Giáo Lý Phúc Âm
CHÚA NHẬT I MÙA VỌNG, NĂM A
CHÚA NHẬT I MÙA VỌNG, NĂM A
I. Giáo Huấn Phúc Âm
Ngày cánh chung xảy ra bất ngờ như Lụt Đại
Hồng Thuỷ xảy ra thời Ông Noe và như giờ tên trộm đến.
Hãy sẵn sàng chuẩn bị chờ đón ngày quang
lâm, ngày Chúa đến bất ngờ.
II. Vấn nạn
Phúc Âm
Phụng Vụ năm A
Phúc Âm Thánh Matthêô (dựa theo CD
Vietcatholic mục tìm hiểu Tân Ước)
Mathêô là một
trong nhóm 12 tông đồ (Mathêu 10:24; Marcô 3:16-19; Luca 6:14-16; CV 1:13).
Ngài là nhân viên thu thuế (Mt 10:3), được Chúa Giêsu gọi lúc ngồi ở bàn thu
thuế (Mt 9:9). Theo Papias (Giám mục thành Hierôplis
khoảng năm 138) thì Mathêu cũng được gọi là Lêvi, đã soạn phúc âm bằng tiếng
Aram, nhưng bản đó đã bị thất lạc. Hiện nay người ta chỉ tìm được những
bản bằng tiếng Hy Lạp.
Thánh Mathêô
viết Phúc Âm vào khoảng năm 75 sau Chúa Giáng Sinh. Matthêô trích dẫn Cựu ước
rất nhiều trong phúc âm của Ngài, nhằm mục đích chứng minh Chúa Giêsu Nazarét
chính là Đấng Messia Thiên Chúa đã hứa; và như thế ngài nhắm vào số thính giả
người Do Thái, những người chỉ biết Kinh Thánh Cựu Ước.
Thánh Matthêô
chứng minh Chúa Giêsu là con vua Đavít, thuộc dòng dõi Abraham, đến để tái lập
vương quốc Đavít (Mt 1:1-17) mà thánh vịnh 72 câu 10; Isaia 49:7 và 60:10 đề
cập tới việc các vua chúa trần gian tới bái lạy Chúa Hài đồng. Mãi sau này, vào
thế kỷ thứ 8 tên ba vị đó mới được xác định là Gasparê, Melchior và Balthazar.
Gia đình thánh gia trốn qua Ai Cập (Mt 2:13-15) để ứng nghiệm lời tiên tri
Hôsêa: "từ Ai Cập Ta đã gọi con Ta về" (Hôsêa 11:1).
Việc Giuđa ném trả 30 đồng tiền bán Chúa vào đền thờ, Các thượng tế và niên trưởng đã lấy bạc ấy mà tậu ruộng của người thợ gốm (Mt 27:3-10 trích Za 11:12).
Việc Giuđa ném trả 30 đồng tiền bán Chúa vào đền thờ, Các thượng tế và niên trưởng đã lấy bạc ấy mà tậu ruộng của người thợ gốm (Mt 27:3-10 trích Za 11:12).
Thường những
chuyên gia Kinh Thánh chia nội dung Phúc Âm thánh Matthêô làm bốn phần:
Chương 1-2 nói về tin mừng thời niên thiếu
của Chúa.
Chương 3-18 đề cập tới sứ vụ của Chúa tại
Galilê.
Chương 19-25 nói về sứ vụ của Chúa tại
Giêrusalem.
Chương 26-28 tường thuật về cuộc thương khó
và phục sinh của Chúa.
Những nhà chú
giải Kinh Thánh cũng nêu lên bốn đặc điểm Phúc Âm Thánh Matthêô như sau:
1) Matthêô trình bày giáo
huấn qua năm bài diễn từ:
Bài giảng trên núi (chương 5-7);
Sứ vụ trao cho 12 tông đồ (chương 10);
Các dụ ngôn về nước trời (chương 13);
Địa vị cao nhất và sự tha thứ (chương 18);
Diễn từ chung luận (chương 24-25).
2)
Phúc Âm trình bày theo cặp ba và cặp bảy:
Cặp
ba:
Ba lần thiên thần báo mộng cho Giuse:
chớ sợ nhận Maria làm vợ (Mt:20),
chỗi dậy đem Hài Nhi và mẹ Người trốn qua
Ai Cập (Mt:13)
và chỗi dậy đem Hài nhi và mẹ Người hồi
hương (Mt 2:20).
Hai chương, mỗi chương kể lại
Ba phép lạ: chương 8:1-15 và chương
9:19-34.
Ba lần cầu nguyện trong vườn cây dầu (Mt
26:36-45).
Ba lần Phêrô chối Chúa (Mt 26:69-75).
Cặp bẩy:
7 dụ ngôn ở chương 13,
7 thần dữ (Mt:45),
7 chiếc bánh và 7 giỏ bánh dư (15:34, 37),
7 lời chúc dữ ở chương 23.
3) Minh chứng những gì Cựu ước đã nói đều
được thực hiện: Ngài đã chứng minh Đức Kitô là "đầu và cùng đích",
"Chúa không đến để phá hủy lề luật mà kiện toàn" như các tiên tri đã
loan báo. Tám lần ngài nhắc tới Chúa xưng mình là con vua Đavít, Đấng xuất hiện
vào thời viên mãn. Đấng mà các tiên tri và dân chúng trông đợi lâu đời. Đấng
đến để đổi mới luật cũ, ban luật mới cho Giáo Hội và sinh ra để làm vua…
4) Phúc âm Mathêô mang nhiều chiều kích Hội
Thánh:
Thánh Mathêu là người duy nhất dùng danh từ "HỘI THÁNH" (Mt 16:18;
18:17). Cũng từ trong phúc âm của Ngài mà giáo hội rút ra công thức rửa tội
nhân danh Chúa Ba Ngôi (Mt 28:19).
Thánh Matthêô được tặng biểu tượng con bò,
vì ngài trình bày cuộc đời của Chúa Giêsu như của lễ toàn thiêu hoàn hảo vẹn
toàn theo như luật phụng tự thay cho toàn thể nhân loại. Lể thánh Mathêu được
giáo hội mừng kính vào ngày 21 tháng 9 dưới tước hiệu tông đồ thánh sử. Năm
1956 Đức Thánh Cha Pio XII đã đặt ngài làm quan thày cho những người thủ thư
viện.
Mùa Vọng
Nguồn: Maylangthang, Joseph Minh Nguyen SVD
Mùa Vọng dịch từ tiếng La tinh
"Adventus", có nghĩa là "đến". Vọng là mong đợi, mong chờ
điều sắp đến. Mùa vọng được Giáo Hội ấn định 4 tuần lễ trước lễ Giáng Sinh, 25
tháng 12 để các tín hữu Công giáo chuẩn bị Mừng ngày Ngôi Hai Thiên Chúa Giáng
trần.
Mùa Vọng nhắc nhở cho mọi Tín Hữu Công giáo
4 nghĩa sau đây:
Mùa Vọng nhớ lại thời gian dân Do thái mong
đợi Đấng Messia, tức Chúa Kitô đến để "giải phóng" dân Israel khỏi ách
tội lỗi. Ngài "đã đến" lần thứ nhất cách đây hơn 2 ngàn năm. Ngài đã
giải phóng họ khỏi ách tội lỗi bằng giáo lý và cái chết của Ngài.
Mùa Vọng còn có ý nghĩa chuẩn bị đón Chúa
Kitô "sẽ đến" lần thứ hai vào ngày tận thế. Không ai biết được ngày
giờ nào.
Ngày nay, mùa Vọng để dọn lòng mừng kỷ niệm
lễ Chúa Giáng sinh vào ngày 25. 12.
Điều quan trọng nhất là nhắc nhở mỗi người
cần "tỉnh thức, sẵn sàng" đón Chúa đến vào ngày tận thế đời mình tức
giờ chết, để Chúa đưa chúng ta về Nước Chúa muôn đời.
Vòng hoa 4 cây nến:
Bốn cây nến tượng trưng cho tuần
trước lễ Chúa Giáng sinh, mỗi tuần đốt thêm một cây. Ba cây màu tím tượng trưng
cho sám hối và một cây màu hồng dùng cho Chúa nhật thứ 3, nói lên niềm vui như
Thánh Phaolô kêu gọi: Hãy vui lên... vì Chúa đang đến!
Vòng hoa mùa vọng với cành lá xanh tượng
trưng cho sự sống muôn đời. Hạt giống, trái hồ đào dùng để trang trí trên vòng
hoa tượng trưng cho sự sống lại và những hoa trái tiêu biểu cho lương thực dồi
dào của đời sống Kitô hữu. Nến tượng trưng cho ánh sáng Chúa Kitô.
Kể từ thời xưa cổ, một vòng hoa là tượng
trưng cho sự chiến thắng. Hình tròn của vòng hoa là nhắc nhở cho chúng ta biết
về tình yêu thương bất tận của Thiên Chúa, dành cho chúng ta.
Màu xanh lá cây chính là màu chỉ năm
phụng vụ, vốn diễn tả về niềm hy vọng trong tình yêu thương bất diệt của Thiên
Chúa dành cho chúng ta. Những cành của cây thông quanh năm suốt tháng đều có
màu xanh lá cây. Những cành cây lúc nào cũng có màu xanh này cùng gộp lại với
nhau để hình thành nên một vòng hoa là nhắc nhớ cho chúng ta biết rằng: Thiên
Chúa và sự Mạc Khải của Ngài thì không bao giờ thay đổi, cũng giống như cây
thông, lúc nào cũng xanh tươi vậy.
Có 4 cây nến được phân chia ra theo
đúng khoảng thời gian của Mùa Vọng. Mỗi cây tượng trưng cho một trong "4.000
năm" mà Thánh Kinh được trao ban cho chúng ta kể từ khoảng thời gian mà
Ông Adong qụy ngã vì tội lỗi cho đến khoảng thời gian sinh hạ ra Đấng Cứu Chuộc
nhân loại.
Cây nến màu tím (purple) đầu tiên được
thắp sáng lên vào ngày Chủ Nhật Đầu Tiên của Mùa Vọng và trong suốt tuần lễ đầu
tiên đó. Màu tím tượng trưng cho khoảng thời gian chuẩn bị, và ăn năn hối cải,
cũng như tượng trưng cho sự vương giả.
Vào Chủ Nhật Thứ Ba của Mùa Vọng, vốn được
biết đến như là Chủ Nhật Gaudete (Gaudete Sunday), thì cây nến có màu giống như
bông hồng
được thắp sáng lên cùng với hai cây nến màu tím. Bông hồng tượng trưng cho sự
mừng rỡ, sướng vui và niềm hân hoan sắp tràn dân của mọi người tín hữu. Đây là
khoảng thời gian đặc biệt khi chúng ta hồ hỡi với niềm vui và sự rạo rực về
việc Chúa Kitô sắp sửa đến với chúng ta trong hình hài của một Hài Nhi Bé Nhỏ.
Và cây nến màu tím cuối cùng sẽ được thắp
sáng lên trong ngày Chủ Nhật Thứ Tư của Mùa Vọng ám chỉ đến việc chúng ta mãi
sốt sắng và kiên trì hơn rất nhiều trong việc chuẩn bị cả thể xác, tâm hồn lẫn
con tim để đón nhận Thiên Chúa trong Mùa Giáng Sinh.
Mùa Vọng chính là mùa của Sự Đợi Chờ cùng
với niềm Hy Vọng về Ánh Sáng của Chúa Kitô: Ánh Sáng của Cả Thế Giới!
III. Thực hành Phúc Âm
Kinh
Lạy Cha, kinh của hy vọng:
Vào cuối thập niên 80, tại Rumani, một trận
động đất lớn đã xảy ra làm hơn 10 ngàn người chết. Ngay sau trận động đất, một
người cha đã chạy đến nhà trường tìm đứa con trai của mình.
Ngôi trường nhiều tầng đã sập đổ, nhưng người
cha cố đào bới trong đống gạch vụn để tìm con. Những người cứu hộ và cảnh sát
bảo ông hãy về nhà và đừng đào bới nữa vì rất nguy hiểm. Nhưng ông không nghe
và cứ tiếp tục đào bới.
Ông đào bới trong suốt 12 tiếng đồng hồ
cũng chẳng thấy tăm hơi người con đâu. Ông vừa đào bới vừa nghĩ: “Mình đã hứa thì phải thực hiện lời hứa,
biết đâu nó còn sống trong đống gạch này thì sao?”
Nghĩ thế rồi, ông lại tiếp tục đào bới, 24
tiếng rồi 48 tiếng đồng hồ trôi qua ... ông chợt nghe tiếng động. Ông gọi tên
người con và ông nghe thấy tiếng kêu rất nhỏ từ xa vọng lại: “Ba ơi”. Nước mắt ông tuôn trào và ông
hăng hái đào tiếp đến tận phòng của đứa con.
Thằng bé còn sống cùng với 20 đứa khác
trong một góc phòng chưa bị sập. Nó ôm chầm lấy người cha và nói: “Con đã bảo với các bạn của con rồi: “ba tôi
đã nói, dù thế nào ba cũng đến đón tôi. Các bạn cứ yên tâm đi, chắc chắn ba tôi
sẽ đến”.
Tiếng kêu ba ơi của đứa bé nghe như âm vang
lời kinh Lạy Cha chúng ta đọc hằng ngày: “Lạy
Cha chúng con ở trên trời”. Lời kinh Lạy Cha, là điệp khúc được lập lại
nhiều nhất trong cuộc đời người tín hữu. Lời kinh này chúng ta có thể thốt lên
bất cứ khi nào, bất cứ nơi đâu. Khi vui, khi buồn. Khi thành công hay khi thất
bại. Khi ở nhà hay hành hương nơi xa. Tất cả trong mọi hoàn cảnh chúng ta đều
có thể thưa lên Lạy cha chúng con ở trên trời. Đây là điệp khúc được lập đi lập
lại mà không bao giờ nhàm chán. Vì lời đó là gạch nối cho tình cha con luôn gần
gũi đậm đà yêu thương, là nhịp cầu cho tình con người vươn lên làm con Thiên
Chúa.
Kinh lạy Cha cho niềm tin và niềm hy vọng
vào Chúa là Cha. Kinh Lạy Cha cho chúng ta quả quyết là: đời mình có Cha, và có
những anh chị em khác chung quanh cùng gọi Chúa là Cha. Cuộc đời vô vọng là
cuộc đời không Cha Mẹ và thiếu vắng tình nghĩa anh chị em. Có Cha Mẹ, có anh
chị em, có gia đình, có tình yêu thương và nâng đỡ.
Mỗi ngày đọc đôi lần Kinh lạy Cha, đọc chậm
với tâm hồn hy vọng vui vẻ của Mùa Vọng.
Dọn
đường cho Chúa đến
Những danh xưng được nhắc nhiều trong Mùa
Vọng: Tiên Tri Isaia, Gioan Tiền Hô, Đức Trinh Nữ Maria…Những người được dùng
để loan báo về Đấng cứu Thế hay mang Đấng Cứu Thế đến cho trần gian. Họ đã chu
toàn trách nhiệm “nầy tôi là tôi tá Chúa!
Tôi xin vâng y như lời sứ thần truyền!”
Ước gì chúng ta cũng là một công cụ hữu
hiệu hay như một cây chổi quét dọn sạch sẽ, chuẩn bị đường cho Chúa đến như câu
chuyện chị Benadeta dưới đây.
Sau khi được
diễm phúc thấy Đức Mẹ hiện ra ở Lộ Đức nước Pháp chị Benadeta đã xin vào
tu viện một dòng kín ở Nevers . Một ngày Chúa nhât kia vào năm 1876 một nữ tu
đưa cho Benadeta xem bức ảnh người ta đã chụp chị ở hang đá Lộ Đức trước đây để
xem phản ứng chị thế nào. Đang chăm chú xem bức hình của mình, đột nhiên
Benadeta hỏi:
-
Người ta dùng chổi làm gì
hả chị?
-
Để quét nhà.
-
Quét xong họ để chổi ở
đâu?
-
Trong góc nhà, sau cánh
cửa, chỗ cư trú thường lệ của nó .
-
Đời em cũng thế chị ạ! Đức
Mẹ đã dùng em rồi để em vào chỗ của em . Em sung sướng lắm và em muốn ở yên
trong chỗ đó mãi .
Tự quét dọn
cuộc đời mình thật sạch sẽ, để xứng đáng cho Chúa đến bất ngờ. Giúp người trong
nhà, bạn bè thân quen một quét dọn như mời đọc Lời Chúa hằng ngày hay mời xem
tin tức về việc thực thi bác ái hay thiện nguyện trong Giáo Hội Công Giáo. Có
nhiều bạn bè chúng ta không bao giờ biết làm một việc từ thiện bác ái nào. Sau
nhiều năm tháng làm việc, giờ đây, tiền bạc, nhà cửa, phương tiện sinh sống đã
đầy đủ. Phải hưởng: tiệc tùng và bia rượu, vui chơi giải trí. Ước gì chúng ta
giúp nhau biết chia sẻ những ơn lành Chúa ban cho muôn người thiếu thốn chung
quanh. Với tấm lòng thành, với vài lời đơn mọn và thật tình, chúng ta có thể
giúp người khác làm cho tâm hồn họ và đời sống họ gọn sạch và đẹp hơn bằng
những thực thi bác ái cụ thể.
Lm. Phêrô Trần thế Tuyên