Vua Minh Mạng phẫn nộ truyền viết bản án như sau: “hai tội
phạm Phan Viết Huy và Bùi Đức Thể phải cho lính đem ra biển lấy rìu lớn chặt
ngang lưng, rồi bỏ xác xuống biển, để ai nấy biết tỏ điều răn cấm ….”
Kết thúc bài tin mừng,
Chúa phán: “Kẻ được gọi thì nhiều, mà
người được chọn lại ít.” Một trong những ý nghĩa của câu nói này có thể là:
trong những thời kỳ bách hại đạo Chúa, rất nhiều người bị bắt vì danh Chúa, để
chuẩn bị lãnh triều thiên tử đạo. Nhưng rồi ít người tới đích; nhiều người Chúa
đã gọi để trở thành những chứng nhân anh dũng, nhưng ít người chấp nhận thử
thách, khổ cực để trở thành những vị thánh được tôn thờ. Câu truyện ba vị thánh
sau đây Đaminh Đạt (tử đạo ngày 18.7.1839, 36 tuổi), Âu-Tinh Huy (tử đạo ngày
13.6.1839, 44 tuổi), Nicola Thể (tử đạo ngày 13.6.1839, 47 tuổi) chứng minh lời
Chúa.
Quan tổng đốc Trịnh
Quang Khanh tổ chức đại tiệc chiêu đãi tất cả các binh sĩ công giáo tỉnh Nam
Định, dựa theo lý lịch của họ. Hôm ấy có khoảng 500 anh em đến dự. Trong bữa
tiệc, quan đưa ra những lời hứa hẹn và ban thưởng dành cho những ai bỏ đạo để
trung thành với Hoàng Thượng. Ông cũng khéo léo dọa nạt những ai cố chấp không
bỏ đạo. Khi tiệc đã tàn, ông cho mời tất cả vào dinh để xét ý họ. Tại đây, quan
cho dọn sẵn những dụng cụ gia hình như gông cùm, xiềng xích, roi kìm... và dặt
tượng Thánh giá một bên. Tất cả được tự do lựa chọn, bước qua ảnh Thánh giá,
hoặc chịu gia hình tùy ý. Trong số 500 lính hôm đó chỉ có 15 người xưng đức
Tin, con bao nhiêu đều nhát sợ bỏ đạo. Tức khắc 15 người kia bị tống giam vào
ngục tối.
Ngày hôm sau, lính đưa
15 tín hữu này ra công đường, đánh đòn và cưỡng bức các ông bước qua ảnh Chúa.
Sáu người sờn lòng bỏ cuộc, chỉ còn chín người vững vàng trước trận đòn chí tử.
Cả chín lại bị tống giam vào ngục. Ba ông Huy, Thể, Đạt thuộc nhóm chín người
này.
Phan Viết Huy sinh
khoảng năm 1795 tại làng Hạ Linh (Nam Định) Thuở bé có dâng mình cho
Chúa, chuẩn bị làm thầy giảng, nhưng sau xin về lập gia đình, ông đã phục vụ trong
quân ngũ 10 năm.
Bùi Đức Thể sinh
khoảng năm 1792 tại làng Kiên Trung (Nam Định) tính đến ngày bị bắt ông
mới đi lính được một tháng.
Đinh Đạt sinh khoảng
năm 1803 tại làng Phú Nhai (Nam
Định) tuy ít tuổi nhất nhưng ông đã ở quân ngũ được 12 năm.
Riêng ông Huy, vì
trước đây có lấy vợ bé ở tỉnh, đêm hôm đó trốn ra ngoài xưng tội và làm tờ cam
kết bỏ vợ bé với cha Năng tại họ Phúc Đường, rồi trở lại nhà tù với anh em.
Ngày thứ ba, chín
người trên lại được đem ra trình điện quan tổng đốc, quan hứa thưởng tiền cho
ai bỏ đạo. Thoạt đầu không ai nghe lời, quan ra lệnh đánh đập tàn nhẫn, rồi cho
lính đánh vào đầu ngón tay từng người. Chịu không nổi, bốn người bỏ cuộc, chỉ
còn năm vị cương quyết trung thành với Chúa. Đầu tháng 6, vua Minh Mạng sai
tướng Lê Văn Đức đem 2000 khinh binh ra tăng viện cho Nam Định, đồng thời tạm
giữ chức tổng đốc trong thời gian Trịnh Quang Khanh bị cách chức. Ngày 25 tháng
6 khi đem đức cha Henares Minh và thầy Chiểu đi xử tử, tướng Đức cho dẫn năm
binh sĩ “bướng bỉnh ra pháp trường, có ý
hù dọa để các ông khiếp sợ. Ngược lại, cả năm đều tỏ ra hân hoan vì tưởng mình
cũng được chết vì đạo. Quan thấy vậy, lệnh cho lính dẫn năm ông trở về trại
giam.”
Ít bữa sau tướng Đức
gọi năm ông ra tòa, mới đầu ông dùng lời ngon ngọt dụ dỗ, nhưng không thành
công, bèn sai lính khiêng hai đầu gông từng người kéo lê trên tượng Chúa, nhưng
các ông co chân lên. Lính lấy roi đánh túi bụi, vừa đánh vừa kéo chân các ông
xuống đạp lên ảnh thánh. Thêm hai người nữa thua cuộc sau trận đòn này, chỉ còn
ba ông Huy, Thể và Đạt kiên quyết nói với quan rằng: “Các quan cưỡng bách chúng tôi đạp lên tượng Chúa, nhưng lòng chúng tôi
không chiều theo, thì chẳng phải chúng tôi bỏ đạo đâu.” Quan liền cho lệnh
đóng gông rất nặng và giam cả ba vào ngục.
Từ đấy, ba ông còn phải
chịu nhiều cuộc tra tấn khác nữa. Mỗi người khi thì 24 roi, khi 105 roi. Một
lần quan dùng lời lẽ khuyên các ông bỏ đạo, ông Huy thay mặt anh em đáp lại: “Quan lớn dạy chúng tôi bỏ đạo Thiên Chúa,
thì chúng tôi theo đạo nào bây giờ? Chúng tôi chỉ theo đạo thật thôi.” Quan
hét lên: “Nếu đạo chúng bay là đạo thật,
sao đức vua lại nghiêm cấm?” Bấy giờ ông Huy được dịp xử dụng những gì xưa
đã được học trong chủng viện, để giải thích các lẽ đạo, trả lời cách rõ ràng và
mạch lạc những câu hỏi quan đặt ra. Thấy mình đuổi lý, quan cho lệnh giam ba
ông chung với linh mục Giacô-bê Năm. Ông lý Mỹ và cụ trùm Đích. Cha Năm hỏi ba
ông: “Hôm nay thế nào, được hay thua?”
Các ông vui vẻ đáp: “Chúng con chẳng chịu
khóa quá, nên quan đã làm án xử rồi.”
Thế nhưng bản án của
các ông chưa được vua Minh Mạng châu phê. Vua truyền các quan bằng mọi cách bắt
ba ông bỏ đạo vì “khi đầu đã đứt, chẳng
còn phép chi nối lại được nữa.” Tướng Lê Văn Đức cho lệnh đóng gông và đưa
ba chiến sĩ đức Tin phơi nắng nơi công cộng, ông Huy và ông Thể ở cửa Đông, ông
Đạt ở cửa Nam suốt 21 ngày liền, mọi người đi qua đều tự do hành hạ, sỉ vả tùy
ý. Nhưng quan vẫn không đạt được mục đích.
Thánh 10.1838, Trịnh
Quang Khanh được phục chức tổng đốc, nên hết lòng tìm cách đền đáp ơn vua. Ông
cho những người đã bỏ đạo trước đây vào ngục thất khuyên dụ ba ông bỏ đạo,
nhưng những người này bị các ông trách mắng là hèn nhát dại dột, nên xấu hổ
không dám nói năng gì nữa. Tống đốc chuyển sang kế hoạch mới, dọa nạt vợ con,
thân nhân bạn bè của ba ông, bắt họ vào năn nỉ dụ dỗ, tưởng các ông sẽ xiêu
lòng, nhưng cả ba vẫn một mực trung thành với Đức Tin.
Cuối cùng quan tổng
đốc cho gọi các kỳ mục ba làng Hạ Linh, Kiên Trung, Phú Nhai đến, và hẹn trong
một tháng phải quyến ba ông bỏ đạo, bằng không sẽ bị trừng phạt. Một tháng sau,
những người này vẫn chưa đạt được công tác khó khăn ấy. Quan liền tập trung các
kỳ mục và cho lệnh đánh đòn họ trước ba người. Lần này quan thành công, ông Thể
động lòng trắc ẩn trước cảnh một bô lão làng Kiên Trung chịu đòn thâm tím vì
mình, đã xin quan tha cho cụ bằng cách đồng ý bước qua Thập Giá. Quan quân vỗ
tay reo mừng. Tiếp theo ông Đạt cũng bước qua Thập Giá. Riêng ông Huy vẫn chưa
chịu khuất phục.
Đêm hôm ấy, quan cho
người vào ngục dụ dỗ ông Huy: “Chẳng ai
cười chú đâu, vì chú đã chịu khổ rất can đảm. Vua chẳng muốn giết chú, chi bằng
cứ bước đại qua Thập Giá để khỏi rầy rà.” Ông Huy nghe nói đã bắt đầu xiêu
lòng, lại thấy hai bạn mình được tha cả rồi, nên sang hôm sau ông cũng theo chân
các bạn bỏ đạo. Quan cho mỗi người 10 quan tiền và cho trở lại quân ngũ.
Thế nhưng ba người
lính được tự do trở về nhà thấy lương tâm bứt rứt. Các ông không ngờ vụ này
không chỉ là vấn đề cá nhân. Quá nhiều người quan tâm và cầu nguyện cho các ông
mỗi ngày. Do đó việc bỏ đạo của ba người cuối cùng trong nhóm 500 binh sĩ trở
thành tin buồn lớn lao cho toàn thể. Có người không tin các ông đã đạp lên
Thánh Giá, dù các ông đã nhận lỗi nơi mình. Họ cho rằng chắc các quan đã dùng
bùa ngải làm các ông mất trí. Ba ông đi xưng tội, rồi bàn tính với nhau quyết
lên tỉnh để xưng đạo một lần nữa.
Đến tỉnh, ba ông vào
thẳng dinh quan tổng đốc trình bày nguyện vọng của mình: “Bẩm quan lớn, đạo Thiên Chúa là đạo thật, Chúa chúng tôi thờ là Đấng
quyền năng vô biên. Mấy ngày trước chúng tôi đã trót dại khóa quá, nay chúng
tôi xin trả tiền lại quan, để được giữ đạo Chúa cho thật lòng.” Quan nghe
nói nổi giận chửi mắng ba ông thậm tệ, định tống giam vào ngục để tìm cách dụ
dỗ như lần trước. Nhưng vì quan đã báo cáo lên vua việc ba ông bỏ đạo nên muốn
cho qua chuyện, chỉ dạy đánh đòn ba ông rồi đuổi ra khỏi dinh. Số tiền các ông
trả, quan trao cho hương chức ba làng của các ông.
Trở về nhà, ba ông cầu
nguyện liên lỉ và tiếp tục bàn bạc với nhau, dự tính vào tận kinh đô để tuyên
xưng đức Tin. Ba ông đến hỏi ý cha Tuyên và cha Năng. Các ngài nói tùy ý, chớ
các ông không buộc phải đền tội bằng cách đó, Cha chính Jimeno Lâm nghe biết
thì viết thư tán thành ý định của ba ông. Thế là ba ông ngồi lại với nhau viết
một sớ tâu đệ lên vua, bày tỏ niềm tin của mình. Ông Đạt cũng ký vào đơn, nhưng
vì đang phải công tác với đội binh nên không đi được. Hai ông Huy và Thể tức
tốc khăn gói vào Huế. Trước đây khi lên đường, cha Tuyên nhắc bảo hai ông phải
trông cậy vào Chúa hơn là sức mình, phải cầu nguyện nhiều. Hai ông xưng tội một
lần nữa, chào giã biệt họ hàng thân thích và xin mọi người thêm lời cầu nguyện.
Sau 20 ngày đường bộ, các ông vào tới kinh đầu tháng 5/1839. Một người con ông
Huy mới 16 tuổi cũng theo chân cha, để theo dõi kết quả.
Theo thủ tục thời đó,
ba ông đến nộp sớ tâu tòa Tam Pháp và chờ đợi. Các quan nhận sớ, nhưng lại dìm
đi không cho tâu trình lên vua. Trong thời gian chờ đợi, các ông ở trọ nhà bà
Đông, cũng là một tín hữu người Huế. Sau đó hai ông viết thêm một sớ tâu thứ hai,
nhưng tòa Tam Pháp vẫn im tiếng làm ngơ. Thế là các ông phải tính đến một hành
động táo bạo hơn. Nhân dịp vua Minh Mạng ngự giá dạo trong thành phố, hai ông
bận đồ binh sĩ đón đường, tiến ra quì trước kiệu rồng, hai tay nâng cao trên
trán một sớ tâu viết bằng Hán Tự. Viên quan hầu cận nhận sớ trình cho vua đọc.
Tuy chỉ có hai người lính, nhưng sớ ký tên ba người:Phan Viết Huy, Bùi Đức Thế
và Đinh Đạt.
Đọc xong, vua thịnh nộ
truyền bắt tống giam cả hai trao cho quan bộ Hình cứu xét.
Các quan ở kinh đô khuyến
dụ, hứa hẹn nhiều điều, rồi tra đánh đập, nhưng hai ông vẫn trước sau như một,
xưng mình là những binh sĩ có đạo. Một hôm quan hỏi tại sao trong số còn có tên
Đinh Đạt. Hai ông trả lời: “Bẩm quan lớn
anh Đạt cũng không chịu khóa quá, nhưng bận việc quân sự không đi với chúng tôi
được.” Anh ấy có nói: “Chúng tôi thế
nào, anh cũng vậy.”
Các quan trình bày sự
việc lên vua để lãnh ý. Theo lệnh vua, quan cho bầy trước mặt hai ông 10 nén
vàng, một tượng Chúa Chuộc Tội và một thanh gươm: “Cho bay tự ý chọn, bước qua tượng thì được vàng, bằng không thì gươm
sẽ chặt đôi người bay ra, xác sẽ bỏ trôi ngoài biển.” Hai ông bình tĩnh bày
tỏ ý muốn chọn gươm. Vua Minh Mạng phẫn nộ truyền viết bản án như sau:
“Trước đây trẫm đã làm án tử hình, nhưng trẫm thương tình chả
muốn giết, nào ngờ chúng đã mê dại chẳng biết sự phải lẽ. Trẫm đã mở lối cho
chúng ăn năn hối cải, song hai tên tội phạm cố chấp theo Giatô tà đạo, lại bỏ
cả việc quân vào kinh nạp sớ tâu. Thật là bọn kiêu ngạo đáng khinh đáng ghét,
chẳng thể để sống được nữa. Vậy hai tội phạm Phan Viết Huy và Bùi Đức Thể phải
cho lính đem ra biển lấy rìu lớn chặt ngang lưng, rồi bỏ xác xuống biển, để ai
nấy biết tỏ điều răn cấm ….” Phần cuối bản án, vua trao cho tổng đốc Trịnh Quang Khanh việc
điều tra danh Đinh Đạt và dạy tâu trình lại.
Ngày 13 tháng 6 năm
1839, quân lính điệu hai ông ra cửa Thuận An thi hành án lệnh. Họ dẫn hai ông
lên thuyền chèo ra khơi, đặt một Thánh Giá ngay trong thuyền để thử xem các ông
có đổi ý đạp lên chăng, nhưng thất vọng. Lính trói hai ông vào cột chèo, thay
vì chặt ngang lưng, họ chặt đầu trước rồi chẻ thân ra làm bốn, ném xuống biển.
Về phần ông Đinh Đạt,
sau khi đi công tác trên tỉnh, ông thu xếp việc nhà và chuẩn bị đón nhận cái
chết anh hùng. Tháng 6.1839, một người bạn đến báo tin ông Huy và ông Thể đã bị
hành hình, Ông Đạt tỏ ra vui mừng, báo tin cho cha mẹ bà con, từ giã mọi người.
Ông không tính chuyện bỏ trốn, chỉ chờ đợi ngày bị bắt. Vợ con khóc lóc, ông
lựa lời an ủi và quả quyết Chúa sẽ quan phòng mọi sự. Khi quân lính đến vây bắt,
ông lánh mặt ít giờ để xưng tội và rước lễ lần cuối, rồi đi theo họ lên tỉnh.
Dọc đường ông sốt sắng lần chuỗi. Đến thị trấn Nam Định, lính đưa ông vào gặp quan
tổng đốc, quan nhắn nhủ ông: “Hai bạn của
ngươi vì cuồng dại không chịu bỏ đạo tà nên đã bị chém làm tư quăng xuống biển.
Còn ngươi, nếu khôn thì chối bỏ thứ đạo đó đi để về với vợ con.” Ông Đạt
thẳng thắng thưa: “Tôi đã chịu nhiều cực
hình vì Đức Tin, nay tôi sẵn sang chịu thêm nhiều hình khổ khác nữa. Hai bạn
tôi đã được phúc trọng, quan cứ chém tôi làm tám khúc cũng được.” Quan biết
có đe dọa cũng không được việc, bèn lập án gởi vào kinh xin xử giảo.
Đinh Đạt khi nghe đọc
bản án, ông rất bình tĩnh vui tươi đón nhận. Ngày 18.7.1839 ông bước đi thanh
thản theo lính ra pháp trường Bảy Mẫu, vừa đi vừa đọc kinh. Đến nơi xử, ông quỳ
trên chiếu cầu nguyện giây lát, rồi chờ lính tháo gông trên cổ, ông nằm xuống.
Lý hình đứng hai bên dùng giây xiết cổ ông cho đến khi tắt thở.
Đề tựa của Lm. HK