SUY NIỆM LỄ MÌNH MÁU THÁNH CHÚA KITÔ
25. Bánh hằng
sống bởi trời Lm Giuse Đinh lập Liễm
26. Thiên Chúa
là lương thực Lm. Carôlô
Hồ Bặc Xái
29. Để đón nhận
sự sống đời đời Lm. Trần Ngà
31. Tin nhắn yêu
thương Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
32. Thánh lễ làm
cho chúng ta trở thành anh em Sưu tầm
33. Sức sống Sưu tầm
34. Bánh từ trời...
sống muôn đời Sưu tầm
35. Thánh Thể
hiện diện thực sự Sưu tầm
36. Chúa Giêsu
bồng ẵm tôi Sưu tầm
37. Chúa Kitô là
llương thực thiêng liêng Dẫn lê
1. Thánh Thể và Thánh Lễ
Một trận động đất kinh hoàng đã xảy ra tại
Arménie hổi tháng 12 năm 1987. Trong số hàng ngàn người bị chôn vùi dưới đống
gạch vụn, co hai mẹ con bà Suzana. Cả hai may mắn lọt vào một khoảng trống nhỏ,
nên còn sống sót. Tất cả lương thực của họ chỉ là một hũ mứt, nhưng chẳng mấy
chốc, hũ mứt cũng hết. Lúc đó cô con gái mới bốn tuổi đã kêu lên: Mẹ ơi, con
khát quá, mẹ cho con uống nước nhé. Người mẹ lúng túng, biết tìm đâu cho ra nước
bây giờ. Một ý nghĩ táo bạo bỗng nảy sinh trong đầu óc bà, đó là phải lấy những
giọt máu cuối cùng của mình cho con uống, để cầm cự với tử thần. Bà tìm được
một mảnh kính vỡ, cắt đầu ngón tay và bảo con mút. Đứa bé mút những giọt máu từ
đầu ngón tay của người mẹ. Sau khi hai mẹ con được cứu sống, người mẹ kể lại
rằng: Lúc bấy giờ tôi chỉ có một ý nghĩ, đó là phải làm thế nào cho con tôi
được sống.
Với chúng ta cũng vậy. Trong suốt cuộc đời trần
gian, Chúa Giêsu cũng chỉ có một ý nghĩ, cũng chỉ có một mục đích, đó là phải
làm thế nào cho chúng ta được sống, không phải chỉ sự sống phần xác, mà còn là
sự sống phần hồn. Chính vì sự sống phần hồn của chúng ta, mà Ngài đã chấp nhận
cái chết tủi nhục trên thập giá, để cứu chuộc chúng ta. Và hơn thế nữa, Ngài còn
thiết lập bí tích Thánh Thể, để làm của ăn nuôi sống linh hồn chúng ta và để ở
cùng chúng ta mọi ngày cho đến tận thế, bởi vì hiện nay với bí tích Thánh Thể
và với Thánh Lễ được cử hành, hy lễ tiến dâng lên Chúa Cha và của ăn trao ban
cho chúng ta không ngừng được tiếp diễn.
Thế nhưng, chúng ta đã có thái độ nào đối với
bí tích Thánh Thể cũng như đối với Thánh Lễ? Tại nhiều nước Tây Phương, số giáo
dân tham dự Thánh Lễ ngày Chúa nhật giảm sút một cách đáng kể. Điển hình tại
Pháp, chỉ có 10% giáo dân tham dự mà thôi. Còn tại Việt Nam, mặc sù số người
tham dự còn nhiều, nhưng có một số lại đứng ngoài nhà thờ, nói chuyện và hút
thuốc trong khi Thánh Lễ đang được cử hành. Họ đi lễ chỉ vì sợ lỗi luật, sợ
phạm tội, chứ chẳng có lấy một chút tâm tình và một chút yêu mến.
Trong Thánh Lễ, không phải chỉ có vai trò của
vị chủ tế, mà hơn thế nữa, vai trò của người tín hữu cũng không kém phần quan
trọng. Họ không phải chỉ xem lễ, như một khán giả xem đá bóng, xem cải lương,
nhưng họ tham dự và cùng cử hành Thánh Lễ. Nói cho cùng, chẳng có hai Thánh Lễ
giống hệt nhau, vì chính cuộc sống của người tham dự đã thay đổi.
Mỗi Thánh Lễ, tôi cảm thấy có một điều gì đó
cần thống hối cách đặc biệt. Mỗi Thánh Lễ, tôi cảm thấy mình muốn đặt trên đĩa
thánh một chút cố gắng, một chút đau khồ, một chút ước mơ riêng tư của tôi. Tôi
không dự lễ với đôi bàn tay trắng, nhưng tôi dự lễ với lễ vật của riêng tôi. Lễ
vật ấy là chính cuộc đời tôi.
Đồng thời trong Thánh Lễ, lời Chúa tác động
trên tôi, rồi mỗi khi lên rước lễ, tôi nhớ rằng Ngài đã trở nên tấm bánh được
bẻ ra cho tôi, thì tôi cũng phải trở nên tấm bánh được bẻ ra cho anh em tôi.
Thánh Lễ sẽ không nhàm chán, khi chúng ta biết
nối dài Thánh Lễ trong cuộc sống. Và mỗi khi tham dự Thánh Lễ, chúng ta mang
đến nơi bàn thờ của lễ xuất phát từ lòng cuộc đời mỗi người chúng ta.
2. Mình Máu Thánh Đức Kitô.
Palestine là một vùng đất hiện vẫn còn rất đông
người theo đạo Hồi. Ngày nọ có một vị thầy, lãnh đạo một cộng đoàn Hồi giáo,
mời một linh mục Công giáo đến để công khai tranh luận về bí tích Thánh Thể
trước sự hiện diện của các tín hữu đôi bên. Vị thầy hỏi:
- Làm sao một miếng bánh nhỏ lại có thể trở
thành Đức Kitô được?
Vị linh mục trả lời:
- Được chứ sao lại không? Tôi xin minh chứng
cho thầy biết bằng một thí dụ đơn sơ. Nếu thầy ăn cơm, thầy có thể biến cơm
thành máu thịt của thầy, có thật thế không nào? Chớ thì tại sao Chúa lại không
biến tấm bánh nhỏ trở thành máu thịt Chúa được.
Bậc thầy đó lại hỏi tiếp:
- Làm sao Đức Kitô to lớn như thế lại có thể ở
trong miếng bánh nhỏ xíu?
Vị linh mục trả lời:
- Thầy hay nhìn trời, nhìn núi và các thôn làng.
Bầu trời thì mênh mông. Ngọn núi thì cao lớn hùng vĩ, còn thôn làng thì rộng
rãi bao la, thế mà con mắt nhỏ xíu của thầy có thể chứa được tất cả. Nếu con
mắt của Thầy làm được chuyện đó thì tại sao Thiên Chúa lại không thể làm cho
miếng bánh nhỏ xíu chứa đựng được Đức Kitô.
Bậc thầy không chịu thua lại hỏi thêm:
- Làm sao có thể cử hành nhiều thánh lễ cùng
một lúc tại nhiều nơi trên thế giới, mà mỗi thánh lễ lại có Mình và Máu của Đức
Kitô được?
Vị linh mục đáp:
- Đối với Thiên Chúa không có gì là không thể
làm được.
Rồi để chứng minh cho câu trả lời này, vị linh
mục lấy một tấm gương ném xuống đất khiến nó bể tan thành rất nhiều mảnh nhỏ. Tiếp
đến, vị linh mục giơ tay chỉ cho bậc thầy đang ngạc nhiên và nói:
- Trước đây trong tấm gương này, thầy trông
thấy gương mặt mình có phải không nào. Và bây giờ thầy cũng trông thấy gương
mặt mình trong từng mảnh nhỏ. Thế thì tại sao Thiên Chúa lại không thể hiện
diện tại nhiều nơi trong cùng một lúc được.
Cuộc tranh luận trên giúp chúng ta hiểu được
phần nào mầu nhiệm Mình Máu Thánh Đức Kitô mà Giáo Hội cử hành mỗi ngày trong
bí tích Thánh Thể. Vậy chúng ta phải có thái độ nào khi đi tham dự Thánh lễ?
Thánh lễ không phải là nơi trình diễn thời
trang hay văn nghệ. Vì thế xén đầu bớt đuôi không tham dự đầy đủ, biến Thánh lễ
thành buổi trình diễn chỉ có ca đoàn độc tấu từ đầu đến cuối, còn cộng đoàn thì
yên lặng, là tỏ ra không hiểu gì về ý nghĩa phụng vụ và tinh thần cộng đoàn của
Thánh lễ.
Nếu thánh lễ là một bữa tiệc, thì chúng ta phải
cố gắng để Lời Chúa đúng là một món ăn thừa thãi. Tuy nhiên khi dọc tiệc, Thiên
Chúa muốn chúng ta được ăn uống no say ơn thánh của Ngài. Nhưng vì Bí tích
Thánh Thể là bàn tiệc thánh, nên muốn, tiếp nhận Chúa vào cõi lòng, thì linh
hồn chúng ta cũng phải ở trong tình trạng ơn thánh, nghĩa là sạch tội trọng. Và
hơn thế nữa mỗi khi tham dự Thánh lễ chúng ta hãy duyệt xét lại mọi tư tưởng,
lời nói và việc làm của chúng ta xem có phù hợp với Tin Mừng và nhất là chúng ta
đã thực sự sống bác ái yêu thương hay không. Bởi vì chúng ta phải làm hoà trước
đã, rồi mới đến mà dâng Thánh lễ sau.
3. Kẻ ăn Tôi sẽ sống nhờ Tôi.
Suy Niệm
"Lúc đó tôi biết thế nào tôi cũng chết
nhưng tôi muốn con tôi được sống.” Đó là lời của bà Susanna sau khi được cứu
trong trận động đất ở Ácmêni vào tháng 12-1987.
Trong số hàng ngàn người bị vùi lấp dưới đống
gạch, có hai mẹ con bà Susanna may mắn còn sống sót. Cô con gái bốn tuổi đòi
uống nước. Tìm đâu ra nước khi hai mẹ con không có lối ra? Tình mẫu tử đã gợi
lên cho bà một ý nghĩ táo bạo, đó là rạch ngón tay mình chảy máu để cho con mút.
Đứa bé đã đỡ khát nhờ máu người mẹ. Nó đã sống cho đến khi cả hai mẹ con được
cứu. Câu truyện trên giúp ta hiều phần nào bí tích Thánh Thể.
Đức Giêsu đã chết để chúng ta được sống. Ngài
chấp nhận chịu đổ máu qua cái chết thập giá, và Ngài muốn máu Ngài trở nên thức
uống cho chúng ta.
Trong các nhà thờ, vào dịp lễ Giáng sinh,
thường có những người ngoài Kitô giáo đến dự lễ. Cũng có ít người tò mò lên
"ăn bánh thánh.” Họ ngạc nhiên vì tấm bánh mỏng manh, nhạt nhẽo. Nhưng họ
sẽ ngạc nhiên hơn nhiều nếu chúng ta bảo họ: "Ăn tấm bánh đó là ăn thịt
Chúa, uống chén rượu đó là uống máu Chúa.” Thật là kinh khủng, làm sao có
chuyện như vậy?
Đây là mầu nhiệm đức tin, không dễ giải thích
cho người ngoài.
Tất cả bắt đầu từ ước muốn lạ lùng của Đức
Giêsu. Ngài muốn nuôi nhân loại bằng chính con người Ngài. Ngài muốn trở thành
đồ ăn thức uống cho nhân loại: "Các con hãy cầm lấy mà ăn, đây là Mình
Thầy. Các con hãy cầm lấy mà uống, đây là Máu Thầy.”
Mình và Máu tượng trưng toàn thể con người Đức
Giêsu. Nên khi rước lễ, ta không chỉ rước thịt mình Ngài, mà rước lấy cả con
người Ngài dưới dạng tấm bánh.
Rước lễ là gắn bó với một ngôi vị: "Ai ăn
thịt tôi và uống máu tôi thì ở lại trong tôi và tôi ở lại trong người ấy (c. 56).
Rước lễ không phải là đón nhận một xác chết,
nhưng là gặp gỡ Đức Giêsu đã chết và nay đã phục sinh.”Như tôi sống nhờ Chúa
Cha thế nào, kẻ ăn tôi cũng sẽ sống nhờ tôi như vậy" (c. 57).
Rước lễ là đón lấy sự sống từ Đấng đang sống,
cũng là sự sống duy nhất bắt nguồn từ Chúa Cha.
Hôm nay, Đức Giêsu phục sinh có một lối hiện
diện mới mẻ. Ngài không hiện diện dưới dạng một con người, nhưng dưới dạng đồ
ăn, đồ uống.
Như thế cả vật chất bất động cũng được nâng
lên, cả lao công của con người cũng được thánh hiến. Vật chất trở thành biểu
tượng cho sự hiện diện thần linh. Vật chất có chỗ trong thế giới của Thiên Chúa.
Ước gì thế giới vật chất ở quanh ta cũng nên
thánh, nhờ được chia sẻ trong yêu thương.
Gợi Ý Chia Sẻ
Bài Tin Mừng hôm nay có 10 từ "sống.” Bí
tích Thánh Thể là bí tích ban sự sống. Bạn có thấy thánh lễ đem lại sức sống
cho bạn không? Nếu không, tại sao?
Bạn nghĩ gì về thái độ của bạn khi rước lễ? Đó
có phải là một cuộc gặp gỡ thân tình không? Bạn có chuẩn bị gì khi rước lễ? Bạn
có dành những giây phút lặng lẽ để tâm sự với Chúa sau rước lễ không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, có một ngọn đèn dầu gần Nhà
Tạm, ngọn đèn đỏ mời con dừng bước chân, và nhắc con về sự hiện diện của Chúa.
Con mong sự hiện diện ấy lan tỏa khắp nơi, để
đâu đâu cũng thấy những ngọn đèn đỏ.
Nơi xóm nghèo mùa mưa nhớp nháp, nơi lớp học
tình thương lúc chiều tà, nơi những trung tâm phục hồi nhân phẩm, nơi bảo sanh
viện nâng niu sự sống của trẻ thơ, nơi khách sạn năm sao, nơi quán bia đầu ngõ,
nơi các tiệm cho mướn băng video, nơi tình yêu trong ngần của đôi bạn trẻ. . .
Nhưng lạy Chúa, trước hết, xin cho đời con là
một ngọn đèn, xin cho chúng con là những ngọn đèn màu đỏ, mời người ta dừng
lại, trầm tư, và gặp được Chúa.
4. Tôi là Bánh
(Trích trong ‘Manna’)
Cả các Kitô hữu cũng ngỡ ngàng trước bí tích
Thánh Thể. Ăn thịt và uống máu người mình yêu là điều khủng khiếp chẳng ai dám
nghĩ tới. Nhưng Đức Giêsu lại muốn nuôi cả nhân loại bằng Thịt và Máu Ngài. Và
thực sự Ngài đã nuôi ta bằng cái chết thập giá - ở đó Ngài đã hy sinh Máu Thịt
mình.
Đúng hơn, Ngài nuôi chúng ta bằng sự sống của
Ngài: sự sống được trao đi qua cái chết tự nguyện, và sự sống được lấy lại qua
phục sinh vinh quang.
Đức Giêsu ban cho ta Tấm Bánh (c. 51). Ngài còn
tự nhận mình là Tấm Bánh (cc. 48. 51): Tấm Bánh có sự sống và Tấm Bánh ban sự
sống. Tôi là Tấm Bánh: đó là định nghĩa của Đức Giêsu về mình.
Định nghĩa này có làm ta ngạc nhiên không? Bánh
là cái gì ăn được và đem lại sự sống. Bánh không sống cho mình, nhưng cho người
khác.
Chấp nhận là bánh có nghĩa là chấp nhận mất
mình, mà chỉ khi mất mình như thế, bánh mới thật là bánh, mình mới thật là mình.
Thật ra bánh vẫn hiện diện và nên một với người ăn. Đức Giêsu là Tấm Bánh đặc
biệt. Khi tôi ăn, Ngài thành tôi và biến tôi thành Ngài. Một sự ở lại hai
chiều, một sự hiệp thông sâu thẳm.
"Ai ăn thịt tôi và uống máu tôi thì ở lại
trong tôi và tôi ở lại trong người ấy" (c. 56).
Rước lễ là đón lấy dòng sự sống, chấp nhận sống
nhờ. Đức Giêsu sống nhờ Cha và chúng ta sống nhờ Đức Giêsu (c. 57). Như cành
nho sống nhờ thân cây nho, chúng ta cũng sống nhờ, nghĩa là sống trong và sống
cho Chúa.
Trong nhiều thế kỷ, Hội Thánh đã từng có thái
độ nhìn và thờ lạy Thánh Thể hơn là cầm lấy mà ăn. Động từ ăn được nhắc đến 8 lần
trong bài Tin Mừng này, như một lời mời gọi tha thiết của Đức Giêsu.
Ngày nay, người ta rước lễ nhiều hơn trước. Tiếc
thay lắm khi cuộc gặp gỡ này khá vội vã, thiếu chuẩn bị và cũng thiếu đối thoại
thân tình.
Tôi lên rước lễ chỉ vì mọi người trong hàng ghế
đã lên. Phút thinh lặng sau rước lễ cũng bị cắt ngắn. Tôi phải về ngay vì phải
lấy xe, vì nhà thờ đóng cửa. . . Chính vì thế rước lễ chẳng gây được âm vang
nào nơi tôi. Nó trở thành một thói quen, một nghi thức thuần tuý.
Tôi lên ăn một vật thánh, thay vì đón một người.
Ít khi có vị khách quý nào bị thường xuyên tiếp
đón lạnh nhạt như thế! Rốt cuộc chẳng có cuộc gặp gỡ nào xảy ra, nên tôi vẫn cứ
là tôi như trước.
Hãy dự lễ như người đi dự tiệc Lời Chúa, Mình
Chúa.
Chỉ ai biết ăn, biết thưởng thức và nghiền
ngẫm, người ấy mới gặp được sự sống và gặp được Giêsu.
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể,
Chúa đến với chúng con dưới dạng tấm bánh bình
thường.
Tấm bánh chẳng nói gì, chỉ biết lặng lẽ chờ đợi.
Tấm bánh hiện diện là để phục vụ cho con người.
Tấm bánh quá đỗi mong manh, nhỏ bé, có thể bị
ẩm mốc làm hư hoại,
và tan rất mau sau khi được nhận lãnh.
Lạy Chúa Giêsu,
có cái gì tương tự giữa phận làm người và phận
làm bánh của Chúa.
Xin cho chúng con biết cách đến với con người
hôm nay:
đơn sơ, khiêm hạ, không chút vinh quang hay
quyền lực.
Nhờ ăn tấm bánh của Chúa,
chúng con cũng trở nên tấm bánh ngon,
được bẻ ra để đáp ứng khẩu vị của nhiều người.
Ước gì chúng con dám rước Chúa đi vào mọi vùng
mờ tối của lòng mình,
để sự hiện diện của Chúa trong con được lớn lên.
Và ước gì chúng con trở thành những Nhà Tạm di
động,
đem Chúa đến cho đồng bào và quê hương chúng
con. Amen.
5. Tấm bánh tình yêu – ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Mỗi khi chiêm ngắm Thánh Thể Chúa, tôi không
ngừng ngỡ ngàng trước tình yêu của Người. Tình yêu ấy vô cùng cao cả nhưng lại
rất đỗi đơn sơ. Đơn sơ như hình ảnh tấm bánh.
Tấm bánh, tình yêu gần gũi.
Sao Chúa không hoá thân làm viên kim cương quý
giá mà lại làm một tấm bánh? Tấm bánh bình thường, quen thuộc quá. Từ khi kinh
tế phát triển, bánh càng ngày càng xuống giá, bớt được quý trọng.
Tuy bình thường, nhưng bánh vẫn là lương thực
cần thiết cho con người. Cũng như khí trời, như nước, bánh đi vào sinh hoạt
hằng ngày của con người. Bình thường lắm nhưng không có không được.
Chúa trở thành tấm bánh để gần gũi với loài
người, để đi vào sinh hoạt đời thường của con người. Con người có thể đến với
Chúa dễ dàng, không e ngại, sợ sệt. Chỉ là một tấm bánh vừa tầm tay mọi người. Chỉ
là một tấm bánh sẵn sàng đáp ứng nhu cầu của con người. Thật khiêm nhường mà
đầy ý nhị.
Thật đơn sơ nhưng cũng thật sâu xa vì tấm bánh
nói lên tình yêu tự hiến.
Tấm bánh, tình yêu tự hiến.
Bánh sẽ chẳng còn ý nghĩa nếu chỉ để trưng bày
cho người ta chiêm ngắm. Bánh chỉ có ý nghĩa khi được sử dụng. Được sử dụng là
bị bẻ ra, bị nghiền nát, bị tan biến, bị tiêu hoá. Vì thế, trở thành tấm bánh
là chấp nhận chịu đau đớn, chịu huỷ hoại. Đây không phải là một chấp nhận bất
đắc dĩ, vì tấm bánh bao giờ cũng mời mọc tiêu thụ.
Khi xưng mình là bánh bởi trời, Chúa Giêsu bày
tỏ một tình yêu tha thiết, sẵn sàng chịu nghiền nát, tan biến, chịu chết cho
nhân loại. Chúa chịu chết cho ta được sống. Chúa chịu huỷ hoại cho ta được lành
lặn các thương tích. Chúa bé nhỏ đi cho ta được lớn mạnh.
Tấm bánh bị tiêu hoá để thực hiện một tình yêu
hiệp thông.
Tấm bánh, tình yêu hiệp thông.
Chúa Giêsu tha thiết với sự hiệp thông. Người
không ngừng mời gọi con người đến sống thân mật với Người. Người tự nhận mình
là cây nho và mời gọi mọi người hãy trở thành cành nho gắn kết với cây nho.
Hôm nay, Người còn chủ động trở thành tấm bánh
để hoà vào từng giòng máu, từng thớ thịt của con người trong một kết hiệp sâu
xa. Người tự tiêu huỷ mình để trở thành thịt máu của con người. Không còn sự
kết hợp nào sâu xa khăng khít hơn nữa.
Tấm bánh gợi lên một bàn tiệc tại đó anh em
quây quần trong tình thương, chia sẻ lương thực và chia sẻ tâm tình. Không còn
gì đẹp hơn. Chính Chúa Kitô tự hiến mình để quy tụ chúng ta. Chính Chúa Kitô bị
bẻ ra để cho tình huynh đệ nhân loại được mặn mà thắm thiết.
Với những gợi ý như thế, Chúa hướng dẫn tôi
trong tình yêu mến, trong cử hành và trong cách sống Bí tích Thánh Thể.
Yêu mến Bí tích Thánh Thể là gì nếu không phải
là trở nên hiền lành khiêm nhường, sống gần gũi với những người nhỏ bé nghèo
hèn?
Cử hành Bí tích Thánh Thể là gì nếu không phải
là chấp nhận hao mòn, quên mình, thiệt thòi vì Chúa và vì anh em?
Sống Bí tích Thánh Thể là gì nếu không phải là
xây dựng tình đoàn kết, tình huynh đệ với những người sống quanh ta, trong mọi
môi trường cuộc sống?
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, con cảm tạ tình yêu
vô biên của Chúa. Con chúc tụng ngợi khen Chúa muôn đời. Amen.
GỢI Ý CHIA SẺ
1) Khi dâng lễ, tấm bánh có gợi lên cho bạn
điều gì về tình yêu của Đức Giêsu không?
2) Khi bạn rước lễ, bạn có cảm nghiệm được tình
yêu của Chúa không?
3) Phép Thánh Thể thôi thúc bạn làm gì?
6. Hiến lễ cuộc đời – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Theo giáo lý của Hội thánh "Bản chất của
Bí tích Thánh Thể không chỉ là bữa ăn chung, mà còn và trước tiên là hiện tại
hóa hy lễ thập giá. Thiếu giá trị hy tế, Mầu Nhiệm Thánh Thể không có ý nghĩa
và chỉ có giá trị như là một buổi gặp gỡ giao hảo và huynh đệ" (BT cứu độ).
Vì thế, hôm nay chúng ta cùng nhau khơi gợi lại
ý nghĩa và những giá trị thiêng liêng của thánh lễ để qua đó chúng ta sẽ tham
dự thánh lễ một cách tích cực và sốt sắng hơn. Vậy, thánh lễ là gì?
Thánh lễ là diễn lại cuộc hy tế của Chúa Giêsu
ngày xưa trên thập giá, là bàn tiệc Nước Trời mà chúng ta được mời gọi tham dự;
là thông phần khổ nạn và phục sinh của Chúa Kitô, vì thế, khi chúng ta tham dự
thánh lễ, là chúng ta đóng vai trò của:
- Đức Trinh Nữ Maria: Mẹ dâng lên
Thiên Chúa Cha lời xin vâng trọn vẹn qua sự hiệp thông với Con yêu qúy để cứu
độ trần gian. Chính Mẹ đã kết hợp đau khổ từ trái tim của mình với đau khổ máu
đổ tuôn rơi của Con để mang lại mùa xuân cứu rỗi cho trần gian.
Cũng vậy, khi chúng ta đi dâng thánh lễ, là
chúng ta đem những lao công vất vả trong ngày của mình, những khổ đau trong tâm
hồn, đem những tâm tình vui tươi, lạc quan của mình, hợp với của lễ trên bàn
thờ là Đức Kitô dâng lên Thiên Chúa Cha, để nhờ Đức Kitô, xin Ngài ban ơn cho
chúng ta, tha tội cho chúng ta và xin ơn cứu độ cho toàn thể thế giới. Một sự
hy sinh vất vả của một đời lao nhọc để đem lại nguồn sống và hạnh phúc cho mái
ấm gia đình, là một lễ vật tuy không đổ máu nhưng cô quặng trong những giọt mồ
hôi, những giọt nước mắt chảy ngược vào tim. Đó là một hiến tế mà bổn phận đòi
hỏi chúng ta phải chu tòan. Đó là lễ vật mà hằng ngày chúng ta có thể thưa lên
với Chúa: "Xin Chúa nhận lễ vật bởi tay cha để tôn vinh danh Chúa và sinh
ơn ích cho toàn thể Hội thánh Người.
- Chúng ta cũng đóng vai trò của thánh
Gioan Tông đồ, đã gan dạ đứng kề bên thập giá như một chứng nhân cho
cái chết hiến tế của Thầy Chí Thánh Giêsu. Gioan không chạy trốn như bao môn đệ
khác. Gioan không bàng quang như bao người khách qua đường, nhưng ông đứng dưới
chân thập giá như muốn nói lên tấm lòng sẵn lòng cùng Thầy trải qua cuộc thương
khó đau thương.
Cuộc sống của chúng ta luôn có thánh giá, thánh
giá trong bổn phận, trong trách nhiệm, trong những lao nhọc của công ăn việc
làm, trong những ưu tư lo lắng cho con cái, cho hạnh phúc gia đình. Đó là thánh
giá mà Chúa đang cần chúng ta ôm lấy vào cuộc đời mình. Không trốn tránh thập
giá, nghĩa là không lẩn trốn đau khổ, lẩn trốn trách nhiệm. Cuộc đời này ai
cũng muốn an nhàn nhưng để được hưởng những tháng ngày an nhàn thì cần phải có
những ngày tháng lao động cực khổ. Có gieo - có gặt. Có trồng mới có ngày hưởng
nếm những thành quả của mình.
- Cuối cùng, khi tham dự thánh lễ là chúng
ta thông hiệp vào Mình và Máu Thánh Chúa Kitô. Chúng ta được kết hợp
nên một trong Chúa Kitô. Chúa Kitô là Đầu Hội Thánh đã dâng chính mình làm tế
lễ, còn chúng ta là những chi thể trong nhiệm thể của Người, chúng ta cùng ăn
một bánh, cùng uống một chén thánh là chính Mình Máu Thánh Chúa Kitô, chúng ta
có cùng chịu hiến tế chính mình như Đức Kitô là Đầu của Hội thánh hay không?
Liệu rằng, chúng ta có thể đứng nhìn Chúa chịu sát tế, còn mình không chịu làm
gì cả, hay chỉ đứng đó như những khách bàng quang, đứng bên vệ đường nhìn xem
máu Chiên Con vô tội đang đổ ra vì loài người, mà lòng mình không cảm thấy một
chút hổ thẹn hay ái ngại lương tâm? Chúa Kitô vẫn đang đổ máu vì tội lỗi loài
người. Giáo hội vẫn đang hiệp thông với đau khổ của Con Chiên Thiên Chúa, còn
chúng ta sẽ đóng góp phần vụ gì trong việc đền tội cho thế giới và cứu độ trần
gian?
Chúng ta biết rằng, trên bàn thờ tế lễ Giáo hội
buộc phải có tượng Chúa chịu nạn, chính là để nhắc nhở chúng ta phải hy sinh,
phải dâng hiến mình như Chúa Giêsu đã hiến dâng. Phải đóng góp phần chúng ta
như Mẹ Maria đã đóng góp chính nỗi đau khổ xé nát lòng mình, hiệp thông với đau
khổ của Chúa Giêsu để dâng lên Chúa Cha. Phải đóng góp phần chúng ta như Gioan
đứng sát cây thập giá để nói lên tình yêu thuỷ chung sắt son với Thầy, cho dù
phải cùng Thầy trải qua những cam go của đỉnh đồi Calve.
Thiết tưởng để thánh lễ thực sự mưu ích cho
phần rỗi chúng ta và cho toàn thể nhân loại. Mỗi người chúng ta cũng phải biết
gom góp hy sinh mỗi ngày như những hạt lúa bị nghiền nát, như trái nho ép thành
chén rượu mới có của lễ để dâng trên bàn thờ. Đó chẳng phải là mồ hôi nước mắt
trong lao công con người làm nên hay sao? Đó chẳng phải là những hy sinh, những
chén đắng trong cuộc đời mà mỗi người chúng ta đang chấp nhận vì lòng yêu mến
Chúa hay sao?
Lạy Chúa, xin nhận lấy hạt lúa chấp nhận phân
huỷ, mục nát là cuộc đời chúng con. Dưới cối xay của bổn phận trong bậc sống
của mình, của những thập giá đắng cay trong những thất bại, bị bỏ rơi, bị hiểu
lầm,. . . Xin cho con được nghiền nát cho Chúa, cho dẫu tâm hồn và thân xác của
con có tan nát nhưng xin cho ngọn lửa tình yêu mến làm con trở nên một tấm bánh
tinh tuyền hiến dâng cho Thiên Chúa. Amen.
7. Bí tích Thánh Thể
(Suy niệm của Phêrô Trần Đình Phan Tiến)
Sự sống nhân thế hệ tại ăn và uống, uống ăn, ăn
uống cứ quẩn quanh và sinh ra rất nhiều phiền toái. Ăn thế nào cho ngon, cho
sang, cho bổ, cho khỏe. Đó là công việc của nhân thế, thế nhân thường sử dụng
lời nói “làm ăn.” Làm lụng vất vả để có cái ăn, điều ấy thật tốt lành, “cũng
như lao động là vinh quang”, dùng sức lao động tạo ra cái ăn là vinh quang.
Từ đầu sáng thế, Thiên Chúa tạo dựng nên con
người, chưa cần làm lụng vẫn có cái ăn. Qủa thật là thiên đàng, nhưng rồi vì án
phạt con người phải làm lụng vất vả mới có cái ăn, cuối cùng con người phải
“chết.” Vì thân xác con người đã mang án phạt, nên con người phải chết, nghĩa
là cái ăn của trần thế chỉ mang lại sự sống nơi thế gian, cho dù nhân thế có ăn
uống cao lương mỹ vị, sơn hào hải sản quý đến đâu đi nữa, con người cũng không
thể duy trì sự sống trên trần gian, như vậy tại sao con người phải chết? rõ
ràng là án phạt nguyên tổ. Như vậy nhân thế chờ mong điều gì nơi Đấng Tạo Thành.
Há chẳng phải là ơn cứu độ sao? Ơn cứu độ để làm gì? Há chẳng phải là để được
sống và sống muôn đời sao?
Sống muôn đời mà phải làm lụng vất vả, tìm kế
sinh nhai, lao động là vinh quang vì cái ăn, thì sống đời đời để làm gì? Có
khác gì với đời sống thế trần đâu?
Như vậy ăn uống luôn gắn liền với sự sống của
con người, ngay cả khi họ chết rồi, họ cũng được thân nhân cúng cơm, cúng nước
và cúng giỗ hằng năm. Cái ăn, cái uống không thể tách rời nhân thế khi sống ở
thế trần hay khi về âm phủ, chầu âm ty.
Thật đáng thương cho nhân thế, nếu không có
lương thực vĩnh cửu, trường tồn, thì họ chỉ biết lấy cái ăn làm chuẩn mực cho
cuộc sống trên dương thế cũng như âm phủ. Triết lý sống trần thế chỉ có thế
thôi!
Nhưng, “Thiên Chúa đã yêu thế gian, đến nỗi đã
ban Con Một của Ngài cho thế gian, để ai TIN vào Con của Ngài thì khỏi phải
chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16). Như vậy rõ ràng, Thiên Chúa không bỏ
mặc thế gian. Thiên Chúa đã ban sự sống từ Thiên Chúa cho thế gian một lần nữa,
sau lần sáng thế. Nhưng sự sống nơi Thiên Chúa được trao ban qua Con MỘT của
Ngài là Đức Kitô Giêsu. Chỉ có đấng từ trời mới ban cho Lương thực bởi trời,
tức là Thần Lương, Thần Lương tức không còn là lương thực tự nhiên như cơm
bánh, nước và rượu nữa, vì những thứ đó tự bản chất không phải là Thần Lương. Thần
lương tức lương thực siêu nhiên, chỉ ăn một lần mà sống mãi, đó là Niềm TIN. Thật
vậy, khi nhân thế chỉ TIN vào Đấng cứu thế Giêsu một lần là đủ cho họ, nhưng
niềm tin cũng cần nuôi dưỡng để nó lớn lên và trưởng thành, như vậy, chúng ta
cần kết hiệp với Đấng Cứu thế thường xuyên, liên tiếp khi nào có thể, để Thần
lương huyền nhiệm vì tình yêu sẽ nâng đỡ chúng ta trong mọi nơi, mọi lúc, cho
đến khi chúng ta được Chiêm ngưỡng vinh quang của Thiên Chúa.
Bài Tin Mừng hôm nay, được Đấng Giêsu Kitô quả
quyết cách xác thực chính Thần Lương từ trời là “THỊT và MÁU” của Người, nghĩa
là phần nhân tính hữu hình của Đấng thiên sai không phải là sự hư nát, tiêu hao
như phần nhân tính của phàm nhân. Bởi vì, Người là Thiên Chúa, ăn THỊT và uống
MÁU Chúa Giêsu là Tin tuyệt đối vào mầu nhiệm nhập thể của Con Thiên Chúa làm
Người, ở giữa nhân loại. Sự sống Người mang đến cho nhân loại là mầu nhiệm nhập
thể và làm Người cùng với phần Thiên tính là Thiên Chúa của Người. Bí tích
Thánh Thể không thể hiểu theo nghĩa hẹp, khi Chúa Giêsu còn ở trần gian, mà là
khi Người đã hoàn tất mầu nhiệm cứu độ. Mầu nhiệm cứu độ bao gồm sự nhập thể –
nhập thế làm Người, tử nạn và phục sinh. Bánh và rượu thánh không mang lại sự
cứu độ vì nó không phải là Thần Lương, nó không cho sự sống trường sinh, ví nó
là phương tiện hữu hình của trần gian. Không có giá trị nào thay thế THỊT và
MÁU Chúa Giêsu được. Vì chính Thân Thể hữu hình “ấy” được treo lên, thì THỊT và
MÁU “ấy” sẽ trở nên Thần Lương CHO NHỮNG AI TIN VÀO NGƯỜI LÀ THIÊN CHÚA.
“Vì thịt Tôi thật là của ăn, và máu Tôi thật là
của uống” (c 55), chứ không phải bánh và rượu là của ăn và của uống nữa. Thịt
và Máu của Chúa Giêsu chính là lương thực đích thực nuôi sống nhân thế đời đời
và những ai đón nhận thì không hề đói khát, vì Thần lương vĩnh hằng chính là
Thiên Chúa duy nhất. Đến đây, xin nhớ đến linh hồn thân phụ tôi, người mà luôn
thì thầm bên tai tôi, mỗi khi tham dự Thánh lễ Misa, khi tôi còn thơ ấu.
Khi linh mục đọc lời truyền phép và dâng bánh
lễ lên: Thầy cả làm gì khi dâng bánh? Thầy cả lấy dĩa thánh có bánh lễ dâng
lên, bánh ấy trở nên Mình Thánh Đức Chúa Giêsu. Thầy cả làm gì khi dâng rượu?
thầy cả rót rượu nho vào chén Thánh, rượu nho trở nên Máu Thánh Đức Chúa Giêsu
và một chút nước lã,hai chất ấy chỉ Máu và Nước bởi cạnh nương long Chúa đã
chảy ra khi Người chịu treo trên cây Thánh Giá. Thầy cả rửa tay thì kẻ giúp làm
gì? Kẻ giúp đổ nước trên ngón tay thầy cả để chỉ lòng ăn năn sám hối, ta cũng
phải rửa linh hồn ta cho sạch và ăn năn thảm thiết về tiền khiên ta đã phạm, để
xứng đáng dâng thánh lễ cực trọng nầy.
Như vậy, bánh và rượu là hình thức tượng trưng
cho THỊT và MÁU Chúa Giêsu Kitô, Đấng từ trời mà đến, đem lại sự sống vĩnh cửu
cho những ai tin và đón nhận và làm no thỏa mọi khao khát của nhân loại.
Lạy Chúa Giêsu, con tin vào Chúa, xin Chúa trợ
giúp lòng tin yếu kém của con. Amen.
8. Hồng ân Thánh Thể – Lm. Ignatiô Trần Ngà
Khi thông ban Sự Sống của chính mình cho nhân
loại, Thiên Chúa ban cho họ một hồng ân cao quý hơn hết mọi hồng ân, một quà
tặng tuyệt vời trên tất cả mọi món quà
Không gì trên đời quý bằng sự sống. Dù có bị
thiên tai mất hết ruộng vườn, tài sản, nhà cửa, tiền bạc, nhưng chưa phải chết
thì vẫn còn may.
Được sống là một hồng phúc lớn nhất, là một ân
huệ vượt trên hết mọi ân huệ. Theo nhà văn Jack London thì "thà làm một
con chó sống còn hơn làm một con sư tử chết.” Làm một con chuột sống còn hơn
một con voi chết! Thế nên người ta thường nói: "Mạng sống quý hơn đống
vàng.”
Vì yêu thương con người trên hết mọi sự, nên
Thiên Chúa muốn dành cho họ quà tặng cao quý hơn tất cả mọi quà tặng, đó là sự
sống; nhưng Thiên Chúa không chỉ ban sự sống sinh vật mà còn thông ban cả Sự
Sống của chính Thiên Chúa cho con người nữa.
Thông ban sự sống thần linh
Thiên Chúa Cha là Cội Nguồn của Sự Sống. Sự
Sống bắt nguồn từ Chúa Cha. Người thông ban Sự Sống của Người cho Chúa Con
(Chúa Cha nhiệm sinh Chúa Con). Chúa Giêsu xác nhận sự sống của Người từ Chúa
Cha mà đến: “Chúa Cha là Đấng hằng sống đã sai tôi, và tôi sống nhờ Chúa Cha”
(Ga 6, 57)
Một khi nhận được sự sống từ Chúa Cha, Chúa
Giêsu không giữ lại cho riêng mình, nhưng tìm cách thông truyền Sự Sống cao quý
ấy cho nhân loại.
Bằng cách nào?
Muốn cho cành nho rừng tiếp nhận được sự sống
của cây nho vườn, thì nó phải được tháp nối để nên một với cây nho vườn.
Muốn cho một bàn tay bị cắt lìa thân được tiếp
nhận sự sống từ thân thể thì bàn tay đó phải được ghép nối vào thân thể, trở
nên một với thân thể.
Vậy muốn cho loài người tiếp nhận được Sự Sống
của Chúa Giêsu thì phải làm cho họ nên một với Chúa Giêsu.
Thế nên, Chúa Giêsu lập nên bí tích Thánh Thể,
hiến ban Thịt và Máu Người, dưới hình bánh rượu, làm của ăn cho nhân loại, để
cho những ai lãnh nhận Mình Máu thánh Người thì được nên một với Người, được ở
lại trong Người: “Ai ăn thịt và uống máu Tôi, thì ở lại trong Tôi, và Tôi ở lại
trong người ấy.”
Những ai “ở lại trong Chúa Giêsu và có Chúa
Giêsu ở lại trong người ấy”, thì tất nhiên Sự Sống của Chúa Giêsu sẽ được thông
ban cho người ấy.
Điều tuyệt vời là Sự Sống mà Chúa Giêsu thông
ban, qua việc tiếp nhận Mình Máu Người, không phải là sự sống sinh vật có thể
bị lụi tàn theo năm tháng mà là Sự Sống vĩnh cửu không bao giờ tàn phai.
“Đức Giêsu nói với người Do-thái rằng:
"Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn
đời.” (Ga 6, 51)
“Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn
đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết.” (Ga 6, 54)
Thế là thông qua việc ăn Mình và Máu Chúa
Giêsu, con người được nên “cùng một thân mình, cùng một dòng máu” với Chúa
Giêsu và do đó, Sự Sống thần linh của Chúa Giêsu sẽ được thông ban cho họ.
Khi thông ban Sự Sống của chính mình cho nhân
loại, Thiên Chúa ban cho họ một hồng ân cao quý hơn hết mọi hồng ân, một quà
tặng tuyệt vời trên tất cả mọi món quà.
Biến đổi con người thành Chúa Giêsu
Ngoài ra, khi tiếp nhận Mình Máu thánh Chúa
Giêsu trong Bí Tích thánh thể, chúng ta còn được biến đổi để nên một Giêsu khác.
Thánh Giáo hoàng Lê-ô Cả khẳng định:
“Thực thế, chúng ta thông phần Mình và Máu Chúa
Kitô là để được biến thành Đấng chúng ta rước lấy” (trích bài giảng của thánh
Lê-ô cả giáo hoàng, trong bài đọc kinh sách ngày thứ tư, tuần 2 phục sinh)
Giáo huấn của Hội Thánh còn dạy cho biết nhờ
tiếp nhận Mình Máu thánh Chúa Giêsu, chúng ta được thông phần bản tính Thiên
Chúa:
“Khi bạn ăn uống Mình và Máu Đức Kitô, bạn nên
một với Người, cùng một thân mình, cùng một dòng máu. Như thế, chúng ta trở
thành những người mang Đức Kitô, có Mình Máu Người thấm nhập khắp toàn thân. Nhờ
vậy, theo lời thánh Phê-rô, chúng ta được thông phần bản tính Thiên Chúa.”
(trích bài giáo huấn cho các tân tòng tại Giê-ru-sa-lem trong bài đọc kinh sách
ngày thứ bảy, tuần bát nhật phục sinh)
Lạy Chúa Giêsu,
Hồng ân Chúa ban thật vô cùng lớn lao và quý
báu nhưng tiếc thay, nhiều người không nhận biết nên tỏ ra hững hờ.
Xin cho tâm hồn chúng con tràn đầy hoan lạc
trước hồng phúc vô giá và khao khát tiếp nhận hồng ân nầy với hết lòng cảm tạ
tri ân.
9. Xin cho dài lâu – Lm. Đỗ Lực
Vào một ngày đẹp trời, một chiếc xe Limousine
bóng loáng tự nhiên chạy đến và đậu ngay trước cửa nhà tôi. Một chàng trai
trong mộng, một người dưng khác họ, bước xuống. Anh đi thẳng vào nhà và dìu tôi
ra xe. Chúng tôi trực chỉ nhà thờ. Trước mặt cộng đoàn và linh mục, anh cầm lấy
tay tôi và đọc: "Anh nhận em làm vợ và hứa giữ lòng chung thủy với em. . .
để yêu thương và tôn trọng em suốt đời anh.” Lời gì mà êm ngọt quá! Lời hôn ước
đó chỉ kéo dài mười lăm giây, nhưng dư âm còn vang vọng cả cuộc đời. Hôn ước
như thấm vào từng thớ thịt đường gân. Tôi như run lên. Niềm vui truyền khắp
thân thể. Tôi cảm thấy tê tê nơi đầu ngón tay và nơi tận con tim. Nỗi sung
sướng chỉ nổi lên ít phút. Nhưng tôi đã phải trả giá bằng bao nhiêu mồ hôi,
nước mắt.
Bây giờ nghĩ lại, tôi thấy hôn ước của chúng
tôi giống giao ước của Chúa quá. Thiên Chúa đã cưới dân Do Thái. Chúa Giêsu đã
chọn Giáo hội làm hiền thê. Chúa đã phải trả một giá quá mắc để hoàn thành một
giao ước tuyệt vời. Chúa đã chết để giao ước thành sự thật. Chết đi để đem lại
sự sống cho nhân loại. Cũng thế, tôi cũng phải "chết" đi mỗi ngày để
cho tình yêu triển nở và gia đình vươn lên. Sự sống thăng hoa. . .
Sự sống vô cùng huyền nhiệm. Nhưng những gì
đang xảy ra trong cuộc sống thường phủ che phần huyền nhiệm đó, đến nỗi con
người dễ lãng quên hay đánh mất khả năng khám phá độ sâu của sự sống.
Hôm nay Chúa Giêsu muốn mạc khải một huyền
nhiệm còn sâu hơn huyền nhiệm của sự sống tự nhiên. Đó là sự sống Thiên Chúa
đang hiện diện và hoạt động mãnh liệt trong trần gian. Không dễ gì nhìn được sự
huyền nhiệm siêu việt đó.
Làm sao có thể moi lên tự cõi thẳm sâu của cuộc
sống một giá trị và ý nghĩa lớn lao như những thực tại Chúa mạc khải hôm nay?
Thực tại đó hoàn toàn bị che dấu và đã gây kinh ngạc cho mọi người. Nhưng sự
thật vẫn là sự thật. Chúa Giêsu trở thành thịt và máu nuôi sống muôn dân trong
hiện tại và tương lai vĩnh hằng (x. Ga 6:53-54).
Trước hết, có thực trong Thánh Thể, Chúa thực
sự hiện diện bằng xương thịt như khi Chúa còn sống nơi trần gian không? Không!
Vì sự hiện diện ấy luôn mang tính bí tích. Nói khác, sự hiện diện nóng bỏng đó
vẫn bị một lớp vỏ bất động là bánh rượu che phủ bên ngoài. Tuy thế, cũng không
thể nói sự hiện diện đó chỉ có ý nghĩa biểu tượng.
Vậy Chúa Giêsu có ý gì khi quả quyết: "Đây
là mình Thầy. Đây là máu Thầy"(Mt 26,26-28)? Phân tích cú pháp công thức
truyền phép, người ta thường khẳng định có Chúa hiện diện thực sự trong Thánh
Thể. Thực tế, trong công thức truyền phép đó, động từ "là" không loại
trừ ý nghĩa biểu tượng (x. Ed 5,5). Không thể thuyết phục người ta tin nhận
thực tại Thánh Thể, qua những cấu trúc ngữ pháp.
Vậy căn cứ vào đâu để có thể quả quyết Chúa
Giêsu hiện diện đích thực bằng Huyết Nhục trong Thánh Thể? Nên nhớ, chính Chúa
đã quả quyết Thánh Thể là một giao ước mới (x. Lc 22,19-20). Theo văn hóa
Sêmít, muốn lập giao ước, đòi phải có lễ vật thực sự. Nếu chỉ có những dấu chỉ
hay biểu tượng của những lễ vật đó, không thể lập giao ước (x. St 15,9-18;
Xh 24,5; New Catholic Encyclopedia 2003:5, 411). Theo kinh nghiệm bản thân,
tôi cũng thấy cả hai đứa chúng tôi phải là những con người thật, hôn ước mới
thành sự. Tôi không thể cầm lấy tay của một tượng đồng hay gỗ để nói lời hôn
ước. Dù tượng đó bằng vàng hay kim cương cũng chẳng giá trị gì đối với lời hôn
ước của tôi. Tương tự, nếu Chúa Giêsu không hiện diện thực sự, Thánh Thể không
thể trở thành giao ước nối kết Thiên Chúa với nhân loại.
Giao ước này chắc chắn phải vượt xa giao ước
trong Cựu ước và đưa tất cả những lễ xóa tội thời Cựu ước tới mức viên mãn (x.
Nhóm Phiên Dịch Các giờ Kinh Phụng Vụ: Lời Chúa Cho Mọi Người, tr. 446). Vì
là giao ước, Thánh Thể trở thành nơi Chúa Giêsu dâng hiến chính mình để vinh
danh Chúa Cha và cứu độ toàn thể nhân loại. Sở dĩ Thánh Thể có một năng lực vô
cùng lớn lao vì Thần Khí đã biến đổi Mình Máu con người phục sinh của Chúa
Giêsu thành của ăn nuôi sống dân Chúa. Như thế, khi rước Mình Máu Chúa, con
người đón nhận vào huyết mạch sự sống Thiên Chúa và trở nên một với Người. Như
thế, Chúa không chỉ hiện diện trong Thánh thể, nhưng trong chính con người đã
ăn thịt và uống máu Người. Sự sống con người được hòa nhập và trở thành một với
Chúa (x. Ga 6,56-57). Không còn phân biệt đâu là Chúa, đâu là dân Chúa nữa (x. Ga
6,57).
Sự sống đó thấm sâu vào tận xương tủy và kéo
dài đến đời đời. Chỉ có sự hiệp nhất viên mãn với Chúa mới có thể giúp tín hữu
vượt qua những giới hạn cuộc sống và bảo đảm cho họ sống mãi trong cõi vĩnh
hằng. Nếu lương thực bình thường còn đem lại sức mạnh, niềm vui và hạnh phúc,
thì làm sao lương thực thiên thần lại không nhân lên ngàn lần những hiệu quả
tốt đẹp tương tự?! (Our Sunday Visitor's Encyclopedia of Catholic Doctrine,
ed. by Russell Shaw, p. 207: "Thánh Thể duy trì và tăng cường ân sủng
trong người rước lễ; Thánh Thể có quyền tha tội nhẹ và làm cho con người vững
mạnh để chống lại tội lỗi; Thánh Thể là niềm vui thiêng liêng cho những tâm hồn
sốt sắng.”) Bởi đó, Thánh Thể góp phần, nếu không nói là nguyên nhân, làm
cho cuộc đời thêm tươi sáng.
Đó là những hiệu quả vô cùng lớn lao Thánh Thể
có thể làm cho cá nhân. Nhưng không phải chỉ dừng lại ở đó. Thánh Thể còn có
khả năng quy tụ tất cả tín hữu và làm cho họ trở thành một thực tại lớn lao
trên thế giới hôm nay và tương lai (Our Sunday Visitor's Encyclopedia of
Catholic Doctrine, ed. by Russell Shaw, p. 207: "Thánh Thể làm cho Giáo
hội trở thành một cộng đoàn tín hữu, Dân Thiên Chúa, khiến Giáo hội thành toàn
như thành đô Thiên Chúa, Giêrusalem mới.”). Con mắt đức tin nhìn thấy những
nét cực kỳ huyền diệu và sức mạnh vô song của Thánh Thể đang hoạt động trong
cộng đoàn Dân Chúa và biến Giáo hội thành một chứng nhân và trung gian hòa giải
giữa nhân loại.
Tất cả mọi năng lực Giáo hội đều nằm trong
Thánh Thể. Nhưng không thể quên Thánh Thể là một giao ước. Đó là một sáng kiến
của Chúa Giêsu, kết quả của một tình yêu nhưng không và vĩ đại. Nếu Chúa không
quan tâm tới phần rỗi đời đời của chúng ta, nhất định Người đã không lập bí
tích Thánh Thể. Nếu không có "bánh hằng sống," thế gian vẫn phủ màu
tang tóc của thần chết và đầy những địch thù Thiên Chúa. Rất may Thánh Thể đã
hiện diện để đem lại sự sống và phục sinh những gì đã tiêu vong trong biển trần
gian.
Khi rước lấy Thánh Thể, Kitô hữu trở thành
Thánh Thể giữa trần gian. Họ có mặt ở đâu, Thánh Thể hiện diện ở đó. Thật vậy,
"tất cả bản tính nội tại của Giáo hội đều được mạc khải trong Thánh Thể. Khi
tham dự các Mầu Nhiệm Thánh, các tín hữu trở thành ‘các người thân thuộc' của
Chúa Kitô. Đồng thời, ngay từ bây giờ họ cảm nghiệm trước công cuộc thần linh
hóa trong giao ước đang nối kết bền chặt thiên tính với nhân tính" (Gioan
Phaolô II: Tông thư Orientale Lumen, 02/05/1995) Thật là tuyệt vời!
Không phải đợi tới đời sau mới thấy được công
cuộc thần linh hóa kỳ diệu trong giao ước đó. Ngay từ bây giờ, giao ước đó đang
tìm thấy bóng dáng của mình trong giao ước hôn nhân. Nói khác, giao ước đó củng
cố và là mẫu mực cho giao ước hôn nhân. Nhưng để lập giao ước mới trong bí tích
Thánh Thể, Chúa Giêsu phải đổ đến giọt máu cuối cùng (x. Mt 26,28). Chính vì
thế, muốn giao ước hôn nhân tồn tại và sinh hoa kết quả, Kitô hữu cũng phải trả
giá bằng chính cuộc sống đầy hy sinh. Làm sao có đủ đức tin để thấy được tất cả
bản chất và vẻ đẹp của giao ước Thánh Thể trong giao ước hôn nhân hôm nay? Làm
sao có thể xác định vị thế và vai trò của mình để biến giao ước đó thành hiện
thực trong gia đình cũng như ngoài xã hội? Khi rước lễ, họ làm mới lại giao ước
giữa Thiên Chúa và con người, giữa Chúa Kitô và Giáo hội. Khi sống đời gia
đình, họ làm cho giao ước mới ngày càng mới hơn.
Lạy Chúa, xin cho con luôn tin tưởng vào giao
ước Chúa đã ký kết bằng Máu Chúa trong bí tích Thánh Thể, để mỗi ngày con càng
trở nên giống Thánh Thể hơn. Amen.
10. Cậu bé Marcellino
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Một cuốn phim mang tựa đề: “Cậu bé Marcellino”
kể lại câu chuyện sau đây:
Ở cổng nhà dòng nọ có cậu bé bị bỏ rơi, một
thầy dòng đã đem về nhà dòng nuôi. Với thời gian, cậu bé lớn lên, khôn ngoan và
tinh nghịch. Vốn tính nghịch ngợm, cậu bé bị cấm không được leo lên kho trên
gác. Nhưng vì tò mò, ngày nọ Marcellino đã leo lên kho trên gác. Cậu sửng sốt
khi thấy có một người khổng lồ bị treo trên Thánh giá. Nghĩ rằng người này đang
đói, nên ngay đêm đó, Marcellino đã lẻn vào bếp ăn cắp bánh và rượu đem lên cho
người bị treo trên Thánh giá. Từ đó, ngày ngày cậu bé cứ âm thầm tiếp tế lương
thực cho con người khốn khổ ấy. Thế rồi, một ngày nọ người khổng lồ ấy xuống
khỏi Thánh giá, đến bên cạnh cậu bé và hỏi:
- “Con thích điều gì nhất.”
Cậu bé đáp:
- “Con muốn được thấy mẹ con.”
Người khổng lồ liền nói:
- “Con hãy nhắm mắt lại và ngủ say.”
Ngày hôm sau, các tu sĩ trong nhà không thấy
Marcellino nữa, họ đi tìm khắp nơi và cuối cùng thấy cậu bé đã chết trong vòng
tay của Chúa Giêsu trên Thánh giá.
Anh chị em thân mến, đối với Marcellino trong
câu chuyện trên, bánh và rượu là ngôn ngữ cậu bé dùng để nói với Chúa Giêsu:
“Con yêu mến Chúa”, “Con muốn được săn sóc Chúa, nuôi dưỡng Chúa.” Còn đối với
Chúa Giêsu, bánh và rượu Ngài ban qua Bí tích Thánh Thể là dấu chỉ của tình yêu
hiến thân để trở thành lương thực nuôi sống chúng ta, và Ngài muốn chúng ta mở
rộng tâm hồn để đón nhận.
Mở rộng tâm hồn đón nhận Ngài trong Thánh Thể,
con người mới có thể mở rộng trái tim và đôi bàn tay để đón nhận Ngài nơi tha
nhân. Chúa Giêsu là Bánh từ trời xuống để lôi kéo họ về với Thiên Chúa. Chia sẻ
sự sống thần linh nơi bàn tiệc Thánh Thể, người tín hữu được mời gọi chia sẻ
cơm bánh hằng ngày với tha nhân. Và kỳ diệu thay, chính khi chia sẻ với tha
nhân, người tín hữu cảm nhận được sự sống trường sinh và hạnh phúc đích thức
tràn ngập tâm hồn.
Thưa anh chị em, Bí tích Thánh Thể là Bí tích
của Tình Yêu. Vì yêu thương chúng ta, Chúa Giêsu đã có một sáng kiến lạ lùng là
lấy chính Thịt Máu của Ngài làm của ăn của uống để nuôi sống chúng ta. Chính
Chúa Giêsu đã khẳng định: Chính Ngài là của ăn và của uống Chúa Giêsu ban hoàn
toàn khác với manna và mạch nước trong sa mạc: “Ai ăn bánh này sẽ được sống đời
đời.” Chúa Giêsu không nhằm thoả mãn cái đói cái khát thể xác. Thế nên, Ngài
xác quyết: “Thịt Tôi thật là của ăn, Máu Tôi thật là của uống.” Vậy Bánh Ngài
ban chính là Thịt Máu Ngài. Cụm từ “Thịt Máu” ở đây không những bao gồm tất cả
những gì nuôi sống linh hồn con người để đưa đến sự sống vĩnh cửu, mà còn ám
chỉ đến Mầu nhiệm Nhập Thể của Con Thiên Chúa. Con Thiên Chúa đã nhập thể mang
lấy xác phàm trong thân phận con người và đã đổ máu ra trên Thập giá để cứu
chuộc nhân loại. Ngài đã chấp nhận trở thành của ăn của uống là những cái
thường tình nhất của cuộc sống chúng ta để đưa chúng ta đến sự sống vĩnh hằng.
Vì lý do đó, Thánh Phaolô đã nhấn mạnh đến việc
hiệp thông với Chúa Giêsu Thánh Thể là kết hiệp mật thiết với chính Chúa Kitô,
nghĩa là đồng hoá với Ngài, nên giống Ngài trong tư tưởng, ngôn ngữ và cuộc
sống: “Ai ăn Thịt Tôi và uống Máu tôi, người ấy sẽ ở trong Tôi và Tôi ở trong
người ấy.” Không bí tích nào giúp chúng ta sống “với Chúa, nhờ Chúa và trong
Chúa” bằng bí tích Thánh Thể. Từ đó, Thánh Phaolô dám khẳng định: “Tôi sống,
nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2,20).
Từ việc kết hợp với Chúa Giêsu Thánh Thể sẽ đưa
chúng ta đến việc hiệp nhất với các anh chị em tín hữu. Vì liên kết với Chúa
Kitô, nên chúng ta cũng liên kết với nhau để làm thành một thân thể duy nhất
trong Chúa Kitô, điều mà Thánh Phaolô gọi là “Nhiệm thể Chúa Kitô.” Ăn Thịt và
uống Máu Chúa Kitô là lãnh nhận một động lực mạnh mẽ nhất để dẹp bỏ và xua tan
những mối bất đồng, những mâu thuẫn sâu xa nhất để chỉ còn trở nên với Chúa
Kitô một thân xác và một linh hồn. Sự hiệp nhất của cộng đoàn Kitô hữu trong Bí
tích Thánh Thể có sức mạnh thu phục những khách bàng quan, những người xa lạ
đến với Giáo Hội, như các tín hữu thời sơ khai đã từng chinh phục và đem lại
ảnh hưởng lớn lao cho thế giới ngoại giáo: Họ nói với nhau: “Kìa xem coi họ
(các tín hữu Kitô) yêu thương đoàn kết với nhau biết chừng nào!” (x. Cv
2,42-47).
Anh chị em thân mến, “Phúc cho ai được mời đến
dự tiệc Chiên Thiên Chúa.” Tất cả chúng ta đều được mời đến dự tiệc Thánh Thể. Thế
nhưng có khá đông người tham dự Thánh lễ mà không tiếp rước Mình Máu Thánh Chúa.
Phải chăng Thánh lễ đối với họ chỉ còn là một nghi thức và bổn phận phải làm,
chứ không còn là sự sống được trao ban và lãnh nhận? Hoặc phải chăng vì thấy
việc rước lễ xem ra không có hiệu quả trong đời sống, nên họ thất vọng và không
muốn rước lễ nữa? “Phúc cho ai được mời đến dự tiệc Chiên Thiên Chúa.” Chẳng lẽ
được mời đến dự tiệc mà chẳng ăn uống gì, chỉ ngồi đó “nhìn miệng” các thực
khách, rồi ra về mà lòng vẫn u sầu và bụng vẫn đói meo? Thiết tưởng không phải
vô ích khi khẳng định lại điều này: Chẳng bao giờ chúng ta đến với người khác
thực sự, nếu không kết hợp thâm sâu với Chúa Kitô.
Đức Cha Helder Camera, Tông Giám Mục Giáo phận
Récite ở Braxil, đã chia sẻ kinh nghiệm thống nhất đời sống hoạt động và chiêm
niệm của ngài thế này: “Mỗi sáng, tôi được nuôi dưỡng bằng Đức Kitô trong Bí
tích Thánh Thể, rồi suốt ngày, tôi gặp gỡ Đức Kitô nơi anh chị em tôi. Cũng một
Chúa Giêsu ở trên bàn thờ và ngoài đường phố.” Có lẽ chúng ta dễ
quên chân lý này: Hiệp nhất với Chúa Kitô phải đưa đến sự hiệp nhất với anh em.
Nói cách khác, hiệp nhất với Chúa Kitô đang hiện diện ẩn dấu nơi anh chị em
mình, nhất là nơi những người nghèo đói và bất hạnh (x. Mt 25). Và chúng ta
cũng hay quên rằng: Hiệp nhất sự sống phải được thể hiện trong sự hiệp nhất lối
sống. Lối sống của Chúa Giêsu Thánh Thể là lối sống của tình yêu tự hiến để cho
nhân loại được sống, là phục vụ đến hy sinh mạng sống để làm giá cứu chuộc muôn
người.
Được nuôi dưỡng cùng một Bánh Thánh –là Thịt
Máu Chúa Giêsu- chúng ta được mời gọi chia sẻ chén cơm hằng ngày cho anh em và
dấn thân hoạt động cho một trật tự công bằng, huynh đệ, cho cuộc sống ấm no
hạnh phúc của mọi người trên thế giới hôm nay.
11. Để đón nhận sự sống đời đời
(Trích trong ‘Cùng đọc Tin Mừng’ của Lm. Trần
Ngà)
Mekong là một trong 12 con sông lớn nhất thế
giới, với chiều dài 4,800 km, phát xuất từ Tây Tạng, chạy dọc theo suốt chiều
dài của tỉnh Vân Nam (Trung Quốc), qua Myanmar (Miến Điện), Thái Lan, Lào,
Cambodge, Việt Nam và cuối cùng hoà nhập với biển Đông, đem lại sự sống cho tôm
cá, cho các loài thảo mộc, tưới xanh ruộng đồng, đem lại lương thực cho hàng
triệu cư dân thuộc nhiều quốc gia nằm trong lưu vực của nó.
Sự sống thần linh, tức sự sống của Thiên Chúa
Ba Ngôi, một sự sống tuyệt vời và miên viễn, cũng tuôn chảy dạt dào và không
ngừng không nghỉ như một dòng sông không bao giờ vơi cạn và sự sống ấy được
thông ban cho vô vàn tín hữu của Thiên Chúa khắp nơi.
Qua Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dạy cho ta
biết Sự Sống thần linh bắt nguồn từ Thiên Chúa Cha [Chúa Cha là Đấng hằng sống.”
Ga 6,57] và được thông ban cho Chúa Con cũng như Chúa Thánh Thần, ["Chúa
Cha là Đấng hằng sống đã sai tôi, và tôi sống nhờ Chúa Cha.” Ga 6, 57]. Thế là
nơi Ba Ngôi, Sự Sống dồi dào sung mãn như nước đầu nguồn của một dòng sông cả.
Như nước sông Mekong không ngưng đọng đầu nguồn
nhưng tuôn đổ tràn trề xuống vùng hạ lưu, Sự Sống của Ba Ngôi Thiên Chúa cũng
không dừng lại nơi Ba Ngôi nhưng tiếp tục thông ban cho nhân loại.
Nhưng làm sao nhân loại có thể đón nhận được Sự
Sống thần linh của Thiên Chúa?
Sở dĩ Chúa Giêsu được tiếp nhận Sự Sống từ Chúa
Cha là nhờ Ngài ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Ngài. [Có lần Chúa Giêsu
ngỏ lời với Philipphê: "Anh không tin rằng Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa
Cha ở trong Thầy sao?. . . Anh em hãy tin Thầy: Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa
Cha ở trong Thầy" (Ga 14, 10-11)]
Vậy nếu chúng ta muốn được tiếp nhận Sự Sống
thần linh từ Chúa Giêsu thông ban, thì chúng ta cũng phải tìm cách ở trong Chúa
Giêsu và để cho Chúa Giêsu ở trong chúng ta.
Cách đó thật quá dễ dàng vì chính Chúa Giêsu đã
quảng đại mách bảo cho mọi người: "Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại
trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy" (Ga 6, 56)
Ngoài ra, theo bài giáo huấn cho các tân tòng
tại Giê-ru-sa-lem thì "khi bạn ăn uống Mình và Máu Đức Kitô, bạn nên một
với Người, cùng một thân mình, cùng một dòng máu. Như thế, chúng ta trở thành
những người mang Đức Kitô, có Mình Máu Người thấm nhập khắp toàn thân"
(trích bài đọc Kinh Sách mùa Chay & Phục Sinh, bản dịch của nhóm PVGK trang
456).
Một khi được ở trong Chúa Giêsu, trở nên đồng
huyết nhục với Chúa Giêsu thì tất nhiên Sự Sống của Chúa Giêsu (vốn không hề
lụi tàn) sẽ được chuyển thông cho người lãnh nhận. Người ấy được mang lấy sự
sống bất tử của Thiên Chúa trong chính bản thân mình nên được sống đời đời. Chính
vì thế nên Chúa Giêsu mới nói là "ai ăn Thịt và uống Máu tôi sẽ được sống
đời đời.” (Ga 6, 54)
Thế là nhờ Bí Tích Thánh Thể, Sự Sống của Ba
Ngôi Thiên Chúa đã được khơi dòng: Cội nguồn Sự Sống từ Chúa Cha được thông ban
cho Chúa Con và Chúa Thánh Thần từ trước muôn đời, nay được thông ban cho những
ai lãnh nhận Mình và Máu thánh Chúa Giêsu.
Thật là ân huệ tuyệt vời, Sự Sống thần linh của
Ba Ngôi Thiên Chúa được ban tặng nhưng không cho nhân loại, và khi chúng ta
tiếp nhận lấy Mình và Máu thánh Chúa Giêsu trong bí tích Thánh Thể, chúng ta
đang chiếm hữu Sự Sống của Thiên Chúa, Sự Sống đời đời, cho chính mình ngay từ
hôm nay.
* * *
Con người sẵn sàng trả giá tiền triệu, tiền tỉ
và nếu cần bán cả gia tài để có được thuốc tốt giúp phục hồi sức khoẻ hay chống
trả những căn bệnh hiểm nghèo đe doạ mạng sống. Vậy nay Chúa Giêsu biếu không
cho chúng ta phương dược trường sinh hoàn toàn miễn phí và rất dễ chiếm hữu, lẽ
nào chúng ta lại coi thường.
Lạy Chúa Giêsu, chúng con đời đời ghi nhớ công
cha nghĩa mẹ vì các ngài đã cộng tác với Chúa ban tặng cho chúng ta sự sống tạm
bợ đời nầy.
Còn Chúa, không những Chúa thực sự ban cho
chúng con sự sống tạm bợ đời nầy mà còn sẵn sàng thông ban cả Sự Sống thần linh
đời đời không hề tàn lụi, lẽ nào chúng con vẫn tiếp tục tỏ ra vô ơn với Chúa là
Đấng rộng ban cho chúng con ân huệ vô cùng cao quý nầy.
12. Mình Máu Thánh Chúa – R. Veritas
(Trích trong ‘Sống Tin Mừng’)
Một Mục sư nọ kể lại câu chuyện sau đây:
Hai người lính vào trong một Giáo đường. Họ
đứng giữa cộng đoàn đang sốt sắng cầu nguyện, người lính lớn tiếng đe dọa:
Ai không bỏ đạo sẽ bị bắn chết tại chỗ. Ai bỏ
đạo thì đứng sang bên phải và được thả về; những người còn lại chuẩn bị để chết
vì niềm tin của mình.
Nhưng trong bầu khí hoàn toàn tin tưởng, không
ai rời khỏi vị trí mình đang cầu nguyện.
Trước bầu khí thinh lặng và thánh thiêng ấy,
hai người lính kia thả súng xuống và nói:
Chúng tôi là những người Kitô, sở dĩ chúng tôi
đã hành xử như vừa rồi là vì chúng tôi muốn thử xem có ai là người sẵn sàng
chết cho niềm tin của mình không? Và chỉ những người như thế mới đáng được về.
Bài Phúc Âm của Chúa Nhật Lễ Kính Mình Máu
Thánh Chúa tra vấn các người Kitô, mỗi người chúng ta có quyết liệt đến mức sẵn
sàng chết vì điều mình tin chăng?
Sách Phúc Âm của Gioan đã thuật lại cho độc giả
tới màn khá gay cấn. Sau bài Tin Mừng, tác giả cho biết nhiều môn đệ của Chúa
Giêsu không ngần ngại nói trắng ra điều họ nghĩ: "Lời này chướng tai quá,
ai mà nghe nổi" (Ga 6,60). Kết quả là nhiều môn đệ rút lui không còn tin
vào Chúa Giêsu nữa, không còn đồng hành chung với Ngài nữa. Đó là lúc chính
Chúa Giêsu đã muốn nhóm Mười Hai phải xác định rõ lập trường về niềm tin của
mình: "Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao?.” Chúng ta biết, một
bên là Phêrô đã tuyên xưng thay cho các Tông Đồ: "Thưa Thầy, bỏ Thầy chúng
con biết đến với ai. Thầy mới có những Lời ban sự sống đời đời.” Và bên kia là
Giuđa Iscariô không những bỏ Thầy mà còn phản Thầy nữa.
Toàn bộ chương VI của Phúc Âm thánh Gioan đặt
các môn đệ trước thái độ quyết liệt này, các ông đã được thấy Chúa Giêsu làm
phép lạ cho bánh hóa ra nhiều (x. Ga 6,1-10), rồi đi trên mặt nước và trong
nháy mắt thuyền đã cập bến không cần chèo chống (x. Ga 6,16-21). Rồi cuối bài
giảng tại hội đường Capharnaum, ở đó Chúa Giêsu xưng mình là Bánh Hằng Sống (x.
Ga 6,26-59). Bài Phúc Âm hôm nay rút từ bài diễn văn của Chúa tại Hội Đường
Capharnaum: "Ta là Bánh Hằng Sống từ Trời xuống, ai ăn bánh này sẽ được
sống muôn đời và bánh Ta sẽ ban chính là Thịt Ta đây để cho thế gian được sống.”
Chúng ta có còn tin tưởng vững vàng vào Lời
Chúa phán hay không?
Ngày 3. 5. 1999, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II
đã cử hành Thánh Lễ Mình và Máu Thánh Chúa tại đền thờ thánh Gioan Latêranô ở
Rôma. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II mong ước tất cả mọi người hiệp ý với Ngài
dâng lên Chúa Giêsu Thánh Thể lời nguyện cho hòa bình tại Kosovo và cho tất cả
mọi người trên thế giới. Sau đây xin được trích lại bài giảng của Đức Thánh Cha
Gioan Phaolô II trong Thánh Lễ Kính Mình Máu Thánh Chúa để chúng ta cùng hiệp ý
chia sẻ và mừng kính Lễ Mình Máu Thánh Chúa trong ngày hôm nay.
"Hỡi Sion, hãy dâng lên lời chúc tụng Đấng
Cứu Thế.”
Lễ trọng kính Mình Máu Thánh Chúa là ngày Lễ
Chúc Tụng và Tạ Ơn. Trong lễ này, dân Kitô hiệp nhau quanh bàn thờ để chiêm
ngắm và tôn thờ mầu nhiệm Thánh Thể, nhắc nhớ hy tế Chúa Kitô, Đấng đã ban cho
tất cả mọi người ơn cứu độ và sự bình an.
Việc cử hành Thánh Lễ trọng thể và cuộc rước
kiệu theo truyền thống, cả hai đều hướng đến một mục tiêu đặc biệt là cầu khẩn
tha thiết cho "Hòa Bình.” Trong khi chúng ta tôn thờ Mình Thánh của Đấng
là Đầu, là Chúa Giêsu. Làm sao chúng ta không liên đới để trở thành những chi
thể của Người đang chịu đau khổ vì chiến tranh?
Phải, thưa anh chị em thân mến,
Những tín hữu Rôma và khách hành hương hôm nay,
tất cả chúng ta bắt đầu cầu nguyện chung với nhau cho Hòa Bình. Chúng ta hãy
cầu nguyện đặc biêt cho hòa bình tại Kosovo. Ước chi Lời Chúa mà chúng ta vừa
nghe soi sáng và hướng dẫn chúng ta.
Trong bài đọc thứ nhất vang lên mệnh lệnh của
Chúa: "Con hãy nhớ lại con đường mà Thiên Chúa đã cho con đi qua"
(Dnl 8,2).”Con hãy nhớ lại", đây là mệnh lệnh thứ nhất, không phải lời mời
gọi mà là mệnh lệnh Chúa gởi đến dân Ngài trước khi đưa họ vào đất hứa. Thiên
Chúa ra lệnh cho họ là đừng quên.
Để có được sự hòa bình của Thiên Chúa hứa ban
thì trước hết hãy "đừng quên", hãy biết sử dụng những kinh nghiệm đã
trải qua, kể cả những sai lầm, người ta cũng có thể rút ra một bài học để định
hướng tốt hơn cho con đường mình đang đi. Khi nhìn về thế kỷ này và nhìn về
ngàn năm sắp kết thúc, làm sao chúng ta không nhớ lại những thử thách khủng
khiếp mà nhân loại đã gánh chịu, chúng ta không thể nào quên được, ngược lại
chúng ta phải nhớ. Xin Thiên Chúa là Cha chúng ta, giúp chúng ta rút ra những
bài học đúng từ những thăng trầm chúng ta trải qua cũng như của những ai đã đi
trước chúng ta.
Lịch sử muốn nói đến những khát vọng to lớn là
muốn có hòa bình, nhưng cũng nói đến thất vọng mà nhân loại đã phải chịu nữa là
"nước mắt và máu.” Chính ngày hôm nay 3. 6. 1963, cách đây hơn ba mươi năm
về trước, Đức Gioan XXIII qua đời. Ngài là vị Giáo Hoàng của "Thông Điệp
Hòa Bình Trên Mặt Đất.” Thông Điệp này đã được mọi người đồng thanh ca tụng
biết chừng nào, trong đó có nói lên những đường nét chính đích thực cho việc
xây dựng hòa bình thế giới. Nhưng biết bao lần trong những năm qua, người ta
phải chứng kiến biết bao vụ bùng nổ, gây chiến, bạo lực, chiến tranh trên thế
giới. Tuy nhiên, người tín hữu không đầu hàng, người tín hữu biết mình có sức
cậy dựa vào sự trợ lực của Thiên Chúa. Về điểm này, những lời của Chúa Giêsu trong
bữa Tiệc Ly thật là có ý nghĩa: "Thầy để lại bình an cho các con. Thầy đem
lại bình an không như cách thức thế gian đã ban cho" (Ga 14,27).
Ngày hôm nay, chúng ta muốn hiểu thấu những lời
này và hiểu cách sâu xa hơn nữa. Trong tinh thần, chúng ta hãy bước vào nhà
Tiệc Ly với Chúa Giêsu qua việc Ngài trao ban chính Mình và Máu Ngài dưới hình
bánh và rượu mà Ngài đã thực hiện ở Calvariô đang được tái diễn trong nhiệm
tích Thánh Thể. Chính trong cách thức này mà Chúa Giêsu trao ban cho chúng ta
sự bình an. Sau này Thánh Phaolô đã bình luận: "Người là hòa bình của
chúng ta.”
Khi trao ban chính Mình, Chúa Giêsu Kitô trao
ban cho chúng ta chính sự bình an. Hòa bình của Chúa không phải là hòa bình của
thế gian, nhưng hòa bình của Chúa Kitô là kết quả sự Vượt Qua của Ngài, nghĩa
là kết quả của hy tế trong cuộc vượt qua của Ngài.
"Bánh mà Ta ban cho là Thịt Ta để cho thế
gian được sống.” Đoạn Phúc Âm chúng ta vừa nghe, những lời này của Chúa Giêsu
làm cho chúng ta hiểu thế nào là nguồn mạch của hòa bình đích thực. Chúa Kitô
là hòa bình của chúng ta, là Bánh được trao ban cho thế gian để được sống. Đó
là Bánh mà Thiên Chúa Cha đã chuẩn bị, ngõ hầu để nhân loại được sống và sống
dồi dào: "Thiên Chúa đã không tha Con Một Ngài, nhưng đã trao ban Con Một
Ngài" (Ga 3,16), để cứu rỗi tất cả, như là Bánh nuôi sống tất cả.
Ngôn ngữ Chúa Giêsu dùng thật rõ ràng. Để được
sống thì không chỉ tin Chúa mà thôi, còn cần phải sống như Chúa, sống bằng sự
sống của Chúa. Vì vậy mà Ngôi Lời đã Nhập Thể, chết và sống lại. Người đã ban
cho ta Thánh Thần của Ngài, nhờ vậy mà chúng ta biết Thánh Thể, ngõ hầu chúng
ta có thể sống nhờ Ngài, như Ngài sống nhờ Chúa Cha (Ga 6,5). Bí tích Thánh Thể
là bí tích của hồng ân mà chính Chúa Kitô đã trao ban cho chúng ta, là bí tích
của tình thương và hòa bình, là sức sống sung mãn "Bánh Hằng Sống, Bánh
ban sức sống.”
Ước gì lễ Kính Mình Máu Thánh Chúa gia tăng đức
tin của chúng ta vào Chúa Giêsu, vào Bí Tích Thánh Thể. Chúa Giêsu hiện diện
trong Bí Tích Thánh Thể để ở lại với chúng ta, ban cho chúng ta sự sống đời đời.
Lạy Chúa Giêsu, bước theo Chúa chúng con dấn
thân chống lại bạo lực của con người trên con người mà không dùng đến bạo lực. Chúng
con cần có sức mạnh của tình thương Chúa, chúng con cần lãnh nhận Mình và Máu
Thánh Chúa để được sống sự sống của Chúa, để được sức mạnh của Chúa, sức mạnh
của tình thương chiến thắng trên bạo lực.
Lạy Chúa, xin giúp mỗi người chúng con mỗi ngày
trở nên giống Chúa hơn, nhờ bí tích Thánh Thể chúng con được lãnh nhận Mình và
Máu Thánh Chúa, chúng con lãnh nhận sự sống của Chúa trong mình chúng con, xin
cho chúng con mỗi ngày trở nên giống Chúa nhiều hơn. Amen.
13. Bí tích Thánh Thể
Nếu đọc lại Phúc Âm, chúng ta sẽ thấy từ việc
chuẩn bị đến việc thiết lập và cử hành bí tích Thánh Thể, tất cả đều được diễn
ra trong bàu khí của một bữa ăn.
Thực vậy, bữa tiệc thứ nhất đó là đám cưới
Cana, tại đây Chúa Giêsu đã làm phép lạ biến nước lã hóa thành rượu ngon. Qua
phép lạ này Chúa Giêsu không phải chỉ muốn cứu cho đôi tân khỏi bị bẽ mặt với
khách mời vì thiếu rượu, mà còn muốn củng cố niềm tin cho các môn đệ, cũng như
chuẩn bị cho các ông đón nhận bữa tiệc ly sau này, khi Ngài biến rượu thành máu
thánh Người.
Tiếp đến là phép lạ Chúa Giêsu làm cho bánh hóa
nhiều để nuôi dưỡng đám đông trong hoang địa. Qua phép lạ này, Chúa Giêsu đã
chính thức hứa ban cho chúng ta thứ của ăn thiêng liêng nuôi sống linh hồn
chúng ta:
- Thịt Ta thật là của ăn, Máu Ta thật là của
uống, ai ăn thịt Ta và uống máu Ta thì sẽ có sự sống đời đời. Và Ta, Ta sẽ cho
họ sống lại ngày tận thế. (Ga 6,55-56).
Thế nhưng, quan trọng hơn cả phải là bữa tiệc
ly, qua đó Chúa Giêsu đã thiết lập Bí tích Thánh Thể vào buổi chiều ngày Thứ
năm Tuần Thánh. Phúc âm đã kể lại như sau: Đang khi ngồi ăn, Chúa Giêsu cầm lấy
bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ ra, trao cho các môn đệ và phán:
- Tất cả các con hãy cầm lấy mà ăn, này là mình
Ta sẽ bị nộp vì các con.
Cùng một thể thức ấy Người cầm lấy chén, tạ ơn,
trao cho các môn đệ và nói:
- Tất cả hãy cầm lấy mà uống vì này là chén máu
Ta, máu giao ước sẽ đổ ra cho các con và nhiều người được tha tội. Các con hãy
làm việc này mà nhớ đến Ta. (Mt 26,26-29).
Cuối cùng, đó là bữa ăn nơi quán trọ gần làng
Emmaus. Sau khi hai môn đệ mời Người vào nghỉ chân, Người đã cầm lấy bánh, đọc
lời chúc tụng, bẻ ra, trao cho họ. Và họ đã nhận ra Người đã Phục sinh, đã sống
lại. (Lc 24,13-35).
Nhìn vào đời thường, chúng ta thấy, những người
cùng ngồi ăn với nhau trong một bàn tiệc trong một bữa cơm, thường có một mẫu
số chung nào đó. Mẫu số chung ấy có thể là tình nghĩa gia đình, tình nghĩa bè
bạn. Mẫu số chung ấy còn có thể là một niềm vui, một nỗi buồn, hay một công
việc cùng làm. Vì thế, bữa ăn trở nên một biểu tượng của tình yêu, của cảm
thông, của hợp nhất.
Bàn tiệc Thánh Thể cũng vậy, phải là biểu tượng
của yêu thương, của cảm thông, của hợp nhất, như lời thánh Phaolô:
- Chúng ta tuy nhiều, nhưng cùng chia sẻ một
tấm bánh và làm nên một thân thể Đức Kitô. (1Cr 10,17)
Vì thế, sống Bí tích Thánh Thể cũng chính là
sống yêu thương, sống cảm thông, sống hợp nhất. Chúng ta phải bắt chước cộng
đoàn Giêrusalem ở những năm tháng đầu tiên khi Giáo hội còn phôi thai. Từ nghi
thức bẻ bánh trở về, họ đã gom góp tài sản riêng làm của chung, rồi phân phối
theo nhu cầu của mọi người, đến nỗi dân ngoại đã phải thán phục và kêu lên:
- Kìa xem họ yêu thương nhau biết là chừng nào.
(Cv 2,42-46).
Còn chúng ta thì sao? Hằng ngày, hay ít nữa là
hàng tuần, chúng ta đều đến nhà thờ tham dự thánh lễ, thế nhưng, trong cuộc
đời, chúng ta đã thực sự sống yêu thương, sống cảm thông và sống hiệp nhất với
nhau hay chưa?
14. Thánh Lễ nối dài
Nhân ngày lễ kính Mình và Máu thánh Đức Kitô
hôm nay, tôi muốn trình bày về mối liên hệ giữa thánh lễ với cuộc đời mỗi người
chúng ta. Mối liên hệ ấy được diễn tả qua hai ý tưởng.
Ý tưởng thứ nhất: cuộc đời chính là một thánh
lễ được nối dài.
Thực vậy, có nhiều người trong chúng ta chỉ
sống đạo trong nhà thờ, nhưng lại không sống đạo giữa lòng cuộc đời. Tới nhà
thờ, họ là những con chiên ngoan. Nhưng khi thánh lễ kết thúc, bước xuống cuộc
đời, họ lại vội vã dẹp bỏ niềm tin, như cởi bỏ bộ quần áo đẹp họ mặc vào khi đi
tham dự thánh lễ, cất kỹ trong tủ, để hóa kiếp trở thành một loài lang sói bằng
những hành động thù oán, bất công và ghen ghét.
Họ tách biệt thánh lễ ra khỏi cuộc đời và trong
suốt khoảng thời gian còn lại, họ quên đi mình là người Kitô hữu.
Tôi nghĩ rằng cách sống đạo chỉ hạn hẹp trong
bốn bức tường nhà thờ chắc chắn sẽ không thể nào làm đẹp lòng Chúa, bởi vì
chính Ngài đã muốn chúng ta phải sống đạo giữa đời. Ngài đòi hỏi chúng ta phải
trở nên như men trong bột, như muối trong thức ăn, như ánh sáng trong đêm tối. Nghĩa
là tình thần của Phúc âm phải thấm nhiễm vào toàn bộ cuộc sống chúng ta, rồi từ
nền tảng ấy, nó dần dần cải tạo cái môi trường xã hội chúng ta đang tiếp xúc.
Khi vị Linh mục nói với chúng ta:
- Lễ đã xong, chúc anh chị em ra về bình an.
Điều ấy không có nghĩa là: thánh lễ đã kết thúc
khi cánh cửa nhà thờ khép lại, trái lại còn phải mở ra cho chúng ta một thánh
lễ khác nữa, thánh lễ giữa lòng cuộc đời, thánh lễ của chính cuộc sống.
Điều ấy còn muốn nói lên rằng chúng ta phải kéo
dài thánh lễ từ nhà thờ đến cuộc sống, phải biến cuộc đời chúng ta trở thành
một thành lễ nối dài, phải thực hiện tinh thần thánh lễ trong chính môi trường
và hoàn cảnh xã hội. Hay nói một cách khác: điều quan trọng không phải chỉ là
phải sống đạo trong nhà thờ, mà còn phải sống đạo trong cuộc đời. Mỗi người
chúng ta phải trở nên muối ướp cho xã hội khỏi ươn thối, phải trở nên men làm
cho xã hội dậy lên hương thơm thánh thiện, phải trở nên ánh sáng phá tan bóng
tối đang bao phủ xã hội. Và như vậy, cuộc đời chính là một thánh lễ được nối
dài.
Ý tưởng thứ hai: Dưới một góc độ nào đó, Thánh
lễ cũng chính là cuộc đời được kết đọng lại.
Thực vậy, nhiều khi chúng ta đã có quan niệm sai
lạc, coi việc đi tham dự thánh lễ như đi xem một vở kịch, một cuốn phim, để rồi
có thái độ hoàn toàn thụ động và dửng dưng.
Trong khi đó, thánh lễ đòi hỏi mỗi người tham
dự phải có một thái độ tích cực. Chúng ta cùng dâng thánh lễ với vị Linh mục,
bởi vì chúng ta cùng sống một tâm tình, cùng dâng một lễ vật là Mình và Máu
thánh Đức Kitô.
Ngoài ra, lễ vật riêng tư của mỗi người còn là
những lao công vất vả, những khổ đau buồn phiền, những gian nguy thử thách mà
chúng ta gặp phải trong cuộc sống. Chúng ta dâng lên cùng với Mình và Máu thánh
Đức Kitô, nhờ đó những hy sinh nhỏ bé và tầm thường của chúng ta sẽ có được một
giá trị thiêng liêng to lớn, trở nên như một góp phần vào hy lễ thập giá, đồng
thời trở nên như những sợi chỉ vàng dệt thành tấm vải cuộc đời của chúng ta.
Như thế, dưới một góc cạnh nào đó, thánh lễ
cũng chính là cuộc đời được kết đọng lại. Chúng ta nên nhớ rằng: Thánh lễ trong
nhà thờ cần phải được tiếp nối trong cuộc sống thường ngày bằng cách chấp nhận
những gian khổ là như thập giá Chúa muốn chúng ta vác lấy, cũng như bằng cách
thực thi những hành động bác ái yêu thương, giúp đỡ những người chung quanh. Đồng
thời, cuộc sống của chúng ta cũng cần phải được cử hành trong thánh lễ tại nhà
thờ bằng cách dâng lên Chúa những thập giá, những hy sinh chúng ta gặp phải.
Và như vậy, có một sự pha trộn, có một sự hòa
nhập, có một sự liên hệ mật thiết giữa thánh lễ được cử hành trong nhà thờ với
cuộc đời chúng ta đang sống.
15. Lương thực
Một số anh chị em dự tòng sau khi được học hỏi
về sự cao quí, về tầm quan trọng và về sự cần thiết của thánh lễ cũng như của
bí tích Thánh Thể đã đưa ra câu hỏi: Nếu thánh lễ và mầu nhiệm Thánh thể cao
quí và cần thiết cho đời sống thiêng liêng như vậy, thì tại sao nhiều người
Công giáo lại không đi dâng lễ, hay nếu có đi thì lại ngồi ở ngoài hút thuốc,
nói chuyện, chơi giỡn và hầu như không bao giờ rước Mình Thánh Chúa?
Một câu hỏi quả là gây nhức nhối và rất đáng để
những người mang danh là Kitô hữu phải suy nghĩ. Có lẽ ta khó có thể tìm được
một lý do nào chính đáng để trả lời cho thắc mắc này ngoài việc nhận thực rằng;
do yếu kém về giáo lý, do thiếu hiểu biết về Chúa, về những gì Người đã dạy và
đã làm, do thiếu ý thức về những sự thánh thiêng, do thiếu trưởng thành trong
đời sống đạo nên mới xảy ra những trường hợp như vậy. Vì những cái thiếu kể
trên nên nhiều người đã không thấy được sự cao quí và tầm quan trọng của việc
dâng lễ và việc rước Thánh Thể. Những người này coi việc đi dâng lễ ngày Chúa
nhật chỉ là một khoản luật phải giữ để khỏi có tội, để khỏi bị phạt mà thôi. Họ
không ý thức rằng thánh lễ và Thánh thể là những điểm hẹn để họ gặp gỡ Thiên
Chúa là Cha của mình. Họ cũng không biết rằng đây là cơ hội rất quí báu để có
thể kín múc lấy nguồn sự sống, nguồn ân sủng cần thiết cho cuộc đời.
Thánh lễ và bí tích Thánh Thể không do Hội
thánh, không do bất cứ ai bịa đặt ra, nhưng là do chính Chúa Kitô thiết lập. Thánh
lễ ngày nay tái diễn và làm sống lại thánh lễ Chúa Kitô đã dâng khi xưa trên
thánh giá để tiếp tục chuyển thông ơn cứu rỗi cho mọi người, mọi thời và mọi
nơi. Và Thánh Thể chính là lương thực nuôi sống linh hồn ta trong hành trình
làm người, cũng là hành trình đi về quê hương trên trời. Chúa Giêsu đã nói đi
nói lại nhiều lần: “Thịt tôi thật là của ăn, máu tôi thật là của uống. Ai ăn
thịt tôi và uống máu tôi thì sẽ được sống đời đời.” Ngay cả khi Người biết rõ
ràng rằng: Nếu Người nói ra những điều ấy, người ta sẽ không tin, sẽ nhạo cười
và sẽ bỏ đi, Người vẫn cứ nói. Điều đó cho thấy vấn đề Chúa Giêsu nói ra quan
trọng và cần thiết như thế nào.
Con người không chỉ có thân xác nhưng còn có
linh hồn. Và mục đích của đời sống làm người không chỉ là sự no đủ cơm áo phần
xác mà còn là sự no đủ của đời sống tâm linh nữa: “Người ta sống không chỉ bởi
bánh.”
Thiết tưởng mỗi người chúng ta đang hiện diện
nơi đây đều có dư khả năng để nhận thức điều này. Vấn đề còn lại là thái độ của
chúng ta đối với thánh lễ và Thánh Thể như thế nào mà thôi.
16. Thánh Thể
Một hôm, người ta hỏi một em bé chín tuổi mới
được rước lễ lần đầu: “Đâu là sự khác biệt giữa cây thánh giá và Mình Thánh
Chúa?.” Em bé ấy đã trả lời rất hay và rất đúng rằng: “Trên cây thánh giá,
người ta thấy Chúa Giêsu. Nhưng Ngài không có ở đó. Còn trong bánh Thánh, người
ta không thấy Ngài, nhưng Ngài ở trong đó.”
Đúng vậy, về phép Thánh Thể người ta không thể nhìn bằng con mắt xác thịt, mà
chỉ có thể nhìn bằng con mắt đức tin, bởi vì đây là một mầu nhiệm đức tin,
nhưng đây cũng là một mầu nhiệm của tình yêu thương. Chúng ta hãy tìm hiểu nhân
ngày lễ trọng kính Mình Máu Thánh Chúa hôm nay. Trong bữa tiệc ly, bữa tiệc
cuối cùng của Chúa Giêsu với các môn đệ vào chiều ngày thứ năm tuần thánh, Chúa
đã làm một việc rất quan trọng, đó là biến bánh miến thành thịt Ngài và biến
rượu nho thành máu Ngài, đồng thời Chúa truyền cho các môn đệ hãy làm như vậy
để tưởng nhớ đến Ngài. Như vậy, bữa tiệc ly này đã trở thành thánh lễ đầu tiên
do chính Chúa Giêsu, là linh mục tối cao, cử hành, và việc biến bánh rượu trở
nên Mình Máu Ngài là bí tích Thánh Thể do Chúa thiết lập và Chúa muốn sự kiện
cao quí này, tức là thánh lễ, được tiếp diễn luôn mãi qua các môn đệ của Ngài.
Vì thế, trong thánh lễ, khi linh mục lặp lại
những lời của Chúa Giêsu: “Này là Mình Thầy”, này là chén Máu Thầy”, tức thì
bánh không còn là bánh, rượu không còn là rượu nữa, nhưng là Mình và Máu Chúa
Giêsu. Dĩ nhiên đây là một chân lý cao siêu, vượt quá sự hiểu biết của trí khôn
loài người. Bởi vì trước và sau khi linh mục đọc lời truyền phép, chúng ta có
nhìn xem, đụng chạm tới hay nếm một tấm bánh chưa truyền phép và một hình bánh
đã truyền phép, chúng ta chẳng thấy có gì khác nhau, hay là có đưa vào phòng
thí nghiệm để phân chất, chúng ta vẫn thấy như thường về phẩm chất, khối lượng
và hình thức. Tuy nhiên, theo đức tin, thì lại khác xa nhau một trời một vực:
một đàng là Mình Máu Thánh Chúa Giêsu, một đàng là tấm bánh nhỏ bé, tầm thường.
Chính vì thế, sau truyền phép, linh mục lớn tiếng công bố: Đây là mầu
nhiệm đức tin.
Đúng vậy, Thánh thể là một bí tích đức tin. Nhưng
cũng còn là bí tính tình yêu. Tại sao vậy? Thánh Gioan tông đồ đã viết: Chúa
Giêsu đã yêu thương các môn đệ của Ngài và đã yêu thương họ đến cùng. Yêu
thương đến cùng có nghĩa là yêu thương đến tột bực. Tột bực tình yêu của Chúa
Giêsu ở đây là việc lập phép Thánh Thể, để từ nay Ngài trở thành nơi gặp gỡ
tình yêu giữa Ngài với chúng ta và giữa chúng ta với nhau.
Sau hết, Thánh Thể còn là bí tích của sự chia
sẻ. Chúng ta biết: Chúa Giêsu đã lập bí tích Thánh Thể trong bầu khí thân tình
của một bữa ăn từ giã. Tấm bánh Chúa đã cầm và phân chia cho các môn đệ cũng
như chén rượu Ngài đã trao cho các môn đệ là để họ cùng ăn cùng uống trong tình
huynh đệ, và chính việc chia sẻ này đã được Chúa dùng như dấu chỉ để các môn đệ
làm mà nhớ đến Ngài. Cũng vậy, ý thức chia sẻ đòi buộc mỗi người chúng ta không
được đóng khung những buổi cử hành Thánh Thể bên trong nhà thờ, nhưng phải sống
mầu nhiệm Thánh Thể, mầu nhiệm yêu thương ngay trong cuộc sống hằng ngày. Chúng
ta cũng không thể cử hành Thánh Thể một cách trung thực nếu chúng ta sống dửng
dưng ích kỷ, không quan tâm đến những anh chị em chung quanh. Nếu chúng ta
nghèo của cải vật chất, chúng ta hãy chia sẻ, hãy cho nhau tình thương, sự
thông cảm, vị tha, bác ái dưới mọi hình thức với hết mọi người.
Bí tích Thánh thể cao quí biết bao và đem lại
ơn ích biết bao nhiêu. Thế mà nhiều người vẫn còn thờ ơ hoặc chưa yêu mến cho
thật đầy đủ. Được bao nhiêu người rước lễ, có người chỉ rước lễ một năm một lần.
Nhiều người rước lễ không nên, hoặc không chuẩn bị đầy đủ hoặc không cám ơn
đàng hoàng. Đến nhà thờ là gặp Chúa, tâm sự với Chúa, thế mà có những thái độ
bất kính: nói chuyện riêng, có những cử chỉ bất kính. Chúng ta hãy xin Chúa tha
thứ và cố gắng sống tốt đẹp hơn.
17. Tấm bánh
Là con người, chúng ta không thể chỉ sống bằng
cơm bánh. Chúng ta còn phải chịu đựng nhiều kiểu đói khát. Chúng ta hãy mở Tin
mừng, để hiểu về những loại tấm bánh khác nhau, mà Đức Giêsu đã ban cho nhân
loại, từ đó, Người đang làm thỏa mãn nhiều khao khát của họ.
Đối với những người đã đi theo Chúa vào sa mạc,
và những người đang đói khát, Người đã ban cho họ bánh ăn hằng ngày, nhờ đó, đã
làm thỏa mãn được cơn đói về thể lý của họ.
Đối với những người phong cùi mà thân thể đang
bị héo mòn, Người đã ban cho họ tấm bánh duy nhất có ý nghĩa quan trọng đối với
họ – đó là được chữa lành bệnh tật.
Đối với người phụ nữ đang ở một mình tại giếng
Giacóp, Người đã ban cho bà tấm bánh của lòng ân cần tử tế, và do đó, đã làm
thỏa mãn lòng khao khát được chấp nhận.
Đối với những người tội lỗi, Người đã ban cho
họ tấm bánh của ơn tha thứ, do đó, đã làm thỏa mãn lòng khao khát được cứu độ.
Đối với những người bị khước từ và ruồng bỏ,
bằng cách hòa hợp với họ, cùng ăn uống với họ. Người đã ban cho họ tấm bánh của
tình thân hữu, do đó, đã làm thỏa mãn lòng khao khát được cảm thấy mình có giá
trị.
Đối với người góa phụ thành Naim, một người đã
chôn cất đứa con trai duy nhất, và đối với Marta và Maria, là những người chị
vừa mới chôn cất em trai họ là Lagiarô, Người đã ban cho họ tấm bánh của lòng
thương xót, và đã chứng tỏ cho họ thấy rằng ngay cả trong cái chết, chúng ta
vẫn có thể được Thiên Chúa cứu giúp.
Đối với Giakêu, một người thu thuế giàu có, đã
tước đoạt bánh từ bàn ăn của người nghèo, Người đã bắt đầu bằng cách tự để cho
Người được mời vào bàn ăn của ông ta. Sau đó, Người đã đánh thức nơi ông ta một
niềm khao khát được có một đời sống tốt đẹp hơn, Người đã giúp ông ta biết chia
sẻ cho người nghèo tiền bạc bất chính của mình.
Đối với kẻ trộm chết bên cạnh mình, Người đã
ban cho anh ta tấm bánh của sự hòa giải với Thiên Chúa, do đó, Người đã ban lại
bình an cho tâm hồn bị bối rối của anh ta. Nhưng thật đáng ngạc nhiên, có một
người lại khước từ tấm bánh Đức Giêsu ban.
Có một thanh niên giàu có, được Người ban cho
tấm bánh của đời sống ngay chính, nhưng đã từ chối, vì anh ta không muốn từ bỏ
những của cải của mình.
Có những ký lục và Pharisêu được Người ban cho
không chỉ một lần, mà nhiều lần, tấm bánh của sự hoán cải, nhưng họ đã từ chối
dù chỉ một mẫu bánh.
Có những người dân thành Giêrusalem mà Người
yêu dấu, trong những dòng nước mắt, Người đã ban cho tấm bánh của sự bình an,
nhưng họ đã từ chối, và hậu quả là thành phố của họ bị phá hủy.
Có một ông quan Philatô, mà Người ban cho tấm
bánh của sự thật, nhưng ông ta không hề thèm khát muốn ăn, vì nó đặt địa vị của
ông ta vào tình trạng rủi ro.
Đức Giêsu đã chia sẻ chính Người cho mọi người,
bằng nhiều cách thức khác nhau, và dưới nhiều hình thức khác nhau, trước khi
ban cho họ bản thân mình như là thức ăn và nước uống, trong bữa Tiệc Ly.
Đức Giêsu nuôi dưỡng chúng ta bằng rất nhiều
cách đặc biệt trong Phép Thánh Thể. Chỉ khi nào chúng ta đánh mất ý nghĩa sự
hiện diện của Đức Kitô trong tất cả mọi mặt, thì sự hiện diện của Người trong
Phép thánh Thể trở nên một vấn đề. Những người có ý thức sâu xa về sự hiện diện
của Thiên Chúa trong toàn bộ tạo vật, thì sẽ không gặp khó khăn gì lớn, trong
việc tin tưởng rằng Người đang hiện diện bằng một cách thức rất đặc biệt trong
Phép Thánh Thể.
Chỉ duy nhất Thiên Chúa là Đấng thỏa mãn được
những khao khát và mong mỏi của tâm hồn chúng ta, vì chỉ một mình Người có thể
ban cho chúng ta tấm bánh sự sống đời đời. Đây là tấm bánh mà chúng ta được đón
nhận trong Phép Thánh Thể. Nếu không có tấm bánh đó, chúng ta sẽ không có sức
mạnh để đi theo Đức Kitô.
18. Tình yêu của Thiên Chúa
Mừng kính Mình và Máu Thánh Đức Kitô, chúng ta
cùng nhau chia sẻ một vài ý nghĩ đơn sơ về tình yêu Thiên Chúa đã dành cho
chúng ta, nhất là qua bí tích Thánh Thể.
Thực vậy, tình yêu là một đề tài xưa như trái
đất và được đề cập đến nhiều nhất qua sách vở, qua nghệ thuật cũng như qua cuộc
sống. Tuy nhiên, con người vẫn chưa khai triển hết vẻ phong phú của tình yêu,
cho nên tới bây giờ, tình yêu vẫn còn là một câu chuyện thời sự nóng bỏng trên
môi miệng chúng ta.
Nếu đưa mắt nhìn xem, chúng ta sẽ thấy cuộc
sống của chúng ta được dệt nên bởi biết bao nhiêu yêu thương. Những người bạn
chân thành luôn nâng đỡ để cùng nhau theo đuổi một mục đích, một lý tưởng. Những
cặp tình nhân mà trái tim luôn đập cùng một nhịp yêu thương. Những người mẹ
luôn ân cần nuôi dạy những đứa con thơ dại. Tình yêu ở trước mặt cũng như ở sau
lưng chúng ta. Thế nhưng, đâu là mẫu số chung cho những thứ tình yêu ấy? Đâu là
điểm làm cho mặc cho những thứ tình yêu ấy một giá trị và đưa chúng vào một
lãnh vực cao cả hơn?
Tôi xin trả lời:
- Đó là sự hy sinh.
Thực vậy, đúng như tuc ngữ đã bảo:
- Yêu nhau chẳng quản xa gần,
Mấy sông cũng lội,,mấy ngàn cũng qua.
Đã yêu thương nhau, thì sẵn sàng chấp nhận mọi
hy sinh cho nhau và vì nhau để mưu cầu hạnh phúc cho nhau, nhu một câu danh
ngôn đã bảo:
- Hãy cho tình yêu vào máy cán, nếu nó tiết ra
chất hy sinh, thì đó là một tình yêu thức thiệt, bằng không thì chỉ là một tình
yêu thứ dổm mà thôi.
Sự hy sinh phải là nền tảng căn bản, trên đó
tình yêu được xây dựng, cho dù sóng gió cuộc đời có phũ phàng, cũng không thể
làm cho nó bị lay chuyễn. Hy vinh và tình yêu luôn bổ túc lẫn cho nhau: hy sinh
sẽ làm cho tình yêu trở nên tinh ròng và tình yêu tinh ròng sẽ giúp chúng ta dễ
dàng chấp nhận hy sinh.
Thánh Gioan đã định nghĩa: Thiên Chúa là tình
yêu. Ngài chính là tình yêu tuyệt hảo nhất, khuôn mẩu cho mọi tình yêu của
chúng ta. Và như vậy, chắc chắn sự hy sinh Ngài dành cho chúng ta cũng thật lớn
lao.
Sự hy sinh ấy bắt đầu từ nguyên thủy. Khi tạo
dựng nên trời và đất, Ngài đã một phần nào đặt mình vào sự giới hạn của không
gian và thời gian. Thế nhưng, Ngài đã nhận được những gì, nếu không phải là sự
phản bội của loài người, một tạo vật đã được Ngài dựng nên theo hình ảnh của
Ngài.
Tuy nhiên, dù con người có phản bội, Ngài cũng
đã không bỏ rơi con người trong án phạt của sự chết, trái lại Ngài đã đưa ra
chương trình cứu độ và thực hiện chương trình ấy trong dòng thời gian, bằng
cách sai Con Một Ngài xuống thế để cứu chuộc chúng ta.
Giả như bây giờ xảy ra một cuộc hỏa hoạn, hẳn
chúng ta sẽ ca tụng hành vi can đảm của người đã dám coi thường cái chết, nảy
vào vùng lửa cháy để cứu thoát một em bé nào đó. Chúa Giêsu cũng vậy, Ngài đã
hy sinh vì chúng ta và đã đổ ra cho đến giọt máu cuối cùng trên thập giá, như
lời Ngài đã phán:
- Không ai yêu hơn người hiến mạng sống mình vì
bạn hữu.
Hơn thế nữa, Ngài lãi còn trao ban cho chúng ta
Mình và Máu thánh Ngài làm của ăn nuôi sống linh hồn chúng ta và ở cùng chúng
ta mọi ngày cho đến tận thế. Vì vậy, chúng ta có thể nói được rằng bí tích
Thánh Thể chính là bí tích của tình yêu Thiên Chúa.
Hẳn rằng nhiều người trong chúng ta đã nghe nói
đến nạn đói năm Ất Dậu 1945 tại miền Bắc. Đó là một nạn đói thật khủng khiếp,
giết hại gần hai triêu người.
Có hai mẹ con người kia cũng lâm vào cảnh tang
thương ấy và nằm hấp hối chờ chết bên vệ đường. Người mẹ trước khi nhắm mắt, đã
không thể nào cầm lòng được trước tiếng khóc của đứa con thiếu sữa. Bởi đó, bà
đã làm một hành động táo bạo, đó là cắn đứt ngón tay trỏ, để đứa con được bú
những giọt máu cuối cùng của mình thay cho dòng sữa đã cạn kiệt, với hy vọng nó
sẽ được cứu sống.
Câu chuyện cảm động ấy không phải chỉ xảy ra
một lần, nhưng nó còn xảy ra mỗi ngày trong bí tích Thánh Thể.
Thực vậy, trước khi ra đi chịu chết, Chúa Giêsu
đã trối lại cho chúng ta Mình Máu thánh Ngài làm lương thực nuôi sống linh hồn
chúng ta, như lời Ngài đã xác quyết:
- Thịt Ta thật là của ăn và Máu Ta thật là của
uống. Ai ăn Thịt Ta và uống Máu Ta thì sẽ được sống đời đời.
Chính nhờ của ăn thần linh này, chúng ta được
kết hiệp mật thiết với Chúa, được trở nên giống Chúa và được chia sẻ sự sống ân
tình với Ngài.
Vì thế, hãy siêng năng tham dự thánh lễ và hãy
sốt sắng rước lể mỗi khi có thể, để đáp trả tình yêu thương vô biên Chúa đã
dành cho mỗi người chúng ta trong bí tích Thánh Thể.
19. Bánh
Trong sách Giáo lý Công giáo số 1358, Giáo Hội
tóm lược ý nghĩa của Bí tích Thánh Thể vào những điểm chính như sau:
1. Thánh Thể là sự cảm tạ và ngợi khen Chúa Cha: Thánh Thể là lời chúc tụng để Giáo Hội bày tỏ lòng biết ơn
Thiên Chúa vì tất cả những ơn lành Ngài đã thực hiện qua việc sáng tạo, cứu
chuộc và thánh hóa nhân loại. Ý nghĩa trước hết của thánh lễ là “lễ tạ ơn”
Thiên Chúa. Câu chuyện kể về một phụ nữ thường xuyên mang theo mình cuốn sách
mỏng. Chị đặt tên cho nó là cuốn sách ghi chép tiểu sử cuộc đời. Chị thường
chia sẻ với bạn bè rằng nó chẳng mất nhiều thì giờ để đọc, vì cuốn sách chỉ có
ba trang giấy. Lại chẳng có một chữ nào được viết trên đó cả. Trang đầu tiên
màu đen. Chị nói rằng nó đại diện cho các tội lỗi xưa nay của chị. Trang thứ
hai màu đỏ, nó biểu tượng cho máu Chúa Giêsu đã đổ ra vì tội lỗi của chị. Trang
thứ ba màu trắng, đại diện cho chính chị sau khi đã được lau sạch trong máu của
Chúa Giêsu Kitô, Người đã làm cho chị trở nên trắng hơn tuyết.
2. Thánh thể tưởng niệm sự hy sinh của Chúa
Giêsu: Một câu chuyện có thật gợi lên sự hy
sinh cao cả của Chúa Kitô được những tù binh người Anh bị lính Nhật giam giữ
trên bờ sông Kwai kể lại như sau: Một người lính Anh Quốc của trung đoàn
Argyll bị lính Nhật bắt giam phải đi làm lao động khổ sai xây dựng đường rầy xe
lửa. Như thường lệ, sau mỗi ngày lao động, tất cả những dụng cụ làm việc phải
được kiểm kê. Ngay khi một nhóm tù binh vừa trao nộp dụng cụ xong, sắp sửa trở
về trại, thì người lính Nhật canh giữ la lên rằng có một cái xẻng bị mất. Anh
lính quả quyết rằng một người nào đó đã ăn cắp và bán cho người Thái. Cả nhóm
tù binh phải tập họp lại. Anh lính Nhật bước tới bước lui trước mặt từng người
tù, anh phô trương, nộ nạt, sỉ vả họ vì hành động xấu xa và vô ơn đối với hoàng
đế. Đến lúc phát cáu, hắn nổi giận, và la hét. Hắn yêu cầu thủ phạm phải bước
ra khỏi hàng ngũ chấp nhận hình phạt. Nhưng chẳng có ai động đậy. Tên lính Nhật
lại càng nổi cơn điên lên cao độ hơn nữa. Hắn hét lên: “Tất cả phải chết! Chết
hết! Chết hết!.”
Để chứng tỏ điều hắn nói là thật, hắn lên cò
súng, kê báng súng lên vai và chĩa nòng súng vào từng người một, sẵn sàng bắn
từ đầu cho đến cuối. Vào lúc đó Argyll bước tới, đứng yên và nói: Tôi đã làm
điều đó.” Tên lính Nhật tuôn ra tất cả sự thù hận, hắn đấm đá túi bụi vào
Argyll. Tuy nhiên anh vẫn đứng lặng thinh với khuôn mặt đầy máu me đang chảy
xuống. Sự yên lặng của anh đã khiêu khích sự phẫn nộ của tên lính Nhật lên tột
độ. Hắn nắm lấy cây súng trường, đưa lên cao khỏi đầu, và với một tiếng tru lên
như chó, hắn bắn vào đầu Argyll. Argyll tung người lên, rơi xuống đất, rồi nằm
yên bất động. Mặc dù rõ ràng rằng người tù đã chết, nhưng tên lính Nhật vẫn
tiếp tục đánh anh cho đến khi hắn kiệt sức mới thôi! Những người tù khổ sai đã
lãnh xác người bạn mình, vác những dụng cụ lao động trên vai, bước về trại. Khi
những dụng cụ lao động được đếm lại một lần nữa ở đồn lính canh, đã không có
cái xẻng nào bị mất cả. Tất cả dụng cụ lao
động đều đầy đủ! Thánh Thể là sự tưởng niệm cuộc tử nạn và Phục sinh của Chúa
Kitô. Theo ý nghĩa của Thánh Kinh “tưởng niệm” không chỉ có nghĩa là nhớ lại
những biến cố của quá khứ, nhưng còn có nghĩa công bố những kỳ công mà Thiên
Chúa đã thực hiện cho loài người. Trong Tân Ước từ “tưởng niệm” còn có nghĩa là
sự tái diễn có tính cách bí tích, làm cho trở thành hiện tại sự hy sinh của
Chúa Kitô như Công đồng Vatican II đã nói: “Tất cả mỗi khi hy lễ thập giá mà
Chúa Kitô, lễ Vượt Qua của chúng ta, được hiến tế trên bàn thờ, thì công cuộc
ơn cứu chuộc của chúng ta được thực hiện.”
3. Thánh Thể là sự hiện diện của Chúa Kitô: Nhờ quyền năng của Lời Ngài và của Chúa Thánh Thần, Chúa Giêsu
hiện diện trong Giáo Hội bằng nhiều cách: trong việc cầu nguyện của Giáo Hội,
nơi những người nghèo khó, nơi các bệnh nhân, các tù nhân, trong bí tích của
Ngài, trong hy lễ Thánh Thể, và nơi con người của thừa tác viên. Đặc biệt nhất
là Ngài hiện diện dưới hình bánh và hình rượu trong Bí tích Thánh thể. Đó là
ngày lễ Phục sinh ở trong tù. Có chừng hơn 10. 000 tù nhân chính trị bị giam
giữ bởi một chế độ tàn bạo và áp bức. Một nhóm tù nhân Kitô hữu muốn cử hành Bí
tích Thánh thể, nhưng họ không có bánh lễ, không có rượu nho, không có chén
thánh, cũng chẳng có sách lễ, không có Thánh Kinh, và không có cả linh mục nữa.
Những tù nhân không phải là Kitô giáo cũng nhiệt tình giúp đỡ: “Chúng tôi sẽ
giúp đỡ các anh. Chúng tôi sẽ nói chuyện rì rào rất êm ái để quí vị có thể gặp
nhau mà không lôi kéo sự chú ý của các tên canh tù.” Một trong những tù nhân
Kitô hữu lên tiếng góp ý với đồng đạo: “Chúng ta không có bánh lễ, cũng chẳng
có lấy một giọt rượu nho, nhưng chúng ta sẽ cử hành như thể chúng ta có tất cả.” Và người tù
nhân Kitô hữu đó bắt đầu hướng dẫn mọi người tham dự thánh lễ qua các nghi thức
phụng vụ. Mọi người đều ngạc nhiên vì anh nhớ từng lời, từng kinh đã nghe được
qua bao nhiêu thánh lễ ngày Chúa nhật từ khi còn bé. Khi đọc đến những lời của
Chúa Giêsu đã nói trong bữa Tiệc Ly, anh quay sang người bạn tù bên cạnh mình. Rồi
nắm lấy hai bàn tay mà nói: “Đây là mình ta sẽ bị nộp vì các con.” Và sau đó
tất cả mọi người trong nhóm đi một vòng tròn, từng người một, mỗi người quay
sang người bên cạnh, mở rộng đôi bàn tay và lập lại những lời của Chúa Giêsu:
“Đây là mình ta sẽ bị nộp vì các con.”
“Hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy” là một mệnh
lệnh được thi hành không chỉ trong thánh lễ với linh mục thừa tác viên chính
thức của Giáo Hội, nhưng còn được sống thánh lễ và cử hành bằng chính đời sống
của các Kitô hữu nữa. Thánh Inhaxiô thành Antiokia đã nói: “Thánh Thể là linh
dược đem lại sự bất tử, một phương thuốc diệt trừ sự chết.” Đây chính là bảo
chứng của Vương Quốc tương lai, sự sống đời đời như lời Chúa phán hôm nay: “Đây
là bánh từ trời xuống… Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời.”
20. Thánh Thể
Trong bữa Tiệc Ly, Chúa Giêsu cầm bánh trong
tay và nói trước mặt các môn đệ: “Đây là Mình Thầy”, lập tức mọi người hiểu
rằng tấm bánh kia là thân thể Chúa, nghĩa là tấm bánh kia, bên ngoài có hình
thù, mầu sắc, hương vị của bánh nhưng bản thể của bánh đã biến sang bản thể của
Thiên Chúa. Làm sao có thể như thế được? Đối với Thiên Chúa thì không thành vấn
đề, bởi vì Thiên Chúa đã từng làm cho có manna đầy tràn ở trong hoang địa, và
nước trở thành rượu ngon ở tiệc cưới Cana, thì việc biến bánh ra Mình Chúa đối
với Chúa là chuyện dễ dàng, dễ dàng đến độ Ngài chỉ cần một lời nói “Đây là
Mình Thầy.” Có ai trong chúng ta dám nói tôi là thế này tôi là thế nọ không?
Thí dụ: “Tôi là ánh sáng.” Chúng ta chỉ có thể nói: “Tôi có ánh sáng” hay “tôi
chế ra ánh sáng La-de”, chứ không ai có thể nói: “Tôi là ánh sáng.” Chỉ có
Thiên Chúa, Đấng tạo dựng ra ánh sáng, mới có nền tảng mà tuyên bố “Tôi là ánh
sáng.” Cho nên, khi Chúa nói: “Đây là Mình Thầy” là một câu nói quả quyết, một
câu nói quả quyết sự đồng nhất.
Một số người chối Bí tích Thánh Thể đã cho
rằng: câu Chúa nói: “Đây là Mình Thầy” chỉ có ý nghĩa tượng trưng, ám chỉ một
việc khác. Chúng ta có thể trả lời như sau: Để có ý nghĩa tượng trưng, phải có
một trong bốn ý sau đây: Thứ nhất, một cái gì tượng trưng rõ ràng, chẳng hạn
khi chúng ta chỉ vào pho tượng thánh Giuse mà nói: “Đây là thánh Giuse.” Thứ
hai, một kiểu nói dụ ngôn, chẳng hạn như hạt giống gieo là lời Chúa. Thứ ba,
một ý nghĩa tượng trưng tự nó, chẳng hạn như tre trúc tượng trưng cho lòng ngay
thẳng, bông huệ tượng trưng cho sự thanh khiết. Thứ tư, một bản văn ám chỉ tới
một chuyện khác, chẳng hạn Isaac ám chỉ Chúa Giêsu. Lời truyền phép của Chúa
Giêsu không ở trong bốn trường hợp đó. Tự bản chất và công dụng của bánh không
bao giờ ám chỉ đến thân thể. Chúa cũng không cắt nghĩa gì thêm, vì quá rõ ràng,
đến nỗi người Do Thái lấy làm chướng tai, không nghe được và bỏ đi. Trong Cựu
Ước cũng như Tân Ước không bao giờ dùng tấm bánh để ám chỉ về người ta, cho
nên, câu Chúa nói “Đây là Mình Thầy” phải hiểu là một chân lý quyền năng của
Chúa. Như vậy, câu Chúa nói “Đây là Mình Thầy” là Chúa lập Bí tích Thánh Thể. Đây
là điều chắc chắn, là chân lý tuyệt đối, nhắc nhở chúng ta những điều quan
trọng sau đây:
Thứ nhất,
Chúa Kitô hiện diện thật sự trong phép thánh Thể. Chúa Kitô ở trong phép Thánh
Thể là Chúa Kitô vinh hiển, nhân tính Ngài hiện diện trong bí tích đó không còn
đau khổ, buồn phiền, cô đơn nữa. Những kiểu nói Ngài cô đơn, vắng lặng trong
nhà tạm chỉ là để nhắc nhở thái độ dễ vô ơn, thờ ơ của chúng ta đối với Chúa.
Thứ hai,
Chúa Kitô hiện diện trong phép Thánh Thể là trạng thái hết sức khiêm hạ vì
thương yêu loài người. Chúa âm thầm tự trở nên một tù nhân giữa loài người. Phải
có một tình yêu cao độ chúng ta mới hiểu được sự ở lại trong khiêm hạ này. Cũng
trong sự khiêm hạ âm thầm này mà có biết bao phạm thượng, lộng ngôn xúc phạm
đến Chúa qua bao thế hệ. Đó cũng là lý do nữa nhắc nhở chúng ta thêm lòng kính
mến bí tích tình yêu tột đỉnh này.
Thứ ba,
Chúa Kitô với hai bản tính đều ở trong bánh và rượu. Ở mỗi hình thái đều có đủ
Chúa Kitô thật. Nhưng chúng ta nên nhớ: Chúa Kitô ở trong hình thái bánh rượu
không còn lệ thuộc vào không gian, thời gian hay trương độ, trọng lượng như xác
thịt người phàm nữa. Ngài ngự trong hình bánh rượu, Ngài nghe, biết, thấy chúng
ta cầu nguyện, không bằng con mắt xác thịt như chúng ta mà bằng thần tính của
Thiên Chúa. Cho nên, chúng ta hãy siêng năng đến cầu nguyện với Chúa trong
Thánh Thể.
Chúng ta hãy nhớ và thực hành hai điều sau: Thứ
nhất, mỗi khi tham dự thánh lễ, chúng ta hãy cố gắng rước lễ, bởi vì chả lẽ đi
dự tiệc mà lại không ăn tiệc? Chúng ta phải chuẩn bị chu đáo để rước lễ. Nhưng
cũng đừng vì một đôi khuyết điểm hay yếu đuối nhỏ mà chúng ta nghĩ rằng mình
không xứng đáng rước Chúa. Thật ra khi rước lễ, tình yêu chúng ta dành cho Chúa
Giêsu đủ để Ngài tha thứ những tội nhẹ và khuyết điểm của chúng ta. Thứ hai,
ngoài thánh lễ, Chúa vẫn ở với chúng ta trong nhà tạm. Vì thế, mỗi khi vào nhà
thờ chúng ta hãy ý thức sự hiện diện của Chúa, chúng ta cúi đầu hay bái gối với
một lòng biết ơn và kính trọng, rồi chúng ta bắt đầu cầu nguyện với một lòng
tin sâu xa: Chúa Kitô đang hiện diện thực sự trước chúng ta, đang lắng nghe
chúng ta, đang muốn ban ơn cho chúng ta.
21. Suy niệm của JNK
Câu hỏi gợi ý:
1. Những câu nói của Đức Giêsu như: "Tôi
là bánh hằng sống từ trời xuống", "Thịt tôi thật là của ăn, và máu
tôi thật là của uống" có ý nghĩa gì?
2. Bản thân Đức Giêsu có thể ví như chiếc bánh
bị ăn không? Tại sao?
3.”Ăn thịt uống máu" Đức Giêsu là gì? Cụ
thể là gì?
SUY NIỆM
1.”Bánh hằng sống từ trời xuống" ở đây
nghĩa là gì?
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu tuyên bố:
"Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn
đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống.”
Chúng ta cần phải hiểu câu nói đó theo nghĩa nào? Chắc chắn không thể hiểu theo
nghĩa đen, nghĩa là nghĩa vật chất được.
Viết tới đây tôi nghĩ tới Đường Tam Tạng đi
thỉnh kinh trong truyện Tây Du Ký: nhiều yêu tinh quyết bắt ông cho bằng được
để ăn thịt, vì tin rằng cứ ăn thịt ông thì sẽ trường sinh hay trường thọ. Chắc
hẳn chẳng ai trong chúng ta tin được rằng thịt của Đức Giêsu (hiểu theo nghĩa
vật chất) là một thứ thuốc hễ ăn vào thì được sống đời đời theo kiểu các yêu
tinh tin vào thịt của Đường Tam Tạng.
Cũng khó mà hiểu được một cách thuần túy rằng
Thịt đem lại sự sống đời đời ở đây chỉ là bánh Thánh Thể mà người ta vẫn nhận
lãnh khi rước lễ. Vì quả thật không thể tin được là tất cả những ai lên rước lễ
dù là hằng ngày thì sẽ được sống đời đời mà không cần một thái độ nội tâm nào
(xin nhấn mạnh những chữ viết nghiêng này). Nếu thế thì muốn được sống đời đời
quả thật quá dễ dàng! Và nếu thế thì bánh Thánh Thể quả là một thứ phù phép hay
bùa chú vượt trên mọi thứ phù phép trong mọi tôn giáo! Những phù phép trong các
tôn giáo nhiều lắm thì hứa hẹn một cái gì tạm thời chóng qua, chứ không hứa hạn
một quyền lợi vô cùng to lớn mang tính đời đời, mà người thụ hưởng chỉ bị đòi
hỏi làm một việc mang tính vật lý quá đơn giản!
Theo tôi nghĩ, chính thái độ nội tâm của ta mới
là yếu tố quyết định về phía ta để Thiên Chúa ban sự sống đời đời cho ta hay
không. Vì thế, việc ăn thịt và uống máu Đức Giêsu là một thái độ hay hành vi
nội tâm hơn là thể lý! Không có thái độ hay hành vi nội tâm ấy, thì có rước lễ
hằng ngày suốt đời cũng chẳng thể có sự sống đời đời. Thật vậy, có ai dám bảo
đảm rằng những người rước lễ hằng ngày thì chắc chắn có sự sống đời đời chăng?
Riêng tôi, tôi tin tưởng chắc chắn 100% rằng những ai có thái độ nội tâm giống
như Đức Giêsu thì tất nhiên sẽ được Ngài ban sự sống đời đời.
Thiết tưởng, câu nói của Đức Giêsu đang được
bàn tới cần hiểu theo nghĩa tâm linh, huyền nhiệm hơn là nghĩa đen. Vì nói
chung, trong bất kỳ tôn giáo nào, những câu Kinh Thánh có ý nghĩa quan trọng
thường được hiểu theo nghĩa huyền nhiệm hơn theo nghĩa đen. Vả lại, chính Đức
Giêsu đã từng dùng từ "lương thực" hay "thức ăn" theo nghĩa
tâm linh: ""Thầy phải dùng một thứ lương thực mà anh em không biết.”
Các môn đệ mới hỏi nhau: "Đã có ai mang thức ăn đến cho Thầy rồi
chăng?" Đức Giêsu nói với các ông: "Lương thực của Thầy là thi hành ý
muốn của Đấng đã sai Thầy, và hoàn tất công trình của Người"" (Ga
32-34). Thiết tưởng chữ "bánh", "của ăn", "của
uống" trong bài Tin Mừng hôm nay cũng nên hiểu theo nghĩa ấy.
2. Cuộc đời và bản thân Đức Giêsu là một
"chiếc bánh bị ăn"
Một trong những đặc tính căn bản nhất của đồ ăn
là nó không hiện hữu vì ích lợi của nó, mà hoàn toàn vì ích lợi của người ăn nó.
Nói cách khác, đặc tính căn bản của đồ ăn là hoàn toàn vị tha, không vương một
chút vị kỷ nào. Đức Giêsu cũng hiện hữu và sống hoàn toàn vì Chúa Cha và vì
loài người, không hề vì bản thân mình chút nào. Ngài từng nói: "Tôi tự
trời mà xuống, không phải để làm theo ý tôi, nhưng theo ý Đấng đã sai tôi"
(Ga 6,38); "Tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào" (Ga
10,10).
Cả cuộc đời Đức Giêsu, dù xét một cách toàn thể
hay theo từng chi tiết, từng hành động, ta thấy Ngài hoàn toàn vị tha, nghĩa là
sống vì Chúa Cha và vì nhân loại. Không một hành vi nào chứng tỏ Ngài vị kỷ cả.
Cụ thể và hùng hồn nhất là cuộc tử nạn hết sức thê thảm của Ngài: đau khổ đến
tận cùng và chết thê thảm không vì ích lợi gì cho mình, mà hoàn toàn vì yêu
thương Chúa Cha và nhân loại.
Hãy nghe Ngài cầu nguyện hai lần với Chúa Cha
trước khi chịu tử nạn: "Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi phải
uống chén này. Tuy vậy, xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha" (Mt 26,39;
x. 26,42). Sự vị tha ấy đã có từ nguyên thủy khi Ngôi Hai xuống thế: "Đức
Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị
ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân
nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình,
vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự" (Pl
2,6-8).
Như vậy, cả cuộc đời Ngài là một cái "bánh
bị ăn", nhờ thế Thiên Chúa được vinh danh. Con người cũng nhờ thế mà
"được sống và sống dồi dào" (Ga 10,10), được phục hồi lại sự sống đời
đời đã bị mất vì tội nguyên tổ.
3.”Ai ăn thịt và uống máu tôi thì được sống
muôn đời"
Đức Giêsu nói: "Thịt tôi thật là của ăn,
và máu tôi thật là của uống.” Điều ấy chắc chắn là sự thật, nhưng phải hiểu
theo nghĩa huyền nhiệm hơn là nghĩa đen. Vấn đề còn lại là "ăn thịt và
uống máu" Đức Giêsu để "được sống muôn đời" là gì? Muốn "ăn
thịt và uống máu" Đức Giêsu thì phải làm gì?
Khi tôi ăn hay uống một thức gì, thì thức ấy
được tiêu hóa để trở thành thịt và máu tôi, thành các tế bào của tôi. Thức ấy
mà bổ dưỡng hoặc có tính chữa bệnh thì tôi trở nên mạnh khỏe, và bệnh tôi được
chữa lành. Nếu tôi ăn hay uống những thức độc hại, thì chất độc ấy cũng trở nên
những tế bào độc hại trong thân thể tôi và làm cơ thể tôi suy yếu. Chắc chắn
rằng tất cả các tế bào hiện nay của tôi sau mấy chục năm sống ở đời đều hoàn
toàn được cấu tạo từ những thức tôi ăn hay uống vào từ bên ngoài. Chính nhờ
thức ăn và thức uống mà tôi sống được. Nhưng tôi sống mạnh khỏe hay bệnh tật
tùy thuộc vào thức ăn thức uống tôi đưa vào cớ thể, và cũng tùy thuộc cách thức
tôi ăn uống nữa. Thức ăn hay thức uống tôi ăn vào từ từ thay thế những tế bào
cũ bằng những tế bào mới trong thân thể tôi. Vì thế, nhiều thầy thuốc hay nhà
sinh vật học chủ trương người ta có thể cải tạo lại sức khỏe bằng cách thay đổi
đồ ăn thức uống và cả cách ăn uống nữa.
Từ thực tế trên, ta có thể hiểu được cách thức
"ăn thịt và uống máu" Đức Giêsu. Đức Giêsu là Ngôi Lời, nên bản chất
của Ngài là "Lời.” Lời của Ngài cũng chính là của ăn thức uống. Đời sống
và bản thân của Ngài cũng là của ăn thức uống như đã nói ở phần trên.
Ăn uống Ngài chính là dùng lời của Ngài, dùng
gương mẫu đời sống Ngài, để suy niệm, thực hành, bắt chước hầu thay thế dần dần
"chất của ta" bằng "chất của Ngài", nghĩa là ta càng ngày
càng trở nên "có chất Giêsu" hơn trong quan niệm, tư tưởng, lời nói,
và hành động của ta.
Nếu mỗi ngày ta thay thế 1% hay 1‰ "chất
tôi" thành "chất Ngài" - ít hay nhiều tùy sự cố gắng hay quyết
định của ta - thì chỉ một thời gian sau "chất tôi" đầy ích kỷ, tham
lam, ghen ghét sẽ giảm đi, và "chất Ngài" đầy vị tha, đầy tình yêu sẽ
tăng lên. Và tới một lúc nào đó, "chất Ngài" ở trong tôi trở thành
viên mãn, nghĩa là đạt tới mức 100% (Đương nhiên thực tế không đơn sơ như vậy).
Lúc ấy tôi có thể nói như Phao-lô: "Tôi
sống, nhưng không còn là tôi sống, mà là Đức Kitô sống trong tôi" (Gl
10,20). Lúc ấy, một cách nào đấy, tôi không còn là tôi mà là Đức Kitô. Điều đó
không có nghĩa là tôi bị vong thân, mà tôi trở nên một cái tôi hoàn hảo nhất,
đúng với ước muốn sâu xa nhất của tôi là nên một con người hoàn hảo. Chính lúc
ấy tôi mới tìm lại được bản thân tôi một cách trọn vẹn nhất. Đấy là cách
"ăn thịt uống máu" Ngài - mà tôi nghĩ theo thiển ý mình - là hợp lý
và ý nghĩa nhất. Và đó cũng là cách bảo đảm nhất để có sự sống đời đời.
Vậy thiết tưởng, mỗi khi dâng thánh lễ và lãnh
nhận Thánh Thể, tức là "ăn thịt uống máu" Ngài một cách bí tích, ta
cần có một thái độ hay hành vi nội tâm tương xứng là "ăn thịt uống
máu" Ngài một cách huyền nhiệm hay tâm linh như đã nói trên. Có sự phối
hợp bên trong lẫn bên ngoài như thế, việc lãnh nhận Thánh Thể sẽ đem lại cho ta
sự sống và sức mạnh tâm linh bội phần.
4. Hãy trở nên "chiếc bánh bị ăn" như
Đức Giêsu
Như vậy, "ăn thịt và uống máu" Đức
Giêsu chính là suy niệm Lời và đời sống của Ngài để dần dần thay thế "chất
tôi" thành "chất Ngài", biến "tôi" thành "Ngài.”
Nói cách khác, đó là trở nên giống Đức Giêsu hoàn toàn. Giống Đức Giêsu là
giống Thiên Chúa, mà "Thiên Chúa là Tình Yêu" (1Ga 4,8. 16). Tình yêu
ở đây là thứ tình yêu hoàn toàn vị tha, không một chút vị kỷ. Vì thế, giống Đức
Giêsu là biết yêu thương mọi người bằng một tình yêu vị tha, nghĩa là sẵn sàng
trở nên "chiếc bánh bị ăn" như Đức Giêsu (theo cách nói của cha
Antoine Chevrier, tu hội Prado).”Bị ăn" bởi những người chung quanh ta,
nhất là những người gần gũi ta nhất (vợ chồng, con cái, cha mẹ, anh chị em, bạn
bè ta). Sống như thế, hay ít nhất là cố gắng hết sức để sống như thế, chính là
"ăn thịt và uống máu" Đức Giêsu, và như thế thì chắc chắn ta sẽ được
sự sống đời đời.
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, con muốn "ăn thịt và uống
máu" Đức Giêsu bằng cách mỗi ngày nhìn vào đời sống của Ngài để biến một
phần rất nhỏ "chất tôi" trong con thành "chất Giêsu.” Nếu mỗi
ngày con chỉ biến 1‰ (một phần ngàn) "chất tôi" thành "chất
Giêsu" một cách thật nghiêm túc và thành công, thì trên nguyên tắc chỉ 1. 000
ngày sau - tức khoảng 3 năm - con đã được biến đổi hoàn toàn nên giống Đức
Giêsu. Đó là tính theo kiểu toán học, thực tế không đơn sơ, dễ dàng và nhanh
chóng như vậy. Xin cho con biết "ăn thịt và uống máu" Ngài theo kiểu
ấy, để nhờ đó con có sự sống đời đời.
22. Từ thế giới này đến thế giới vĩnh cửu!
Một trong những cuốn sách nổi tiếng và bán chạy
nhất là cuốn "On Death và Dying" (Hấp Hối và Chết). Tác giả cuốn sách
này diễn tả sự chết qua 5 giai đoạn sau đây: 1) Giai đoạn từ chối và không chấp
nhận cái chết (denial), 2) Giai đoạn tức giận (anger): "Tại sao tôi lại
chết?" 3) Giai đoạn mặc cả (bargaining) để tìm một lúc khác thuận lợi hơn,
4) Giai đoạn chán nản ngã lòng (depress), 5) Giai đoạn cuối cùng là chấp nhận
(acceptance).
Tất cả mọi người chúng ta cho dù ở giai đoạn
cuối của những cơn bệnh nạn hiểm nghèo hay ở bất cứ lúc nào, tùy theo mỗi
người, thì ai cũng phải đối diện với sự chết. Từ lúc chúng ta lọt lòng mẹ là
chúng ta bắt đầu cuộc hành trình tiến đến sự chết.
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu nói với
chúng ta thêm một giai đoạn thứ 6 mà tác giả ở trên đã không nhắc tới. Giai
đoạn này là câu hỏi mà nhiều người phải đương đầu đó là "Chúng ta sẽ đi
đâu sau khi chết?"
Đã có rất nhiều thuyết về sự sống đời sau mà
con người đã vẽ lên bằng trí tưởng tượng trong phạm vi của loài người. Mỗi một
dân tộc đều có những nét đặc điểm của họ. Đối với người Hy Lạp ngày xưa, họ cho
rằng cuộc sống đời sau như là một nơi cực lạc chan chứa niềm hạnh phúc và không
có bất cứ một thay đổi gì về vấn đề thời tiết. Đối với người Ái Nhĩ Lan, sự
sống đời sau giống như một hòn đảo của những người được chúc phúc (Island of
the Blest). Trên hòn đảo này đầy những cây ngon vật lạ, mọi người đều vui mừng
không ngớt, không có đêm hay ngày gì cả, và cũng không có tiếng khóc hay than
van.
Tân Ước thì không cho chúng ta hình ảnh về thế
giới đời sau theo tính cách của loài người. Tân Ước cũng không nói cho chúng ta
biết kỹ lưỡng về những thiết kế của Nước Trời. Tân Ước cho chúng ta một vài
hình ảnh như: Thành thánh Giêrusalem mới, kho tàng châu báu, căn nhà với nhiều
chỗ ở, quốc gia mà Chúa Kitô làm Vua.
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu dạy cho
chúng ta một bài học rất quan trọng đó là linh hồn bất tử và sự sống đời sau. Ngài
trao ban sự sống đời đời cho những ai tin vào Ngài: "Ta là bánh hằng sống
từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh Ta sẽ ban tặng,
chính là thịt Ta, để cho thế gian được sống" (Ga 6:51).
Chúa Giêsu chính là Bánh ban sự Sống. Ngài
chính là sự hoàn thiện của chúng ta. Ngài chính là đích điểm mà chúng ta phải
đi tới. Ngài đã trả lời cho câu hỏi mà nhiều người vẫn còn thắc mắc, "Sự
sống đời đời là cái gì?" Đức Giêsu ngước mắt lên trời và cầu nguyện:
"Lạy Cha, giờ đã đến! Xin Cha tôn vinh Con Cha để Con Cha tôn vinh Cha. Thật
vậy, Cha đã ban cho Con quyền trên mọi phàm nhân là để Con ban sự sống đời đời
cho tất cả những ai Cha đã ban cho Con. Mà sự sống đời đời đó là họ nhận biết
Cha, Thiên Chúa duy nhất và chân thật, và nhận biết Đấng Cha đã sai đến, là
Giêsu Kitô" (Ga 17:1-3).
Sự sống đời đời là nhận biết Cha, Đấng đã sai
Con Một Ngài xuống thế gian để ban cho chúng ta Bánh Hằng Sống. Sự sống đời đời
là đón nhận Chúa Giêsu, Bánh Hằng Sống từ trời xuống.
23. Sự sống phát xuất từ việc trao ban sự sống
(Suy niệm của Lm. FX. Vũ Phan Long)
1. - Ngữ cảnh
Đoạn văn này nằm trong Phần I của TM IV (“Sách
các Dấu lạ”,
ch. 2–12) và thuộc bài diễn từ “Bánh trường sinh” (6,1-71).
Nói chính xác, bài diễn từ “Bánh trường sinh”
bắt đầu từ c. 25 và được kết cấu thành năm vòng tròn, mỗi vòng bắt đầu bằng
mộtcâu nói của Đức Giêsu và mộtvấn nạn của người Do Thái: a) 6,25; b) 6,28; c)
6,34; d) 6,41; e) 6,52. Cứ mộtcâu hỏi của người Do Thái lại đưa Đức Giêsu đến
mộtmạc khải mới về mầu nhiệm bản thân Người; mạc khải này càng gây thắc mắc cho
người Do Thái hơn. Năm vòng tròn này chuyển theo hình trôn ốc, đưa đến chọn lựa
cuối cùng: bỏ rơi Đức Giêsu (6,66) hoặc tiếp tục gắn bó với Người (6,69).
2. - Bố cục
Bản văn có thể được chia thành bốn phần:
1) Đề tài được xác định lần ba (x. cc. 35 và
48): “Tôi là bánh hằng sống” (6,51);
2) Thắc mắc của người Do Thái (6,52);
3) Triển khai đề tài (6,53-56);
4) Nền tảng của đề tài (6,57-58; c. 58a nhắc
lại c. 51a).
3. - Vài điểm chú giải
- từ trời xuống (51): hàm ý mầu nhiệm Nhập Thể.
- bánh tôi sẽ ban tặng chính là thịt tôi đây
(51): Chúng ta có thể tự hỏi vì sao tác giả
Gioan không dùng từ ngữ “thân thể” (sôma) mà lại dùng từ “thịt” (sarx), nhất là khi mà từ sôma đã
trở thành từ quen thuộc trong văn chương Tân Ước để gọi bí tích Thánh Thể (x. Mc
14,22; Mt 26,26; Lc 22,19; 1 Cr 11,24). Đồng ý là trong bữa tiệc cuối cùng, hẳn
là Đức Giêsu đã sử dụng từ A-ram bơsar (Híp-ri bâsâr), và từ này, cho dù chỉ
“thân thể”,
vẫn được ưu tiên dịch ra bằng sarx, “thịt”, trong Bản dịch LXX. Nhưng thông
thường, Ga cũng không mấy để ý đến từ Hy Lạp chính xác. Ở đây hẳn phải có lý do
khác.
Sarx đúng là từ để dịch bơsar. Nhưng sarx không
chỉ có nghĩa là “thịt” là còn có nghĩa là “toàn thân thể”; “toàn thể con
người” [theo nghĩa là có quan hệ với người chung quanh; x. 1,14]. Để diễn tả
các sắc thái này, ngôn ngữ Hy Lạp có khả năng tinh tế hơn tiếng A-ram. Nhưng
trong Do Thái giáo sau này, người ta đã chọn dịch bơsar là sôma, cho dù trong
Tân Ước, đôi khi người ta dùng cả hai từ. Nhưng để nói về bí tích Thánh Thể, từ
sôma đã được chọn, ngoại trừ mộtvài bản văn sau thời các tông đồ, được viết
dưới ảnh hưởng của Ga 6, đã dùng từ sarx (vd: thánh Inhaxiô Antiôkhia, thánh
Giúttinô…). Như thế, dù trong Hội Thánh tiên khởi, đã có mộttừ nhất định để gọi
bí tích Thánh Thể, nếu Ga vẫn giữ lại từ sarx, là vì sarx-thịt có trong ngôn
ngữ A-ram mộtý nghĩa rộng hơn sôma-thân thể. Đàng khác, trong Ga, sôma được
dùng để gọi mộtxác chết: làm thế nào một xác chết có thể ban sự sống? Ngược
lại, “thịt” vừa có nghĩa là toàn thể con người vừa có nghĩa là thân thể, và
“hai nghĩa trong một” này rất lý tưởng để gợi ra mộttrật cái chết trên thập giá
và bí tích Thánh Thể. Bởi vì ý nghĩa căn bản và tại nguồn của “thịt mà Con
Người sẽ ban” không phải là bí tích Thánh Thể, mà là “chính bản thân” Người
trong cái chết trên thập giá. Vậy, khi Đức Giêsu nói về “thịt của Người để cho
thế gian được sống”, Người muốn nói đến “bản thân Người” (chịu sát tế) để cho
thế gian được sống.”
- làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn thịt
(52): Đại danh từ Hy Lạp “ông này” (houtos)
hàm ý khinh bỉ (x. c. 42). Trong Kinh Thánh, “ăn thịt ai” là một công thức bóng
bảy để diễn tả sự thù nghịch (x. Tv 27,2; Dcr 11,9). Còn việc uống máu bị coi
như một việc ghê tởm bị luật Thiên Chúa cấm (St 9,4; Lv 3,17; Đnl 12,23; Cv
15,20).
- ăn. . . uống (53): Hai động từ Hy Lạp này (esthiein và pinein) là những hành vi
rất cụ thể để nuôi dưỡng thân xác.
- thịt. . . máu (53): Thành ngữ Híp-ri “thịt và máu” có nghĩa là toàn thể con người. Vào
thời phong trào Cải Cách (tk. xvi), người ta đã tranh luận là có cần nhận Thánh
Thể dưới hai hình không. Tất cả những gì có thể rút ra từ bản văn này là: cần
phải nhận trọn vẹn Đức Kitô.
- Ai ăn (54 và 57): Động từ “ăn” ở đây là trôgein (bản văn tiếng Anh dịch là feed) chứ
không phải là esthiein như ở trên, để diễn tả một hành động rất cụ thể: “nhai
bằng răng.” Động từ này nêu bật tính hiện thực của bí tích Thánh Thể.
- ở lại (56):
Động từ menein (remain; rester) là một động từ quan trọng của TM Ga (x. chương
15: “Cây nho thật”; động từ này được dùng trong TMNL: 12 lần; Ga: 40 lần; 1-3
Ga: 27 lần; Kh: 1 lần). Tác giả Ga thích dùng động từ này để diễn tả quan hệ
trường tồn giữa Chúa Cha và Chúa Con và giữa Chúa Con và các Kitô hữu. Ở trong
Cựu Ước, “trường tồn” là mộtđặc điểm của Thiên Chúa và của những thứ thuộc về
Thiên Chúa (x. Đn 6,26; Kn 7,27; 1 Pr 1,25), đối lại với đặc tính tạm bợ, chóng
qua của con người. Tuy nhiên, TM IV còn dùng mộtcông thức là “ở trong” (menein
en) để nói về tính nội tại liên kết Chúa Cha, Chúa Con và các Kitô hữu lại với
nhau: như Con ở trong Cha, và Cha ở trong Con (14,10-11), thì Con cũng ở trong
loài người, và loài người phải ở trong Cha và trong Con (17,21. 23).
- kẻ ăn tôi, cũng sẽ nhờ tôi mà được sống (57): Bí tích Thánh Thể thông ban cho các tín hữu sự sống mà Chúa Con
nhận từ nơi Chúa Cha.
- chết (58):
Đây là cái chết thể lý đối lại với sự sống thiêng liêng.
4. - Ý nghĩa của bản văn
Trong tư cách là Con Thiên Chúa được Chúa Cha
sai đến, Đức Giêsu kêu gọi chúng ta hiệp thông vào sự sống với Người. Nếu chúng
ta tin vào Người, chúng ta được đi vào trong sự sống với Người, trong sự sống
vĩnh cửu. Ở đây Người giải thích cặn kẽ Người là bánh ban sự sống cho chúng ta
như thế nào: Trong cái chết trên thập giá, Người hiến mình cho thế gian được sống
và Người ban cho chúng ta thịt và máu Người làm của ăn của uống.
* Xác định đề tài (51)
Đề tài đã được xác định ở cc. 35 và 48, nay lại
được nhắc lại, nhưng mang ý nghĩa phong phú hơn, bởi vì đã được triển khai hai
đợt (cc. 35-47 và cc. 48-50). Khi nói “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai
ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời” (c. 51a), Đức Giêsu tóm ý nghĩa của dấu chỉ
hóa bánh ra nhiều. Chính bản thân Người là sức sống thiên quốc và thần linh,
tuyệt đối không thể cạn kiệt. Ai đi vào tương quan đúng đắn với Người thì được
thông phần vào sự sống muôn đời. Trong câu “Và bánh tôi sẽ ban tặng chính là
thịt tôi đây, để cho thế gian được sống” (c. 51b) chứa đựng những yếu tố sẽ
được triển khai sau này. Cho đến nay, các lời Đức Giêsu nói chỉ giới thiệu tổng
quát rằng Người là bánh ban sự sống; nhưng bây giờ Người nói rằng trong tương
lai, Người sẽ ban bánh. Bánh ấy chính là thịt Người, hoặc là chính bản thân
Người với trọn vẹn cuộc sống con người. Người đã đưa nhân tính của Người ra mà
phục vụ sự sống của thế giới, của tất cả mọi người không loại trừ ai.
* Thắc mắc của người Do Thái (52)
Người Do Thái bị vấp phạm nặng nề vì lời khẳng
định của Đức Giêsu: “Làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn thịt ông ta được?.”
Với mức độ Đức Giêsu mạc khải rõ ràng hơn, sự đối kháng cũng tăng theo. Lúc
đầu, còn là những xầm xì, nay đã trở thành tranh luận. Nếu cố gắng ép nghĩa,
thì cũng có thể hiểu lời khẳng định của Đức Giêsu theo nghĩa ẩn dụ: ăn và uống
đây chính là học hỏi Lề Luật. Nhưng dựa theo giọng điệu của Đức Giêsu, những
lời Người nói, người Do Thái đã hiểu rằng phải hiểu mọi sự theo nghĩa chữ. Và
theo họ, như thế là phi lý: “ăn thịt người” đã là một chuyện phi lý, lại còn
“ăn thịt” một kẻ tầm thường (houtos) như ông này! Chúng ta gặp lại một hiểu lầm
liên hệ đến các điểm trung tâm của Kitô học Gioan (x. 2,19-21; 7,33-36;
8,21-22; 12,32-34; 13,36-38; 14,4-6; 16,16-19).
* Triển khai đề tài (53-56)
Đức Giêsu đã dùng ngôn ngữ hiện thực, thậm chí
sống sượng (“ăn”, trôgein) để diễn tả tính hiện thực của bí tích Thánh Thể. Để
được thông phần vào sự sống muôn đời, cần phải ăn thịt Con Người và uống máu
Người. Cùng với thịt, bây giờ còn có máu nữa: Đức Giêsu nhắc đến chính cái chết
thảm khốc của Người trên thập giá, được tượng trưng bằng từ ngữ “máu.” Trong
bánh, là thịt Người, và trong rượu, là máu Người, Người sẽ ban tặng chính bản
thân Người như Đấng đã trao ban mạng sống trên thập giá. Các tặng phẩm Thánh
Thể có nền tảng là chính cái chết của Đức Giêsu trên thập giá, trong hành vi
Người hiến tặng mạng sống để cho thế gian được sống, như bằng chứng tối cao về
tình yêu của Thiên Chúa đối với loài người. Đức Giêsu, Đấng hiến mạng sống trên
thập giá, cũng ban thịt Người như là của ăn và máu Người như là của uống. Thịt
và máu này là mộtbằng chứng tối hậu về tình yêu của Người và là bảo chứng về
tình yêu mà Người chứng tỏ khi hy sinh mạng sống.
Ai lấy đức tin mà đón nhận quà tặng này, thì
cũng tuyên xưng Đấng Chịu Đóng Đinh với tình yêu của Người là nguồn mạch ban sự
sống, và sẽ được thông phần vào sự sống của Người, cũng là hiệp thông với
Người: “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người
ấy sống lại vào ngày sau hết” (c. 54). Một lần nữa, Đức Giêsu lại khẳng định rõ
ràng rằng sự sống đời đời và hiệp thông cá nhân với Người chỉ là một. Với người
nào ăn thịt và uống máu Người, Đức Giêsu hứa: “[Người ấy] được sống muôn đời (c.
54)” và “người ấy … ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy” (c. 56).”Ở
lại trong nhau” có nghĩa là trao đổi hỗ tương trọn vẹn và kết hợp với nhau chặt
chẽ nhất. Dụ ngôn Cây nho và các cành sẽ làm sáng tỏ ý nghĩa này hơn nữa (x. 15,1-17).
* Nền tảng của đề tài (57-58)
Chúa Cha chính là nguồn phát xuất ra mọi sự:
Ngài gửi Chúa Con đến với loài người như là “bánh ban sự sống” (6,32. 44),
nhưng cũng dẫn đưa loài người đến với Đức Giêsu trong tư cách là “bánh ban sự
sống” (cc. 37. 44. 65). Thiên Chúa là Cha “hằng sống”, là chính sự sống, là sức
sống viên mãn không bao giờ cạn kiệt, là Thiên Chúa hằng sống. Đức Giêsu được
sai phái đi bởi Chúa Cha và có sự sống bởi Chúa Cha; Người cũng có thể thông
ban sự sống thần linh. Bánh ban sự sống đến từ Chúa Cha hằng sống và nhận từ
Chúa Cha tất cả sức mạnh ban sự sống. Bởi vì Người phát xuất từ Chúa Cha hằng
sống, Đức Giêsu là bánh ban sự sống, là bánh từ trời xuống.
+ Kết luận
Đức Giêsu đã đến để cứu độ thế gian (Ga 3,17),
Người là Đấng “Cứu độ trần gian” (4,42). Người đã hy sinh chính mạng sống, để
đưa lại sự sống cho thế gian. Do đó, không ai bị loại trừ cả. Bí tích Thánh Thể
là bữa tiệc Thiên Chúa đặt để thết đãi loài người. Bàn thờ dâng lễ cũng chính
là bàn tiệc, nơi thịt và máu Đức Kitô được chuyển đến cho các thực khách làm
thức ăn thức uống. Mọi người đều được mời gọi đến bàn tiệc này. Lương thực là
chính Đức Giêsu, mà Người ban cho chúng ta, không được dùng để duy trì sự sống
trần gian hoặc ngăn cản cái chết thể lý. Chính Đức Giêsu cũng đã chết, khi trao
hiến thịt và máu trên thập giá. Nhưng cũng chính Người, là bánh ban sự sống, sẽ
ban sự sống muôn đời, sự sống này không mai một đi trong cái chết và sẽ được
viên mãn trong ngày sống lại.
5. - Gợi ý suy niệm
1. Nhận lấy Mình Máu thánh Đức Kitô, trước tiên
là nhận biết Chúa Cha là nguồn ban cho chúng ta ơn cao trọng ấy. Đức Giêsu đã
nhiều lần nói với chúng ta về Chúa Cha như về Đấng ban cho chúng ta tất cả mọi
sự. Chúa Cha sai Con đến với loài người như là “bánh ban sự sống” (Ga 6,32. 44),
nhưng Chúa Cha cũng dẫn đưa loài người đến với Đức Giêsu, “bánh ban sự sống”
(6,37. 44. 65). Đức Giêsu cũng nói về Chúa Cha: “Ý của Cha tôi là tất cả những
ai thấy người Con và tin vào người Con, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho
họ sống lại trong ngày sau hết” (6,40). Người cũng nói rằng tất cả những gì
Người ban như là ân huệ riêng, thì có nền tảng là chính Chúa Cha (6,57). Thiên
Chúa là Cha hằng sống, là chính sự sống, là sinh lực viên mãn. Như thế, khi đến
với Tiệc Thánh Thể, chúng ta cần nhớ rằng chính Chúa Cha đang dẫn chúng ta đến
để ban cho chúng ta lương thực là chính Con Một của Ngài.
2. Nếu chúng ta ăn thịt và uống máu Đức Giêsu,
chúng ta đón nhận các quà tặng của chính Người và tuyên xưng niềm tin rằng
Người hiện diện trong bánh và rượu đã được truyền phép và chỉ nhờ Người, Đấng
được giương cao và chịu đóng đinh, chúng ta mới có sự sống đời đời. Khi đó,
chúng ta cũng được mời gọi nhận ra rằng Thịt và Máu Người chính là bằng chứng
cao cả nhất về tình yêu của Chúa Cha và của chính Người đối với nhân loại, đồng
thời cũng là bảo chứng về sự sống đời mà Người muốn ban cho chúng ta.
3. Ăn thịt Đức Giêsu, hoặc ăn chính Đức Giêsu,
trong bí tích Thánh Thể, là cách thức duy nhất giúp tránh được tình trạng suy
nhược thiêng liêng và cái chết. Ăn Đức Kitô, chính là sống nhờ Đức Kitô. Nếu
chúng ta hiệp thông đều đặn vào sự sống của Người, chúng ta đã được đặt để
trong tình trạng ân phúc, và tình trạng này sẽ triển nở thành vinh quang trong
cuộc sống vĩnh cửu.
4. Đã hiệp thông vào thịt và máu Đức Kitô,
chúng ta trở thành “Đức Kitô toàn thể.” Do đó, chúng ta cũng phải trở thành
“lương thực” nuôi dưỡng anh chị em chúng ta. Mãi mãi chúng ta sẽ thấy mình bất
xứng, muốn co lại, khép kín trên chính mình, nên cứ phải để cho Đức Giêsu giúp
biết hy sinh hầu phục vụ sự sống của anh chị em mình.”Hồng ân Chúa Kitô và
Thánh Thần của Người mà chúng ta lãnh nhận trong việc hiệp lễ hoàn tất cách
sung mãn tuyệt vời những ước muốn hợp nhất huynh đệ đang ngự trị trong tâm hồn
con người, đồng thời nâng cao kinh nghiệm về tình huynh đệ trong việc tham dự
chung vào cùng mộtbàn tiệc Thánh Thể đến một mức độ vượt hẳn kinh nghiệm đồng
bàn đơn thường của con người” (Thông điệp Giáo Hội từ bí tích Thánh Thể, 24).
24. Chú giải của Noel Quesson
MÌNH VÀ MÁU ĐỨC KITÔ
Khác với ba Tin Mừng nhất lãm, thánh Gioan
không thuật lại việc thiết lập Thánh Thể, chiều ngày thứ năm Tuần Thánh. Nhưng
sau khi hoá bánh ra nhiều lúc Đức Giêsu phân phát lương thực trần gian cho
những người đói khổ, thánh sử đã đặt vào miệng Đức Giêsu một bài giảng dài về
“bánh hằng sống, bánh ban sự sống muôn đời”…
Theo một văn phong điểm hình của thánh Gioan,
trang Tin Mừng ngắn mà chúng ta đọc hôm nay chứa đựng năm từ –chìa khoá: ăn
(8 lần); uống (4 lần); thịt (5 lần); máu
(4 lần); sống (9 lần); phải để mình cuốn hút vào giọng nói có
nhiệu điệu ấy và dám vượt ra ngoài ngôn ngữ và ý tưởng trong sáng. Sự gặp gỡ
với mầu nhiệm Thiên Chúa không bao giờ ban cho người nào gắn chặt và bám víu
vào cái tri giác được, vào nhân tính và sự duy lý.
"Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống"
Bánh? Dẫu sao cũng là một vật rất đơn giản và
rất con người. Đối Với toàn bộ vùng duyên hải của biển Địa trung hải,
"bánh" (bánh mì) là lương thực căn bản, như khoai mì đối với châu Phi
và lúa gạo đối với châu A. Bánh cũng là biểu tượng cho sự sống. Ai không ăn
chẳng bao lâu sẽ chết và ai không ngon sẽ phải đến bác sĩ, vì đó là dấu hiệu có
cái gì không ổn cho sức khoẻ của mình.
Nhưng sau đó chúng ta được phóng lên trên những
từ ngữ của Đức Giêsu nói người là bánh lương thực nuôi sống. Hơn thế nữa Người
còn khẳng định rằng lương thực ấy thiêng liêng, từ trời xuống. Và đó là bánh
hằng sống! Vậy thì đó là một thứ bánh tra hỏi chúng ta về bản chất cái đói của
chúng ta. Đối với tôi sống có nghĩa là gì? Nếu tôi không muốn ăn Thánh Thể,
chứng bệnh thiếu máu nào rình chờ tôi? Tôi nuôi sống mình bằng gì? Phải chăng
bằng tài sản? Bằng lạc thú? Bằng tiêu thụ? Bằng lao động? Những sở thích tự
phát và sơ đẳng của tôi là gì?
“Ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời.”
Có nhiều trình độ sống khác nhau. Pascal đã nói
đến ba cấp độ của sự cao cả. Những sự cao cả của xác phàm, những sự cao cả của
tinh thần và sau cùng sự cao cả của thánh thiện; “gom tất cả thân thể lại,
người ta không thể làm ra một tư tưởng nhỏ; điều đó không thể làm được và tư
tưởng thuộc về một trật tự khác. Gom tất cả thân thể và tinh thần lại người ta
không thể rút ra một vận động của bác ái chân thật, điều đó không thể làm được
và bác ái thuộc về một trật tự khác: trật tự siêu nhiên.” (Tư tưởng 585). Dĩ
nhiên là có sự sống của thân thể, thuộc sinh học, đúng theo bản chất của nó là
đẹp và mong manh. Một nhãn hiệu quần dài vừa qua đã treo một biểu ngữ quảng cáo
với lý tưởng đó: "Bạn hãy để cho thân thể bạn phát biểu, người ta thấy
mình đang ở trình độ nào! nhưng đời sống thật của con người là đời sống trí
thức: chính tư tưởng phân biệt con người với thú vật. Và chúng ta còn có một
đời sống tâm linh: điều quan trọng lúc đó là yêu thương chân thật.
Đức Giêsu không ngừng nghĩ đến “đời sống thánh
thiêng, đời sống muôn đời" như Người nói.
“Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi
đây, để cho thế gian được sống.”
Những thánh sử khác dùng một từ khác: "Này
là mình Thầy.” Còn Gioan đã nói về sự nhập Thể đã sử dụng chữ “thịt” được dịch
ra tiếng Việt là ‘người phàm’.”Và Ngôi Lời đã trở thành người phàm" (Ga
1,14).”Đức Kitô đã đến và trở nên người phàm” (1 Ga 4,2). Gioan nhấn mạnh nhiều
trên tính hiện thực của Đức Giêsu: điều chúng tôi đã thấy tận mắt và tay chúng
tôi đã chạm đến (1 Ga 1,1).
Người phàm theo nghĩa Kinh Thánh, trước tiên
không phải là bản chất thể lý mà chúng ta còn Gọi là thịt, xác thịt; mà là toàn
bộ "hữu thể sống", là ngôi Vị trọn vẹn "Bánh tôi sẽ ban tặng,
chính là tôi, tất cả sự sống tôi.” Khi nói về "thịt tôi đây", như
trong câu này, Đức Giêsu ám chỉ đến cái chết của Người. Khái niệm này rất quan
trọng: Đức Giêsu phải đi qua cái chết để chúng ta được nuôi sống bởi Người. Người
phải đi qua cái chết chúng ta được sống.
Người Do Thái liền tranh luận sôi nổi với nhau.
Họ nói: "Làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn thịt ông ta được?”
Không phải chỉ ngày nay Thánh Thể bị từ chối. Ngay
từ ngày đầu tiên, người ta đã gào lên "điên rồ!" Ai bám víu vào sự
lĩnh hội ngay lập tức của các từ ngữ sẽ không thể đạt đến điều Đức Giêsu muốn
nói:
Đức Giêsu nói với họ: "Thật, tôi bảo thật
các ông: nếu các ông không ăn thịt và uống máu Con Người, các ông không có sự
sống nơi mình.”
Không nao núng. Đức Giêsu còn nói thêm! Người
không tìm cách để tránh gây thương tổn. Cho đến lúc này, Người chỉ nói
"ăn" thịt Người. Người nhấn mạnh thêm khi nói rằng phải
"uống" máu Người. Sự ám chỉ thịt và máu nhắc nhớ đến nghi thức hiến
tế chiên vượt qua nơi những người Do Thái. Đối với tâm thức của người Do Thái,
uống máu là một điều cấm kỵ, một sự cấm kỵ thiêng liêng; không chỉ không được
phép mà còn ghê tởm, phạm thánh. Ngay cả thịt các động vật phải để cho nhỏ hết
máu trước khi được ăn bởi vì máu là sự sống (Lv 17,11-14; Đnl 12,23).
Nhưng thực tại văn hóa ấy, mà từ “máu” chuyển
tải trong tư tưởng Thánh Kinh cho thấy rõ ràng không chỉ là thứ chất lỏng gồm
các hồng cầu và bạch cầu. Máu mà Đức Giêsu nói đến, chính là sự mới sẽ đến từ
cái chết của Người. Chúng ta chớ bao giờ quên rằng thực tại mầu nhiệm của Mình
và Máu mà chúng ta tiếp nhận chính là "thân thể vinh quang và thiêng liêng
của Đức Giêsu đã Chết và đã sống lại. Về vấn đề này, phải đọc lại sự khai triển
của Thánh Phaolô: "Cái người gieo không phải là hình thể sẽ mọc lên nhưng
là một hạt trơ trụi, như hạt lúa hay một thứ nào khác. Rồi Thiên Chúa cho nó
một hình thể như ý người muốn: Giống nào hình thể nấy. . . Việc kẻ chết sống
lại cũng vậy: gieo xuống thì hư nát. mà trỗi dậy thì bất diệt; gieo xuống thì
hèn hạ mà trỗi dậy thì vinh quang; gieo xuống thì yếu đuối mà trỗi dậy thì mạnh
mẽ, gieo xuống là thân thể có sinh khí, mà trỗi dậy là thân thể có sinh khí, mà
trỗi dậy là thân thể có thần khí. . .” (l Cô-rin-tô 15,37-42).
“Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn
đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết.”
Sự vượt qua phi thường của các từ ngữ mà chúng
ta được mời gọi trong đức tin, không nên làm cho chúng ta đi đến một ý nghĩa
chỉ thuốn là ẩn dụ hoặc làm dịu đi. Ở đây Gioan thình lình thay thế từ
"phagein", "ăn" mà ngài đã dùng cho đến lúc này. . . bằng
từ "trôgei” mang tính hiện thực nhiều hơn và có nghĩa là "nhai"!
Mọi bản dịch đều ngần ngại đi theo thánh sử tới đó! Tuy nhiên, ở đây chúng ta
có một ghi nhận văn hóa quan trọng: trong bữa vượt qua, con cái Israel được
khuyên bảo phải nhai kỹ thức ăn như để hấp thụ thức ăn ấy tốt hơn. Chính Đức
Giêsu ám chỉ đến tập tục đó. Và trong điều đó, không có gì là ma thuật; nhưng
là một sự tượng trưng sâu xa rất hiện thực và rất có ý nghĩa bởi vì đời sống
thiêng liêng của chúng ta được nuôi dưỡng và diễn tả bằng thân thể.
“Vì thịt tôi thật là của ăn và máu tôi thật là
của uống.”
Từ "thật" được lặp lại hai lần. Đức
Giêsu, nhất là trong Tin Mừng của Gioan không ngừng đi từ một thực tại hữu hình
đến một thực tại khác sâu la hơn. Con người khát vọng sự viên mãn. Điều mà con
người đã có kinh nghiệm về niệm vui tình yêu, sự sống làm cho con người ước mơ
niềm vui sau cùng, không phức tạp, một tình yêu hoàn toàn làm thỏa mãn, môt đời
sống không có sự chết. Lịch sử nhân loại là một lịch sự dài của những ước mơ bị
tước đoạt những khát vọng thất bại. Đức Giêsu dám đề nghị sự sống thật, lương
thực thật.
"Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại
trong tôi và tôi ở lại trong người ấy.”
Ở đây có một từ mà thánh Gioan hay dùng: ở
lại! Đề tài này sẽ còn được phát triển dài vào buổi chiều thứ Năm Tuần
Thánh, trong bài văn phúng dụ về cây nho:. . Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai
ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy thì người ấy sinh nhiều hoa trái
vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được" (Ga 15,5).
Một trong những lời tự phụ nhất mà một con
người bình thường không bao giờ phát biểu. Lời gây vấp ngã, nếu đó không phải
là lời của Thiên Chúa.
"Nhai thịt”; “uống máu"; khi Gioan
viết những lời nàỵ các Kitô hữu đã cử hành bữa ăn mầu nhiệm Thánh Thể, tức
thánh lễ. Thật vậy trong thánh lễ có hai dấu chỉ phân biệt: bánh, chất rắn phải
ăn; rượu nho, chất lỏng phải uống. Và có hai lời phân biệt: "Này là Mình
Thầy bị nộp" “Này là Máu Thầy đổ ra"
Thịt. . . Máu. . . Làm thế nào mà không nghĩ
đến cách cụ thể mà Đức Giêsu đã chết trên thập giá! Thánh lễ đưa chúng ta về
Gôn-gô-tha nghĩa là hy tế đổ máu của Đấng đã ban cho tất cả một cách tự do. Hiệp
thông với Đức Giêsu, không thể chỉ là một phần của phút trong đó chúng ta hiệp
nhất với Người. Điều đó cũng phải là toàn bộ thời gian và bề dày của đời sống
chúng ta mỗi ngày được hiến dâng tình yêu.
Và đó là “ở lại” trong Đức Giêsu.
Và đó là "sự sống" theo Đức Giêsu: sự
sống thật.
Sự hiệp lễ Thánh Thể chỉ có ý nghĩa khi nó biểu
lộ và nuôi dưỡng sự hiệp thông trong cuộc sống. Và một cách cụ thể của mỗi
người chúng ta biết rất rõ trong cuộc sống hàng ngày điều đó có ý nghĩa là gì.
"Như Chúa Cha là Đấng hằng sống đã sai tôi
và tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, thì kẻ ăn tôi cũng sẽ nhờ tôi mà được sống
như vậy.”
Đây là một trong những công thức cô đọng nhất
của tất cả Tin Mừng. Rõ ràng có vấn đề thần thánh hóa con người! Hình ảnh đồng
hóa lương thực nói lên nhiều điều!trong mọi chu kỳ của tự nhiên, luôn luôn hữu
thể lớp trên đồng hóa thân hữu thể của lớp dưới: thảo mộc biến đổi thành vật
chất vô cơ; thú vật biến đổi thành các thảo mộc mà nó ăn và con người là đỉnh
cao thấy rõ của sự biến đổi ấy mỗi ngày một hoàn thiện của sự sống. Tại sao sự
biến đổi lại dừng lại ở đó? Tại sao Thiên Chúa lại không đồng hóa chúng ta với
Người?
"Đây là bánh từ trời xuống không phải như
bánh tổ tiên các ông đã ăn và họ đã chết. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời.”
Sống! Sống dồi dào! Sống thánh thiêng. Chỉ thế
thôi Bạn có muốn như thế không? Bạn hãy đến với ngày lễ của sự sống đời đời. Thánh
Thể chiếm vị trí nào trong đời bạn? Bạn có đói khát Thiên Chúa không? Người ta
không ăn Thánh Thể như những người Do Thái ăn bánh man-na đi làm dịu cơn đói
của thể xác. Đây là một cơn đói thiêng liêng, xuyên qua một dấu chỉ của thể xác.