Lời Chúa cntn 31c _ tôi phải ở lại nhà ông

TÔI PHẢI Ở LẠI NHÀ ÔNG
Chúng ta chưa gặp hạnh phúc là vì chúng ta còn mải lo tìm kiếm nó ở nơi đâu khác mà không nhìn về Chúa...
Lm. HK
Một bà quí tc đem đến cho Ruskin, mt ho sĩ Anh ni tiếng, xem chiếc khăn tay đt tin ca bà, suýt soa tiếc r vì nó đã v vy mc.
Ruskin không nói gì, ông chỉ xin cho ông mượn chiếc khăn trong mt ngày. Hôm sau, ông trao li chiếc khăn cho người đàn bà mà không nói mt li nào. Nhưng khi mở chiếc khăn ra, bà ta hết sc ngc nhiên thy mt bc tranh đp được v t du mc hôm trước.
ng ngc nhiên và vui mng, nhưng lớn hơn biết bao, khi nói v ơn cứu đ Chúa thc hin cho chúng ta: Bt k ti li chúng ta ln lao đến đâu, Chúa vn mt lòng xót thương. Ngài “nhắm mt làm ngơ trước ti li loài người đ h ăn năn sám hi.” (Kn 11,23)
Chúa là tình yêu, Ngài “nhân ái và từ bi, chm bt bình và giu ân sng. Chúa ho tâm vi hết mi loài và t bi vi mi công cuc ca Chúa.” (Tv 145,8-9). Chúa đi tìm người ti li: “Con Người đến tìm kiếm và chu cha nhng điu đã hư mất.” (Lc 19,10)
Được dng nên theo hình nh Chúa, nên t đáy sâu tâm hn chúng ta là s khao khát, khao khát Thiên Chúa: “Linh hn con khao khát Chúa Tri, là Chúa Tri hng sng. Bao gi con được đến vào b kiến tôn nhan.” (Tv 41,3). Do đó mà ơn cứu đ có th được trình bày cách đơn giản là Thiên Chúa ở cùng con người: “Này đây, Trinh N s th thai và sinh h mt con trai, người ta s gi tên con tr là Em-ma-nu-el, nghĩa là "Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta.” (Mt 1,23)
Niềm vui ca Giakêu ch din t phn nào s no tho bi mu nhim ‘Thiên Chúa cùng chúng ta’, s no thoơn cứu đ mang đến cho nhân loi, mt ơn phúc vượt tri hơn hẳn mi phúc li trn gian. Mi s giàu sang trn thế đu tr nên không đáng k so vi s hin din ca Chúa: “Ly Ngài, tôi xin b thí na phn ca ci tôi cho k khó, và nếu tôi có làm thit hi cho ai điu gì, tôi xin đn gp bn.” (Lc 19,8)
Sự giàu có đích thc, như thế, đã nm ngay trong tm tay mỗi người. Chúng ta chưa gặp hnh phúc là vì chúng ta còn mi lo tìm kiếm nó nơi đâu khác mà không nhìn v Chúa: “Hn tôi hi, c sao phin mun, xót xa phn mình mãi làm chi? Hãy cy trông Thiên Chúa, tôi còn tán tụng Người, Người là Đấng Cu đ, là Thiên Chúa ca tôi.” (Tv 41,6)
Ơn cứu đ, hnh phúc, đã sn trong tm tay, nhưng điều kin đu tiên đ đón nhn Tin Mng là s hoán ci, như lời rao ging ca Gioan Ty gi: “Thi k đã mãn, và Triu Đại Thiên Chúa đã đến gn. Anh em hãy sám hi và tin vào Tin Mng.” (Mc 1,15) Chúa đã đến, Giakêu đã vui mng, nhưng hạnh phúc ca ông ch nên trn vn khi Giakêu t nguyn thay đi cuc sng theo chun mc Phúc âm, và Chúa công b: “Hôm nay nhà này được ơn cứu đ.
Giakêu như thế, còn chúng ta thì sao? Mt s tín hu Thessalônica li tìm kiếm Chúa theo cách ca trn gian, gi đo đi phó, tìm vào Nước Tri bng con đường rng nht mà b quên s hoán ci là bước đu tiên đ đón nhn Tin Mng. Đối vi h, ‘ngày Chúa gần đến’  li là mt tin d làm ‘cho tinh thn giao đng’ và gây ‘hong s’.
Tình yêu Chúa đến vi mi người, không đòi mt điu kin nào, không tr mt ai, c ông thu thuế Giakêu. Thế nhưng vấn đ vn còn đó: s hin din ban ơn cứu đ ca Chúa ch nên trn vn vi s cng tác ca con người. Đó là điu làm thánh Phaolô quan ngi: chúng tôi hằng cu nguyn cho anh em: xin Thiên Chúa chúng ta đoái thương làm cho anh em xứng đáng ơn Chúa kêu gọi anh em, và xin Người dùng quyn phép mà kin toàn nhng ý đnh ngay lành do lòng tốt ca anh em và công vic ca lòng tin anh em.” (2Tx 1,11)
Góc Nhà, tuần san CGvDT s 1629, ngày 19-10-2007, có đăng câu chuyn v nhà tù Humaita, tác gi Dũ Lan Lê Anh Dũng:
Tiến sĩ, lut sư Mario Ottoboni là người Công giáo Brazil. Vào thập niên 1970, ông và mt nhóm Ki tô hu làm đơn xin tiếp nhn nhà tù Humaita thành ph São José dos Campos, bang São Paulo, khi nghe tin chính ph mun đóng ca nó. Thnh nguyn được chp thun, các Ki tô hu Brazil bt đu điu hành nhà tù Humaita theo phương châm APAC. Đây là bn ch tt rút gn t câu tiếng B: “Amando al preso, Amando el Christo”, nghĩa là “Yêu thương tù nhân, yêu thương Chúa Ki tô.”
Triết lý ca nhà tù Humaita là “Hãy dit k phm ti và cu ly con người.” Phương pháp hành động là tình thương. Một trong nhng người có công thành lp nhà tù Humaita theo phương châm APAC giải thích: “Ti ác là s chi b tình thương một cách bo lit và bi đát. Chúng ta được to ra đ thương yêu. Thiên Chúa tạo ra chúng ta vì Ngài thương yêu chúng ta và như thế chúng ta có th yêu thương Ngài và yêu thương nhau. Nếu chúng ta được to ra vì tình thương và để thương yêu, thì tại sao chúng ta li yêu thương nhau khó khăn đến thế?”
“Mỗi khi tiếp nhn mt tù nhân mi, vic đu tiên là người ta tháo còng ra khi tay anh ta và bo: “Trong nhà tù này anh không còn b xing bng st thép na; anh s được xing bng tình thương của Chúa Kitô.” Sau đó, người tù mi s được đt trong s chăm nom ca mt bn tù đã thm nhun tình yêu thương Chúa. Bởi thế, dù vic trn khi nhà tù Humaita không h khó khăn, tù nhân vn không b trn.
Trước mi ba ăn, các tù nhân đng quanh bàn ăn và đc kinh bng tiếng B. Trong căn phòng bit giam mà nhiu năm lin ch “nht” duy nht thánh tượng Chúa, người ta gắn lên tường phía trên thp giá mt tm bin viết bng tiếng B: “Chúng ta cùng bên nhau.” Các tù nhân hiu rng h đang gn lin vi Chúa Ki tô, Đấng vì h mà th kh.”
Câu chuyện Giakêu có th tóm li trong ba câu nói:
Chúa ngỏ li vi Giakêu: “Tôi phi ở lại nhà ông.”
Lời đáp tr ca Giakêu là: “Tôi xin b thì na phn ca ci tôi cho k khó, và nếu tôi có làm thit hi cho ai điu gì, tôi xin đn gp bn”.
Chúa vui mừng: “Hôm nay nhà này được ơn cứu đ.”
Chúa cũng đã ngỏ lời với tôi như với Giakêu, đâu là lời đáp tr ca tôi?
Lm. HK