ĐÊM SẮP TÀN, NGÀY GẦN ĐẾN
Mặc cho các thế lực của bóng đêm có
lớn mạnh, mọi tín hữu vẫn phải luôn vững tin vào ngày chiến thắng của sự sáng.
“Vậy chúng ta hãy loại bỏ những việc làm đen tối, và cầm lấy vũ khí của sự sáng
để chiến đấu” (Rm 13,12)
Đức Cha
Alfred Jean Félix Ancel (1898-1984), giám mục phụ tá của giáo
phận Lyon, Pháp, còn được gọi là
‘giám mục thợ’ và cũng từng là Bề trên Tổng quyền của Tu hội Prado.
Là một nhà diễn thuyết nổi tiếng, Đức Cha đã đi khắp nơi để giảng dạy, giúp các tuần tĩnh tâm
hay các buổi hội thảo cho
các giới. Trong một thời gian
dài ngài đã dành nửa ngày cho công
việc mục vụ và nửa ngày còn lại được ngài
dùng cho lao động chân tay
theo gương Chúa Cứu Thế, chữa xe như một người thợ bình thường tại một xưởng cơ khí.
Đức Cha
còn viết nhiều về mục vụ trong
việc tông đồ, đặc biệt là về kinh
nghiệm làm ‘giám mục thợ’ và cuốn ‘Năm năm với các bạn thợ’.
Trong cuộc sống, không ai mà không thấy mùi vị đắng cay của cuộc đời tại thế. Tất cả những tâm tình của dân Do thái trong thời gian lưu đày
như chưa bao giờ là cũ đối với con người: “Xi-on từng nói: ‘Đức Chúa đã bỏ tôi, Chúa Thượng tôi đã quên tôi rồi” (Is 49,14), nhưng tiên tri Isaia đã loan báo cho họ biết về tình thương Chúa dành cho họ trong bài ca thứ hai về Người Tôi Trung: “Có phụ nữ nào quên được đứa con thơ của mình, hay chẳng thương đứa con mình đã mang nặng đẻ đau? Cho dù nó có quên đi nữa, thì Ta, Ta cũng chẳng quên ngươi bao giờ” (Is
49,15).
Đời là bể khổ, còn sống là còn khổ đau. Nhưng nỗi đau nào cũng trở thành dịu ngọt khi được người yêu chia sẻ, và ai cũng có thể cảm thấy cái hạnh phúc
khi được đau khổ vì người mình
yêu. Đức Cha Alfred Ancel muốn làm một giám mục thợ để có thể cảm nghiệm ngay
trong cuộc sống mình một phần nào tình yêu Chúa đã dành cho dân Do thái trong
thời lưu đày và,
trong thời sau hết, khi Chúa làm người để chia sẻ kiếp lầm than mà nhân loại phải chịu sau tội tổ tông.
Thiên Chúa - tình yêu tác sinh - là lời giải đáp
duy nhất và sau cùng
cho khát vọng được sống hạnh phúc của mọi người: “Nước nước dập dìu kéo nhau đi. Rằng: “Đến đây, ta cùng lên núi Đức Chúa, lên Nhà Thiên Chúa của Gia-cóp, để Người dạy ta biết lối của Người, và để ta bước theo đường Người chỉ vẽ” (Is
2,3).
Chương trình cứu độ là cuộc giao chiến giữa cái sống và
cái chết, mà chiến thắng của tình yêu đem lại một sự thay đổi tận căn trong
cuộc sống con người, qui hướng tất cả về sự sống: “Họ sẽ đúc gươm đao thành cuốc thành cày, rèn giáo mác nên liềm nên hái. Dân này nước nọ sẽ không còn vung kiếm đánh nhau, và thiên hạ thôi học nghề chinh chiến” (Is
2,4).
Đó là những lời tiên
báo cho Hiến chương Nước Trời là tám
mối phúc thật được rao giảng trên núi mở đầu cho sứ vụ cứu độ của Đức Kitô.
Mọi người đều tự do và bình đẳng trước hạnh phúc đời sau,
và ơn cứu độ tùy thuộc vào lời đáp trả của riêng từng người trước Tin Mừng Đức Kitô
đã loan báo: “hai người đàn ông đang làm ruộng, thì một người được đem đi, một người bị bỏ lại; hai người đàn bà đang kéo cối xay, thì một người được đem đi, một người bị bỏ lại” (Mt
24,40-41).
Lời đáp trả đó là một quyết định mang
tính hiện sinh và thấm nhuần cả đời sống đến từng giây phút, như sự khác biệt trong
cuộc sống giữa ngày
và đêm. Vì thế, mặc cho các thế lực của bóng đêm có lớn mạnh, mọi tín hữu vẫn phải luôn vững tin
vào ngày chiến thắng của sự sáng. “Vậy chúng ta hãy loại bỏ những việc làm đen tối, và cầm lấy vũ khí của sự sáng để chiến đấu” (Rm
13,12), vì tiên tri Isaia đã tiên báo: “Đức Chúa các đạo binh đã dành sẵn một ngày để trị tất cả những gì kiêu căng ngạo nghễ, trị tất cả những gì tự cao tự đại: chúng sẽ bị hạ xuống” (Is
12,12).
Paul Cézanne (1839-1906) là một hoạ sĩ nổi tiếng người Pháp
theo phái Ấn tượng. Tranh của ông
hôm nay được đánh giá cao,
nhưng từ đầu thì không như thế: Ông bắt đầu vẽ tranh từ năm 1863, nhưng những bức tranh
đầu đời hoạ sĩ của ông
không được ai ưa
thích, ngay cả Salon de Paris cũng từ chối trưng bày tranh của ông trong những cuộc triển lãm hằng năm từ năm 1864.
Tuy thế, ông vẫn tiếp tục vẽ tranh
theo những gì
ông thấy là đẹp dù ông chỉ được sự ủng hộ của Georges Rivière và một số rất ít các nhà phê bình. Tranh của ông, vì thế, chỉ có thể bán được một ít với giá rẻ mạt.
Mãi đến năm 1895, tranh của ông mới được trưng bày tại phòng triển lãm
không mấy tiếng tăm của Ambroise Vollard, và rồi càng ngày càng được nhiều người nhận biết giá trị. Khi
tranh của ông lần đầu được trưng bày, ông đến phòng triển lãm
cùng với con trai, thốt
lên trong giọt nước mắt: “Cuối cùng, chúng cũng được treo lên”
Dù vẫn còn sống trong bóng đêm của tội lỗi và sự dữ nhưng tôi được mời gọi “ăn ở cho đứng đắn như người đang sống giữa ban ngày: không chè chén say sưa, không chơi bời dâm đãng, cũng không cãi cọ ghen tương. Nhưng anh em hãy mặc lấy Chúa Giê-su Ki-tô, và đừng chiều theo tính xác thịt mà thoả mãn các dục vọng” (Rm
13,13-14).
Giữa thế giới hôm
nay, ước gì tôi đừng khi nào nao núng, mà luôn vững tâm sống đạo, tin rằng “đêm sắp tàn, ngày gần đến”.
Lm. HK