Có khi anh (em) sẽ tự
hỏi: “Làm sao chúng tôi biết được lời nào là lời ĐỨC CHÚA đã không phán?” Nếu
điều ngôn sứ nói nhân danh ĐỨC CHÚA không ứng nghiệm, không xảy ra, thì không
phải là lời ĐỨC CHÚA đã phán; ngôn sứ đã nói càn, anh (em) không phải sợ ngôn
sứ ấy.” (Dnl 18, 21-22).
Thực vậy, muốn giảng Lời Chúa có uy quyền, lôi cuốn người nghe
như Đức Giêsu, thì tốt nhất chân lý ấy đã ứng nghiệm nơi bản thân người giảng,
như Đức Giêsu nói khi Ngài vào hội đường đọc sách Isaia: “Hôm nay ứng nghiệm
(nơi tôi) đoạn sách tai các ngươi vừa nghe” (Lc 4, 16-21). Nói cách khác, “Ngài
làm rồi mới dạy” (Cv 1, 1). Vì thế Lời Ngài có uy quyền, chứ không như các
Luật sĩ và Biệt phái, “họ dạy mà không làm, họ bó những gánh nặng mà chất
lên vai người ta, nhưng chính họ thì lại không buồn động ngón tay vào” (Mt
23, 3-4).
Lần kia tôi hỏi một em bé: Con thích gì? Thưa con thích lớn lên
làm bố. Tại sao? Thưa bố con chiều nào cũng ngồi chơi cờ bạc, mà bố cứ giục con
phải đi Lễ, không đi thì bị đòn! Bố lại được quyền bắt con phải chăm chỉ học
hành và phụ giúp mẹ, trong khi bố chẳng làm gì giúp mẹ; trên tay bố lúc nào
cũng có điếu thuốc, và hay bắt mẹ mua “mồi” cho bố uống rượu!
Các môn đệ theo Đức Giêsu cũng chỉ có danh là Tông Đồ khi họ làm
rồi mới dạy (x Mc 6, 30)
Vị ngôn sứ làm rồi mới dạy là người hoàn hảo đối với Thiên Chúa,
họ khác hẳn với thầy chiêm tinh, tướng số, phù thủy (x Dnl 18, 13-14). Vì thế
giáo lý Hội Thánh Công Giáo số 1548 dạy: “Các Thừa tác viên của Chúa Kitô
thật ra đảm nhận cương vị thánh thiêng của Người. Bởi vì vị này nhờ sự thánh
hiến Linh mục mà ông đã lãnh nhận, ông được đồng hóa với Vị Thượng Tế và ông
được quyền hành động với quyền năng và cương vị của chính Đức Kitô. Đức Kitô là
nguồn mạch mọi chức tư tế: vì vị tư tế của Luật cũ là hình bóng của Người; còn
vị tư tế của Luật mới hành động trong cương vị của Đức Kitô”.
Vị Ngôn Sứ Giêsu trong Tin Mừng hôm nay minh họa rất sống động
về chân lý này: Vào thời Đức Giêsu, phù thủy nào cao tay trừ được qủy, thì họ
phải nói tên qủy trước, nếu để qủy làm chủ tình thế gọi tên phù thủy trước, thì
phù thủy sẽ lúng túng và bất lực. Nhưng ông Marco ghi nhận: Mặc dù qủy nói
trước lý lịch Đức Giêsu: “Hỡi ông Giêsu Nadarét, ” thế mà nó vẫn bị Ngài
quát bảo: “Câm đi” và Ngài đã trục xuất nó tức khắc: “Ra khỏi người
này” (Mc 1, 25: Tin Mừng). Bởi thế ta cứ đọc, cứ nghe Lời Chúa, dù chưa
hiểu, nhưng quỷ nghe được Lời Chúa là vội vàng tháo chạy, thế là cũng đã hạnh
phúc cho ta lắm rồi, nhất là khi tham dự Thánh Lễ, ta được trực tiếp nghe Chúa
Giêsu giảng dạy (x Dt 1, 1-2), chẳng còn sự ác hay quỷ ma nào dám bén mảng tới
ta nữa.
IV. HIẾN DÂNG TRỌN ĐỜI CHO VIỆC PHỤC VỤ NƯỚC THIÊN CHÚA.
Thánh Tông Đồ lên tiếng khuyên các tín hữu một điều tốt: “Tôi
muốn anh chị em không phải bận tâm lo lắng điều gì. Đàn ông không có vợ thì
chuyên lo việc Chúa: họ tìm cách làm đẹp lòng Người. Còn người có vợ thì lo
lắng việc đời: họ tìm cách làm đẹp lòng vợ, thế là họ bị chia đôi. Cũng vậy,
đàn bà không có chồng và người trinh nữ thì chuyên lo việc Chúa, để thuộc trọn
về Người cả hồn lẫn xác. Còn người có chồng thì lo lắng việc đời: họ tìm cách
làm đẹp lòng chồng.” (1Cr 7, 32-34: Bài đọc II).
Để sống được lời khuyên của thánh Tông Đồ như trên, tất yếu ta
phải có lòng yêu mến Chúa và đồng loại cách dồi dào, mới có thể đáp ứng lời mọi
gọi tha thiết của Chúa: “Ngày hôm nay, ước gì anh em nghe tiếng Chúa! Người
phán: Các ngươi chớ cứng lòng.” (Tv 95/94, 7b. 8a: Đáp ca).
Hội Thánh dựa vào ý của Tông Đồ Phaolô cũng là ý của Thiên Chúa,
mà cổ võ các tu sĩ sống độc thân như một kỷ luật rất nghiêm minh: “Đức trinh
khiết vì Nước Trời của các tu sĩ đã khấn, phải được qúy trọng như một ân huệ
cao cả của ơn thánh. Thật vậy, ơn ấy giải thoát con người cách đặc biệt để mến
Chúa nồng nàn và yêu người nhiều hơn. Vì thế đức trinh khiết là dấu chỉ đặc
biệt của kho tàng trên trời, và cũng là phương tiện thích hợp nhất cho các tu
sĩ hân hoan hiến mình phụng sự Thiên Chúa và làm việc tông đồ. Do đó, họ gợi ra
trước mặt mọi Kitô hữu sự kết hợp lạ lùng do Thiên Chúa thiết lập, và sẽ tỏ
hiện đầy đủ đời sau là Hội Thánh được Chúa Kitô làm Lang Quân độc nhất của mình.”
(Đức Piô XII, ngày 25/3/1954).
Và Công Đồng Vat. II trong Sắc Lệnh Đào Tạo Linh Mục số 10 dạy:
“Sự tiết dục hoàn toàn về Nước Trời luôn luôn được Hội Thánh đặc biệt qúy
trọng và coi như dấu chỉ và động lực của bác ái, như nguồn mạch đặc biệt sinh
nhiều ơn ích thiêng liêng trong thế giới.”
THUỘC LÒNG
Đức Giêsu làm rồi Ngài mới dạy! (Cv 1, 1)
http://phaolomoi. net
Lm GIUSE ĐINH QUANG THỊNH
Lm GIUSE ĐINH QUANG THỊNH