Tìm hiểu Lời Chúa _ thứ năm tuần 14 thường niên


THỨ NĂM SAU CHÚA NHẬT 14 THƯỜNG NIÊN
NĂM CHẴN
Hs 11, 1. 1-4. 8c-9; Mt 10, 7-15
BÀI ĐỌC: Hs 11, 1. 1-4. 8c-9
1 Khi Ít-ra-en còn là đứa trẻ, Ta đã yêu nó,từ Ai-cập Ta đã gọi con Ta về. 3 Ta đã tập đi cho Ép-ra-im, đã đỡ cánh tay nó,nhưng chúng không hiểu là Ta chữa lành chúng. 4 Ta lấy dây nhân nghĩa, lấy mối ân tình mà lôi kéo chúng. Ta xử với chúng như người nựng trẻ thơ, nâng lên áp vào má;Ta cúi xuống gần nó mà đút cho nó ăn. Nó sẽ không trở về Ai-cập nữa,5c nhưng nó không chịu về với Ta. 8ac Hỡi Ép-ra-im, Ta từ chối ngươi sao nổi!Hỡi Ít-ra-en, Ta trao nộp ngươi sao đành! Trái tim Ta thổn thức, ruột gan Ta bồi hồi. 9 Ta sẽ không hành động theo cơn nóng giận, sẽ không tiêu diệt Ép-ra-im nữa, vì Ta là Thiên Chúa, chứ không phải người phàm. Ở giữa ngươi, Ta là Đấng Thánh, và Ta sẽ không đến trong cơn thịnh nộ.
ĐÁP CA: Tv 79
Đ. Lạy Chúa, xin tỏa ánh tôn nhan rạng ngời,
để chúng con được ơn cứu độ.
( c 4b)
2ac Lạy Mục Tử nhà Ít-ra-en, nghe!Ngài là Đấng ngự trên các thần hộ giá,3b xin giãi sáng hiển linh cho dòng dõi Ép-ra-im,Ben-gia-min và Mơ-na-se được thấy. Xin khơi dậy uy dũng của Ngài,đến cùng chúng con và thương cứu độ.
15 Lạy Chúa Tể càn khôn, xin trở lại,tự cõi trời, xin ngó xuống mà xem, xin Ngài thăm nom vườn nho cũ,16 bảo vệ cây tay hữu Chúa đã trồng, và chồi non được Ngài ban sức mạnh.
TUNG HÔ TIN MỪNG: Mc 1,15
Hall-Hall: Chúa nói: Triều đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng. Hall.
TIN MỪNG: Mt 10, 7-15
7 Dọc đường hãy rao giảng rằng: Nước Trời đã đến gần. 8 Anh em hãy chữa lành người đau yếu, làm cho kẻ chết sống lại, cho người phong hủi được sạch bệnh, và khử trừ ma quỷ. Anh em đã được cho không, thì cũng phải cho không như vậy. 9 Đừng kiếm vàng bạc hay tiền giắt lưng. 10 Đi đường, đừng mang bao bị, đừng mặc hai áo, đừng đi dép hay cầm gậy. Vì thợ thì đáng được nuôi ăn.
11 "Khi anh em vào bất cứ thành nào hay làng nào, thì hãy dò hỏi xem ở đó ai là người xứng đáng, và hãy ở lại đó cho đến lúc ra đi. 12 Vào nhà nào, anh em hãy chào chúc bình an cho nhà ấy. 13 Nếu nhà ấy xứng đáng, thì -bình an của anh em sẽ đến với họ; còn nếu nhà ấy không xứng đáng, thì bình an của anh em sẽ trở về với anh em. 14 Nếu người ta không đón tiếp và nghe lời anh em, thì khi ra khỏi nhà hay thành ấy, anh em hãy giũ bụi chân lại. 15 Thầy bảo thật anh em, trong Ngày phán xét, đất Xơ-đôm và Gô-mô-ra còn được xử khoan hồng hơn thành đó.

HÀNH TRANG NGƯỜI TÔNG ĐỒ ĐỨC KITÔ
Đức Giêsu muốn tất cả người Công Giáo phải làm Tông Đồ cho Ngài khởi đi từ lúc lãnh Bí tích Thánh Tẩy. Mà muốn chung đường truyền giáo với Đức Giêsu, thì phải thống nhất chương trình hành động với Ngài để cứu độ muôn dân. Chính vì thế mà ông Gioan Bt, cũng như các môn đệ đều phải mở đầu lời giảng giống Thầy Giêsu: “Nước Trời đã gần bên” (Mt 3,2 = Mt 4,17 = Mt 10,7: Tin Mừng). Nước Trời đến để biến dữ ra lành, chết ra sống, tội ra ơn. Thánh Phaolô nói: “Ở đâu tội lỗi tràn đầy, ở đó ân sủng càng chan chứa” (Rm 5,20).
Chân lý này đã được diễn tả nơi lòng nhân ái của ông Giuse, con trưởng chính thức của ông Giacob, dù ông Giuse đã bị các anh cùng cha khác mẹ tìm mưu tính kế thâm độc để loại ra khỏi gia đình. Nhưng Chúa ra tay cứu ông: đáng lẽ Giuse bị các anh giết, thì anh Rưuvên lại đề nghị nhốt Giuse dưới giếng cạn, nhưng anh Giuđa đề nghị đợi người Madian đi qua bán cho họ với giá nô lệ, rồi họ bán ông Giuse cho ông Phutipha, người Ai Cập. Thay vì ông Giuse làm nô lệ, thì lại được ông chủ đặt làm quản gia. Ngày kia khi ông Phutipha vắng nhà, vợ Phutipha đòi làm tình với Giuse, ông chống lại và bỏ trốn, cuối cùng cũng bị bắt nhốt vào tù; Đáng lẽ Giuse bị chết rũ tù, thì lại được làm cai tù; Rồi vì nhờ ông Giuse giải mộng cho vua Pharaôn, được vua cất nhắc làm tể tướng đế quốc Ai Cập, trao cho ông Giuse việc quản lý kho lương thực của đế quốc.
Những biến cố buồn vui dồn dập xảy đến cho ông Giuse như thế, khiến ông Phaolô kết luận: “Với ai yêu mến Thiên Chúa, được Ngài đồng công cộng tác, biến mọi sự ra lành” (Rm 8,28a). Ông Giuse nhận ra bàn tay Chúa thương và gìn giữ, ban cho ông có chức quyền, lý ra ông phải trả thù các anh đã hại ông, thế nhưng khi các anh nhận diện người vị vọng này là Giuse, họ hoảng sợ sụp lạy trước mặt Giuse xin tha mạng, nhưng ông Giuse trấn tĩnh các anh và ôn tồn nói: “Các anh đừng buồn phiền, đừng hối hận, vì đã bán tôi sang đây: chính là để duy trì sự sống mà Thiên Chúa đã gởi tôi đi trước anh em” (x. St 44,18-29; 45,1-5: Bài đọc năm lẻ).
Ông Giuse tỏ ra quá nhân ái đối với các anh hại mình như thế, nhưng vẫn còn thua xa Đức Giêsu, vì có nhiều kẻ ghen tỵ thấy Đức Giêsu làm và dạy được dân chúng ca tụng, Ngài tỏ ra có uy quyền chứ không như các kinh sư của họ. Thế là họ quyết phải loại trừ, tìm mưu tính kế cáo gian với phe cánh Hêrôđê để đóng đinh Ngài trên thập giá, nhưng ba ngày sau Ngài phục sinh, lại ban dồi dào ân sủng nhiều hơn cho những kẻ đã xúc phạm đến Ngài, vì Ngài muốn đưa cả loài người tội lỗi vào hưởng phúc trường sinh trong Nước Thiên Chúa. Nên Ngài nói: “Triều đại Thiên Chúa đã đến gần, anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” (Mc 1,15: Tung Hô Tin Mừng). Khi Đức Giêsu sai các môn đệ lên đường truyền giáo, Ngài đã ban cho các ông quyền năng làm cho kẻ liệt được lành, kẻ chết được sống lại, người phung hủi được tẩy sạch, xua trừ ma quỷ” (x. Mt 10,8a: Tin Mừng). Ai được các môn đệ chữa lành bệnh tật, đều nhận ra các ông đã dùng quyền năng Chúa ban mà tha tội cho. Đây là ơn nhưng không do công nghiệp cứu chuộc của Chúa Giêsu thực hiện qua mầu nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh. Như Ngài nói: “Anh em đã không công mà được thì cũng hãy cho không” (Mt 10,8b: Tin Mừng).
Ơn nhưng không Chúa ban đã hé mở từ tổ phụ Giacob: Có một người đã đấu với ông mãi tới hừng đông ló rạng, người ấy thấy không thắng nổi Giacob, thì đạp vào hông Giacob, nên làm ông bị trật xương hông. Người lạ mặt nói: “Buông ta ra vì trời đã sáng”, nhưng ông Giacob nói: “Tôi sẽ không buông Người ra, trừ phi là Người chúc lành cho tôi”. Người ấy liền đổi tên Giacob thành Israel, vì Giacob đấu với Thiên Chúa và cũng như với người ta và đã thắng (x. St 32,25-29). Vì thế dòng tộc Giacob dù bị đế quốc Ai Cập trù dập, Chúa cũng đưa họ thoát cảnh nô lệ. Cả đến Ephraim, em ông Manassê, là con của Giuse, cháu nội ông Giacob (x. St 41,51), đã được ông nội nhận làm con trưởng và đặt tay ban phúc lành mà Chúa đã hứa cho từ tổ phụ Abraham (x. St 22,17-18; St 48). Do đó Chúa chăm sóc Ephraim như chăm sóc con ruột của ông Giacob (Israel), như Chúa nói: “Ta tập đi cho Ephraim, đã đỡ nâng cánh tay nó, Ta lấy dây nhân nghĩa, lấy mối ân tình mà lôi kéo chúng. Ta xử với chúng như người nựng trẻ thơ, nâng lên áp vào má; Ta cúi xuống gần nó mà đút cho nó ăn. Ta không đành lòng trao nộp ngươi cho kẻ thù, trái tim Ta thổn thức, ruột gan Ta bồi hồi, Ta là Chúa chứ không phải người phàm” (Hs 11,1-9: Bài đọc năm chẵn). Chúa có lòng xót thương trên nhà Giacob như thế, đó là dấu chỉ Ngài tỏ lòng thương xót cả loài người, bằng cách Ngài chọn 12 Tông Đồ và sai họ đi ban phát ơn cứu độ, hơn xưa Chúa đã chăm sóc dòng tộc Israel. Đó là cách “Chúa tỏa ánh Tôn Nhan rạng ngời để mọi người được cứu độ” (Tv 80/79, 4b: ĐC năm chẵn). Vậy “hãy nhớ lại những kỳ công Chúa đã thực hiện” (Tv 105/104,5a: ĐC năm lẻ).
Tuy nhiên người Tông Đồ của Chúa chỉ có thể hoàn thành sứ mệnh Chúa trao một khi ý thức thực hành những chỉ thị Chúa dạy trên đường truyền giáo:
1/ Không tham tiền, nên đừng chuốc lấy vàng lấy bạc hay tiền đồng hòng vặn thắt lưng” (Mt 10,9): Làm việc Tông Đồ cho Đức Kitô không phải là chuyện thương mại kiếm lời vật chất, mà vì yêu Chúa, yêu đồng loại, đã nhận ơn nơi Chúa không công mà được, thì cũng phải cho đi không.
2/ Không bao bị, vì người Tông Đồ chính là người quản lý trung trực của Thiên Chúa, bất cứ lúc nào Chúa đến cũng gặp thấy nó đang chia sẻ đúng lúc và phải thời (Lc 12,42). Bởi thế không mang bao bị để thu tích của cải riêng cho mình.
3/ Không mặc hai áo, vì đã chia sẻ như ông Gioan Bt dạy: “Ai có hai áo hãy chia cho người không có và kẻ có của ăn cũng phải làm như thế”(Lc 3,11). Chỉ giữ lại cho mình của cải để có điều kiện phục vụ đạt hiệu quả cao, chớ tích trữ của để làm giàu, vì nó sẽ lấp mắt không nhận biết Thiên Chúa (x. Cv 30,8).
4/ Không mang giày dép. Vì khi thi hành sứ mệnh Chúa trao, nếu gặp nguy hiểm, đã có Ngài bảo vệ. Đó cũng là lý do khi Chúa gọi ông Môsê lãnh đạo dân Do Thái ra khỏi Ai Cập, ông đến với Chúa, Ngài bảo ông phải bỏ dép ra (x. Xh 3,5).
5/ Không gậy gộc. Chính là không dùng quyền bính theo thói đời để đe nạt người khác, mà dùng Lời Chúa để giáo dục, nuôi dưỡng, bảo vệ đồng loại. Vì “Lời Chúa phán ra là cây gậy đánh cường bạo” (Is 11,4b: bản dịch NTT). Người Tông Đồ của Đức Giêsu có trải nghiệm này như lời kinh đọc: “Cây gậy Ngài bảo vệ còn vững dạ an tâm” (Tv 23/22,4).
6/ Thợ đáng được của nuôi thân, nên khi “vào bất cứ thành nào hay làng nào thì, hãy dò hỏi xem ở đó ai là người xứng đáng” (Mt 10,11a). Người xứng đáng là người khao khát chân lý, môn đệ giảng Lời cho loại người này, thì chắc chắn được đãi ngộ. Vì chủ chăn nào hết lòng lo việc Nước Thiên Chúa, thì giáo dân sẵn sàng “móc mắt dâng” (x. Gl 4,15). Chính Chúa cũng ưu đãi mục tử nào chu toàn sứ mệnh tư tế và ngôn sứ. Ngài nói: “Thức ăn ngon Ta đãi hàng tư tế” (Gr 31,14). Đó là quyền được hưởng vì sứ mệnh. Tuy nhiên có những trường hợp để khỏi gây cớ vấp phạm, hãy bắt chước ông Phaolô “đem Tin Mừng biếu không, khiến đừng có bận tâm quyền được hưởng nhờ Tin Mừng” (1Cr 9,18).
Tóm lại, đời sống Tông Đồ phải bắt chước sống nghèo như Đức Giêsu. Thánh Phaolô nói: “Làm sao anh em trở nên giàu có như Đức Kitô, mà vì chúng ta, Ngài đã trở nên nghèo khó, để nhờ sự nghèo khó của Ngài mà chúng ta được trở nên giàu có” (2Cr 8,9). Làm cho người anh em được giàu không phải chỉ là giàu của cải vật chất, mà giàu Thiên Chúa, giàu ơn Ngài. Vì sứ mệnh chính của Hội Thánh là đưa Chúa cho đồng loại chứ không phải chỉ nhắm đưa của cải vật chất. Thế nên ông Phêrô đã nói với anh què ngồi ở cửa Đền Thờ ngửa tay xin tiền: “Vàng bạc thì tôi không có, nhưng cái tôi có, tôi cho anh đây: “Nhân danh Đức Giêsu Kitô, người Nazareth, anh đứng dậy mà đi” (Cv 3,1-6). Bởi thế, cuối đời phục vụ của Tông Đồ Phaolô, ông nói với các tín hữu: “Tôi xin phó thác anh em cho Chúa và cho Lời ân sủng. Lời có sức ban cho anh em phần cơ nghiệp” (Cv 20,32).
7/ Đi phục vụ ở đâu là do Bề trên chỉ định, cho nên hãy ở lại đó cho đến lúc ra đi” (Mt 10,11b: Tin Mừng). Có nghĩa là không lân la kiếm chác, đừng đứng núi nọ trông núi kia cao. Việc Tông Đồ chỉ có giá trị khi đến đúng nơi làm đúng việc Bề trên đã chỉ định. Thánh Phaolô nói: “Làm sao họ kêu cầu Đấng họ không tin? Làm sao họ tin Đấng họ không được nghe? Làm sao mà nghe, nếu không có ai rao giảng? Làm sao mà rao giảng, nếu không được sai đi? Như có lời chép: Đẹp thay bước chân những sứ giả loan báo tin mừng!” (Rm 10,14-15).
Chính vì vậy mà cả đến thánh Phaolô, dù ông đã được trực tiếp học Giáo Lý với Chúa ở Ả Rập ba năm, sau đó ông phải về hiệp thông với các thủ lãnh là các ông Phêrô, và Giacôbê làm giám mục Giêrusalem. Ông Phaolô nói: “Tôi lên Giêrusalem tham kiến ông Phêrô rồi lưu lại với ông ấy 15 ngày, tôi cũng gặp cả ông Giacôbê, tôi gặp các vị đó nhân một mạc khải, và tôi đã trình bày cho họ về Tin Mừng tôi rao giảng, kẻo mình xưa nay đã từng bôn ba mà lại ra vô ích” (x. Gl 1,18-19; Gl 2,2).
8/ Loan báo Tin Mừng luôn phát sinh sự bình an. Đức Giêsu nói: “Nếu nhà nào xứng đáng thì bình an các ngươi chúc sẽ đến trên nhà ấy, nhược bằng nhà ấy không xứng đáng, thì bình an các ngươi chúc, sẽ trở về với các ngươi” (Mt 10,13: Tin Mừng). Đây là điều lợi nhất, vì việc loan báo Tin Mừng không bao giờ vô ích, đó là nguyên lý phát sinh sự bình an, “chính Chúa là sự bình an của chúng ta” (Ep 2,14).
Bởi thế, sau mỗi Thánh Lễ, Chủ tế hay Phó tế cất tiếng nói: “Lễ đã xong, chúc anh chị em ra đi bình an”, có nghĩa là ra đi để loan báo Tin Mừng, làm cho Lời Chúa trong Thánh Lễ được lan rộng tới nhiều tâm hồn mà ta gặp gỡ trên đường đời, có thế mới đáng được lãnh nhận phúc bình an của Chúa trong Thánh Lễ.
9/ Không toa rập theo lối sống người vô đạo, không chiều theo ý người đời. Đức Giêsu nói: “Ai không đón nhận các ngươi và không nghe lời các ngươi, thì hãy ra khỏi nhà hay thành ấy và rũ bụi chân” (Mt 10,14). Hành động này là phong tục của người Do Thái từ đất dân ngoại về miền đất mẹ, không để bụi dân ngoại bám vào, chứng tỏ dù sống với người ngoại, nhưng không nhiễm lây lối sống thờ ngẫu tượng của dân ngoại. Cũng không chiều theo lối sống của người đời, họ không thiết tha nghe Lời Chúa mà chỉ tìm của cải vật chất. Gặp hoàn cảnh như thế mà vẫn kiên trì giảng dạy, như Đức Giêsu biết đoàn lũ đông đảo đến với Ngài, chỉ vì muốn được Ngài cho của cải vật chất, nhưng Đức Giêsu lại hết lòng giảng về mầu nhiệm Thánh Thể, khiến cả đoàn lũ, có cả một số môn đệ Đức Giêsu, hết thảy đều bỏ đi, nhưng Ngài không ân hận vì bài giảng! (x. Ga 6,22-66). Có lúc Đức Giêsu giảng liên tục tới ba ngày, người ta phải bỏ việc, bỏ ăn, bỏ ngủ để nghe (x. Mt 15,32). Như thế, Đức Giêsu muốn nhấn mạnh: người giảng có quyền bắt người khác phải nghe, và giáo dân cũng phải quảng đại đến nghe Lời Chúa. Thánh Phaolô đã sống chân lý này, cụ thể ông đến Trôa giảng suốt đêm, làm anh Êutykhô từ lầu ba ngủ gật nhào đầu xuống đất, ông Phaolô đến ôm xác anh và nói với cộng đoàn: “Đừng xôn xao vì hồn vẫn còn trong nó”. Bởi lẽ ông Phaolô đã quyết “nếu tôi luôn làm hài lòng người đời, tôi không còn là nô lệ của Đức Kitô” (Gl 1,10), nên ông lên tiếp tục giảng cho đến sáng. Vì ông Phaolô tin Lời Chúa làm cho người ta sống, nên khi tan Lễ, anh Êutykhô cũng chỗi dậy vui vẻ cùng ra về với mọi người (x. Cv 20,7t).
10/ Ai không nghe Lời Chúa do các Tông Đồ giảng, thì nặng tội hơn dân Sôđôma cuồng dâm. Đức Giêsu đã khẳng định như thế, Ngài nói với các môn đệ: “Thầy bảo thật anh em, trong ngày phán xét đất Sôđôm và Gômôra còn được xét xử khoan hồng hơn thành đó” (Mt 10,15: Tin Mừng). Ta biết dân ở Sôđôma phạm tội xác thịt bất thường: nam với nam, nữ với nữ, Chúa thịnh nộ tung lửa trời xuống thiêu rụi thành phố và các thành lân cận (x. St 19). Người đời cho tội mê đắm xác thịt là nặng nề nhất, nhưng Đức Giêsu lại khiển trách các thượng tế và hàng niên trường chống đối Lời Ngài dạy: “Tôi bảo các ông những người thu thuế và những cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông” (Mt 21,23a. 31b).
Vậy ai thực hành mười chỉ thị Đức Giêsu đã dạy trên, người ấy mới thực là môn đệ chính danh của Ngài để làm vinh danh Thiên Chúa, như Ngài nói với các môn đệ: “Điều làm Chúa Cha được tôn vinh là anh em sinh nhiều hoa trái, và như thế mới trở thành môn đệ của Thầy” (Ga 15,8).
THUỘC LÒNG
Thật vậy, đối với tôi, rao giảng Tin Mừng không phải là lý do để tự hào, mà đó là một sự cần thiết bắt buộc tôi phải làm. Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng!Tôi mà tự ý làm việc ấy, thì mới đáng Thiên Chúa thưởng công; còn nếu không tự ý, thì đó là một nhiệm vụ Thiên Chúa giao phó (1Cr 9,16-17).

Lm GIUSE ĐINH QUANG THỊNH