LỄ CHÚA GIÊSU CHỊU PHÉP RỬA – Năm B
1. Người con yêu quý
Vào thế kỷ thứ IV,
Ario truyền bá một lạc thuyết vô cùng nguy hại. Ario chủ trương rằng Đức Kitô
không thực sự là Con Thiên Chúa. Hoàng đế Theôđôsiô đỡ đầu cho lạc thuyết này.
Cũng vào lúc ấy hoàng đế phong cho hoàng tử mới 16 tuổi của ông được cùng trị
vì trên ngai vàng với ông. Trong những khách được mời đến dự buổi lễ phong
vương, có Đức Giám mục Amphilôcô. Đức Giám mục chỉ nói vài lời chúc mừng rồi
chuẩn bị ra về. Hoàng đế giận dữ hỏi: Ngài không quan tâm đến hoàng tử sao?
Ngài không biết rằng ta phong cho hoàng tử cùng trị vì với ta hay sao? Vị Giám
mục bình tĩnh trả lời: Tâu hoàng thượng, hoàng thượng phật ý trước sự giả bộ
thờ ơ của tôi đối với hoàng tử, vì tôi đã tỏ ra không tôn kính hoàng tử như bệ
hạ mong muốn. Vậy Thiên Chúa sẽ nghĩ sao về hoàng thượng, khi hoàng thượng
giáng cấp Người Con ngang hàng và cùng hiện hữu với Ngài dưới danh hiệu Con
Thiên Chúa.
Từ câu chuyện trên
chúng ta thấy: Ngày nay có nhiều người, kể cả một số người mệnh danh là Kitô
hữu, đã chối bỏ hoặc nghi ngờ thiên tính của Đức Kitô. Thiết tưởng những người
ấy hãy lắng nghe lời Chúa Cha tuyên phong trong đoạn Tin Mừng sáng hôm nay: Con
là Con yêu quý của Cha, Cha hài lòng về Con.
Việc Đức Kitô chịu
phép Rửa bởi Gioan đánh dấu bước khởi đầu công cuộc cứu độ của Ngài. Công cuộc
trọng đại này là hành động của cả Ba Ngôi, vì chúng ta thấy Chúa Thánh Thần lấy
hình chim bồ câu ngự xuống, đồng thời Chúa Cha phán bảo. Biến cố này rất quan
trọng, nên Giáo Hội muốn chúng ta mừng kính riêng trong Chúa nhật hôm nay, tựa
như ngày đăng quang của Đức Giáo Hoàng hay ngày nhận chức của một tổng thống.
Đặc điểm chúng ta cần
nhấn mạnh đó là Chúa Cha trên trời hài lòng về Người Con yêu quý của
Ngài, là Đức Kitô. Có người cha nào lại không vui mừng khi người con
của mình khởi sự một chức vụ quan trọng: người cha của một bác sĩ, người cha
của một tân linh mục, người cha của chú rể trong ngày cưới. Niềm vui ấy càng
lớn lao hơn khi người con ấy vâng phục và tôn kính cha mình.
Đức Kitô là một người
con yêu mến và vâng phục Chúa Cha. Đồng thời Ngài luôn khoan dung và khiêm tốn
như một kẻ tôi tớ, vì thế, Chúa Cha luôn hài lòng về Ngài. Còn chúng ta thì
sao?
Với bí tích Rửa Tội đã
lãnh nhận, chúng ta được mời gọi để nhận biết, yêu mến và phụng sự Cha trên
trời, khi chúng ta cố gắng chu toàn thánh ý Ngài giữa lòng cuộc đời, khi chúng
ta cố gắng sống mầu nhiệm của bí tích Rửa Tội, khi chúng ta cố gắng noi theo
Người Con Chí Thánh trong sự khiêm tốn và vâng phục, thì chúng ta cũng làm hài
lòng Cha trên trời, để rồi trong ngày cuối cùng, chúng ta cũng sẽ được Chúa Cha
tuyên phong, như ngày xưa Ngài đã tuyên phong Đức Kitô bên bờ sông Giođan: Con
là Con yêu quý của Cha, Cha hài lòng về Con.
2. Công
dân Nước Trời
Ngày xưa người ta có
một quan niệm rất ngộ nghĩnh về vũ trụ. Họ chia vũ trụ thành ba tầng chồng lên
nhau. Tầng trên cùng là trời hay thiên đàng, nơi Thiên Chúa cư ngụ. Tầng giữa
là đất, nơi loài người và muôn vật sinh sống. Tầng chót là âm phủ, nơi con
người sẽ đến sau khi chết.
Từ khi Adong Eva phạm
tội, thì tầng giữa, tức thế giới sinh vật ngày càng trở nên tồi tệ. Vì thế, các
thánh luôn cầu xin Chúa từ trời ngự xuống để cứu giúp nhân trần. Chẳng hạn tiên
tri Isaia đã nài van: Sao Ngài không xé bầu trời mà ngự xuống với chúng con.
Từ quan niệm trên,
chúng ta đi vào đoạn Tin mừng sáng hôm nay, chúng ta sẽ dừng lại ở ba sự kiện:
Sự kiện thứ nhất, đó
là bầu trời mở ra. Và như thế lời cầu xin của các vị thánh ngày xưa đã được chấp
nhận. Thiên Chúa đã đến với nhân loại, khởi đầu cho một kỷ nguyên mới trong
lịch sử.
Sự kiện thứ hai, đó là
Thần khí Chúa dưới hình chim bồ câu ngự xuống trên Ngài. Sự kiện này nhắc cho
chúng ta nhớ lại lúc bắt đầu công cuộc tạo dựng. Thần khí Chúa cũng đã bay lượn
trên nước. Và như thế, cùng với Đức Kitô, Thiên Chúa thực hiện việc tái tạo,
việc canh tân thế giới hay nói cách khác, Ngài thực hiện một công cuộc tạo dựng
mới.
Và sau cùng, sự
kiện thứ ba, đó là tiếng nói từ trời: Này là con Ta yêu dấu, đẹp lòng Ta mọi
đàng. Sự kiện này muốn xác quyết rằng: Đức Kitô là Con Thiên Chúa, là
Adong mới, là trưởng tử của công cuộc tạo dựng mới này, như lời thánh Phaolô đã
viết: Người thứ nhất là Adong từ đất mà ra nên thuộc về đất. Còn người thứ hai
là Đức Kitô từ trời mà đến. Chúng ta đã mang trong mình hình ảnh con người bởi
đất, tức Adong cũ thế nào, thì chúng ta cũng phải mang lấy hình ảnh con người
bởi trời, tức Adong mới như vậy.
Từ đó chúng ta đi tới
kết luận: Chúng ta là công dân của hai thế giới, bởi vì chúng ta mang trong
mình hình ảnh của Adong thứ nhất cũng như của Adong thứ hai. Chúng ta chia sẻ
sự sống với cả hai vị này. Kinh nghiệm cho thấy: Chúng ta đã từng bị lôi cuốn
về mặt xác thịt của Adong thứ nhất, nhưng đồng thời cũng được sự thôi thúc về
tinh thần của Adong thứ hai. Chúng ta thường bị xâu xé giữa sự thiện và sự ác,
để rồi sự thiện chúng ta muốn thì chúng ta lại không làm, còn điều ác chúng ta
ghét thì chúng ta lại làm.
Ý thức được như vậy, chúng
ta hãy cầu xin Chúa giúp chúng ta luôn bước đi trên đường nẻo của Ngài, thực
thi những điều Ngài truyền dạy, để nhờ đó chúng ta cũng sẽ được Ngài tuyên
phong vào ngày sau hết: Này là con Ta yêu dấu, đẹp lòng Ta mọi đàng.
3. Này Là
Con Ta Yêu Dấu
Biến cố ngày hôm nay
quả thực đã làm cho chúng ta ngỡ ngàng không ít. Thực vậy, Chúa Giêsu đã chịu
phép rửa nơi một kẻ tội lỗi, trong khi Ngài là người con yêu dấu của Chúa Cha
và chính Ngài cũng đã có lần tuyên bố: Ai trong các ngươi bắt lỗi Ta được về sự
gì? Thế nhưng, Chúa Giêsu lại là Đấng chuộc tội thiên hạ như có lần Gioan đã giới
thiệu: Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá tội trần gian. Ngài xoá tội trần gian
bằng cách gánh lấy tội ấy.
Hành động chịu phép
rửa phải chăng là một sự mở đầu cho sứ vụ của Ngài, đồng thời cũng là một dấu
chỉ báo hiệu những gì sẽ xảy đến.
Có một lần, các con
của Giêbêđê, bày tỏ ước vọng với Ngài là muốn được ngồi bên tả bên hữu Ngài. Và
Chúa Giêsu đã trả lời các ông: Các con không ý thức được điều các con xin. Các
con có thể uống được chén Ta phải uống và chịu thanh tẩy, thứ thanh tẩy mà Ta
phải chịu hay không?
Như thế là còn một
cuộc thanh tẩy khác nữa đang chờ đợi Chúa Giêsu. Cuộc thanh tẩy ấy chính là
cuộc thống khổ, kết thúc bằng cái chết trên thập giá. Cuộc thanh tẩy ấy được
thực hiện không phải chỉ bằng nước sông Giođan và từ tay của Gioan, mà là bằng
máu của chính Ngài. Chúa Giêsu chịu thanh tẩy tại sông Giođan là hình ảnh của
nhân loại được thanh tẩy trong cái chết của Ngài, được sống lại trong sự phục
sinh của Ngài và trở thành những người con của Thiên Chúa.
Nơi Đức Kitô, phép rửa
hay phép thanh tẩy đã không còn là một nghi lễ, mà đã trở thành một cuộc sống.
Tội lỗi đã bị đánh bại không phải bằng nước của phép rửa mà là bằng máu của sự
sống. Bí tích thanh tẩy làm cho Kitô hữu trở thành con Thiên Chúa cũng không
thể chỉ là một nghi lễ được lãnh một lần rồi thôi, mà phải là chính cuộc sống
làm con Thiên Chúa, cuộc sống từ bỏ và đẩy lui mọi tội lỗi. Không phải chỉ là
đẩy lui tội lỗi ra khỏi cuộc sống của cá nhân mình, mà còn là ra khỏi nhân
loại.
Vì thế, thờ ơ trước
những tội ác diễn ra chung quanh, trước những bất công xã hội, trước những vi
phạm quyền con người, trước những gian dối và thù hận, người Kitô hữu không còn
là người Kitô hữu đích thật nữa vì đã không chu toàn lời cam kết khi lãnh nhận
bí tích Rửa tội. Chính qua cuộc sống dứt khoát với tội lỗi mà người Kitô hữu
bày tỏ được ý thức của mình về địa vị cao cả mà bí tích Rửa tội đã đem lại,
đồng thời làm chứng về tình thương của Thiên Chúa đối với con người. Người Kitô
hữu có trách nhiệm phải làm sao để tiếng từ trời cũng được lặp lại với từng người
trong nhân loại: Này là con Ta yêu dấu dấu, đẹp lòng Ta mọi đàng.
4. Đức Giêsu chịu phép rửa
Hôm nay Giáo Hội mừng
lễ Đức Giêsu chịu phép rửa. Thêm một lần nữa Kitô-hữu nhận ra Đức Giêsu sống
trọn thân phận con người, khi Ngài nhận mình đồng hàng với con người cần lòng
thương xót của Thiên Chúa. Mặt khác, chính khi Ngài yêu thương và đồng hóa mình
với anh em, thì Thiên Chúa xác chuẩn Ngài là Con Yêu Dấu của Thiên Chúa. Ngài
tỏ lộ chân tướng của Ngài qua hành vi và cung cách cư xử của Ngài.
1) Đức Giêsu chịu phép
rửa
Đức Giêsu được sinh ra
trong chuồng chiên cừu, lớn lên và làm việc tại Nazaret. Ngài ăn cùng thức ăn
như họ, cùng hưởng bầu không khí như họ, hưởng một nền giáo dục như bao trẻ em
làng Nazaret thời đó, đặc biệt nền giáo dục về tôn giáo. Đức Giêsu đã trưởng
thành từ làng quê Nazaret, và là người Do Thái hoàn toàn. Khi nghe tin Gioan
xuất hiện như một tiên tri, rao giảng mời gọi toàn dân nhận lãnh phép rửa diễn
tả lòng sám hối để đón chờ Thiên Chúa can thiệp cứu dân Người, có lẽ Đức Giêsu
đã xin phép mẹ Người, tới với Gioan xin ông thanh tẩy cho.
Đức Giêsu đã cùng với bao
người Do Thái khác, lắng nghe Gioan giảng dạy, và lần lượt tới để được thanh
tẩy trong dòng sông Giordan. Đức Giêsu đã sống như bao người trẻ khác ở
Nazarét, và giây phút ở sông Giordan này, Đức Giêsu cho thấy Ngài chia sẻ thân
phận con người hoàn toàn, Ngài là người giữa bao người, Ngài hành xử như tất cả
mọi người.
Con người, với thể xác
và linh hồn, là thực tại vô cùng cao quý. Con người được mời gọi vươn lên thành
con người trọn vẹn, thành thánh, chia sẻ sự sống và hạnh phúc với Thiên Chúa.
Con người hình thành chính mình qua cung cách cư xử và chọn lựa của mình. Qua
hành vi “xin vâng,” Đức Maria trở nên con người tuyệt vời; qua cách hành xử
“của ăn của Ta là làm theo Đấng đã sai Ta,” Đức Giêsu cho thấy Ngài là một với
Thiên Chúa trong tất cả.
2) Ngài vượt trên tôi,
sao Ngài lại đến với tôi?
Theo đức tin của
Kitô-hữu, Đức Giêsu là Ngôi Lời nhập thể, là Con Thiên Chúa giáng trần, là Đấng
vô tội, vậy tại sao Ngài lại chịu phép rửa? Nếu bảo rằng Ngài chịu phép rửa để
làm gương cho con người khi Ngài không cần phải chịu phép rửa, phải chăng hàm
chứa nói Ngài “giả hình”, “làm bộ.” Khiêm nhường là sự thật, giả hình hay làm
bộ, chẳng làm gương sáng cho ai, mà chỉ là gương xấu.
Đức Giêsu chịu phép
rửa thống hối, vì Ngài cần phải chịu phép rửa. Đức Giêsu không làm bộ hay giả
hình. Ngài chịu phép rửa, vì Ngài đại diện con người, Ngài mang nơi mình tội
của tất cả con người, nên Ngài thống hối nhân danh tất cả con người: “đây Chiên
Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian.” Ngài chịu phép rửa thống hối không
phải vì Ngài, nhưng vì Ngài “gánh tội trần gian,” Ngài đại diện con người xin
Thiên Chúa tha thứ lỗi lầm của tất cả con người.
Gioan đã nói: “Sao
Ngài lại đến với tôi? Tôi mới là người phải đến với Ngài chứ.” Gioan tiền hô đã
nhận ra Đức Giêsu là con người đặc biệt, trổi vượt trên mình. Ngày nay, người
ta nhận biết chân tính của Đức Giêsu nhờ ánh sáng biến cố phục sinh, nhưng ở
thời điểm của Gioan tiền hô, người ta chưa biết điều này. Khi Gioan nhận ra
mình “không đáng cởi dây giầy” cho Ngài, Gioan đang làm chứng cho thấy phần nào
chân tướng của Đức Giêsu. Đức Giêsu là con người rất đặc biệt.
3) Này là Con Ta rất
yêu dấu
Đa số người ta hiểu
rằng, Đức Giêsu biết mình là Ngôi Lời Thiên Chúa, là Thiên Chúa nhập thể, nên
Ngài biết hết mọi sự. Tuy nhiên có một số nhà thần học, và ngay cả một số tác
giả tin mừng cho thấy Đức Giêsu chia sẻ trọn vẹn thân phận con người, nghĩa là,
Ngài không biết trước mọi chuyện, có nhiều điều Ngài không biết. Những người
này chủ trương, là người thì không ai biết tất cả tương lai mình, nếu Đức Giêsu
biết trước hết mọi chuyện thì Đức Giêsu không chia sẻ trọn thân phận con người.
Mà theo đức tin Kitô, Đức Giêsu là người trọn vẹn, nên có nhiều điều Đức Giêsu
không biết khi Ngài đang sống tại trần gian.
Là người, là chấp nhận
đi trong đêm tối của đức tin. Như Abraham ra đi trong niềm tin tưởng phó thác
vào Thiên Chúa, cho dù không biết tương lai mình như thế nào, chỉ tin vào Thiên
Chúa và lời hứa của Ngài mà cất bước ra đi. Đức Maria thưa tiếng “xin vâng,”
cũng không biết rõ tương lai đời mình, chỉ tin tưởng rằng những gì Thiên Chúa
phán với mình sẽ được thành sự. Đức Giêsu cũng không biết rõ tương lai đời
mình, nên cũng phải sống trong niềm tin tưởng phó thác như bất cứ con người nào
khác. Khi Đức Giêsu chịu phép rửa, là Ngài hành xử theo tiếng gọi của tình yêu,
Ngài yêu thương con người đến độ muốn mang vác tất cả tội lỗi cho con người.
Đây là một hành vi yêu thương và đẹp tuyệt vời, yêu thương con người ngay khi
người tội lỗi: bất toàn và gian ác.
Thiên Chúa đã chuẩn
nhận hành vi của Đức Giêsu: “Con là Con Ta rất yêu dấu, Ta hài lòng vì Con.”
Theo tin mừng Mác-cô, tiếng này nói cho chính Đức Giêsu. Là người, Đức Giêsu
cũng cần một lời chuẩn nhận của Thiên Chúa như bao người khác cần Thiên Chúa
chuẩn nhận khi họ được sai gởi thi hành ý định của Thiên Chúa. Hành vi của con
người diễn tả chân tướng của họ. Qua hành vi “chịu phép rửa” này, Đức Giêsu
biểu lộ chân tính của Ngài: Con Yêu Quý của Thiên Chúa. Đức Giêsu tiếp tục
sống, và qua chính cung cách hành xử “yêu thương đến hiến dâng chính mạng sống mình,”
Đức Giêsu cho thấy tình yêu của Ngài đối với con người, và cũng mặc khải tình
yêu của Thiên Chúa đối với con người.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Bạn nghĩ sao về
quan điểm: con người hình thành chính mình qua cung cách hành xử và chọn lựa
của mình?
2. Bạn có thể trở
thành người tuyệt vời không? Bằng cách nào?
5. Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà
Chủ đề: Người đời
thường chạy tội, đổ lỗi cho người khác, còn Chúa Giêsu lại sẵn sàng gánh tội
cho hết mọi người.
Một trong những thói
xấu nghiêm trọng gây thiệt hại không nhỏ cho xã hội là thói đổ lỗi cho người
khác, không chịu nhận trách nhiệm về mình.
Căn bệnh nầy đã xuất
hiện ngay từ khởi thuỷ loài người.
Sau khi hai ông bà
nguyên tổ phạm tội ăn trái cấm bất tuân lệnh Chúa (St 3, 1-18), Thiên Chúa đến
hạch tội A-đam: "Có phải ngươi đã ăn trái cây mà Ta đã cấm ngươi ăn
không?"
A-đam bèn đổ lỗi cho
cả Thiên Chúa lẫn E-và: Tại vì "người đàn bà Ngài cho ở với con, đã cho
con trái cây ấy, nên con mới ăn." Nói như thế, A-đam cho rằng cả Chúa cũng
có trách nhiệm trong vụ việc nầy, tại vì Chúa đã trao người đàn bà nhẹ dạ nầy
cho ông; giá như Chúa không dựng nên E-và và trao nàng cho Ađam thì đâu đến nỗi
nầy).
Bấy giờ Chúa quay ra
hỏi tội E-và: "Ngươi đã làm gì?" Người đàn bà liền trút tội cho con
rắn: Tại vì "con rắn đã lừa dối con, nên con đã ăn". (St 3, 9-13)
Có vô số dê tế thần để
người ta trút hết tội lỗi lên đầu chúng: tại ông, tại bà, tại trời, tại đất,
tại gió, tại mưa... Bao nhiêu hậu quả và trách nhiệm đáng phải chịu vì lầm lỗi
của mình, người ta đùn đẩy qua cho người khác. Tìm đâu ra con người dũng cảm
dám đứng ra nhận lấy phần lỗi của mình và gánh lấy hậu quả do mình gây ra?
Trong khi đó, mặc dầu
Chúa Giêsu được Gioan giới thiệu là Đấng quyền thế lớn lao, thậm chí Gioan
không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Người; là Đấng sẽ cử hành một phép rửa
ngàn lần cao trọng hơn phép rửa của Gioan - "Phần tôi, tôi rửa anh em
trong nước; còn Người, Người sẽ rửa anh em trong Chúa Thánh Thần" - vậy mà
Chúa Giêsu lại đến với Gioan như một người tội lỗi, chăm chú nghe Gioan rao
giảng, hoà mình với những người thu thuế, những tên cướp của giết người, những
hạng người đàng điếm, côn đồ và với bao nhiêu người tội lỗi khác để chờ đến
phiên mình bước xuống dòng sông Gio-đan, nhờ Gioan làm phép rửa cho.
Nhưng, Chúa Giêsu là
Đấng không hề vướng tội, thì sao lại phải chịu phép rửa bởi Gioan?
Chúa Giêsu chịu phép
rửa không phải vì tội lỗi của Người nhưng vì tội lỗi của nhân loại mà Người đã
mang vào thân. Người là "Đấng chẳng hề biết tội là gì, thì Thiên Chúa đã
biến Người thành hiện thân của tội lỗi vì chúng ta" (2Cr 5, 21). Người đến
làm con "Chiên của Thiên Chúa" gánh lấy tội lỗi thế gian (Ga 1,29)
thay cho các con chiên đền tội thời Cựu Ước.
Chính vì mang lấy tội
lỗi nhân loại vào thân, Chúa Giêsu trở thành tội nhân, nên Người phải hoà mình
với những tội nhân khác để cho ngôn sứ Gioan làm phép rửa cho Người.
Chính vì mang lấy tội
lỗi nhân loại vào thân, Người đã bị kết án chết thảm thương trên thập giá để
đền thay tội lỗi muôn người. "Tội lỗi của chúng ta, chính Người đã mang
vào thân thể mà đưa lên cây thập giá. Để một khi đã chết đối với tội, chúng ta
sống cuộc đời công chính. Vì Người phải mang những vết thương mà anh em được
chữa lành". (1 Pr 2, 24).
Cao đẹp thay, quảng
đại thay hành vi hạ mình gánh lấy tội lỗi nhân loại của Chúa Giêsu. Người mãi
mãi là gương mẫu của chúng ta và đáng cho chúng ta khâm phục tôn thờ.
Lạy Chúa Giêsu,
Biết đến bao giờ con
mới chừa bỏ được thói trút tội lên đầu người khác và chối bỏ trách nhiệm của
mình?
Biết bao giờ con mới
có đủ bản lãnh và can trường để đứng ra chịu trách nhiệm về những thiệt hại
mình đã gây ra?
Ước gì tấm gương khiêm
nhường của Chúa hạ mình xuống nhận phép rửa dưới dòng sông Gio-đan vì tội lỗi
nhân loại sẽ luôn là động cơ giúp con sửa chữa thói chạy tội vô trách nhiệm của
mình.
6. Các biến cố cơ bản – Camille Gagnon
Nhân dịp một số biến
cố, chúng ta đã khám phá được tình yêu Thiên Chúa. Với Chúa Giêsu chúng ta nhắc
lại những biến cố này và tạ ơn Chúa.
Lịch sử cuộc đời chúng
ta.
Khi người ta yêu cầu
ai đó kể lịch sử đời họ trong một cuộc phỏng vấn hoặc để viết một tiểu sử,
người ấy sẽ kể những giai đoạn nổi bật và nối kết những bước ngoặt quyết định
với một số biến cố, một số gặp gỡ, một số nơi chốn.
Đôi khi chỉ cần một
điệu nhạc ngắn đã đủ khơi dậy một niềm say mê đối với Beethoven hoặc Pink
Floyd. Một quyển sách có thể làm cho ta ham thích địa lý hoặc lịch sử. Một cuộc
gặp gỡ, một bài diễn thuyết có thể là khởi điểm của một sự nghiệp nghệ sĩ hoặc
khoa học. Những biến cố này chúng ta có thể gọi là “biến cố cơ bản”.
Trong một cuộc đời,
những biến cố như thế không nhiều lắm và trong số những biến cố ấy, một số sẽ
tác động nhiều hơn, nhất là những biến cố đã quyết định những mối liên hệ của chúng
ta: bước đầu của một tình bạn, việc lựa chọn người phối ngẫu. Những nơi chốn
hoặc giờ giấc đã xảy ra những cuộc gặp gỡ đó ghi dấu sâu đậm nơi ký ức đến nỗi
chúng trở thành những biểu tượng thiêng liêng của người yêu hoặc của tình yêu.
Tin Mừng mô tả một
biến cố cơ bản như thế đối với Chúa Giêsu: việc Chúa chịu phép rửa trên bờ sông
Giođan từ tay Gioan.
“Con là Con Ta yêu
dấu”
Không gì có vẻ báo
trước sẽ xảy ra một điều đặc biệt khi Chúa tiến đến để hoàn thành nghi lễ thanh
tẩy. Bản văn Tin Mừng chỉ kể lại rằng “Vào thời ấy, Chúa Giêsu chịu phép rửa
trong sông Giođan”. Không có dàn cảnh, người ta không trải thảm để Chúa Giêsu
đi xuống nước. Gioan Tẩy Giả không có vẻ nhận ra Chúa ngay tức khắc. Mọi sự xảy
ra nơi Chúa Giêsu là người muốn sống chân thành một kinh nghiệm tôn giáo, muốn
thể hiện việc hoán cải theo lời mời gọi của Gioan. Chỉ lúc ra khỏi nước Chúa
Giêsu mới ý thức về tầm quan trọng của cử chỉ này. Những gì Ngài vừa mới sống
sẽ có một ảnh hưởng rất lớn trên cuộc đời của Ngài. Ngài khám phá rằng Ngài
được Thiên Chúa yêu như một người con một, một người con ưu ái: “Cha đã đặt nơi
con tất cả tình yêu của Cha”.
Để hiểu rõ hơn kinh
nghiệm mà Chúa Giêsu đang sống đây, ta nên nghĩ đến một tiếng sét ái tình.
Chính trong bối cảnh này mà ta có thể tưởng tượng Chúa Giêsu ra khỏi nước, trầm
lặng, lòng sốt mến, rồi ngẩng đầu lên nhìn thấy một chim bồ câu đang bay. Lúc
đó chim bồ câu trở thành biểu tượng thiêng liêng của kinh nghiệm nội tâm của
Ngài, của điều Ngài vừa khám phá. Sứ vụ và sự dấn thân của Chúa Giêsu sẽ phát
xuất từ khám phá này, từ tiếng sét này. Chim bồ câu sẽ là biểu tượng nhắc nhở
Ngài về sứ vụ ấy.
Sống lại phép rửa của
chúng ta.
Đi từ phép rửa của
Chúa Giêsu, việc Bí tích thánh tẩy được coi như biến cố cơ bản của đời sống
Kitô, nghĩa là của sự dấn thân của chúng ta đối với Thiên Chúa và sự cam kết
của Thiên Chúa đối với chúng ta. Đó là khởi điểm cuộc mạo hiểm làm con cái Chúa
của chúng ta. Nếu ý thức điều này cha mẹ chúng ta sẽ yêu thương chúng ta bằng
một tình yêu hoàn hảo nhất khi giới thiệu với chúng ta một người “Cha” khác,
một người Cha lớn hơn các ngài. Rủi thay chúng ta đã không biết gì về biến cố
thánh tẩy của mình.
Chỉ dần dần, nhờ những
biến cố khác, những sự việc ngẫu nhiên khác chúng ta mới có thể khám phá tình
yêu của Thiên Chúa.
Hôm nay Tin Mừng cho
chúng ta dịp ôn lại lịch sử tôn giáo của chúng ta và nhắc lại với chúng ta
những xúc động mạnh, những lễ hội, những tang chế là những dịp đã mặc khải cho
chúng ta tình yêu Chúa. Tôi chắc chắn rằng nhiều người trong anh chị em đang có
trong ký ức của mình kỷ niệm về một dịp nào đó đã giúp mình “gặp gỡ” Thiên
Chúa.
Kinh nguyện Thánh Thể
trong đó lịch sử cứu độ thế giới được tóm tắt lại sẽ giúp chúng ta nhớ lại
những biến cố cơ bản của cuộc đời chúng ta trong niềm tri ân.
7. Phép rửa
Có hai anh bạn đi mua
đồ phế thải. Sau khi xem xét một hồi, anh thứ nhất nói:
- Toàn là đồ “năm vố”
không à.
Còn anh kia thì nhặt
lên một cây thánh giá cũ kỹ đã han dỉ và nói:
- Thật là khó mà tin
được, tôi đã tìm thấy một món đồ quý. Cây thánh giá này được làm bằng chất bạc
ngày xưa.
Anh ta mang cây thánh
giá về nhà, lau chùi, rồi đưa cho đứa con mới đi học giáo lý về. Nó kính cẩn
cầm trong tay, ngắm nghía một hồi rồi bật khóc. Thấy vậy anh liền hỏi:
- Tại sao con khóc.
Nó trả lời:
- Con không thể cầm
lòng được khi nhìn vào Chúa Giêsu bị treo trên thập giá.
Và như thế, cả ba
người đều nhìn vào cây thập giá, thế mà người thứ nhất chỉ thấy đó là đồ ve
chai mủ bể, người thứ hai thì thấy đó là một đồ vật có giá trị. Còn người thứ
ba thì nhận ra Chúa Giêsu trên đó. Cách nhìn cây thập giá trên cũng tương tự
như cách chúng ta nhìn Phúc âm.
Tất cả chúng ta đều
nghe cùng một đoạn Phúc âm, thế nhưng mỗi người lại hiểu và phản ứng một cách
khác nhau. Có thể chúng ta chỉ nghe như nghe một câu chuyện bình thường, chẳng
có chi đặc sắc. Có thể chúng ta đã lắng nghe và tiến thêm một bước nữa, đó là
tìm hiểu ý nghĩa của câu chuyện. Có thể ngoài việc học hỏi ý nghĩa, chúng ta
còn cố gắng áp dụng vào cuộc sống. Đó là ba bước tiếp nhận Phúc âm: lắng
nghe, học hỏi và áp dụng.
Đi vào đoạn Tin Mừng
sáng hôm nay về sự việc Chúa Giêsu chịu phép rửa:
Bước thứ nhất, chúng ta lắng nghe
câu chuyện và biết rằng: sau khi Gioan làm phép rửa cho Chúa Giêsu thì tầng
trời mở ra, Chúa Thánh Thần ngự xuống và có tiếng từ trời phán ra. Và cũng chỉ
có vậy mà thôi.
Bước thứ hai, chúng ta đi xa hơn
một chút, bằng cách cố gắng tìm hiểu ý nghĩa của những sự kiện trên. Chẳng hạn
hình ảnh trời mở ra cho ta thấy Thiên Chúa đã nghe lời cầu nguyện của dân Ngài
và Ngài đang đến để cứu vớt họ. Hình ảnh Chúa Thánh Thần ngự xuống gợi lên cho
chúng ta về một kỷ nguyên mới, vũ trụ này được tái tạo để trở nên tốt đẹp hơn,
như ngày xưa, khi tạo dựng trời đất, Thánh Thần Chúa cũng đã bay lượn trên
nước. Còn hình ảnh thứ ba, có tiếng nói từ trời phán ra:
- Đây là con Ta rất
yêu dấu.
Những lời này cho thấy
Đức Kitô là Con Thiên Chúa, là Adong mới của cuộc tạo dựng mới, như lời thánh
Phaolô:
- Người thứ nhất tức
Adong được tạo dựng là con người sống. Nhưng Adong cuối cùng là Đức Kitô, lại
là thần khí ban sự sống. Adong thứ nhất bởi đất mà ra. Còn Adong thứ hai thì từ
trời mà đến. Như chúng ta đã mang ảnh hưởng của con người bởi đất, tức Adong
thứ nhất thế nào thì chúng ta cũng sẽ mang hình tượng con người bởi trời, tức
Adong thứ hai là Đức Kitô như vậy.
Ngoài việc lắng nghe,
tìm hiểu ý nghĩa, chúng ta còn phải áp dụng ý nghĩa câu chuyện ấy vào cuộc sống
chúng ta.
Chẳng hạn, chúng ta có
thể nhớ lại rằng: Cuộc sáng tạo mới bắt đầu với phép rửa của Chúa Giêsu và đã
trở thành một thực tại gắn bó với mỗi người chúng ta. Khi lãnh nhận Bí tích Rửa
tội, thì một cách nào đó, bầu trời cũng mở ra, Chúa Thánh Thần ngự xuống trên
chúng ta và chúng ta trở nên con cái Thiên Chúa.
Và như thế chúng ta
phải sống thế nào cho xứng đáng với tước vị cao cả ấy. Chính vì thế mà thánh
Phaolô đã khuyên chúng ta:
- Anh em đã sống lại
cùng Đức Kitô, vậy anh em hãy hướng tâm hồn vào những sự trên trời chứ đừng vào
những sự vật của trần thế này.
8. Phép rửa
Cả ba bài đọc hôm nay
đều qui chiếu về Đức Giêsu. Tất cả ba bài đều trình bày cho ta những hình ảnh
đẹp về cuộc đời và sứ mạng của Người.
1. Hình ảnh về một
Đấng Cứu Thế khiêm nhường tự hạ.
Trong khi dân Do Thái
mong chờ một Đấng Cứu Thế oai phong lẫm liệt, thì Đức Giêsu xuất hiện công khai
lần đầu tiên trong sự khiêm nhường thống hối. Lúc ấy, Gioan rao giảng sự ăn năn
sám hối. Đoàn lũ dân chúng đông đảo kéo đến với ông để xin chịu phép rửa thống
hối. Hòa mình vào đoàn lũ những con người tự nhận mình tội lỗi ấy, Đức Giêsu âm
thầm khiêm tốn xếp hàng chờ được rửa tội. Thật là lạ lùng. Chính Đấng đã thánh
hóa Gioan khi ông còn trong bụng mẹ giờ đây lại đến xin ông làm phép rửa cho.
Chính Đấng đến để chuộc tội loài người giờ đây lại xin người khác rửa tội cho
mình. Thật là khiêm nhường thẳm sâu. Trong khi loài người tội lỗi luôn kiêu
ngạo tìm nâng mình lên thì Thiên Chúa thánh thiện lại tìm hạ mình xuống. Trong
khi loài người tội lỗi luôn che dấu, chối không nhận tội thì Thiên Chúa vô tội
lại công khai nhận mình tội lỗi. Trong khi loài người tội lỗi tìm tránh hình
phạt do tội lỗi họ gây nên thì Thiên Chúa lại ghé vai gánh lấy hết tội lỗi và
mọi hình phạt mà loài người đáng phải chịu. Sự khiêm nhường ấy phát xuất từ
lòng Thiên Chúa yêu thương con người, muốn chia sẻ kiếp người, muốn cứu chuộc
tội đời, muốn thăng tiến nhân loại.
2. Hình ảnh về cuộc
giao hòa đất trời.
Chính lúc Đức Giêsu tự
nguyện gánh lấy tội lỗi nhân loại, tầng trời bị xé ra. Khi loài người phạm tội,
cửa trời đóng lại, đất trời phân ly, ân phúc thôi tuôn đổ. Khi phạm tội, loài
người tự giam mình trong bóng tối. Bóng tối tội lỗi giam kín con người trong
thân phận bụi đất, không còn hy vọng vươn lên. Hôm nay, tầng trời xé ra có
nghĩa là từ nay con người đã có lối thoát. Thân phận con người thay đổi, địa vị
con người được nâng lên, vì có ơn Thiên Chúa đổ xuống, có Thiên Chúa đến gieo
mầm trường sinh vào kiếp người phàm hèn. Trời đất giao hòa. Thiên giới cúi
xuống hạ giới. Thiên Chúa đến ở với con người. Ân phúc tuôn đổ xuống cõi đời
nhơ uế.
3. Hình ảnh về sự kết
hiệp mật thiết giữa Ba Ngôi Thiên Chúa.
Trong giây phút cảm
động ấy, cả Ba Ngôi Thiên Chúa cùng xuất hiện. Chúa Thánh Thần như chim bồ câu
đáp xuống. Chúa Thánh Thần là tình yêu. Chúa Thánh Thần ngự xuống trên ai là
dấu chỉ Thiên Chúa ưu ái người ấy. Đức Chúa Cha công khai xác nhận sự ưu ái ấy
với Đức Giêsu khi lên tiếng: “Đây là Con Ta yêu dấu”. Đức Giêsu là Con Thiên
Chúa. Đây không phải là một danh xưng, một tước vị, nhưng là một liên hệ sâu xa
mật thiết: Ba Ngôi liên kết trong một tình yêu hiệp thông. Đức Giêsu hoạt động
dưới tác động của Chúa Thánh Thần để thi hành thánh ý Chúa Cha. Có thể nói cả
Ba Ngôi đều hoạt động trong Đức Giêsu Kitô. Cả Ba Ngôi đều tham gia vào công
trình cứu chuộc con người.
4. Hình ảnh về sứ mệnh
người được sai đi.
Từ xưa trong Cựu ước,
Chúa Thánh Thần ngự xuống là để trao ban một sứ mệnh. Hôm nay, Đức Giêsu cũng
đã nhận lãnh một sứ mệnh, đó là cứu nhân độ thế. Là “mở mắt cho người mù”, là
“đưa ra khỏi tù những người bị giam giữ”, là “dẫn ra khỏi ngục những kẻ ngồi
trong bóng tối tăm”. Người không đến trong thái độ phô trương quyền lực, nhưng
đến trong sự hiền lành khiêm nhường. Người đến không phải để lên án nhưng để
tha thứ. Người đến không phải để giết chết nhưng để cứu sống như lời tiên tri
Isaia: “Cây lau bị dập, Người không bẻ gẫy. Tim đèn leo lét, Người chẳng nỡ tắt
đi”.
Phép rửa của Đức Giêsu
mời gọi ta nhớ lại ơn phép rửa tội của mình. Ngày ta được lãnh nhận Bí tích Rửa
tội, màn đêm tội lỗi vây phủ ta bị xé ra, Ba Ngôi Thiên Chúa đã đến với ta, ban
cho ta cuộc sống thần linh, cho ta được vinh dự làm con Thiên Chúa, cho ta được
kết hiệp mật thiết với Thiên Chúa. Ngày ta được lãnh nhận Bí tích Rửa tội, Chúa
Thánh Thần cũng đã trao cho ta một sứ mệnh, đó là sống xứng đáng một người con
hiếu thảo của Chúa, là tiếp tục công việc của Đức Giêsu trong công cuộc cứu
nhân độ thế. Đức Giêsu là gương mẫu một người con hiếu thảo, vì Người luôn sống
thân mật với Chúa Cha, luôn kết hiệp với Chúa Cha trong kinh nguyện hằng ngày,
và nhất là Người luôn tìm thi hành thánh ý Chúa Cha, Người đã vâng lời Chúa Cha
cho đến chết và chết trên thập giá. Ta hãy noi gương Đức Giêsu, luôn kết hiệp
với Thiên Chúa Ba Ngôi, luôn tìm thi hành thánh ý Thiên Chúa, luôn sống một
cuộc sống tốt đẹp, luôn tích cực góp phần xây dựng xã hội, tạo hạnh phúc cho những
anh em sống chung quanh ta.
Lạy Đức Giêsu Kitô,
xin dạy con biết sống ơn Bí tích Rửa tội như Chúa, để con xứng đáng được làm
con yêu dấu của Đức Chúa Cha.
9. Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Nam
“Con là Con yêu dấu
của Cha, Cha hài lòng về con”
Lễ Chúa Giêsu chịu
phép rửa ở sông Giođan mà Giáo hội mừng kính hôm nay kết thúc mùa Giáng Sinh và
hướng chúng ta về đời sống công khai của Chúa Giêsu. Phụng vụ Lời Chúa trình
bày Đức Giêsu là con yêu dấu của Chúa Cha, được Chúa Thánh Thần tấn phong làm
Đấng Messia, Đấng Cứu Thế, Ngài muốn chia sẻ thân phận con người và muốn liên
đới với loài người tội lỗi, mặc dù Ngài là Con Thiên Chúa: “Con là Con yêu dấu
của Cha”.
Biến cố Chúa Giêsu
chịu phép rửa đã được Tin mừng Nhất lãm Mát thêu, Mác cô, Luca thuật lại. Điều
này nói lên sự quan trọng của biến cố Chúa Giêsu chịu phép rửa sám hối của Gioan
Tẩy Giả.
Đây là một cuộc thần
hiện mạc khải rõ nét nhất về Mầu nhiệm một Thiên Chúa Ba Ngôi. Đức Giêsu chịu
phép rửa xong, thì trời mở ra. Trời mở ra nói lên sự hiện diện uy nghi của
Thiên Chúa. Từ trời có tiếng Chúa Cha tuyên phán: “Con là Con yêu dấu của Cha,
Cha hài lòng vì Con”, và Chúa Thánh Thần lấy hình chim bồ câu đậu trên vai Đức
Giêsu.
Cuộc thần hiện này
cũng xác nhận thiên tính của Đức Giêsu và mạc khải Ngài là Đấng Cứu Độ muôn
dân: “Này là Con ta yêu dấu”.
Mầu Nhiệm Thiên Chúa
Ba Ngôi là Mầu nhiệm quan trọng nhất trong đạo Công giáo và là nền tảng của
niềm tin Kitô giáo. Mầu nhiệm này biểu lộ tình thương của Thiên Chúa: Chúa Cha
tạo dựng nên vạn vật vũ trụ. Chúa Con giáng trần cứu độ nhân loại “Thiên Chúa
yêu thế gian đến nỗi ban Con Một của Ngài”. Chúa Thánh Thần là Đấng thánh hóa
và ban sức mạnh cho chúng ta.
Qua biến cố Chúa Giêsu
chịu phép rửa, Giáo hội hướng người Kitô hữu về hồng ân làm con Chúa qua bí
tích Rửa tội và kêu gọi con cái mình sống ơn làm con Chúa với tâm tình hiếu
thảo đối với Thiên Chúa là Cha như người con đối với ông bà cha mẹ:
- Luôn theo Thánh ý
Thiên Chúa Cha, tuân giữ các điều răn của Chúa: “Ai yêu mến Thầy thì tuân giữ
lời Thầy”.
- Luôn nói có với
Thiên Chúa và nói không với ma quỷ, tội lỗi, điều xấu…
- Tương quan tốt với
Chúa và với mọi người để chúng ta trở nên những người con hiếu thảo, những
người con yêu dấu của Thiên Chúa như Đức Giêsu: “Này là Con Ta yêu dấu đẹp lòng
Ta mọi đàng”.
- Tham gia sứ mạng
loan báo Tin mừng của Chúa giêsu và chu toàn bổn phận Chúa giao phó: Người Kitô
hữu phải chu toàn bổn phận đối với Thiên Chúa và bổn phận của một người công
dân đối với xã hội trần thế “Người Kitô hữu tốt phải là người công dân tốt”
(ĐGH Bênêđictô XVI).
Trong cuốn “Người Lữ
Hành” có một câu chuyện rất hay. Chuyện kể về một gia đình sống ở Luân Đôn
thủ đô nước Anh. Một gia đình công nhân vừa nghèo lại vừa đông con với mười ba
người con. Bố của chúng phải đi làm suốt ngày tại xí nghiệp. Bà mẹ ở nhà làm
nghề phụ và là nội trợ. Dù bận bịu đầu tắt mặt tối suốt ngày đêm, nhưng bà
Vaughan vẫn vui vẻ thay chồng dạy dỗ con cái và nhất là trưa nào bà cũng thay
cho cả gia đình đến với Chúa Giêsu Thánh Thể trong Nhà Tạm. Láng giềng bà quen
biết hỏi bà: “Một bầy con mười ba đứa, bận rộn từ sáng đến tối vậy mà làm sao
trưa nào chị cũng đi chầu Thánh Thể như thế”. Bà tươi cười trả lời: “Thấy một
bầy con lúc nhúc trưa ăn bữa mai đã phải nghĩ đến việc chạy gạo bữa hôm, tôi lo
lắm. Hơn thế chúng nó còn phải đi học. Ở trường thiếu gì những bạn bè xấu rủ rê
chúng đi chơi hoặc giữa đường giữa chợ thiếu gì cảnh nguy hiểm, tôi lại càng
thao thức hơn. Chính vì thế mà mỗi ngày dù bận bịu đến đâu tôi cũng bỏ ra một
giờ để chầu Mình Thánh Chúa, sốt sáng xin Người ban ơn cho vợ chồng tôi nuôi
nấng các cháu hàng ngày dùng đủ và dạy dỗ chúng nên người đạo đức”.
Kết quả thật tốt đẹp.
Chúa đã nhận lời và ân thưởng cho lòng tin cùng sự hy sinh của bà Vaughan.
Trong mười ba người con, một người sau này làm Hồng Y tổng giáo phận Luân Đôn,
một người khác làm Tổng Giám Mục, hai người làm Linh mục, hai nam tu sĩ, hai nữ
tu sĩ, còn năm người nữa ở thế gian lập gia đình, nhưng tất cả đều sống một đời
sống rất tốt lành, thánh thiện.
Người Kitô hữu được
hai hồng ân vĩ đại là được ơn sự sống, được sinh ra và hiện hữu trên đời này
qua trung gian cha mẹ. Được làm người là ân ban vĩ đại của Thiên Chúa. Hồng ân
quan trọng và vĩ đại hơn là được làm con Chúa qua bí tích Rửa Tội, được sống sự
sống của Thiên Chúa Ba Ngôi, sự sống thần linh. Người Kitô hữu thường quên và
lãnh đạm trước ân ban cao quý này. Nên họ không sống đạo tốt, không sống hiếu
thảo với Thiên Chúa là Cha, nghĩa là chưa sống ơn làm con Chúa qua bí tích Rửa
Tội.
Chúng ta cầu nguyện
với Chúa:
“Xin cho con biết luôn
tín thác vào Chúa,
Luôn tìm và thi hành ý
Chúa là điểm tứ của đời con.
Xin giúp con sống trọn
tình con thảo với Chúa là Cha,
Sống vẹn nghĩa huynh
đệ với nhau là anh em một nhà,
Mở rộng lòng bao dung
đồng cảm với mọi người.
Chia sẻ mọi nỗi vui
buồn, lo âu và hy vọng”.
(Kinh Năm Đức Tin)
10. Suy niệm của Lm. Phêrô Lê Văn Chính
Cùng Chết và Phục Sinh
với Đức Giêsu Kitô trong Phép Rửa
Vào các ngày Chúa
nhật, chúng ta vẫn có thói quen rảy nước thánh trong phần thống hối đầu lễ.
Việc rảy nước thánh này nhắc nhở mỗi người bí tích rửa tội mà chúng ta đã lãnh
nhận, lời cam kết của chúng ta muốn thuộc về Chúa, và việc chúng ta được trở
nên con Thiên Chúa nhờ người Con một duy nhất của Thiên Chúa là Đức Giêsu Kitô.
Hơn nữa, ở các nhà thờ người ta vẫn để ở nơi cửa nước thánh để mỗi khi ra vào,
chúng ta đặt ngón tay vào đó và làm dấu thánh giá tuyên xưng mầu nhiệm Ba ngôi,
để nhắc nhở chúng ta bí tích rửa tội mà chúng ta đã được dìm mình vào sự chết
và sự phục sinh của Chúa Giêsu. Ngay cả mỗi khi chúng ta tuyên xưng kinh tin
kính trong thành lễ, đó cũng là lúc chúng ta tuyên xưng lại lời tuyên xưng
trong bí tích rửa tội.
Phép rửa là một Bí
tích khai tâm, bí tích này dẫn người tín hữu vào tương quan sự sống với Thiên
Chúa và với Giáo hội. Phép rửa vừa là một cử hành tuyên xưng và cam kết long
trọng, được cử hành với sự chứng kiến của những người thân yêu. Trong cử hành
này, chúng ta tuyên xưng lời tuyên xưng nguyên thủy: Đức Giêsu Kitô là Con
Thiên Chúa. Lời tuyên xưng nguyên thủy này càng lúc càng được khai triển thành
lời tuyên xưng Ba ngôi, bởi vì Đức Giêsu Kitô là người Con một của Thiên Chúa,
được Chúa Cha sai đến cùng với sức mạnh Thánh Thần luôn hoạt động nơi Đức Giêsu
Kitô. Đồng thời phép rửa luôn được cử hành cùng với nước. Nước là một yếu tố
trong thiên nhiên vũ trụ, nước có dồi dào trên địa cầu,và chúng ta dùng nước
cho đời sống hằng ngày, để tắm rửa cho cơ thể sạch sẽ lành mạnh, để uống bồi
dưỡng cơ thể chúng ta. Và nước cần thiết cho mọi sinh vật chung quanh chúng ta,
nước để tưới cho đồng ruộng và cây cối, trong nước có biết bao nhiêu loài cá
sinh sống là nguồn lương thực dồi dào cho con người. Nước cần thiết cho tàu
thuyền đi lại, nối liền các bờ đại dương, cho con người có thể buôn bán và đi
lại từ những lục địa xa xôi.
Vào thời Chúa Giêsu,
nước đã được dùng trong những nghi thức của các tôn giáo, bởi vì nước được dùng
làm nghi lễ thanh tẩy. Người ta tin rằng khi làm những nghi thức thanh tẩy bằng
nước, người ta được sạch những ô uế mà họ có thể bị lây nhiễm do bởi những tiếp
xúc hằng ngày với những người khác. Thánh Gioan đã rao giảng mời gọi mọi người
thống hối vì Đấng cứu độ gần đến và ông làm phép rửa thống hối bằng nước để mời
gọi mọi người chuẩn bị tâm hồn xứng đáng đón tiếp Đấng cứu độ. Chúa Giêsu cũng
gia nhập vào dòng người để đến lãnh phép rửa của Gioan ở sông Giorđan. Khi cử
hành phép rửa, Gioan cũng giải thích cho mọi người ý nghĩa và tầm vóc của phép
rửa của mình và hướng mọi người đến Đấng quyền năng sẽ đến sau ông và sẽ ban
phép rửa trong Thánh Thần. Như thế, khi cử hành phép rửa trong nước, Gioan đã ý
thức phép rửa ông cử hành chỉ là hình bóng tạm để báo trước một thực tại toàn
vẹn hơn là phép rửa trong Thánh Thần của Đức Giêsu mà mọi người cần phải hướng
về để đón nhận.
Quả đúng như Gioan tẩy
giả dự đoán, Đức Giêsu đã hòa vào dòng người đến xin lãnh phép rửa của
Gioan.Tin mừng theo Mác-cô tường thuật rất vắn tắt việc Đức Giêsu lãnh phép
rửa. Mác-cô không ghi lời đối thoại nào giữa Đức Giêsu và Gioan, chỉ vắn tắt
nói rằng Đức Giêsu đã từ Nazarét xứ Galilê giữa nhiều người và đến xin lãnh
phép rửa của Gioan ở sông Giorđan. Đức Giêsu muốn đón nhận những gì mà Gioan
làm, như thế cũng là đón nhận truyền thống và nhịp sống của do thái giáo, bởi
vì Gioan là hình ảnh của tiên tri Êlia của do thái giáo, những con người hoạt
động mạnh mẽ bởi tác động của Thánh Thần. Và sự kiện trọng đại đã diễn ra, khi
Đức Giêsu vừa bước lên khỏi nước, thì trời mở ra, Thánh Thần dưới hình chim bồ
câu ngự xuống trên người, và có tiếng từ trời tuyên phán Con là Con Cha yêu
dấu, con đẹp lòng Cha. Các Tin mừng rất nhấn mạnh đến phép rửa của Chúa Giêsu
như là khởi đầu cho cuộc đời truyền giảng công khai của Chúa Giêsu. Người được
Chúa Cha xác nhận và giới thiệu cho mọi người cũng như người Con rất yêu dấu,
đầy tràn Thánh Thần, người là Đấng Kitô, được xức dầu để thực hiện công trình
cứu thế cho nhân loại. Sự kiện Đức Giêsu chịu phép rửa ở sông Giorđan mạc khải
căn tính thần linh của Đức Giêsu. Người là Con một yêu dấu của Chúa Cha mà Chúa
Cha rất hài lòng. Việc người lãnh nhận phép rửa không hề thay đổi căn tính thần
linh của người mà còn mạc khải rõ cho mọi người căn tính thần linh này mà Gioan
tẩy giả đã báo trước là người sẽ làm một phép rửa hoàn toàn khác, chính là phép
rửa trong Thánh Thần.
Truyền thống các tiên
tri, đặc biệt tiên tri Isaia (chương 42) đã báo trước về một người tôi tớ đặc
biệt của Thiên Chúa mà Thiên Chúa sẽ ban tặng cho nhân loại, ngay cả nói rõ
người tôi tớ này là người con của Thiên Chúa, được đầy tràn Thánh Thần và làm
đẹp lòng Thiên Chúa trong mọi sự, Người sẽ thi hành việc xét xử muôn dân và
thực thi công trình cứu độ. Mặt khác, người con này rất “hiền lành và khiêm
tốn, không bẻ gãy cây lau đã giập, không dập tắt tim đèn còn khói” nhưng mang
lại “ơn cứu độ và giải thoát cho những người bị giam cầm vì bệnh tật và tù tội,
đem lại công lý trên địa cầu”. Giờ đây, những hình ảnh đã báo trước trở nên
hiện thực một cách rõ rệt nơi Đức Giêsu, người sẽ thực hiện giao ước cứu độ
bằng chính cái chết của người trên thập giá.
Sau khi Chúa Giêsu
Phục sinh, Thánh Phêrô, với những chứng từ trung thực và quan trong mà ông lãnh
nhận, đã bắt đầu rao giảng cho những người do thái và cho mọi người những biến
cố cứu độ mà Thiên Chúa đã thực hiện nơi Đức Giêsu. Đây là những cảm nghiệm
chân thực và sống động muốn được chia sẻ và rao giảng cho hết mọi người thành
tâm thiện chí để họ tin và đón nhận Đức Giêsu, người con một Thiên Chúa ban
tặng. Thiên Chúa đã thực hiện ơn cứu độ, không chỉ dành riêng cho người do
thái, không thiên tư tây vị cho riêng ai, nhưng là một tình yêu dành cho hết
mọi người không phân biệt màu da chủng tộc. Hết mọi người sống đời ngay thẳng,
thực hành sự công chính đều được Thiên Chúa đón nhận khi sai người Con một
Thiên Chúa đến sống và rao giảng giữa mọi người. Đây cũng là điều mới mẽ mà
thánh Phêrô cũng chia sẽ giống với thánh Phaolô qua cách nói của Phaolô, là mầu
nhiệm được giữ kín từ muôn thuở, và giờ đây được mạc khải cho mọi người, tức là
các dân ngoại được trở nên đồng thừa tự, được cùng chung phần vào một lời hứa.
Phần thánh Phêrô, người làm chứng rằng Đức Giêsu, Đấng đã được xức dầu Thánh
Thần tấn phong, đã đi qua mọi nơi mà làm những phép lạ ban bố mọi ơn lành cho
mọi người.
Phép rửa là khởi đầu,
khai mào đời sống nghĩa tử của người tín hữu chúng ta. Cùng với Chúa Giêsu, chúng
ta được trở nên con Thiên Chúa. Phép rửa dẫn chúng ta vào tương quan nghĩa tử
với Thiên Chúa làm cho cuộc đời chúng ta được tràn ngập những quà tặng của
Thánh Thần nâng đỡ cuộc đời trần thế của mình. Cuộc đời của người tín hữu là
một hành trình thực hiện ơn gọi cao cả này, đó là được kết hợp với Đức Giêsu để
sống ngay từ bây giờ tương quan con thảo của Thiên Chúa. Đây là hành trình cao
cả và cũng rất đòi hỏi bởi vì chúng ta được mời gọi kết hợp với mầu nhiệm thập
giá để được cùng chết và cùng phục sinh với Chúa Giêsu. Chúng ta thường nghĩ
rằng phép rửa chỉ là một nghi thức đã qua, một nghi thức thực hiện xong rồi
không cần phải nhớ lại những cam kết này làm gì nữa. Thực ra, phép rửa xác định
căn tính của người kitô hữu, và họ phải cố gắng thực hiện hằng ngày căn tính
này. Phép rửa là một sự dìm mình liên tục và sự đổi mới liên tục để càng lúc
chúng ta càng được trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Giêsu. Có thể nói rằng
chúng ta dùng cả cuộc đời của mình để thực hành sống mầu nhiệm này cũng là căn
tính của cuộc đời kitô hữu của chúng ta. Cả cuộc đời, chúng ta không ngừng được
mời gọi sống trung tín với Thiên Chúa bằng việc không ngừng kết hợp với Chúa
Giêsu nhờ sự thúc đẩy của Thánh Thần mà chúng ta đã lãnh nhận trong phép Rửa.
Phẩm giá của mỗi người thực là cao cả và chúng ta được mời gọi khám phá và sống
căn tính này của mình theo bước chân của Chúa Giêsu.
11. Suy niệm của Lm. Ernest Nguyễn Văn Hưởng
Từ khi xuất hiện trong
hoang địa, Thánh Gioan Tẩy Giả đã gây được một phong trào sám hối trong xứ Do
thái. Đời sống và lời giảng của ông có sức lôi cuốn người ta đến với sông Giođan
để được ông làm phép rửa. Phép rửa của Gioan nhằm giúp con người bày tỏ lòng
hoán cải, để chuẩn bị đón Đấng Mêsia sắp đến (x. Mt 3, 7-12).
Vấn đề là ở chỗ, trong
số những người đến “xưng thú tội lỗi” (Mc 1,5) và chịu “phép rửa sám hối để
được ơn tha tội” (Mc 1,4), lại có Đức Giêsu. Làm sao Đấng thánh thiện, Đấng
quyền thế mà Gioan không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Người, lại có thể đứng
chung với đám đông người tội lỗi, chờ đến phiên mình được chịu thanh tẩy? Đó là
một câu hỏi mà Gioan khó trả lời.
Khi suy niệm về mầu
nhiệm Đức Giêsu chịu phép rửa của Gioan, các giáo phụ đã đưa ra một số lý do để
soi sáng. Đức Giêsu đã lãnh nhận phép rửa trong nước vì:
- Người muốn kêu gọi
những người khác noi theo gương Người mà đến chịu phép rửa do Người thiết lập
sau này.
- Người muốn làm một
hành vi khiêm tốn cho ta noi theo.
- Người muốn công nhận
giá trị phép rửa của Gioan.
- Người muốn lần đầu
tiên ra mắt trước công chúng, để chuẩn bị cho họ nghe Người và theo Người.
- Người muốn thánh hóa
dòng nước sông Giođan và mọi dòng nước khác, để nhờ sự hiện diện và tác động
của Người mà mọi dòng nước có thể trở nên nguồn cứu độ.
Chúa Giêsu chịu phép
rửa thống hối cho thấy Người liên đới với tội nhân, với dân tộc mình, với cả
nhân loại đang cần ơn cứu độ. Con Thiên Chúa không ngại che khuất cái cao sang,
siêu việt và cả sự thánh thiện ngàn trùng của mình để nhờ thái độ tự hạ, tự hủy
này mà Đấng Thánh của Thiên Chúa có thể đứng chung với người tội lỗi, dìm mình
xuống cùng một dòng nước như họ. Điều đó có nghĩa là Thiên Chúa của chúng ta là
một Thiên Chúa khiêm hạ, vì Ngài muốn đi xuống tận đáy vực thẳm nơi chúng ta
đang sống, để nâng chúng ta lên. Chỉ tình yêu mới làm chúng ta hiểu được hành
động của Ngài. Thiên Chúa Nhập thể chính là để liên đới với từng người chúng ta
trong mọi cảnh ngộ của cuộc sống.
Hành động của Chúa
Giêsu hôm nay cho thấy hướng đi cả một cuộc đời của Đức Giêsu. Người bị mang
tiếng là “tay ăn nhậu, bạn bè với quân thu thuế và phường tội lỗi” (Lc 7, 34).
Người đến với những người sống bên lề xã hội và tôn giáo để đưa họ trở về với
thế giới của con người và thế giới của Thiên Chúa. “Tôi đến để kêu gọi người
tội lỗi” (Mt 9, 13).
Thánh Phaolô đã viết
một câu cho thấy Đức Giêsu đã thực sự đồng hóa với thân phận tội nhân đến mức
nào: “Đấng chẳng hề biết tội là gì, thì Thiên Chúa đã làm cho Người thành tội
vì chúng ta” (2C 5, 21). Đức Giêsu đã chết như một người phạm trọng tội, bị
đóng đinh giữa hai tử tội. Người đã đem đến niềm hy vọng cho người trộm lành:
“Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên thiên đàng” (Lc 23, 43).
Khi gắn bó với những người không còn được yêu mến và kính trọng, Đức Giêsu đã
đem đến cho họ một thế giới nồng nàn tình yêu. Trong thế giới này không còn có
hàng rào ngăn cách nhưng chỉ có những tội nhân được Thiên Chúa yêu thương cứu
độ bởi vì Chúa Giêsu là Đấng thánh, Chúa Giêsu không đội trời chung với tội
lỗi, nhưng ngài lại cúi xuống trên tội nhân, và biến đổi họ.
Hành động của Chúa
Giêsu cho thấy rằng nếu chúng ta sợ mình vấy bẩn vì tiếp xúc với người tội lỗi
đó là bởi vì chúng ta chưa thánh thiện thực sự. Ánh sáng không sợ bóng tối làm
mình ra u tối. Ngược lại ánh sáng len lỏi vào mọi ngõ tối của cuộc đời, để làm
cho bóng tối được sáng ngời lên.
Một chi tiết nữa của
bài Phúc âm cũng gợi cho chúng ta sự chú ý là sau khi Đức Giêsu dìm mình trong
dòng nước, thì Người nhận được một thị kiến: các tầng trời xé ra, Thánh thần
ngự xuống, và tiếng phán từ trời. Các tầng trời xé ra là dấu hiệu cho thấy
Thiên Chúa muốn tiếp xúc với con người và thông truyền cho con người một mạc
khải. Đức Giêsu cũng thấy trời mở ra và qua đó thần khí ngự xuống trên mình như
chim bồ câu.
Đức Giêsu được đầy
Thánh Thần. Thánh Thần chính là sự hiện diện của Thiên Chúa xâm nhập vào người
được tuyển chọn, ban cho người ấy dồi dào mọi ơn cần thiết để có thể làm tròn
sứ mạng quan trọng đặc biệt. Được ban Thánh Thần nghĩa là được sai đi. Khi Đức
Giêsu cảm nghiệm được Thánh Thần nơi mình, thì cũng là lúc Người được sai đi để
loan báo Tin Mừng và làm những dấu chỉ cứu độ. Tiếng nói từ trời phản ánh niềm
tin của Hội Thánh nơi của Đức Giêsu. “Con là Con yêu dấu của Cha”. Với câu đó,
Thiên Chúa Cha giới thiệu công khai Chúa Giêsu cho nhân loại và kết thúc luôn
ba mươi năm âm thầm ở Nadarét.
Đức Giêsu chịu phép
Rửa nhưng Người vẫn hướng đến một phép Rửa khác, đó là cuộc khổ nạn Ngài phải
chịu: “Thầy còn một phép Rửa phải chịu, và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho
đến khi việc này hoàn tất” (Lc 12, 50). Như thế mầu nhiệm Chúa Giêsu chịu Phép
Rửa hôm nay nhắc cho chúng ta nhớ đến mầu nhiệm chết và phục sinh. Chúa Giêsu
làm công việc nầy để tỏ lộ công việc cứu thế của Người, tỏ lộ cho nhân loại
thấy bản chất cao cả của Người là con rất yêu dấu của Thiên Chúa, là Người con
luôn sẳn sàng vâng lời thánh ý Thiên Chúa Cha cho đến chết và chết trên thập
giá.
Phép Rửa trên thập giá
là nguồn sống cho mọi phép rửa của các Kitô hữu. Nhờ phép Rửa đó, chúng ta được
trở nên con cái yêu dấu của Thiên Chúa và được tràn đầy Thánh Thần. Chúng ta
nhớ rằng mình là người đã được xức dầu, được mang nến sáng, được mặc áo trắng,
được dìm mình trong nước để rồi được sai ra đi làm chứng cho mọi người nghĩa
sống thực sự như người con được Thiên Chúa yêu mến.
Xin cho chúng ta biết
sống thực sự lý tưởng đó.
12. Sống đẹp lòng Chúa
(Suy niệm của Lm.
Anphong Trần Đức Phương)
Với lễ Chúa Giêsu Chịu
Phép Rửa, chúng ta chấm dứt Mùa Giáng Sinh và bắt đầu Mùa Thường Niên I, chu kỳ
năm B, kéo dài đến Chúa Nhật VII, rồi bước vào Mùa Chay Thánh với Thứ Tư Lễ
Tro.
Bài Đọc I trích trong
Isaia (42, 1-4, 6-7; có thể chọn đoạn 55, 1-11), nói đến ‘Người được Thiên Chúa
tuyển chọn và làm đẹp lòng Chúa trong mọi sự’. Bài Đọc II trích trong Sách Công
Vụ Tông Đồ (10, 34-38; cũng có thể chọn 1Gioan 5, 1-9) nói đến việc Chúa Giêsu
được Thiên Chúa xức Dầu Thánh, được đầy Chúa Thánh Thần và ra đi rao giảng. Bài
Phúc Âm (Matcô 1, 7-11) ghi lại việc Chúa Giêsu đến để chịu Phép Rửa của Thánh
Gioan, và khi Ngài chịu xong, Chúa Thánh Thần tràn ngập trên Ngài, có tiếng từ
Trời cao nói: “Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con.”
Lúc đó là vào khoảng
năm 30 (Lc 3, 23), Thánh Gioan Tẩy Giả đang ban Phép Rửa thống hối tại sông
Giodan (Gioan 1,28) (chỗ gọi là Bêtania phía đông sông Giodan; nơi này khác với
làng Bêtania là quê hương của ba chị em Matta, Maria va Ladarô). Thánh Gioan
kêu gọi mọi người đến chịu Phép Rửa để tỏ dấu ăn năn tội lỗi và sửa lại cuộc
sống, đón chờ Chúa Cứu Thế đến. Chúa Giêsu cũng đến nhận Phép Rửa của Thánh
Gioan. Dịp này, Ngài được Đức Chúa Cha chính thức giới thiệu Ngài là Đấng
‘Thiên Sai’ và Chúa Thánh Thần xuống tràn ngập trên Ngài. Từ nay Chúa Giêsu từ
bỏ cuộc sống 30 năm ẩn dật ở Nagiaret để bắt đầu cuộc sống công khai ra đi rao
giảng.
Phép Rửa Thánh Gioan
ban chỉ là một ‘phép rửa bằng nước’ để tỏ lòng sám hối tội lỗi. Còn Bí Tích Rửa
tội là một trong bảy phép Bí Tích, là ‘phép Rửa Tội trong Chúa Thánh Thần và
lửa!’ (Matthêu 3, 11). Khi chúng ta chịu Phép Rửa Tội là chúng ta được tha tội
nguyên tổ (tội tổ tông truyền) và các tội riêng chúng ta đã phạm (khi chúng ta
chịu vào tuổi đã khôn lớn). Lúc đó chúng ta được ‘chết đi với Chúa Kitô, từ bỏ
đời sống tội lỗi và sống lại thật với Chúa Kitô, trở nên trong sạch xứng đáng
là con Chúa, và chính thức gia nhập gia đình Giáo Hội Chúa, bắt đầu một cuộc
sống mới trong Chúa Thánh Thần, trở nên một chi thể trong Thân Thể Mầu Nhiệm
của Chúa Kitô và cùng góp phần vào việc làm tăng trưởng gia đình Giáo Hội qua
cuộc sống làm chứng cho Chúa” (Theo Sách Giáo Lý). Vì thế, Bí Tích Rửa Tội khởi
đầu cuộc sống Kitô hữu (Bí Tích khai tâm), chỉ sau khi chịu phép Rửa Tội, chúng
ta mới được chịu các phép Bí Tích khác. Bí Tích Rửa Tội ghi dấu thiêng liêng
vào linh hồn chúng ta, không bao giờ mất, nên chỉ được chịu một lần (cũng như
Bí Tích Thêm Sức và Bí Tích Truyền Chức Thánh).
Mừng Lễ Chúa Giêsu
Chịu Phép Rửa là dịp để mọi người chúng ta nhớ lại phép Rửa tội chúng ta đã
được lãnh nhận, để tạ ơn Chúa và cầu xin cho mọi người chúng ta luôn cố gắng
sống xứng đáng con cái Chúa trong gia đình Giáo Hội và luôn sống làm chứng cho
Chúa trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống hàng ngày.
Chúng ta nên nhớ: vào
cuối nghi thức Rửa Tội, vị chủ sự trao cho người vừa được rửa tội Tấm Áo Trắng
(tượng trưng tâm hồn trong sạch qua Bí Tích Rửa Tội) và Cây Nến cháy sáng đốt
từ ngọn lửa của Cây Nến Phục Sinh (tượng trưng Ánh Sáng Chúa Kitô). Khi trao
Tấm Áo Trắng, vị chủ sự nói: “Con đã trở nên một tạo vật mới và đã mặc lấy Chúa
Kitô. Vậy con hãy lãnh nhận áo trắng này, con hãy mang lấy và gìn giữ nó tinh
tuyền cho đến ngày ra trước tòa Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, để được sống
muôn đời.” Khi trao Cây Nến Sáng, vị chủ sự nói với chúng ta: “Con đã trở nên
ánh sáng Chúa Kitô, con hãy luôn luôn sống như con cái Sự Sáng, để được bền
vững trong Đức Tin. Khi Chúa Kitô ngự đến, con sẽ xứng đáng ra nghênh đón Người
cùng với toàn thể các Thánh trên trời.”
Trong nghi thức rửa
tội trẻ em, vị chủ sự trao áo trắng và nói: “Con đã trở nên một tạo vật mới, và
đã mặc lấy Chúa Kitô, chiếc áo này là dấu chỉ tước vị của con. Nhờ lời chỉ bảo
và gương lành của thân nhân giúp đỡ, con hãy mang nó tinh tuyền mãi cho đến cõi
trường sinh.” Và khi trao Nến Sáng (qua cha mẹ đỡ đầu), vị chủ sự nói: Anh chị
em thân mến, là những bậc làm cha mẹ và cha mẹ đỡ đầu, ánh sáng này được trao
phó cho anh chị em chăm sóc, tức là lo lắng cho những em được Chúa Ktô soi
sáng, luôn sống như con cái sự sáng và bền vững trong Đức Tin. Nhờ đó, khi Chúa
đến, các em sẽ được ra nghênh đón Người với toàn thể các Thánh trên trời.” Điều
này nhắc nhở trọng trách của các bậc cha mẹ trong việc giáo dục đức tin cho con
cái khi các em lớn lên; đồng thời cũng nhắc nhở trách nhiệm của các cha mẹ đỡ
đầu. Thật là một vinh dự khi được mời làm cha mẹ đỡ đầu, nhưng đó cũng là một
trọng trách mà cha mẹ đỡ đầu phải lo chu toàn trước mặt Chúa. Chúng ta phải ý
thức bổn phận này khi chúng ta được mời để đỡ đầu cho các tân tòng hay các em
nhỏ khi lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội.
Kết thúc Bí Tích rửa
Tội, trước khi lãnh nhận phép lành, chúng ta cùng nhau đọc Kinh Lạy Cha, để
nhắc nhở chúng ta, qua Bí Tích rửa Tội, chúng ta được vinh dự có Chúa là Cha,
và chúng ta đều là anh em với nhau trong gia đình Giáo Hội. Xin cho chúng ta
luôn hết lòng phụng sự Chúa và yêu thương lẫn nhau để cùng nhau loan truyền cho
mọi người nhận biết Chúa là Cha, và chung tay xây dựng tình yêu thương trong
gia đình nhân loại.
13. Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Chúa chịu phép rửa, cả
trần gian được thánh hóa
Tiếp theo lễ Chúa Hiển
Linh, Phụng vụ của Giáo Hội mời gọi chúng ta cử hành lễ Chúa Giêsu Chịu Phép
Rửa, kết thúc mùa Giáng sinh. Lễ này đã được các Giáo phụ quan tâm đặc biệt
ngay từ những thời kỳ đầu, vì tầm quan trọng đặc biệt có tính cổ thời của nó.
Đây là lễ được mừng sớm nhất, chỉ sau lễ Phục sinh, vì nó bao hàm lời rao giảng
của các Tông Đồ, là điểm khởi hành cho tất cả những việc mà các Tông Đồ phải
làm chứng cho (x. Tđcv 1, 21-22; 10, 37-41). Thứ đến, đây là lần đầu tiên, mầu
nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi được mạc khải một cách đầy đủ và rõ ràng. Lý do nữa là
phép rửa của Chúa Giêsu nơi sông Giordan loan báo trước cho phép rửa bằng Máu
của Chúa trên Thập Giá, và tượng trưng cho toàn bộ những hoạt động có tính cách
bí tích của Đấng Cứu Thế. Để thực hiện ơn cứu rỗi nhân loại, Ngài đặt mình vào
hàng ngũ các tội nhân, mặc dù Ngài là Đấng vô tội, nhưng Ngài đã mang trên mình
tất cả tội lỗi của nhân loại. Hành động khiêm nhường và tự hủy này, đã được
Chúa Cha chứng dám: “Con là Con yêu dấu của Cha, Con đẹp lòng Cha” (Mc 1, 11).
Cùng với Đức Giêsu, Chúa Thánh Thần xuất hiện dưới hình chim bồ câu đậu xuống
trên Người, để chỉ cho chúng ta tín điều Thiên Chúa Ba Ngôi Chí Thánh mà chúng
ta sẽ thấy diễn ra tương tự nơi biến cố Chúa Biến Hình.
Câu hỏi được đặt ra
trước hết là tại sao Chúa Giêsu là Đấng vô tội sao lại đến xin Gioan làm phép
rửa?
Thánh Ghê-gô-ri-ô,
giám mục Na-di-en cho biết: “Có thể là Chúa muốn thánh hoá kẻ sắp làm phép rửa
cho Chúa, nhưng chắc chắn để chôn vùi trọn vẹn con người A-đam cũ trong dòng
nước. Thật vậy, trước khi thanh tẩy ta và để thanh tẩy ta, Chúa thánh hoá sông
Gio-đan; vì Người vừa là thần khí vừa là xác phàm, nên Người cũng muốn nhờ Thần
Khí và nước để đưa chúng ta vào đạo”. Nên dù Gioan làm phép rửa, ông cũng chỉ
là đèn đối với Mặt Trời, tiếng nói với Lời, phù rể đối với Chàng Rể, người cao
trọng nhất trong số những người sinh bởi đàn bà với Trưởng Tử mọi loài thọ
sinh, người nhảy mừng trong dạ mẹ với Đấng được thờ lạy ngay khi còn trong lòng
mẹ, người tiền hô hiện tại và tương lai với Đấng vừa xuất hiện và sẽ xuất hiện.
Quả thật, Gioan biết rằng mình sẽ được thanh tẩy bằng cuộc tử đạo. (Trích bài
giảng của thánh Grêgôriô, giám mục Na-di-en). Thánh Phêrô Kim Ngôn giải thích
rằng, khi Gioan làm phép rửa cho Chúa Giêsu thì: “Tôi tớ đóng vai chủ, con
người đóng vai Thiên Chúa, ông Gio-an đóng vai Đức Kitô; ông đóng vai đó để
lãnh ơn thứ tha chứ không phải để ban phát“. Nên Gioan giảng: “Phần tôi, tôi đã
rửa anh em trong nước, nhưng Người, Người sẽ rửa anh em trong Thánh Thần“ (Mc
1, 8). Đây là phép lạ vĩ đại đã xảy ra sau khi Đấng Cứu Thế chịu phép rửa; phép
lạ này là khúc dạo đầu cho những gì sẽ xảy ra. Đây không phải là Thiên Đàng khi
xưa đóng lại vì tội của Ađam nay mở ra, mà chính trời mở ra: “Khi vừa lên khỏi
nước, Người liền thấy trời mở ra, thấy Thánh Thần như chim bồ câu ngự xuống
trên mình” (Mc 1,10).
Tại sao khi Chúa Giêsu
vừa lên khỏi nước, trời lại mở ra?
Chúa Giêsu vừa bước
lên khỏi nước lúc ấy trời mở ra là Chúa Giêsu nâng thế gian lên cao với Ngài.
Vì xưa kia, khi bị đuổi ra khỏi vườn địa đàng và bị lưỡi gươm lửa cấm đoán,
chính A-đam đã đóng cửa trời lại, không cho mình mà cũng không cho con cháu
vào. Nay nhờ Chúa Giêsu mà cửa trời được mở ra.
Trời mở ra, còn mạc
khải cho Gioan Tẩy Giả và những người Do Thái biết Chúa Giêsu là Con Thiên
Chúa. Theo thánh Gioan Kim Khẩu, điều này muốn dạy chúng ta rằng, một sự tương
tự vô hình cũng xảy ra khi chúng ta chịu Phép Rửa Tội: Chúa Thánh Thần cũng ngự
vào tâm hồn của chúng ta. Ngài không ngự đến một cách hữu hình, bởi vì chúng ta
không cần: đức tin hiện nay là đủ… Thiên Chúa mở cửa trời để kêu gọi chúng ta
hướng về trời, vì quê hương chúng ta là quê trời, và mách bảo chúng ta rằng,
chúng ta không có gì ở dưới đất.
Tại sao Chúa Thánh
Thần lại lấy hình một con chim bồ câu mà hiện xuống?
Lý do là vì chim bồ
câu rất dịu dàng và trong sạch, và Chúa Thánh Thần là thần khí dịu êm và an
bình. Chim bồ câu cũng nhắc cho chúng ta nhớ lại một sự kiện chúng ta đọc thấy
trong Cựu Ước khi trái đất bị ngập do lũ lụt và toàn thể loài người trong nguy
cơ hư mất, chim bồ câu ngậm cành ôlui xuất hiện để báo sự chấm dứt của cơn đại
hồng thủy, tin vui hòa bình cho toàn thế giới. Giờ đây, tất cả những điều này
cũng tiên báo về tương lai. Khi tất cả đã hư mất, nay được giải thoát và đổi
mới, điều gì đã xảy ra khi nước lũ đến ngày hôm nay như là một lũ lụt của ân
sủng và lòng thương xót Chúa… Chim bồ câu, thay vì ngậm một cành ô liu báo cho
Noe là người duy nhất bước ra khỏi tầu để đặt chân lên mặt đất. Nay Chim bồ câu
báo tin trận hồng thuỷ tràn ngập thế gian đã lui đi, thế gian không còn phải
chìm ngập trong cảnh trầm luân muôn đời nữa, phẩm giá ơn gọi làm con Thiên Chúa
của chúng ta được phục hồi, và lôi kéo hết thảy mọi người lên Thiên Đàng.
Lời ngôn sứ nói:
“Tiếng Chúa vang rền trên nước… Tiếng Chúa uy linh tung sấm sét“ (Tv 28). Tiếng
nào vậy? “Này là tôi tớ Ta mà Ta nâng đỡ, là người Ta chọn, Ta hài lòng về
người. Ta ban Thần trí Ta trên người” (Is 42, 1). Đây là tiếng từ trời vọng
xuống để làm chứng cho Đấng từ trời mà đến. Tiếng đó bày tỏ lòng tôn trọng thân
xác dưới hình chim bồ câu, vì thân xác đã được thần hoá, khi Thiên Chúa tự tỏ
mình ra trong thân xác: “Con là Con yêu dấu của Cha; Con đẹp lòng Cha” (Mc 1,
11).
Vậy, phép rửa của Chúa
Giêsu và phép rửa của chúng ta có liên kết chặt chẽ với nhau. Phụng Vụ của ngày
lễ này đã hát lên như sau: “Đức Kitô chịu phép rửa, cả trần gian được thánh
hoá, chúng ta được tha thứ tội lỗi, được thanh tẩy nhờ nước và Thánh Thần”
(Tiền xướng của Kinh Bênêdictus, của Giờ Kinh Sáng). Chúng ta hãy thanh tẩy
mình cho thanh sạch, hãy tiếp tục thanh tẩy cho thanh sạch hoàn toàn và đem
lòng tôn kính mà tưởng niệm ngày Đức Kitô chịu phép rửa, và hãy mừng lễ cách
xứng đáng. Amen.
14. Dòng
sông định mệnh
– Lm. Giuse Đỗ Vân Lực
Có những dòng sông đã
quyết định vận mạng cả dân tộc như Chương Dương, Bạch Đằng. Những dòng sông đã
đưa cả vận nước tiến lên nhờ những phù sa màu mỡ chuyển mạch sống đến cho toàn
dân như Hồng Hà, Cửu Long. Dòng sông đã nổi trôi theo vận nước như Bến hải,
sông Gianh.
Nhưng một dòng sông
chuyển đổi định mệnh cả nhân loại vì đã được diễm phúc ghi dấu hình ảnh Con
Chúa và đón nhận những bước chân rộn rã của đoàn người hành hương tìm về nguồn
ơn cứu độ. Dòng sông trở thành căn cứ xuất phát bước chân Đấng Cứu thế, khi
thấy cảnh trời mở ra vang vọng tiếng Chúa Cha rung chuyển cả đất trời, át hẳn
tiếng người đang thống hối ăn năn. Đó là dòng sông Giođan.
ĐIỂM HỘI TỤ
Ngày ấy mọi người tuốn
đến lãnh nhận phép rửa, đã khuấy đục cả một khúc sông. Thấy từng đoàn dân chúng
tuốn đến, chắc chắn Gioan Tẩy giả nức lòng phấn khởi. Còn gì vui hơn cho một
nhà giảng thuyết! Tất cả đều sám hối, nhưng không hề buồn bã. Sám hối để đón
chờ Đấng Messia thời cánh chung. Họ sống trong niềm hi vọng một cuộc giải thoát
cho toàn dân.
“Hồi ấy, Đức Giêsu từ
Nadarét miền Galilê đến, và được ông Gioan làm phép rửa dưới sông Giođan.” (Mc
1:9) Đức Giêsu đã nhập cuộc với đoàn lũ dân chúng. Người cũng xuống nước xin
Gioan làm phép rửa, không phải để tỏ lòng sám hối, cũng không phải để sống niềm
hi vọng Thiên sai. Vì chính Người là Vị Thiên sai vô tội đến hoàn thành lời
hứa. Người nhập đoàn để đồng hóa với nhân loại tội lỗi. “Thiên Chúa đã biến
Người thành hiện thân của tội lỗi vì chúng ta.” (2 Cr 5,21) Như vậy Người đã
hoàn toàn sát nhập vào gia đình nhân loại.
Từ gia đình thiên
giới, nơi Người sống mật thiết với Chúa Cha và Thánh Linh, Người đã giáng trần
để thực hiện lời hứa xa xưa. Hôm nay xuống sông Giođan chịu phép rửa, Đức Giêsu
đã cho thấy Người thuộc về hai gia đình. Cả hai đã hiệp nhất trong tình yêu,
tình yêu Thiên Chúa nhập thể. Đó là sứ mệnh lớn lao của Người. Người là Chàng
rể đến giới thiệu nàng dâu nhân loại cho Thiên Chúa. Khi lặn ngụp xuống giòng
nước Giođan, Người đem trọn tình yêu của Ba ngôi dìm xuống dòng sông định mệnh
của nhân loại. Nhưng “vừa lên khỏi nước, Người liền thấy các tầng trời xé ra,
và thấy Thần Khí tựa chim bồ câu ngự xuống trên mình. Lại có tiếng từ trời phán
rằng: “Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con.” (Mc 1:11) Chúa Cha đã
xác nhận bản chất Đức Giêsu như “tình yêu Thiên Chúa đến với trần gian.” (KTTƯ
1995:183) Lời xác nhận đó vang lên như thuở mới tạo dựng đất trời, có chim bồ
câu chứng kiến, một biểu tượng thật dễ thương, nhắc đến một cuộc tạo thành mới
bắt đầu với Đức Giêsu (x.KTTƯ 1995:183).
Từ nay tương quan đất
trời hoàn toàn thay đổi nhờ quyền lực Thánh Linh (x.Tt 3,5). Chính nhờ Thánh
Linh, Đức Giêsu đã được xức dầu tấn phong làm Quân Vương cai trị muôn dân, (x.
KTTƯ 1995:183) như Chúa đã hứa: “Ta cho thần khí Ta ngự trên Người.” (Is 42:1)
Nhờ Thần khí, Người trở thành “Tôi Trung của Thiên Chúa có nhiệm vụ rao giảng,
thực hiện công cuộc giải thoát và cứu độ”(KTTƯ 1995:183) cho muôn dân ngang qua
cuộc tử nạn và phục sinh của Người. Bởi đấy khi bị dìm xuống nước, Người như đi
vào cõi chết. Khi “vừa lên khỏi nước”, Người như đi vào cõi vĩnh hằng cùng với
Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Nhưng Người không đi vào một mình. Nhờ Thánh Linh,
ngang qua phép rửa là cái chết của Người, cả nhân loại sẽ cùng thừa hưởng gia
nghiệp Nước Trời với Chúa. Như vậy, “tất cả lời hứa cứu độ trở thành hiện thực
trong phép rửa” (Faley 1994:90).
Chính vì thế, “phép
rửa của Đức Giêsu trong Thánh Thần chỉ toàn thể công trình cứu độ do Đức Giêsu
khai mạc.” (KTTƯ 1995:182) Không có sức mạnh Thánh Linh, nhân loại cũng không
thể gia nhập gia đình Thiên Chúa. Nhờ đó họ trở thành anh em với nhau. Đó là ơn
gọi nguyên thủy của nhân loại.
ƠN GỌI NGUYÊN THỦY
Thế giới hôm nay thu
nhỏ như một ngôi làng. Con người gần gũi nhau hơn bao giờ. Nhưng liệu những
phương tiện truyền thông có đủ năng lực bảo đảm hòa bình cho nhân loại hay
không? Thực ra, thế giới còn nhỏ hơn một ngôi làng. Tất cả nhân loại làm thành
một gia đình, trong đó mọi người đều liên đới với nhau. Nền hòa bình thế giới
sẽ tùy thuộc vào ý thức này. Thật vậy, “thế giới sẽ có hòa bình hay không tùy
theo toàn thể nhân loại có biết tái khám phá ơn gọi nguyên thủy của mình là trở
thành một gia đình duy nhất hay không, một gia đình trong đó phẩm giá và các
quyền con người – bất luận là người thuộc giai tầng, chủng tộc hoặc tôn giáo
nào – được xác quyết là những điều ưu tiên và trổi vượt hơn tất cả những khác
biệt và những đặc tính khác của con người” (“Sứ Điệp Hòa Bình”; VietCatholic
1999:3).
Nếu thế, chiến tranh
phát sinh từ lòng dạ hẹp hòi, ích kỷ của con người muốn tách mình ra khỏi gia
đình duy nhất đó. Một khi chỉ biết tới quyền lợi riêng tư, người ta có thể chà
đạp nhân phẩm kẻ khác. Thực tế, “những bất công, chênh lệch thái quá trong lãnh
vực kinh tế hoặc xã hội, sự ghen tương, nghi kỵ và kiêu ngạo tác hại giữa con
người và các quốc gia, không ngừng đe dọa hòa bình và gây ra chiến tranh.” (“Sứ
Điệp Hòa Bình”; VietCatholic 1999:6) Đó là một thế giới không ai biết đến ai.
Hòa bình chính là kết quả của tinh thần liên đới trách nhiệm và chia sẻ quyền
lợi cho nhau. Ngày nay nhờ “tiến trình hoàn vũ hóa, người ta có được những cơ
hội đặc biệt và đầy triển vọng để biến nhân loại thành một gia đình duy nhất
thực sự, dựa trên những giá trị công bằng, ngay chính và liên đới” (“Sứ Điệp
Hòa Bình”; VietCatholic 1999:3).
Nếu được xây dựng và
mô phỏng trên tương quan giữa Ba Ngôi, tình liên đới đó chắc chắn sẽ tìm được
sức sống mới. Vì nơi Ba Ngôi Thiên Chúa, tình yêu vô cùng phong phú và mãnh
liệt. Người muốn chia sẻ đến tận cùng tình yêu đó cho nhân loại. Thật vậy,
“Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một,” (Ga 3:16) để con người có thể
sống ơn gọi nguyên thủy bắt nguồn từ chính tình yêu Thiên Chúa. Nếu không sống
tương quan với người khác như một gia đình, con người sẽ đánh mất vẻ tươi đẹp
nhất, vì “Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh Thiên Chúa.” (Stk 1,27)
Không phải chỉ giống Thiên Chúa trong bản chất, nhưng cả trong tương quan nữa.
Đó chính là nền tảng ơn gọi nguyên thủy của con người. Từ đó sứ mệnh con người
được hoàn thành trong nỗ lực liên đới với anh em. Liên đới với anh em chính là
đi vào tương quan với Thiên Chúa.
Tương quan thật sâu xa
đó đã được thiết lập khi Đức Giêsu dìm mình trong dòng sông Giođan. Dòng sông
định mệnh đó đã nối kết gia đình nhân loại với gia đình Thiên Chúa nhờ thần lực
của Con Thiên Chúa làm người. Dòng nước thanh tẩy cũng đã trả lại cho chúng ta
mối tương quan thâm sâu và vô cùng ý nghĩa đó. Nếu thực sự đang sống trong
tương quan với anh em, chúng ta có sẵn sàng cộng tác với người khác để xây dựng
cộng đoàn không? Chúng ta có tôn trọng nhân phẩm và tạo điều kiện cho người
khác phát triển không? Thời cánh chung đã điểm khi Đức Giêsu xuất hiện trong
dòng sông định mệnh Giođan. Bạn còn đợi tới bao giờ mới thiết lập tương quan
với Thiên Chúa và anh em trong tiến trình đi lên hôm nay?
15. Con
Yêu Dấu Của Cha
Lễ Chúa Giêsu chịu
Phép Rửa chấm dứt mùa Giáng Sinh, bước vào Mùa Thường Niên phần I. Mùa Thường
Niên là thời kỳ kính mầu nhiệm Chúa Giêsu ở trần gian. Mùa Thường Niên gồm có
34 Chúa nhật, chia làm hai phần, phần I trước Mùa Chay và phần II sau Mùa Phục
Sinh. Sau chu kỳ lễ Giáng Sinh, Chúa Giêsu công khai đi vào đời sống họat động
rao giảng tin mừng. Để lời Người rao giảng được thiên hạ chấp nhận, Đức Giêsu
được Chúa Cha giới thiệu về thân thế và sự nghiệp. Lời giới thiệu này đánh dấu
khởi đầu Nước Trời đã khai mở. Khung cảnh ra mắt Đức Giêsu là sông Giođan.
Chúng ta tìm hiểu về thân thế và sự nghiệp của Người.
Khung cảnh được chọn
để giới thiệu Con Thiên Chúa là thiên nhiên hùng vỹ có núi đồi bao la có con
sông duy nhất chảy từ Bắc xuống Nam. Hiện tượng xảy ra vắn gọn, sau cuộc trao
đổi ngắn giữa Vị tiền hô và Đức Giêsu, Gioan Tẩy Giả thi hành sứ mệnh làm phép
rửa cho Đức Giêsu nơi sông Giođan, và nầy điều kỳ diệu xảy ra: “Vừa lên khỏi
nước, Người liền thấy các tầng trời xé ra, và thấy Thần Khí như chim bồ câu ngự
xuống trên Người. Lại có tiếng từ trời phán: ‘Con là Con yêu dấu của Cha. Cha
hài lòng về Con’” (x. Bài Tin Mừng. Mc 1, 7-11). Những lời nói nầy rất cô đọng,
súc tích, đượm suy tư thần học Cựu Ước. Các nhân vật chính trong buổi lễ ra mắt
đó: Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh thần, trước sự chứng kiến của đông đảo
nhân chứng và Vị tiền hô, nơi thiên nhiên hoang vắng trời cao, sông dài, núi
đồi hùng vỹ, tất cả cho thấy sự hoà điệu giữa thiên, địa, nhân hòa hợp. Chúng
ta ta lưu ý đến cụm từ:
“Trời xé ra”, theo người Do thái
thì trời là nơi Thiên Chúa ngự, đã khép lại vì tiên tri không còn nữa, không
còn sự liên hệ giữa trời và đất nữa, nhịp cầu đã gãy giữa Thiên Chúa và lòai
người. Nay thì trời mở ra, sự liên lạc giữa Thiên Chúa và con người được nối
lại nơi bản thân của Đức Giêsu, việc này đáp lại lời cầu xin của Isaia trong
thời lưu đày, ông cảm thấy Đức Chúa xa cách con người, nên ông lên tiếng nói:
“Ước gì Đức Chúa xé trời và ngự xuống”. Chúng ta nhớ lại sự kiện khi Chúa chết:
“Màn trong đền thờ xé ra làm hai từ trên xuống dưới” (Mc 15, 38). Một sự khai
mở thông lưu giữa Thiên Chúa và nhân loại. Con Thiên Chúa đến với trần gian và
chính Ngài mở một lối đi cho hết mọi người thành tâm đến với Thiên Chúa. Sự
kiện này được tiên báo nơi sông Giođan: “Trời xé ra”, Thiên Chúa ngự xuống với
con người. Nhịp cầu gãy vì tội nguyên tổ được nối lại. Đức Giêsu là trung gian
duy nhất mang ý nghĩa tròn đầy.
“Thần khí như chim bồ
câu ngự xuống trên người ”. Thần Khí ngự xuống trên ai thì người đó được chọn làm người của
Thiên Chúa. Ngôn sứ sống dưới tác động của Thần Khí. Ở đây Đức Giêsu được chỉ
định làm Ngôn Sứ cho thời đại mới mà truyền thống Do thái hằng mong đợi.
“Lại có tiếng từ trời
phán: ‘Con là Con yêu dấu của Cha. Cha hài lòng về Con’”. Tiếng từ trời là
tiếng của Thiên Chúa, nghĩa là Thiên Chúa chứng thực sứ mạng cứu độ của Đức
Giêsu. Một câu nói tương tự trong Thánh vịnh 2, 7: “Con là Con của Cha, hôm nay
Cha đã sinh ra Con”, câu này được được hiểu về Đấng Mêsia, tức là Đấng Cứu
tinh. “Con yêu dấu” là cách gọi của ông Ápraham đối với con mình là Ixaác, khi
ông định sát tế con để hiến dâng cho Thiên Chúa, Thiên Chúa đã tha mạng cho Ixaác.
Danh xưng này được dùng cho Đức Giêsu, như là Ixaác Mới sẽ bị sát tế sau này
trên thập giá.
Thân thế và sự nghiệp
của Đức Giêsu được ám tàng nói đến trong lời giới thiệu ngày Chúa chịu phép rửa
nơi sông Giođan, một tấn kịch đang được khai mở và dần dần sẽ được thực hiện
trong năm phụng vụ. Về thân thế, Đức Giêsu là Con yêu dấu của Thiên Chúa, được
Cha tuyển chọn dưới tác động của Thần Khí để trở thành Ixaác-Mới; và sự nghiệp
của Người là cứu độ trần gian bằng chịu sát tế trên thập giá, làm lễ vật hy sinh
dâng cho Thiên Chúa, nối lại nhịp cầu gãy đổ do tội lỗi của nhân lọai gây ra.
Lời giới thiệu trân trọng này của Chúa Cha dưới sự chứng giám của Thánh Thần
giúp chúng ta xác tín mạnh mẽ những lời Chúa nói và những việc Chúa làm, được
Giáo Hội tuyên dương trong suốt Mùa Thường Niên.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa
đã mặc lấy thân phận tội lỗi của nhân loại để cứu độ nhân lọai, chúng con tri
ân cảm tạ Chúa. Xin cho con biết giới thiệu Chúa cho tha nhân qua cuộc sống của
chúng con. Amen.
16. Con
yêu dấu – Lm
Luy Nguyễn Quang Vinh
Chúng ta không còn ở
trong những trang Tin Mừng nói được là “thơ mộng” của thời thơ ấu Chúa Giêsu,
vì có những vì sao và tiếng hát các thiên thần. Chúa Giêsu đã chấm dứt 30 năm
cuộc sống ẩn dật của Ngài tại Nagiarét. Hôm nay, chúng ta được thấy Ngài xuất
hiện trước công chúng trong tư thế sẵn sàng khởi đầu sứ vụ Chúa Cha đã trao cho
Ngài.
Cả ba bài đọc của Lễ
Chúa Giêsu chịu Phép Rửa hôm nay đều nhằm giới thiệu với cộng đoàn: Chúa Giêsu
chính là Người Con được Chúa Cha quý mến. Bài đọc 1 trình bày Chúa Giêsu là
người được Thiên Chúa nâng đỡ, tuyển chọn và quý mến. Trong bài đọc 2, Thánh
Phêrô làm chứng Thiên Chúa luôn ở với Ngài và trong bài Tin Mừng, chúng ta được
nghe tiếng từ trời phán về Ngài: “Con là con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về
Con”.
Những khẳng định trên
đây về Chúa Giêsu lại càng làm cho chúng ta ngỡ ngàng trước việc Ngài để cho
ông Gioan làm Phép Rửa cho Ngài tại sông Giođan. Chúa Giêsu chịu Phép Rửa như
một người tội lỗi, trong khi Ngài là Người Con yêu dấu của Chúa Cha và chính
Ngài cũng có lần tuyên bố: “Ai trong các ông bắt tội lỗi tôi được về tội gì?”…
Nhưng Chúa Giêsu lại là Đấng chuộc tội thiên hạ. Gioan Tẩy Giả cũng có lần giới
thiệu Ngài là “Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian”. Ngài xóa tội trần
gian bằng cách gánh lấy tội trần gian, một cử chỉ mở đầu sứ vụ công khai của
Chúa Giêsu, đồng thời cũng là dấu báo hiệu những gì sẽ xảy ra. Có một lần, các
con ông Giêbêđê bày tỏ ước vọng với Chúa Giêsu là một người ngồi bên tả, một
người ngồi bên hữu của Ngài. Và Chúa Giêsu đã trả lời các ông: “Các ông không ý
thức được điều các ông xin. Các ông có thể uống được chén tôi phải uống và chịu
thanh tẩy, thứ thanh tẩy tôi phải chịu không?”. Như vậy là còn một cuộc thanh
tẩy khác nữa đang chờ đợi Chúa Giêsu. Cuộc thanh tẩy ấy không chỉ còn là bằng
nước của sông Giođan và từ tay ông Gioan Tẩy Giả mà là bằng Máu của chính Ngài,
được sống lại trong Phục Sinh của Ngài và trở thành người con của Thiên Chúa.
Nếu Đức Kitô đến để
thanh tẩy loài người bằng Thánh Thần, thì điều đó đã được thực hiện cho người
Kitô hữu trong bí tích Thanh Tẩy. Khi được Rửa Tội, chúng ta cũng được Chúa Cha
tấn phong và giới thiệu với thế gian rằng: “Đây là Con Ta rất yêu dấu”. Ơn gọi
làm con Thiên Chúa không những không phủ nhận hay loại trừ ơn gọi làm người,
nhưng còn giúp chúng ta đảm nhận ơn gọi ấy nữa. Được phúc làm con Thiên Chúa,
chúng ta không được đưa ra khỏi thế gian hay được miễn khỏi mọi bổn phận trần
thế. Ngược lại, chính trong thế giới và nhân loại này mà chúng ta phải thể hiện
ơn gọi làm con Thiên Chúa, chính thế giới và nhân loại này mà chúng ta được
tuyển chọn làm con Thiên Chúa.
Nhờ Thánh Thần được
ban trong bí tích Thanh Tẩy, mỗi người chúng ta trở nên giống Chúa Kitô, nên
một với Ngài và cùng mang trách nhiệm của Ngài. Sứ mạng của Ngài trở thành của
chúng ta và công việc của Ngài phải là công việc của mọi Kitô hữu. Nếu Chúa
Giêsu đã liên kết với con người tội lỗi, để giải thoát con người khỏi tội lỗi,
thì chính người được Rửa Tội vẫn phải tiếp tục sống giữa anh em mình, và không
được quên trách nhiệm đấu tranh chống lại tội lỗi và chiến thắng sự dữ. Bí tích
Thanh Tẩy không thể chỉ là một nghi lễ lãnh một lần rồi thôi mà phải là chính
cuộc sống từ bỏ và đẩy lui mọi tội lỗi. Bản thân người Kitô hữu phải chiến
thắng tội lỗi để thực sự là một trong “những kẻ được sáng”, hầu có thể trở
thành ánh sáng chiếu soi muôn dân.
Qua Bí tích Thanh Tẩy,
chúng ta đã là Kitô hữu và là con Thiên Chúa. Thế nhưng chúng ta còn phải trở
thành Kitô hữu, nghĩa là mỗi ngày trong cuộc đời còn phải nên giống Chúa Kitô
hơn cho tới khi được đồng hình đồng dạng với Ngài.
Muốn trở thành Kitô
hữu như thế, phải tin tưởng và gắn bó với Đức Kitô, luôn sống thân tình với
Ngài, lắng nghe và tuân giữ lời Ngài như Chúa Cha đã long trọng và ân cần nhắn
nhủ.
Thánh Thần, Đấng đã
hiện diện nơi con người Đức Giêsu để biến Đức Giêsu thành Con Chí Ái của Chúa
Cha, sẽ hoạt động nơi tâm hồn mỗi người để làm cho mỗi người nên giống Đức
Kitô, dạy chúng ta biết thế nào để trở nên Con Thiên Chúa trong Đức Kitô. Nhờ
Thánh Thần, lời cầu nguyện của người Kitô hữu trở thành lời kêu lên của người
con đối với Cha mình và kết hợp sâu xa với lời cầu nguyện của Đức Giêsu. Nhờ
sức mạnh của Chúa Thánh Thần, người tín hữu can đảm để tha thứ cho kẻ thù,
thích thú khi sống đời yêu thương và phục vụ như Đức Giêsu đã sống.
Thánh Thần được ban
cho chúng ta trong Bí tích Thánh Tẩy còn giúp chúng ta trung thành với Đức
Kitô, nhất là trong trách nhiệm thiết lập công lý khắp nơi và trở thành ánh
sáng muôn dân.
Chúng ta là con Thiên
Chúa và muốn luôn làm con Thiên Chúa bằng việc chiến thắng tội lỗi và làm sáng
tỏ công lý. Nhưng hoàn cảnh khắc nghiệt về vật chất cũng như tinh thần, có thể
sẽ đè bẹp chúng ta, lôi cuốn chúng ta đồng lõa với sự bất công, hoặc có thể làm
cho chúng ta nhụt chí, buông xuôi, đầu hàng sự ác.
Lúc đó, chúng ta hãy
nhớ rằng, ngay giữa cuộc đời, Đức Giêsu vẫn hiện diện ở đó giống như xưa Ngài
đã từng hòa lẫn với giòng người tội lỗi ở bờ sông Giođan. Đức Giêsu hiện diện ở
đó để giữa tăm tối của cuộc sống, trời vẫn xé ra, hồng ân Thánh Thần vẫn đổ
xuống, và Chúa Cha vẫn vui mừng nói với từng người trong chúng ta như đã nói
với Chúa Giêsu rằng:
“Đây là Con yêu dấu
của Cha, Cha hài lòng về Con”.
17. Đi tìm tâm điểm
(Trích trong ‘Lương
Thực Hằng Ngày’)
Những lời chú giải
thông thái về đoạn Phúc âm này ám chỉ những giai đoạn trong Cựu Ước nói đến
nước và Thần trí. Một trong những lời chú giải nhấn mạnh rằng nước biểu tượng
cho khả năng tiếp thu của loài người đối với tác động của thần trí. Phép rửa
bằng nước do Gioan Tẩy Giả tượng trưng cố gắng của con người tiến đến Thiên
Chúa, nhưng cố gắng ấy không thể tự nó tới được đích Con người chỉ gặp được
Thiên Chúa, nếu Thiên Chúa đến với con người. Đấy là ý nghĩa phép rửa trong
Chúa Thánh Thần. Đức Giêsu muốn thực hiện trong nhân vị mình sự chuyển động con
người đến với Thiên Chúa (Phép rửa do Gioan Tẩy Giả) và sự chuyển động Thiên
Chúa đến với con người (Chúa Thánh Thần ngự xuống trên Đức Giêsu) phép rửa bằng
nước biểu tượng cho cố gắng con người dọn mình chịu phép Rửa trong Thần Trí, mà
Thần Trí là sự Chúa đến. Thiên Chúa là nguồn gốc cảm hứng và sức hậu thuẫn cho
sự trở lại của con người, và bởi ơn Chúa Thánh Thần linh ứng chỉ đạt tới đích
nếu Thiên Chúa đến với con người và dẫn dắt con người từ bình diện nhân tính
tiến lên bình diện thần tính. Ta có thể nói rằng trong nhân vị Đức Giêsu, con
người hướng đến Thiên Chúa, và Thiên Chúa đến gặp con người. Đức Giêsu thực
hiện điều ấy với một sức sống và một sự viên mãn vượt khỏi trí tưởng tượng của
chúng ta. Tuy nhiên chúng ta có thể kết luận: Do sự tham gia sống động của ta
vào mầu nhiệm Đức Giêsu mà ta hướng về Thiên Chúa và Thiên Chúa đến với ta.
Đoạn Phúc âm hôm nay có thể gợi ý vài suy niệm về giá trị cố gắng trở lại và ý nghĩa
hoạt động tông đồ của chúng ta.
1) Giá trị cuộc đời
Kitô hữu là ở sự gặp gỡ của chúng ta với Thiên Chúa trong Đức Kitô. Một sự trở lại mang
tính chất Kitô giáo mà tự hạn chế trong những việc lành phúc đức dù cao cả tới
đâu cũng không đủ giúp người ta đạt tới phẩm giá làm con Thiên Chúa. Thế mà tất
cả ý nghĩa sứ điệp Phúc âm là ở chỗ loan báo cho con người thiên chức làm con
Thiên Chúa. Người Kitô hữu đích thật là người tìm kiếm sự gặp gỡ sống động với
Đức Kitô, mà người Kitô hữu đến lượt mình trở nên con Thiên Chúa và gặp Thiên
Chúa như thể gặp người cha vậy. Thực tế, biết tìm Đức Kitô ở đâu? Gặp Người
nhiều nhất là trong Phúc âm, trong Giáo Hội, trong các bí tích, trong niềm
thương yêu anh em. Đời sống luân lý mà vắng thiếu sự đi tìm tâm điểm để gặp Đức
Kitô, thì không phát huy hết giá trị, lại có thể xuống giá nữa. Trong cố gắng
tham dự đời sống Đức Giêsu, người Kitô hữu tìm được cho đời mình ý nghĩa và giá
trị thật sự.
2) Hoạt động tông đồ
có tham vọng giúp người ta chuẩn bị gặp gỡ Đức Kitô. Bất cứ người làm việc
tông đồ nào cũng giống Gioan Tẩy Giả, đều đóng vai tiền hô. Nhiệm vụ người ấy
là dọn dẹp, khai quang, soi sáng, hướng dẫn. Niềm xác tin cơ bản của người tông
đồ phải là làm thế nào để kết quả chung cục rời khỏi tay mình, vì lẽ kết quả
sau hết đó là sự Thiên Chúa ngự đến trong một con người. Điều đó tuỳ thuộc
Thiên Chúa. Để biểu lộ thái độ khiêm nhường, bằng một sự nhận thức về thực tại,
người tông đồ hoạt động, hy sinh, cầu nguyện, hiến dâng tất cả sức lực, tất cả
thân mình cho một công việc của Thiên Chúa. Do đó người ta hiểu rằng chiến sĩ
Kitô hữu không hoạt động cho Đấng thần hoá những gì thuộc về nhân thế. Điều này
đem đến cho cố gắng tất cả ý nghĩa và đặt cố gắng lên trên cái điều xét bề
ngoài có thể coi là thất bại hoặc thành công. Một điều chắc là việc tông đồ mà
linh hồn và tâm điểm là Đức Giêsu Kitô – luôn luôn đem về cho người hoạt động
tông đồ một thành công hiển nhiên hoặc giấu kín.
18. Sống đời Kitô hữu – Noel Quesson
“Con là Con yêu dấu
của Cha, Cha hài lòng về con”.
Tại một xứ cùng quê
nước Pháp, có một người đàn ông khoảng 50 tuổi tên là Alix. Ông bị bại liệt.
Mỗi buổi sáng bà vợ đặt ông vào một ghế bành ngoài hiên nhà rồi đi làm. Ông bà
không con, không cháu.
Ông Alix không phải là
người công giáo, nhưng thỉnh thoảng cha sở vẫn tới thăm, cha còn khuyên giáo
dân tới giúp đỡ ông. Các em nhỏ tới chơi quanh ông, đem sách cho ông đọc và
giúp ông mở sách. Mỗi tuần có một bác sĩ tình nguyện tới chăm sóc ông.
Giáng sinh năm đó, ông
Alix đột ngột thưa cha sở:
- Thưa cha, xin cha
cho con rước lễ.
Cha sở ngạc nhiên vì
ông chưa là tín hữu. Nhưng ông thưa:
- Trước đây con không
tin gì vào Thiên Chúa, nhưng ít lâu nay cha và anh em giáo hữu quá tốt với con
nên con thấy hạnh phúc như mình được gặp Chúa vậy. Chỉ có Chúa mới làm cho cha,
bác sĩ và anh chị em bỏ công sức giúp đỡ một người xa lạ như thế này.
Có lẽ chúng ta cũng
nhận ra cha sở và các anh chị em giáo hữu Pháp đó, không phải đã làm một việc
truyền giáo vĩ đại, nhưng họ chỉ thi hành những bổn phận mà Chúa đòi buộc mọi
môn đệ Chúa, khi đã tự nguyện sống theo giáo lý của Ngài. Ngược lại nếu không
thi hành những nghĩa vụ nhỏ bé đó thì họ không thể là môn đệ Chúa được.
Tin Mừng hôm nay kể
chuyện Chúa chịu phép rửa. Dĩ nhiên Chúa không cần chịu phép rửa vì Ngài hoàn
toàn trong sạch. Nhưng Chúa chịu phép rửa để làm gương cho chúng ta. Để chúng
ta thấy một khi chúng ta biết chuẩn bị tâm hồn và lãnh nhận bí tích Rửa Tội, bí
tích Thêm Sức, thì các bí tích đó sẽ cho ta ân sủng đặc biệt, đặt ta vào địa vị
môn đệ Chúa với những nghĩa vụ nặng nề.
Khi Chúa chịu phép
rửa, bầu trời đã mở ra. Thánh Thần hiện xuống dưới hình chim câu, có tiếng từ
trời: “Đây là Con Ta yêu dấu”. Cha đặt cả tình yêu nơi Con. Từ giờ phút đó Chúa
Giêsu bắt đầu cuộc đời công khai. Chúa xuôi ngược khắp nơi trên toàn cõi
Israel, rao giảng Tin Mừng cứu độ, chữa lành bệnh nhân, tuyển chọn và huấn
luyện các tông đồ, đặt nền tảng cho Giáo Hội tiếp nối sứ mệnh Chúa nơi trần
gian, để bảo toàn và làm triển nở hạt giống Tin Mừng. Cuối cùng Chúa tạo dựng
kho tàng Ơn Cứu Độ bằng cái chết vô cùng đau khổ như một bằng chứng tình yêu
cao cả và nồng thắm của Thiên Chúa đối với người thế qua mọi thời đại.
Những hiện tượng lạ
xảy ra khi Chúa chịu phép rửa ở sông Giođan, chúng ta không thấy nữa khi một
tân tòng lãnh nhận phép rửa hay một Kitô hữu lãnh bí tích Thêm Sức, nhưng phép
Rửa Tội và bí tích Thêm Sức chúng ta cử hành ngày nay là những bí tích đã được
Đức Kitô thiết lập và củng cố, những bí tích đó phát sinh cùng một công hiệu
như xưa, và cũng trao cho chúng ta sứ mệnh như xưa. Đó là Ơn Thánh Thần và sứ
mệnh truyền giáo.
Văn sĩ Anrê Manrô
(André Malraux) viết: “Thế kỷ 21 là thế kỷ Kitô giáo hoặc sẽ bị tiêu vong”. Sứ
mệnh đó trao phó cho chúng ta, cho mỗi Kitô hữu. Chỉ khi nào chu toàn sứ mệnh
đó chúng ta mới xứng đáng là môn đệ Đức Kitô.
Lạy Chúa, xin tràn đổ
Thánh Thần trên chúng con, đổi mới chúng con, nhờ Ngài chúng con trở nên chứng
nhân của Chúa.
19. Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
SỨ MỆNH CỦA NGƯỜI ĐÃ
CHỊU PHÉP RỬA TỘI
1) Hình ảnh về một
Đấng Cứu Thế khiêm nhường tự hạ
Trong khi dân Do Thái
mong chờ một Đấng Cứu Thế oai phong lẫm liệt, thì Đức Giêsu xuất hiện công khai
lần đầu tiên trong sự khiêm nhường thống hối. Lúc ấy, Gioan rao giảng sự ăn năn
sám hối. Đoàn lũ dân chúng đông đảo kéo đến với ông để xin chịu phép rửa thống
hối. Hòa mình vào đoàn lũ những con người tự nhận mình tội lỗi ấy, Đức Giêsu âm
thầm khiêm tốn xếp hàng chờ được rửa tội. Thật là lạ lùng. Chính Đấng đã thánh
hóa Gioan khi ông còn trong bụng mẹ giờ đây lại đến xin ông làm phép rửa cho.
Chính Đấng đến để chuộc tội loài người giờ đây lại xin người khác rửa tội cho
mình. Thật là khiêm nhường thẳm sâu. Trong khi loài người tội lỗi luôn kiêu ngạo
tìm nâng mình lên thì Thiên Chúa thánh thiện lại tìm hạ mình xuống. Trong khi
loài người tội lỗi luôn che dấu, không nhận tội thì Thiên Chúa vô tội lại công
khai nhận mình tội lỗi. Trong khi loài người tội lỗi tìm tránh hình phạt do tội
lỗi họ gây nên thì Thiên Chúa lại ghé vai gánh lấy hết tội lỗi và mọi hình phạt
mà loài người đáng phải chịu. Sự khiêm nhường ấy phát xuất từ lòng Thiên Chúa
yêu thương con người, muốn chia sẻ kiếp người, muốn cứu chuộc tội đời, muốn
thăng tiến nhân loại.
2) Hình ảnh về cuộc
giao hòa đất trời
Chính lúc Đức Giêsu tự
nguyện gánh lấy tội lỗi nhân loại, tầng trời bị xé ra. Khi loài người phạm tội,
cửa trời đóng lại, đất trời phân ly, ân phúc thôi tuôn đổ. Khi phạm tội, loài
người tự giam mình trong bóng tối. Bóng tối tội lỗi giam kín con người trong
thân phận bụi đất, không còn hy vọng vươn lên. Hôm nay, tầng trời xé ra có
nghĩa là từ nay con người đã có lối thoát. Thân phận con người thay đổi, địa vị
con người được nâng lên, vì có ơn Thiên Chúa đổ xuống, có Thiên Chúa đến gieo mầm
trường sinh vào kiếp người phàm hèn. Trời đất giao hòa. Thiên giới cúi xuống hạ
giới. Thiên Chúa đến ở với con người. Ân phúc tuôn đổ xuống cõi đời nhơ uế.
3) Hình ảnh về sự kết
hiệp mật thiết giữa Ba Ngôi Thiên Chúa.
Trong giây phút cảm
động ấy, cả Ba Ngôi Thiên Chúa cùng xuất hiện. Chúa Thánh Thần như chim bồ câu
đáp xuống. Chúa Thánh Thần là tình yêu. Chúa Thánh Thần ngự xuống trên ai là
dấu chỉ Thiên Chúa ưu ái người ấy. Đức Chúa Cha công khai xác nhận sự ưu ái ấy
với Đức Giêsu khi lên tiếng: “Đây là Con Ta yêu dấu”. Đức Giêsu là Con Thiên
Chúa. Đây không phải là một danh xưng, một tước vị, nhưng là một liên hệ sâu xa
mật thiết: Ba Ngôi liên kết trong một tình yêu hiệp thông. Đức Giêsu hoạt động
dưới tác động của Chúa Thánh Thần để thi hành thánh ý Chúa Cha. Có thể nói cả
Ba Ngôi đều hoạt động trong Đức Giêsu Kitô. Cả Ba Ngôi đều tham gia vào công
trình cứu chuộc con người.
4) Hình ảnh về sứ mệnh
người được sai đi.
Từ xưa trong Cựu Ước,
Chúa Thánh Thần ngự xuống là để trao ban một sứ mệnh. Hôm nay, Đức Giêsu cũng
đã nhận lãnh một sứ mệnh, đó là cứu nhân độ thế. Là “mở mắt cho người mù”, là
“đưa ra khỏi tù những người bị giam giữ”, là “dẫn ra khỏi ngục những kẻ ngồi
trong bóng tối tăm”. Người không đến trong thái độ phô trương quyền lực, nhưng
đến trong sự hiền lành khiêm nhường. Người đến không phải để lên án nhưng để
tha thứ. Người đến không phải để giết chết nhưng để cứu sống như lời tiên tri
Isaia: “Cây lau bị dập, Người không bẻ gẫy. Tim đèn leo lét, Người chẳng nỡ tắt
đi”.
Phép rửa của Đức Giêsu
mời gọi ta nhớ lại ơn phép rửa tội của mình. Ngày ta được lãnh nhận bí tích Rửa
Tội, màn đêm tội lỗi vây phủ ta bị xé ra, Ba Ngôi Thiên Chúa đã đến với ta, ban
cho ta cuộc sống thần linh, cho ta được vinh dự làm con Thiên Chúa, cho ta được
kết hiệp mật thiết với Thiên Chúa. Ngày ta được lãnh nhận bí tích Rửa Tội, Chúa
Thánh Thần cũng đã trao cho ta một sứ mệnh, đó là sống xứng đáng một người con
hiếu thảo của Chúa, là tiếp tục công việc của Đức Giêsu trong công cuộc cứu
nhân độ thế. Đức Giêsu là gương mẫu một người con hiếu thảo, vì Người luôn sống
thân mật với Chúa Cha, luôn kết hiệp với Chúa Cha trong kinh nguyện hằng ngày,
và nhất là Người luôn tìm thi hành thánh ý Chúa Cha, Người đã vâng lời Chúa Cha
cho đến chết và chết trên thập giá. Ta hãy noi gương Đức Giêsu, luôn kết hiệp
với Thiên Chúa Ba Ngôi, luôn tìm thi hành thánh ý Thiên Chúa, luôn sống một
cuộc sống tốt đẹp, luôn tích cực góp phần xây dựng xã hội, tạo hạnh phúc cho
những anh em sống chung quanh ta.
Lạy Đức Giêsu Kitô,
xin dạy con biết sống ơn bí tích Rửa Tội như Chúa, để con xứng đáng được làm
con yêu dấu của Đức Chúa Cha.
CÂU HỎI GỢI Ý ĐỂ CHIA
SẺ
1) Bạn có dễ dàng nhận
lỗi không?
2) Bạn đã thực sự sống
như một người con hiếu thảo đối với Chúa chưa?
3) Ơn phép Rửa Tội là
gì? Bạn đã sống ơn phép Rửa Tội chưa?
4) Bạn đã thực sự là
Tin Mừng cho những người chung quanh chưa?
5) Chúa Giêsu chịu
phép rửa trình bày cho ta những hình ảnh nào về Chúa?
20. Con
Thiên Chúa
Ngày kia, có một ông
vua đi săn trong rừng, bỗng dưng ông nghe thấy tiếng khóc của trẻ thơ. Ông đi
tới và thầm nghĩ:
- Chắc hẳn em nhỏ bất
hạnh này bị cha mẹ bỏ rơi.
Ông ẵm đứa nhỏ lên,
đem về hoàng cung, tắm rửa và mặc cho những bộ quần áo đẹp.
Khi em bé lớn lên, ông
đã nói với em:
- Kể từ nay, ta sẽ gọi
ngươi là con của ta và ngươi sẽ gọi ta là ba của con.
Có lẽ chúng ta ngạc
nhiên về lòng thương xót của ông vua, nhưng nếu suy nghĩ về bí tích Rửa tội,
chúng ta còn phải ngạc nhiên hơn nữa.
Thực vậy, em nhỏ mặc
dù được gọi nhà vua là cha, nhưng trong huyết quản em vẫn không có lấy được một
giọt máu của hoàng tộc. Thực tế em vẫn chỉ là con của một kẻ nghèo túng.
Nhưng đối với chúng ta
thì khác, nhờ dòng nước rửa tội, chúng ta được tẩy sạch khỏi mọi vết nhơ tội
lỗi đã đành, mà hơn thế nữa chúng ta còn được mặc lấy tấm áo ơn sủng. Thiên
Chúa thông ban cho chúng ta sự sống của Ngài, để khi chúng ta gọi Thiên Chúa là
Cha, thì đó không còn là một danh từ trống rỗng và vô nghĩa, nhưng là một sự
thật:
- Thiên Chúa là Cha
chúng ta và chúng ta là con của Ngài.
Chúng ta hãy vui mừng
và cảm tạ Thiên Chúa đã dành cho chúng ta một địa vị cao cả như thế, và nhất là
hãy cố gắng sống cho xứng đáng với địa vị cao cả ấy.
Có một cậu bé hoàng tử
chẳng may bị bọn cướp bắt cóc. Sau khi đã lấy hết những thứ quí giá trên mình,
chúng trói câu vào một gốc cây. Nhưng may thay có một bác tiều phi đi ngang
qua, đã cởi trói và đem cậu về nhà nuôi.
Nhiều năm sau, nhân
một cuộc đi săn, vua cha đã dừng chân trước căn nhà nhỏ bé của bác tiều phu.
Bác tiều vui rất lấy làm vinh dự được dẫn những đứa con của mình ra trình diện
nhà vua. Khi đến cậu hoàng tử, bỗng nhà vua xúc động mạnh. Ông thầm nghỉ:
- Phải chăng đây chính
là hoàng tử, con ta đã bị bắt cóc.
Ông hỏi bác tiều phu
về gốc gác cậu bé và nói:
- Nếu ở bên vai phải
có dấu ấn ta đã ghi, thì đúng là hoàng tử.
Với bàn tay run run,
ông vạch chiếc áo và mừng rỡ kêu lên:
- Trời ơi, con ta.
Và cậu bé cũng kêu
lên:
- Ba ơi.
Làm sao chúng ta có
thể hiểu được sự đổi thay trong lòng cậu bé. Từ trước đến giờ, cậu cứ tưởng
mình là con bác tiều phu nghèo nàn với quần áo rách rưới và nhà cửa xiêu vẹo.
Bỗng chốc cậu nhận ra mình là hoàng tử, được sinh ra tại hoàng cung và thuộc
hoàng tộc.
Kể từ nay, dù ở bất cứ
nơi nào và làm bất cứ việc gì, cậu đều ý thức mình là một hoàng tử, là con của
đức vua, nhờ đó cậu luôn có được những lời nói và những cử chỉ xứng hợp.
Với chúng ta cũng vậy.
Nhờ bí tích Rửa tội, chúng ta trở nên con Thiên Chúa, thế nhưng chúng ta có ý
thức được địa vị cao cả ấy không?
Người nào ý thức về
địa vị cao cả ấy sẽ không bảo:
- Tôi đi nhà thờ.
Nhưng nói:
- Tôi đi gặp gỡ và tâm
sự với Chúa, bởi vì cầu nguyện chính là lúc người con thố lộ tâm tình với cha mình.
Đây là một việc làm kỳ
diệu và tuyệt vời,bởi vì một con người tầm thường và xấu xí như chúng ta mà lại
được tiếp xúc, trò chuyện với Thiên Chúa.
Một người luôn ý thức
về địa vị cao cả ấy, thì dù có làm việc gì cũng không baso giờ quên Thiên Chúa
là cha của mình. Người ấy sẽ luôn thầm nhủ:
- Tôi sẽ làm vui lòng
Cha tôi ở trên trời.
Khi chiêm ngắm những
cảnh sắc hùng vĩ của thiên nhiên, người đó sẽ nghĩ ngay đến Thiên Chúa, Đấng đã
tạo dựng nên tất cả.
Nhờ đời sống ơn sủng
được chuyển thông qua bí tích Rửa tội, chúng ta trở nên con Thiên Chúa. Địa vị
cao cả này đòi buộc chúng ta ở mọi nơi và trong mọi lúc phải có những lời nói
và những việc làm thích hợp.
Bởi đó, phải sống làm
sao cho xứng đáng với địa vị cao cả ấy, để rồi trong ngày sau hết, Thiên Chúa sẽ
nói về chúng ta như ngày xưa Ngài đã nói về Đức Kitô bên bờ sông Giócđan:
- Này là Con Ta yêu
dấu, đẹp lòng Ta mọi đàng.
21. Chúa
chịu phép rửa
Một hiện tượng đáng lo
ngại cho Giáo Hội tại Áo bên Âu châu, đó là sự kiện con số những người tuyên bố
rút tên khỏi Giáo Hội Công giáo ngày càng gia tăng. Dĩ nhiên về nghĩa vụ, rút
tên ra khỏi Giáo Hội có nghĩa là mỗi năm không còn phải đóng thuế tôn giáo nữa.
Về quyền lợi, người tuyên bố rút tên ra khỏi Giáo Hội cũng sẽ tự rút phép thông
công, nghĩa là chấm dứt mọi tham gia vào cac bí tích và đời sống của Giáo Hội.
Nói cách khác, rút tên ra khỏi Giáo Hội cũng đồng nghỉa chối bỏ mọi cam kết khi
chịu phép rửa tội.
Nói chung, thế giới
phương tây vốn được mệnh danh là Kitô giáo, hiện nay đã trở thành một vùng
truyền giáo mới. Thật thế,trong những nước có con số người theo Kitô giáo, phép
rửa thường chỉ còn là một nghi thức xã hội không hơn không kém. Người ta chỉ có
lý khi nói rằng, suốt một đời nhiều người tây phương chỉ đến nhà thờ có ba lần,
lần đầu khi chịu phép rửa để gia nhập vào một xã hội vốn được mệnh danh là Kitô
giáo. Lần thứ hai để cử hành hôn phối cho long trọng. Lần thứ ba cũng là để cử
hành tang lễ cho long trọng.
Khi Giáo Hội chỉ được
mời để có mặt ba lần như thế trong cả một đời người, thì quả thật người ta chỉ
mang danh hiệu Kitô nhưng không sống trọn những cam kết của phép rửa. Hôm nay
kỷ niệm Chúa Giêsu chịu phép rửa, Giáo Hội muốn mời gọi các Kitô hữu hãy đào
sâu và ý thức về những cam kết khi chịu phép rửa tội. Trái với lối sống đạo cả
đời đến nhà thờ chỉ có ba lần của người Tây phương, các tín hữu Kitô Việt Nam
chúng ta lại tập trung đời sống đạo vào nhà thờ. Trái với những nhà thờ hầu như
trống rỗng tại Tây phương, các nhà thờ Việt Nam chúng ta hầu như lúc nào cũng
đông nghẹt người. Tuy nhiên, biết đâu những đêm đông chật ních trong các nhà
thờ ấy lại không là những con người có lối sống hoàn toàn xa lạ, hay ngược lại
với giáo huấn của Giáo Hội và Tin mừng của Chúa Giêsu Kitô. Biết đâu đám đông
sốt sắng sống cầu kinh ra rả trong nhà thờ ấy lại chẳng là những con người
không hề biết đến thế nào là công bình, là bác ái, là tình liên đới, là quảng
đại, sợ chia sẻ lòng cảm thông và sợ tha thứ. Nói tắt một lời, nếu chúng ta
chưa sống cho ra người thì sự hiện diện đông đảo trong nhà thờ, những lời cầu
kinh ra rả, hay những cuộc biểu dương long trọng chưa hẳn đã là thể hiện đích thực
của lòng tin.
Khi đến nhận phép rửa
của Gioan tại sông Jordan, nghĩa là khi đến dìm mình trong dòng nước, Chúa
Giêsu đã muốn thể hiện trọn vẹn ý nghĩa của mầu nhiệm Nhập thể, Ngài muốn sống
trọn thân phận con người mà thành phần tất yếu là cái chết. Qua cử chỉ này,
Chúa Giêsu muốn nói lên sự vâng phục trọn vẹn với Chúa Cha, Ngài đón nhận cái
chết như thể hiện tận cùng của tình yêu.
Sống như một con người
như Chúa Giêsu đã từng sống, chính là sống yêu thương và yêu thương đến độ sẵn
sàng thí ban mạng sống mình. Đức Chúa Cha đã gọi Đức Chúa Giêsu là Người Con
chí ái đẹp lòng Ngài mọi đàng, bởi vì Chúa Giêsu đã sống trọn ơn gọi làm người
của Ngài. Đây chính là ý nghĩa của phép rửa mà Chúa Giêsu đã thiết lập và ủy
thác cho Giáo Hội qua phép rửa ấy. Người tín hữu Kitô được mời gọi để sống trọn
thân phận làm người như chính Chúa Giêsu đã từng sống. Thật thế, chỉ trong Chúa
Giêsu, chúng ta mới thấy được thập giá và ơn gọi cao cả của con người. Chỉ
trong Chúa Giêsu chúng ta mới thấy được thế nào là sống cho ra người. Chỉ trong
Chúa Giêsu chúng ta mới hiểu thế nào là sống yêu thương.
Thập giá vừa là biểu
hiện cái chết của Chúa Giêsu, vừa là dấu chứng tình yêu của Ngài. Với phép rửa
chúng ta được ghi dấu thánh giá trên người, chúng ta làm dấu thánh giá mỗi ngày
và biết bao nhiêu lần trong cuộc sống chúng ta. Chúng ta treo thánh giá khắp
mọi nơi, chúng ta đeo thánh giá trên người, và ước gì thánh giá ấy không chỉ là
thứ trang sức trên ngực, trên cổ hay trên tai của chúng ta, mà phải là một nhắc
nhở về tình yêu của Đấng đã yêu thương chúng ta đến độ thí ban mạng sống của
Ngài cho chúng ta. Ước gì thánh giá luôn là động lực thúc đẩy chúng ta ngày
càng sống cho ra người hơn.
Nguyện xin các thánh
Tử đạo Việt Nam, những người đã thà chết hơn là bước qua thánh giá để chối bỏ
Chúa Giêsu, nay nguyện giúp cho chúng ta để chúng ta được luôn luôn trung thành
với đức tin, thể hiện đức tin ấy bằng cuộc sống chứng tá, đó là giá trị của Tin
mừng.
22. Chúa
chịu phép rửa
Tôi thường nghe nhiều
người nói với tôi rằng cuộc đời của họ không giống với những gì họ đã nghĩ
tưởng hoặc dự định chút nào hết. Một người bạn giới thiệu với ta một công việc
mà mà mình không được chuẩn bị để làm nhưng lại mở ra những viễn ảnh bất ngờ;
một biến cố không quan trọng đưa chúng ta đi xa hơn những gì mình nghĩ; cuộc
gặp gỡ tình cờ với một người mang lại cho chúng ta một khả năng thăng tiến, mở
ra cho ta một cuộc sống có một ý nghĩa mới mẻ. Tất cả những tình huống này có
thể giúp chúng ta khám phá ra những chiều kích mình chưa biết đến, những khả
năng hầu như không bao giờ ta dám nghĩ tới, và đẩy chúng ta vào một cuộc mạo
hiểm hoàn toàn bất ngờ, đầy hứa hẹn và thách đố.
Việc Chúa Giêsu đến
với Gioan tẩy giả có giống kinh nghiệm của bản thân chúng ta không? Chúa Giêsu
có cần nghe nói Ngài là ai và từ nay Ngài phải làm gì với cuộc sống của Ngài
không? Ngài đến gặp vị ngôn sứ đang rao giảng việc hoán cải. Ngài muốn nghe
tiếng nói của người hô lên trong sa mạc. Ngài quyết định chịu phép rửa như tất
cả các bạn đồng hương. Có lẽ với tư cách là người, Chúa Giêsu đã muốn đến tìm
nơi Gioan tẩy giả ánh sáng về sứ vụ tương lai của Ngài.
Vì Chúa Giêsu không
biết trọn vẹn ý định của Thiên Chúa về Ngài, như biết một sơ đồ của kiến trúc
sư. Ngài không có kế hoạch chi tiết về biến cố Tin mừng. Vậy nên Ngài chuẩn bị
đón nhận những dấu chỉ mà Thiên Chúa gởi đến cho Ngài. Ngài chuẩn bị nội tâm
thuận lợi để có thể đương đầu với một cuộc thách thức. Chính Ngài cũng muốn gặp
gỡ Vương Quốc mà Gioan loan báo. Chính Ngài đang sống một cuộc sống sinh hoa
kết quả.
Chúa Giêsu đã muốn trà
trộn vào đám dân chúng tội lỗi, đồng hóa với họ, khi mà Ngài bước vào một bước
ngoặt quan trọng trong đời Ngài. Đây có lẻ là sự phản kháng đầu tiên chống lại
giấc mơ của người Do Thái về một Đấng Mêsia chiến thắng.
Cuộc đối thoại giữa
Chúa Giêsu và Gioan tẩy giả bắt đầu biểu lộ căn tính của Ngài. Dường như Gioan
có ý thắc mắc về Chúa Giêsu, nhưng câu trả lời của Ngài có vẻ không soi sáng ho
chúng ta nhiều hơn về căn tính của Ngài:
“Ta phải thực hiện mọi
sự công chính”.
Trước hết là Chúa
Thánh Thần đậu xuống trên Ngài như dấu chỉ cho thấy Thánh Thần ở nơi Ngài. Sau
là Chúa Cha tuyên bố về tình yêu của Ngài đối với Con Một Ngài.
“Ta hoàn toàn vui thỏa
về người Ta đã chọn”.
Chình lời này đã định
nghĩa sứ vụ và định mệnh của Chúa Kitô: Sứ vụ làm chứng rằng Ngài được Thiên
Chúa yêu thương, sứ vụ làm chứng rằng mọi con người trước và sau Ngài cũng là
con cái yêu dấu của Chúa Cha.
Vậy chính từ một kẻ
khác, mà Chúa Kitô đã được mặc khải cho chính mình và cho thế giới, và chính
điều này đẩy Ngài vào cuộc mạo hiểm lớn lao của việc cứu độ. Cũng chính từ Chúa
Kitô mà chúng ta được mặc khải cho chính mình, nhờ phép rửa:
Các con hãy xem chúng
ta được thương yêu dường nào, vì chúng ta được gọi là con cái Thiên Chúa, và
thực sự là như vậy”
Phép rửa tội của chúng
ta ban cho chúng ta một sứ vụ.
Với tư cách là con cái
Thiên Chúa chúng ta được mời gọi nhìn nhận thực tại này và họa lại cuộc sống
của Chúa Giêsu trong đời của chúng ta. Chúng ta phải tỏ ra sẵn sàng “thực thi
mọi sự công chính”. Và dấn thân theo gót Ngài để mặc khải tình yêu của Chúa
Cha. Như Chúa Giêsu khi ra khỏi nước được tràn đầy Chúa Thánh Thần và được giao
cho sứ vụ, cũng vậy phép rửa dìm chúng ta vào nước, để khi ra khỏi nước chúng
ta sống một cuộc sống mới. Cuộc sống mới này thúc đẩy chúng ta biểu lộ tình
thương xót của Thiên Chúa đối với anh chị em chúng ta, biểu lộ lòng ưu ái đối
với những người nghèo nhất và những người bị xã hội bỏ rơi. Chúng ta có ý thức
về trách nhiệm này không? Chúng ta có sẵn sàng làm chứng cho đức tin trước mặt
những kẻ mà chúng ta gặp gỡ hàng ngày không? Chúng ta có sẵn sàng trở thành
những chứng nhân của Lời và hành động của Chúa Kitô bằng cách cũng thực hiện
những cử chỉ tha thứ, khiêm nhường, bác ái huynh đệ đó không? Chúng ta có ý
thức rằng khi chúng ta đón nhận kẻ khác trong những giới hạn, những nỗi yếu hèn
của họ, là chúng ta dấn thân theo gót Chúa Kitô không? Qua chúng ta tình yêu
của Chúa Cha sẽ được mặc khải cho họ, một cuộc sống mới có thể bắt đầu đến với
họ, và cuộc sống này sẽ đưa họ đi xa hơn những gì họ đã dự tính.
Những gì Chúa Cha đã
nói về Chúa Kitô, Chúa Kitô cũng nói lại với chúng ta trong phép rửa tội của
chúng ta. Chúng ta là những con chí ái của Chúa Cha. Ước gì chúng ta có thể tỏ
ra xứng đáng với địa vị làm con Thiên Chúa. Ước gì hồng ân của phép thánh tẩy
có thể sinh hoa kết quả để cho Tin Mừng luôn luôn tăng trưởng nơi chúng ta và
trong cộng đoàn của chúng ta. Ước gì chúng ta có thể sinh dồi dào hoa trái tình
thương, công lý, trung thành và bình an.
23. Chúa
chịa phép rửa
Tâm lý thường tình của
con người là muốn mình được trọng vọng, được đề cao, được vượt trổi hơn người
khác.
Khi nói chuyện với
nhau, người ta thường thích nói về mình: Tôi thế này, tôi thế nọ. Khi ở giữa
đám đông, người ta thích làm nổi, thích được chú ý, thích được khen ngợi. Ở
trong một tập thể, người ta thích giữ những chức vụ lớn, thích điều khiển người
khác, thích làm những công việc được nhiều người biết đến. Khi hội họp, người
ta muốn ý kiến của mình được tôn trọng và chấp thuận dù nó không hay bằng ý
kiến của người khác… Tất cả những điều đó phản ảnh khuynh hướng kiêu căng trong
lòng mỗi người. Mà kiêu căng là mối tội thứ nhất trong bảy mối tội đầu. Gọi là
mối tội đầu vì nó là căn nguyên đưa tới nhiều thứ tội lỗi khác. Thật vậy, sự
kiêu căng chính là đầu mối dẫn tới rất nhiều điều tệ hại trong cuộc sống của
con người: Chiến tranh bởi đâu nếu không phải bởi nước này muốn thống trị nước
nọ? Ghen tương bởi đâu nếu không phải bởi người này muốn trổi vượt hơn người
khác? Hận thù bởi đâu nếu không phải bởi người ta muốn đạp người khác xuống để
chiến lấy vị trị của họ? Nói hành, nói xấu, vu khống, dèm pha bởi đâu nếu không
phải bởi người ta muốn tự quảng cáo mình tốt hơn, giỏi hơn người khác?... Sự kiêu
căng không đem lại điều gì tốt đẹp cho người kiêu căng cả. Luxiphe vì kiêu căng
không muốn phục tùng Thiên Chúa đã tự loại mình ra khỏi hàng ngũ các Thiên
Thần. Ông bà nguyên tổ loài người vì kiêu căng muốn bằng Thiên Chúa nên đã bị
đuổi ra khỏi vườn địa đàng, và cửa trời đóng lại. Sự kiêu căng đã tạo nên hố
ngăn cách giữa Thiên Chúa và con người. Sự kiêu căng đã dựng nên một hàng rào
không cho con người đến với nhau…
Chiêm ngắm Chúa Giêsu
trong máng cỏ hôi tanh, và chiêm ngắm Người trong biến cố Người chịu phép rửa,
chúng ta sẽ thấy mình lố bịch biết bao khi để cho tính kiêu căng thống trị và
hướng dẫn đời sống mình.
Thật vậy,
- Chúa Giêsu là Thiên
Chúa cao cả vô cùng, nhưng Người đã mặc lấy những tâm tình và cung cách sống
khiêm tốn thẳm sâu.
- Là Thiên Chúa cao cả
vô cùng, nhưng Người đã không đòi phải được sinh ra trong một đất nước văn
minh, trong một thành phố hoa lệ và trong cung ngọc điện ngà. Trái lại, Người
đã chấp nhận sinh ra trong một hoàn cảnh bi đát nhất của thân phận làm người.
- Là Thiên Chúa cao cả
vô cùng, nhưng Người đã không chọn cho mình một người cha, một người mẹ danh
giá và giầu sang. Trái lại, Người chấp nhận làm con của một anh thợ mộc vô danh
tiểu tốt và một cô thiếu nữ nhà quê khổ nghèo.
- Là Thiên Chúa thánh
thiện tuyệt đối, nhưng Người lại hạ mình đến xin ông Gioan làm phép rửa cho
mình như một người dân tầm thường và tội lỗi.
- Người là Thiên Chúa
của muôn loài, nhưng lại hòa mình với đám đông không tên tuổi để trở thành một
người vô danh như họ.
Biết nói gì về Người
bây giờ nếu không phải là cúi đầu cảm phục và tôn thờ sự khiêm tốn thẳm sâu của
con Thiên Chúa làm người? Ngày xưa, do sự kiêu căng của nguyên tổ loài người,
cửa trời đã đóng lại. Ngày nay, do sự khiêm hạ của Con Thiên Chúa mà cửu trời
lại được mở ra. Trời mở ra nghĩa là mọi ngăn cách giữa Thiên Chúa và con người
đã bị xóa bỏ. Con người phản bội nay đã được tha thứ, được phục hồi tước vị làm
con Thiên Chúa và được đồng thừa tự gia tài Nước Trời cùng với Chúa Giêsu. Trời
được mở ra cho hết mọi người có thể đi vào. Nhưng nếu chúng ta tiếp tục bước
vào vết chân kiêu căng của ông bà nguyên tổ, thì cách Cửu Trời ấy sẽ mãi mãi
đóng lại trước mắt chúng ta.
24. Chúa
chịu phép rửa
Trong ngày kỷ niệm
Chúa chịu phép rửa nơi sông Giođan, phụng vụ trình bày cho chúng ta sự kiện
chính Thiên Chúa Cha giới thiệu và tuyên bố Chúa Giêsu Kitô, Con của Ngài, là vị
cứu tinh cho toàn thể nhân loại.
Bài Tin Mừng hôm nay
có hai phần rõ rệt. Phần một diễn tả Gioan làm chứng về Chúa Cứu Thế, Đấng có
quyền năng thanh tẩy nhân loại trong Thánh Thần, nghĩa là có sức mạnh chữa lành
con người toàn diện, mở ra con đường giải thoát thiêng liêng, và nhóm lên trong
lòng con người niềm hy vọng nơi quyền năng vô biên của Thiên Chúa. Phần hai
trình bày sự kiện Chúa Giêsu chịu phép rửa và việc Chúa Cha chứng kiến và can
thiệp.
Phép rửa mà Gioan thực
hiện bằng nước chỉ là hình bóng, là hình thức minh chứng cho người đến chịu
phép rửa ý muốn xưng thú tội lỗi, cải hóa nội tâm và trở về đường ngay nẻo
chính. Gioan làm phép rửa trong vùng hoang địa dọc bờ sông Giođan. Từ hoang địa
nhắc lại giai đoạn lịch sử khi dân Do Thái thoát khỏi ách nô lệ trở về Đất Hứa.
Sông Giođan là trở ngại sau cùng mà dân Do Thái phải vượt qua để vào Đất hứa.
Khi xuống dòng sông để
cho Gioan thanh tẩy, Chúa Giêsu đã làm một cử chỉ liên đới với nhân loại tội
lỗi, một cử chỉ báo trước việc tự hạ đẫm máu của Người trên thập giá, để cho
nhân loại được giao hòa với Thiên Chúa và được cứu thoát. Dòng nước chảy chỉ có
năng lực thanh tẩy thực sự trong ngày Chúa Kitô xuống dòng sông để thánh hóa và
ban thần lực cho nó.
Điểm chính yếu và mang
nặng ý nghĩa trong biến cố Chúa Giêsu chịu phép rửa chính là lời tuyên bố của
Thiên Chúa Cha, một lời tuyên bố vắn tắt, nhưng hàm xúc ý nghĩa sâu xa: “Con là
Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con”. “Là Con yêu dấu” đồng nghĩa với Con
duy nhất, nhắc lại sự kiện Abraham đã hiến tế người con duy nhất là Isaac cho
Thiên Chúa. “Cha hài lòng về Con” là lời tiên tri của Isaia trong bài ca về
người tôi tớ đau khổ, mà Tân ước áp dụng cho Chúa Kitô Cứu thế: “Đây là người
Tôi trung Ta nâng đỡ, là người ta tuyển chọn và quí mến hết lòng. Ta cho thần
khí Ta ngự trên nó, nó sẽ làm sáng tỏ công lý trước muôn dân”. Lời tuyên bố này
chứa đựng niềm tin của cộng đoàn dân ngoại đã khai sinh, ám chỉ sự nghiệp của
Chúa Kitô, Đấng mà Môsê mớ sẽ đưa dân qua Biển Đỏ, là Giosuê mới sẽ lãnh đạo và
đưa dân ra khỏi dòng sông Giođan, nghĩa là ra khỏi vòng nô lệ tội lỗi mà vào
Đất Hứa, để hưởng niểm vui vì được giải hòa với Thiên Chúa và nhận Thiên Chúa
là Cha.
Sau khi ra khỏi dòng
sông Giođan, Chúa Giêsu được Thánh Thần đưa vào hoang địa bốn mươi ngày để chịu
ma quả cám dỗ. Được Chúa Cha ủng hộ, từ nay Chúa Giêsu can trường chấp nhận mọi
khó khăn thử thách, có đủ sức để chiến thắng ma quỷ. Người Kitô hữu tin theo
Chúa mỗi khi lãnh nhận bí tích rửa tội, chẳng khác nào như được dìm mình trong
dòng sông Giođan, họ sẽ trở nên con cái Thiên Chúa, được lãnh nhận Thánh Thần
và được tràn đầy các ân sủng của Thiên Chúa, trung thành với sứ mệnh của mình
và bảo toàn nguồn ân sủng thiêng liêng đã lãnh nhận, và họ đã được Thiên Chúa
yêu thương sủng mộ.
Xin Chúa cho chúng ta
luôn sống kết hiệp với Chúa, để cũng có thể được nghe lời này: “Con là Con của
Ta, Ta hài lòng về Con”.
25. Chúa
chịu phép rửa
Hôm nay Giáo hội tưởng
niệm biến cố Chúa Giêsu đến sông Giođan để chịu phép rửa. Qua cử chỉ dìm xuống
nước, Chúa Giêsu nuốn mặc lấy thân phận yếu đuối của con người, Ngài là Thiên
Chúa gánh tội trần gian. Tưởng niệm biến cố này, Giáo hội cũng mời gọi chúng ta
nhớ lại những cam kết của phép rửa mà chúng ta đã lãnh nhận. Qua phép rửa mà
Chúa Giêsu đã thiết lập, Ngài cho chúng ta được dự vào cuộc tử nạn và phục sinh
của Chúa. Cùng với Ngài, chúng ta chiến đấu chống lại tội lỗi và sự dữ để được
tham dự vào vinh quang phục sinh của Ngài. Cử hành cái chết và sự phục sinh của
Ngài trong thánh lễ này, chúng ta hãy xin Ngài tẩy rửa tâm hồn chúng ta và ban
sức mạnh để chúng ta tiếp tục chiến đấu chống lại tội lỗi và sự dữ trong cuộc
sống của chúng ta.
Trong các dòng sông
nổi tiếng trên khắp thế giới hẳng dòng sông Giođan phải là dòng sông quen thuộc
nhất đối với người Kitô hữu chúng ta. Chính tại đây Chúa Giêsu đã đến khai mạc
sứ vụ công khai bằng cáh đón nhận phép rửa bởi Gioan tẩy giả cử hành. Chính tại
dòng sông này, khi dìm mình xuống nước, Chúa Giêsu đã tỏ bày sứ mệnh của Ngài,
đó là “gánh lấy tất cả tội lỗi của nhân loại”
Là Đấng vô tội, Chúa
Giêsu đã tự đồng hóa với người tội lỗi qua cử chỉ dìm mình trong dòng nước, đồng
thời Chúa Giêsu loan báo chính cái chết mà Ngài sẽ trải qua. Phép rửa trong
sông Giođan là hình bóng của phép rửa đích thực mà Chúa Giêsu sẽ thực hiện, đó
là cái chết của Ngài. Từ cạnh sườn Người khi máu và nước chảy ra, Chúa Giêsu đã
khai mở một dòng sông mới để từ đó tất cả những ai đến dìm mình vào đều nhận
được sức sống mới.
Tưởng niệm việc Chúa
Giêsu chịu phép rửa bên bờ sông Giođan, Giáo hội muốn mời gọi chúng ta nhớ lại
phép rửa mà chúng ta được dìm mình vào trong chính cái chết của Chúa Giêsu. Dìm
mình vào trong chính cái chết của Chúa Giêsu là gì nếu không phải là tiếp tục
đi lại con đường tử nạn của Ngài. Phép rửa mà chúng ta lãnh nhận không phải là
một nghi thức bùa chú. Người lãnh nhận bí tích rửa tội không đương nhiên trở
thành một con người thánh thiện được miễn trừ khỏi những cám dỗ và yếu đuối
trong cuộc sống. Có biết bao người lãnh nhận phép rửa để mang danh hiệu là
người Kitô hữu, nhưng cuộc sống của họ không bao giờ là một tiếp tục cuộc tử
nạn của Chúa Giêsu.
Thánh Phaolô đã nói
với chúng ta rằng: “Người tín hữu Kitô cần phải tiếp tục những gì còn thiếu sót
trong cuộc tử nạn của Chúa Giêsu”. Chịu phép rửa là khởi đầu một cái chết, là
bước vào một cuộc chiến đấu, chiến đấu chống lại con người cũ của tội lỗi,
chiến đấu chống lại không biết bao nhiêu cơn cám dỗ trong và ngoài con người
của chúng ta. Chiến đấu chống lại không biết bao nhiêu sức mạnh của sự chết như
ích kỷ, hận thù, chia rẽ, đố kỵ…
Tưởng niệm phép rửa mà
Chúa Giêsu đã lãnh nhận bên bờ sông Giođan, Giáo hội muốn nhắc nhở chúng ta về
chính những cam kết mà chúng ta đã đoan hứa trong ngày lãnh nhận bí tích rửa
tội, đó là cùng chết với Đức Kitô để được sống lại với Ngài. Hằng ngày mỗi lần
chúng ta giơ tay làm dấu Thánh giá là mỗi lần chúng ta được mời gọi để nhớ lại
lời cam kết ấy.
Trên đường tiến về
Jêrusalem, khi các môn đệ tranh luận về quyền bính, vương quốc tương lai của
Ngài, thì Chúa Giêsu đã hỏi các ông: “Các con có sẵn sàng uống chén đắng mà Ta
sắp lãnh nhận không?”. Ngày nay trong từng giâh phút của cuộc sống, Chúa Giêsu cũng
hỏi từng người trong chúng ta như thế: “Các con có sẵn sàng chịu phép rửa mà Ta
sắp lãnh nhận không?”. Chúng ta đang trải qua không biết bao nhiêu những khó
khăn, thử thách và cạm bẫy trong cuộc sống. Sống một cách thiết thực phép rửa
chính là sống từng giây phút trong cuộc sống bằng sự phấn đấu, bằng tinh thần
từ bỏ và lòng tín thác của Chúa Giêsu. Và chúng ta tin rằng nhờ nguồn nước từ
cạnh sườn mà Ngài đã ban tặng cho chúng ta, chúng ta cũng được trong bị để
chiến đấu và nhờ đ1o chúng ta được tham dự vào sự phục sinh vinh hiển của Ngài.
26. Cộng tác với Chúa
Bảy trăm năm về trước,
tiên tri Isaia đã mô tả về đấng cứu thế, không phải với những đường nét của một
vị đế vương hùng mạnh, nhưng với đường nét của một người tôi tớ đau khổ của Đức
Giavê.
Và ngày hôm nay, những
đường nét ấy bắt đầu được thực hiện nơi Đức Kitô. Ngài là một bậc thầy dịu
hiền, kiên nhẫn và khoan dung, cố gắng làm cho muôn dân nước nhận biết khuôn
mặt và giới luật của Thiên Chúa. Nhìn vào cuộc đời của Ngài, chúng ta sẽ nhận
thấy đúng như tiên tri Isaia đã loan báo:
- Này là tôi tớ mà Ta
đã lựa chọn. Ngài sẽ không bẻ gãy cây sậy đã bị dập nát, không thổi tắt tim đèn
còn leo loét…
Ngài không đến để đè
bẹp muôn dân, nhưng đến để thiết lập công bình và rao giảng chân lý. Ngài sẽ mở
mắt cho người mù, dẫn khỏi tù những người bị xiềng xích, đưa khỏi ngục những
người còn ngồi trong tăm tối.
Đúng thế, nhân loại
như một kẻ bị đui mù bởi những đam mê dục vọng bất chính, thì ngày hôm nay Ngài
đến để đem lại ánh sáng. Ngài không phải chỉ chữa lành những tật bệnh phần xác,
mà còn thực sự giải phóng tâm hồn chúng ta khỏi những trói buộc của tội lỗi
bằng tình thương và ơn tha thứ.
Và cũng ngày hôm nay,
nơi dòng nước sông Giocđan, Chúa Thánh Thần lấy hình chim bồ câu ngự xuống trên
Ngài và từ trời có tiếng phán:
- Này là Con Ta yêu
dấu, đẹp lòng Ta mọi đàng.
Từ lời xác quyết của
trời cao, chúng ta nhận biết Đức Kitô chính là người đầy tớ, người con yêu dấu
của Thiên Chúa, đem lại cho tất cả chúng ta lời giao ước và ánh sáng, chân lý
và tự do. Hay nói một cách khác, Ngài đến để cứu chuộc chúng ta. Tuy nhiên,
Ngài muốn chúng ta, những người Kitô hữu trên khắp cùng bờ cõi trái đất, cộng
tác với Ngài để cùng làm việc cho nước Ngài được trị đến.
Jacques Loew, trước
kia là một người vô thần, sau đó đã quay về với Chúa và trở nên một linh mục
thuộc dòng Đa minh. Ngài có một đam mê về Đức Kitô, ngài sẵn sàng chấp nhận mọi
hy sinh gian khổ để đem Tin Mừng đến cho những anh em nghèo túng và bất hạnh.
Ngày kia, ngài đi dạo tại thành phố Marseille, vừa đi vừa suy nghĩ, phải làm
thế nào để thực hiện cái ước vọng tông đồ của mình?
Như được Chúa soi sáng
và kêu mời, ngài bỗng dưng đi tới quyết định: Để chống lại sự đau khổ và nghèo
túng, thì chỉ có một phương thế, đó là hãy sống đau khổ và nghèo túng.
Đây không còn là những
giây phút để ngồi nghiên cứu sách vở, thế là đi xuống chợ ngài mua một cái mũ
và một bộ quần áo lao động như mọi người, rồi sau đó đi làm việc cực nhọc và
sống với những người nghèo túng.
Và cứ thế tiếp diễn
hơn 20 năm cuộc đời của ngài, để rồi cuối cùng ngài đã tìm thấy ngôn ngữ và
phương cách truyền bá Tin Mừng cho người nghèo, để họ cũng nhận ra rằng: Nước
Thiên Chúa đã trị đến.
Nỗi đam mê của các vị
tông đồ nhiệt thành là như thế. Còn chúng ta thì thế nào? Chẳng lẽ chúng ta
đành bó tay hay sao?
27. Khúc dạo đầu
Cha Anthony de Mello
có kể một câu chuyện sau đây: Cả cộng đoàn đều thắc mắc khi thấy vị kinh sư của
mình tuần nào cũng biến đâu mất vào hôm trước ngày Sabat. Họ nghĩ rằng ông bí
mật đi gặp Đấng Tối Cao. Vì thế, họ cử một người theo dõi ông.
Và đây là điều người
ấy chứng kiến. Vị kinh sư hóa trang bằng cách ăn mặc như một dân quê, đến phục
vụ một bà già thuộc dân ngoại trong căn lều tồi tàn của bà. Ông quét dọn và nấu
ăn cho bà trong ngày Sabat.
Khi thám tử trở về,
cộng đoàn hỏi:
- Kinh sư đi đâu? Ngài
lên trời phải không?
Người kia đáp:
- Không, ngài còn lên
cao hơn cả trời nữa.
Có ai ngờ vị kinh sư
lại âm thầm đến với người đàn bà ngoại đạo, nghèo nàn để chăm sóc bà trong ngày
Sabat? Có ai
tin được Đức Giêsu, Đấng thánh thiện cao cả, lại xin Gioan làm phép rửa cho?
Khi chiêm ngắm Đức
Giêsu xếp hàng chung với tội nhân, chúng ta hiểu được thế nào là tình yêu.
Chỉ có tình yêu mới
giúp chúng ta hiểu được mầu nhiệm nơi dòng sông Giorđan.
Chỉ có tình yêu mới
làm cho Con Thiên Chúa tự che khuất sự cao sang thánh thiện, để dìm mình trong
phép rửa “thống hối”.
Chỉ có tình yêu mới
làm cho Đấng Cứu Độ sống như người cần được cứu độ.
Phép rửa hôm nay chỉ
là khúc dạo đầu của bản trường ca tình yêu. Để rồi vì yêu thương, từ đây Con
Thiên Chúa sẽ bị người đời liệt vào: “Tay ăn nhậu, bạn bè với quân thu thuế và
phường tội lỗi”. Bị người nhà coi là “kẻ mất trí”. Bị xua đuổi ra khỏi thành.
Bị lên án như một tội nhân. Và bị chết treo giữa những tên trộm cướp. Đến nỗi
thánh Phaolô đã phải thốt lên: “Đấng chẳng hề biết tội là gì thì Thiên Chúa đã
làm cho Người thành tội vì chúng ta”.
Đức Giêsu gọi cuộc
thương khó của Người là một “phép rửa”. Người trầm mình trong đau khổ để mang
lại ơn cứu độ cho mọi người: “Thầy còn một phép rửa phải chịu và lòng Thầy khắc
khoải biết bao cho đến khi việc này hoàn tất”.
Qua Bí tích Rửa tội,
chúng ta đã trở nên các Kitô hữu, “con cái yêu dấu” của Thiên Chúa. Chúng ta
cũng được mời gọi đi loan báo tin vui cứu độ, rằng Thiên Chúa yêu thương con
người. Chúng ta được mời gọi đặc biệt để mang tình yêu Chúa đến cho những người
cùng khổ, những người bị bỏ rơi, bị khinh miệt, bị sa ngã trong tội. Martin
Luther King có nói: “Hãy yêu thương mọi người đừng vì thiện cảm; cũng không vì
cách sống của họ dễ mến, dễ thương. Nhưng vì chính Thiên Chúa ở trong họ”. Nếu
chúng ta chờ cho họ trở nên đáng yêu rồi mới yêu họ, chúng ta sẽ phải chờ suốt
đời. Chính khi được yêu mà họ sẽ trở nên đáng yêu.
Trong biển đời mênh
mông này, mỗi người đều không ngừng thay đổi cả hướng tốt lẫn hướng xấu, chúng
ta chớ cho rằng mình đã hiểu tới chân tơ kẽ tóc một ai đó. Cứ nghe theo trái
tim mách bảo mà quảng đại trao ban.
Zundel viết: “Đừng để
ai trong những người anh em của chúng ta có thể phàn nàn, rằng họ chẳng gặp
được lòng nhân hậu của Thiên Chúa nơi chúng ta”.
28. Dòng
sông sám hối
Có vị sư nọ gặp ở giữa
đường một viên ngọc quí. Vì nghĩ rằng mình là người tu hành không cần chi thứ
đó, nên ông đem giấu viên ngọc này ở một gốc cây.
Ngày nọ có người hành
khất đến ăn xin. Ông không có gì cho anh. Bỗng nhớ lại viên ngọc, nhà sư chỉ
cho anh chỗ giấu. Người ăn xin đến gốc cây và tìm thấy viên ngọc. Cầm ngọc quí
trong tay, người ăn xin rất đỗi vui mừng, nhưng anh ta suy nghĩ: Tại sao vị sư
lại chấp nhận sống nghèo khó trong khi có một viên ngọc quí giá thế này? Sau
một thời gian suy nghĩ, anh cầm ngọc quí trả lại cho nhà sư và nói:
“Bạch thày, con thấy
trong lòng thày có một sự giàu có to lớn, đến nỗi thày không thiết đến viên
ngọc này. Vậy con chỉ xin thày cho con sự giàu có trong lòng thày mà thôi”.
Câu chuyện tới đây là
kết thúc, nên chúng ta không biết nhà sư có chỉ cho người ăn xin “sự giàu có
bên trong” của ông không, nhưng Tin Mừng hôm nay đã trả lời cho chúng ta câu
hỏi ấy.
Giữa dòng người chen
lấn nhau xuống sông Giorđan để xin Gioan làm phép rửa cho, tại sao chẳng một ai
nhận ra Đức Giêsu, duy chỉ mình Gioan nói: “Chính tôi mới cần Ngài làm phép
rửa, thế mà Ngài lại đến với tôi!”. Phải chăng Gioan đã nhận ra “sự giàu có bên
trong” của một con người rất đỗi bình thường ấy? Và chúng ta đã không phải đợi
chờ lâu. Khi Gioan từ chối làm phép rửa cho Đức Giêsu, thì Người đã trả lời:
“Bây giờ cứ thế đã, vì chúng ta nên làm như vậy để giữ trọn đức công chính”.
Giữ trọn đức công chính cũng có nghĩa là chu toàn thánh ý Chúa. Chính vì thế,
khi Đức Giêsu vừa chịu phép rửa, Chúa Cha đã tuyên phán: “Đây là Con yêu dấu
của Ta, Ta hài lòng về Người”.
Như vậy, sự giàu có
đích thực không phải là thu tích cho nhiều của cải châu báu, mà là luôn giữ
trọn đức công chính, là tuân hành thánh ý Chúa, là trở nên con yêu dấu của Cha.
Chính để sống đẹp lòng
cha, mà người Con đã từ trời xuống thế, mặc kiếp phàm nhân để cứu độ muôn
người. Hôm nay, Người kết thúc giai đoạn ẩn dật ở Nagiarét, để khởi đầu sứ vụ
công khai rao giảng. Người đi xuống Giorđan, để dìm mình trong dòng sông sám
hối. Tiếng Giorđan trong ngôn ngữ Do thái có nghĩa là “người đi xuống”. Vì sông
Giorđan quá thấp, thấp hơn mặt biển gần 400 mét. “người đi xuống” ấy không phải
ai khác, chính là Con Chúa, Đức Giêsu Kitô. Người không chỉ xếp hàng chung với
tội nhân, mà còn đồng hóa mình với tội nhân, để chết thay cho tội nhân. Chính
nơi bờ sông, người ta mới có được sự yên tĩnh nghỉ ngơi, xa phố thị ồn ào. Nhìn
dòng sông lững lờ trôi, lắng nghe dòng sông nhiều điều mách bảo.
Nếu Con Thiên Chúa đã
chấp nhận hòa mình trong dòng người tội lỗi, có lẽ nào chúng ta lại dám nghĩ
mình nhân đức thánh thiện hơn anh em.
Nếu Đấng Thánh vô cùng
đã tự nguyện dìm mình xuống dòng sông sám hối, có lẽ nào chúng ta lại ngần ngại
cúi mình lãnh nhận ơn tha thứ.
Lớp da cũ sau một lần
tắm gội đã biến thành bùn đất. Con người cũ sau một lần đổi mới đã trở nên con
người mới. Hãy ngẩng cao đầu đi giữa nhân sinh.
29. Người con Chúa
Chúa nhật cuối cùng
của Mùa Giáng sinh thường được dành để kỷ niệm việc Chúa Giêsu chịu phép rửa
của thánh Gioan Tiền hô tại sông Giorđan. Đây cũng là một cuộc hiển linh của
Thiên Chúa nói chung và của Chúa Giêsu nói riêng, vì trong biến cố này Thiên
Chúa muốn loan báo và mạc khải cho mọi người biết về Thiên Chúa và một số chân
lý khác.
Trước hết, mạc khải
mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi. Đây là một lần mạc khải công khai có cả Ba Ngôi cùng hiện
diện: Ngôi Cha chỉ xuất hiện qua tiếng nói: “Con là Con yêu dấu của Cha, Cha
hài lòng về Con”. Ngôi Con là Chúa Giêsu, Đấng nhận phép rửa, đang hiện diện cụ
thể ở sông Giorđan. Ngôi Ba Thánh Thần, xuất hiện qua hình ảnh chim bồ câu.
Thứ hai, mạc khải Chúa
Giêsu là Con Thiên Chúa. Chính Thiên Chúa Cha đã xác nhận và giới thiệu điều này và kêu
gọi mọi người hãy lắng nghe lời Chúa Giêsu, hãy đến với Ngài để đón nhận nguồn
hồng phúc vô biên của Thiên Chúa.
Thứ ba, mạc khải ý
nghĩa và giá trị phép rửa của Chúa Giêsu. Chính thánh Gioan đã khẳng định điều này:
“Có Đấng quyền thế hơn tôi đang đến sau tôi, tôi không đáng cúi xuống cởi quai
dép cho Người. Tôi thì tôi đã làm phép rửa cho anh em bằng nước, còn Người,
Người sẽ làm phép rửa cho anh em bằng Thánh Thần”.
Xin chia sẻ một điều
về ý nghĩa và giá trị cao quí của Bí tích Rửa tội. Chúng ta biết phép rửa của
Gioan Tiền hô chỉ là một nghi thức tượng trưng, có mục đích nhắc nhở và thúc
giục người ta ăn năn sám hối và cải thiện đời sống. Phép rửa này không có khả
năng tẩy xóa tội lỗi, không có năng lực ban ơn thánh. Bởi vì phép rửa này không
phải là một bí tích, đúng như thánh Gioan đã quả quyết, đồng thời Ngài cũng
giới thiệu một phép rửa khác, phép rửa của Chúa Giêsu, là phép rửa bằng Thánh
Thần, nghĩa là phép rửa của Chúa Giêsu là một bí tích thông ban Chúa Thánh
Thần, mặc dầu cũng dùng tới nước, nhưng nước chỉ là điều kiện, là nghi thức bên
ngoài, còn thực sự là được rửa bằng Thánh Thần, biến đổi con người tội lụy nên
con Thiên Chúa, và được hưởng hạnh phúc vĩnh cửu nước trời.
Khi chúng ta lãnh nhận
phép rửa tội, Chúa Giêsu cũng muốn chúng ta tham dự vào mầu nhiệm sự chết và
sống lại của Ngài. Chúng ta vào đời khi được sinh và vào đạo của Thiên Chúa khi
được rửa tội. Trong nghi thức rửa tội chúng ta được dìm trong nước hoặc đổ nước
trên đầu để chỉ việc tẩy rửa khỏi tội tổ tông và mọi tội riêng, được sinh lại
làm con cái của Chúa và gia nhập vào Giáo Hội. Vì thế, Giáo Hội coi bí tích tửa
tội như một cuộc tái sinh, người được rửa tội trở thành một con người mới. Họ
thấy đâu là ơn gọi và định mệnh của con người, đâu là ý nghĩa của cuộc đời.
Có một cụ già, mãi tới
khi 80 tuổi mới lãnh nhận phép rửa tội. Bắt đầu từ đó cụ sống một đời rất gương
mẫu. Hai năm sau, cụ hấp hối. Có người muốn biết cụ bao nhiêu tuổi. Cụ dõng dạc
trả lời: “Tôi mới có hai tuổi. Tám mươi năm trước khi rửa tội là những năm
chết. Tôi mới bắt đầu sống thật khi tôi chịu phép rửa tội”. Thật là chí lý.
Bí tích Rửa tội quí
trọng vô cùng, là cửa đưa chúng ta vào đoàn chiên của Chúa là Giáo Hội, vào
hàng ngũ con cái Chúa, đồng thời từ đây chúng ta được gọi là Kitô hữu. Kitô hữu
là người có Chúa Kitô. Mỗi Kitô hữu là một Đức Kitô thứ hai. Mỗi Kitô hữu là
một nối dài của chính Đức Kitô. Đó là tước hiệu cao quí của chúng ta. Tước hiệu
ấy không mua bằng tiền bạc. Tước hiệu ấy không chỉ sáng ngời trong những dịp lễ
lạc, hội hè, mà phải luôn chiếu tỏa trong từng giây phút của cuộc sống.
Nhưng phải chăng nhiều
người trong chúng ta đã là Kitô hữu một cách miễn cưỡng? Đức tin chưa phải là
niềm vui sống mà chỉ là một mớ những ràng buộc khiến chúng ta cảm thấy nặng nề,
khó khăn? Ngoài những ràng buộc của luân lý Kitô giáo và gánh nặng của những
sinh hoạt đạo giáo, biết đâu nhãn hiệu Kitô hữu lại không là đầu mối của biết
bao kỳ thị, thiệt thòi trong cuộc sống của chúng ta? Chúa Kitô đã mang lại cho
chúng ta cuộc sống mới của những người con Thiên Chúa, cho dầu cuộc sống ấy có
thể tạo ra nhiều ràng buộc, có thể đòi hỏi nhiều hy sinh và chiến đấu, có thể
gây nên những phiền toái, thua thiệt… nhưng đó là giá để chúng ta đạt được niềm
vui đích thực trong cuộc đời làm con Chúa.
Đàng khác, chúng ta đã
lãnh nhận Bí tích Rửa tội và đã được trở thành con Thiên Chúa. Nhưng chúng ta
đã sống ơn cao quí này như thế nào? Cha trên trời có hài lòng về chúng ta
không? Khi Chúa Giêsu chịu phép rửa, Chúa Cha đã phán: “Con là Con yêu dấu của
Cha. Cha hài lòng về Con”. Còn chúng ta thì sao? Nếu như bây giờ, nhận định về
chúng ta, Chúa Cha sẽ nói thế nào? Chúa hài lòng hay Chúa phải buồn rầu, đau
lòng và than phiền?
Chúng ta hãy nhớ: ơn
cao trọng và cao quí nhất khi chúng ta lãnh nhận Bí tích Rửa tội là ơn được làm
con Chúa. Vậy chúng ta phải luôn cố gắng sống xứng đáng là những người con mà
Chúa hài lòng về chúng ta.
30. Quyết định
Nhiều người trải qua
những giây phút mang tính cách quyết định trong cuộc đời. Họ tiến gần đến những
ngã tư đường, mà tại đó, họ đối diện với những chọn lựa khác nhau về cơ bản, mà
sau đó, cuộc đời họ sẽ không bao giờ trở lại giống như trước nữa.
Có thể có lúc tâm trí
con người được soi sáng. Nếu con người biết đáp ứng lại ân sủng đó, thì họ được
cất nhắc lên khỏi chính mình, và bắt đầu đi trên một con đường mới. Nếu không
biết đáp ứng lại ân sủng đó, thì cơ hội đó có thể mất đi mãi mãi. Shakespeare
nói một câu tương tự như sau:
“Trong những vấn đề
của con người, có một ngọn sóng xuất phát từ triều cường, đưa đến vận may; do
bị bỏ qua, nên tất cả hành trình của cuộc đời họ đều bị ràng buộc vào những chỗ
nông cạn và đau khổ”.
Giây phút quyết định
này có thể xô đẩy trên con người, tựa như một tiếng sét bất ngờ. Điều này xảy
đến cho một người dân ở Dublin, tên là Matt Talbot. Anh rất đam mê uống rượu.
Ngày kia, anh đang đứng bên ngoài quán rượu, van xin những người mà anh cho là
bạn bè của anh, để được uống rượu. Nhưng họ bỏ đi. Đột nhiên, anh sáng mắt ra.
Anh nhận thấy rằng anh đã tự hủy hoại cuộc đời mình, và anh quyết định bỏ uống
rượu, và nhờ ơn Chúa giúp, anh còn nỗ lực nên thánh nữa.
Hoặc giây phút quyết
định này có thể đến với con người một cách từ từ, như đã xẩy ra với mẹ Têrêsa.
Mẹ đã từng làm việc từ thiện trong một trường dòng ở Calcutta. Nhưng trong thời
gian đó, càng ngày mẹ càng cảm thấy áy náy trước sự kiện những người nghèo khổ
không được ai quan tâm chăm sóc, nằm lăn lóc trên vệ đường ngay bên ngoài bức
tường nhà dòng. Một ngày kia, mẹ rời khỏi nhà dòng, và đến làm việc giữa những
người nghèo khổ. Tên của mẹ đã trở thành một tấm gương điển hình về lòng tận
tụy đối với những người bị bỏ rơi.
Đức Giêsu cũng biết
đến những giây phút đó trong cuộc đời của Người. Bài Tin Mừng hôm nay chỉ ra
cho chúng ta một trong những giây phút quyết định đó – sự kiện Người được thánh
Gioan tẩy giả làm phép rửa trên sông Giorđan. Đây là một điểm xoay chuyển trong
cuộc đời của Người.
Trước khi diễn ra sự
kiện này, Người đã sống một cuộc sống rất âm thầm và an toàn trong một ngôi
làng thợ mộc ở Nagiarét. Nhưng trong suốt thời gian đó, Người đã được nghe thấy
một tiếng gọi đến với một công việc nào đó quan trọng hơn. Thế rồi một người
anh em họ của Đức Giêsu là Gioan bắt đầu công cuộc rao giảng và làm phép rửa
cho mọi người. Đột nhiên, Đức Giêsu từ bỏ lối sống cũ của Người, và chọn lựa
một lối sống mới – lối sống của một thày giảng dạy về mặt thiêng liêng, và chữa
lành bệnh cho các anh chị em của Người.
Kể từ giây phút đó,
cuộc đời của Người sẽ không bao giờ như trước nữa. Người đã tự phát hiện ra
chính bản thân và ơn gọi thực sự của Người. Tất cả những phẩm chất còn ẩn giấu
của Người về sự quan tâm chăm sóc và đầy yêu thương, được phát triển âm thầm
tựa như hạt lúa mì trong một cánh đồng, thì nay đã tự tỏ hiện ra, và diễn tả
đầy đủ.
Hầu hết chúng ta đều
đã từng biết đến những giây phút chứng thực cho những thời điểm mang tính cách
quyết định trong cuộc đời của chúng ta. Tuy nhiên, có thể chiều hướng của cuộc
đời chúng ta không phải là kết quả của một số quyết định, nhưng là của hàng
loạt những quyết định nhỏ bé. Thỉnh thoảng, chúng ta cần phải nhìn vào chiều
hướng cuộc sống của mình. Nếu không hài lòng với các sự việc đang diễn tiến,
thì chúng ta nên thử thay đổi. Có lẽ chúng ta đang đi vào lối sống xáo mòn.
Trong trường hợp đó, chúng ta nên cố gắng thoát ra khỏi lối sống đó.
Trong lúc lãnh nhận
phép rửa tội, chúng ta chỉ ra một hướng sống đặc biệt. Thiên Chúa muốn chúng ta
được sống, và sống dồi dào (Bài đọc 1). Nơi phép rửa tội, chúng ta được chia sẻ
sự sống của Thiên Chúa, chúng ta trở thành những môn đệ của Đức Giêsu. Chúng ta
được kêu gọi chiến đấu chống lại sự dữ, và sống yêu thương nhau (Bài đọc 2).
Vấn đề cuối cùng đối
với người Kitô hữu là: Liệu tôi có thực sự sống theo phương hướng mà tôi đã
được chỉ cho thấy, trong ngày lãnh nhận phép rửa tội không?
31. Thần Khí ngự xuống
Suy Niệm
Có ai ngờ được trong
số những người xếp hàng chờ đến phiên mình được chịu phép rửa của Gioan lại có
Đức Giêsu, Đấng thánh thiện và cao cả, Đấng mà Gioan tự nhận không đáng cởi
giày cho Ngài?
Tại sao Đức Giêsu lại
chịu phép rửa của Gioan? Ngài có phạm tội và cần xưng thú không? (Mc 1, 5) Ngài
có cần sám hối để được ơn tha thứ không? Chúng ta tin Đức Giêsu là Đấng hoàn
toàn vô tội, nên việc Ngài chịu phép rửa hẳn phải có một ý nghĩa.
Khi chiêm ngắm Đức
Giêsu xếp hàng chung với tội nhân, chúng ta hiểu được thế nào là liên đới với
người khác.
Đức Giêsu đứng chìm
trong đám đông. Con Thiên Chúa làm người đã không ngại che khuất sự cao sang
thánh thiện của bản thân để dìm mình xuống cùng một dòng nước với họ. Đấng Cứu
Độ lại sống như người cần được cứu độ. Ngài muốn đi xuống tận đáy vực thẳm của
chúng ta để nâng chúng ta lên với Ngài. Chỉ tình yêu mới giúp ta hiểu được mầu
nhiệm nơi dòng sông Giođan hôm ấy.
Ngôi Lời làm người
chính là để liên đới với loài người. Ngài đã liên đới với người nghèo ở Bêlem,
với những người lao động ở Nagiarét. Liên đới khi chịu phép rửa chỉ là khúc dạo
đầu cho sứ vụ tông đồ sau này. Ngài đã bị mang tiếng là tay ăn nhậu, bồ bịch
với quân thu thuế và tội lỗi (Lc 7,34). Cuối cùng Ngài đã chết như một tử tội
giữa hai tên trộm cướp.
Thánh Phaolô đã viết
một câu thật kinh khủng: "Đấng chẳng hề biết tội là gì thì Thiên Chúa đã
làm cho Ngài thành tội vì chúng ta."
Liên đới với những
người sống ngoài lề xã hội và tôn giáo chính là để đưa họ vào thế giới nồng nàn
tình yêu, thế giới của con người và thế giới của Thiên Chúa.
Trong môi trường chúng
ta đang sống, chỗ nào cũng có những người bị bỏ rơi vì thiếu may mắn, vì bị chà
đạp hay bị ngã sa. Liên đới là đứng chung với họ, chia sẻ một số phận. Liên đới
cũng là nói thay cho người khác tiếng nói của lẽ phải, sự thật và công bình.
Cần nhiều khiêm tốn và can đảm để dám sống và chết vì liên đới như Đức Giêsu.
Sau phép rửa, Đức
Giêsu được Thánh Thần ngự xuống. Ngài biết đã đến lúc mình được Cha sai đi vào
đời, kết thúc hơn ba mươi năm âm thầm ở Nagiarét.
Nhờ phép rửa trong Ba
Ngôi, chúng ta đã trở nên con cái dấu yêu của Thiên Chúa, nhưng chúng ta có ý
thức về ơn gọi lên đường không?
Gợi Ý Chia Sẻ
Để sống liên đới với
những người bị bỏ rơi, bị khinh miệt, bị kỳ thị, theo ý bạn, điều đó có khó
không? Bạn có kinh nghiệm nào trong việc bênh vực một người cô thế?
Đức Giêsu đã khiêm tốn
dìm mình trong sông Giođan trước khi đi rao giảng Nước Thiên Chúa. Theo ý bạn,
chúng ta có cần dìm mình trong dòng truyền thống dân tộc trước khi đi truyền
giáo không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, sám
hối không phải là điều dễ dàng, bởi lẽ chúng con không đủ khiêm tốn để nhận
mình lầm lỗi. Chúng con ngỡ ngàng khi thấy Chúa là Đấng vô tội mà lại đứng
chung với các tội nhân, chờ Gioan ban phép rửa. Chúa đã muốn nên bạn đồng hành
với phận người mỏng dòn yếu đuối chúng con.
Xin cho chúng con biết
thường xuyên điều chỉnh lối nghĩ và lối sống của mình, tỉnh táo để khỏi rơi vào
ảo tưởng, thành thật để khỏi tự dối mình.
Ước gì Chúa ban cho
chúng con ơn hoán cải, dám đi đến những hành động cụ thể, và chấp nhận những
cắt tỉa đớn đau. Nhưng xin đừng quên ban cho chúng con niềm vui của Giakêu,
hạnh phúc vì được tự do và được yêu mến.
32. Lễ Đức Giêsu chịu phép rửa - JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Câu nói của Gio-an
Tẩy giả trong bài Tin Mừng cho thấy ông là người thế nào? Có thể rút ra bài học
gì cho những người loan báo hay rao giảng Đức Giêsu? Nếu không sống tinh thần
tự hủy, thì việc loan báo hay rao giảng cuối cùng nhằm ích lợi cho ai?
2. Muốn con người
thánh ở trong ta lớn lên và làm chủ, thì con người phàm phải làm gì? Hai con
người ấy có thể cùng lớn lên không?
Suy tư gợi ý:
1. Tinh thần tự hủy
của người rao giảng Đức Giêsu
Trong bài Tin Mừng, ta
thấy có hai nhân vật chính: Gio-an Tẩy giả và Đức Giêsu. Trong hai người,
Gio-an Tẩy giả là người phàm, đến trước để loan báo; còn Đức Giêsu là Thiên
Chúa, là con người thần linh, đến sau để giải phóng nhân loại. Như thế ta thấy:
người phàm đến trước loan báo cho con người thần linh đến sau.
Để chu toàn nhiệm vụ
loan báo, Gio-an Tẩy giả phải thực hiện tinh thần tự hủy hoàn toàn, nghĩa là
hoàn toàn xóa mình đi, coi mình không là gì cả, có như thế vai trò của người
mình loan báo mới được nổi bật lên: “Có Đấng quyền thế hơn tôi đang đến sau tôi,
tôi không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Người”; “Người phải nổi bật lên, còn
tôi phải lu mờ đi” (Ga 3,30).
Người loan báo hay rao
giảng được kêu gọi và lên tiếng không phải vì mình, nhưng vì Đấng mà mình loan
báo hay rao giảng. Vì thế, muốn loan báo hay rao giảng thật sự đúng nghĩa,
chúng ta cần phải sống tinh thần tự hủy, tự xóa mình khi thực hiện công việc
này. Tuy nhiên, trong thực tế, chúng ta dễ bị cám dỗ coi việc loan báo hay rao
giảng Tin Mừng như một phương tiện để làm cho mình nổi bật lên, được mọi người
ca tụng là mình đạo đức, viết hay, giảng hay. Tới một lúc nào đó, chúng ta bắt
đầu có khuynh hướng vì mình nhiều hơn vì Chúa. Lúc ấy, một cách nào đó, ta biến
Chúa trở thành người loan báo cho ta, làm ta nổi bật lên.
Có thể ban đầu ta hoàn
toàn vì Chúa, nhờ đó ta rao giảng về Ngài rất hay, mọi người ca tụng ta là
người đạo đức, là “có lửa”. Từ khi có danh thơm tiếng tốt ấy, ta bắt đầu bị cám
dỗ bảo vệ danh tiếng ấy, và làm cho danh tiếng ấy ngày càng mạnh lên. Danh
tiếng ấy có thể giúp ta dễ “thăng quan tiến chức” trong Giáo Hội hay ngoài xã
hội. Ta bắt đầu ngày càng trở nên “vì mình” hơn và bớt “vì Chúa” đi. Dần dần ta
trở nên kẻ háo danh lúc nào không hay. Từ háo danh đến ham quyền, từ ham quyền
đến cố vị chỉ là những bước rất ngắn. Một khi đã ham quyền cố vị rồi, ta dễ
dàng bị cám dỗ làm những điều tán tận lương tâm. Vì quyền bính là một con dao
hai lưỡi, tuy cần thiết để phục vụ đại chúng, nhưng lại có khả năng tha hóa rất
mạnh. Vì thế, những người loan báo hay rao giảng Tin Mừng - nhất là những người
đã thành công trong lãnh vực này và đang nắm những địa vị quan trọng trong Giáo
Hội hay xã hội - rất cần tinh thần phản tỉnh để luôn luôn tỉnh táo đối với
chính mình: “Hãy tỉnh thức và cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ, vì tinh thần thì
hăng say, nhưng thể xác lại yếu hèn” (Mt 26,41; Mc 14,38). Thực tế cho thấy
nhiều người khi chưa nắm quyền bính thì tinh thần phục vụ rất cao, nhưng khi đã
nắm được quyền bính thì trở nên khác hẳn. Nhiều anh hùng dân tộc, nhiều chức
sắc tôn giáo đã bị tha hóa vì quyền lực.
2. Phàm nhân và thánh
nhân trong mỗi người
Bài Tin Mừng hôm nay
còn có thể hiểu theo một chiều kích khác rất sâu xa: chiều kích tâm linh. Trong
đó, Gio-an Tẩy giả và Đức Giêsu tượng trưng cho hai khía cạnh trong cùng một
con người: Gio-an Tẩy giả tượng trưng cho con người phàm của ta, và Đức Giêsu
tượng trưng cho con người thánh, con người thần linh, siêu phàm ở trong ta.
Chính con người thần linh này trong mỗi người là yếu tố cốt yếu khiến con người
là “hình ảnh của Thiên Chúa” (St 1,26-27; 9,6), “giống như Thiên Chúa” (St
1,26b). Đó là chính bản tính Thiên Chúa của Ngài được thông ban cho chúng ta:
“Thiên Chúa đã ban tặng chúng ta những gì rất quý báu và trọng đại Người đã
hứa, để nhờ đó, anh em được thông phần bản tính Thiên Chúa” (2Pr 1,4). Chính nhờ
có bản tính thần linh thánh thiện này trong bản thân mà Đức Giêsu mới có thể
mời gọi ta nên thánh: “Anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là
Đấng hoàn thiện” (Mt 5,48).
Giữa con người với con
chó, khoảng cách hữu thể tuy không xa, vì cùng là tạo vật, nhưng con chó không
bao giờ có thể trở thành người như con người dù có cố gắng luyện tập đến đâu,
vì trong con chó không có bản tính con người. Còn giữa con người với Thiên Chúa
tuy là một khoảng cách vô tận, nhưng con người có thể nên hoàn thiện, nên thánh
như chính Thiên Chúa, vì trong con người đã có sẵn bản tính Thiên Chúa mà Ngài
thông truyền cho. Nếu bản thân con người không có bản tính Thiên Chúa thì lời
Đức Giêsu mời gọi con người nên hoàn thiện như Thiên Chúa là tuyệt đối bất khả
thi, và câu nói đó trở thành vô nghĩa.
Tuy nhiên, sống hoàn
thiện như Thiên Chúa không phải dễ, vì bên cạnh con người thánh ấy luôn luôn có
một con người phàm. Một danh nhân nào đó nói: “Trong lòng mỗi người, vừa có một
vị thánh vừa có một con thú”. Thật vậy, có những lúc ta suy nghĩ và hành động
như một vị thánh, nhưng cũng có rất nhiều lúc ta lại hành động như một con thú.
Và dường như vị thánh và con thú trong bản thân ta phải luôn luôn tranh đấu với
nhau để dành thắng thế hầu làm chủ bản thân ta. Có người thì vị thánh thường
thắng thế và làm chủ, còn lắm người thì bị con thú thường khống chế toàn bộ con
người. Thánh Kinh có nói đến tình trạng trái ngược giữa hai con người này:
“Tính xác thịt thì ước muốn những điều trái ngược với Thần Khí, còn Thần Khí
lại ước muốn những điều trái ngược với tính xác thịt, đôi bên kình địch nhau,
khiến anh em không làm được điều anh em muốn” (Gl 5,17); “Những ai sống theo
tính xác thịt, thì hướng về những gì thuộc tính xác thịt; còn những ai sống
theo Thần Khí, thì hướng về những gì thuộc Thần Khí” (Rm 8,5). Kết quả của hai
cách sống đối nghịch ấy là: “Nếu anh em sống theo tính xác thịt, anh em sẽ phải
chết; nhưng nếu nhờ Thần Khí, anh em diệt trừ những hành vi của con người ích
kỷ nơi anh em, thì anh em sẽ được sống” (Rm 8,13)
a) Con người phàm thì
sống theo xác thịt:
Bản chất của con người
phàm là chỉ biết sống cho mình, sống ích kỷ, có khuynh hướng “phình to bản
ngã”. Vì thế, chỉ quan tâm tới những tham vọng hay lợi lộc ích kỷ của mình, tự
coi mình là cái rốn của vũ trụ, muốn mọi người phải phục vụ mình, luôn luôn coi
ý riêng của mình là quan trọng, thích lèo lái mọi người theo ý riêng của mình…
Kinh Thánh nói về tính cách của phàm nhân: “Những kẻ sống theo xác phàm thì hay
mơ ước những gì xác phàm đòi hỏi” (Rm 8,5); “Họ khoe mình khôn sáng nhưng đã
nên điên dại” (Rm 1,22); “Ý tưởng họ hóa ra tối tăm, vì họ lìa xa sự sống Chúa
Trời” (Ep 4,18); “Lòng trí họ miên man theo điều phù phiếm, họ ngu muội đắm
chìm trong bóng tối tăm” (Rm 1,21).
b) Con người thánh
sống theo Thần Khí:
Con người thánh là con
người sống vị tha, sống theo Thần Khí, theo sự hướng dẫn của lẽ phải, của chân
lý, công lý và tình thương. Hành động không bị chi phối bởi những động lực vị
kỷ, dục vọng, ý muốn riêng tư, mà bởi tình yêu đối với Thiên Chúa và tha nhân.
Khi không còn sống cho bản thân mình nữa, con người thánh trở nên có nhiều sức
mạnh tinh thần, luôn khôn ngoan, sáng suốt, can đảm, tâm hồn luôn bình an hạnh
phúc, thứ bình an hạnh phúc nội tâm không ai ban được mà cũng không ai lấy mất
được, ngoại cảnh không còn làm họ làm đảo điên, đau khổ nữa.
3. Phàm nhân có nhỏ
lại thì thần nhân mới lớn lên được
Nơi mỗi con người,
phàm nhân được khám phá và ý thức trước tiên. Dần dần con người khám phá ra một
tiếng nói, một khuynh hướng, một lực lượng thầm kín - nhiều khi rất mạnh mẽ -
lôi kéo mình lên khỏi những ích kỷ cá nhân của phàm ngã. Đó là thần ngã hay con
người thánh. Vấn đề là làm sao để thần ngã này lớn lên? Bài Tin Mừng cho ta một
bí quyết: Gio-an Tẩy giả - tượng trưng cho phàm ngã - để tự hạ, tự hủy để làm cho
Đức Giêsu - tượng trưng cho thần ngã - nổi bật lên. Chỗ khác Gio-an nói: “Người
phải nổi bật lên, còn tôi phải lu mờ đi” (Ga 3,30).
Phàm nhân lúc nào cũng
muốn được nổi bật, được phình to lên, nhưng nếu ta chiều theo phàm ngã, thì
phàm ngã sẽ lớn mạnh và lấn át thần ngã, làm thần ngã trở nên yếu ớt. Nhưng nếu
ta sống tinh thần tự hủy, làm phàm ngã nhỏ lại, thì tự nhiên thần ngã sẽ lớn và
mạnh lên. Hai lực lượng ấy luôn luôn tỷ lệ nghịch với nhau: lực này lớn thì lực
kia nhỏ lại, lực này yếu thì lực kia mạnh lên. Vì thế, muốn thần ngã lớn lên,
thì phải làm cho phàm ngã nhỏ đi. Không gì làm phàm ngã nhỏ đi bằng sống tinh
thần tự hủy, tự xóa mình: coi mình chẳng là gì cả, như một người nhỏ bé không
có gì là quan trọng, không cố ý làm gì để lôi kéo sự chú ý của người khác. Nhất
là không bao giờ đòi hỏi ý riêng của mình phải được thực hiện, mà trái lại sẵn
sàng thực hiện thánh ý Thiên Chúa.
Cầu nguyện
Lạy Cha, xin hãy biến
cải con thành một con người mới, con người sống theo Thần Khí chứ không theo
những đòi hỏi của phàm ngã. Nhờ đó bản tính thần linh mà Cha đã gieo mầm vào
trong bản thân con nẩy mầm và phát triển. Và hy vọng một ngày kia Cha có thể
nói với con như xưa Cha đã nói với Đức Giêsu: “Con là Con yêu dấu của Cha, Cha
hài lòng về Con”. Xin giúp con đạt được điều ấy.
33. Đức Giêsu chịu phép rửa – Lm. FX. Vũ Phan Long
1.- Ngữ cảnh
Có thể theo giáo sư G.
Gnilka mà coi Mc 1,1-15 là lời tựa hoặc mở đầu của Tin Mừng Máccô: phần này đăt
trọng tâm vào “Tin Mừng” (x. cấu trúc đóng khung với từ “Tin Mừng “ ở đầu và
cuối đoạn). Bản văn 1,7-11 chúng ta đọc hôm nay liên kết lời rao giảng của Gioan
Tẩy Giả trong hoang địa với việc Đức Giêsu chịu phép rửa, khởi đầu sứ vụ loan
báo Tin Mừng. Thật ra hai phần này biệt lập với nhau; chúng ta thấy được điều
này qua chi tiết dẫn nhập “hồi ấy” và qua sự kiện tác giả mô tả thêm một lần
nữa việc Gioan làm phép rửa trong sông Giođan. Tuy kể lại phép rửa Gioan, bản
văn lại không tương ứng hoàn toàn với các từ ngữ và cách kết cấu của c. 5.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia
thành hai phần:
1) Lời loan báo của Gioan (1,7-8);
2) Phép rửa của Đức Giêsu (1,9-11):
a) Biến cố lịch sử: Đức Giêsu chịu phép rửa (9-10),
b) Thị kiến khải huyền: Cuộc thần hiển (10-11).
3.- Vài điểm chú giải
- Ông rao giảng (7): ekêryssen, do
động từ Hy-lạp kêryssein, “công bố; loan báo”, ở thì vị hoàn (imperfect), để
diễn tả đây là một hoạt động thường xuyên của Gioan. Chúng ta đến đỉnh cao của
đoạn văn này, bởi vì chỉ đến đây, Gioan mới lên tiếng mà chỉ cho thấy Đấng ông
làm Tiền Hô cho.
- Đấng quyền thế hơn
tôi (7):
Có lẽ danh xưng này ám chỉ đến Is 40,10 (“Kìa Đức Chúa quang lâm hùng dũng [=
đến với sức mạnh], tay nắm trọn chủ quyền”). Sự tương phản giữa hai bên lớn đến
nỗi Gioan “không đáng cởi quai dép cho Người”, mà đây là công việc thấp hèn đến
nỗi một nô lệ Do-thái cũng không buộc phải làm cho chủ (sách Mishna) (x. Mt
3,11; Lc 3,16; Ga 1,15.27.30; 3,30; Cv 13,25).
- phép rửa (8): Cho dù Gioan có
thuộc về phong trào Êxêni ở Qumrân hay không, phép rửa của ông tương tự phép
rửa của người Êxêni, nhất là ở điểm cả hai phép rửa đều diễn tả một sự hoán cải
nội tâm, sự hoán cải này vừa là hành vi của con người vừa là ân huệ của Thiên
Chúa, cũng như chuẩn bị các tâm hồn đón tiếp Thiên Chúa sắp đến can thiệp vào
thời cánh chung. Tuy nhiên, Gioan khác người Êxêni ở hai điểm: không nghĩ rằng
tội lỗi gây nên một sự ô nhơ nơi thân xác; không buộc các hối nhân phải sống
một năm thử thách; chỉ ban phép rửa một lần, vì đây là hành vi chuẩn bị cuối
cùng để đón Đấng Mêsia ngự đến.
- trong Thánh Thần (8): Các bản văn Nhất
Lãm song song (Mt 3,11; Lc 3,16) đọc là “trong Thánh Thần và lửa”. Có lẽ lúc
đầu, câu này có hình thức là “gió và lửa” để mô tả biến cố Triều Đại cánh chung
của Thiên Chúa ngự đến. Mc chỉ quan tâm đối lập nghi thức chuẩn bị của Gioan
với việc thiết lập Nước Thiên Chúa nhờ hoạt động của Đức Kitô, mà không nói đến
phán xét. Nhờ đó, Người đưa lại cho “phép rửa trong Thánh Thần” ý nghĩa tích
cực là một cuộc tái sinh bên trong.
- Hồi ấy (9): dịch sát là
“trong những ngày ấy”.
- tựa chim bồ câu (10): Cả ba TMNL đều
nói đến điểm này, với hôs (“giống như”) để so sánh (riêng Mt dùng hôsei để nhấn
mạnh). Lc còn xác định rằng Thần Khí đã ngự xuống “dưới một hình dáng”
(sômatikê eidei, “in bodily form”; x. Lc 3,22).
Tại sao con bồ câu lại
trở thành biểu tượng của Thần Khí? Chúng ta không có câu trả lời rõ ràng. Rất
có thể hành động bay lượn của Thần Khí trên mặt nước nguyên thủy trong St 1,2
đã gợi ra hình ảnh một cánh chim bay lượn (tương tự trong Đnl 32,11), nhưng bản
văn ấy không nói là một con bồ câu (trừ một bản văn thuộc truyền thống kinh
sư). St 8,8 thì nói rằng Nôê đã thả một con bồ câu, nhưng lại không hề khẳng
định rằng con bồ câu này là hình ảnh của Thần Khí. Cha X. Léon-Dufour cho rằng
con bồ câu có thể gợi ra tình yêu của Thiên Chúa (x. Dc 2,14; 5,2) hoặc cuộc
tạo dựng mnới (x. St 1,2).
Trong truyền thống
Do-thái, con bồ câu có một ý nghĩa biểu tượng, liên hệ đến Israel, đặc biệt với
Israel đang lưu đày (Hs 7,11; 11,11; Is 60,8; Tv 55,7-8; 68,13; 74,19; Dc 1,15;
2,14; 5,2; 6,8) và cũng được nền văn chương Ngụy thư hoặc kinh sư sử dụng. Từ
đó cha A. Feuillet cho rằng con bồ câu đi xuống và ngự trên Đức Giêsu tượng
trưng và tiên báo điều sẽ là hoa trái chính yếu của cuộc đổ tràn Thần Khí: đó
là việc thành lập Israel mới, cộng đoàn hoàn hảo của thời đại ân phúc. Vậy,
điều được diễn tả không phảu trự tiếp là Thần Khí, mà là hậu quả đối với Dân
Thiên Chúa, khi Thần Khí hiện diện nơi Đức Giêsu. Cũng như vào ngày lễ Ngũ
Tuần, các lưỡi lửa không trực tiếp tượng trưng Thần Khí, mà là các ngôn ngữ mà
các tông đồ dưới ơn Thần Khí soi sáng, sẽ nói ra, và sâu xa hơn, tượng trưng
công việc phúc âm hóa thế giới, thì cũng vậy, con bồ câu trong Phép Rửa diễn tả
ý tưởng này là Dân thiên sai phải chọn điểm khởi hành nơi bản thần Đức
Giêsu-Mêsia, là Vua và Tôi tớ của YHWH.
Giả thuyết này cũng
hấp dẫn, nhưng thật khó áp dụng vào bản văn Mc. Hẳn là bản văn St 8,8 vẫn có thể
giúp ích: con bồ câu được thả ra mà không có chỗ đậu, phải trở lại tàu Nôê,
phải chăng muốn nói rằng trong một thời gian dài, Thần Khí không có chỗ đậu là
một người nào, cho đến khi Đức Giêsu xuất hiện? Dù sao, ít ra chúng ta có thể
nói rằng Thần Khí rất gần gũi với Đức Giêsu, trong tư cách là Đấng Mêsia đi rao
giảng Nước Thiên Chúa, và điều này lại khiến chúng ta nhớ tới Is 42,1.
- ngự xuống trên Người (10): Mt, Lc va Ga
đều nói rằng Thần Khí ngự xuống “trên” (epi; Mc: eis) Đức Giêsu. Các nhà chú
giải thường nghĩ đến Is 11,1-2a: “Từ gốc tổ Giesê, sẽ đâm ra một nhánh nhỏ, từ
cội rễ ấy, sẽ mọc lên một mầm non. Thần Khí Đức Chúa sẽ ngự trên vị này”.
4.- Ý nghĩa của bản
văn
* Lời loan báo của
Gioan (7-8)
Tương hợp với câu
trích Is nói về tiếng nói của người loan báo, hoạt động của Gioan được mô tả
như là một việc “hô to [như anh mõ làng]”; “công bố”; “phổ biến” (kêryssein).
Hành vi này đưa ông đến gần Đức Giêsu (1,14.38t), các môn đệ (3,14; 6,12), Tin
Mừng (13,10; 14,9), các sứ giả đức tin (1,45; 5,20; 7,36). Cùng với sự đối lập
giữa phép rửa của ông với phép rửa của Đấng Mêsia, ông loan báo “Đấng quyền thế
hơn (= Đấng mạnh hơn [ông])” đang đến. Phép rửa của ông không phải là một nghi
thức có sức tha tội (Bí tích Rửa tội), nhưng là phương thế giúp người ta bày tỏ
lòng thống hối và quyết tâm thay đổi đời sống.
* Phép rửa của Đức
Giêsu (9-11)
Phần này với phần trên
biệt lập với nhau. Chúng ta thấy được điều này qua chi tiết dẫn nhập “hồi ấy”
và qua sự kiện tác giả mô tả thêm một lần nữa việc Gioan làm phép rửa trong
sông Giođan: tuy kể lại phép rửa Gioan, bản văn lại không tương ứng hoàn toàn
với các từ ngữ và cách kết cấu của c. 5. Dường như tác giả Mc quan tâm đặc biệt
đến miền Galilê; do đó, ngài đã nêu bật rằng Đức Giêsu đến từ một miền khác với
miền xuất phát của các đám đông đến với vị Tẩy Giả.
Bản văn này liên kết
một biến cố lịch sử với một thị kiến khải huyền. Biến cố lịch sử là phép rửa
Đức Giêsu nhận bởi tay Gioan. Thị kiến khải huyền cho biết Đức Giêsu là ai.
Người đến từ làng Nadarét. Đối với Mc, điều quan trọng là làng ấy thuộc về miền
Galilê. Nhưng Nadarét lại được coi như địa điểm từ đó Đức Giêsu đến “trong
những ngày ấy” (= “hồi ấy”, PVCGK). Chi tiết mông lung về thời gian này, tuy
quy về quá khứ, lại đưa lại cho việc Đức Giêsu xuất hiện một đặc tính long
trọng.
Tại sao Đức Giêsu lại
đến chịu phép rửa bởi tay Gioan, khi mà Người không có tội lỗi gì? Chính sứ
mạng của Người đưa Người đến chỗ sẵn sàng liên đới với các tội nhân, tự đồng
hóa với họ. Tác giả Mc, cũng như hai tác giả Lc và Mt, không muốn tường thuật
cho chúng ta chuỗi các biến cố đã xảy ra hôm ấy. Tác giả chỉ muốn dạy chúng ta
biết Đức Giêsu là ai bằng cách vận dụng ba hình ảnh mà các độc giả thời ngài
hiểu rất rõ:
1) Hình ảnh “trời xé
ra”. Hình
ảnh này nhắc đến Is 63,15-19: trong đoạn văn này, vị ngôn sứ xin Thiên Chúa “xé
trời mà ngự xuống”, nghĩa là chấm dứt tình trạng thinh lặng của Ngài và đừng ở
xa cách Dân Ngài nữa. Ông xin Thiên Chúa lại mở lòng ra và lại tỏ ra là bạn hữu
của nhân loại. Khi dùng hình ảnh này, Mc muốn nói với chúng ta rằng cuộc sống
công khai của Đức Giêsu đánh dấu khởi đầu cuộc hòa giải giữa trời và đất, giữa
Thiên Chúa và chúng ta.
2) Hình ảnh “con bồ
câu” đưa
chúng ta trở lại với những gì đã xảy ra vào thời gian Lụt hồng thủy (St 8). Vào
lúc đó, trời bị đóng lại và có sự thù nghịch giữa Thiên Chúa và loài người. Con
bồ câu với cành ô-liu cho biết là sự sống đã tái sinh trên mặt đất, nghĩa là
Thiên Chúa đang thôi giận loài người, hòa bình đã được phục hồi.
3) Tại sao Thần Khí
lại được so sánh với một con bồ câu? Trong thời Cựu Ước, YHWH ban quyền lực của Ngài cho các ngôn
sứ, làm cho các ngài nên can đảm và có khả năng hoàn tất các nhiệm vụ Ngài ký
thác (x. Is ch. 6; Gr 1,6-10). Vào ngày nhận phép rửa, Đức Giêsu cũng đã được
tấn phong và nhận quyền lực đó để chu toàn sứ mạng. Tại Israel, từ lâu rồi, đã
vắng bóng những con người của Thiên Chúa. Vị ngôn sứ cuối cùng đã qua đời cách
đây 300 năm. Trời đã đóng lại, y như thể Thiên Chúa không còn muốn nói với Dân
Ngài nữa. Thần Khí Đức Chúa giống như một con bồ câu bay cùng khắp mà không tìm
ra được một ai để có thể đậu lên. Khi cho Thần Khí của Ngài xuống trên Đức
Giêsu, Thiên Chúa cho thấy rằng Ngài đã tìm ra con người theo ý Ngài, và nay
một lần nữa, Ngài lại ngỏ lời với một con người.
Ngoài ra, có hai chi
tiết cần để ý vì có ý nghĩa thần học sâu sắc:
- Nơi Đức Giêsu chịu
phép rửa là bờ sông Giođan. Chúng ta đọc thấy trong Cựu Ước rằng Dân Israel được Giôsuê
hướng dẫn, đã đi qua sông Giođan trước khi bước vào Đất Hứa. Ở đây Mc giới
thiệu Đức Giêsu như Giôsuê mới dẫn dắt Dân mới của Thiên Chúa (trong tiếng
Híp-ri, tên “Giêsu” cũng là tên “Giôsuê”).
- Thời điểm Đức Giêsu
nhận Thần Khí (“khi Người vừa ra khỏi nước”, chứ không phải lúc Người còn
đứng trong dòng sông, như nhiều bức họa diễn tả). Sau khi qua sông Giođan,
Giôsuê được đầy thần khí của Thiên Chúa để ông có thể dẫn đưa Dân vào Đất Hứa.
Với Đức Giêsu cũng thế: khi vừa ra khỏi nước, Người nhận Thần Khí cùng với
quyền lực của Thiên Chúa để có thể hướng dẫn dân Thiên Chúa đi đến tự do. Con
đường đó thế nào, tác giả Mc sẽ dần dần viết ra.
+ Kết luận
Rất có thể giai thoại
này là một kỷ niệm về tình trạng căng thẳng giữa các môn đệ của Gioan Tẩy Giả
và môn đệ của Đức Giêsu: họ tranh cãi để xem vị Thầy nào cao trọng hơn. Các môn
đệ Gioan cho rằng vị Tẩy Giả cao trọng hơn vì đã ban phép rửa cho Đức Giêsu;
còn các môn đệ của Đức Giêsu thì khẳng định rằng chính Đức Giêsu mới là Con
Thiên Chúa và có Thần Khí chan hòa. Dù sao, ở đây còn có một bài học khác nữa.
Các Kitô hữu tiên khởi khó mà chấp nhận được rằng Đức Giêsu lại chịu phép rửa.
Phép rửa của Gioan là đễ diễn tả quyết tâm thống hối, và do đó người Pharisêu,
vì nghĩ rằng họ công chính, chẳng bao giờ nghĩ rằng họ cần phải nhận phép rửa.
Thế mà Đức Giêsu lại nhận phép rửa, khi mà Người là Con Thiên Chúa, Người hoàn
toàn trong sạch! Đức Giêsu đã chịu phép rửa ngay lúc bắt đầu cuộc sống công
khai, thật ra là để đứng vào hàng ngũ những kẻ tội lỗi, đồng hóa với họ. Đấy là
một chọn lựa của Người, của chính Thiên Chúa.
Sau lễ Giáng Sinh,
phụng vụ nói đến khởi đầu cuộc sống công khai của Đức Giêsu. Đức Giêsu chính là
Người Tôi Trung cùa Chúa Cha; Người sẽ đưa lại một quan hệ được đổi mới giữa
chúng ta với Thiên Chúa
5.- Gợi ý suy niệm
1. Người Kitô hữu cũng
có một vai trò tiền hô đối với anh chị em mình. Muốn thế, cần xác định rõ ràng
quan hệ của mình với “Đấng đang đến”, để khiêm tốn và trung thực giới thiệu về
Người như là Đấng đã đang có mặt trong lịch sử loài người.
2. Đức Giêsu đã sẵn
sàng đứng vào hàng các tội nhân, tự đồng hóa với họ, trở nên một người như họ,
trong khi Người hoàn toàn trong sạch. Chúng ta, là những người có tội, phải
chăng chúng ta lại xa cách anh em y như thể sợ rằng không ai biết cho sự lành
thánh của chúng ta! Chúng ta có biết đồng cảm với những người có cuộc sống
không thành công chăng? Một Kitô hữu có được phép lên án người khác chăng? Thầy
chí thánh chúng ta đi theo không bao giờ trách mắng những kẻ tội lỗi, Người
đồng cảm với họ, Người bảo vệ họ và ngay từ đầu, Người đứng vào hàng ngũ của
họ. Đấy là những điểm khiến các môn đệ Đức Giêsu phải suy nghĩ.
3. Chúng ta thuộc về
đoàn dân mới của Thiên Chúa, đoàn dân đang tiến bước, có Đức Giêsu là Vị thủ
lãnh đầy Thần Khí. Thầy chí thánh đang dẫn chúng ta đi về đâu? Chúng ta phải
bước theo Người với cung cách nào? Tác giả Mc sẽ trả lời các câu hỏi này cho
chúng ta dọc theo năm phụng vụ với Tin Mừng của ngài, và mời gọi chúng ta can
đảm bước theo Đức Giêsu, là “con đường” đưa chúng ta về với Thiên Chúa.
4. Chúng ta cũng đã
nhận phép rửa tội, chúng ta cũng có Thánh Thần, chúng ta cũng có chức năng
vương đế. Chính vì thế, chúng ta phải biết cộng tác với Đức Giêsu, Đấng hướng
dẫn chúng ta, bằng cách chế ngự tính mê tật xấu của riêng mình, đồng thời giúp
anh chị em chúng ta thắng vượt các trở ngại khiến họ không thong dong bước theo
Đức Giêsu được.
5. Thánh giám mục
Maximô thành Turinô (?-khoảng 420) đã giảng trong Lễ Hiển Linh như sau: “Hôm
nay, Chúa Giêsu đã đến nhận phép rửa. Người đã muốn rửa mình trong dòng nước
Giođan. Có lẽ có người sẽ nói: ‘Người là Đấng Thánh, tại sao Người lại muốn
được ban phép rửa?’ Vậy xin nghe đây. Đức Kitô được ban phép rửa không phải để
được nước thánh hóa, nhưng để chính Người thánh hóa nước và thanh tẩy bằng hành
động cá nhân các dòng nứơc Người chạm tới. Vậy ở đây là việc thánh hiến nước
hơn là thánh hiến Đức Kitô. Bởi vì, kể từ khi Đấng Cứu Thế được rửa, tất cả các
dòng nước trở thành trong sạch nhằm phép rửa của chúng ta; nguồn được thanh tẩy
là để cho ân sủng được ban cho các dân tộc sẽ đến sau đó. Vậy Đức Kitô là người
đầu tiên bước đến phép rửa để cho các dân Kitô hữu không ngần ngại bước đi theo
Người.
Và ở đây tôi hé thấy
một mầu nhiệm. Cột lửa lại đã không đi trước qua Biển Đỏ để khuyến khích con
cái Israel bước theo sau đó sao? Cột lửa ấy đã đi qua nước trước tiên để vạch
ra con đường cho những người theo sau. Theo chứng từ của thánh tông đồ Phaolô,
biến cố này đã là một biểu tượng của phép rửa tội (1 Cr 10,1t). Hầu chắc đây là
một thứ phép rửa trong đó người ta được bao phủ bởi các đám mây và được nâng đỡ
bởi các làn nước. Và tất cả những điều đó đã được hoàn tất bởi cũng một Đức Kitô,
Chúa chúng ta, Đấng bây giờ đi trước các dân tộc Kitô hữu trong cái cột là thân
thể Người, như Người đã đi trước con cái Isreal qua biển trong cột lửa. Cũng
cái cột ấy, xưa kia đã ban ánh áng cho mắt những người bước đi, nay ban ánh
sáng cho con tim các tín hữu. Khi xưa, cột ấy đã vạch ra trong các sóng nước
một con đường vững chắc, bây giờ cột ấy đang củng cố các bước chân đức tin
trong cuộc thanh tẩy này”.
34. Chú giải của Noel Quesson
CHÚA GIÊSU CHỊU PHÉP
RỬA
Sau một cuộc đột nhập
vào Tin Mừng của Luca và Matthêu, để khám phá những mầu nhiệm về Giáng sinh và
Hiển Linh, vì chỉ có hai Tin Mừng đó mới nói cho chúng ta về thời thơ ấu của
Đức Giêsu... giờ đây ta gặp lại Tin Mừng Máccô. Chính Máccô bắt đầu trình thuật
của mình lúc khởi sự đời sống công khai của Đức Giêsu. Và như thế chúng ta được
dẫn ngay vào giai đoạn trưởng thành của Đức Giêsu. Lúc đó Ngài khoảng ba mươi
tuổi.
Gioan Tẩy Giả loan báo
trong hoang địa rằng: “Có một Đấng quyền thế hơn tôi, đến sau tôi"
Trong các Tin Mừng của
Matthêu và Luca, lời loan truyền của Gioan Tẩy Giả mang một nội dung mãnh liệt,
nhằm báo động ngày chung thẩm sắp tới gần: "Loài người rắn độc kia... Hãy
tỏ lòng ăn năn sám hối... cái rìu đã đặt sát gốc cây" (Mt 3,7-10; Lc
3,7-9) Máccô hoàn toàn bỏ qua kiểu giảng truyền trên, để chỉ ghi lại lời loan
báo Phép rửa của Người... Gioan Tẩy Giả chỉ nhằm giới thiệu Đức Giêsu "Đây
là Đấng đến sau tôi mà các ông đang ngóng đợi" Người đã đến nơi rồi. Các
ông hãy sẵn sàng!
Tôi không xứng đáng
cúi xuống cởi dép cho Người.
Như thế, ngay từ đầu
trình thuật, Máccô đã lưu ý ta: Đức Giêsu mà ông sắp nói đến mang một mầu
nhiệm. Đấng chưa biết rõ này, trước khi công khai xuất hiện, đã được người ta
mong chờ. Điều đó muốn làm nổi bất nhân cách phi thường của Người: Vậy ông ta
là ai? Gioan Tẩy Giả còn không dám "cúi xuống trước Người"!
Tôi, thì tôi làm phép
rửa cho anh em bằng nước, còn Người, Người sẽ làm phép rửa cho anh em bằng
Thánh Thần".
Trong chương đầu tiên
này. Máccô đã đề cập đến Thánh Thần tới ba lần. (Mc 1,8.10.12). Sự nhấn mạnh
của ông hẳn là không để ta cứ vô tâm được. Chính các thính giả của Gioan Tẩy
Giả cũng không thể nhầm lẫn. Như chúng ta họ phải biết lời tiên báo liên hệ đến
Đấng Mêsia vị mang Thần Khí. (Is 11, 1-3; 42,1; 61,1) và truyền thống dồi dào
Thần Khí trên nhân loại vào thời cứu độ (Is 32,15; 44,3; 59,21; Dt 11,19;
36,25; 2.9,37; 39,29 Ge 3,l...) Do đó, lời rao giảng của Gioan Tẩy Giả chính là
nhằm loan báo Đấng Mêsia đã đến gần kề, Người sắp đổ tràn Thần khí, để làm phát
sinh một nhân loại mới.
“Người làm phép rửa,
nhận dìm anh em trong Thần khí” Chúng ta có ý thức rằng, phép rửa Kitô giáo của chúng ta: cũng
như thế không? Nói chung, chúng ta còn chưa sống thực sự ý nghĩa thâm sâu của
phép rửa mình lãnh nhận. Vì bị nhận chìm trong môi trường vô thần hiện nay, tất
cả chúng ta thường dễ cho rằng, việc "cứu độ" nhân loại là do hậu quả
những nỗ lực, những thái độ nhân bản đầy giá trị của ta. Quan điểm về khoa học
kỹ thuật cũng tạo cho ta quen nghĩ rằng, việc cứu độ con người nằm ngay trong
con người: chúng ta phải trở nên liên đới hơn, hãy làm chủ thiên nhiên hơn, hãy
sống chia sẻ nhiều hơn. Điều đó không sai. Nhưng tất cả "Mạc khải Kinh
Thánh" (và kinh nghiệm chính thức nhất của con người) cũng nói cho ta hay,
ý nghĩa sự sống của con người không nằm trong con người: vũ trụ dù lớn lao cách
mấy, cũng không tự mình có "cứu cánh” được con người chỉ có thể hoàn tất
trọn vẹn, khi mơ tới một thực tại siêu việt: Đó là Thần khí của Thiên Chúa! Như
thế, câu trả lời cuối cùng cho tất cả các vấn nạn lớn, không nằm trong con
người. Có ích lợi gì khi lên vũ trụ và lên tới mặt trăng, mà vì thế mà lại tự
sát? Chiều kích "siêu việt" càng ngày càng khẩn thiết. André Malraux
viết: "Thế kỷ XXI sẽ là kỷ nguyên Kitô giáo, hay nó không là gì cả!"
Cũng trong những ngày
ấy, Đức Giêsu từ thành Nagiarét miền Galilê đến, và được ông Gioan làm phép rửa
cho tại sông Giođan.
Đây là lần xuất hiện
đầu tiên của Đức Giêsu trong trình thuật Máccô.
Đấng "chưa được
nhận biết" này đã âm thầm sống ba mươi năm trong bóng tối của một càng quê
nhỏ bé, mà cả Kinh Thánh, các sách Talmud, lịch sử hay địa lý cũng chưa khi nào
nhắc đến... trước khi con người Giêsu chưa làm cho nó nổi danh trên thế giới,
Vào thời đó, theo những khai quật khảo cổ Nagiarét chỉ gồm 20 nóc gia, và như
thế khoảng độ một trăm dân cư. Chính từ vẻ tối tăm lạ thường đó, lại phát sinh
một trong những biến động lịch sử lớn lao nhất, làm thay đổi bộ mặt địa cầu.
Vậy con người Giêsu đó là ai? Lúc này đây, Người vẫn giữ vẻ bề ngoài như một
người bình thường: Người cũng đến nhận phép rửa sám hối.
Vừa lên khỏi nước, Đức
Giêsu liền thấy các tầng trời mở ra.
Mô tả cảnh này, Luca
và Matthêu dùng một từ êm dịu hơn: "Trời mở ra". Còn Máccô viết: Tầng
trời "mở tung ra".
Vừa rồi, khi bàn đến
Phép rửa, ta đã gợi lên một thế giới mà trong đó con người có khuynh hướng tự
đóng khung mình vào. Giờ đây Đức Giêsu chọc thủng một lỗ hổng trong vũ trụ đã
đóng kín đó. Kể từ giờ trở đi trong con người của Đức Giêsu, nhân loại sẽ có
một "kẽ hở" để thông hiệp với thế giới Thần linh.
Qua cách dùng từ gợi
hình trên, ta có thể nhận ra lối viết thực tế của Máccô. Nhưng ta cũng có thể
coi đây là một ám chỉ tới Isaia; vào thời lưu đày đau khổ, trong khi mệt mỏi và
âu lo vì Thiên Chúa vân lặng thinh, một vị ngôn sứ đã khẩn cầu Thiên Chúa hãy
phá tan sự thinh lặng như thời kỳ giải phóng khỏi cảnh nô lệ Ai Cập, và lời cầu
nguyện của ông đã trở thành tiếng kêu van: "A! ước gì Người xé trời mà
xuống..." (Is 63,19).
Đức Giêsu liền thấy
các tầng trời mở tung ra, và thấy Thần khí tựa như chim bồ câu ngự xuống trên
mình.
Cảnh này là cảnh đầu
tiên trong cuộc đời của Đức Giêsu, theo Máccô. Theo vị thánh sử này, thì tác
động đầu tiên của Đức Giêsu là "một cái nhìn", chỉ mình Đức Giêsu đã
chứng kiến trời "xẻ mở" như trên, nhờ đó, Thần khí mới đáp xuống. Như
vậy, chúng ta đang đứng trước một biến cố siêu nhiên, mà những người mục kích
khác không nhận ra. Đó là cái nhìn nội tâm, chắc chắn diễn tả cách đào sâu
lương tâm mà Đức Giêsu có được là do tư thế làm con Thiên Chúa và do sứ vụ của
Người. Chúng ta cũng cần nỗ lực để hình dung ra sinh hoạt tâm lý của Đức Giêsu:
Người đã không "trở nên" con Thiên Chúa nhờ tiến hóa bởi vì Người luôn
luôn là con... Nhưng, xét là một người đích thực, cần phải có một tình trạng
tiến triển nào đó trong lương tâm Người, phù hợp theo độ tuổi và theo những
kinh nghiệm của Người: Ngày nay, ta có thể nói đó là một thứ "trực
giác" hơn là một cái nhìn. Nhưng ngôn từ cửa chúng ta còn quá yếu kém để
diễn tả những thực tại của Thiên Chúa.
Cựu Ước thường minh
chứng cho ta, cách Thần khí xâm chiếm một người để trao cho một sứ vụ rõ ràng
(Is 11,2; Tt 6,34; 14,19; 15,14). Và thực sự ta có thể hình dung ra được, Đức
Giêsu bị xâm chiếm bất ngờ trong toàn thân Người, để xác tín về "vai
trò" phi thường Người sẽ đảm nhận.
Thần khí đã tự
"tỏ hiện" dưới dáng vẻ nào? Ta thấy bản văn dùng từ “như”- “như một
chim bồ câu”. Trong ngôn ngữ Khải huyền, hình ảnh đặc thù này được sử dụng có ý
gợi lên điều gì không thấy được: “Ao người trắng như tuyết, tóc đầu người như
len trắng" (Đnl 7,9).
Nếu ta được dịp hiện
diện trong một cuộc "thần hiện", nghĩa là một cuộc "tỏ hiện của
Thiên Chúa", ta sẽ thấy không thể dùng lý trí để đi sâu vào mầu nhiệm
được: Thiên Chúa không bao giờ xuất hiện như một thứ "thách đố” đối với
con người... từ mọi phía Người vượt qua mọi khả năng cảm nhận và tưởng tượng
của ta. Cần phải chấp nhận sự "xé mở", và để mình chìm trong lỗ hở đó
như rơi vào trong một vức thẳm.
Lại có tiếng từ trời
phán rằng: “Con là con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về con".
Đây là kinh nghiệm độc
nhất về tình âu yếm. Đức Giêsu biết mình được yêu. Hiển nhiên một ít người đã
có dịp gần Đức Giêsu, khám phá ra nơi Người một kiểu tương quan hết sức đặc
biệt với Thiên Chúa. Trong lúc cầu nguyện Người nói với Đấng vô hình trong một
mối thâm tình mà trước Người không ai dám sống như vậy. Người thưa lên:
“Abba!" có nghĩa như "Ba ơi!" (Mc 14,36).
Từ nhiều năm, trong
thôn làng Nagiarét nhỏ bé và tăm tối của mình, Người vẫn âm thầm sống cách diệu
kỳ mối tình con thảo đó. Và giờ đây mới có dịp vang lên như tiếng chuông ngân
vui trong trái tim Người: "Con là tình yêu của Cha. Con là con độc nhất
của Cha. Cha hài lòng về con". Chắc chắn, những lời đó đã được rút ra từ
Kinh Thánh. Tốt hơn ta nên đọc lại những câu trên mà Đức Giêsu hẳn đã suy niệm,
thưởng nếm nhiều năm trong khi cầu nguyện tại Hội đường, hay trong nếp sống
hàng ngày tại căn nhà bé nhỏ, với Đức Maria, trong khi làm việc. Có lúc nào bạn
cảm nghiệm như thế không? Bạn có cảm thấy mình được yêu chưa? Có đáp trả tình
yêu đó? Tình yêu như một cái vừa mạnh mẽ, vừa dịu êm, đem lại cho mọi giây phút
đời bạn tràn ngập bình an và hạnh phúc.
Ta sẽ là Cha nó, và nó
sẽ là con Ta (2 Sm 7,14).
Đức Giêsu đã phán với
tôi rằng: "Người là con Ta, chính hôm nay, Ta đã sinh ra người". (Tv
2,7)
"Này đây tôi tớ
của Ta, kẻ Ta đã chọn và hồn Ta sủng mộ" (Is 42,1).
"Hỡi Giêrusalem,
người ta sẽ gọi ngươi tên mới: Ngươi sẽ không còn bị người ta nói: "Đồ
bỏ!”, thiên hạ sẽ gọi ngươi "Sủng ái của Ta" (Is 62,4)