Ngày
4 tháng 1
1Ga 3, 7-10; Ga 1, 35-42
BÀI ĐỌC: 1Ga 3, 7-10
7 Hỡi anh em là những người con bé nhỏ, đừng
để ai làm cho anh em đi lạc đường. Ai sống công chính, kẻ ấy là người công
chính, như Đức Giê-su là Đấng Công Chính. 8 Ai
phạm tội, kẻ ấy là người của ma quỷ, vì ma quỷ phạm tội từ lúc khởi đầu. Sở dĩ
Con Thiên Chúa xuất hiện, là để phá huỷ công việc của ma quỷ. 9
Phàm ai đã được Thiên Chúa sinh ra thì không phạm tội, vì mầm sống
của Thiên Chúa ở lại trong người ấy, và người ấy không thể phạm tội, vì đã được
Thiên Chúa sinh ra. 10 Căn cứ vào điều này mà
người ta phân biệt con cái Thiên Chúa với con cái ma quỷ: phàm ai không sống
công chính thì không thuộc về Thiên Chúa; ai không yêu thương anh em mình, thì
cũng vậy.
ĐÁP CA: Tv 97
Đ.
Toàn cõi đất này đã xem thấy,
ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta. (c 3cd)
ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta. (c 3cd)
1
Hát
lên mừng CHÚA một bài ca mới, vì Người đã thực hiện bao kỳ công. Người chiến
thắng nhờ bàn tay hùng mạnh, nhờ cánh tay chí thánh của Người.
7 Gầm vang lên, hỡi biển cả cùng muôn hải vật, địa
cầu với toàn thể dân cư! 8 Sông lạch ơi, vỗ
tay đi nào, đồi núi hỡi, reo mừng trước tôn nhan CHÚA.
9 Vì Người ngự đến xét xử trần gian, Người xét xử
địa cầu theo đường công chính, xét xử muôn dân theo lẽ công bình.
TUNG HÔ TIN MỪNG: Dt
1, 1-2
Hall-Hall:
Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các
ngôn sứ; nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh
Tử. Hall.
TIN MỪNG: Ga 1, 35-42
35 Hôm ấy, ông Gio-an đang đứng với hai người
trong nhóm môn đệ của ông. 36 Thấy Đức Giê-su
đi ngang qua, ông lên tiếng nói: “Đây là Chiên Thiên Chúa.” 37
Hai môn đệ nghe ông nói, liền đi theo Đức Giê-su. 38
Đức Giê-su quay lại, thấy các ông đi theo mình, thì hỏi: “Các anh tìm
gì thế?” Họ đáp: “Thưa Ráp-bi (nghĩa là thưa Thầy), Thầy ở đâu?” 39 Người bảo họ: “Đến mà xem.” Họ đã đến xem chỗ
Người ở, và ở lại với Người ngày hôm ấy. Lúc đó vào khoảng giờ thứ mười. 40 Ông An-rê, anh ông Si-môn Phê-rô, là một trong
hai người đã nghe ông Gio-an nói và đi theo Đức Giê-su. 41
Trước hết, ông gặp em mình là ông Si-môn và nói: “Chúng tôi đã gặp
Đấng Mê-si-a” (nghĩa là Đấng Ki-tô). 42 Rồi
ông dẫn em mình đến gặp Đức Giê-su. Đức Giê-su nhìn ông Si-môn và nói: “Anh là
Si-môn, con ông Gio-an, anh sẽ được gọi là Kê-pha” (tức là Phê-rô). 43 Hôm sau, Đức Giê-su quyết định đi tới miền
Ga-li-lê. Người gặp ông Phi-líp-phê và nói: “Anh hãy theo tôi.” 44 Ông Phi-líp-phê là người Bết-xai-đa, cùng quê
với các ông An-rê và Phê-rô.
ƠN
CHÚA GỌI
Ơn
Chúa gọi là ơn Thiên triệu, đã là người ai cũng phải được ơn này để tiếp tay
với Chúa Giêsu triệu mời muôn dân về cùng tôn vinh Thiên Chúa. Dựa vào các Bài
đọc trong Thánh Lễ hôm nay giúp ta xác tín về ơn Thiên triệu của mình:
- Ơn Chúa gọi để tái tạo con người
nên hoàn hảo.
- Những việc phải làm để đáp lại ơn
Chúa gọi.
I. ƠN CHÚA GỌI ĐỂ TÁI TẠO CON NGƯỜI NÊN HOÀN HẢO.
Chương đầu tiên của Tin Mừng Gioan, ông muốn
nhấn mạnh Ngôi Lời Thiên Chúa là Lời sáng tạo, hay Ngôi Lời nhập thể để thực
hiện một tuần Sáng Thế Mới đưa vạn vật vào mục đích hiện hữu của nó, nhất là
làm cho con người trở nên con Thiên Chúa mà tập họp vạn vật cùng tôn vinh Đấng
sáng tạo dẫn dắt và bảo tồn muôn loài (x. Rm 8, 18t). Để làm nổi bật tuần Sáng
Thế Mới này, ta hãy so sánh với tuần Sáng Thế nguyên thủy:
·
Tác giả tuần Sáng Thế nguyên thủy, nhấn
mạnh Chúa sáng tạo vạn vật trong sáu ngày chỉ bằng một điệp khúc: “Chúa phán. . . , tức khắc vạn vật xuất hiện
rất tốt đẹp” (x. St 1).
·
Mở đầu tuần Sáng Thế Mới, thánh Gioan đã
xác quyết: “Ngôi Lời đã trở thành xương
thịt, làm người… không có Ngôi Lời chẳng có gì thành… do sự sung mãn của Ngài mà chúng ta lãnh nhận hết ơn này đến
ơn khác…” (Ga 1, 1-18)
Nếu so sánh St 1, 1-31 với Ga 1, 19-51, ta
thấy tiến trình của cuộc sáng tạo do Lời như sau:
-
Ngày I: St 1, 3-5: Chúa tạo dựng ánh
sáng
* Ga 1, 19-28: Người ta thắc mắc về
tính Thiên sai của ông Gioan Bt: “Ông có
phải là Đấng Kitô? Hay ông là Êlya? Hoặc là một ngôn sứ ư?” Thì ông Gioan
Bt đều chối không phải, và ông cho biết: “Đức
Kitô đến sau tôi, nhưng Ngài có trước tôi, tôi không đáng cởi quai dép cho Ngài”.
Sứ mệnh của ông Gioan Bt, được Đức Giêsu ví như cây đèn cháy sáng (x. Ga 5, 35),
nhưng vẫn thua xa Đức Giêsu là ánh sáng
Mặt Trời Công Chính soi cho kẻ ngồi trong bóng tối sự chết (x. Lc 1, 78-79).
Vậy
loài người được Chúa Giêsu là Mặt Trời Công Chính soi sáng dẫn dắt thoát bóng
tối sự chết, vượt xa ánh sáng Chúa tạo dựng vào ngày thứ nhất, chỉ phá tan u
minh.
-
Ngày II: St 1, 6-8: Chúa tạo dựng nước
* Ga 1, 29-34: Lúc ông Gioan Bt làm
phép rửa bằng nước cho Đức Giêsu, ông
giới thiệu Ngài cho nhân loại: “Đây là
Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa bỏ tội trần gian, Ngài là Đấng Thiên Chúa tuyển chọn”.
Vậy ai
tin Ngôi Lời là Thiên Chúa, thì phải thể hiện qua việc lãnh Bí Tích Thánh Tẩy
bằng nước, để tâm hồn được thanh tẩy. Đó là mục đích Chúa đã dựng nên nước vào
ngày thứ hai, vì chức năng của nước là thanh tẩy và phát sinh sự sống.
-
Ngày III: St 1, 9-13: Chúa dựng nên thảo
mộc: sự sống bắt đầu xuất hiện
* Ga 1, 35-39: Tin Mừng: Hai môn đệ
của ông Gioan Bt lưu lại với Đức Giêsu vào giờ thứ 10.
Giờ thứ 10: Đức Giêsu tắt thở
vào 3 giờ chiều (đối với người Do Thái là giờ thứ 9 – Mt 27, 40), thì giờ thứ
10 theo Do Thái, là 4 giờ chiều, tim Ngài bị đâm thủng, nước và máu dốc ra hết.
Đây là dòng suối cứu độ (x. Ed 47; Ga 19, 31-37). Ai tin nhận Chúa Giêsu là
Đấng cứu độ duy nhất (x. Cv 4, 12), khởi đi từ Bí Tích Thánh Tẩy, người ấy như
ngành nho dại tháp vào cây nho thật là Chúa Giêsu, để có một đời sống Thần linh trong Chúa Giêsu (x. Ga 15), hơn hẳn sự sống nơi thảo mộc.
Vậy ai
lưu lại trong Chúa Giêsu Thánh Thể, người ấy như hai môn đệ của ông Gioan Bt
lưu lại với Đức Giêsu vào giờ thứ 10. Người nào sống chân lý này, sẽ không còn
sống như loài thảo mộc Chúa đã dựng nên vào ngày thứ ba, vì họ đã trở nên cùng
một nguồn gốc, cùng một xương thịt, cùng một sự sống với Thiên Chúa (x. Dt 2, 11.
14; Ga 6, 557).
-
Ngày IV: St 1, 14-19: Thiên Chúa dựng nên tinh tú để soi sáng, người Do Thái hiểu tinh tú là các thần minh
* Ga 1, 40-42: Tin Mừng: Ông Anrê
dẫn em mình là ông Simôn đến gặp Đức Giêsu, được Ngài đổi tên Simôn thành Kêpha,
nghĩa là Đức Giêsu muốn cho ông Simôn được thông dự vào bản tính của Ngài, vì
Ngài là “Mặt Trời Công Chính soi sáng cho
những kẻ đang ngồi trong bóng tối sự chết hướng dẫn họ vào đường nẻo bình an”
(Lc 1, 78-79), Ngài còn là Đá góc tường, bị người ta thải loại (x. Mt 21, 42), sau
này ông Phêrô hiểu lý do Đức Giêsu đổi tên mình, nên ông nói với các tín hữu: “Anh em hãy tiến lại gần Đức Kitô, viên đá
sống động bị người ta loại bỏ, nhưng đã được Thiên Chúa chọn lựa và coi là quý
giá. Hãy để Thiên Chúa dùng anh em như những viên đá sống động mà xây nên ngôi
Đền Thờ thiêng liêng, và hãy để Thiên Chúa đặt anh em làm hàng tư tế thánh, dâng
những lễ tế thiêng liêng đẹp lòng Người, nhờ Đức Giêsu Kitô. Quả thật, có lời
Kinh Thánh chép: Này đây Ta đặt tại Xion một viên đá quý được lựa chọn, làm đá
tảng góc tường: kẻ tin vào đó sẽ không phải thất vọng” (1Pr 2, 4-6). Người như thế mới làm tròn sứ mệnh thủ
lãnh soi sáng dẫn dắt đồng loại đến
với Chúa Giêsu.
Vậy ai
được Chúa Giêsu ở cùng nhờ sống Bí Tích Khai Tâm, người ấy mới thực sự được
thông hiệp với Chúa Giêsu, nhất là nhờ có trái tim đón nhận Lời Chúa là ánh
sáng soi đường dẫn lối (x. Tv 119/118, 105), được Chúa Giêsu xác nhận: “Họ là
thần” (Ga 10, 34), nghĩa là được đồng danh với Thiên Chúa, thì quả thật người
ấy trổi vượt hơn tinh tú Chúa đã dựng nên vào ngày thứ tư, mà dân ngoại tin
tưởng đó là thần.
-
Ngày V: St 1, 20-23: Thiên Chúa dựng
nên động vật
* Ga 1, 43-44: Đức Giêsu bảo ông
Philíp: “Hãy theo Ta”. Chỉ có động vật mới di chuyển, và riêng chỉ có con
người mới ý thức ơn gọi di chuyển đi
theo Chúa Giêsu.
Vậy ai
đáp lại lời Đức Giêsu gọi “hãy theo Ta”, thì quả thật người ấy từ kiếp thú vật
(x. Gv 3, 18-19), được trở nên người giống Chúa Giêsu (x. 1Ga 3, 2), phẩm giá
trổi vượt hơn động vật Chúa đã dựng nên vào ngày thứ năm, chúng chỉ di chuyển
đi kiếm mồi.
-
Ngày VI: St 1, 26-31: Thiên Chúa dựng nên người là vợ chồng ông Ađam và bà Evà, và trao cho họ quyền làm chủ
vạn vật
* Ga 1, 45-51: Đức Giêsu biết ông
Nathanael khi ông “còn ngồi dưới gốc cây
vả, ” đây là người say mê sách Luật và dạy người khác, nhất là sau đó ông
đến với Đức Giêsu, được Ngài lên tiếng khen: “Đây là người Israel không có gì gian dối!” Và Ngài muốn “cưới” lấy những người như thế, nên Ngài mới nói:
“Các
ngươi đã thấy các thiên thần lên
xuống trên Con Người” (x. Ga 1, 45-51). Ở đây Đức Giêsu ví Ngài như ông
Giacob đi tìm cô nàng vừa ý để kết duyên, trên đường đi ông lấy cục đá gối đầu nằm
ngủ, trong giấc chiêm bao “Đức Chúa đứng
bên trên thang mà phán: “Ta là Đức Chúa, Thiên Chúa của Áp-ra-ham, tổ phụ ngươi,
và là Thiên Chúa của I-xa-ác. Đất ngươi đang nằm, Ta sẽ ban cho ngươi và dòng
dõi ngươi. Dòng dõi ngươi sẽ nhiều như bụi trên đất; ngươi sẽ lan tràn ra khắp
đông tây nam bắc. Nhờ ngươi và dòng dõi ngươi, mọi gia tộc trên mặt đất sẽ được
chúc phúc. Này Ta ở với ngươi; ngươi đi bất cứ nơi nào, Ta sẽ giữ gìn ngươi, và
Ta sẽ đưa ngươi về đất này, vì Ta sẽ không bỏ ngươi cho đến khi Ta hoàn thành
điều Ta đã phán với ngươi.” (St 28, 13-15).
Tình
yêu cao cả tuyệt vời nhất Chúa chỉ dành cho con người trong mối tình phu thê. Nhưng
Chúa Giêsu chỉ “cưới” lấy những ai có tâm hồn nghe Lời Chúa và loan báo cho
đồng loại, rồi cùng động viên nhau đến kết hợp với Chúa Giêsu Thánh Thể, thì
được tha hết mọi tội lỗi, như Đức Giêsu nói với ông Nathanael, khi ông đến với
Ngài: “Đây là người Israel, nơi ông không có gì gian dối!” Mối tình này vượt xa
vợ chồng Adam, Eva được Chúa dựng nên vào ngày thứ sáu, họ đã bất trung với
Chúa, đắm chìm trong tội lỗi!
II. NGƯỜI KITÔ HỮU PHẢI ĐÁP LẠI ƠN CHÚA GỌI.
Không có cách nào
người Kitô hữu đáp lại ơn Thiên triệu bằng việc hiệp dâng Thánh Lễ. Bởi vì chỉ
qua Phụng Vụ của Hội Thánh ta mới được trực tiếp nghe Lời Chúa Giêsu, đúng như
lời tác giả thư Do Thái nói: “Thuở xưa, nhiều
lần nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ; nhưng
vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử” (Dt 1, 1-2:
Tung Hô Tin Mừng).
Thực vậy, hình ảnh
ông Anrê lưu lại với Chúa Giêsu vào giờ thứ 10, giờ Đức Giêsu hiến tế trên thập
giá, thì ông mới nhận ra Ngài là Cứu Chúa của mình.
Bất cứ ai đã thuộc về
Đức Kitô, thì phải sống công chính như Tông Đồ Gioan đã nói với các tín hữu: “Hỡi anh em là những người con bé nhỏ, đừng
để ai làm cho anh em đi lạc đường. Ai sống công chính, kẻ ấy là người công
chính, như Đức Giêsu là Đấng Công Chính. Ai phạm tội, kẻ ấy là người của ma quỷ,
vì ma quỷ phạm tội từ lúc khởi đầu. Sở dĩ Con Thiên Chúa xuất hiện, là để phá
huỷ công việc của ma quỷ. Phàm ai đã được Thiên Chúa sinh ra thì không phạm tội,
vì mầm sống của Thiên Chúa ở lại trong người ấy, và người ấy không thể phạm tội,
vì đã được Thiên Chúa sinh ra” (1Ga 3, 7-9: Bài đọc).
“Người
Kitô hữu đã được sinh ra bởi Thiên Chúa, vì có mầm sống Thiên Chúa ở trong họ, thì
họ không thể phạm tội”. Chính vì thế mà Giáo Lý của Hội Thánh dạy: “Việc rước Lễ giúp ta xa lánh tội lỗi. Chúng
ta rước lấy Mình Chúa Kitô “đã phó nộp vì chúng ta”, và Máu “đã đổ ra cho mọi
người được tha tội. Vì thế Bí Tích Thánh Thể không thể kết hợp chúng ta với
Chúa Kitô, nếu không thanh tẩy chúng ta khỏi tội đã phạm và giúp chúng ta xa
lánh tội lỗi” (x. GL Roma số 1393). Chỉ có những người được Chúa thương cứu
độ như thế mới cất lời tuyên xưng Đức Tin: “Toàn
cõi đất này đã xem thấy, ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta” (Tv 98/97, 3cd:
Đáp ca).
THUỘC LÒNG
Phàm ai đã được Thiên Chúa sinh ra thì
không phạm tội, vì mầm sống của Thiên Chúa ở lại trong người ấy, và người ấy
không thể phạm tội, vì đã được Thiên Chúa sinh ra
(1Ga 3, 9).
Lm GIUSE ĐINH QUANG THỊNH