Các bài suy niệm
LỄ THÁNH GIA - Năm A
LỄ THÁNH GIA - Năm A
1. Ba khuôn mặt
Mừng lễ Thánh Gia, chúng ta hãy nhìn vào thánh Giuse, Mẹ Maria
và Chúa Giêsu để rồi từ đó rút ra những bài học cụ thể cho bản thân mình.
Trước hết là thánh Giuse.
Ngài là cột trụ của gia đình. Thánh Kinh đã mô tả Ngài như một
người công chính, luôn sống theo lề luật và thực thi thánh ý Thiên Chúa. Còn gì
đau khổ cho bằng một người chồng thấy vợ mang thai không do hành vi của mình.
Nhưng một khi biết được là thánh ý Thiên Chúa, Ngài đã cúi đầu vâng theo. Ngài
đã tuân hành chiếu chỉ của César Augustô lên đường xuống Bêlem đăng ký nhân hộ
khẩu. Ngài đã tuân phục lệnh truyền của sứ thần đem Hài Nhi Giêsu trốn sang Ai
CẬp với bao nhiêu vất vả và khó khăn nơi đất khách quê người. Ngài đã noi giữ
mọi lề luật: dâng con vào đền thờ và hằng năm lên Giêrusalem dự những lễ lớn.
Suốt những năm tháng tại Nadarét, Ngài đã cặm cụi lao động sản xuất để nuôi
sống gia đình.
Ước chi những người cha biết noi gương Ngài: Bình tĩnh trước
những biến cố để nhận ra thánh ý Thiên Chúa. Nhẫn nại làm việc để bảo đảm đời
sống vật chất cho gia đình mình.
Tiếp đến là Đức Maria.
Mẹ đã chu toàn bổn phận của một người nội trợ, lo lắng chuyện
bếp núc. Mẹ cũng đã chu toàn bổn phận một người vợ, luôn vâng phục thánh Giuse,
và sau cùng Mẹ cũng đã chu toàn bổn phận của một người mẹ, luôn chăm sóc và lo
lắng đến con mình là trẻ nhỏ Giêsu.
Ước chi những người mẹ biết noi gương Mẹ: Sẵn sàng tha thứ vì
một sự nhịn là chín sự lành. Sẵn sàng lấy tình thương mà giáo dục con cái, vì
con hư tại mẹ cháu hư tại bà. Sở dĩ như vậy vì người mẹ thường gần gũi với con
cái hơn người cha, nên có một ảnh hưởng to lớn. Hãy giáo dục chúng trở thành
những công dân tốt và những tín hữu trung kiên với Chúa.
Và sau cùng là Chúa Giêsu.
Mặc dù là Thiên Chúa, Ngài đã hạ mình xuống vâng phục và đón
nhận những lời chỉ bảo của Mẹ Maria và thánh Giuse. Trong Thánh Gia có một sự
đảo lộn đáng cho chúng ta suy nghĩ: Trước mặt người đời thì thánh Giuse là chủ,
rồi đến Mẹ Maria và sau cùng là Chúa Giêsu. Nhưng trước mặt Thiên Chúa, thì
trước hết là Chúa Giêsu, rồi đến Mẹ Maria, và sau cùng là thánh Giuse. Thế
nhưng, Chúa Giêsu vẫn vui vẻ vâng lời hai đấng.
Ước chi những người con biết noi gương Chúa Giêsu, vâng theo
những lời chỉ bảo của mẹ cha, vì cá không ăn muối cá ươn, con cưỡng cha mẹ trăm
đường con hư. Sở dĩ như vậy, vì khi dạy bảo, cha mẹ luôn yêu thương chúng ta và
mong muốn chúng ta nên người.
Trong thánh lễ ngày hôm nay, chúng ta hãy cầu xin cho mỗi người
chúng ta biết chu toàn những bổn phận trong gia đình, để gia đình của chúng ta
sẽ là một mái ấm ngập tràn yêu thương và hạnh phúc.
2. Những Hêrôđê thời nay
Đoạn Tin Mừng sáng hôm nay kể lại câu chuyện thánh Giuse đem
Chúa Giêsu trốn sang Ai Cập, để thoát khỏi sự bách hại của Hêrôđê và sau đó
quay về Israel. Đặt bối cảnh câu chuyện trên trong Chúa nhật lễ Thánh Gia,
chúng ta có thể hiểu đây là một lời nhắc nhở đến bổn phận của người làm cha làm
mẹ đối với con cái.
Quả thực là ngày nay, không còn có những Hêrôđê dám công khai ra
lệnh tru diệt hàng loạt trẻ nhỏ, những hình ảnh gần gũi nhất với Chúa. Nhưng
nói thế không có nghĩa là không còn những Hêrôđê hiện đại tàn ác có khi còn hơn
cả ngày xưa nữa. Không kể đến những Hêrôđê chuyên giết chết trẻ em ở Brasil,
những Hêrôđê chuyên bắt cóc trẻ em để bán làm mãi dâm ở Bangkok... trong cuộc
sống thường ngày, vẫn có thể có những Hêrôđê đang rình rập để phá hoại trẻ em:
Một nền văn hoá không lành mạnh, với những phim ảnh, sách vở và báo chí khiêu
dâm, một xã hội thiếu những giá trị đạo đức, luôn cổ võ cho bạo lực, khủng bố.
Ngay trong bầu khí gia đình, những Hêrôđê thời nay có thể là
chính những người cha, những người mẹ đã tàn nhẫn giết chết con mình từ trong
trứng nước bằng những hành động ngừa thai và phá thai mà mỗi ngày một gia tăng.
Những Hêrôđê thời nay có thể là những người cha, những người mẹ
đã không biết nhường nhịn chịu đựng lẫn nhau, để rồi đã phá huỷ bầu khí gia
đình bằng cách ly dị, đẩy con cái vào chốn bơ vơ lạc lõng.
Những Hêrôđê thời nay có thể là những người cha, những người mẹ
không sống gương mẫu, dù chỉ là một hành vi nhỏ mọn, cũng có thể tác hại đến
con cái của mình, ít nữa là về phương diện tinh thần. Không phải chỉ khi nào
làm các em đau đớn về thể xác hay tinh thần, mà ngay cả khi nuông chiều một
cách thái quá và vô lý... cũng đã là một cách đẩy các em vào chỗ chết. Và trong
cuộc sống hiện nay không thiếu những trường hợp như thế, để cuối cùng các em
trở thành những tội phạm.
Vì thế, thái độ tỉnh táo của thánh Giuse trước cuộc sống để bảo
vệ Hài nhi Giêsu vẫn là tấm gương cho các bậc phụ huynh noi theo trong việc
chăm sóc và giáo dục con cái mình.
Lập trường của Chúa Giêsu trong vấn đề này thật là quyết liệt
như chúng ta đã từng thấy Ngài tuyên bố: Ai làm gương mù gương xấu cho một
trong những trẻ này, thì thà cột cối đá vào cổ nó mà quăng xuống biển còn hơn.
Hãy cần xin Chúa cho mỗi người chúng ta biết ý thức và chu toàn
bổn phận giáo dục con cái, để gia đình chúng ta có được một bầu khí yêu thương
và đạo đức như Thánh Gia ngày xưa.
3. Gia đình cộng đoàn yêu thương
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Vào năm 1990, cậu bé siêu sao màn ảnh Macaulay Culkin nổi
bật với bộ phim “Ở nhà một mình” (Home Alone). Bộ phim này với doanh thu hơn
500 triệu đô la. Bố mẹ cậu Macaulay Culkin từng đi làm kiếm sống. Ông Culkin là
ông từ tại một nhà thờ ở NewYork; bà Patrica Bentrup là một nhân viên trực điện
thoại. Với số tiền lớn do cậu con mang về, hai ông bà liền bỏ việc, ở nhà làm
chủ những món tiền mà tài năng của cậu nhỏ còn hứa hẹn nhiều.
Nhưng kể từ khi hai ông bà ở nhà, mái ấm gia đình trở thành
bất ổn. Bố mẹ Macaulay Culkin thường xuyên gây gổ với nhau tới mức bà Patrica
tố cáo chồng “rượu chè be bét, xúc phạm tình dục quá đáng và bội tín.”
Bắt đầu đóng phim từ tuổi lên tám, năm nay Macaulay Culkin
đã 15 tuổi. Buồn nản và cô độc trong gia đình, cậu thường tìm giải khuây trong
những bữa tiệc vô độ và ở những hộp đêm. Hậu quả là sự nghiệp của ngôi sao đang
lên này đã khựng lại. Ba bộ phim gần đây do cậu thủ vai chính hoàn toàn không
đạt được thành công như những bộ phim ban đầu.
Anh chị em thân mến,
Gia đình là một tổ ấm khi vợ chồng biết quảng đại hy sinh cho
nhau và cho con cái, mặc dù đời sống kinh tế có khi còn chật vật khó khăn.
Nhưng một khi gia đình để cho tiền của chi phối, tổ ấm sẽ bị xáo trộn đưa đến
ích kỷ, đổ vỡ và chia ly, điển hình là tổ ấm của gia đình của cậu Macaulay
Culkin. Cho hay rằng, tiền của không làm nên hạnh phúc gia đình. Chính tình yêu
quảng đại mới tạo nên hạnh phúc cho gia đình.
Trong một thời gian dài, ở Âu Mỹ, người ta đã lãng quên những
giá trị gia đình. Người ta nói nhiều đến tự do cá nhân, đề cao việc nhập thể và
cuộc giải phóng con người. Dựa vào tự do cá nhân, những luật lệ và quy định tự
do của mình, Âu Mỹ đang tách ly tình dục khỏi tình yêu, tình yêu khỏi hôn nhân,
hôn nhân khỏi việc sinh con, và việc sinh con khỏi trách nhiệm đối với Chúa.
Hậu quả là ở Mỹ hiện nay con số những đứa con sinh ngoài hôn nhân lên tới 30%.
Ở Anh cũng có đến 30% trẻ con sinh ngoài gia đình, hơn nữa, 20% trẻ em chỉ sống
với cha hoặc mẹ và 40% cuộc hôn nhân kết thúc bằng ly dị. Và tình trạng trẻ em
trong các gia đình đổ vỡ này thường có xu hướng chán đời, dễ bệnh hoạn, học
kém, dễ bị lôi cuốn vào tội ác hơn, rồi cuối cùng chính chúng sẽ lập lại chu
trình gia đình đổ vỡ mà chúng từng là nạn nhân. Thật không một xã hội nào có
thể tồn tại nếu nó dành cho trẻ em quá ít sự an toàn, sự chăm sóc và tình yêu.
Bức tranh ảm đạm này hiện đang lởn vởn đe doạ phần còn lại của thế giới đang
phát triển, trong đó có đất nước chúng ta.
Thử hỏi bối cảnh không mấy tốt đẹp của gia đình ở nhiều nơi trên
thế giới hiện nay. Lễ Kính Thánh Gia nói gì với các thành viên của gia đình về
những giá trị mà Tin Mừng luôn đề cao?
Chúa Giêsu đã sinh ra trong một gia đình, mà lại là một gia đình
nghèo ngài cũng có cha mẹ như bao trẻ em khác. Cha mẹ Ngài cũng là những người
lao động phải sống bằng mồ hôi nước mắt như hầu hết các gia đình khác. Là Thiên
Chúa, Ngài đã đến với loài người như một con trẻ bé bỏng, cần đến sự đùm bọc, che
chở của những người thân. Cũng như bao trẻ em khác, Ngài cũng bị những biến cố
lớn nhỏ của gia đình và xã hội chi phối, đưa đẩy, ảnh hưởng.
Rồi những năm thơ ấu, những thời kỳ niên thiếu và thanh niên,
Chúa Giêsu đã sống bên cạnh Đức Maria, Mẹ Ngài, và Thánh Giuse, cha nuôi Ngài.
Ngài cũng đã phải tập đi, tập nói, tập đọc, tập viết. Ngài cũng đã phải học
Thánh Kinh, Lề Luật. Ngài cũng đã phải tập lao động với những dụng cụ như cưa,
bào, đục… trên những khúc cây, tấm ván. Ba mươi năm tại Nazarét là một chuỗi
ngày bình dị như hàng trăm gia đình cùng thôn cùng làng, như hàng triệu cuộc
sống của con người qua các thời đại.
Trong phụng vụ Lời Chúa hôm nay, bài sách Huấn Ca nhấn mạnh đến
lòng hiếu thảo của người con đối cha mẹ trong gia đình, khiến chúng ta dễ dàng
hình dung ra cách sống của Con Thiên Chúa làm người dưới mái ấm gia đình
Nazarét. Bài Tin Mừng nhắc đến vai trò đặc biệt của Thánh Giuse trong sứ mạng
bảo vệ, che chở, dưỡng nuôi Chúa Cứu Thế, và Thánh Giuse đã chu toàn vai trò đó
một cách khiêm tốn nhưng anh dũng, không quản ngại hy sinh gian khó. Ở đây, vai
trò của Đức Maria xem ra rất khiêm tốn, đúng với cung cách khiêm nhu của người
“Nữ tỳ của Chúa.” Còn bài đọc 2 là lời nhắn nhủ của Thánh Phaolô về mối quan hệ
giữa những người được Chúa yêu thương, tuyển chọn sống thành gia đình của Thiên
Chúa: đó là lòng từ bi, nhân hậu, là khiêm cung, ôn hòa, là nhẫn nại chịu đựng,
chấp nhận nhau và tha thứ cho nhau. Gia đình của Chúa Giêsu, Mẹ Maria và Thánh
Giuse là một gia đình đã sống trọn vẹn hơn ai hết tinh thần ấy, vì các ngài đều
là những “tôi tớ của Thiên Chúa” trong ý nghĩa là mỗi vị và cộng đoàn ba vị,
đều lãnh nhận từ Thiên Chúa một sứ mạng đặc biệt. Gia đình Nazarét là gương
mẫu, là lời mời gọi đến với mỗi người chúng ta trong các gia đình Công giáo ngày
nay.
Thưa anh chị em, gia đình là cái nôi đầu tiên đón tiếp con người
và cung cấp cho con người những điều kiện cần thiết của cuộc sống và hạnh phúc.
Trong gia đình, một trẻ thơ khám phá dần dần mối tương quan với thế giới chung
quanh, nhận lãnh sự giáo dục đầy trìu mến của cha mẹ và những người thân
thương. Đối với Kitô hữu, gia đình còn là một cộng đoàn yêu thương phản ánh
cộng đoàn của Thiên Chúa, theo gương mẫu Thánh Gia Nazarét. Sứ mạng thật cao
cả, nên trách nhiệm thật lớn lao của các bậc làm cha làm mẹ. Chức năng nhiệm vụ
vừa cao cả vừa nặng nề ấy gia đình chỉ có thể hoàn thành nếu biết sống theo
tinh thần và tâm tình của Thiên Chúa: Đó là yêu thương và tha thứ. Đó là quy
luật trọng yếu trong mối quan hệ giữa vợ chồng, giữa con cái và cha mẹ. Vì trong
đời sống gia đình, con người có đầy đủ những dữ kiện để biến cuộc sống gia đình
thành thiên đàng hoặc hỏa ngục trần gian.
Cuộc sống gia đình tạo cho chúng ta những cơ hội quý báu để thực
hiện tinh thần yêu thương quên mình, mưu tìm hạnh phúc cho người khác. Cuộc
sống gia đình luôn đòi chúng ta phải dẹp bỏ ý riêng mình, quan điểm riêng của
mình, để tôn trọng và giúp đỡ người thân của mình phát triển về mọi mặt. Do
tình hình khác nhau, giáo dục và truyền thống khác nhau, tuổi tác khác nhau, sở
thích khác nhau, nên chuyện xung đột là đương nhiên không thể tránh được giữa
vợ chồng, giữa cha mẹ con cái. Muốn vượt qua những xung đột, những căng thẳng
ấy, mỗi người –dù vợ hay chồng, dù là con cái hay cha mẹ– đều phải thấm nhuần
tinh thần phục vụ của Chúa Kitô: “Tôi đến để phục vụ, chứ không để được phục vụ.” “Ai muốn làm đầu, thì hãy làm tôi tớ
phục vụ mọi người” (Lc 22,26).
Anh chị em thân mến, Con Thiên Chúa làm người đã sống trong một
gia đình để nói lên sự cao trọng của cộng đoàn gia đình. Nhưng thực tế chúng ta
còn chứng kiến cảnh những gia đình tan vỡ và cảnh những gia đình không hội đủ
điều kiện về kinh tế, tài chánh, văn hóa để những người trong đó sống cho ra
người, để con cái được giáo dục nên người hữu ích cho xã hội. Là môn đệ Chúa
Kitô, chúng ta có trách nhiệm nặng nề trong việc xây dựng gia đình của chúng ta
và giúp các gia đình khác có đủ điều kiện vật chất, tinh thần để sống phù hợp
với chức năng của con người, xứng với phẩm giá con người là con cái của Thiên
Chúa, là anh em trong đại gia đình của Cha trên trời.
4. Gia đình cộng đoàn yêu thương
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Vào năm 1990, cậu bé siêu sao màn ảnh Macaulay Culkin nổi
bật với bộ phim “Ở nhà một mình” (Home Alone). Bộ phim này với doanh thu hơn
500 triệu đô la. Bố mẹ cậu Macaulay Culkin từng đi làm kiếm sống. Ông Culkin là
ông từ tại một nhà thờ ở NewYork; bà Patrica Bentrup là một nhân viên trực điện
thoại. Với số tiền lớn do cậu con mang về, hai ông bà liền bỏ việc, ở nhà làm
chủ những món tiền mà tài năng của cậu nhỏ còn hứa hẹn nhiều.
Nhưng kể từ khi hai ông bà ở nhà, mái ấm gia đình trở thành
bất ổn. Bố mẹ Macaulay Culkin thường xuyên gây gổ với nhau tới mức bà Patrica
tố cáo chồng “rượu chè be bét, xúc phạm tình dục quá đáng và bội tín.”
Bắt đầu đóng phim từ tuổi lên tám, năm nay Macaulay Culkin
đã 15 tuổi. Buồn nản và cô độc trong gia đình, cậu thường tìm giải khuây trong
những bữa tiệc vô độ và ở những hộp đêm. Hậu quả là sự nghiệp của ngôi sao đang
lên này đã khựng lại. Ba bộ phim gần đây do cậu thủ vai chính hoàn toàn không
đạt được thành công như những bộ phim ban đầu.
Anh chị em thân mến,
Gia đình là một tổ ấm khi vợ chồng biết quảng đại hy sinh cho
nhau và cho con cái, mặc dù đời sống kinh tế có khi còn chật vật khó khăn.
Nhưng một khi gia đình để cho tiền của chi phối, tổ ấm sẽ bị xáo trộn đưa đến
ích kỷ, đổ vỡ và chia ly, điển hình là tổ ấm của gia đình của cậu Macaulay
Culkin. Cho hay rằng, tiền của không làm nên hạnh phúc gia đình. Chính tình yêu
quảng đại mới tạo nên hạnh phúc cho gia đình.
Trong một thời gian dài, ở Âu Mỹ, người ta đã lãng quên những
giá trị gia đình. Người ta nói nhiều đến tự do cá nhân, đề cao việc nhập thể và
cuộc giải phóng con người. Dựa vào tự do cá nhân, những luật lệ và quy định tự
do của mình, Âu Mỹ đang tách ly tình dục khỏi tình yêu, tình yêu khỏi hôn nhân,
hôn nhân khỏi việc sinh con, và việc sinh con khỏi trách nhiệm đối với Chúa.
Hậu quả là ở Mỹ hiện nay con số những đứa con sinh ngoài hôn nhân lên tới 30%.
Ở Anh cũng có đến 30% trẻ con sinh ngoài gia đình, hơn nữa, 20% trẻ em chỉ sống
với cha hoặc mẹ và 40% cuộc hôn nhân kết thúc bằng ly dị. Và tình trạng trẻ em
trong các gia đình đổ vỡ này thường có xu hướng chán đời, dễ bệnh hoạn, học
kém, dễ bị lôi cuốn vào tội ác hơn, rồi cuối cùng chính chúng sẽ lập lại chu
trình gia đình đổ vỡ mà chúng từng là nạn nhân. Thật không một xã hội nào có
thể tồn tại nếu nó dành cho trẻ em quá ít sự an toàn, sự chăm sóc và tình yêu.
Bức tranh ảm đạm này hiện đang lởn vởn đe doạ phần còn lại của thế giới đang
phát triển, trong đó có đất nước chúng ta.
Thử hỏi bối cảnh không mấy tốt đẹp của gia đình ở nhiều nơi trên
thế giới hiện nay. Lễ Kính Thánh Gia nói gì với các thành viên của gia đình về
những giá trị mà Tin Mừng luôn đề cao?
Chúa Giêsu đã sinh ra trong một gia đình, mà lại là một gia đình
nghèo ngài cũng có cha mẹ như bao trẻ em khác. Cha mẹ Ngài cũng là những người
lao động phải sống bằng mồ hôi nước mắt như hầu hết các gia đình khác. Là Thiên
Chúa, Ngài đã đến với loài người như một con trẻ bé bỏng, cần đến sự đùm bọc,
che chở của những người thân. Cũng như bao trẻ em khác, Ngài cũng bị những biến
cố lớn nhỏ của gia đình và xã hội chi phối, đưa đẩy, ảnh hưởng.
Rồi những năm thơ ấu, những thời kỳ niên thiếu và thanh niên,
Chúa Giêsu đã sống bên cạnh Đức Maria, Mẹ Ngài, và Thánh Giuse, cha nuôi Ngài.
Ngài cũng đã phải tập đi, tập nói, tập đọc, tập viết. Ngài cũng đã phải học
Thánh Kinh, Lề Luật. Ngài cũng đã phải tập lao động với những dụng cụ như cưa,
bào, đục… trên những khúc cây, tấm ván. Ba mươi năm tại Nazarét là một chuỗi
ngày bình dị như hàng trăm gia đình cùng thôn cùng làng, như hàng triệu cuộc
sống của con người qua các thời đại.
Trong phụng vụ Lời Chúa hôm nay, bài sách Huấn Ca nhấn mạnh đến
lòng hiếu thảo của người con đối cha mẹ trong gia đình, khiến chúng ta dễ dàng
hình dung ra cách sống của Con Thiên Chúa làm người dưới mái ấm gia đình
Nazarét. Bài Tin Mừng nhắc đến vai trò đặc biệt của Thánh Giuse trong sứ mạng
bảo vệ, che chở, dưỡng nuôi Chúa Cứu Thế, và Thánh Giuse đã chu toàn vai trò đó
một cách khiêm tốn nhưng anh dũng, không quản ngại hy sinh gian khó. Ở đây, vai
trò của Đức Maria xem ra rất khiêm tốn, đúng với cung cách khiêm nhu của người
“Nữ tỳ của Chúa.” Còn bài đọc 2 là lời nhắn nhủ của Thánh Phaolô về mối quan hệ
giữa những người được Chúa yêu thương, tuyển chọn sống thành gia đình của Thiên
Chúa: đó là lòng từ bi, nhân hậu, là khiêm cung, ôn hòa, là nhẫn nại chịu đựng,
chấp nhận nhau và tha thứ cho nhau. Gia đình của Chúa Giêsu, Mẹ Maria và Thánh
Giuse là một gia đình đã sống trọn vẹn hơn ai hết tinh thần ấy, vì các ngài đều
là những “tôi tớ của Thiên Chúa” trong ý nghĩa là mỗi vị và cộng đoàn ba vị,
đều lãnh nhận từ Thiên Chúa một sứ mạng đặc biệt. Gia đình Nazarét là gương
mẫu, là lời mời gọi đến với mỗi người chúng ta trong các gia đình Công giáo
ngày nay.
Thưa anh chị em, gia đình là cái nôi đầu tiên đón tiếp con người
và cung cấp cho con người những điều kiện cần thiết của cuộc sống và hạnh phúc.
Trong gia đình, một trẻ thơ khám phá dần dần mối tương quan với thế giới chung
quanh, nhận lãnh sự giáo dục đầy trìu mến của cha mẹ và những người thân
thương. Đối với Kitô hữu, gia đình còn là một cộng đoàn yêu thương phản ánh
cộng đoàn của Thiên Chúa, theo gương mẫu Thánh Gia Nazarét. Sứ mạng thật cao
cả, nên trách nhiệm thật lớn lao của các bậc làm cha làm mẹ. Chức năng nhiệm vụ
vừa cao cả vừa nặng nề ấy gia đình chỉ có thể hoàn thành nếu biết sống theo
tinh thần và tâm tình của Thiên Chúa: Đó là yêu thương và tha thứ. Đó là quy
luật trọng yếu trong mối quan hệ giữa vợ chồng, giữa con cái và cha mẹ. Vì
trong đời sống gia đình, con người có đầy đủ những dữ kiện để biến cuộc sống
gia đình thành thiên đàng hoặc hỏa ngục trần gian.
Cuộc sống gia đình tạo cho chúng ta những cơ hội quý báu để thực
hiện tinh thần yêu thương quên mình, mưu tìm hạnh phúc cho người khác. Cuộc
sống gia đình luôn đòi chúng ta phải dẹp bỏ ý riêng mình, quan điểm riêng của
mình, để tôn trọng và giúp đỡ người thân của mình phát triển về mọi mặt. Do
tình hình khác nhau, giáo dục và truyền thống khác nhau, tuổi tác khác nhau, sở
thích khác nhau, nên chuyện xung đột là đương nhiên không thể tránh được giữa
vợ chồng, giữa cha mẹ con cái. Muốn vượt qua những xung đột, những căng thẳng
ấy, mỗi người –dù vợ hay chồng, dù là con cái hay cha mẹ– đều phải thấm nhuần
tinh thần phục vụ của Chúa Kitô: “Tôi đến để phục vụ, chứ không để được phục vụ.” “Ai muốn làm đầu, thì hãy làm tôi tớ
phục vụ mọi người” (Lc 22,26).
Anh chị em thân mến, Con Thiên Chúa làm người đã sống trong một
gia đình để nói lên sự cao trọng của cộng đoàn gia đình. Nhưng thực tế chúng ta
còn chứng kiến cảnh những gia đình tan vỡ và cảnh những gia đình không hội đủ
điều kiện về kinh tế, tài chánh, văn hóa để những người trong đó sống cho ra
người, để con cái được giáo dục nên người hữu ích cho xã hội. Là môn đệ Chúa
Kitô, chúng ta có trách nhiệm nặng nề trong việc xây dựng gia đình của chúng ta
và giúp các gia đình khác có đủ điều kiện vật chất, tinh thần để sống phù hợp
với chức năng của con người, xứng với phẩm giá con người là con cái của Thiên
Chúa, là anh em trong đại gia đình của Cha trên trời.
5. Suy niệm của Radio Veritas Asia
(Trích từ ‘Sống Tin Mừng’)
GIA ĐÌNH CẦU NGUYỆN CHUNG VỚI NHAU
THÌ SỐNG HIỆP NHẤT VỚI NHAU
Chúa Giêsu Kitô Con Thiên Chúa đã giáng sinh trong một gia đình
cụ thể, có cha có mẹ là thánh Giuse và Mẹ Maria. Vì thế, trong bầu khí vui tươi
của lễ Giáng Sinh, chúng ta có thể cùng nhau chia sẻ về đời sống gia đình. Mầu
nhiệm Giáng Sinh sẽ giúp chúng ta hiểu sâu xa hơn về thực tại gia đình. Mầu
nhiệm Giáng Sinh làm cho gia đình Thánh Gia trở thành mẫu gương cho các gia
đình trên thế giới. Các bài đọc lễ Thánh Gia đều hướng về một chủ đề chung là
mô tả hoàn cảnh sống của một gia đình có Chúa hiện diện và liên kết mọi thành
phần lại với nhau.
Trước hết, bài đọc I sách Huấn Ca, nhắc lại bổn phận thảo hiếu
của con cái đối với cha mẹ, vì Thiên Chúa suy tôn người cha trong con cái và
củng cố quyền lợi của người mẹ trên người con. Vai trò và trách nhiệm của cha
mẹ trên con cái là do ý muốn của Thiên Chúa và dựa trên ý muốn của Ngài. Bài
đọc II trích từ Côlôsê ghi lại các lời khuyên của thánh Phaolô cho các thành
phần trong gia đình: “Hãy đối xử với nhau theo qui luật của đức bác ái”, vì
tình yêu tự nhiên giữa các thành phần trong gia đình không đủ. Tình yêu tự
nhiên đó được triển nở thành tình thương bác ái, một tình thương đã được tình
yêu của Thiên Chúa thanh luyện cũng cố, và tình thương bác ái đó được thể hiện
trong những hành động cụ thể chứ không dừng lại ở lời nói suông qua môi miệng.
Những lời khuyên này có thể được ta xem như là một hiến chương xây dựng hạnh
phúc gia đình. Nếu chúng ta thực hiện được những điều này thì quả thật gia đình
chúng ta sẽ được hạnh phúc biết bao.
Tâm tình bác ái của gia đình là sự hiện diện của Chúa trong tâm
hồn của mỗi thành phần trong gia đình, đó là sự liên kết mọi thành phần trong
gia đình lại với nhau như là cầu chúc của thánh Phaolô trong thơ gửi tín hữu
Côlôsê: “Nguyện cho bình an của Chúa làm chủ trong lòng anh em. Nguyện cho
Lời Chúa cư ngụ dồi dào trong lòng anh em.” Để thực hiện điều này, chúng ta
hãy đặc biệt lưu ý đến hai việc đạo đức sau đây:
1) Việc đọc kinh chung với nhau trong gia đình.
2) Việc gia đình đọc Lời Chúa chung với nhau.
Gia đình cầu nguyện chung với nhau thì sống hiệp nhất với
nhau. Gia đình Thánh gia Nagiarét được diễm phúc
hơn mọi gia đình khác, vì có chính Chúa Giêsu hiện diện giữa các ngài. Nhưng
nếu xét cho cùng thì cũng không phải là chuyện dễ dàng hơn, vì Chúa hiện diện
trong gia đình Thánh gia với một hình thức hạ mình sâu thẳm nhất, qua hình thức
của một con trẻ yếu đuối như bao trẻ thơ khác để cho mẹ Maria và thánh Giuse
chăm sóc. Cần phải có đức tin sâu xa và vững mạnh lắm thì Đức Maria và thánh
Giuse mới có thể chu toàn trọn vẹn vai trò của mình.
Việc cụ thể thứ hai là việc đọc Lời Chúa trong gia đình.
Chúng ta hãy lấy mẫu gương gia đình Thánh Gia Nagiarét như một khởi đầu cho một
sinh hoạt mới trong gia đình, và kể từ nay về sau, mỗi gia đình hãy chăm chỉ
thực hiện việc đọc Lời Chúa trong gia đình: “Nguyện cho Lời Chúa cư ngụ dồi
dào trong anh em.” Mỗi gia đình Kitô cần có một quyển Kinh Thánh để có thể
đọc Lời Chúa hằng ngày chung với nhau, và nếu không hằng ngày được thì ít ra là
mỗi tuần một lần. Phải giữ mức độ thường xuyên đều đặn, không nên để tùy hứng.
Sau cùng một khía cạnh khác được nói lên trong bài Tin mừng hôm
nay, đó là thử thách mà gia đình Nagiarét gặp phải, đó cũng là thử thách mà mọi
gia đình kitô chúng ta ngày nay cũng có thể gặp phải. Sự hiện diện của Chúa
không mang lại đặc quyền đặc lợi cho gia đình, mà ngược lại có thể làm cho Đức
Maria và thánh Giuse bị phiền phức nữa là khác, vì cảnh sống nghèo nàn bị lãng
quên vẫn như cũ, nhưng Đức Maria và thánh Giuse đã vượt qua được thử thách với
đức tin vững vàng, khiêm tốn chấp nhận dù không hiểu việc Chúa làm. Đó là mẫu
gương cho tất cả mọi gia đình Kitô giáo hôm nay.
Xin Chúa gìn giữ chúng ta trong niềm tin và phát triển đức
tin của mỗi người chúng ta, ban cho gia đình chúng ta được ơn hiệp nhất với
nhau, sống yêu thương nhau, nâng đỡ nhau để chu toàn ơn gọi của mình.
6. Cầu nguyện cho các bậc gia trưởng
(Trích từ ‘Cùng Đọc Tin Mừng’ – Lm Giuse Dương Hữu Tình)
Chúng ta đang sống trong bầu khí của mùa Giáng Sinh, mừng mầu
nhiệm Nhập Thể - Con Thiên Chúa xuống thế làm người. Với mầu nhiệm này, con
người không chỉ dừng lại ở trí khôn để hiểu biết Thượng Đế, nhưng còn dùng tất
cả các khả năng của giác quan để nhận biết Ngài. Thiên Chúa vô hình đã trở nên
hữu hình. Thiên Chúa không chỉ hiện lên trong trí khôn mà nay đã và đang hiện
diện trước mắt chúng ta. Lời Kinh Thánh trong Cựu Ước: "Chúng ta hãy làm
ra con người theo hình ảnh chúng ta, giống như chúng ta" nay được hiểu cụ
thể rõ ràng ngay chính thân phận và hình dáng của con người.
Với lễ Thánh Gia, mầu nhiệm thứ hai lại được sáng tỏ hơn bao giờ
hết, đó là mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi. Nếu con người là hình ảnh Thiên Chúa
thì gia đình phải là hình ảnh rõ nhất về mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi. Bởi thế,
con người là một mầu nhiệm và gia đình cũng là một mầu nhiệm.
Trong kinh Tin Kính, chúng ta đọc: "Tôi tin kính một Thiên
Chúa, là Cha toàn năng, Đấng tạo thành trời đất, muôn vật hữu hình và vô hình.”
Khuôn mặt và cương vị của Thiên Chúa Cha hiện lên một cách tỏ tường qua việc
sáng tạo, làm chủ và hướng dẫn muôn loài. Còn bài Tin Mừng hôm nay kể về gia
đình thánh gia, đó là gia đình của Chúa Giêsu, Đức Mẹ và Thánh Giuse. Trong gia
đình ấy, Chúa Giêsu luôn là đỉnh cao viên mãn của sự thánh thiện và Mẹ Maria là
Đấng rất thánh, dầu thế cũng không sao che khuất vai trò và cương vị đặc biệt
của Thánh Giuse. Thánh Giuse luôn là chủ, là đầu và là người lãnh đạo. Mỗi khi
nhắc đến thiên thần, bao giờ thánh Matthêu cũng ngầm ý nói tới Thiên Chúa.
Chính Thiên Chúa hướng dẫn Thánh Giuse chứ không phải một ai khác trong gia
đình. Chỉ một đoạn Phúc Âm ngắn thôi mà thánh Matthêu ba lần nhắc tới việc
thiên thần hiện ra với Thánh Giuse và chỉ dạy cho ngài cách bảo vệ gia đình.
Chi tiết này như một lời nhắc bảo: người cha, người bố trong gia đình luôn là
hình ảnh tuyệt vời về Thiên Chúa Cha. Chúa Cha liên lạc mật thiết với các bậc
gia trưởng. Có một mối dây thông truyền liên tục giữa Cha vô hình trên trời với
những người cha đang sống nơi trần thế. Và trần gian này sẽ trở thành thiên
đàng khi tất cả các gia đình đều do những người cha tốt lành như thế coi sóc và
hướng dẫn.
Mừng lễ Thánh gia là dịp cầu nguyện cho tất cả các gia đình, đặc
biệt cầu nguyện cho các bậc gia trưởng. Xin cho sợi dây liên kết hiệp thông
giữa Cha trên trời luôn gắn chặt với các người cha đang sống trên trái đất này.
Xin cho trái đất này thực sự trở thành thiên đàng nhờ sự hướng dẫn khôn ngoan,
thánh thiện của các bậc gia trưởng đạo đức.
7. Gia đình kitô hữu cũng là thánh gia thất
(Trích từ ‘Cùng Đọc Tin Mừng’ – Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Một giảng viên giáo lý đặt câu hỏi với các học sinh:
"Hôm nay, chúng ta mừng lễ thánh gia thất. Vậy Anh hỏi các em: trong Hội
Thánh, có bao nhiêu thánh gia thất.”
Cả chục cánh tay giơ lên xin trả lời vì xem ra câu hỏi nầy
dễ ợt. Khi giảng viên mời lần lượt từng em cho câu đáp, tất cả các em đều chung
một ý kiến: chỉ có một thánh gia mà thôi, đó là thánh gia thất của Chúa Giêsu,
Mẹ Maria và thánh Giuse.
Giảng viên giáo lý cho rằng như vậy chưa chính xác. Các em
tỏ ra ngạc nhiên pha lẫn nghi ngờ.
Giảng viên mời bạn Hùng đứng lên và hỏi: - Gia đình em có
bao nhiêu người?
- Thưa Anh có bốn, gồm ba, má, chị Hoa và em, Hùng đáp.
- Cám ơn em. Thế thì cả bốn người đã lãnh bí tích rửa tội
chưa?
- Thưa Anh, tất cả đều đã lãnh bí tích rửa tội từ nhỏ.
Giảng viên tiếp tục giải thích: - Bí tích rửa tội làm cho
chúng ta trở nên chi thể của Chúa Giêsu (giáo lý công giáo 1267.1Cr 6, 15; 12,
27), cho ta được thông phần bản tính Thiên Chúa (giáo lý công giáo 1265. 2Pr
1,4). Vậy thì bốn người trong gia đình bạn Hùng đều là chi thể Chúa Giêsu, đều
được thông phần bản tính Thiên Chúa cả. Vậy cả bốn người đó có phải là thánh
không?
Sau giây lát suy nghĩ vì câu hỏi có vẻ mới lạ, các em đáp:
- Thưa phải.
- Đúng thế, được tháp nhập vào Thân Mình Chúa Giêsu, mọi
kitô hữu đều là thánh vì được hiệp thông nên một với Chúa Giêsu chí thánh. Thế
nên, qua các thư của mình, thánh Phaolô gọi các kitô hữu là thánh.
Giảng viên tiếp: - Các em biết không, trong hiến chế Tín Lý
về Hội Thánh, Công Đồng Vatican II gọi gia đình là hội thánh thu nhỏ hay hội
thánh tại gia (LG 11. glcg 1656). Như thế, huấn quyền của Hội Thánh chính thức
công nhận gia đình là thánh gia.
Ngoài ra, chính Chúa Giêsu cũng đã thiết lập bí tích hôn
phối để thánh hoá đời sống gia đình, nâng gia đình lên một tầm cao mới.
Nói cụ thể hơn, gia đình bạn Hùng có bốn thành viên đều là
kitô hữu, đã được hiến thánh qua bí tích rửa tội, thế thì đó là một cộng đồng,
một hội có bốn vị thánh cùng chung sống. Vậy thì gia đình nầy là một hội thánh
nhỏ, một hội thánh tại gia hay nói khác đi là một thánh gia thất.
* * *
Để có thể xây dựng một công trình kiến trúc bảo đảm kỹ thuật, mỹ
thuật và chất lượng, điều kiện đầu tiên phải có là một mô hình hay bản thiết
kế. Người thợ xây chỉ việc nhìn vào bản thiết kế hay mô hình đó để thi công thì
công việc xây dựng sẽ được tiến hành dễ dàng, suôn sẻ.
Trong việc xây dựng các hội thánh thu nhỏ hay các thánh gia cũng
vậy, các kitô hữu cũng cần một mô hình, một bản thiết kế hoàn chỉnh. Chính Chúa
Giêsu, Ngôi Hai Thiên Chúa đã xuống thế làm người và bỏ ra suốt ba mươi năm
đằng đẳng nhằm kiến tạo nên mô hình tuyệt hảo là Thánh Gia Nadarét làm mẫu mực
cho tất cả các thánh gia khác suốt dòng lịch sử dựa theo đó mà xây dựng thánh
gia của mình.
Xây dựng gia đình theo mẫu nhà Nadarét là mọi người trong gia
đình phải đối xử với nhau như ba Đấng trong thánh gia nầy, cụ thể là chồng phải
yêu thương và phục vụ vợ con như thánh Giuse đã yêu mến và phục vụ Đức Mẹ và
Chúa Giêsu; người vợ phải yêu thương và chăm sóc chồng như Mẹ Maria đã yêu mến
và phục vụ Chúa Giêsu và thánh Giuse; cha mẹ phải yêu mến và chăm lo cho con
cái như thánh Giuse và Mẹ Maria chăm lo phục vụ Chúa Giêsu hết tình; con cái
trong gia đình phải hiếu kính và phụng dưỡng cha mẹ như Chúa Giêsu đã làm đối
với Cha Mẹ Ngài.
Nguyện xin Chúa Giêsu, Mẹ Maria và thánh cả Giuse hằng hiện
diện trong gia đình chúng con và giúp chúng con xây dựng gia thất chúng con nên
giống thánh gia của Ngài.
8. Suy niệm Lễ Thánh Gia – Nguyễn Minh Triệu
Trong bầu khí Giáng Sinh, hôm nay chúng ta được mời gọi để chiêm
ngắm một gia đình của Thiên Chúa ở giữa nhân loại. Ngài đã đến thế gian, đã
sống như một con người, trong một gia đình để nêu gương cho chúng ta. Khi chiêm
ngắm gia đình Nagiaret, chúng ta nhận ra rằng điều làm cho gia đình này trở nên
linh thánh chính là sự hiện diện của Thiên Chúa ở giữa gia đình.
Trước hết, chiêm ngắm hình ảnh thánh Giuse,
người cha trong gia đình, ta nhận ra Ngài quả là một người công chính đích
thực, nghĩa là người chọn Chúa làm gia nghiệp của đời mình. Đáp lại tiếng gọi
của Chúa, Thánh Giuse hiến trọn cuộc đời mình để thi hành thánh ý Thiên Chúa.
Ngài mau mắn đáp lại ý muốn của Thiên Chúa mọi lúc mọi nơi. Trong cương vị là
người cha, người cũng dạy cho Đức Giêsu biết vâng phục Thiên Chúa. Khi đến ngày
như luật định, Chúa Giêsu chịu phép cắt bì. Mẹ Maria thì chu toàn nghi lễ thanh
tẩy. Còn thánh Giuse thì nộp tiền chuộc theo như lề luật đã qui định. Và hơn
thế nữa, thánh Giuse cùng với Mẹ Maria hàng năm vẫn dẫn Chúa Giêsu lên đền thờ.
Đặc biệt là năm Chúa mười hai tuổi, lứa tuổi chưa bị lề luật đòi buộc. Như vậy,
có lẽ những bài học quan trọng nhất mà Đức Giêsu học được chính là từ ngôi
trường của Giuse, một người công chính.
Thứ đến, với tư cách là một người Mẹ,
Đức Maria cũng dành trọn cuộc đời của mình để vuông tròn thánh ý Thiên
Chúa. Cuộc sống của mẹ được dệt nên bởi những giai điệu của tiếng xin
vâng. Mẹ xin vâng để đón nhận con Thiên Chúa vào lòng, Mẹ xin vâng để chấp nhận
những đau khổ và khó khăn trong cuộc sống, và cuối cùng là tiếng xin vâng khó
khăn và đau đớn bên thập giá. Với tư cách là một người mẹ và một người bạn, Mẹ
cũng gặp nhiều khó khăn và thách đố trong đời sống gia đình. Nhưng niềm tin và
sự phó thác tuyệt đối vào Thiên Chúa đã giúp Mẹ vượt qua tất cả. Như trong bài
Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy rằng, dù mẹ không hiểu điều Chúa Giêsu nói,
nhưng mẹ không giận dỗi và đòi một lời giải thích, trái lại, Mẹ thinh lặng và
suy đi nghĩ lại trong lòng. Chính thái độ này giúp mẹ luôn nhận ra thánh ý Chúa
và vuông tròn thánh ý Ngài.
Còn Đức Giêsu mời gọi ta đi vào một chiều kích mới mẻ hơn
giữa Thiên Chúa và con người. Chịu ảnh hưởng bởi
đời sống thiêng liêng của Đức Maria và Thánh Giuse, có lẽ, ngay từ tấm bé, Đức
Giêsu đã được dạy dỗ để sống theo lề luật, tuân giữ những tập tục của người Do
thái. Ngài cũng học để cầu nguyện, và trong đời sống cầu nguyện Đức Giêsu đã
cảm nhận được sự hiện diện của một người Cha trên trời. Một người mà Ngài âu
yếm gọi là Cha. Cũng như Mẹ Maria, Ngài hiểu rằng mình cũng có một sứ mạng, đó
chính là chu toàn thánh ý Cha. Trong những lúc khó khăn và thách đố của kiếp
người, Ngài cũng có một nơi nương tựa, đó là tình yêu trung tín của Cha.
Vâng, sự hiện diện của Chúa trong gia đình là yếu tố căn bản để
liên kết mọi thành phần trong gia đình. Nhờ tình yêu Thiên Chúa, tình yêu phàm
trần của con người được thánh hóa, và được thấm nhuần chiều kích thiêng liêng.
Hơn nữa, sự hiện diện của Thiên Chúa trong gia đình đem lại một niềm hy vọng
vững chắc cho mỗi thành viên. Trước những thách đố đầy dẫy nảy sinh trong đời sống
gia đình, niềm hy vọng vào tình yêu Thiên Chúa chính là chỗ dựa vững chắc nhất
để mọi thành viên trong gia đình cùng nhau đối diện và vượt qua.
Một thống kê cho thấy, tại Mỹ cũng như tại hầu hết các nước thế
giới, gia đình Do thái là gia đình trong đó mức phạm pháp của vị thành niên
được coi là thấp nhất. Nhưng đâu là chìa khoá giải thích sự kiện này? Thưa
chính là niềm tin. Các trẻ em Do thái luôn nhìn vào người cha như một đại diện
của Chúa, người cha chúc lành cho con cái.
Như vậy, thánh gia trở nên gương mẫu sống động cho các gia đình
trong mọi thời đại vì sự hiện của Thiên Chúa trong gia đình này. Ngày nay người
ta thường gạt bỏ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống của họ và đó có lẽ là một trong
những nguyên nhân chính gây ra cuộc khủng hoảng về đời sống gia đình. Chúng ta
cùng cầu nguyện với gia đình Thánh Gia, xin các Ngài thương nâng đỡ các gia
đình trong thời đại ngày hôm nay, để gia đình là mái ấm thực sự cho mọi thành
viên.
9. Trường ca yêu thương – Trầm Thiên Thu
Gia đình là chiếc nôi yêu thương, là tổng hòa các mối quan hệ xã
hội, là nơi linh thiêng, là bản tổng phổ hòa âm hạnh phúc bằng những cung bậc
yêu thương lồng trong giai điệu ngọt ngào, và vẫn được ngân vang vô tận...
Nói đến gia đình là nói đến yêu thương. Không yêu thương thì
không là gia đình. Vì thế, gia đình mới được mệnh danh là Tổ Ấm. Gia đình là
“tam giác cân” của mối liên kết Cha-Mẹ-Con. Trong đó có sự tổng hòa các mối
quan hệ tình cảm nền tảng: Tình phu thê, tình mẫu tử, tình phụ tử, tình huynh
đệ, tình tỷ muội. Thomas Fuller (1608-1661, tác giả nổi tiếng người Anh) nói:
“Lòng nhân ái bắt đầu từ gia đình, nhưng không nên kết thúc ở đó” (Charity
begins at home, but should not end there). Có thể nói rằng gia đình là vườn ươm
các nhân đức.
Ca Nhập Lễ nói ngay đến khung cảnh một gia đình: “Các mục đồng
hối hả tới nơi gặp thấy Maria, Giuse và Hài Nhi mới sinh nằm trong máng cỏ” (Lc 2:16). Danh từ kép “gia đình” không
được nói tới nhưng vẫn khả dĩ biết đó là một gia đình, đơn sơ, giản dị, nghèo
nàn, nhưng tràn đầy hơi ấm yêu thương của mỗi thành viên.
Sách Huấn Ca xác định: “Ai thờ cha thì bù đắp lỗi lầm, ai kính
mẹ thì tích trữ kho báu. Ai thờ cha sẽ được vui mừng vì con cái, khi cầu
nguyện, họ sẽ được lắng nghe. Ai tôn vinh cha sẽ được trường thọ, ai vâng lệnh
Đức Chúa sẽ làm cho mẹ an lòng. Người đó phục vụ các bậc sinh thành như phục vụ
chủ nhân” (Hc 3:3-7). Thờ cha, kính mẹ là giữ đạo hiếu đời thường, là “luật
sống” của xã hội loài người, nhưng cũng chính là giới răn thứ tư trong Thập
Giới mà Thiên Chúa đã truyền dạy qua ông Môsê.
Trong Phật giáo, kinh Tăng Nhất A Hàm dạy: “Cung kính và vâng
lời cha mẹ, phụng dưỡng khi cha mẹ già yếu, giữ gìn thanh danh truyền thống gia
đình, bảo vệ tài sản cha mẹ để lại, lo tang lễ chu đáo khi cha mẹ qua đời”; còn
kinh Nhẫn Nhục so sánh: “Tột cùng thiện không gì bằng có hiếu, tột cùng ác
không gì bằng bất hiếu.” Điều đó cho thấy đạo hiếu quan trọng với những người
làm con – mà có ai lại không làm con chứ?
Trong Công giáo, sách Huấn ca nói chi tiết hơn: “Vì lòng hiếu
nghĩa đối với cha sẽ không bị quên lãng, và sẽ đền bù tội lỗi cho con. Thiên
Chúa sẽ nhớ đến con, ngày con gặp khốn khó, và các tội con sẽ biến tan như
sương muối biến tan lúc đẹp trời” (Hc 3:14-15). Con cái thảo kính cha mẹ không
chỉ là làm bổn phận, mà còn được Thiên Chúa tha thứ và chúc phúc. Nhất cử lưỡng
tiện. Tuy nhiên, lại thật khốn nạn cho những nghịch tử: “Ai bỏ rơi cha mình thì
khác nào kẻ lộng ngôn, ai chọc giận mẹ mình, sẽ bị Đức Chúa nguyền rủa” (Hc
3:16). Chúa Giêsu cũng noi gương ngoan ngoãn và hiếu thảo: Sau khi Đức Maria và
Đức Thánh Giuse tìm thấy Chúa Giêsu đang ngồi giữa các thầy dạy trong Đền Thờ,
“Người đi xuống cùng với cha mẹ, trở về Nadarét và hằng vâng phục các ngài” (Lc
2:51).
Sách Huấn Ca khuyên nhủ:“Con ơi, hãy hoàn thành việc của con một
cách nhũn nhặn, thì con sẽ được mến yêu hơn người hào phóng” (Hc 3:17). Lời
khuyên nhẹ nhàng và đơn giản nhưng rất thâm thúy.
Gia đình là sự đoàn kết chặt chẽ của “bộ ba”, như kiềng ba chân
vững bền. “Bộ ba” đó là hình ảnh Tam Vị Nhất Thể (Chúa Ba Ngôi), lan tỏa yêu
thương, chứng tỏ sự kính yêu Thiên Chúa. Thánh Vịnh mô tả: “Hạnh phúc thay bạn
nào kính sợ Chúa, ăn ở theo đường lối của Người. Công khó tay bạn làm, bạn được
an hưởng, bạn quả là lắm phúc nhiều may. Hiền thê bạn trong cửa trong nhà khác
nào cây nho đầy hoa trái; và bầy con tựa những cây ô-liu mơn mởn, xúm xít tại
bàn ăn. Đó chính là phúc lộc Chúa dành cho kẻ kính sợ Người” (Tv 128:1-4). Hình
ảnh thật sống động và đẹp biết bao!
Gia đình hạnh phúc là nơi phải đầy ắp tiếng cười, sống thoải
mái, tự nhiên, thì mới xứng đáng tận hưởng lời cầu chúc này: “Xin Chúa từ Sion
xuống cho bạn muôn vàn ơn phúc. Ước chi trong suốt cả cuộc đời bạn được thấy
Giêrusalem phồn thịnh, được sống lâu bên đàn con cháu” (Tv 128:5-6).
Thánh Phaolô nói: “Anh em là những người được Thiên Chúa tuyển
lựa, hiến thánh và yêu thương. Vì thế, anh em hãy có lòng thương cảm, nhân hậu,
khiêm nhu, hiền hoà và nhẫn nại. Hãy chịu đựng và tha thứ cho nhau, nếu trong
anh em người này có điều gì phải trách móc người kia. Chúa đã tha thứ cho anh
em, thì anh em cũng vậy, anh em phải tha thứ cho nhau. Trên hết mọi đức tính,
anh em phải có lòng bác ái: đó là mối dây liên kết tuyệt hảo” (Cl 3:12-14). Bất
kỳ cái gì “được nhận” đều là ân huệ, dù là điều nhỏ nhoi, và tất nhiên người
nhận phải có trách nhiệm và sống sao cho xứng đáng. Đó là lẽ công bằng minh
nhiên thôi!
Thật vậy, Thánh Phaolô vừa cầu chúc vừa giải thích rạch ròi:
“Ước gì ơn bình an của Đức Kitô điều khiển tâm hồn anh em, vì trong một thân
thể duy nhất, anh em đã được kêu gọi đến hưởng ơn bình an đó. Bởi vậy, anh em
hãy hết dạ tri ân. Ước chi lời Đức Kitô ngự giữa anh em thật dồi dào phong phú”
(Cl 3:15-16a).
Biết được điều gì thì phải chia sẻ cho người khác cùng biết, đó
là một dạng “dạy dỗ”
hoặc “giáo dục.” Ai cũng có quyền này, đồng thời cũng là trách nhiệm: “Anh em
hãy dạy dỗ khuyên bảo nhau với tất cả sự khôn ngoan. Để tỏ lòng biết ơn, anh em
hãy đem cả tâm hồn mà hát dâng Thiên Chúa những bài thánh vịnh, thánh thi và
thánh ca, do Thần Khí linh hứng. Anh em có làm gì, nói gì, thì hãy làm hãy nói
nhân danh Chúa Giêsu và nhờ Người mà cảm tạ Thiên Chúa Cha” (Cl 3:16b-17). Vấn
đề là thực hiện vì danh Chúa Giêsu, chứ không phải để mình được khen tặng, được
nổi trội. Người giỏi là người có ơn gọi tiên tri (ngôn sứ), phải sinh lời “nén”
đó, càng nhiều càng tốt, chứ không thấy vậy mà “chảnh”, vì Chúa sẽ “đòi” phần
lời của người đó. Đừng tưởng bở!
Cuối cùng, Thánh Phaolô khuyên riêng từng thành viên trong gia
đình: “Người làm vợ hãy phục tùng chồng, như thế mới xứng đáng là người thuộc
về Chúa. Người làm chồng hãy yêu thương chứ đừng cay nghiệt với vợ. Kẻ làm con
hãy vâng lời cha mẹ trong mọi sự, vì đó là điều đẹp lòng Chúa. Những bậc làm
cha mẹ đừng làm cho con cái bực tức, kẻo chúng ngã lòng” (Cl 3:18-21).
Có lẽ chẳng gia đình nào khốn khổ như Thánh Gia, gian nan trăm bề,
“căng” đủ thứ, nạn này chưa qua thì tai khác lại tới. Khi các nhà chiêm tinh đã
ra về, thì sứ thần Chúa hiện ra báo mộng cho ông Giuse rằng: “Này ông, dậy đem
Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Ai-cập, và cứ ở đó cho đến khi tôi báo lại, vì
vua Hê-rô-đê sắp tìm giết Hài Nhi đấy!” (Mt 2:13). Mẹ tròn, con vuông là vui
rồi, có nghèo cũng được. Thế nhưng sóng đời cứ vỗ, con thuyền gia đình tròng
trành đủ kiểu. Cây muốn lặng mà gió chẳng ngừng.
Tưởng được yên ổn, ai ngờ…
Số kiếp Đức Thánh Giuse lận đận hết sức, không phải hồng nhan mà bạc phận quá
trời. Vừa nghe báo hung tin như vậy, biết sự nguy hiểm cận kề, Chú Giuse nhà ta
liền trỗi dậy, và dù đang đêm tối đen như mực, Chú vẫn đưa Vợ và Con vội vã
trốn sang Ai-cập. Và rồi Thánh Gia ở đó cho đến khi vua Hêrôđê băng hà, để ứng
nghiệm lời Chúa phán xưa qua miệng ngôn sứ: “Ta đã gọi con Ta ra khỏi Ai-cập”
(Mt 2:18). Một chân lý vô thường: Gian nan và đau khổ cũng vẫn là hồng ân. Lạ
thật!
Như một bộ phim dài, hết tập này thì đến tập khác. Thánh sử
Mátthêu kể tiếp: Sau khi vua Hêrôđê băng hà, sứ thần Chúa lại hiện ra với ông
Giuse bên Ai-cập, báo mộng cho ông rằng: “Này Giuse, dậy đem Hài Nhi và mẹ
Người về đất Israel, vì những kẻ tìm giết Hài Nhi đã chết rồi” (Mt 2:20). Lần
báo tin này là hỉ tín. Tiếng thở phào nhẹ nhàng biết bao! Sau cơn mưa trời lại
sáng. Chả mong gì hơn, Chú Giuse liền trỗi dậy đưa Hài Nhi và mẹ Người về đất
Israel. Nhưng vì nghe biết Ác-khê-lao đã kế vị vua cha là Hê-rô-đê, cai trị
miền Giuđê, nên Chú Giuse sợ không dám về đó, nên lui về miền Galilê, và đến
định cư tại một thành kia gọi là Nadarét, để ứng nghiệm lời đã phán qua miệng
các ngôn sứ rằng: “Người sẽ được gọi là người Nadarét” (Mt 2:23).
Ước gì mỗi thành viên gia đình đều sống đúng vai trò của mình để
khả dĩ tạo nên một Tổ Ấm đích thực. Ước gì mỗi gia đình đều là bản Trường Ca
Yêu Thương không ngừng hòa tấu vang dội hằng ngày, đó là một cách sống động để
tích cực truyền giáo và làm chứng nhân của Chúa: “Anh em hãy yêu thương nhau
như Thầy đã yêu thương anh em. Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy
ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13:34-35). Điều này càng
thích hợp hơn trong năm 2014: Phúc-Âm-hóa đời sống gia đình.
Lạy Thiên Chúa, xin giúp chúng con biết sống đúng chức năng
và bổn phận của mình theo đúng Thánh Ý Chúa trong từng hoàn cảnh thực tế hiện
tại của cuộc đời, để tất cả đều làm vinh danh Chúa. Chúng con cầu xin nhân danh
Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ chúng con. Amen.
10. Cuộc phiêu lưu – Lm. Giuse Đỗ Vân Lực
Nhân loại đang choáng váng vì những cảnh gia đình đổ nát. Nhiều
vấn đề lớn hôm nay sẽ được giải quyết nếu bắt đầu từ gia đình. Bởi vậy cần nhìn
vào gia đình Nadarét để tìm một giải pháp tốt đẹp nhất cho những vấn nạn gia
đình hôm nay.
LY HƯƠNG.
Đức Giêsu đã xuất hiện với những khó khăn chồng chất trong một
gia đình. Khó khăn lớn nhất đe dọa tới chính mạng sống Hài Nhi Giêsu. Chính sứ
thần đã báo mộng cho ông Giuse: “Vua Hêrôđê sắp tìm giết Hài Nhi đấy!” (Mt
2:13) Giữa cơn quẫn bách, con đường giải thoát đã mở ra trước mắt, khi “sứ thần
Chúa hiện ra báo mộng cho ông Giuse rằng: ‘Này ông, dậy đem Hài Nhi và mẹ Người
trốn sang Ai cập, và cứ ở đó cho đến khi tôi báo lại.” (Mt 2:13) Thiên Chúa đã
can thiệp để giải thoát chính Con Mình.
Nhưng trước tiên, Hài Nhi có thể thoát nạn và vui hưởng những
ngày tự do nơi đất khách quê người không, nếu ông Giuse không vâng lời tuyệt
đối lệnh truyền đó? Chính sự vâng lời đã dẫn đến cuộc sống an vui và tự do.
Oâng vâng lời bồng bế gia đình lìa bỏ quê hương, vượt biên sang Ai cập. Sẽ có
ngày trở về quê cha đất tổ. Nhưng ra đi hay trở về không quan trọng. Quan trọng
là làm sao nhận ra và tuân hành Thánh Ý. Thực tế ông Giuse đã cùng gia đình ở
lại Ai cập cho đến khi vua Hêrôđê băng hà.” (Mt 2:15) Sống nơi đất khách, bao
giờ ông cũng ôm giấc mộng hồi hương. Chỉ có nơi quê hương, con người mới đích
thực sống cuộc sống của mình. Ngoài quê hương chỉ là nô lệ, xa lạ, tăm tối.
Giữa cảnh tha hương, ông Giuse chỉ có một kim chỉ nam duy nhất
là Thánh Ý Thiên Chúa. Bởi vậy, khi nhận được lệnh sứ thần, “ông liền trỗi dậy
đưa Hài Nhi và mẹ Người về đất Ítraen,” (Mt 2:21) “để ứng nghiệm lời Chúa phán
xưa qua miệng ngôn sứ: Ta đã gọi con Ta ra khỏi Ai cập,” (Mt 2:15; Hs 11:1)
thoát miền đất đầy bóng tối tử thần. Từ một kinh nghiệm cứu Ítraen Dân Chúa
thoát ách nô lệ Ai cập, “thánh Mathêu muốn cho thấy Đức Giêsu là người khởi đầu
tái thiết toàn thể dân tộc Ítraen như một cuộc xuất hành mới đầy lý tưởng (x.
Mt 19:28; 21:43). Việc trốn chạy này là một cuộc xuất hành mới với một tân Môsê
vĩ đại hơn.” (The New Jerome Biblical Commentary 1990:636) Tương lai đang mở ra
cho nhân loại …
Khi về đến quê cha đất tổ, “vì nghe biết Aùckhêlao đã kế vị vua
cha là Hêrôđê, cai trị miền Giuđê, nên ông sợ không dám về đó.” (Mt 2:22) Một
quyết định sai lầm lúc này sẽ dẫn đến những hậu quả khốc hại cho Hài Nhi. Oâng Giuse
đang đứng trước ngã ba đường. Giữa lúc ông hoang mang như thế, “được báo mộng,
ông lui về miền Galilê.” (Mt 2:22) Trong hoàn cảnh nào, ông cũng quyết định dựa
trên Thánh ý. Không phải ông không đủ trưởng thành. Dù có thâu thập đủ tin tức,
ông cũng dựa vào Đấng khôn ngoan tuyệt đối để khỏi ân hận về sau. Cuối cùng
theo hướng Thánh ý, ông đã đưa gia đình “đến ở tại một thành kia gọi là
Nadarét.” (Mt 2:23) Trong đường lối Thiên Chúa quan phòng, thời ấy vua Herod
Antipas đang xây thủ đô tại Sepphoris, một thành giáp ranh Nadarét. Theo khôn
ngoan tự nhiên, ông Giuse đã chọn Nadarét làm nơi cư trú cho gia đình. Chắc
chắn ở đó ông có thể thoải mái kiếm kế sinh nhai nuôi sống gia đình và bảo đảm
cho tương lai cậu bé Giêsu (x.The New Jerome Biblical Commentary 1990:636)
Thánh ý đã hướng dẫn ông Giuse chọn Nadarét “để ứng nghiệm lời
đã phán qua miệng các ngôn sứ rằng: Người sẽ được gọi là người Nadarét.” (Mt
2:23) Viết thế, thánh Mathêu “ám chỉ Đức Giêsu là ‘người được thánh hiến’ trong
dòng tộc Samson và Samuel. Nếu vậy, có thể thánh Mathêu muốn nói Đức Giêsu đầy
sức mạnh để cứu độ dân Người.” (The New Jerome Biblical Commentary 1990:636)
Thánh Giuse quả thật đã được Thiên Chúa tuyển chọn đặc biệt để góp phần đặc
biệt công trình cứu độ muôn dân.
GIA ĐÌNH TRONG SỨ MẠNG CỨU ĐỘ.
Cũng như thánh Giuse, chúng ta “là những người được Thiên Chúa
tuyển lựa, hiến thánh và yêu thương” (Cl 3:12) để hoàn thành sứ mạng lớn lao
trong gia đình. Gia đình không phải là một nơi náu ẩn của những con người tầm
thường với những việc không tên. Theo ý định Thiên Chúa quan phòng, gia đình là
hình ảnh sống động nhất diễn tả tất cả khả năng sáng tạo và cứu độ của Thiên
Chúa. “Tình cha và mẹ, theo ý muốn của Thiên Chúa, được đặt trong mối tương
quan thông phần vào quyền sáng tạo của Thiên Chúa, và do đó, có một quan hệ hỗ
tương nội tại.” (ĐGH Gioan Phaolô II: VietCatholic News, 23/9/2000) Không có
gia đình, con người không thể hoàn thành sứ mạng sáng tạo đó.
Muốn hoàn thành sứ mạng cứu độ, con người phải “có lòng thương
cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hòa và nhẫn nại, chịu đựng và tha thứ cho nhau.”
(Cl 3:13) Nghĩa là trong môi trương nhỏ bé đó, con người cũng có thể tìm được
đầy dẫy những cơ hội làm chứng cho Thiên Chúa. Nếu cứ luẩn quẩn với cái tôi,
con người sẽ không tìm được lối thoát và không thể hoàn thành sứ mạng cứu độ.
Nhưng nếu có cái nhìn của thánh Giuse, họ sẽ thấy “cái tôi là cái đáng ghét.”
Đáng ghét vì trong ngữ học Việt Nam “TÔI” chỉ được ghép với ba dấu sắc, huyền
và nặng: TỐI, TỒI, TỘI. Đóng khung trong cái tôi là chìm vào cõi u tối. Trong
đó chỉ thấy những chuyện tồi bại và tội lỗi. Khi nào thoát được cái tôi, con
người sẽ thật sự tìm được ánh sáng, sự thật và sự sống. Đúng thế “ai đi ban
ngày thì không vấp ngã, vì thấy ánh sáng của thế gian này. Còn ai đi ban đêm,
thì vấp ngã vì không có ánh sáng nơi mình!” (Ga 11:9) Aùnh sáng Đức Giêsu đem
tới là tình yêu Thiên Chúa. Bởi đó, muốn sống hạnh phúc, “anh em phải có lòng
bác ái: đó là mối dây liên kết tuyệt hảo,” (Cl 3:14) nguồn mạch sáng tạo và sức
mạnh cứu độ của Thiên Chúa.
Mối dây bác ái đó không chỉ liên kết mọi phần tử gia đình, nhưng
còn kết hiệp họ với Thiên Chúa. Thực vậy, “gia đình Kitô hữu được kêu gọi làm
cho thiên hạ thấy mình là một nơi cầu nguyện chung, khi cầu nguyện như vậy,
trong tự do của người con, người ta thưa chuyện với Thiên Chúa bằng cách gọi
Người với cái tên trìu mến "Lạy Cha chúng con.” Chúa Thánh Thần giúp chúng
ta khám phá gương mặt của Chúa Cha như kiểu mẫu trọn vẹn của tình Cha trong gia
đình.” (ĐGH Gioan Phaolô II: VietCatholic News, 10/10/2000) Thánh Giuse đã họa
lại trọn vẹn hình ảnh Chúa Cha để cho mọi người cha biết cách ứng xử trong
những lúc gia đình gặp thử thách.
Hình ảnh người cha trong gia đình Nadarét chắc chắn đã in sâu
vào tâm khảm Đức Giêsu trong suốt thời gian ẩn dật. Chính nhờ những năm tháng
sống dưới sự che chở của Thánh Giuse, Đức Giêsu đã học được cách phục vụ mọi
người. Thật vậy, “Chúa cứu chuộc từng sống ẩn dật tại Nazareth trong phần lớn
đời Ngài, về mặt ‘con người’, Người đã ‘tuân phục’(Lc 2, 51), Đức Maria mẹ Ngài
và Thánh Giuse người thợ mộc. Đức ‘tuân phục’ thảo hiền này lại chẳng là biểu
lộ đầu tiên sự vâng phục Cha Người ‘cho đến chết’ (Ph 2, 8), nhờ đó Người đã
cứu chuộc thế gian sao?” (ĐGH Gioan Phaolô II: VietCatholic News, 23/9/2000)
Chính trong môi trường tình yêu đó, Đức Giêsu đã học nơi thân
phụ Giuse tất cả gương cương nghị trong khi thi hành Thánh Ý Thiên Chúa. Quả
thực, từ khi chấp nhận cưới Đức Maria, thánh Giuse đã “liều nhắm mắt đưa chân.”
Trong cuộc phiêu lưu đó, cùng với Đức Maria, thánh nhân chỉ biết sống cho Đức
Giêsu, mở đường cho một dân mới, một dân nhiệt thành làm điều thiện và không
ngừng tranh đấu chống lại mọi cảnh nô lệ, áp bức và tội lỗi. Chính Đức Giêsu,
nhờ bàn tay Mẹ Maria và thánh Giuse, sẽ dẫn muôn dân về Đất Hứa chan hòa ánh
sáng và sự sống.
11. Suy niệm của Lm. Đaminh Trần Đình Nhi
Thiên Chúa làm người là để “phục hồi phẩm giá con người cách kỳ
diệu” (lời nguyện Thánh lễ Ban Ngày), để từ con người, cuộc phục hồi ấy phải
tiến tới những lãnh vực khác như gia đình, cộng đồng và toàn thế giới. Chính vì
thế, ta không lấy làm lạ khi thấy lễ Thánh Gia Thất được cử hành vào Chúa Nhật
ngay sau lễ Giáng Sinh. Nếu Chúa Giêsu là con trưởng của một nhân loại mới, thì
Thánh Gia Thất cũng phải là khuôn mẫu cho các gia đình trong nhân loại. Lời
Chúa trong Thánh lễ hôm nay sẽ giúp ta hiểu thế nào là một gia đình trong đó có
Thiên Chúa và con người sống chung với nhau.
1. Thiên Chúa tôn vinh bậc làm cha mẹ
(Bài đọc Cựu Ước – Hc 3:2-6,12-14)
Con Thiên Chúa xuống thế làm người và sống chức phận làm người
con trong một gia đình. Mục đích là để đổi mới quan hệ giữa người con đối với
bậc cha mẹ. Sự hiện diện của Chúa Giêsu, người con của gia đình Na-da-rét, nói
lên lối sống gương mẫu của kẻ làm con cái. Đối với Thánh Gia Thất, những lời
sách Huấn ca không chỉ là những lời khuyên nhủ, nhưng nói lên phẩm giá của cha
mẹ Chúa Giêsu là Mẹ Ma-ri-a và thánh cả Giuse. “Đức Chúa làm cho người cha được
vẻ vang vì con cái, cho người mẹ thêm uy quyền đối với các con.” Đời sống vâng
lời và tôn kính của Chúa Giêsu đối với cha mẹ Người chính là cách Thiên Chúa
dùng để nhắc nhở các người con có bổn phận phải làm sao cho cha mẹ mình “được
vẻ vang và thêm uy quyền.” Thánh Giuse và Mẹ Ma-ri-a đã thực sự được vẻ vang và
thêm uy quyền là vì “Hài Nhi ngày càng lớn lên, thêm vững mạnh, đầy khôn ngoan,
và hằng được ân nghĩa cùng Thiên Chúa” (Lc 2:40). Sau chuyến lên Giê-ru-sa-lem
lúc Chúa Giêsu lên mười hai tuổi, “Người đi xuống cùng với cha mẹ, trở về
Na-da-rét và hằng vâng phục các ngài… Còn Đức Giêsu, ngày càng khôn lớn, và
được Thiên Chúa cũng như mọi người thương mến” (Lc 2:51-52). Tóm lại, qua Chúa
Giêsu, Thiên Chúa muốn phục hồi chỗ đứng của những bậc làm cha làm mẹ.
Đó chẳng phải là điều ta luôn mong mỏi, nhất là trong những gia
đình của xã hội văn minh cấp tiến hôm nay hay sao? Con cái không còn là một lý
do để người cha được ngẩng mặt lên với đời nữa. Trái lại, con cái nhiều khi là
một nỗi tủi nhục cho cha mẹ, chẳng những chúng không đem lại niềm vui hay ủi an
cho các ngài, mà trái lại chỉ gây phiền lụy và lo lắng cho các ngài. Là gương mẫu
cho các người con, Chúa Giêsu đã sống vâng phục cha mẹ Người. Chắc chắn ta phải
kết luận rằng sở dĩ Chúa Giêsu luôn vâng phục thánh ý Chúa Cha là vì Người đã
học vâng phục Mẹ Ma-ri-a và thánh Giuse trước. Sự vâng phục đã được rèn luyện
dưới mái nhà Na-da-rét và đạt tới cao độ khi Chúa Giêsu tỏ ý vâng phục trong
Vườn Ô-liu và trút hơi thở cuối cùng trên thập giá. “Cha ơi, xin đừng làm theo
ý con, mà xin theo ý Cha” (Lc 22:42), và “Lạy Cha, con xin phó thác hồn con
trong tay Cha” (Lc 23:46).
Trong gia đình ngày nay, nhiều khi sự vâng phục của con cái đã
bị bóp méo. Người ta coi đó là cách hạn chế sự phát triển của con người. Sự bất
vâng phục còn được luật pháp hỗ trợ, thí dụ như tại Hoa-kỳ. Nhiều đứa con chỉ
dài cổ mong chóng đến 18 tuổi để được tự do, muốn làm gì thì làm, một thứ tự do
ấu trĩ nhất. Thử hỏi có khi nào người ta dám đặt lại vấn đề vâng phục trong gia
đình ở Hoa-kỳ không? Chắc là không và thật đáng buồn thay! Hãy nhìn về Thánh
Gia Thất Na-da-rét mà dạy và học bài học vâng phục của Chúa Giêsu.
2. Đời sống mới của gia đình: sống theo tinh thần của Chúa
(Bài đọc Tân Ước – Cl 3:12-21)
Thánh Phaolô viết thư cho tín hữu Côlôxê. Ngài coi cộng
đoàn Côlôxê như một gia đình và đưa ra những lời khuyên thực tế áp dụng cho đời
sống cộng đoàn. Tuy nhiên, để thực hiện được một gia đình cộng đoàn gương mẫu,
mỗi Ki-tô hữu cần phải thấm nhuần những nhân đức luân lý căn bản. Sau khi trình
bày những nhân đức căn bản này, thánh Phaolô muốn họ đem những nhân đức ấy vào
đời sống gia đình. Do đó, ngài đã chỉ thị cho mỗi phần tử trong gia đình, từ
cha mẹ, vợ chồng, con cái cho tới kẻ ăn người ở trong nhà, phải sống sao để thể
hiện được những đặc nét của một gia đình gồm “những người được Thiên Chúa tuyển
lựa, hiến thánh và yêu thương.” Những đặc nét đó là lòng thương cảm, nhân hậu,
khiêm nhu, hiền hòa và nhẫn nại, tất cả đều được biểu lộ qua những hành vi chịu
đựng, tha thứ và bác ái trong khi đối xử với nhau. Những nhân đức luân lý căn
bản nói trên một khi đã được thực hành trong đời sống gia đình, thì cũng giúp
ta sống quan hệ tốt đẹp hơn đối với Chúa. Một gia đình có được những nhân đức
trên sẽ thăng tiến đến mức độ có thể giúp đỡ khuyên bảo nhau sống tốt lành và
một lòng phụng sự Chúa.
Nếu thực sự sống những nhân đức gia đình thì việc người vợ
phục tùng chồng không phải là cảnh chồng chúa vợ tôi mà là cách biểu lộ lòng
yêu thương sâu xa, việc người chồng yêu thương vợ không phải là tỏ ra uy quyền
mà là cách nhận biết phẩm giá và sự cao quý của vợ, việc con cái vâng lời cha
mẹ không phải là sợ hãi cha mẹ mà là cách nói lên lòng tôn kính và yêu mến đấng
sinh thành. Nói tóm lại, nếu đem những nhân đức luân lý căn bản vào đời sống
gia đình, chúng sẽ thay đổi mọi quan hệ giữa những phần tử thuộc gia đình phản
ánh những đường nét và tinh thần của Thiên Chúa.
3. Dù trong hoàn cảnh nào, gia đình luôn gắn bó với Chúa và
với nhau
(Bài Tin Mừng – Mt 2:13-15.19-23)
Gia đình sống theo tinh thần của Chúa lúc nào cũng giữ
được mối hài hòa gắn bó, khi vui cũng như lúc buồn. Bài Tin Mừng cho ta thấy
Thánh Gia Thất đã ứng phó thế nào khi các ngài gặp hoạn nạn. Sau khi các nhà
chiêm tinh phương Đông ra về, vua Hê-rô-đê nổi giận tìm cách giết Hài Nhi. Được
sứ thần Chúa báo tin, thánh Giuse “liền trỗi dậy, và đang đêm, đưa Hài Nhi và
mẹ Người trốn sang Ai-cập.” Trước một cuộc xuất hành xa xôi và không biết ngày
về, ta thường chuẩn bị kỹ càng. Dầu vậy, Thánh Gia Thất làm gì có thời giờ để
chuẩn bị. Điều cần thiết là phải làm sao bảo toàn tính mạng cho Hài Nhi và mẹ
Người. Ta có thể tưởng tượng ra khung cảnh thánh Giuse chuẩn bị cấp tốc cho một
chuyến đi sang tận Ai-cập. Chuẩn bị mấy đi nữa cũng chỉ có hạn. Phương tiện
chuyên chở căn bản là con lừa. Đồ đạc phải là những đồ dùng cần thiết nhất. Tuy
nhiên trang bị tối cần vẫn phải là lòng tin, hoàn toàn tín thác vào sự quan
phòng của Thiên Chúa. Đây là điều thánh Giuse hơn tất cả các gia trưởng của mọi
gia đình trong nhân loại. Có tin tưởng Chúa, Người mới lập tức lên đường ngay
giữa đêm khuya. Có tin tưởng Chúa, Người mới sẵn sàng làm một cuộc hành trình
hoàn toàn ngoài dự tính của Người, đến nơi xứ lạ quê người và không rõ tương
lai đi về đâu. Thánh Giuse là con người của đức tin, giống hệt như tổ phụ Người
là Áp-ra-ham, lúc nào cũng tìm cách làm theo thánh ý Thiên Chúa.
Có thể lối diễn tả của thánh sử Mát-thêu làm cho ta có cảm
nghĩ như thánh Giuse quá thụ động. Sứ thần Chúa bảo đi là Người đi, bảo về là
Người về. Nhưng chắc chắn là thánh Giuse không thụ động như vậy đâu. Một đàng
Người mau mắn làm theo ý Chúa, nhưng mặt khác Người cũng phải đối phó với những
khó khăn, phải xoay sở tháo vát để chu toàn bổn phận gia trưởng của Người. Có
lẽ chẳng ai dám “xúc phạm” đến lòng khiêm tốn và đức tin mạnh mẽ của Người nên
không dám kể ra những công khó của Người trong đời sống của Thánh Gia Thất đấy
thôi! Làm sao ta có thể kể hết công ơn của Đấng đã hiến thân phụng sự trong kế
hoạch của Thiên Chúa, “để ứng nghiệm lời Chúa phán xưa qua miệng ngôn sứ: Ta đã
gọi con Ta ra khỏi Ai-cập… và Người sẽ được gọi là người Na-da-rét.”
4. Sống Lời Chúa
Gia đình là một đơn vị nòng cốt của nhân loại. Nhân loại
được thăng tiến hay không hoàn toàn do gia đình. Nhân loại được tăng số “như
sao trời, như cát biển” là nhờ gia đình. Nhân loại nên tốt hay xấu cũng là do
gia đình. Kể từ khi tội lỗi xâm nhập vào nhân loại, nền tảng gia đình bị phá
hoại, quan hệ gia đình bị tổn thương, nên gia đình cần phải được phục hồi những
gì đã bị tội lỗi tước bỏ. Sự hiện diện của Thiên Chúa giữa gia đình qua việc
Con Một Người xuống thế làm người con của gia đình Na-da-rét, Thiên Chúa thi
hành kế hoạch phục hồi ấy. Chúa Giêsu giúp ta đặt lại vấn đề của bậc làm con
cái. Thánh Giuse nói lên gương mẫu của bậc gia trưởng. Mẹ Ma-ri-a phản ánh
những nhân đức đầy tinh thần của Chúa mà Mẹ đã dạy dỗ rèn luyện cho Chúa Giêsu
từ khi tấm bé cho thành người “được Thiên Chúa cũng như mọi người thương mến.”
Như vậy ta có thể ý thức được tầm mức quan trọng của Thánh Gia Thất như thế nào
trong kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa.
Suy nghĩ: Suy tư về sự hiệp nhất trong gia đình, thánh Phaolô
viết: “Trên hết mọi đức tính, anh em phải có lòng bác ái” (Cl 3:14). Vậy tôi hiểu
tại sao lòng bác ái lại quan trọng như thế? Từ lâu, nói đến bác ái là tôi
thường nghĩ đó là việc đối xử với người ngoài gia đình. Lời thánh Phaolô có
giúp tôi phải đặt lại vấn đề bác ái không? Nếu có, tôi phải xét lại đời sống
gia đình tôi như thế nào và phải làm gì để mọi người trong gia đình biết sống
bác ái đối với nhau?
Cầu nguyện: Lạy Chúa, Chúa
đã muốn đề cao Thánh Gia như tấm gương xán lạn để mọi người bắt chước. Xin làm
cho chúng con cũng biết noi gương để ăn ở đúng lễ nghĩa gia phong, sống đùm bọc
lẫn nhau trong tình yêu mến, hầu được chung hưởng niềm an vui vĩnh cửu trong
nhà Chúa trên trời. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô, Chúa chúng con. A-men.
(Lời nguyện nhập lễ, lễ kính Thánh Gia Thất).
12. Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hữu Duyên
Cả ba bài đọc trong Thánh Lễ hôm nay tuy đề cập đến nhiều vấn đề
khác nhau của đời sống hôn nhân và gia đình, nhưng đều nói tới một điểm quy
chiếu duy nhất của đời sống ấy. Bài sách Huấn Ca mở đầu ngay với khẳng định
"Đức Chúa làm cho người cha được vẻ vang vì con cái, cho người mẹ thêm uy
quyền đối với các con.” Thánh Phaolô thì dạy "Anh em có làm gì, nói gì,
thì hãy làm hãy nói nhân danh Chúa Giêsu..." Còn Tin Mừng thánh Matthêu
không ngần ngại cho thấy các biến cố của đời sống gia đình đều "để ứng
nghiện lời Chúa đã phán xưa qua miệng ngôn sứ.”
Khi đọc Tin Mừng, chúng ta không thể phủ nhận sự thật này
là "Lời Chúa, Ý muốn của Chúa" đó là yếu tố cấu thành nên Gia Đình
Thánh Gia. Nếu chính Ý Chúa qua Lề Luật đã dẫn đến việc đính hôn của Giuse và
Maria, thì cũng chính là Lời đã Nhập Thể, đã đầu thai trong lòng Trinh Nữ , và
cũng chính là Lệnh Truyền đã đưa Giuse đến quyết định đưa Maria về chung sống.
Và cũng từ ngày đó, Giuse đã chăm lo để Thánh Ý luôn luôn được thực hiện một
cách hòan hảo nhất cho Gia Đình Thánh. Đó cũng chính là tâm nguyện tuyệt đối
của Maria từ khi thưa với Sứ Thần "Này tôi là tôi tá Chúa, xin vâng như
lời sứ thần truyền", cho đến tận Núi Sọ khi Bà hiến dâng Con Yêu cho Thiên
Chúa và cho nhân lọai. Và là trọn vẹn cuộc sống của Đức Giêsu, người con duy
nhất của Gia đình, như chính Ngài khẳng định "Ta đến không để làm theo ý
ta, nhưng để làm theo ý Đấng đã sai ta."
Đọc Tin Mừng, chúng ta càng không thể phủ nhận sự thật lớn
lao trọng tâm của gia đình chính là "Hài Nhi": đó là lý do, là mục
đích cho mọi quyết định, mọi lựa chọn, mọi hành vi của gia đình như chúng ta
thấy trong câu chuyện hôm nay, dù phải từ bỏ mọi quyền lợi chính đáng của bản
thân mỗi thành viên. Và chính "Hài Nhi" khi được đón nhận với tình
yêu thương quảng đại đã làm triển nở cách hài hòa và bền vững mái ấm gia đình.
Tuy nhiên sự thật về "Hài Nhi" trong Tin Mừng
phải là sự thật của mỗi một hài nhi trong mỗi gia đình nhân lọai, đó là điều đã
được công bố trong Gia Đình Thánh và phải được tiếp tục công bố trong mỗi gia
đình Kitô hữu. Đó là "cuộc sống cá biệt này, một mặt thấy thật bình thường
và đơn sơ, mặt khác lại rất lạ lùng và mầu nhiệm, đã đưa Nước Thiên Chúa vào
lịch sử nhân lọai và "đem sức mạnh của Nước ấy vào mọi khía cạnh của đời
sống con người và xã hội, vốn bị vây bọc bởi tội lỗi và sự chết.” Bằng lời nói
và việc làm của mình, nhất là bằng đau khổ, cái chết và sự sống lại, Đức Giêsu
đã thi hành ý muốn của Cha Ngài là hòa giải tòan thể nhân lọai với Chúa Cha,
sau khi quan hệ giữa Đấng Tạo Hóa và thụ tạo bị tội nguyên tổ cắt đứt... Bằng
cách này, ơn cứu độ đã được thực hiện một lần dứt khóat...vì lời nói và việc
làm, nhất là sự phục sinh của Ngài từ cõi chết, đã mặc khải cho chúng ta thấy
Ngài đúng là Con Thiên Chúa..." (THGHTAC 11). Tông huấn cũng nhận định
"gia đình là nơi bình thường cho giới trẻ lớn lên, để đạt tới sự trưởng
thành cá nhân và xã hội", mặt khác "gia đình chiếm giữ một vị trí rất
quan trọng trong các nền văn hóa Á Châu..." do đó Tông Huấn nhấn mạnh
"Các gia đình Kitô hữu cũng như tòan thể Giáo Hội phải là nơi lấy chân lý
Tin Mừng làm quy luật sống và làm qùa tặng mà mỗi thành viên của gia đình mang
đến cho cộng đòan rộng lớn hơn."
Qua các cử hành liên quan tới Mầu Nhiệm Nhập Thể và Giáng
Sinh, cũng như sự hòan thành sứ mạng, vai trò và địa vị của mỗi thành viên
trong Gia Đình Thánh, chúng ta cảm nghiệm và xác tín cùng với các Nghị Phụ
THĐGMAC "Chúa Thánh Thần là tác nhân chủ yếu..." và "sứ mạng
trần gian của Chúa Giêsu được hòan thành nhờ quyền năng Chúa Thánh
Thần...", vì thế gia đình kitô hữu cũng như chính Giáo Hội phải luôn lắng
nghe và đón nhận lời nhắc nhở của Chúa Thánh Thần rằng mình "không phải là
cùng đích của chính mình.” Giáo Hội cũng như gia đình "được trao cho nhiệm
vụ trở thành dấu chỉ và dụng cụ chân thực để Chúa Thánh Thần họat động...làm
chứng cho Đức Giêsu Cứu Thế một cách mới mẻ và hiệu qủa trong tất cả các hòan
cảnh khác nhau..."
Vì vậy, điều mà Thánh Phaolô khuyên các gia đình "anh em
hãy có lòng thương cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hòa và nhẫn nại... chịu đựng
và tha thứ... và trên hết mọi sự, anh em phải có lòng bác ái: đó là mối dây
liên kết tuyệt hảo." , mối dây mà nơi khác Thánh Tông Đồ khẳng định chính
là Thánh Thần. Những lời khuyên ấy thực sự, chúng ta đều đã gặp thấy được sống
trọn hảo thế nào trong Gia Đình Thánh Gia, phải trở nên khuôn mẫu cho mọi gia
đình.
Ước gì khi chúng ta sốt sáng cử hành tôn vinh Thánh Gia Thất,
thì chúng ta cũng được chia sẻ cùng một Thánh Thần của Gia Đình Thánh để làm
cho "Hài Nhi Giêsu" được lớn lên đạt tới mức viên mãn trong mỗi thành
viên gia đình của chúng ta.
13. Trốn sang Ai Cập
(Trích từ ‘Manna’)
Suy Niệm
Đoạn Tin Mừng trên đây kể lại một biến cố không vui. Con Thiên
Chúa bị Hêrôđê đe dọa tính mạng. Được mộng báo, đang đêm Giuse phải đem gia
đình đi trốn.
Đất Ai cập vẫn được coi là chỗ trú ẩn an toàn? Nhưng ngay cả khi
vua Hêrôđê lìa đời, mối đe dọa vẫn còn tồn tại. Archelao kế nghiệp vua cha, là
người tàn ác không kém, khiến Thánh gia chẳng dám về ở vùng Giuđê, mà phải trở
về quê nhà ở Nadarét.
Như thế cuộc sống của Thánh gia chẳng phải là êm ả.
Đâu phải có Chúa là tránh được căng thẳng, long đong.
Chỉ có một điều Thánh gia đã không để mất, đó là niềm tín thác
vững vàng vào Thiên Chúa, ngay giữa những hiểm nguy từ phía bạo quyền, đó là
tình yêu thương gắn bó với nhau, giữa những lúc khó khăn chồng chất.
Rồi mọi sự sẽ qua, rồi bình an sẽ trở lại.
Nhìn lại cuộc sống Thánh gia, ta thấy có nhiều sóng gió. Có lúc
tưởng như tan vỡ, khi thánh Giuse định rút lui? Có lúc bối rối khi ở Bêlem
không tìm ra chỗ trọ. Có những ngày đôn đáo tìm con trong nước mắt. Có lúc họ
hàng tưởng Đức Giêsu mất trí, nên đi bắt về. Và nhất là có lúc Mẹ phải đứng bên
xác con? Thánh gia chẳng được hưởng một chút ưu đãi nào.
Một gia đình vô cùng thánh thiện và gương mẫu cũng phải chịu bao
khổ đau và nghịch cảnh, nhờ đó mọi gia đình Kitô hữu khác có thể yên tâm đứng
vững giữa những lúc mây mù.
Các gia đình hôm nay cũng bị đe dọa. Có những gia đình quá nghèo
túng và nợ nần. Có những trẻ thơ bị thất học, bị bỏ rơi, bị lạm dụng.
Mối đe dọa lớn nhất là thiếu vắng tình yêu.
Có những xung đột giữa vợ chồng, giữa cha mẹ và con cái. Kết quả
là nạn phá thai, ngoại tình, ly dị. Gia đình chẳng còn là dòng suối ngọt ngào,
nơi mọi người lớn lên nhờ yêu và được yêu.
Nhờ kiên nhẫn lắng nghe, nhờ dịu dàng đối thoại, nhờ bầu khí cảm
thông khiến người ta dám chấp nhận nhau.
Trong một cuộc phỏng vấn, mẹ Têrêsa phát biểu: "Tôi nghĩ
rằng không phải ai cũng ý thức về tầm quan trọng của gia đình. Nếu chúng ta đưa
tình yêu trở lại gia đình, thế giới này sẽ đổi khác."
Thế giới băng hoại vì gia đình thiếu tình yêu. Giới trẻ nghiện
ngập và hư hỏng vì bơ vơ, buồn chán.
Ước gì mỗi gia đình Kitô hữu đều là một mái ấm, đầy ắp tình yêu,
đầy ắp Thiên Chúa.
Gợi Ý Chia Sẻ
Theo ý bạn, ngày nay điều gì đang đe dọa hạnh phúc gia đình,
điều gì đang gây khó khăn cho việc giáo dục con cái?
Gia đình Kitô hữu là một Giáo hội nhỏ. Theo ý bạn đâu là những
nét nổi bật của một gia đình Kitô hữu gương mẫu? Chúng ta có thể học được gì
nơi Thánh gia?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, sau hơn 30 năm sống dưới mái nhà ở Nadarét,
Chúa đã thành một người chín chắn và trưởng thành, sẵn sàng lãnh nhận sứ mạng
Cha giao.
Bầu khí yêu thương đã góp phần không nhỏ trong việc hình
thành nhân cách của Chúa.
Chúa đã học nơi thánh Giuse sự lao động miệt mài, sự mau
mắn thi hành Thánh ý Thiên Chúa, sự âm thầm chu toàn trách nhiệm đối với gia
đình.
Chúa đã học nơi mẹ Maria sự tế nhị và phục vụ, sự buông
mình sống trong lòng tin phó thác và nhất là một đời sống cầu nguyện thâm trầm.
Xin nhìn đến gia đình chúng con, xin biến nó thành nơi sản
sinh những con người tốt, biết yêu thương tha thứ, biết cầu nguyện và phục vụ.
Ước gì xã hội chúng con lành mạnh hơn, Giáo hội chúng con
thánh thiện hơn, nhờ có những con người khỏe mạnh, khôn ngoan và tràn đầy ơn
Chúa.
14. Lễ Thánh Gia
Nhân vật nữ được tuần báo Time chọn làm người của năm 1996
là công chúa Diana của Anh Quốc. Trong phỏng vấn dành cho đài BBC, công chúa đã
không ngần ngại bộc bạch hết câu chuyện đổ vỡ của gia đình bà. Sự đổ vỡ của gia
đình vương giả này khiến nhiều người phải tiếc xót. Bởi vì, nếu xét theo những
tiêu chuẩn thông thường, thì quả thực cặp vợ chồng này có mọi sự để được hạnh
phúc, như danh vọng, tiền tài, địa vị. Thế nhưng tại sao họ không tìm được hạnh
phúc trong gia đình? Đâu là nguyên nhân dẫn đến sự đổ vỡ này? Có lẽ họ còn
thiếu một cái gì đó mà sự giàu sang phú quý không thể mua được cũng như khiến
họ không thể vượt qua được khó khăn thử thách.
Hôm nay Giáo Hội mời gọi chúng ta chiêm ngắm Thánh Gia thất để
múc lấy bí quyết hạnh phúc gia đình. Cũng như bao gia đình khác. Thánh gia cũng
đã trải qua nhiều sóng gió, thử thách. Chúng ta hãy nhìn lại cảnh bối rối mà có
lẽ ít có đôi vợ chồng trẻ nào phải trải qua: vợ sắp sinh đi tìm một quán trọ để
qua đêm nhưng không có, cuối cùng phải vào một chuồng súc vật và sinh con ở đó,
và rồi sau đó đã phải vội vã đi lánh nạn trong một cuộc hành trình cam go và
sống giữa những người xa lạ. Bí quyết đã giúp Đức Maria và thánh Giuse vượt qua
khó khăn thử thách, đó là có Chúa Giêsu bên cạnh. Sự hiện diện của Chúa Giêsu
chính là nền tảng của gia đình Nagiarét.
Cũng như Thánh gia thất, ngày nay các gia đình Việt Nam cũng
đang trải qua bao khó khăn thử thách. Trước tiên là cái nghèo và rồi từ nghèo
khổ sinh ra dốt nát, dốt nát kéo theo bao hệ lụy khác. Tuy nhiên, nhìn vào
gương Thánh gia thất, chúng ta thấy rằng nghèo khổ không đương nhiên gây nên
bất hạnh và đổ vỡ cho gia đình. Tỷ lệ những đổ vỡ của các gia đình tại các nước
công nghiệp tiên tiến là bằng chứng cho thấy giầu có chưa hẳn đã là một bảo đảm
cho hạnh phúc gia đình.
Không những trải qua cảnh nghèo. Thánh gia thất còn phải đương
đầu với bạo chúa Hêrôđê nữa. Ngày nay, các gia đình cũng phải đương đầu với
nhiều thứ bạo chúa, như các phương tiện truyền thông quảng bá lối sống đồi
phong bại tục nhằm lung lạc và đầu độc giới trẻ, hoặc những luật pháp áp đặt
những luật lệ nhằm phá đổ chính nền tảng thánh thiêng của gia đình, chẳng hạn
luật cho phép phá thai, ly dị…
Thánh gia thất đã vượt qua được sóng gió nhờ niềm tin vững chắc
vào sự hiện diện của Chúa trong gia đình. Đó cũng là bí quyết mà Giáo Hội đề ra
cho chúng ta khi mời gọi chúng ta chiêm ngắm Thánh gia thất. Lấy sự hiện diện
của Chúa Giêsu làm nền tảng vững chắc cho gia đình chính là mặc lấy tâm tình từ
bi, nhân hậu, tha thứ cho nhau; lấy sự hiện diện của Chúa Giêsu làm nền tảng
vững chắc cho gia đình chính là lấy sự cầu nguyện trong gia đình làm mối giây
liên kết mọi người: một gia đình cầu nguyện chung với nhau là một gia đình đứng
vững, và đó là điều chúng ta phải cầu xin cho nhau.
15. Thánh Gia
Có một câu chuyện kể lại rằng: Giữa đường chạy trốn sang Ai
Cập, để tránh khỏi sự tàn sát của Hêrôđê, Thánh Gia đã gặp phải một bọn cướp và
bị chúng bao vây. Vừa khi chúng định nhào tới trấn lội đôi vợ chồng trẻ, thì
một tên trong bọn tên là Dismas, bỗng nhận ra đôi tay Mẹ Maria có ẵm một Hài
Nhi.
Quá xúc động trước nét mặt vô tội của Hài Nhi, hắn đã
khuyên can đồng bọn để cho Thánh Gia ra đi được an toàn. Trước khi rút lui, hắn
đã nghiêng mình trên Hài Nhi Giêsu và nói:
- Xin hãy nhớ đến tôi và đừng bao giờ quên giây phút này.
Truyền thuyết kể tiếp: Về sau tên cướp ấy đã trở thành
người trộm lành, bị đóng đinh cùng với Chúa Giêsu trên thập giá. Và chính Ngài
đã nói với anh ta:
- Ngày hôm nay, con sẽ được ở cùng Ta trên thiên đàng.
Dĩ nhiên đây chỉ là một truyền thuyết, nhưng từ đó, chúng
ta có thể tìm thấy được một kết luận quan trọng. Đó là khi trốn sang Ai Cập,
Thánh Gia đã gặp phải rất nhiều hiểm nguy.
Thời xưa, hầu như mọi người đều đi thành từng đoàn, bởi vì
nhiều quãng đường thường bị những bọn cướp kiểm soát, uy hiếp và trấn lột. Điên
rồ lắm mới đi một mình, trừ khi vì khẩn cấp như trường hợp của Thánh Gia hôm
nay.
Thánh Gia cũng là một gia đình bình thường như gia đình của
chúng ta, nghĩa là cũng đã phải gánh chịu những khổ đau và cay đắng.
Đầu tiên đó là việc Mẹ mang thai bởi quyền phép Chúa Thánh Thần
mà Giuse không hay biết, khiến ông đã tính từ bỏ Mẹ một cách kín đáo. Rồi cuộc
hành trình từ Nagiarét xuống Bêlem để đăng ký nhân hộ khẩu giữa lúc Mẹ đang
bụng mang dạ chửa. Không tìm được quán trọ, Mẹ đã phải sinh Chúa trong cảnh khó
nghèo của máng cỏ Bêlem. Hài nhi Giêsu mở mắt chào đời chưa được bao lâu, hai
ông bà đã phải vội vã đem con trốn sang Ai Cập. Làm sao kể cho hết những hiểm
nguy trên đường chạy trốn, cũng như những khó khăn vất vưởng nơi đất khách quê
người. Rồi những năm tháng âm thầm vất vả nơi xưởng thợ Nagiarét. Và nỗi khổ
đau khi lạc mất Chúa vào dịp lên đền thờ dự lễ vượt qua.
Thế nhưng, có một điều chúng ta cần phải học hỏi nơi Thánh Gia
đó là đứng trước mọi biến cố khổ đau và bất hạnh, thánh Giuse và Mẹ Maria đều
coi đó như là thánh ý Chúa gửi đến trong đời, để rồi các ngài đã mau mắn chu
toàn, mà không một lời ca thán, mà không một tính toán hơn thiệt. Vì thế, lúc
nào mái ấm của các ngài cũng ngập tràn hạnh phúc và bình an.
Còn chúng ta thì sao? Phải nhận rằng gia đình nào cũng có những
vấn đề. Gia đình nào cũng có những lo lắng những khổ đau của mình. Gia đình nào
cũng đã từng gặp phải những tai ương hoạn nạn. Tuy nhiên điều quan trọng là
thái độ của chúng ta khi đứng trước những khổ đau gặp phải.
Rất có thể chúng ta đã phẫn uất, đã bực bội và tức tối, để rồi
khổ đau chúng ta vẫn phải chịu mà chẳng đem lại lợi ích gì, mà hơn thế nữa, còn
trở nên là một thứ chất độc làm hại tâm hồn chúng ta.
Trái lại, nếu chúng ta coi đó như là một thập giá, như là thánh
ý Chúa gửi đến và cố gắng chu toàn trong lòng cuộc đời, lúc bấy giờ những khổ
đau dù bé nhỏ và tầm thường nhất, cũng có được một giá trị to lớn, chúng sẽ trở
thành những sợi chỉ vàng dệt nên tấm vải cuộc đời chúng ta.
16. Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
GƯƠNG GIA ĐÌNH HẠNH PHÚC
Ngày lễ Thánh Gia là ngày lễ của các gia đình. Để làm khuôn mẫu
cho các gia đình, ta tưởng Giáo Hội sẽ đưa ra hình ảnh một gia đình đầm ấm, vợ
chồng con cái sum họp quanh bàn ăn, quanh chiếc ti vi. Hoặc chí ít cũng là cảnh
thánh Giuse làm thợ mộc với sự giúp đỡ của Chúa Giêsu. Bên cạnh là Đức Maria
đang ngồi khâu vá hoặc nấu nướng. Nhưng không, Giáo Hội mời gọi ta chiêm ngắm
cảnh Thánh Gia chạy trốn bạo vương Hêrôđê giữa đêm hôm khuya khoắt.
Thánh Gia đã biết đến những hiểm nguy đe dọa hạnh phúc gia đình.
Nhưng các Ngài đã biết cách gìn giữ gia đình bình an qua cơn dông tố. Các bài
sách thánh đặc biệt bài Tin Mừng hôm nay trình bày cho ta những bí quyết mà
Thánh Gia sử dụng để giữ được hạnh phúc gia đình.
Bí quyết thứ nhất đó là vâng nghe Lời Chúa. Thánh
Giuse vâng lệnh Chúa truyền một cách mau mắn và tuyệt đối. Dù lệnh truyền ban
ra giữa đêm khuya, Ngài thức giấc thi hành tức khắc. Dù lệnh truyền rất khó
khăn Ngài vẫn mau mắn vâng lời. Đức Maria và Chúa Giêsu cũng có một thái độ
vâng phục tuyệt đối như thế. Thánh ý Thiên Chúa luôn luôn là mệnh lệnh tuyệt
đối. Lời Chúa dạy luôn luôn là kim chỉ nam. Thiên Chúa chính là người điều
khiển gia đình các Ngài. Vì thế, dù gặp nhiều gian nan thử thách, gia đình các
Ngài vẫn giữ được hạnh phúc.
Bí quyết thứ hai đó là coi con cái là vốn quý nhất.
Con cái là vốn quý nhất nên các Ngài đã đem hết sức lực ra bảo vệ. Khi có những
nguy cơ đe dọa, các Ngài đem con cái chạy trốn tránh xa. Vì con cái là vốn quý
nhất, nên các Ngài sẵn sàng hy sinh tất cả: thời giờ, nhà cửa, tài sản, nghề
nghiệp và công việc làm ăn, mong đem con cái đến nơi an toàn. Vì con cái là vốn
quý nhất, nên các Ngài không ngần ngại nâng niu phục vụ. Hình ảnh thánh Giuse
đi bộ dắt lừa cho Chúa Giêsu và Đức Maria là hình ảnh của một người chủ gia
đình hết lòng nâng niu phục vụ vợ con. Vì con cái là vốn quý nhất, nên các Đức
Maria đã dõi theo con đến cùng, nhẫn nhục đứng bên thập giá chia sớt đau khổ
với con.
Bí quyết thứ ba đó là con cái luôn hiếu thảo với
cha mẹ. Chúa Giêsu là một người con hiếu thảo. Tin Mừng tóm tắt cuộc sống thơ
ấu của Người bằng một câu ngắn gọn: “Sau đó Người đi xuống cùng với cha mẹ
trở về Nadarét và hằng vâng phục các Ngài” (Lc 2,51). Sự hiếu thảo của Chúa
Giêsu được thấy trong tiệc cưới Cana. Khi đám cưới thiếu rượu, Đức Maria xin
Người giúp. Tuy chưa đến thời điểm, nhưng Chúa Giêsu vẫn làm phép lạ cho nước
biến thành rượu để giúp đám cưới theo yêu cầu của Mẹ. Cảm động hơn hết là giây
phút cuối đời, khi bị treo trên thập giá, Chúa Giêsu vẫn quan tâm đến Mẹ nên đã
gửi gấm nhờ thánh Gioan, môn đệ yêu quý, chăm sóc Mẹ.
Ngày nay, nhiều gia đình đang trong tình trạng báo động. Từ thời
mở cửa, gia đình Việt Nam đã biến chuyển mãnh liệt theo chiều hướng nguy hiểm.
Số cặp vợ chồng ly dị tăng nhanh một cách đáng sợ. Con cái không còn vâng lời
cha mẹ như xưa. Theo đà tiến triển kinh tế, nhiều gia đình trở nên giàu có hơn,
nhưng con cái lại bỏ bê học hành, lao vào con đường ăn chơi, vướng vào tệ nạn
xã hội, làm cho cha mẹ buồn lòng, gia đình tan nát.
Để bảo vệ gia đình trước làn sóng văn minh vật chất, hưởng thụ
và cá nhân chủ nghĩa, ta hãy học hỏi mẫu gương Thánh Gia.
Trước hết, cha mẹ phải coi con cái là vốn quý nhất Chúa ban cho
gia đình. Vốn này cần được quan tâm chăm sóc không phải chỉ bằng tiền bạc,
phương tiện vật chất mà quan trọng hơn, bằng tình thương, sự săn sóc, dạy dỗ
uốn nắn ngay từ khi còn thơ, sự hiểu biết, cảm thông khi đến tuổi trưởng thành.
Dù thành công trong xã hội mà con cái hư hỏng thì vẫn là thất bại cả cuộc đời.
Vì thế, phải bảo vệ con cái khỏi các bạo vương Hêrôđê thời đại. Đó là sách báo
phim ảnh xấu. Đó là bạn bè xấu. Đó là tệ nạn xì ke ma túy. Nếu cần phải đem con
cái trốn chạy khỏi nanh vuốt của bạo vương, tìm nơi an toàn để cho con cái sinh
sống, ăn học và giữ được đạo đức.
Đáp lại, con cái phải có lòng hiếu thảo với cha mẹ. Hiếu thảo
vừa là một đức tính của người có lương tri vừa là một thái độ khôn ngoan của
người khiêm tốn. Có lương tri và có sự khôn ngoan, người trẻ mới tiến xa và trở
nên hữu ích cho xã hội.
Sau cùng, cả gia đình phải sống theo Lời Chúa dạy. Lời Chúa là
nền tảng của gia đình. Sống theo Lời Chúa là xây dựng gia đình trên nền đá vững
chắc. Gia đình sống theo Lời Chúa sẽ vững vàng qua mọi bão lốc thời đại.
Gia đình Công Giáo sống theo Lời Chúa không những giữ được hạnh
phúc cho gia đình mà còn đóng góp vào việc xây dựng xã hội trong hoàn cảnh đạo
đức đang xuống cấp hiện nay.
Lạy Thánh Gia, xin giúp gia đình chúng con sống theo gương
lành của các Ngài. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1) Đâu là những nguy cơ đang đe dọa hạnh phúc gia đình hiện nay?
2) Thế nào là một gia đình gương mẫu?
3) Gia đình bạn quyết tâm làm gì trong tuần này để noi gương
Thánh Gia?
17. Vai trò của gia đình
Mừng lễ Thánh gia hôm nay, chúng ta cùng nhau tìm hiểu về vai
trò của gia đình trong đời sống cá nhân và xã hội.
Như chúng ta đã biết hệ thống tổ chức của xã hội loài người khởi
đi từ cá nhân, rồi đến gia đình, làng xóm và sau cùng là quốc gia và cộng đồng
quốc tế.
Tự bản tính, con người không thể nào sống cô độc lẻ loi như một
hòn đảo hay như một pháo đài biệt lập. Trái lại, chúng ta sống là sống với
người khác trong một cộng đoàn.
Những người trước nhất chúng ta sống với chính là những người
thân yêu cùng cư ngụ dưới một mái nhà. Và như vậy, cộng đoàn đầu tiên chúng ta
tiếp xúc chính là gia đình.
Vì thế, Công đồng Vaticanô II đã xác quyết:
- Gia đình là mái trường đầu tiên dạy cho chúng ta những bài học
làm người.
Ai trong chúng ta cũng đều có những kỷ niệm êm đẹp về gia đình
mình. Bình thường chúng ta chẳng mấy khi để ý tới, thế nhưng đến lúc phải rời
xa, chúng ta mới nghiệm ra rằng:
- Gia đình chính là chiếc nôi cho chúng ta khôn lớn. Được sống
trong gia đình là điều quí hóa.
Tôi không thể nào quên được những lần nghịch ngợm đã bị ba tôi
sửa phạt, cũng như không thể nào quên được những lời khuyên thấm thía của ba
tôi mỗi khi tôi phải lên đường, rời xa gia đình trong một khoảng thời gian nào
đó.
Tôi không thể nào quên được những chăm sóc nhỏ nhoi nhưng thấm
đượm yêu thương của mẹ tôi: từ củ khoai lang và những chiếc bánh mỗi khi đi chợ
về đến ánh mắt lo âu khi tôi đau yếu.
Tất cả những yêu thương trìu mến ấy đã góp lại và tạo nên con
người tôi hôm nay.
Đúng thế, gia đình chính là mái trường đầu tiên dạy cho chúng ta
những bài học làm người cũng như chuẩn bị cho chúng ta những hành trang cần
thiết để bước xuống cuộc đời.
Hơn thế nữa, gia đình còn là nền tảng của xã hội, còn là con tim
của nhân loại. Gia đình có ổn định thì xã hội mới được phát triển. Gia đình có
hòa thuận và yêu thương thì nhân loại mới được lành mạnh.
Tìm hiểu vể tệ trạng thanh thiếu niên đi bụi đời và phạm pháp,
chúng ta thấy đa số đều đã gặp phải những bất ổn trong gia đình. Có thể vì cha
mẹ họ thường xuyên cãi vã. Có thể vì mẹ họ không còn trung thành với nhau theo
kiểu ông ăn chả bà ăn nem. Có thể cha mẹ họ vì quá mải miết chạy theo tiền bạc,
không còn lưu tâm tới họ nữa…Họ không tìm thấy trong gia đình một tình thương
chân thành, một nơi nương tựa vững chắc. Và từ đó, họ chán nản bỏ nhà ra đi,
nhúng tay vào tội ác, làm cho xã hội phải điêu đứng.
Gia đình là nền tảng của xã hội. Nền tảng ấy đã lung lay, thì xã
hội sẽ bị chao đảo, nếu không muốn nói là đi dần tới chỗ sụp đổ.
Chính vì thế, người xưa đã bảo:
- Phải tu thân và tề gia trước đã, rồi sau đó mới trị quốc và
bình thiên hạ.
Muốn làm lớn ngoài xã hội, thì trước hết phải lo tu sửa bản thân
và ổn định trong gia đình. Hay như ca dao cũng đã diễn tả:
- Tu đâu cho bằng tu nhà,
Thờ cha kính mẹ mới là chân tu.
-Thứ nhất thì tu tại gia,
Thứ hai tu chợ, thứ ba tu chùa.
Dưới ánh sáng của Kinh thánh, chúng ta cũng thấy được những ý
nghĩ như vậy.
Đúng thế, ngày từ thuở đời đời, Thiên Chúa đã không sống cô độc
lẻ loi, nhưng đã sống trong một hình thức gia đình, có Chúa Cha, Chúa Con và
Chúa Thánh Thần.
Khi nhập thể, Ngài đã không một mình bước vào cuộc đời, nhưng đã
sống trong một gia đình, có mẹ là Đức Maria, có cha nuôi là thánh Giuse.
Trong quãng đời công khai, Ngài không sống cô độc, nhưng đã sống
trong một cộng đoàn, quây quần chung quanh Ngài có mười hai tông đồ và các môn
đệ.
Trong Cựu ước, chúng ta thấy khi tạo dựng nên con người, Ngài
không dựng nên họ cô đơn vò võ, nhưng đã dựng nên một người nam và một người
nữ. Đó là mái ấm gia đình đầu tiên, đặt nền tảng cho xã hội loài người. Chính
vì thế, Ngài đã phán:
- Người nam sẽ lìa bỏ cha mẹ để kết hiệp với vợ mình và cả hai
sẽ trở nên một xương một thịt.
Trong Tân Ước, Chúa Giêsu đã nhắc lại lập trường kể trên khi
Ngài nói về chuyện ly dị. Thánh Phaolô còn dùng hình ảnh hôn nhân để nói lên
tình yêu và sự kết hiệp giữa Đức Kitô và Giáo hội.
Thánh nhân cũng đã nhiều lần đề cập đến những bổn phận trong
lãnh vực gia đình:
- Hỡi những người vợ, hãy phục tùng chồng mình trong Chúa cho
phải phép. Hỡi những người chồng, hãy yêu thương vợ mình như Đức Kitô yêu
thương Giáo hội và đã nộp mình vì Giáo hội.
Xin Chúa luôn gìn giữ mái ấm của chúng ta trong yêu thương và
hòa thuận, để tình yêu gia đình chúng ta sẽ là một phản ảnh sống động cho tình
yêu Thiên Chúa.
18. Giáo dục
Khi con người luôn cảm thấy được Thiên Chúa yêu thương và săn
sóc, họ sẽ đặt Ngài vào chỗ nhất trong cuộc sống của họ. Và dĩ nhiên khi đặt
Thiên Chúa vào chỗ nhất trong cuộc sống, con người sẽ suy nghĩ, cư xử, hành
động thêm một bậc thang trong đó có các giá trị tinh thần và đạo đức luôn đặt
vào chỗ cao nhất, lúc đó thay vì hận thù con người sẽ chọn lựa yêu thương, thay
vì nguyền rủa con người sẽ lựa chọn tha thứ, thay vì giam mình trong vỏ ốc ích
kỷ con người sẽ tìm đến với người khác, thay vì thất vọng bỏ cuộc, con người sẽ
tiếp tục tin tưởng và phấn đấu.
Chỉ có một chọn lựa như thế mới làm cho cuộc sống mỗi ngày có ý
nghĩa, sống như thế nào để mỗi ngày sống thực sự mới mẻ, đó là điều mà cha mẹ
cần nhắc nhở cho con cái bằng lời nói và nhất là hành động. Mỗi ngày cha mẹ có
thể chứng tỏ cho chúng thấy rằng đánh động người khác bằng những cố gắng rất
đơn giản như một nụ cười, một cái gật đầu, một lời nói tử tế, một lời cầu
nguyện cho người khác… những cử chỉ tử tế ấy luôn mang lại hoan lạc cho tâm
hồn. Để có một ngày sống có ý nghĩa người ta không cần phải làm những hy sinh
hay thay đổi lớn lao trong cuộc sống, mỗi một ngày sống đều có vô số những cơ
hội kỳ diệu để sống tử tế.
Chúng ta không thể hiểu được các bí ẩn và những vấn đề trong
cuộc sống, nhưng chúng ta phải tin rằng cuộc sống của mỗi người đều có một mục
đích và tất cả chúng ta là một thành phần của một chương trình rộng lớn được
Thiên Chúa quy định. Chúng ta không thể giải quyết tất cả mọi vấn đề của thế
giới, chúng ta cũng chẳng giúp đỡ được tất cả mọi người nhưng trong tầm tay của
mỗi người, trong môi trường sống mỗi người đều có cơ hội để sống tử tế với
người khác.
Chính những cử chỉ tử tế hằng ngày đó mang lại ý nghĩa cho cuộc
đời. Một món quà nhỏ nhưng được trao tặng với tất cả tự do và yêu thương luôn
mang lại ánh sáng cho một ngày tăm tối. Cha mẹ nên tập cho con cái có thói quen
tặng quà cho người khác một cách nhưng không, không tính toán. Tặng quà cho một
người thân quen mang lại cho chúng ta niềm vui thỏa đã đành, nhưng giúp đỡ cho
một người vô danh, một kẻ lạ mặt mà không đợi một sự đáp trả nào lại càng mang
lại một niềm vui lớn lao.
Hằng năm tại Hoa kỳ có nhiều ngày rất đặc biệt, một trong những
ngày đặc biệt nhất hẳn phải là ngày 17.2 được Quốc hội Hoa kỳ tuyên bố là ngày
của những hành động tử tế nhưng không. Trong ngày đó người dân Mỹ được kêu gọi
hành động tử tế một cách vô danh và nhưng không, nghĩa là không cần được biết
đến và cũng không mong được một sự đáp trả nào. Quả thật xã hội càng thừa mứa
của cải vật chất, tình người càng khô cạn, nội tâm con người cũng càng trống
rỗng, do đó chỉ có những cử chỉ nhỏ bé mà con người thực thi cho nhau với tất
cả quảng đại quên mình, mới có thể làm cho nội tâm được phong phú và mang lại ý
nghĩa cho cuộc sống mỗi ngày.
Để có thể khơi dậy và phát triển lòng quảng đại nơi con cái, cha
mẹ không những phải tập cho chúng giúp đỡ những người túng thiếu trong môi
trường sống của chúng, mà còn phải mở rộng tầm nhìn của chúng để có thể đến
những vấn đề rộng lớn hơn và phục vụ thế giới. Hằng năm tại một số nước Tây
phương, như Đức chẳng hạn, các em thiếu nhi tự động quyên góp để giúp đỡ cho
các trẻ em tại các nước nghèo. Đây là một trong những chiến dịch giúp cho những
trẻ em sống bác ái. Bác ái không chỉ là cho những đồng tiền dư thừa. Bác ái
thiết yếu là giúp đỡ người khác vì yêu thương. Tự nhiên đứa trẻ nào cũng có
tinh thần bác ái, cha mẹ còn nuôi dưỡng tinh thần ấy bằng cách qua những cử chỉ
hàng ngày và tạo cơ hội cho chúng tham gia vào những chiến dịch rộng rãi hơn,
những cuộc quyên góp giúp đỡ cho các thiên tai hay người nghèo chẳng hạn, là cơ
hội tốt nhất để cha mẹ khơi dậy và nuôi dưỡng tinh thần bác ái đích thực nơi
con cái.
Ngày nay truyền hình không phải là một phương tiện giải trí, mà
còn cần cho cha mẹ xem như là một trường hợp thực tế nhất để khơi dậy tinh thần
bác ái của con cái. Ngoài những chương trình có nội dung giáo dục nhân bản,
truyền hình còn cho chúng ta tiếp cận với không biết bao nhiêu người khổ đau
trên khắp thế giới, các nạn nhân của thiên tai, những người tị nạn của chiến
tranh và bao nhiêu người khốn khổ khác trên khắp thế giới. Những hình ảnh mà
truyền hình mang lại cho chúng ta mỗi ngày cần được cha mẹ xem như là những cơ
hội để khơi dậy những đau khổ cảm thương, lòng quảng đại và tinh thần bác ái
nơi con cái. Cùng với sự cảm thông và lòng quảng đại, một trong những thái độ
cần thiết cho một đời sống nội tâm dồi dào và vững chắc mà cha mẹ cần vun trồng
nơi con cái, đó là cái nhìn tích cực về người khác. Tất cả chúng ta, trẻ con
cũng như người lớn đều dễ dàng rơi vào thói quen khiển trách, phê bình, chỉ
trích, kết án người khác, thái độ tiêu cực này làm cho chúng ta bất mãn và làm
cho nội tâm chúng ta trống rỗng.
Quả thật, những lời kết án thường làm cho các quan hệ của chúng
ta với người khác trở thành vẩn đục đen tối, một cách cụ thể cha mẹ nên nhắc
nhở con cái những khác biệt hay thiếu sót, nhất là sự tàn tật của người khác.
Tựu trung, dạy cho con cái rằng cuộc sống đều có một mục đích và mỗi người đều
có một giá trị thánh thiêng là tập cho chúng nhìn người khác bằng chính ánh
sáng của Chúa. Nhìn trong ánh sáng của Thiên Chúa là chỉ nhìn thấy điều tích
cực nơi người khác, nhìn trong ánh sáng của Thiên Chúa là xuyên qua những bất
toàn của người khác, nhận ra mỗi người là đối tượng thể hiện tình yêu của mình.
19. Đạo đức
Tại miền bắc nước Pháp, người ta thường kể lại một câu
chuyện cổ tích sau đây: có một gia đình nọ gồm cha mẹ và một đứa con sống rất
hiệp nhất yêu thương nhau. Nhưng một đêm kia, đang lúc mọi người ngủ say, một
trận giông bão chưa từng xảy ra bao giờ, chỉ trong mấy giờ đồng hồ cả vùng đều
lụt lớn, nhà cửa sập cả, thây người và vật trôi bồng bềnh. Người cha của gia
đình cõng vợ trên vai mình và bà vợ tay bế đứa con. Nước càng lúc càng dâng lên
cao, chẳng bao lâu ngập đầu cả hai vợ chồng. Dù ngộp thở và vô cùng mệt mỏi, bà
mẹ cố giơ cao hai cánh tay nâng cao đứa con lên khỏi mặt nước để đứa bé khỏi
chết ngộp. Hai vợ chồng sẵn sàng chờ chết, nhưng chỉ mong có ai cứu được đứa bé
khỏi chết. Vừa lúc đó, có một thiên thần bay ngang qua, trông thấy cái đầu bé
tí nhô khỏi mặt nước, vội cầm lấy kéo lên và dính chùm theo là cả cha mẹ đứa
bé. Thế là nhờ yêu thương hiệp nhất mà cả gia đình được thoát nạn.
Có lẽ chưa bao giờ gia đình lại khủng hoảng trầm trọng trong thế
giới như chúng ta đang sống hiện nay. Rất nhiều gia đình trong xã hội là những
gia đình què quặt, tan nát, nạn ly thân, ly dị và phá thai, và những gia đình
chia ly vì chiến tranh, bạo lực, áp bức của các chế độ vô nhân. Những gia đình
bất hòa vì nạn thất nghiệp, vì nạn kinh tế khó khăn, eo hẹp hay vì nạn cờ bạc
rượu chè, ma túy, thuốc xái và ham mê buông thả trong lạc thú. Vì thế, những
người phải trả giá mắc mỏ nhất cho hậu quả của các cuộc khủng hoảng này là con
cái, là trẻ em và giới trẻ. Làm sao con người có thể hạnh phúc tươi vui khi
phải sống trong gia đình như thế? Làm sao thế giới có thể an bình thịnh vượng
khi các tế bào nòng cốt của xã hội bị bệnh hoạn như vậy? Qua ngày lễ Thánh Gia,
Mẹ Giáo Hội kêu mời chúng ta suy tư nghiêm chỉnh trở lại ý nghĩa cuộc sống gia
đình và đề nghị với chúng ta một mẫu gương, đó là mẫu gương của tổ ấm gia đình
Naxareth xưa, gia đình của Chúa Giêsu, Đức Mẹ và thánh Giuse. Chương ba sách
Đức Huấn Ca là một bài quảng diễn điều răn thứ tư của mười giới luật, dạy con
cái phải thảo hiếu cha mẹ. Ngoài những lý do luân lý tự nhiên như câu ca dao
Việt Nam nêu lên:
“Công cha như núi thái sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn
chảy ra. Một lòng thờ mẹ kính cha, cho tròn chữ hiếu mới là đạo con.”
Tác giả sách Đức Huấn Ca còn nhấn mạnh đến lý do tôn giáo nữa.
Đó là thái độ sống thảo hiếu với cha mẹ, với những người đã dày công mang nặng
đẻ đau sinh thành, dưỡng dục chúng ta. Thiên Chúa sẽ nghe lời những người con
hiếu thảo khi họ kêu khấn lên Ngài.
Suy tư trên đây là một thí dụ điển hình cho thấy người sống đạo,
người đạo đức như tác giả sách Đức Huấn Ca, biết nhìn ra ý nghĩa sâu thẳm siêu
việt nằm trong chính cái nhân loại tầm thường của cuộc sống mỗi ngày. Thiên
Chúa không xa vời đối với Chúa Giêsu nhưng Ngài luôn hiện diện ngay trong cái
tầm thường nhất của mỗi ngày sống chúng ta. Bởi vì Ngài đã đến sống giữa con
cái loài người, đồng hành với con người, chia sẻ mọi buồn vui, mọi âu lo khó
nhọc của cuộc sống con người. Khi biết nhìn thực tại bằng đôi mắt của lòng tin
thì mọi sự trong thế giới hữủ hình này đều được biến đổi và nói lên được sứ
điệp mà Thiên Chúa muốn nhắn gởi chúng ta: Một gia đình trong đó mọi thành phần
biết kính sợ Thiên Chúa, biết yêu thương tôn trọng lẫn nhau, hy sinh cho nhau,
sống cho nhau và sống vì nhau thì sẽ là một gia đình được tràn đầy phúc lành và
sức sống thiên linh của Thiên Chúa.
20. Gia đình
Quả là điều thật đáng mừng khi đời sống con người mỗi ngày một
văn minh hơn. Nhưng sự văn vinh là một con dao hai lưỡi, bởi nó có thể nâng cao
đời sống con người lên, nhưng nó cũng có sức hủy diệt con người một cách kinh
khủng, tùy theo con người tiếp nhận nền văn minh ấy như thế nào.
Thật vậy, trong thực tế nhiều người đã tiến bộ rất xa, đã phát
triển rất mạnh cả về tinh thần lẫn vật chất nhờ vào nền văn minh mà con người
đã xây dựng được. Bên cạnh đó, cũng có rất nhiều người đã bị chết chìm vì làn
sóng văn minh này phủ lấp. Nhiều người chạy theo làn sóng văn minh một cách mù
quáng mà không biết phân biệt điều hay điều dở. Một trong những điểm tiêu cực
của nền văn minh thời đại hôm nay là não trạng hưởng thụ. Để hưởng thụ, nhiều
người giàu có đã vung vãi tiền bạc ra ăn chơi xả láng, thỏa mãn mọi khát vọng.
Họ hưởng thụ và ăn chơi bất tận không có điểm dừng, đến độ không còn nhớ mình là
con người nữa. Để hưởng thụ, những người không có tiền đã tìm đủ mọi cách để
kiếm tiền kể cả phải bán rẻ lương tâm, bán rẻ nhân phẩm của mình…
Nhưng ai còn tha thiết với vận mệnh của con người, với sự tồn
vong của xã hội sẽ không thể không lo ngại trước sự xuống cấp càng ngày càng
trầm trọng về mọi mặt của đời sống con người. Cứ nhìn vào cuộc sống xã hội hôm
nay ta sẽ thấy điều đó: Cướp giật, đâm chém, lừa đảo, mại dâm, phá thai, nạo
thai, ly dị, sì ke, ma túy, tham nhũng, hối lộ, bóc lột, bụi đời v.v… Hàng trăm
ngàn thứ tệ đoan, hàng vạn vạn thứ tội ác đang diễn ra hằng ngày ở khắp nơi.
Có nhiều nguyên nhân dẫn tới những hiện tượng xã hội bi đát kể
trên. Một trong những nguyên do quan trọng đó là sự xuống cấp cách đáng sợ nơi
nhiều gia đình. Có lẽ chưa có thời đại nào người ta thấy có nhiều cha mẹ giết
con, nhiều con cái giết cha mẹ như thời đại hôm nay. Có lẽ chưa có thời đại nào
người ta thấy có nhiều đứa con bất hiếu bắt cha mẹ già lê lết đầu đường, xó chợ
xin sự bố thí của người khác để kiếm tiền vể nộp cho con như thời đại hôm nay.
Có lẽ chưa có thời đại nào có nhiều cha mẹ tàn nhẫn đến độ bán con đi làm gái
mại dâm, bắt con đi ăn xin hoặc cho mướn con để người khác đao đi ăn xin trong
khi cha mẹ nhởn nhơ ở nhà như thời đại hôm nay. Có lẽ chưa có thời đại nào mà
các gia đình, những tổ ấm của các trẻ thơ lại biến thành những hang ổ để người
lớn mua bán tình dục nhiều như thời đại hôm nay. Có lẽ chưa có thời đại nào đời
sống hôn nhân bị coi rẻ, đời sống vợ chồng bị phản bội và đổ vỡ nhiều như thời
đại hôm nay. Vợ chồng đánh đập nhau như hai con thú dữ, chửa rủa nhau bằng
những ngôn từ hạ đẳng. Người ta lấy nhau đó rồi cũng bỏ nhau đó. Người ta ăn ở
với nhau đó rồi cũng đá đít nhau đó. Người ta thề hứa chung thủy đó, nhưng cũng
bất trung đó v.v…
Những điều nói trên tưởng không thể có, nhưng chúng đã và đang
xảy ra. Vì chúng đã và đang xảy ra nên ta không thể nhắm mắt làm ngơ, cũng
không thể né tránh không đề cập đến chúng. Làm nơ để cho sự dữ hoành hành cũng
là một trọng tội. Do đó, cần can đảm đối diện với chúng và kiên quyết loại trừ
chúng ra khỏi đời sống gia đình. Gia đình có lành mạnh thì xã hội mới lành
mạnh. Chính trong môi trường lành mạnh của gia đình và xã hội, con người mới có
thể phát triển một cách quân bình.
Thưa quý ông bà, quý anh chị đang được diễm phúc làm cha, làm
mẹ. Quí vị có nghe thấy tiếng kêu gào nức nở trong tuyệt vọng của những thai
nhi, của những trẻ thơ, con cái của vị không?
Cha ơi, mẹ ơi, cha mẹ đã tác tạo nên con, xin hãy cho con được
sống. Xin đừng giết con đi khi con chưa kịp nhìn thấy ánh mặt trời. Cha mẹ ơi,
xin cho con một mái ấm gia đình. Xin đừng biến nhà mình thành địa ngục. Xin
đừng biến nơi nương náu của con thành một nơi nhầy nhụa tội lỗi. Cha mẹ ơi, xin
cha mẹ đừng bỏ nhau. Hãy ở lại với nhau để con là người có cha, có mẹ, để con
có thể gọi lên những tiếng thân thương: Cha ơi, mẹ ơi. Xin cha mẹ đừng bắt con
phải một mình lang thang vất vưởng giữa chợ đời muôn ngàn cạm bẫy này. Cha mẹ
ơi, hãy cho con học hành để con có thể ngửa mặt với đời khi con lớn khôn. Xin
đừng bắt con cứ phải cúi gằm mặt xuống mà đi, đừng bắt con mai này phải đi làm
tôi cho người khác hút máu mủ con. Cha mẹ ơi, xin hãy cho con sự giáo dục đứng
đắn để con có thể lớn lên thành người. Xin đừng bỏ mặc con như một con thú
hoang v.v…
Còn nữa, còn nữa và còn rất nhiều lời van xin thống thiết khác
nữa. Các trẻ thơ hôm nay đang van xin những người lớn, van xin chúng ta, những
người cha, người mẹ của chúng nhiều điều chính đáng lắm. Chúng ta có nghe thấy
những tiếng kêu gào nức nở ấy không, thưa quý ông bà và anh chị em?
21. Suy niệm của JKN
Nghịch cảnh và đau khổ trong gia đình có thể là phương tiện
thánh hóa của Thiên Chúa
Câu hỏi gợi ý:
1. Việc Đức Giêsu bị bách hại khiến Thánh Gia phải trốn sang Ai
Cập là do lòng độc ác của vua Hêrôđê, nhưng có phải cũng nằm trong kế hoạch của
Thiên Chúa không? – Những hoạn nạn của ta do lòng độc ác của người khác có
tương tự như thế không?
2. Thiên Chúa muốn Đức Giêsu và Thánh Gia Thất bị hoạn nạn đau
khổ như thế để làm gì? do Ngài thương yêu hay ghét bỏ Thánh Gia Thất? Nếu do
yêu thương, thì phải giải thích thế nào?
3. Khi gia đình ta gặp đau khổ thử thách, thì cách khôn ngoan
nhất để gia đình vẫn có thể bình an và hạnh phúc là gì?
Suy tư gợi ý:
1. Đau khổ mà Thiên Chúa dành cho Đức Giêsu và Thánh Gia
Bài Tin Mừng cho thấy ngay khi vừa sinh ra, Đức Giêsu đã trở
thành đối tượng bị bách hại, là nạn nhân thoát chết của sự độc ác nơi con
người. Thật vậy, vừa sinh ra, Ngài đã bị vua Hêrôđê tìm giết, chỉ vì ông tưởng
rằng trong tương lai Ngài sẽ chiếm mất ngai vàng của ông. Thánh Gia cũng gặp
biết bao thử thách ngay khi vừa mới thành lập, do sự vô tình, hiểu lầm và vô
lương tâm của con người. Thật vậy, khi Giuse và Maria vừa thành gia thất, hai
người đã phải chịu búa rìu của dư luận về việc Maria mang thai khi chưa chính
thức làm đám cưới; và việc Giuse chấp nhận lấy Maria làm vợ dù con trong bụng
nàng không phải là của mình. Rồi vừa mang thai được mấy tháng thì phải về tận
Bêlem để đăng ký hộ khẩu, và do nghèo mà không được ai giúp đỡ, Maria đã phải
sinh con trong chuồng súc vật. Thật nhục nhã và đau lòng! Chưa hết, vừa sinh
con ra, hai ông bà đã phải vượt biên trốn sang Ai Cập, chịu bao đắng cay và khổ
nhục! Những khổ nhục ấy không chỉ do con người gây ra, mà còn do sự sắp đặt của
chính Thiên Chúa trong kế hoạch của Ngài nữa. Phải nói rằng con người mà Thiên
Chúa Cha yêu thương nhất chính là Đức Giêsu! Nhưng chính Ngài lại là con người
bị Thiên Chúa đày đọa nhiều nhất: «Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã phải trải
qua nhiều đau khổ» (Dt 5,8). Cũng vậy, gia đình mà Thiên Chúa lưu tâm nhất
chính là Thánh Gia Nadarét. Nhưng đó cũng là gia đình mà Thiên Chúa thử thách
và làm cho đau khổ nhiều nhất! Thật kỳ diệu, khó hiểu và đầy mâu thuẫn! Nhưng
đó chính là thánh ý của Ngài! Thiên Chúa có điên chăng? Không, Ngài rất khôn
ngoan, nếu chúng ta không hiểu được chính vì sự khôn ngoan ấy vượt quá khả năng
suy nghĩ và hiểu biết của chúng ta!
2. Nhưng đau khổ lại là nguồn hạnh phúc và vinh quang
Nhìn lại kết quả của những thử thách ấy, ta thấy: Đức Giêsu và
Thánh Gia hiện nay đang được tôn sùng nhất, cao sang nhất, vinh quang nhất
không chỉ ở dưới đất mà còn cả trên trời nữa! Nhìn thế ta mới thấy rõ sự ưu ái
mà Thiên Chúa dành cho Đức Giêsu và gia đình của Ngài. Một sự ưu ái đầy công
bằng khiến cho không ai trên trần lẫn trên trời có thể ganh tị được! Sự công
bằng của Thiên Chúa đòi hỏi phải có sự tỷ lệ thuận giữa đau khổ và hạnh phúc,
giữa nhục nhã và vinh quang, giữa tự hạ và được nâng lên… Thiên Chúa luôn luôn
dùng đau khổ để thánh hóa và tinh luyện tình yêu của con người, dùng nhục nhã
để đưa con người đến vinh quang. Tuy nhiên, những đau khổ chịu ở đời này quả là
quá nhỏ bé so với hạnh phúc và vinh quang mà Thiên Chúa ban thưởng vì những đau
khổ ấy: «Những đau khổ chúng ta chịu bây giờ sánh sao được với vinh quang mà
Thiên Chúa sẽ mặc khải nơi chúng ta» (Rm 8,18). Vấn đề quan trọng và tùy thuộc
nơi con người là: con người có chấp nhận luật công bằng đó hay không, có chấp
nhận để Thiên Chúa thánh hóa và tinh luyện tình yêu của mình không. Nghĩa là
khi chịu đau khổ, con người có nhận ra đó là thánh ý Thiên Chúa để vui lòng
chấp nhận không? Thiếu sự vui lòng chấp nhận này, thì hạnh phúc và vinh quang
không thể thành tựu được. Thánh Phaolô viết: «Nếu ta cùng chết với Người, ta sẽ
sống với Người; nếu ta cùng đau khổ với Người, ta sẽ thống trị với Người» (2Tm
2,11-12a), nhưng ngài cũng thêm: «Nếu ta chối bỏ Người, Người cũng sẽ chối bỏ
ta» (2Tm 2,12b).
3. Hãy thực hiện thánh ý Chúa trong mọi tình huống của gia
đình
Trong đời sống gia đình, ta cũng sẽ gặp thử thách và đau khổ do
sự thiếu tình thương, vô tình, hiểu lầm, tính ích kỷ và độc ác của người khác,
thậm chí của chính những người trong gia đình mình. Chính ta cũng gây ra những
thử thách và đau khổ tương tự như thế cho tha nhân, và cho cả những người trong
gia đình mình. Nhưng những thử thách đó đều nằm trong kế hoạch của Thiên Chúa
nhằm thánh hóa và tinh luyện tình yêu nơi bản thân ta cũng như những người thân
trong gia đình ta. Điều quan trọng là ta phải nhận ra thánh ý Thiên Chúa trong
những thử thách đó, và luôn luôn sẵn sàng làm theo thánh ý Ngài. Gia đình
Nadarét xưa cũng gặp rất nhiều đau khổ, nghịch cảnh như gia đình chúng ta đã
gặp. Có biết bao hoàn cảnh khiến người trong gia đình hiểu lầm nhau, tạo nên
những xung đột, v.v… làm cho nhau đau khổ, và đòi buộc mọi người phải chịu
đựng, tha thứ lẫn nhau. Chính trong thử thách và đau khổ, con người mới chứng
tỏ được tình yêu của mình đối với Thiên Chúa và tha nhân, đặc biệt đối với
những người trong gia đình mình.
Nếu Thiên Chúa đã để cho Đức Giêsu, cũng như Đức Maria và Thánh
Giuse phải đau khổ để thánh hóa, tinh luyện tình yêu các Ngài hầu ân thưởng bội
hậu các Ngài, thì Thiên Chúa cũng đang thực hiện như vậy đối với ta và gia đình
ta. Nên nhớ rằng: «Vinh quang sẽ đến sau những đau khổ đó» (1Pr 1,11). Thiên
Chúa muốn dành cho ta những hạnh phúc và vinh quang lớn lao. Nhưng sự công bằng
của Ngài đòi hỏi ta phải ít nhiều xứng đáng với hạnh phúc và vinh quang ấy, nên
Ngài phải thử thách ta chút ít để ta chứng tỏ được tình yêu của ta. Vì thế, hãy
lấy làm vui mừng khi được Ngài thử thách: «Được chia sẻ những đau khổ của Đức
Kitô bao nhiêu, anh em hãy vui mừng bấy nhiêu, để khi vinh quang Người tỏ hiện,
anh em cùng được vui mừng hoan hỷ» (1Pr 4,13).
Điều quan trọng là chúng ta phải có tình yêu đích thực đối với
tất cả mọi người trong gia đình ta. Và biểu hiện của tình yêu đích thực – tức
«hoa quả của Thần Khí» – là «bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ
tâm, trung tín, hiền hoà, tiết độ» (Gl 5,22-23). Nếu «yêu nhau không phải là
nhìn nhau, mà là cùng nhau nhìn về một hướng» như Saint-Exupéry nói, thì trong
gia đình, hướng chung đó phải là cùng nhau xây dựng hạnh phúc gia đình, hạnh
phúc chung của mọi thành viên trong đó. Muốn thực hiện được hạnh phúc ấy thì
điều cần thiết là mọi người đều phải đặt thánh ý Thiên Chúa là tối quan trọng,
và luôn luôn thi hành thánh ý Ngài. Mà thánh ý Ngài chính là mọi người trong
gia đình yêu thương và hy sinh cho nhau (x. (Ga 13,34)-35).
Hạnh phúc gia đình phải được xây dựng trên nền tảng là cùng nhau
thực hiện thánh ý Thiên Chúa thì mới vững bền. Cổ nhân nói: «Thuận Thiên giả
tồn, nghịch Thiên giả vong» (=thuận theo Trời thì còn, thì hạnh phúc, nghịch
với Trời thì mất, thì đau khổ). Câu này đúng trong mọi trường hợp, đặc biệt
trong mọi tình huống của gia đình. Nếu không quan tâm thực hiện thánh ý Ngài,
con người càng tìm hạnh phúc thì càng gặp đau khổ. Nếu vì chính bản thân ta
không hy sinh và nỗ lực tạo hạnh phúc cho gia đình mình nên gia đình ta không
hạnh phúc, thì ta nên xét lại cách cầu nguyện và cách sống đạo của ta. Rất có
thể ta đã cầu nguyện và sống đạo một cách sai lạc, không đẹp lòng Thiên Chúa.
Cần sám hối và sửa sai. Đừng tưởng cứ cầu nguyện cho nhiều là làm đẹp lòng
Thiên Chúa! Cần cầu nguyện cho có phẩm chất hơn là cầu nguyện cho nhiều. Cầu
nguyện có phẩm chất đòi hỏi lòng chân thành và tình yêu thật sự, hay ít nhất là
hướng đến việc gia tăng tình yêu trong lòng mình. Hiệu quả tất yếu của việc cầu
nguyện đích thực là tình yêu trong lòng mình ngày càng gia tăng. Dựa vào đó, ta
có thể biết mình có thật sự cầu nguyện hay cầu nguyện đẹp lòng Chúa hay không.
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, đời sống gia đình có biết bao khó khăn, thử thách và
đau khổ, chẳng những đến từ ngoại cảnh, từ xã hội, mà còn đến từ chính những
người trong gia đình. Xin cho con nhận ra mọi đau khổ thử thách đều là những
phương tiện Cha dùng để thánh hóa, tinh luyện tình yêu của bản thân con và gia
đình con, để chúng con có được những cơ hội quý giá chiếm được những phần
thưởng vô cùng lớn lao mà Cha muốn dành cho chúng con. Xin ban cho con mọi
người trong gia đình con đủ tình yêu để gia đình con trở thành một tổ ấm hạnh
phúc, thành một hình ảnh của thiên đàng mai sau.
22. Chú giải của Lm. FX. Vũ Phan Long
SỰ HƯỚNG DẪN VÀ CHE CHỞ CỦA THIÊN CHÚA
1.- Ngữ cảnh
Bản văn đưa chúng ta đi vào tấn bi kịch: Vừa chào đời, Hài Nhi
Giêsu đã bị vua Hêrôđê tìm cách tiêu diệt. Toàn bản văn có hai nét tiêu biểu:
(1) Cuộc sống của Hài Nhi bị đe dọa, và vì thế, công trình cứu thế cũng bị đe
dọa; (2) Thiên Chúa che chở Hài Nhi. Bản văn không hề có chút gì là màu sắc
lãng mạn: các biến cố được mô tả rất đơn giản, y như thể là bài tường thuật về
một sự kiện thời sự.
2.- Bố cục
Có thể chia bản văn Mt 2,13-21 thành ba phần, cuối mỗi phần có
một ghi nhận về sự hoàn tất các sấm ngôn:
1) Cuộc đi trốn sang Ai Cập (2,13-15);
2) Mối đe dọa thật trầm trọng (2,16-18);
3) Mối đe dọa chấm dứt – Trở về quê hương (2,19-21).
Bản văn phụng vụ không đọc phần thứ hai.
3.- Vài điểm chú giải
- trốn sang Ai Cập (13): Đây là
miền đất những người Do Thái bị bách hại thường tìm đến mà ẩn náu (x. 1 V
11,40; 2 V 25,26), nhất là từ khi xảy ra các xáo trộn thời Macabê. Rất có thể
Giuse đã đến Arít, phía nam Gada: đến được đó, thì đã coi như ngài đã ở trên
đất Ai Cập; vùng này được Rôma trực tiếp kiểm soát từ năm 31 tCN. Dù thế nào,
đi từ Bêlem xuống Ai Cập chỉ mất năm hay sáu ngày.
- Ta đã gọi con Ta ra khỏi Ai Cập
(15): Mt trích sách ngôn sứ Hôsê Hípri với chi tiết “con Ta”, còn Bản LXX thì
viết là “các con của nó.” Lời sấm Hs gợi đến cuộc Xuất hành của Israel, vì khi
đó họ đã được gọi là “con Ta” ở Xh 4,22. Theo cách Mt đặt Israel và Đức Giêsu song
đối với nhau, ta phải kết luận rằng Đức Kitô sáp nhập dân mới của Thiên Chúa,
tức là Hội Thánh, vào bản thân Người và Người sẽ lôi kéo dân mới này đi theo
trong cuộc Xuất hành cánh chung của Người.
- giết tất cả các con trẻ ở Bêlem
và toàn vùng lân cận, từ hai tuổi trở xuống (16): Rất có thể con số các
trẻ em bị giết không vượt quá hai mươi, do mật độ dân số thưa thớt và tỷ lệ
sinh ít ỏi ở Bêlem thời đó (theo tính toán của D. Buzy).
- tính theo ngày tháng ông đã hỏi
cặn kẽ các nhà chiêm tinh (16): Ta có cảm tưởng là điều này không thật,
bởi vì vua Hêrôđê có thể dễ dàng cho người đến Bêlem mà tìm ra ngôi nhà đã được
các hiền sĩ đến thăm. Câu trích Gr 31,15 và giọng văn rất giản dị khiến người
ta nghĩ bản văn này là một bài giáo lý hơn là một tư liệu lịch sử. Tuy nhiên,
chứng giận dữ điên cuồng mù quáng dại dột của nhà vua thì rất phù hợp với những
gì chúng ta biết được về những năm cuối đời ông.
- Ở Rama, vẳng nghe tiếng khóc than
rền rĩ: tiếng bà Rakhen khóc thương (18): Bản văn trích từ Gr 31,15
dường như là một bản dịch tóm bản văn Hípri. Vị ngôn sứ cho thấy bà Rakhen, mẹ
của Giuse (các chi tộc Épraim và Mơnase) và Bengiamin, trỗi dậy từ ngôi mộ của
bà gần Rama (khoảng 8 cs về phía bắc Giêrusalem) mà khóc trên nỗi bất hạnh của
các cháu chắt bà, vì họ đang bị người Átsua đưa đi lưu đày (khoảng năm 722
tCN). Truyền thống Do Thái đã lầm khi xác định Éprát, nơi có mộ bà Rakhen, là
Bêlem (St 35,19), nhưng giúp cho tác giả Mt có cơ sở mà liên kết bản văn
Giêrêmia với hoàn cảnh hiện tại. Tuy nhiên, để hiểu ý hướng của Mt khi quy
chiếu về chương này của Gr, cần thấy rằng các câu sau (Gr 31,16-17) giới thiệu
một bầu khí khác, đưa tới lời Thiên Chúa hứa lập một giao ước mới với nhà
Israel (Gr 31,31-33). Theo Mt, việc Đức Giêsu trở về từ Ai Cập đánh dấu bước
đầu hoàn tất lời sấm ấy: “giao ước mới” được Gr tiên báo, này đang đi dần tới
chỗ được thực hiện nơi bản thân Đức Giêsu.
- vì những kẻ tìm giết Hài Nhi đã chết rồi
(20): Câu này trích từ Xh 4,19 (“Đi đi, hãy trở về Ai Cập, bởi vì mọi kẻ tìm
cách làm hại mạng sống ngươi đã chết cả rồi”).
- Áckhêlao (22): Ông cai trị
miền Giuđê từ năm 4 tCN đến năm 6 CN. Mt không nói vì sao Giuse muốn rời bỏ
miền đất do Áckhêlao cai trị. Lịch sử cho biết Áckhêlao cũng độc ác như vua
cha, nhưng không thông minh và khôn khéo về chính trị như vua cha. Mt không nói
lý do, có lẽ vì muốn để cho quyết định của Giuse hoàn toàn lệ thuộc sự hướng
dẫn của Thiên Chúa.
- Người sẽ được gọi là người Nadarét
(23): Qua sự kiện Đức Giêsu về ở tại Nadarét, Mt thấy nhiều bản văn ngôn sứ
được ứng nghiệm. “Người Nadarét” là nazôraios trong tiếng Hy Lạp. Nhưng
nazôraios cũng còn có thể có hai nghĩa sau:
(1) Nazôraios có quan hệ với naziraios (LXX) là từ ngữ dẫn xuất
từ từ ngữ Hípri na-dia (nazýr). Na-dia là một người “biệt cư”, một vị “thánh”, như Samsôn (x. Tl
13,5-7: đoạn này thường được liên kết với Mt 1–2), phải tuân giữ những luật lệ
nghiêm ngặt. Luca giới thiệu Gioan Tẩy Giả (Lc 1,15), và Đức Giêsu (1,35), như
một na-dia, kế thừa các vị thánh Cựu Ước.
Thật ra, văn cảnh Mt 1–2 khó phù hợp với ý tưởng về truyền thống
na-dia này.
(2) Nazôraios có quan hệ với từ Hípri nêser, “mầm mống, chồi
lộc” (x. Is 11,1; Gr 23,5; 33,15; Dcr 3,8; 6,12). Đấng Mêsia được gọi bằng tên
này để diễn tả thân phận thấp hèn, khiêm tốn.
Từ này yếu hơn từ trước về phương diện ngữ học, nhưng lại phù
hợp với văn cảnh Mt ch. 2 hơn.
4.- Ý nghĩa của bản văn
Trong bản văn chúng ta đọc hôm nay, tác giả Mt diễn tả rõ ràng
hình ảnh Đấng Mêsia bị dân Người loại trừ và bách hại. Ông cũng theo sát quan
niệm của các kinh sư về một cuộc Xuất hành mới vào thời cánh chung mà trình bày
loạt các biến cố này như một cuộc Xuất hành mới, tiên báo cuộc Xuất hành cuối
cùng của lịch sử nhân loại mà Đức Giêsu sẽ thực hiện qua sứ vụ của Người: ở đây
cũng có một ông vua sát hại các trẻ em Do Thái; nhưng cũng như Môsê đã được
mang đi giấu và được cứu, Đức Giêsu cũng thoát khỏi cái chết; Thiên Chúa đã gọi
Israel ra khỏi Ai Cập, bây giờ chính là Đức Giêsu, Israel mới, ra khỏi Ai Cập.
* Cuộc đi trốn sang Ai Cập (13-15)
Giuse được Thiên Chúa giao cho nhiệm vụ che chở và bảo vệ Maria
và Hài Nhi (1,20t) và ngài đã vâng lời chấp nhận nhiệm vụ (1,24t). Kể từ đó,
ngài sống là để phục vụ mẹ con Hài Nhi. Điều ngài phải làm, đã được biểu lộ đặc
biệt vào dịp Hài Nhi bị đe dọa. Ba mệnh lệnh ngài nhận được từ Thiên Chúa luôn
luôn có nguyên do là hoàn cảnh hiểm nghèo này (2,13.20.22). Thật ra lệnh Thiên
Chúa đã được hiểu ngầm trong hoàn cảnh, bởi vì hoàn cảnh diễn tả điều mà Giuse
được yêu cầu làm để bảo vệ Hài Nhi. Hành động của Giuse được xác định như là
cách ứng xử do hoàn cảnh bó buộc dưới sự hướng dẫn của Thiên Chúa. Tương ứng
với mỗi lệnh là việc Giuse thi hành chính xác điều được yêu cầu (2,14.21.23).
Giuse vâng lời Thiên Chúa theo sát mặt chữ và tức khắc (ngay trong đêm; không
biết ngày về). Luật tối thượng của đời sống ngài là ý muốn của Thiên Chúa, Đấng
đã giao phó Hài Nhi cho ngài.
Hài Nhi luôn luôn được nhắc đến cùng với mẹ Người
(2,13.14.20.21). Tuy nhiên, tác giả không nêu tên bà. Maria không được nhắc đến
vì chính mình, nhưng vì công việc phục vụ từ mẫu bà cống hiến cho Hài Nhi, và
Hài Nhi phải nhờ đó mà sống. Cũng như Giuse được giao cho nhiệm vụ che chở Hài
Nhi khỏi các nguy hiểm bên ngoài, Maria được giao cho bổn phận săn sóc Hài Nhi
để Hài Nhi lớn lên. Giuse và Maria có những nhiệm vụ khác nhau, nhưng tại trung
tâm đời sống các ngài, có công việc giống nhau là phục vụ Đức Giêsu.
Khi kết thúc bài tường thuật đầu tiên này, tác giả Mt đã vận
dụng bản văn Hs (11,1) không phải để nói về cuộc trốn sang Ai Cập, nhưng là
chuyến đi từ Ai Cập về đất Israel. Bằng cách này, ngài muốn đề cao ơn gọi thiên
sai của Đức Giêsu (sẽ được công bố tại sông Giođan), như xưa kia, dân Do Thái,
khi được gọi ra khỏi Ai Cập, đã trở thành dân “sở hữu” của Thiên Chúa (Xh
19,5).
* Mối đe dọa thật trầm trọng (16-18)
Lối xử sự của vua Hêrôđê hoàn toàn ngược lại với lối xử sự của
Maria và Giuse. Hai đấng che chở và săn sóc Hài Nhi, còn vua Hêrôđê thì muốn
loại trừ Người, khi ông cảm thấy vương quyền của ông bị ấu chúa dân Do Thái đe
dọa (2,2). Ông đã coi vương quyền của ông như mục tiêu tự nó có giá trị; ông bị
chiếm hữu bởi ý chí hùng cường. Do đó, ông chỉ có một mối bận tâm, là vận dụng
mọi phương tiện để đảm bảo vương quyền, kể cả vi phạm bổn phận đầu tiên của một
vị vua, là che chở thần dân mình: như mục tử chăm sóc đoàn chiên, một vị vua
cũng phải săn sóc dân mình (x. 2,6). Hêrôđê đã xúc phạm đến sự sống của dân
ông, khi cho sát hại các hài nhi. Vì muốn loại trừ Đấng mà ông đang tìm kiếm,
ông muốn chắc chắn nên đã gây ra cuộc tàn sát các hài nhi Bêlem. Ở đây Hêrôđê
là hình ảnh của Pharaô ngày xưa tái hiện, vì trước Xuất hành, Pharaô đã giết
các trẻ nam Israel (x. Xh 1,15-22).
* Mối đe dọa chấm dứt – Trở về quê hương (2,19-21)
Cái chết của vua Hêrôđê đã loại trừ nguy hiểm, nên Thánh Gia có
thể trở về quê. Tuy nhiên, vì sợ Hêrôđê Áckhêlao, Giuse đã quyết định đưa Hài
Nhi về Nadarét. Tác giả nhận ra qua hành trình Hài Nhi theo để đi sang Ai Cập
rồi trở về Nadarét là chương trình của Thiên Chúa được hoàn tất. Lời ngôn sứ
Hôsê 11,1 (“Ta đã gọi con Ta ra khỏi Ai Cập”) lúc đầu nhắm tới việc dân Israel
thoát ách nô lệ Ai Cập; nay vị trí của dân Thiên Chúa, Đức Giêsu, trong tư cách
là Con Thiên Chúa theo cách tuyệt đối đặc biệt (x. 3,17), đã chiếm lấy. Công
thức “Người sẽ được gọi là người Nadarét” không có trong bất cứ sách ngôn sứ
nào; chính Mt cũng không quy chiếu về vị ngôn sứ nào, nhưng nói ở số phức “các
ngôn sứ.”
Câu văn ấy trước tiên cho thấy Đức Giêsu như là người đến từ Nadarét. Đây có
thể là một gợi ý đến Is 11,1, vì trong câu ấy, có loan báo về mầm chồi (nêser)
phát xuất từ gốc Giêsê như là Hoàng tử bình an, đầy Thần Khí và công chính;
cũng có thể gợi đến cả Gr 23,5; 33,15, vì ở đó có cho biết là dân chúng đang
trông mong một vị vua công chính và khôn ngoan như là một mầm chồi cho Đavít.
Chúng ta ghi nhận là trong đoạn tường thuật cuối cùng này, Mt so
sánh Đức Giêsu với Môsê. Cũng như Môsê đã thoát chết cách huyền nhiệm (Xh
2,1-10) và đã trốn sang đất ngoại quốc để tránh Pharaô (Xh 2,11-15) trước khi
đương đầu công khai với nhà vua theo lệnh Thiên Chúa, thì Đức Giêsu, sau khi đã
được tấn phong làm ngôn sứ (Xh 3,1-12), cũng thoát khỏi cuộc tàn sát và trốn
bạo chúa (cc. 13-15), rồi lui về Nadarét (c. 23) để tái xuất hiện và rao giảng
công khai, sau khi được tấn phong làm Mêsia khi chịu phép rửa (ch. 3–4). Nét
tương đồng với Môsê được khẳng định qua lời thiên sứ trích từ Xh 4,19. Đến cuối
cuộc xuất hành này, Đức Giêsu sẽ tái xuất hiện trên sân khấu xã hội Do Thái dẫn
đầu đoàn người đông đảo (4,25), và Người sẽ ban cho họ Luật mới (Bài Giảng trên
núi, ch. 5–7), như Môsê sau Xuất hành, tại núi Sinai.
+ Kết luận
Ý muốn sát nhân của vua Hêrôđê đã bị sự che chở của Thiên Chúa
triệt tiêu, mà lại không dùng bất cứ phương tiện phi thường nào. Do biết đi
trốn và biết khôn ngoan nhận định tình hình, Giuse đã bảo vệ Con Trẻ được an
toàn. Giuse đã là một dụng cụ Thiên Chúa dùng; ngài vâng lời Thiên Chúa và ra
sức hành động để phục vụ sự sống của Hài Nhi. Do ý muốn của Thiên Chúa, Đức
Giêsu đã đi sang Ai Cập rồi về Nadarét, và thế là chương trình của Thiên Chúa
được ứng nghiệm (2,15.23). Những ai bị cuộc xuất hiện của Đức Giêsu “phá rối”
thì vận dụng mọi phương tiện để chống lại Người. Nhưng Đức Giêsu ở dưới sự che
chở của Thiên Chúa. Các dụng cụ Thiên Chúa dùng là các con người, được kêu gọi
để phục vụ Hài Nhi. Trong câu truyện vừa đọc, ta thấy rõ ý nghĩa của sự hiện diện
của Giuse và Maria đối với Hài Nhi Giêsu.
Đức Giêsu vừa là Môsê mới (Ai Cập) vừa là con cháu Đavít
(Bêlem). Cuộc trốn sang Ai Cập không phải là một ngoặc đơn tình cờ trong định
mệnh Đức Giêsu, nhưng là một sự kiện đầy ý nghĩa nối kết định mệnh này với toàn
thể lịch sử Israel. Chương trình của Thiên Chúa đang điều hành trọn vẹn cuộc
đời Đức Giêsu.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Một em bé là một con người yếu ớt, mong manh, không quyền
lực, bị đe dọa trong cuộc sống. Em không thể tự vệ, cũng không thể tự khẳng
định. Chỉ nguyên chuyện tiếp tục sống, em cũng cần được săn sóc và giúp đỡ. Em
lại càng cần được che chở cách hiệu quả và khôn ngoan để có thể thoát các nguy
hiểm. Vô sô hài nhi đã trở thành nạn nhân của chính tình trạng thiếu khả năng
tự vệ. Hài Nhi Giêsu cũng thông dự vào nguy cơ này. Làm sao khỏi cảm kích trước
mầu nhiệm Nhập Thể đã đưa Con Thiên Chúa đến chỗ chia sẻ thân phận con người
như thế?
2. Giuse biết rõ mình là ai và biết rõ mình phải làm gì và ngài
sống đúng theo chiều hướng đó. Ta không hề thấy Giuse bận tâm đến chút quyền
lợi riêng tư nào. Ngài chấp nhận mọi mệt nhọc, mọi mò mẫm; ngài chỉ có một mục
tiêu là phục vụ sự sống của Hài Nhi. Thiên Chúa là Đấng hướng dẫn và Giuse là
người thi hành. Cuộc sống Kitô hữu cũng có những mệt nhọc và những mò mẫm như
đi trong đêm tối. Thiên Chúa kêu gọi, Thiên Chúa hướng dẫn, nhưng Ngài không
chỉ rõ con đường phải theo. Ngài để cho con người suy nghĩ, vận dụng sáng kiến,
mà cộng tác với Ngài.
3. Giuse và Maria có những nhiệm vụ khác nhau, nhưng đều nhằm
phục vụ Hài Nhi Giêsu. Thật ra công việc phục vụ này không có gì đặc biệt, mà
chỉ là công việc của một người cha và một người mẹ như bất cứ cha mẹ nào: săn
sóc đứa con, bảo vệ che chở, làm cho nó lớn lên an toàn. Qua điểm này, chúng ta
nhận ra sự hạ cố của Thiên Chúa: Người chấp nhận sự săn sóc của loài người, các
thọ tạo của Người. Nhưng đấy cũng là một bài học cho chúng ta: cứ làm những
việc bổn phận thuộc bậc sống, chúng ta lại có thể đang thực hiện những điểm
trọng yếu trong lịch sử cứu độ.
4. Quyền bính của Giuse, chủ gia đình, là một quyền bính trung
gian. Ngài nhận các mệnh lệnh từ Thiên Chúa và truyền đạt cho các thành viên
trong gia đình. Như thế, quyền bính này là một việc phục vụ. Mục tiêu Giuse
nhắm không phải là thỏa mãn chính mình, nhưng là phục vụ Con của mình bằng cách
bảo vệ Con khỏi nguy hiểm. Đức Maria và Đức Giêsu vâng lời Giuse, vì nhận ra
nơi lời ngài có Lời Thiên Chúa. Đây chính là sự hài hòa và bổ túc của các vai
trò trong gia đình: mỗi người được mời gọi sống ơn gọi của mình trong tình yêu
và sự kính trọng người khác.
5. Quyền lực được giao là để phục vụ hạnh phúc của nhân dân. Như
thế, gương phải theo khi thi hành quyền lực là chính Thiên Chúa. Hêrôđê chỉ
biết đến mục tiêu cá nhân, chứ không hề quan tâm đến những con người, dù là
những con người yếu đuối, vô tội. Khi đó, mọi phương tiện đều tốt, kể cả sát
hại hàng loạt những trẻ thơ vô tội. Dĩ nhiên không ai trong chúng ta lại không
rùng mình khi nghĩ đến sự tàn ác của vua Hêrôđê, nhưng chúng ta có thể tự hỏi:
Chúng ta có thật sự tôn trọng người khác, vì họ là con cái Thiên Chúa, và anh
chị em của chúng ta chăng, hay là đôi khi chúng ta cũng nghĩ đến người khác chỉ
như là phương thế để trục lợi, để giải quyết mọi khúc mắc của chúng ta, rồi sau
đó mau mắn bỏ rơi và quên mất họ?
6. Đoạn văn nói đến diễn tả rõ ràng sự quan phòng của Thiên Chúa
trên cuộc đời Đức Giêsu. Nhưng quan phòng không có nghĩa là làm cho cuộc đời
của Đức Giêsu tiến đi trên thảm mịn, rải toàn hoa hồng. Đức Giêsu vẫn gặp đủ
thứ thử thách. Nhưng Thiên Chúa quan phòng đưa lại một ý nghĩa cho các thử
thách, tháp chúng vào trong một chương trình cứu độ (x. Rm 8,28).
23. Chú giải của Noel Quesson
Sau khi các nhà chiêm tinh đến thăm Bê-lem.
Nếu bạn có một sách Tin Mừng tại nhà bạn và nếu các bạn có chút
hiếu kỳ thiêng liêng, hãy đọc lại những câu truyện này.
1. Trong gia phả, Đức Giêsu được gọi là Con Đa-vít, Con Abraham.
2. Trong tin báo cho Giuse, chính hài nhi này bắt đầu thực hiện
những lời hứa trong Kinh Thánh, và được mạc khải như Thiên Chúa cứu độ, Thiên
Chúa ở cùng chúng tôi
3. Rồi theo Mátthêu, tiếp ngay đến cuộc thăm viếng của các nhà
chiêm tinh; không có những mục đồng Do Thái Giêrusalem, dẫu thế, được báo cho
biết trước về chuyện đang xảy ra trong vùng ngoại ô kế cận (Bê-lem cách độ
8km!) vẫn không động tĩnh... trong khi những người nước ngoài từ Phương Đông
đến từ xa, phục lạy trước hài nhi, được gọi khi ấy là “vị đứng ra sẽ chăn dắt
Do Thái dân của tôi.”
Khi các nhà chiêm tinh đã ra về, thì sứ thần Chúa hiện ra
báo mộng cho ông Giuse
Trong trang mà chúng ta sắp đọc, tên Giuse được kêu lên bốn lần.
Đó là người duy nhất được gọi tên như thế. Giuse là vai trung tâm của câu
truyện. Chủ gia đình, ông chịu trách nhiệm nhóm nhỏ, luôn luôn được giới thiệu
vô danh cho hai nhân vật khác là Hài nhi vâ Mẹ của Hài nhi. Chúng ta cũng sẽ lưu
ý rằng trên trang này, Giuse có tầm quan trọng lớn lao, ông không nói một lời.
Chính ông lâ người ở phần trước sân khấu, là người nhận trực tiếp các sứ điệp
trên trời, lại không nói... mà ông hành động.
Này ông, dậy đem Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Ai-cập
Ôi, cái tiếng ‘dậy đi!’
Tất cả những người nghiên cứu tiếng Do Thái sẽ nhận ra kiểu nói
rất hay gặp trong Kinh Thánh. "Khum! "Dậy đi.” Cái thể mệnh lệnh, cái
động từ chỉ tất cả những lời kêu gọi. Ap-ra-ham (St 13.1), Elia (IV 19,5). Nàng
yêu dấu của Diễm Ca (2.10), Giôna (Gn 1,2), Giêrusalem (Is 60,11), Đanien
(10,11). Tiếng "Dậy đi!” đầy dẫy trong Tán ước: Mát-thêu 2,13; 2,20; 9,5;
17,7; 26,46; Mc 10,49; Lc 17,19; 22,46; Ga 5,8; Cv 3,6; 8,26; 9,34; 9,40; 12,7;
14,10...
Nếu tôi biết lắng nghe, tôi sẽ nghe thấy, cả tôi nữa.
Thiên Chúa lặp lại "Dậy đi!.”
Thiên Chúa muốn con người đứng dậy. Thiên Chúa đẩy những con
người năng động.
Trong cuộc sống gia đinh mà chúng ta mừng lễ hôm nay, có biết
bao nhiêu cơ hội có thể đưa chúng ta đến chỗ khước từ, đầu hàng, chạy trốn, từ
nhiệm... Và đây là tiếng gọi của Chúa, trong đáy đêm tối của chúng ta, trong
tình huống bức bách đè nặng trên vai chúng ta, nói lại với chúng ta: "Đứng
lên! Dậy đi!.”
Có một thứ hình ảnh Thánh Gia hiền dịu, êm ả vả bị sai lạc. Máng
cỏ bằng giấy đá, quá “hợp môi sinh", những mục đồng xinh xắn và những con
cừu nhí, những tràng hoa ánh sáng... có cái nguy làm cho chúng ta coi
"chuồng bò lừa nới Thiên Chúa sinh ra (đó là một cái sườn mái!) là một nơi
nóng nực và rất tiện nghi. Và với cái vẻ dịu hiền hay với thái độ chiếu cố,
người ta tìm được cái chuyện thần tiên hợp với khẩu vị các trẻ em. Nhưng đấy
không phải là Giáng sinh thật. Có thể tai hại nhiều nếu máng cỏ cổ truyền chỉ
là một sự trung tín với quá khứ, trong khi nó là một sự kỳ vọng cho hiện tại và
tướng lai. Gia đình mâ bạn nhin ngắm với sự hiền dịu trong cái hang hốc nhà
quê, có lẽ bạn quên rằng nó đã bị liệng đi trên các nẻo đường lưu đầy chăng?
Khi đó bạn đã dựng lên một "thánh gia" không có thực. Và bạn nói
liều: "Thật quá đẹp... nhưng ở nhà chúng tôi không giống như thế, nơi mái
ấm của chúng tôi, gia đinh của chúng tôi buộc phải sống giữa những âu lo: sức
khỏe, tranh chấp, ngân sách, những khó khán định hướng, những cuộc đối thoại
không thể có được....”
Những mái ấm trẻ... hay những mái ấm nào khác...
Tồi dám chắc với các bạn, các bạn có thể nhìn xem gia đình của
Giuse, có Hài nhi và Mẹ người. Và hãy tỉnh ngộ! Giống như mọi gia đinh, gia
đinh ấy cũng biết đến những giằng xé, những khắc khoải, nó cũng bị cuốn trong
những cơn lốc của lịch sử. Và chúng ta nhớ lại câu nói nổi tiếng của Charles
Péguy "Những người cha và người mẹ này "' những kẻ phiêu lưu vĩ đại
của thế giới hiện đại này!”
Cứ ở đó cho đến khi tôi báo lại, vì vua Hêrôđê sắp tìm giết
Hài Nhi đấy!
Hình ảnh thực, như thế đấy. Một đôi lứa trẻ trung,đó là một cáp
vợ chồng không bếp không nhà. Số phận thê thảm của những người tị nạn, những
người bị xua đuổi trốn chạy về nới vô định, bị đuổi khỏi nhà họ vì chiến tranh,
đói ăn, thất nghiệp, hay ý thức hệ đàn áp. Những trẻ em Việt Nam, Libăng
Cambốt, Áp-ga-nít-tăng,... và nhiều nới khác. Những hình ảnh không cầm lòng
được đang lảm xáo động sự yên ổn của chúng ta. A, không, máng cỏ năm nay không
đẹp... Thế thi bạn hãy nghĩ, họ đã có ý tưởng, trong giáo xứ, chúng tôi làm
máng cỏ bằng tre mục... hay bằng vải lưu cho những trại tị nạn... hay bằng gạch
nén gợi ra những nơi trú ngụ đáng thương của những kẻ xấu số trong những vụ
động đất... và họ đã để Hài nhi trên rơm, thứ rơm rác thật!
“Hê-rô-đê sắp tìm giết Hài nhi đấy..."
Họ muốn giết trẻ con... Than ôi, vâng, hiện nay...
Ông Giuse liền trỗi dậy, và đang đêm, đưa Hài Nhi và mẹ
Người trốn sang Ai-cập
Để nhấn manh đến sự vâng phục của Giuse, sự thi hành ý muốn của
Thiên Chúa được diễn tả chính xác trong những lời lẽ của sứ điệp nhận được từ
trên cao.
Đi ngay ban đêm!
Đi trong đức tin: làm thế nào? Cần phải cứu Hài nhi cứu độ?
Người đã được loan báo như Thiên Chúa Cứu Độ, Thiên Chúa ở cùng chúng ta? Và
cần phải che chở Người ngay bây giờ? Nghịch lý của Thiên Chúa tự đặt mình vào
trong tay chúng tôi? Thiên Chúa không tự bênh vực. Cần phải “cứu"! đức
tin... ban đêm... Thiên Chúa được đặt lại trong tay những người tin.
Ông ở đó cho đến khi vua Hê-rô-đê băng hà, để ứng nghiệm
lời Chúa phán xưa qua miệng ngôn sứ: Ta đã gọi con Ta ra khỏi Ai-cập
Trong mùi tử khí tự trị, một sự cứu thoát bộc phát, Chúa nói:
Con ta!
Trên cái nền bi thảm của các biến cố xảy đến trong gia đình này,
có sự gì khác tác động: một ánh sáng chiếu soi tình hình... một dự tính của
Thiên Chúa,... được bộc lộ trong những lời sấm của ngôn sứ.. một khuôn mật ẩn
giấu, đầy hy vọng. Nghịch lý mới của Thiên Chúa: chính lúc mà người ta cảm thấy
phải đi, thì đúng là lúc Tin Mừng trích dẫn một tiết Kinh Thánh ở đó vấn đề đặt
ra là trở lại...
Người ta chỉ nói về sự lưu đày để nói về việc xuất hành. Người
ta chỉ gợi ra cái chết để nói về sự sống... Còn bạn, trong cuộc sống của bạn,
bạn được mời gọi nhìn thấy mặt bị che khuất của điều xảy đến với bạn.
Toàn thể gia đinh và chạm với những cái bất an. Việc chúng ta
tìm kiếm những sự an toàn là điều bình thường. Giuse thậm chí còn nhận lệnh của
Chúa thì sự tìm kiếm những của cải tạm thời, chẳng phải càng được chúng ta đặt
bên dưới việc làm tròn lời Kinh Thánh sao? sống Tin Mừng, hoàn thành các ý muốn
của Thiên Chúa, kiên trì trong cái mà Thiên Chúa đòi hỏi tôi. Mỗi Kitô hữu, mỗi
gia đình... hoàn tất một phần của lịch sử thánh, một dự tính huyền nhiệm của
Thiên Chúa. Và đó không phải là trong lúc đi ra khỏi các tình huống của chúng
ta, thậm chí khó khăn, thậm chí mong manh, nhưng bằng cách khám phá ở đó các
mặt bị che khuất mà đức tin bày tỏ ra cho chúng ta.
Sau khi vua Hê-rô-đê băng hà, sứ thần Chúa lại hiện ra với
ông Giuse bên Ai-cập, báo mộng cho ông rằng: "Này ông, dậy đem Hài Nhi và
mẹ Người về đất Israel, vì những kẻ tìm giết Hài Nhi đã chết rồi." Ông
liền trỗi dậy đưa Hài Nhi và mẹ Người về đất Israel
Những kẻ muốn tìm giết Hài nhi? Con số nhiều lạ lùng. Cho đến
đây, người ta chỉ nói đến Hê-rô-đê... Nhưng Mátthêu nghĩ đến một trường hợp có
trước trong Kinh Thánh và miệt mài đưa tất cả câu truyện của ông vào việc gợi
ra số phận của Môsê, mà Pharaon tìm cách giết chết (St 2,15). phải trốn sang Ai
Cập và trở về, bởi vì tất cả những người muốn tìm giết đều đã chết (Xh
4,19-20). Khoa chú giải Do Thái, trong các giáo đường, luôn luôn sử dụng phương
cách, mà người ta gọi là "midrach", nhằm làm sáng tỏ một đoạn Kinh
Thánh bằng những biến cố của thời sự...để chứng minh rằng ý đồ của Thiên Chúa
cứ tiếp tục. Đức Giêsu, trong bản thân của Người, tái hiện lịch sử dân tộc
Israel: bạo vương muốn khử trừ cậu Môsê được Thiên Chúa sai đến để cứu dân
Người... bạo vương tung ra cuộc tàn sát các trẻ nhỏ (St 1,10)... nhưng lại
không thể làm gì được chống lại người mà Thiên Chúa che chở và trở nên Đấng Cứu
độ dân Người... dẫn dắt dân này về Đất Hứa.
Ngày nay lịch sử này vẫn luôn luôn tiếp tục. Không gì mà Thiên
Chúa không thể làm được. Người tiếp tục viết thật thẳng trên những đường cong
của chúng ta. Ý đồ của Người vẫn tiến lên, bất chấp mọi sự.
Nhưng vì biết A-khê-lau đã kế vị người cha là Hê-rô-đê, cai trị
miền Giuđê, nên ông sợ không dám về đó. Mãi sau khi được báo mộng, ông lui về
miền Galilê, và đến ở một thành kia gọi là Nadarét để ứng nghiệm lời, các ngôn
sứ rằng: Người sẽ được gọi bằng Nadarét.
Bản văn này nói cho chúng ta biết rõ ràng là trước hết Giuse đã
có ý định trở về Giuđê. Nhưng tất cả những kẻ muốn tìm giết Đức Giêsu, chưa
biến mất hết. Mặt khác, một ngày kia, Đức Giêsu sẽ trở lại trong chính miền
Giuđê này, và về đó để bị giết chết. Cuộc thụ nạn diễn ra ở cuối cuộc hành
trình này. Cái chết luôn luôn ở đó. Tin Mừng ngày hôm nay đầy chết chốc. Chính
vì cần thiết mà Đức Giêsu đến sống tại Galilê miền xa xôi, một nửa ngoại giáo,
khá xa đất Thánh Giêrusalem. Đối với Mát-thêu, miền Galilê ngoại giáo này (Mt
4,12-16) là biểu tượng của thế giới phổ quát, nơi mà sứ vụ của Đức Giêsu được
thực hiện, nơi mà Đấng đã sống lại hiện ra nhiều lần, và từ đó mà sứ vụ khởi
phát. Và bạn nữa, phải chăng bạn không sống trong những miền Galilê loại mới ư?