CHÚA NHẬT XX QUANH NĂM A
I. Giáo Huấn Phúc Âm
Chúa Giêsu là Đấng Cứu
Thế cho toàn thể nhân loại.
Ai cũng được nhìn nhận là
con cái Chúa và được đón nhận ơn cứu độ.
Lòng tin luôn bị thử
thách. Thử thách giúp mạnh tin.
Người có đức tin mạnh
“muốn sao thì sẽ được vậy!”
II. Vấn nạn Phúc Âm
Rõ rệt là Chúa kỳ thị và
xúc phạm người đàn bà ngoại giáo khi nói “không nên lấy bánh dành cho con cái
mà ném cho lũ chó con!”
Chúng ta đọc Phúc Âm và
hiểu Phúc Âm theo ngôn ngữ và cách suy nghĩ của thời nay. Chúng ta nói Chúa kì
thị khi nói “không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó!” Theo lịch
sử ngôn ngữ học, từ discrimination hay kì thị mới được xử dụng vào năm 1648 tức
khi người ta bắt đầu ý thức về quyền làm người. Trước đó, coi như không có kỳ
thị hay kỳ thị không là vấn đề xấu. Cũng như từ xúc phạm, tức abuse, có thể xúc
phạm người khác cách thể lý như đánh đập hay hành hạ hoặc có thể xúc phạm bằng
lời nói hay tâm lý khi làm người khác sợ sệt. Xúc phạm trong nghĩa abuse nầy
xuất hiện và được xử dụng vào thế kỷ thứ 15 thôi.
Chắc chắn trước đó có xúc
phạm nhưng không là vấn để luật pháp hay tội phạm. Chúng ta có thể hiểu được
điều nầy khi thấy ở Việt Nam ngày trước chồng đánh vợ hay cha mẹ đánh con cái.
Người ta cho đó là chuyện phải làm, vì thương con cho roi cho vọt hay dạy vợ
dạy thuở ban sơ… Không ai đem chuyện nầy ra pháp luật cả. Nên khi Chúa Giêsu
nói “không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con!”, Chúa không có
ý khinh thị hay kỳ thị gì với người đàn bà dân ngoại nầy cả. Nhưng Chúa chỉ có
ý thử thách lòng tin của bà ta thôi. Bằng chứng là bà ta đã vượt sự thử thách
và Chúa đã cho bà toại nguyện “này bà! lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao
thì sẽ được vậy!”
Miền Tia và Sidon: (Viết theo Bách Khoa Tự Điển)
Sidon
or Saïda là thành phộ lớn thứ ba ở Lebanon.
Sidon toạ lạc ở phía Nam Lebanon, bên bờ biển Địa Trung Hải, cách Tia chừng 40
cây số và cách thủ đô Beirut chừng 40 cây số. Trong sách Sáng Thế Ký, Sidon là
tên con trai của Canaan, con Ông Noe. Ngày nay Sidon có chừng 200 ngàn dân cư,
phần lớn là người Sunni theo Hồi Giáo. Sidon được coi như pháo đài của người
Sunni ngày nay. Những sắc dân còn lại như Công Giáo Hy Lạp hay Tin Lành
Maronites hay người Hồi Shiite chỉ chiếm thiểu số.
Sidon
đã có từ lâu đời phải đến hơn 4000 năm trước Chua Giáng Sinh. Nó là một trong
những hải cảng quan trọng của người Phênicia. Nó là điểm thương mại lớn của Địa
Trung Hải. Đàn Ông chuyên nghể thủ công. Đàn bà có năng khiếu thêu đan. Thành
phố Tia gần đó cũng dần dà được phát triển nhờ sự phồn thịnh của Sidon. Sidon
lần lược bị chiếm cứ bởi các vua người Assyria, người Babylon, người Ai Cập và
người Hy Lạp và sau cùng là Roma. Kinh Thánh cho thấy là cả Chúa Giêsu và Thánh
Phaolô đã từng thi hành việc truyền giáo ở Sidon. Thời Chúa Giêsu, Sidon và Tia
được liệt kê vào vùng đất dân ngoại giáo. Người Do Thái không có qua lại với
người ngoại giáo nầy. Tuy nhiên, Chúa Giêsu thỉnh thoảng tiêu pha một thời gian
ngắn với dân ngoại nhất là khi ngài bị người Do Thái ngược đãi. Chúng ta có thể
thấy sự liên hệ của Chúa với dân ngoại được diễn tả trong Matthêô 15, 21-28;
Gioan 6:15; Luca 13:31 và Marcô 7:31
“Lạy Ngài là Con Vua Đavit, xin dủ lòng thương tôi!” Sao
một người đàn bà ngoại giáo chưa từng một lần gặp Chúa mà lại biết tuyên xưng
Chúa là Con Vua Đavít?
Phần
nhiều người ta cho rằng: Vì danh tiếng Chúa Giêsu đồn đải rất xa, nên gần như
cả đất nước Do Thái và vùng phụ cận đều biết Chúa Giêsu là người của Thiên
chúa, chuyên môn làm phép lạ chữa bệnh tật.Tuy nhiên, chúng ta biết rằng, Phúc
Âm Matthêô thành hình 50 năm sau khi Chúa về trời. Phúc Âm là giáo lý của các
tông đồ. Các Ngài không ghi Phúc Âm theo kiểu phóng sự hay ký sự nhưng chỉ là
chuyện ghi lại để dạy giáo lý. Giáo lý các tông đồ là Chúa Giêsu làm người là
Con Thiên và là Thiên Chúa thật. Nên câu tuyên xưng đức tin nầy phát xuất từ
miệng người phụ nữ ngoại giáo để nói rằng: Người ngoại giáo mà còn nhận ra Chúa
Giêsu là Con Vua Đavít là Đấng Cứu Thế thì huống chi là người Do Thái chính
gốc, những người đã từng được biết Đấng Cứu Thế đến từ dòng vua Đavít.
III. Thực Hành Phúc Âm
Chúa giàu lòng thương xót:
Thấy dân chúng theo Chúa đói khát, Chúa chạnh lòng thương xót hoá bánh ra nhiều
nuôi dân. Thấy người đàn bà kiên trì cầu xin cho con cái mình, Chúa cho bà được
toại nguyện.
Chúa giàu lòng thương xót. Xin chạy đến với
Ngài như di chúc của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II. "Từ Balan, sẽ trổi
lên một tia sáng, để chuẩn bị thế giới cho lần trở lại thứ hai của Ta". Đó
là lời Chúa hứa qua thánh nữ Faustina. Tia sáng đó chính là Đức Giáo hoàng
GP II, đấng thiết lập cho toàn thế giới Lễ Kính Lòng Thương Xót của Thiên Chúa
mừng kính vào Chúa Nhật liền sau Lễ Phục Sinh. Ngài đã được phong Chân Phước
vào chính ngày Lễ Kính Lòng Thuơng Xót của Chúa, tức ngày 01-05-2011.
Trích Di chúc của Đức
Giáo Hoàng Gioan Phaolô II (qua đời ngày 02.04.2005 áp lễ kính Lòng Chúa Thương
Xót)
"Các con thân mến!
Hiện nay các con đang
sống trong thời đại đầy gian nguy và thử thách. Các con hãy cố gắng kiên tâm
vững tin vào Lời Chúa. Chính Chúa Giêsu đã hiện ra nói với cha, nhờ cha thông
báo lại cho các con những sứ điệp này: “Các con hãy cầu khẩn Thiên Chúa các
con, giải trừ nguy nan trong thế giới sắp sụp đổ này”.
Các con thân mến, khi cha
ra đi cũng chính là lúc những biến cố thảm họa sẽ đổ xuống thế giới này: chiến
tranh ngày càng lan rộng, động đất khắp nơi, các cuộc đại nạn lớn lao sẽ xảy
ra, tại các nước lớn như Nhật bản, Trung quốc, Philippin.
Các con là những người
cha tin yêu nhất, là những người con thuộc dòng dõi Đavít[1], các con hãy kêu
xin cùng Thiên Chúa, bằng cách các con đọc kinh cầu nguyện:
Với những lời kinh tha
thiết sau đây:
Xướng: Xin Thiên Chúa dủ
lòng thương xót chúng con!
Đáp: Vì Chúa đã sinh ra
chúng con, và đặt chúng con trên trái đất này.
Xướng: Xin an ủi nâng đỡ
chúng con trong lúc gian nguy.
Đáp: Vì Chúa là nguồn an
ủi của chúng con.
Xướng: Xin xua đuổi những
giặc thù xa chân chúng con.
Đáp: Vì Chúa là Đấng đã
bảo vệ chúng con.
Kết: Xin phù hộ chúng con
trên đường dương thế, tránh xa kẻ thù tội lỗi, để chúng con một ngày kia, sẽ
được hưởng phúc vinh quang muôn đời, cùng với Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Amen.
Sau những lời nguyện trên, các con hãy đọc:
- Một kinh Tin kính - Một
Kinh Chúa Thánh Thần - Một Kinh ăn năn tội
- Và lời nguyện tắt:
“Giêsu Maria Giuse con mến yêu, xin cứu rỗi linh hồn con và muôn dân muôn
nước”.
Khi các con phổ biến một
bản kinh này cho một người thì các con được hưởng một ơn tiểu xá, cứ 100 người
thì được một ơn đại xá. Và khi các con rời thế gian này, sẽ được các Thiên Thần
đưa về Trời, hưởng hạnh phúc muôn đời. Cha ban phép lành và chúc phúc cho những
ai phổ biến bản kinh này.
(Trích dịch “Di chúc của
ĐTC GP II”, theo bản tiếng Anh của cha Lorenso thuoc Bộ Giáo Lý Đức
tin, Rôma.)
Gương chạnh lòng thương
xót:
Linh Mục Sống Nghèo Để Có
Tiền Giúp Người Nghèo: ... . Tại số 13 đường Daubenton quận V của Paris, thủ đô
nước Pháp, có một ngôi nhà 7 tầng được chỉnh trang lại. Ngôi nhà chia thành
nhiều căn hộ, trong đó 8 căn hộ được giao cho 8 gia đình nghèo, không có tiền
thuê nhà nơi chung cư... . Bởi đâu có phép lạ xảy ra giữa lòng thủ đô hoa lệ,
ngay nơi khu phố diễm lệ nhất Paris: có những thành phần bị coi là “ngoài lề xã
hội” lại được ở trong một tòa nhà sang trọng như thế? Thưa tất cả là nhờ công
lao của Cha Bernard Devert, vị Linh Mục của những người nghèo vô gia cư.
Cha Bernard Devert sinh
trưởng trong một gia đình Công Giáo ở Lyon, miền Nam nước Pháp. Bernard là anh
cả của 4 người em. Năm lên 13 tuổi, một ngày từ trường học trở về, Bernard bắt
gặp khuôn mặt thân mẫu dàn dụa nước mắt. Khi cậu hỏi, mẹ cậu trả lời:
- Mẹ không còn một đồng
xu để mua bánh mì cho các con ăn!
Khám phá bất ngờ về sự
nghèo túng của gia đình đã gieo vào lòng cậu bé một suy tư sâu thẳm. Bỗng chốc
cậu ý thức được cái dòn mỏng của thân phận con người trước cái sung túc giàu
sang. Tự thâm tâm, Bernard thề quyết: Nhất định phải thành công trong cuộc đời!
Biến cố thứ hai cũng ghi
đậm nét trong ký ức của Bernard và là yếu tố chính đưa đến chọn lựa con đường
Linh Mục. Trong thời đệ nhị thế chiến 1939-1945, thân phụ của Bernard bị quân
đức quốc xã đày sang trại tù lao động khổ sai ở Gross-Rosen bên Ba Lan. Bernard
kể: Sở dĩ Ba tôi sống sót và trở về gia đình được là nhờ Đức Tin sâu xa của
người. Thời gian tù đày đã dạy thân phụ tôi bài học tha thứ. Người thật lòng
tha thứ cho những kẻ thù hành hạ ngược đãi người.
Năm 20 tuổi, Bernard ghi
tên theo học ngành luật. Nhưng rồi chàng bỏ dở việc học và xin vào làm việc nơi
hãng thầu xây cất nhà cửa của thành phố Lyon. Chàng hăng say làm việc và thành
công trong nghề nghiệp. Chàng kiếm được khá nhiều tiền. Nhưng rồi một biến cố
bất ngờ xảy ra làm đảo lộn cuộc đời chàng. Vào một buổi sáng năm 1980, có người
gọi điện thoại báo cho chàng biết là một cụ bà toan tính tự tử trong căn hộ nơi
một chung cư của quận VI thành phố Lyon. Đây là chung cư mà hãng chàng định đập
phá, hủy bỏ.
Chàng tức tốc chạy đến
nhà thương. Chàng nhẹ nhàng trách cụ bà: Cụ biết rõ là thế nào người ta cũng
đưa cụ sang một căn hộ khác mà! Cụ bà chống chế: Có, lão có nghe! Nhưng rời xa
một nơi mà lão đã sống suốt đời, quả thật rất khó. Hơn nữa, lão quá nghèo. Còn
mấy ông, mấy ông có quyền đưa lão đi chỗ khác, bởi vì mấy ông sắp sửa xây cất
nhà cho người giàu!
Câu nói hờn-tủi của bà cụ
gieo vào lòng chàng Bernard một ý thức sâu xa về các bất công xã hội. Chàng cảm
thấy hổ thẹn về hành động bẩn-thỉu của mình! Tự nơi đáy lòng chàng thề quyết:
Từ đây mình sẽ là người điều hợp phân phối nhà cửa không giống ai hết!
Sau khi suy nghĩ, chàng
đến gặp Đức Hồng Y Albert Décourtray (1923-1994), lúc bấy giờ là Tổng Giám Mục
Lyon. Chàng nói: Thưa Đức Hồng Y, con muốn vừa phục vụ Chúa vừa hành nghề. Nếu
có các Linh Mục thợ thì tại sao tại không có các Linh Mục trong số các ông chủ
thầu?
Đức Hồng Y Décourtray
chấp thuận cho chàng vừa theo học thần học tại phân khoa Công Giáo của đại học
Lyon vừa làm việc nơi hãng thầu xây cất nhà cửa, với điều kiện: Chàng không
được lãnh lương! Anh Bernard Devert vui vẻ chấp nhận. Năm ấy chàng 35 tuổi.
Dĩ nhiên con đường theo
đuổi ơn gọi Linh Mục không mấy dễ dàng. Nhưng thầy Bernard thắng vượt tất cả.
Thầy quy tụ một số nhân vật có đủ khả năng tài chánh để thành lập Hội ”Habitat
et Humanisme - Gia Cư và Nhân Bản”. Hội quyên góp tiền bạc rồi xây nhà để bán.
Với số tiền lời thu được, Hội sẽ mua một số căn hộ trong cùng chung cư đó và
cho những người không nhà cửa đến ở. Như vậy, trong các chung cư của Hội, luôn
luôn lẫn lộn, pha trộn giữa hai hạng người giàu và nghèo: Người giàu mua nhà để
ở và người nghèo được cho nhà để ở mà không phải trả tiền.
Năm 1987, thầy Bernard
Devert được thụ phong Linh Mục. Từ đó Cha Bernard vừa thi hành chức vụ Linh Mục
vừa giữ nhiệm vụ điều hợp việc phân phối nhà cửa cho những người nghèo vô gia
cư, nơi thành phố Lyon ... Cha Bernard sống nghèo để có tiền giúp đỡ người
nghèo. Chưa hết, từ năm 1997, Cha còn giữ nhiệm vụ Tuyên Úy cho trung tâm chống
ung thư Léon-Bérard. Cha thường dành thời giờ ban đêm để thăm viếng ủi an và
giúp đỡ các bệnh nhân hấp hối.
... . Đức Chúa GIÊSU
phán: ”Ai đón tiếp anh em là đón tiếp Thầy, và ai đón tiếp Thầy là đón tiếp
Đấng đã sai Thầy. Ai đón tiếp một ngôn sứ, vì người ấy là ngôn sứ, thì sẽ được
lãnh phần thưởng dành cho bậc ngôn sứ. Ai đón tiếp một người công chính, vì
người ấy là người công chính, thì sẽ được lãnh phần thưởng dành cho bậc công
chính. Và ai cho một trong những kẻ bé nhỏ này uống, dù chỉ một chén nước lã
thôi, vì kẻ ấy là môn đệ của Thầy, thì Thầy bảo thật anh em, người đó sẽ không
mất phần thưởng đâu” (Matthêu 10,40-42). (”Reader's Digest SÉLECTION”,
Novembre/1997, trang 90-92 - Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt)
Lm
Phêrô Trần Thế Tuyên