Lời Chúa cntn 28a _ được chọn thì ít


ĐƯỢC CHỌN THÌ ÍT
Vua Minh Mạng phẫn nộ truyền viết bản án như sau: “hai tội phạm Phan Viết Huy và Bùi Đức Thể phải cho lính đem ra biển lấy rìu lớn chặt ngang lưng, rồi bỏ xác xuống biển, để ai nấy biết tỏ điều răn cấm ….”  
Lm. Giuse Đỗ Đình Tiệm
Kết thúc bài tin mừng, Chúa phán: “Kẻ được gọi thì nhiều, mà người được chọn lại ít.” Một trong những ý nghĩa của câu nói này có thể là: trong những thời kỳ bách hại đạo Chúa, rất nhiều người bị bắt vì danh Chúa, để chuẩn bị lãnh triều thiên tử đạo. Nhưng rồi ít người tới đích; nhiều người Chúa đã gọi để trở thành những chứng nhân anh dũng, nhưng ít người chấp nhận thử thách, khổ cực để trở thành những vị thánh được tôn thờ. Câu truyện ba vị thánh sau đây Đaminh Đạt (tử đạo ngày 18.7.1839, 36 tuổi), Âu-Tinh Huy (tử đạo ngày 13.6.1839, 44 tuổi), Nicola Thể (tử đạo ngày 13.6.1839, 47 tuổi) chứng minh lời Chúa.
Quan tổng đốc Trịnh Quang Khanh tổ chức đại tiệc chiêu đãi tất cả các binh sĩ công giáo tỉnh Nam Định, dựa theo lý lịch của họ. Hôm ấy có khoảng 500 anh em đến dự. Trong bữa tiệc, quan đưa ra những lời hứa hẹn và ban thưởng dành cho những ai bỏ đạo để trung thành với Hoàng Thượng. Ông cũng khéo léo dọa nạt những ai cố chấp không bỏ đạo. Khi tiệc đã tàn, ông cho mời tất cả vào dinh để xét ý họ. Tại đây, quan cho dọn sẵn những dụng cụ gia hình như gông cùm, xiềng xích, roi kìm... và dặt tượng Thánh giá một bên. Tất cả được tự do lựa chọn, bước qua ảnh Thánh giá, hoặc chịu gia hình tùy ý. Trong số 500 lính hôm đó chỉ có 15 người xưng đức Tin, con bao nhiêu đều nhát sợ bỏ đạo. Tức khắc 15 người kia bị tống giam vào ngục tối.
Ngày hôm sau, lính đưa 15 tín hữu này ra công đường, đánh đòn và cưỡng bức các ông bước qua ảnh Chúa. Sáu người sờn lòng bỏ cuộc, chỉ còn chín người vững vàng trước trận đòn chí tử. Cả chín lại bị tống giam vào ngục. Ba ông Huy, Thể, Đạt thuộc nhóm chín người này.
Phan Viết Huy sinh khoảng năm 1795 tại làng Hạ Linh (Nam Định) Thuở bé có dâng mình cho Chúa, chuẩn bị làm thầy giảng, nhưng sau xin về lập gia đình, ông đã phục vụ trong quân ngũ 10 năm.
Bùi Đức Thể sinh khoảng năm 1792 tại làng Kiên Trung (Nam Định) tính đến ngày bị bắt ông mới đi lính được một tháng.
Đinh Đạt sinh khoảng năm 1803 tại làng Phú Nhai (Nam Định) tuy ít tuổi nhất nhưng ông đã ở quân ngũ được 12 năm.
Riêng ông Huy, vì trước đây có lấy vợ bé ở tỉnh, đêm hôm đó trốn ra ngoài xưng tội và làm tờ cam kết bỏ vợ bé với cha Năng tại họ Phúc Đường, rồi trở lại nhà tù với anh em.
Ngày thứ ba, chín người trên lại được đem ra trình điện quan tổng đốc, quan hứa thưởng tiền cho ai bỏ đạo. Thoạt đầu không ai nghe lời, quan ra lệnh đánh đập tàn nhẫn, rồi cho lính đánh vào đầu ngón tay từng người. Chịu không nổi, bốn người bỏ cuộc, chỉ còn năm vị cương quyết trung thành với Chúa. Đầu tháng 6, vua Minh Mạng sai tướng Lê Văn Đức đem 2000 khinh binh ra tăng viện cho Nam Định, đồng thời tạm giữ chức tổng đốc trong thời gian Trịnh Quang Khanh bị cách chức. Ngày 25 tháng 6 khi đem đức cha Henares Minh và thầy Chiểu đi xử tử, tướng Đức cho dẫn năm binh sĩ “bướng bỉnh ra pháp trường, có ý hù dọa để các ông khiếp sợ. Ngược lại, cả năm đều tỏ ra hân hoan vì tưởng mình cũng được chết vì đạo. Quan thấy vậy, lệnh cho lính dẫn năm ông trở về trại giam.”
Ít bữa sau tướng Đức gọi năm ông ra tòa, mới đầu ông dùng lời ngon ngọt dụ dỗ, nhưng không thành công, bèn sai lính khiêng hai đầu gông từng người kéo lê trên tượng Chúa, nhưng các ông co chân lên. Lính lấy roi đánh túi bụi, vừa đánh vừa kéo chân các ông xuống đạp lên ảnh thánh. Thêm hai người nữa thua cuộc sau trận đòn này, chỉ còn ba ông Huy, Thể và Đạt kiên quyết nói với quan rằng: “Các quan cưỡng bách chúng tôi đạp lên tượng Chúa, nhưng lòng chúng tôi không chiều theo, thì chẳng phải chúng tôi bỏ đạo đâu.” Quan liền cho lệnh đóng gông rất nặng và giam cả ba vào ngục.
Từ đấy, ba ông còn phải chịu nhiều cuộc tra tấn khác nữa. Mỗi người khi thì 24 roi, khi 105 roi. Một lần quan dùng lời lẽ khuyên các ông bỏ đạo, ông Huy thay mặt anh em đáp lại: “Quan lớn dạy chúng tôi bỏ đạo Thiên Chúa, thì chúng tôi theo đạo nào bây giờ? Chúng tôi chỉ theo đạo thật thôi.” Quan hét lên: “Nếu đạo chúng bay là đạo thật, sao đức vua lại nghiêm cấm?” Bấy giờ ông Huy được dịp xử dụng những gì xưa đã được học trong chủng viện, để giải thích các lẽ đạo, trả lời cách rõ ràng và mạch lạc những câu hỏi quan đặt ra. Thấy mình đuổi lý, quan cho lệnh giam ba ông chung với linh mục Giacô-bê Năm. Ông lý Mỹ và cụ trùm Đích. Cha Năm hỏi ba ông: “Hôm nay thế nào, được hay thua?” Các ông vui vẻ đáp: “Chúng con chẳng chịu khóa quá, nên quan đã làm án xử rồi.”
Thế nhưng bản án của các ông chưa được vua Minh Mạng châu phê. Vua truyền các quan bằng mọi cách bắt ba ông bỏ đạo vì “khi đầu đã đứt, chẳng còn phép chi nối lại được nữa.” Tướng Lê Văn Đức cho lệnh đóng gông và đưa ba chiến sĩ đức Tin phơi nắng nơi công cộng, ông Huy và ông Thể ở cửa Đông, ông Đạt ở cửa Nam suốt 21 ngày liền, mọi người đi qua đều tự do hành hạ, sỉ vả tùy ý. Nhưng quan vẫn không đạt được mục đích.
Thánh 10.1838, Trịnh Quang Khanh được phục chức tổng đốc, nên hết lòng tìm cách đền đáp ơn vua. Ông cho những người đã bỏ đạo trước đây vào ngục thất khuyên dụ ba ông bỏ đạo, nhưng những người này bị các ông trách mắng là hèn nhát dại dột, nên xấu hổ không dám nói năng gì nữa. Tống đốc chuyển sang kế hoạch mới, dọa nạt vợ con, thân nhân bạn bè của ba ông, bắt họ vào năn nỉ dụ dỗ, tưởng các ông sẽ xiêu lòng, nhưng cả ba vẫn một mực trung thành với Đức Tin.
Cuối cùng quan tổng đốc cho gọi các kỳ mục ba làng Hạ Linh, Kiên Trung, Phú Nhai đến, và hẹn trong một tháng phải quyến ba ông bỏ đạo, bằng không sẽ bị trừng phạt. Một tháng sau, những người này vẫn chưa đạt được công tác khó khăn ấy. Quan liền tập trung các kỳ mục và cho lệnh đánh đòn họ trước ba người. Lần này quan thành công, ông Thể động lòng trắc ẩn trước cảnh một bô lão làng Kiên Trung chịu đòn thâm tím vì mình, đã xin quan tha cho cụ bằng cách đồng ý bước qua Thập Giá. Quan quân vỗ tay reo mừng. Tiếp theo ông Đạt cũng bước qua Thập Giá. Riêng ông Huy vẫn chưa chịu khuất phục.
Đêm hôm ấy, quan cho người vào ngục dụ dỗ ông Huy: “Chẳng ai cười chú đâu, vì chú đã chịu khổ rất can đảm. Vua chẳng muốn giết chú, chi bằng cứ bước đại qua Thập Giá để khỏi rầy rà.” Ông Huy nghe nói đã bắt đầu xiêu lòng, lại thấy hai bạn mình được tha cả rồi, nên sang hôm sau ông cũng theo chân các bạn bỏ đạo. Quan cho mỗi người 10 quan tiền và cho trở lại quân ngũ.
Thế nhưng ba người lính được tự do trở về nhà thấy lương tâm bứt rứt. Các ông không ngờ vụ này không chỉ là vấn đề cá nhân. Quá nhiều người quan tâm và cầu nguyện cho các ông mỗi ngày. Do đó việc bỏ đạo của ba người cuối cùng trong nhóm 500 binh sĩ trở thành tin buồn lớn lao cho toàn thể. Có người không tin các ông đã đạp lên Thánh Giá, dù các ông đã nhận lỗi nơi mình. Họ cho rằng chắc các quan đã dùng bùa ngải làm các ông mất trí. Ba ông đi xưng tội, rồi bàn tính với nhau quyết lên tỉnh để xưng đạo một lần nữa.
Đến tỉnh, ba ông vào thẳng dinh quan tổng đốc trình bày nguyện vọng của mình: “Bẩm quan lớn, đạo Thiên Chúa là đạo thật, Chúa chúng tôi thờ là Đấng quyền năng vô biên. Mấy ngày trước chúng tôi đã trót dại khóa quá, nay chúng tôi xin trả tiền lại quan, để được giữ đạo Chúa cho thật lòng.” Quan nghe nói nổi giận chửi mắng ba ông thậm tệ, định tống giam vào ngục để tìm cách dụ dỗ như lần trước. Nhưng vì quan đã báo cáo lên vua việc ba ông bỏ đạo nên muốn cho qua chuyện, chỉ dạy đánh đòn ba ông rồi đuổi ra khỏi dinh. Số tiền các ông trả, quan trao cho hương chức ba làng của các ông.
Trở về nhà, ba ông cầu nguyện liên lỉ và tiếp tục bàn bạc với nhau, dự tính vào tận kinh đô để tuyên xưng đức Tin. Ba ông đến hỏi ý cha Tuyên và cha Năng. Các ngài nói tùy ý, chớ các ông không buộc phải đền tội bằng cách đó, Cha chính Jimeno Lâm nghe biết thì viết thư tán thành ý định của ba ông. Thế là ba ông ngồi lại với nhau viết một sớ tâu đệ lên vua, bày tỏ niềm tin của mình. Ông Đạt cũng ký vào đơn, nhưng vì đang phải công tác với đội binh nên không đi được. Hai ông Huy và Thể tức tốc khăn gói vào Huế. Trước đây khi lên đường, cha Tuyên nhắc bảo hai ông phải trông cậy vào Chúa hơn là sức mình, phải cầu nguyện nhiều. Hai ông xưng tội một lần nữa, chào giã biệt họ hàng thân thích và xin mọi người thêm lời cầu nguyện. Sau 20 ngày đường bộ, các ông vào tới kinh đầu tháng 5/1839. Một người con ông Huy mới 16 tuổi cũng theo chân cha, để theo dõi kết quả.
Theo thủ tục thời đó, ba ông đến nộp sớ tâu tòa Tam Pháp và chờ đợi. Các quan nhận sớ, nhưng lại dìm đi không cho tâu trình lên vua. Trong thời gian chờ đợi, các ông ở trọ nhà bà Đông, cũng là một tín hữu người Huế. Sau đó hai ông viết thêm một sớ tâu thứ hai, nhưng tòa Tam Pháp vẫn im tiếng làm ngơ. Thế là các ông phải tính đến một hành động táo bạo hơn. Nhân dịp vua Minh Mạng ngự giá dạo trong thành phố, hai ông bận đồ binh sĩ đón đường, tiến ra quì trước kiệu rồng, hai tay nâng cao trên trán một sớ tâu viết bằng Hán Tự. Viên quan hầu cận nhận sớ trình cho vua đọc. Tuy chỉ có hai người lính, nhưng sớ ký tên ba người:Phan Viết Huy, Bùi Đức Thế và Đinh Đạt.
Đọc xong, vua thịnh nộ truyền bắt tống giam cả hai trao cho quan bộ Hình cứu xét.
Các quan ở kinh đô khuyến dụ, hứa hẹn nhiều điều, rồi tra đánh đập, nhưng hai ông vẫn trước sau như một, xưng mình là những binh sĩ có đạo. Một hôm quan hỏi tại sao trong số còn có tên Đinh Đạt. Hai ông trả lời: “Bẩm quan lớn anh Đạt cũng không chịu khóa quá, nhưng bận việc quân sự không đi với chúng tôi được.” Anh ấy có nói: “Chúng tôi thế nào, anh cũng vậy.”
Các quan trình bày sự việc lên vua để lãnh ý. Theo lệnh vua, quan cho bầy trước mặt hai ông 10 nén vàng, một tượng Chúa Chuộc Tội và một thanh gươm: “Cho bay tự ý chọn, bước qua tượng thì được vàng, bằng không thì gươm sẽ chặt đôi người bay ra, xác sẽ bỏ trôi ngoài biển.” Hai ông bình tĩnh bày tỏ ý muốn chọn gươm. Vua Minh Mạng phẫn nộ truyền viết bản án như sau:
“Trước đây trẫm đã làm án tử hình, nhưng trẫm thương tình chả muốn giết, nào ngờ chúng đã mê dại chẳng biết sự phải lẽ. Trẫm đã mở lối cho chúng ăn năn hối cải, song hai tên tội phạm cố chấp theo Giatô tà đạo, lại bỏ cả việc quân vào kinh nạp sớ tâu. Thật là bọn kiêu ngạo đáng khinh đáng ghét, chẳng thể để sống được nữa. Vậy hai tội phạm Phan Viết Huy và Bùi Đức Thể phải cho lính đem ra biển lấy rìu lớn chặt ngang lưng, rồi bỏ xác xuống biển, để ai nấy biết tỏ điều răn cấm ….” Phần cuối bản án, vua trao cho tổng đốc Trịnh Quang Khanh việc điều tra danh Đinh Đạt và dạy tâu trình lại.
Ngày 13 tháng 6 năm 1839, quân lính điệu hai ông ra cửa Thuận An thi hành án lệnh. Họ dẫn hai ông lên thuyền chèo ra khơi, đặt một Thánh Giá ngay trong thuyền để thử xem các ông có đổi ý đạp lên chăng, nhưng thất vọng. Lính trói hai ông vào cột chèo, thay vì chặt ngang lưng, họ chặt đầu trước rồi chẻ thân ra làm bốn, ném xuống biển.
Về phần ông Đinh Đạt, sau khi đi công tác trên tỉnh, ông thu xếp việc nhà và chuẩn bị đón nhận cái chết anh hùng. Tháng 6.1839, một người bạn đến báo tin ông Huy và ông Thể đã bị hành hình, Ông Đạt tỏ ra vui mừng, báo tin cho cha mẹ bà con, từ giã mọi người. Ông không tính chuyện bỏ trốn, chỉ chờ đợi ngày bị bắt. Vợ con khóc lóc, ông lựa lời an ủi và quả quyết Chúa sẽ quan phòng mọi sự. Khi quân lính đến vây bắt, ông lánh mặt ít giờ để xưng tội và rước lễ lần cuối, rồi đi theo họ lên tỉnh. Dọc đường ông sốt sắng lần chuỗi. Đến thị trấn Nam Định, lính đưa ông vào gặp quan tổng đốc, quan nhắn nhủ ông: “Hai bạn của ngươi vì cuồng dại không chịu bỏ đạo tà nên đã bị chém làm tư quăng xuống biển. Còn ngươi, nếu khôn thì chối bỏ thứ đạo đó đi để về với vợ con.” Ông Đạt thẳng thắng thưa: “Tôi đã chịu nhiều cực hình vì Đức Tin, nay tôi sẵn sang chịu thêm nhiều hình khổ khác nữa. Hai bạn tôi đã được phúc trọng, quan cứ chém tôi làm tám khúc cũng được.” Quan biết có đe dọa cũng không được việc, bèn lập án gởi vào kinh xin xử giảo.
Đinh Đạt khi nghe đọc bản án, ông rất bình tĩnh vui tươi đón nhận. Ngày 18.7.1839 ông bước đi thanh thản theo lính ra pháp trường Bảy Mẫu, vừa đi vừa đọc kinh. Đến nơi xử, ông quỳ trên chiếu cầu nguyện giây lát, rồi chờ lính tháo gông trên cổ, ông nằm xuống. Lý hình đứng hai bên dùng giây xiết cổ ông cho đến khi tắt thở.
Đề tựa của Lm. HK