LINH MỤC,
hoa trái từ sáng kiến của Thiên Chúa
Những
người hiểu các linh mục chính xác nhất qua những nét đặc thù của các ngài, là
những người... đã “ngộ” ra thế nào là sức mạnh mãnh liệt của ân sủng Chúa ban
cho các linh mục và qua các linh mục.
Khi nào bị mấy anh bạn đồng nghiệp tại các trung tâm ngoại ngữ hỏi tới
tấp: “Linh mục là gì vậy?” “Giám mục là
gì vậy?”, nhất là “Tại sao anh trở
thành linh mục?”, tôi thường trả lời không biết. “Nếu vậy, anh đã không được tự do khi chọn làm linh mục à? Anh đã không
được hành động theo lương tâm của mình à?” Tôi đáp lại: “Khi lập gia đình, nếu có bị hỏi tại sao kết
hôn và tại sao kết hôn với cô này anh nọ, bạn cũng trả lời như vậy thôi: không
biết. Vì trong tình yêu, có bao giờ người ta biết rõ những lý do sau cùng đâu;
thế nhưng người ta vẫn tin rằng mình đã tự do khi làm thế”. Tại sao trở
thành linh mục ư? Đó cũng là kết quả của một tình yêu, và
nguyên nhân sâu xa của việc này nằm trong đáy lòng mình. Nói thế có nghĩa là
làm linh mục không phải là một việc làm hoàn toàn phi lý, nhưng cũng không phải
là một việc hợp tình hợp lẽ như người ta thường nghĩ.
Linh mục, một người mâu thuẫn
Nếu là một nhà tâm lý hay xã hội học muốn tìm hiểu con người và cuộc
sống của người linh mục, chắc hẳn tôi sẽ cố gắng khám phá ra duyên do động lực
đã đưa người ấy tới chỗ trở thành linh mục, tâm lý – khuynh hướng – tính tình
và những vấn đề của đương sự trong lãnh vực ấy, môi trường sống của người linh
mục từ tấm bé cho tới khi lớn lên và trưởng thành (môi trường gia đình, môi
trường sinh sống, môi trường giáo dục, môi trường làm việc…). Tôi cũng sẽ thử
định nghĩa linh mục dựa vào những việc ông ta làm – nhưng đó cũng có thể là
những việc mà người khác làm, nhất là khi khan hiếm linh mục. Tuy nhiên, chuyện
gì sẽ xảy ra nếu giản lược linh mục vào các vai trò hay nhiệm vụ phải làm, dù
đó là những vai trò hay nhiệm vụ không thể thay thế được trong cộng đoàn? Cứ
thử nghĩ xem: nếu chỉ dựa vào những đặc điểm sinh học riêng biệt để phân phối
vai trò và nhiệm vụ cho người nam và người nữ thì không những làm giảm bớt đi
sự phong phú của mỗi bên, mà có khi còn sai lầm nữa vì cả khi cùng làm một
nhiệm vụ hay thi hành một vai trò, nhưng người đàn ông sẽ làm khác, người đàn
bà lại làm khác.
Như vậy, các quan điểm trên chỉ có giá trị bổ túc; còn nếu muốn hiểu
đúng bản chất sâu xa của linh mục thì phải dựa vào đức tin. Vượt lên trên những
gì có thể quan sát hay nắm bắt được về người linh mục, bản chất sâu xa của linh mục vẫn
vô hình và chỉ khi nào nhìn bằng cặp
mắt của Đức Ki-tô mới trông thấy. Sở dĩ thế là vì ngọn nguồn của chức linh mục
nơi người này hay nơi người kia là tiếng gọi và sự sai phái của Đức Ki-tô: linh
mục được Đức Ki-tô mời gọi và sai đi làm một nhiệm vụ đặc biệt là làm sao cho
trong Giáo Hội là Thân Thể của Người luôn có sự hiện diện của Đức Ki-tô trong
tư thế là Đầu hay Thủ Lãnh để cứu độ và thánh hoá con người.
Chính vì thế, linh mục sẽ mãi mãi là con người mâu thuẫn vì vừa làm chi thể của Đức Ki-tô như tất cả mọi người đã chịu phép Rửa, vừa làm người thay mặt Đức Ki-tô trong tư thế là Đầu hay Thủ Lãnh. Vừa được chọn giữa
loài người vừa được đặt lên làm người đứng đối diện với loài người ngay giữa
loài người. Vừa
gắn bó chặt chẽ với cộng đoàn vừa cô độc không kém khi một mình lên núi cầu nguyện, vừa liên
đới với dân vừa đứng trước mặt dân. Ngày xưa, người ta thường phân biệt đó là
kết quả của hai chức tư tế khác nhau: chức tư tế chung do phép Rửa mang lại và
chức tư tế thừa tác; tuy nhiên cả hai đều là sự thông phần vào chức tư tế duy
nhất xứng danh chức tư tế là chức tư tế của Đức Ki-tô. Khác nhau không phải chỉ
trên cấp độ hay chất lượng, mà là khác nhau tận bản chất. Vì thế, không phải cứ
thi hành chức tư tế chung tới mức “hết sức chuẩn”, không phải cứ làm giáo dân
thật tốt, là đương nhiên trở thành linh mục thừa tác. Vừa tham dự vào chức tư
tế chung của các tín hữu do và qua phép Rửa, các linh mục vừa lãnh một chức tư
tế hết sức riêng, không thể đồng hoá hay lẫn lộn với ai, do bí tích truyền
chức. Sự mâu thuẫn hay căng thẳng này, linh mục chỉ có thể đảm nhận được dựa vào mầu nhiệm
nhập thể nghịch lý của Đức Ki-tô và phỏng theo cách Ngài đã trải qua mầu nhiệm
ấy.
Sẽ chẳng có lợi cho bên nào, khi tìm cách nhập nhằng và đồng hoá hai
chức tư tế này. Cũng sẽ chẳng có lợi cho bên nào, khi ra sức đối chọi hai chức
tư tế ấy. Mà chỉ khi nào cùng phát triển cả hai chức tư tế ấy, nghĩa là linh
mục càng ngày càng đúng là linh mục và giáo dân càng ngày càng đúng là giáo
dân, cả hai bên đều sẽ được lợi. Vì chúng ta không thể làm giảm vai trò Thủ
Lãnh trong cộng đoàn, mà cũng chẳng thể nào làm giảm vai trò của Thân Mình. Có
như thế thì sự hiện diện của Đức Ki-tô trọn vẹn (gồm cả Đầu lẫn thân) mới được
bảo đảm giữa loài người chúng ta.
Nhưng có phải như thế linh mục sẽ trở nên cao trọng hơn các người khác
không? Không, ở đây chúng ta không đứng trên quan điểm lớn hay nhỏ, cao trọng
hay thấp hèn, mà là trên quan điểm khác nhau chỗ nào, đặc thù ở điểm nào. Làm linh mục là được Đức Ki-tô hiện
diện nơi mình một cách khác, không
phải như khi làm giáo dân, như khi chịu phép Rửa. Nhưng có khác tới đâu, linh
mục cũng không đương nhiên được bảo đảm khỏi yếu đuối, dốt nát, sai lầm và tội
lỗi. Chỉ có một điều duy nhất được bảo đảm, bất kể linh mục thế nào, đó là hiệu
quả của các bí tích linh mục cử hành: tội lỗi của linh mục có lớn tới đâu cũng
không làm vô hiệu một hành vi bí tích. Còn mọi việc làm khác của linh mục đều
mang dấu vết của sự bất toàn và tội lỗi. Chính vì thế, linh mục phải hoán cải
bản thân mình hằng ngày và dùng việc suy niệm, học hỏi, kinh nghiệm sống để có
thể có được ơn biết phân định đâu là cái sẽ góp phần xây dựng cộng đoàn, đâu là
cái sẽ đẩy cộng đoàn tới chỗ phá sản.
Linh mục, một người chứng thực sự có mặt của ân sủng do Chúa tặng không
Còn một khía cạnh căn bản khác của chức linh mục thừa tác cũng cần nhấn
mạnh không kém: sự hiện diện của linh mục giữa lòng Giáo Hội, đứng trước mặt
cộng đoàn tín hữu, là một bằng chứng cho thấy Thiên Chúa là người luôn có sáng
kiến, là người luôn đi bước trước bất kể con người thế nào; và nếu vậy, làm
ki-tô hữu không phải là do công khó của con người mà là do Thiên Chúa tặng
không, biếu không. Cả dòng lịch sử cứu độ đều cho thấy Lời Chúa luôn đi trước
lời con người; mọi lời con người nói đều chỉ là đáp lại một lời nào đó của
Thiên Chúa.
Đây cũng là trọng tâm của đức tin Ki-tô giáo. Vì thế, không phải tình cờ
mà cuộc đấu tranh quan trọng trong lãnh vực tín lý vào những thế kỷ đầu tiên
của Giáo Hội la-tinh là cuộc đấu tranh giành vị trí nào cho tự nhiên và vị trí
nào cho ân sủng trong đời sống đức tin của người ki-tô hữu. Cho tới nay, có lẽ
chúng ta vẫn chưa đánh giá hết sự chiến thắng mà thánh Augustinô đã giành được
đối với lạc giáo Pelagiô (lạc giáo chủ trương Mặc Khải chỉ là một sự soi sáng
thêm cho con người, còn tự mình con người đã có thể cứu được mình). Ngày nay,
có thể chủ trương cực đoan như thế không còn, nhưng vẫn còn một hình thức
Pelagiô nửa vời (“semi-pélagianisme”) luôn tìm cách cho thấy ý chí của con
người có thể vượt ra ngoài ảnh hưởng của ơn Chúa dưới chiêu bài “Hãy tự cứu
mình thì trời mới cứu ta”. Suốt trong lịch sử Giáo Hội, nhất là lịch sử dòng tu
và đan tu, cũng như ngay trong lịch sử đời mình, chúng ta luôn thấy khuynh
hướng ấy và cám dỗ ấy xuất hiện: coi nhẹ sức mạnh của ân sủng, nhân danh quyền
lực của ý chí con người.
Bản thân người linh mục là một bằng chứng cho thấy ân
sủng vượt xa tự nhiên: Giáo
Hội có thể đưa ra rất nhiều mô hình đào tạo linh mục, nhưng không thể nào làm
ra một linh mục từ A tới Z, từ gốc tới ngọn, từ đầu tới đuôi. Trong lịch sử
hình thành nên người linh mục có biết bao nhiêu điều là mầu nhiệm và không thể
hiểu được, nếu không viện dẫn tới sự can thiệp của Thiên Chúa. Chúng ta cũng có
thể minh hoạ sự vượt trội của ân sủng bằng cách liên tưởng tới việc giảng giải
Lời Chúa mà các linh mục thường làm trong các thánh lễ. Linh mục có thể ra sức
thích nghi ngôn ngữ cho hợp trình độ của cử toạ, có thể phân tích tình hình của
cử tọa, có thể tìm ra những nét nổi bật của thời đại đang chi phối cử toạ, Lời
Chúa mà ông diễn giải vẫn có sức tác động riêng của nó, đôi khi tới mức bất
ngờ. Có ra sức hội nhập văn hoá và thích nghi với thời đại tới mức nào, linh
mục vẫn không quên Lời Chúa vẫn là một cái gì đó vượt lên trên, không thể diễn
tả được, mà chỉ có chính Lời Chúa mới tự tác động được lên người nghe. Tương tự
như hạt giống Lời Chúa có bị hao hụt nhiều do rơi xuống vệ đường, do rơi vào
bụi gai hay rơi trên đá sỏi, cũng sẽ được bù đắp, thậm chí được bội thu tới mức
bất ngờ khi rơi vào đất tốt hay đúng hơn, do chính sức mạnh tiềm tàng của chính
hạt giống Lời Chúa. Cũng chính vì ý thức sự độc đáo và mãnh liệt tự Trời ban
cho các định chế, nghi thức và từ vựng tôn giáo ấy, người Do Thái có thuộc thời
đại, địa phương hay giai cấp nào cũng không tìm cách thay chữ “shabbat” bằng
ngày thứ Bảy trong tuần hay thay chữ “pesshah” bằng lễ Vượt Qua.
Linh mục, một người làm trung gian cho thế giới siêu việt
Ý thức mình là người thông dịch một cách nào đó cho cái vô hình hay cái
không thể diễn đạt được, linh mục không ngạc nhiên khi thấy mình thỉnh thoảng
trở nên như người xa lạ, một loại “Hoàng Tử Nhỏ” (tựa đề cuốn tiểu thuyết thời
danh của văn hào Pháp Saint-Exupéry) từ một hành tinh nào tới. Linh mục sẵn
sàng chấp nhận trước có thể không được nhiều người hiểu và phải nói với người
khác nhiều điều mà họ không thể hiểu hay ngay cả chính mình cũng không thể
hiểu, nếu không được khai tâm và không được ân sủng nâng đỡ.
Chẳng hạn các bí tích mà các linh mục cử hành đưa chúng ta vào một thế giới khác, không phải thế giới vật lý hay sinh học, không phải
thế giới tâm lý hay tâm linh – hiểu theo nghĩa là thế giới u uẩn và không thực,
như đang được nhiều người hiện nay quan niệm. Các bí tích đưa chúng ta đến với
các thực tại siêu nhiên, nhưng không tạo ra hiệu ứng về mặt thể lý hay tâm lý
nơi chúng ta. Ngay cả khi chúng ta tìm cách cho bí tích gắn chặt với thực tế mà
chúng ta đang sống, bí tích cũng là điều chúng ta phải tin chứ không phải để
cảm nghiệm. Không thể lấy các hiệu ứng trên giác quan đo hiệu quả của bí tích.
Nếu trong thuật trình Chúa chữa lành người bại liệt, người ta phải chọc một lỗ
thủng trên mái nhà để đưa người bệnh đến với Chúa, thì trong phụng vụ và bí
tích Chúa luôn luôn có cách để đến với tâm hồn con người, cách nào không biết,
không cần con người phải ấn định chỗ này hay chỗ kia. Bởi vì dù có được quy
định chặt chẽ tới đâu bởi Giáo Hội, phụng vụ và các bí tích vẫn là đền thờ do
Chúa dựng nên và trao tặng con người; phụng vụ và các bí tích vẫn là nhà của
Chúa và vì thế Chúa có thể ra vào cách nào và khi nào tùy ý. Hiện nay, Giáo Hội
sử dụng những phút thinh lặng để cho thấy điều ấy: Thiên Chúa ở trong nhưng
cũng ở trên phụng vụ và các bí tích; Thiên Chúa có thể được diễn tả bằng hình
ảnh, lời nói và cử chỉ, nhưng Ngài vẫn luôn vượt lên trên tất cả, và con người
chỉ còn cách là thinh lặng cung kính, chiêm ngắm và lắng nghe.
Thánh lễ luôn do linh mục cử hành (hoặc giám mục). Đó không phải chỉ là
vì Chúa Ki-tô đã trao trách nhiệm ấy cho các tông đồ và những người kế vị các
ngài. Mà còn là vì nếu thánh lễ chính là những giờ phút Thiên Chúa đột nhập vào
dòng đời, phá vỡ sự thinh lặng dài lê thê của một Thiên Chúa siêu việt xa xôi,
thì phải có linh mục loan báo tin ấy cho hết mọi người bằng cách công bố: “Đây
là mầu nhiệm đức tin”.
Nhìn lại ba vai trò của linh mục
Sau khi đã xác định lại yếu tố căn bản và độc đáo, nhưng cũng rất bất
ngờ và khó hiểu, của linh mục, chúng ta hãy nhìn lại ba vai trò linh mục thường
phải thi hành. Ba vai trò ấy là giảng dạy, cử hành phụng vụ và chăn dắt.
Rao giảng, nhưng là rao giảng hơn là hùng biện
Hiện nay, nhất là ở phương tây, có nhiều giáo dân được đào tạo thần học
rất tốt, lại có năng khiếu truyền đạt hơn cả các linh mục, và vì thế lắm khi
nói năng có sức thuyết phục hơn các linh mục. Vì thế, các chủng viện hiện nay
cũng quan tâm tới việc đào tạo khả năng giảng dạy của các ứng viên linh mục.
Tuy nhiên, rao giảng không phải chỉ là nói hay. Đoàn sủng của người giảng lễ là
một điều gì đó khác hẳn. Họ chính là người làm vọng lại giáo huấn của Giáo Hội
càng trung thành càng tốt và vì thế, dù nói năng không khéo, thậm chí không tác
động là bao trên tâm lý và tâm linh người nghe, lời giảng của họ vẫn là lời nói có thẩm quyền – được bảo đảm là trung thành với giáo lý của Đức
Ki-tô và các tông đồ và vì thế có giá trị chuẩn mực hay quy tắc cho đời sống
đức tin của các ki-tô hữu. Hãy nhớ Phao-lô đã so sánh việc giảng dạy của mình
với của Apôlô: “Chính tôi khi đến với anh
em, tôi không đến với uy thế của lời nói hay khôn ngoan để loan báo mầu nhiệm
Thiên Chúa. Tôi quyết định không biết gì ngoài Đức Giê-su Ki-tô và là Đức
Giê-su Ki-tô chịu đóng đinh. Thế nên, tôi mới ra trước mặt anh em như một người
yếu đuối, sợ sệt và run rẩy. Lời nói và việc rao giảng của tôi không giống chút
nào với các bài diễn văn đầy sức thuyết phục về sự khôn ngoan, mà chỉ là một sự
minh chứng dựa vào quyền năng Chúa Thánh Thần nhằm xây dựng đức tin của anh em
không phải trên sự khôn ngoan của loài người, mà dựa trên quyền năng Thiên
Chúa” (1Cr 2,1-5).
Cử hành, nhưng là cử hành hơn là làm linh hoạt viên
Linh mục chủ sự các bí tích, nhưng bằng cách cử hành chứ không phải bằng
cách làm linh hoạt viên. Cho dù một người cử hành bí tích muốn cử hành cách chu
đáo nhất cần phải có những đức tính và khả năng của người làm cho buổi cử hành
được linh hoạt, như một nhà tổ chức hay đạo diễn, một người điều phối hay dẫn
chương trình, nhưng bí tích vẫn luôn luôn là một sự kiện rất kín đáo và là một
dấu chỉ rất giản dị đơn sơ. Thử xét coi: mang tiếng là loan báo sự Phục Sinh
nhưng bí tích sám hối và hoà giải giản dị và đơn sơ không khác gì một bộ xương,
không có chất thể như nước hay dầu xức, mà chỉ có một dấu thánh giá, một cử chỉ
đặt tay và vài câu nói. Thế mà, theo như Đức Giê-su cho biết, chính lúc đó, các
tầng trời đều rung chuyển, một niềm vui vang dội trên trời, chỉ vì một người được
tha tội do cử chỉ đơn sơ giản dị ấy! Bí tích nào cũng thật nghèo nàn, nhưng
chính qua sự nghèo nàn ấy chúng ta thấy được Thiên Chúa thật là cao cả. Bí tích
nào cũng tựa như “đồng tiền danh dự” người ta thường phải đền cho các tội tày
đình không thể đo lường được! Các bí tích có được sức mạnh là do mầu nhiệm Đức
Ki-tô được diễn đạt qua đó. Linh mục đã vẽ ra một vòng tròn là các nghi lễ, và trong vòng tròn ấy
Đức Ki-tô đã tỏ mình ra một
cách hoàn toàn tự do vì Người la đấng luôn trung thành với những gì Người đã
hứa.
Chăm sóc, nhưng là chăm sóc hơn là chỉ huy
Ở đây cũng vậy, có nhiều tín hữu có khiếu hơn các linh mục trong việc
quy tụ và tháp tùng các cá nhân, điều khiển và vận động tập thể, giải quyết các
xung đột và căng thẳng trong cộng đoàn. Vì thế, vai trò mục tử của các linh mục
do Đức Ki-tô trao cho, nếu có trở nên uy thế, thì đó không nhất thiết là do tài
đức của linh mục, mà trước hết là do Đức Ki-tô đã từng bảo đảm: “Ai nghe anh em là nghe Thầy. Ai cự tuyệt
anh em là cự tuyệt Thầy”. Cũng theo lời chỉ dạy của Đức Ki-tô: “Người mục
tử tốt lành sẵn sàng thí mạng vì con chiên”. Như vậy, các linh mục lãnh đạo bằng cách chăm
sóc, đôi khi tới mức quên cả mạng sống
mình, hơn là ra lệnh, càng không phải là chỉ huy bằng cách chỉ tay năm ngón.
Tuy nhiên, dù rao giảng hơn là hùng biện, cử hành hơn là linh hoạt viên,
chăm sóc hơn là chỉ huy, người linh mục cũng không vì thế mà không ra sức trở
thành con người phát ngôn đáng tin cậy, người tế lễ đàng hoàng và người lãnh
đạo chính danh. Tắt một lời, nếu không nhìn bằng đức tin thì chúng ta không tài
nào hiểu được nét độc đáo và riêng biệt của các linh mục. Họ sẽ chỉ còn là ân
nhân của loài người, nhân viên của một tổ chức tương tự UNESCO có tính thiêng
liêng và nhân ái, gọi là Giáo Hội. Thánh Phanxicô thành Assisi đã có cái nhìn
đức tin mạnh mẽ nên mới viết trong chúc thư của mình khi mình vẫn chỉ là một tu
sĩ giáo dân: “Chúa đã ban cho tôi biết
tin tưởng các linh mục đã sống theo các quy định của Giáo Hội, vì các ngài đã
được truyền chức linh mục. Cho dù bị các ngài truy tố đi nữa, tôi vẫn cứ chạy
đến với các ngài. Giả như tôi có được ơn khôn ngoan như vua Salômôn và giả như
tôi phải gặp các linh mục tội nghiệp và đáng thương đang sống trong tội lỗi,
tôi vẫn không muốn giảng ngược với các ngài ở bất cứ nơi nào tôi sinh sống. các
linh mục đáng thương và tội nghiệp ấy, các linh mục tội lỗi ấy và tất cả các
linh mục khác, tôi đều muốn tôn kính và yêu mến”. Thái độ này, thật hiếm
thấy nơi các bậc cao minh. Nhưng chẳng phải là chỉ có người phụ nữ quê mùa xứ
Sarépta đã nhận ra người của Chúa nơi tiên tri Êlia hay sao? Những người hiểu
các linh mục chính xác nhất qua những nét đặc thù của các ngài, là những người
nghèo hèn, tội lỗi và trẻ con, vì họ tin vào các linh mục một cách mạnh mẽ, đơn
sơ và sâu sắc, và vì họ là những người đã “ngộ” ra thế nào là sức mạnh mãnh
liệt của ân sủng Chúa ban cho các linh mục và qua các linh mục.
Lm. Phêrô Đặng Xuân Thành
Phỏng
theo một bài viết của đức cố hồng y Godfried Danneels, nguyên tổng giám mục
Bruxelles-Malines (Bỉ)
Nhan
đề “Fruit de l’initiative de Dieu”, đăng trong tập san “Prêtres diocésains” số
tháng 11-12/2004