Các bài suy niệm
CHÚA NHẬT 28 THƯỜNG NIÊN - C
CHÚA NHẬT 28 THƯỜNG NIÊN - C
1. Phong cùi
Người phong cùi trong xã hội Do Thái thời Chúa Giêsu là kẻ bất
hạnh, không phải chỉ mang một nỗi đau nơi thân xác mà còn mang cả một nỗi đau
trong tâm hồn.
Thực vậy, sau khi mắc phải chứng bệnh nan y này, thì lập tức, họ
bị khai trừ khỏi xã hội. Đi đâu cũng phải ra dấu để mọi người xa tránh. Đây
không phải chỉ là một biện pháp vệ sinh nhằm ngăn chặn sự lây lan, mà hơn thế
nữa trong bầu khí tôn giáo, người ta có thói quen coi bệnh này như là một hình
phạt Thiên Chúa giáng xuống trên những kẻ tội lỗi. Nếu không phải do chính tội
của bệnh nhân, thì cũng do tội của cha mẹ họ. Vì thế người bệnh bị xã hội coi
là kẻ tội lỗi.
Chúa Giêsu thì khác, Ngài không thể không xót thương họ, nhất là
khi họ đã lên tiếng van xin. Và tất cả 10 người phong cùi đều được khỏi. Chúa
Giêsu bảo họ tới trình diện với hàng tư tế để được chứng thực là mình đã khỏi
và nhờ đó mà trở về với xã hội loài người. Đây là lần thứ nhất họ được chữa
lành.
Nếu phép lạ của Chúa Giêsu làm chỉ là việc chữa lành chứng bệnh
hiểm nghèo này thì có thể kết thúc ở đây. Thế nhưng Chúa Giêsu không phải chỉ
muốn chữa lành về phần xác, mà hơn thế nữa, còn muốn chữa lành về phần hồn. Vì
thế mà câu chuyện được tiếp nối: Sau khi thấy mình được khỏi, thì một người đã
quay trở lại tìm Chúa Giêsu để tạ ơn Ngài. Và đây cũng chính là một dịp để Chúa
Giêsu tỏ lộ cho chúng ta thấy Ngài không phải chỉ là một thầy thuốc bình thường
như mọi thầy thuốc khác, mà hơn thế nữa, Ngài còn là Đấng Cứu Thế, Đấng tha thứ
và xoá bỏ mọi tội lỗi, bắc lại nhịp cầu cảm thông giữa trời và đất, đưa con
người vào trong liên hệ thương yêu với Thiên Chúa. Chính vì thế mà Ngài đã nói
với anh ta: Đức tin của con đã cứu chữa con. Người phong cùi thứ mười này không
phải chỉ được Chúa chữa lành về phần xác mà hơn thế nữa còn được Chúa chữa lành
về phần hồn và đó là lần thứ hai anh được chữa lành.
Thế nhưng điều làm cho chúng ta sửng sốt đó là người phong cùi
được chữa lành và quay trở lại với Chúa Giêsu lại là người xứ Samaria. Dân
Samaria vốn bị người Do Thái liệt vào hàng ngoại đạo, không xứng đáng với ơn
huệ cua Thiên Chúa. Sự kiện này buộc chúng ta phải suy nghĩ: Phải chăng kẻ bị
coi là ngoại đạo này lại nhận biết tình thương và ơn sủng của Chúa, trong khi
đó những người vốn tự hào là có đạo, đạo dòng hay đạo gốc, lại tỏ ra vô ơn và
bạc bẽo. Và phải chăng đó cũng chính là thái độ của chúng ta, những người có
đạo, đối với Chúa và đối với những người đã từng góp công xây dựng cuộc đời của
chúng ta.
2. Biết ơn
Trong cuốn "Nói với chính mình" Đức Cha Bùi Tuần có
viết: Tôi rất thích chó vì chó biết ơn. Dầu chỉ nhận được một cục xương, chó
cũng tỏ vẻ biết ơn. Chủ đi đâu về, chó cũng vẫy đuôi mừng rỡ. Trong khi đó, con
người vô ơn lãi là chuyện bình thường.
Một sự kiện khác cũng khiến chúng ta phải ngạc nhiên không ít:
một số người Việt Nam từ hải ngoại trở về thăm quê hương đã đưa ra nhận xét như
sau: Dầu cố gắng che giấu đến đâu cái tông tích Việt kiều của mình, thì cái
tông tích ấy vẫn cứ bị lộ ra. Và oái oăm thay, cái tông tích ấy được thể hiện
không phải qua cách mua sắm tiêu xài hay qua cách phục sức, mà gắn liền với một
chi tiết rất tầm thường. Người ta nhận ra họ bởi vì họ là những người luôn
miệng nói lên hai tiếng "cám ơn". Nếu quả thực hai tiếng cám ơn đã
trở thành quý hiếm trên môi miệng người Việt Nam hiện nay, thì điều này hẳn
phải là một báo động đáng lo ngại. Đó có thể là dấu hiệu của sự khô cạn tình
người trong xã hội chúng ta đang sống.
Thực vậy, khi ơn nghĩa đã bị chối bỏ, thì dĩ nhiên sự ràng buộc
và tình liên đới cũng trở thành mong manh. Một khi tình người bị chối bỏ, thì
tất nhiên niềm tin tôn giáo cũng sẽ chỉ là chuyện thừa thãi mà thôi.
Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta đào sâu ý nghĩa của lòng biết
ơn trong cuộc sống con người. Trong số mười người được chữa lành, thì chỉ có
một người quay lại ngợi khen Thiên Chúa, rồi đến sấp mình dưới chân Chúa Giêsu
mà tạ ơn Ngài. Chúa Giêsu hẳn đã chua xót trước sự vô ơn của con người khi thốt
lên: Chớ thì không phải cả mười người được lành sạch sao? Còn chín người kia
đâu sao không thấy ai trở lại tôn vinh Thiên Chúa mà chỉ có người ngoại này mà
thôi. Tỷ lệ quá thấp, chỉ có một phần mười. Và một phần mười ấy theo Chúa Giêsu
nhận xét lại là thành phần ngoại giáo. Mặc dù là goại giáo theo nghĩa tôn giáo,
nhưng lại rất có đạo theo nghĩa đạo làm người. Mà bởi đạo làm người cũng là thể
hiện của đạo Chúa, cho nên người ngoại giáo Samaria này, theo cái nhìn của Chúa
Giêsu, hẳn phải là người có đạo hơn chín người Do Thái kia, bởi vì người này đã
thực thi cái nhân đức cao quý nhất của con người là lòng biết ơn.
Con người không thể là người một cách sung mãn mà không cần đến
người khác. Nói lên hai tiếng cám ơn là nói lên tình liên đới thâm sâu giữa
người với người. Tôi không thể là tôi nếu không có người khác. Tôi cần có người
khác để sống hoàn thiện, để được hạnh phúc. Từ cha mẹ tôi, gia đình tôi, những
người thân thích của tôi cho đến cả những kẻ thù của tôi...Tất cả đều đã đóng
góp vào sự trưởng thành của tôi. Không ai nghèo đến độ không có gì để trao
tặng. Cuộc đời là một chuỗi những lãnh nhận, từ sự sống cho đến những thành
đạt. Không có gì chúng ta đang có mà không do lãnh nhận từ người khác. Do đó
biết ơn là một đòi hỏi thiết yếu nhất của trái tim con người. Không có lời rủa
sả nào thậm tệ bằng ba tiếng: Đồ vô ơn. Hơn nữa, lòng biết ơn còn là con đường
dẫn chúng ta đến gặp gỡ Thiên Chúa, Đấng là cội nguồn mọi ơn huệ.
Người Samaria được chữa lành, đã ngợi khen Thiên Chúa và sấp
mình dưới chân Chúa Giêsu mà tạ ơn Ngài. Như vậy, lòng biết ơn chính là nẻo
đường dẫn anh đến gặp gỡ với Thiên Chúa. Sống cho ra người, sống cho có tình
nghĩa, đó là con đường bảo đảm nhất dẫn chúng ta đến cùng Thiên Chúa. Vô thần,
xét cho cùng, cũng chỉ là vô ơn, bởi vì kẻ chối bỏ Thiên Chúa thì dĩ nhiên cũng
sẽ chối bỏ người đồng loại của mình.
3. Dòng suối ân
tình – Thiên Phúc
(Trích dẫn từ ‘Như Thầy Đã Yêu’)
Trong một chuyến bay từ Rôma về Nữu Ước, Đức Tổng Giám Mục
Fulton Sheen chăm chú nhìn cô tiếp viên hàng không đang đi lại phục vụ quí
khách. Thấy cử chỉ lạ của Đức Tổng, cô tiếp viên mạnh dạn đến gần và hỏi:
- Thưa Đức Cha, có chuyện gì mà Đức Cha lại nhìn con như
thế?
Vị Tổng Giám Mục nhoẻn miệng cười đáp:
- Vì đôi mắt của con rất đẹp!
- Vậy con phải làm gì để cám ơn Chúa đây?
- Con ạ! Chúa đã lấy tất cả sắc đẹp của từng người phong
trong trại cùi Di Linh mà đem tặng cho con. Vậy con hãy đến đó chăm sóc cho họ
mà đền đáp ơn Chúa.
Quả thật, chỉ ít lâu sau người ta đã thấy người phụ nữ xinh
đẹp này ngày đêm tận tụy băng bó những vết thương lở loét cho các bệnh nhân
phong, tại trại cùi Di Linh dưới lớp áo dòng nữ tu.
Phong cùi là một bệnh nan y khó trị, ai cũng ghê tởm và run sợ
nếu mắc phải bệnh này. Vào thời Chúa Giêsu nó còn khoác vào người bệnh nỗi nhục
nhã trong tâm hồn, vì người ta cho rằng họ là những người bị Thiên Chúa phạt.
Những người mắc bệnh cùi bị ruồng bỏ, bị coi là nhơ nhớp, phải sống cách ly
trong một làng cùi xa mọi người, xa cả người thân. Phải mặc áo rách, để đầu
trần, lấy áo che miệng và phải hô lên rằng mình có bệnh truyền nhiễm và nhơ
nhớp để cho người lành biết mà tránh xa.
Thế mà, trong bài Tin Mừng hôm nay kể lại chỉ một lời Chúa Giêsu
phán ra thì vết thương của thể xác và nỗi đau trong tâm hồn bao năm đè nặng
bỗng tan biến hết. Căn bệnh quái ác mà họ cứ tưởng phải gánh chịu suốt cả cuộc
đời, nỗi ô nhục mà họ cứ tưởng sẽ vĩnh viễn theo họ sang bên kia thế giới, thì
nay đã được hoàn toàn tẩy xóa. Chỉ nhờ quyền năng và lòng thương xót của Thiên
Chúa mà họ như đã chết nay được hồi sinh, niềm vui rộn rã như vỡ òa trong tim.
Trớ trêu thay trong mười người được hưởng ơn chữa lành vô cùng
lớn lao ấy, chỉ có một người biết dâng lời tạ ơn, mà người ấy lại là người
Samari ngoại đạo. Còn những người vẫn tự hào là dân Thiên Chúa, dân riêng Chúa
chọn lại sống vô ơn.
Chúa Giêsu phải thốt lên lời quở trách: “Không phải cả mười
người được sạch cả sao? Thế thì chín người kia đâu? Sao không thấy họ trở lại
tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này?” “Sở dĩ Chúa Giêsu xem
trọng lòng biết ơn cũng là vì ích lợi của kẻ được ơn mà thôi. Người Samari trở
lại tạ ơn Thiên Chúa đã ban cho anh ơn phần xác, thì Người lại ban thêm cho anh
ơn phần hồn là củng cố niềm tin và xác định tư cách tôn giáo của anh. Người
nói: “Đứng dậy về đi! Lòng tin của anh đã cứu chữa anh”. Như thế, cám ơn lại là
cơ hội để nhận được thêm ơn.
Cuộc sống là một chuỗi những ân huệ nối tiếp theo nhau. Những ân
huệ này đan xen với những ân huệ khác. Có những ơn do nơi Thiên Chúa, và cũng
có những ơn đến từ con người. Vậy nếu cuộc sống là lãnh nhận thì người ta sẽ
như thế nào nếu không hề biết nói hai tiếng cám ơn, hoặc chẳng bao giờ bày tỏ
tấm lòng tri ân! Thú vật còn biết vẫy đuôi cám ơn khi ném cho nó cục xương, còn
người vô ơn khi nhận được ân huệ chỉ biết trố mắt nhìn và câm lặng.
Một đứa trẻ mới bập bẹ tập nói trong một gia đình có giáo dục,
thì tiếng “cám ơn” luôn nằm sẵn trên bờ môi. Một người có nhân cách thực sự là
một người có lòng biết ơn. Một người luôn thể hiện lòng biết ơn mới đích thực
là con người. Lòng biết ơn là nét cao đẹp nhất của con người. Biết ơn là nhận
ra thân phận bất toàn của mình. Biết ơn là ý thức về tình liên đới với người
khác. Biết ơn là thể hiện niềm tin vào Thiên Chúa yêu thương và quan phòng. Vì
thế, lòng biết ơn chính là bông hoa rực rỡ, điểm tô cho cuộc sống con người.
Một tiếng nói “cám ơn” với tất cả chân thành, một cữ chỉ biết ơn sâu xa sẽ làm
cho chúng ta nên người hơn, và thể hiện niềm tin sâu sắc hơn.
Cả cuộc sống của Chúa Giêsu là một “bài ca tạ ơn”. Người tạ ơn
Cha trước khi cho Ladarô sống lại, trước khi làm phép lạ hóa bánh và cá ra
nhiều, trước khi lập Phép Thánh Thể. Người không chỉ là mẫu mực về lòng biết ơn
mà còn dạy chúng ta thể hiện lòng biết ơn ấy: “Các con hãy làm việc này mà nhớ
đến Thầy”. Kể từ đó, mỗi thánh lễ mà Giáo Hội cử hành được gọi là thánh lễ tạ ơn.
Thánh Phaolô luôn dâng lời tạ ơn lên Chúa: “Tôi hằng cảm tạ
Thiên Chúa của tôi vì anh em, về ân huệ Người đã ban cho anh em nơi Đức Kitô”.
Ngài cám ơn tất cả những ai giúp ngài trong công việc mục vụ: “Quà anh em tặng
cho tôi đó, chúng khác nào hương thơm, lễ vật đẹp lòng Thiên Chúa và được Người
chấp nhận”. Như vậy, câu ngạn ngữ Anh nói rất chí lý: “Cho người có lòng biết
ơn chính là cho vay”.
Lạy Chúa, suốt cuộc đời chúng con ngụp lặn trong đại dương
ân huệ của Chúa, suốt đời chúng con được tắm mát trong dòng suối ân tình của
anh em.
Xin cho chúng con luôn biết sống có tình nghĩa, luôn thể
hiện lòng biết ơn, luôn quí trọng những hồng ân mà Chúa đã thương ban, và những
gì mà anh em đã làm cho đời chúng con thêm tươi đẹp và hạnh phúc hơn.
4. Đón nhận ơn cứu độ –
ĐTGM. Ngô Quang Kiệt.
Chúa Giêsu đang trên đường lên Giêrusalem để chịu khổ hình, hoàn
thành việc cứu độ. Chính lúc đi ngang qua Samaria, nhất là qua việc cứu chữa
mười bệnh nhân phong, Chúa cho thấy một vài đặc điểm của ơn cứu độ.
Ơn cứu độ là phổ quát.
Chúa muốn cứu độ hết mọi người không loại trừ ai. Nên Chúa đi
qua Samaria. Samaria là vùng đất cấm kỵ đối với người Do Thái. Đó là vùng đất
ngoại đạo. Đó là vùng đất ô uế. Người Do Thái và người Samaria không giao thiệp
với nhau. Nhưng Chúa đã vượt qua ranh giới cấm kỵ đó. Chúa muốn đem ơn cứu độ
đến cho mọi người. Tại Samaria Chúa còn gặp gỡ mười người phong cùi. Lại một
cấm kỵ nữa. Người phong cùi vốn bị coi là hạng người tội lỗi, ô uế. Ai gặp họ
đều trở nên ô uế. Họ bị loại trừ ra khỏi đời sống xã hội. Tại Samaria, những
người phong cùi là những người ở tầng lớp cuối cùng của xã hội. Chúa đem ơn cứu
độ cho mọi người, kể cả những người bị khinh miệt nhất, bị quên lãng nhất, bị
hất hủi nhất. Ơn cứu độ Chúa ban cho tất cả mọi người. Trước mặt Chúa mọi người
đều bình đẳng.
Ơn cứu độ là nhưng không.
Không ai dám nghĩ đến việc mời Chúa xuống trần gian. Không ai có
công trạng gì khiến Chúa phải xuống trần gian để tưởng thưởng hay để đền đáp.
Chúa xuống trần gian hoàn toàn do lòng nhân từ yêu thương của Chúa. Cũng thế,
người Samaria hoàn toàn bất ngờ khi Chúa đến miền đất của họ. Những người phong
cùi lại càng không bao giờ dám mơ tưởng tới. Bản thân họ đã bị lên án, bị loại
trừ rồi. Ngay việc gặp một người bình thường đã không được phép, huống chi là
gặp gỡ Chúa. Nhưng Chúa đã đến gặp gỡ họ, ban ơn cứu chữa họ. Hoàn toàn nhưng
không. Họ chẳng có công gì. Họ chẳng có quyền đòi hỏi gì. Họ chỉ có nỗi đau khổ
tột cùng. Chính nỗi đau khổ đó đã khơi dậy lòng yêu thương của Chúa. Vì Chúa là
tình yêu thương.
Ơn cứu độ phải được đón nhận với niềm tin.
Tuy ơn cứu độ được ban rộng rãi và nhưng không, nhưng để đón
nhận đòi phải có niềm tin. Những người phong cùi hôm nay đã bày tỏ niềm tin qua
hai thái độ. Thái độ thứ nhất là đồng thanh lớn tiếng kêu cầu danh Chúa Giêsu:
“Lạy Thày Giêsu, xin cứu chúng tôi”. Danh Thánh Giêsu có nghĩa là Thiên Chúa
cứu. Từ cùng tận nỗi đau khổ, những người phong cùi đã kêu van bằng tất cả tấm
lòng tha thiết và với niềm tin vững chắc. Chỉ có Chúa mới thương xót họ. Chỉ có
Chúa mới đủ quyền năng cứu chữa họ. Thái độ thứ hai là đi trình diện với thày
tư tế. Chúa không chữa họ ngay nhưng bảo họ đi trình diện với thày tư tế. Dù
chưa được khỏi, nhưng họ vẫn tin tưởng lên đường. Đang khi đi đường thì họ được
khỏi. Đức tin đã chữa họ.
Ơn cứu độ phải được đón nhận với niềm vui.
Đây là niềm vui trong mối tương giao giữa Thiên Chúa với con
người. Cốt lõi của ơn cứu độ là thiết lập mối tương giao, cho con người được
trở nên con cái Thiên Chúa, đồng hưởng hạnh phúc với Chúa. Đó là cội rễ của
niềm vui, niềm hạnh phúc. Chín người bệnh không trở lại chỉ có niềm vui được
khỏi bệnh, nhưng không có niềm vui trong mối tương giao với Thiên Chúa. Họ có
đức tin cầu xin nhưng thiếu đức tin gặp gỡ với Thiên Chúa. Niềm vui được khỏi
bệnh rồi cũng sẽ nhạt phai. Chỉ có một người trở lại tạ ơn. Anh trở lại vì mối
tương giao. Anh nhận biết nguồn gốc niềm vui của mình. Anh sụp lạy Chúa vì biết
nguồn gốc hiện hữu của mình. Anh đã tìm thấy nguồn cội ý nghĩa đời mình. Niềm
vui của anh sẽ còn mãi mãi. Đời anh sẽ là một đời tạ ơn không ngừng.
Lạy Chúa, xin cho con biết tìm đến gặp gỡ Chúa để tạ ơn
Chúa. Chính niềm vui tạ ơn này đem đến cho con hạnh phúc suốt đời con. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1) Vì sao Chúa ban ơn cứu độ cho ta và ta phải đón nhận với thái
độ thế nào?
2) Đức tin cầu xin và đức tin gặp gỡ Chúa khác nhau thế nào? Bạn
đã tiến đến đâu trong đời sống đức tin?
3) Có những miền đất, những con người nào mà bạn coi là cấm kỵ
khiến bạn chưa dám tiếp cận không? Với gương Chúa Giêsu hôm nay, bạn sẽ làm gì?
4) Biết ơn rất cần trong đời sống tự nhiên. Bạn có biết ơn trong
đời sống siêu nhiên không?
5. Tạ Ơn Chúa – Logos
Vào ngày 07/9/2004, hai người phụ nữ Ý tên Toretta và Pari
đã bị một nhóm người vũ trang bắt cóc khi họ đang làm công tác từ thiện tại
Irắc. Hai người phụ nữ này đều thuộc gia đình Công Giáo rất sùng đạo. Cả nước Ý
đã lo lắng cho số phận của 2 con tin. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã đưa ra
lời thỉnh cầu với nhóm người bắt cóc xin hãy vì lòng nhân đạo mà thả 2 người
phụ nữ ra. Vơí mọi cố gắng của chính phủ Ý trong việc đối thoại và thương lượng
với nhóm người bắt cóc, cuối cùng 2 người phụ nữ đã được thả tự do vào ngày
28/9/2004, sau 3 tuần bị giam giữ.
Vào ngày 05/10/2004 vừa qua, cô Toretta và Pari đã cùng gia
đình đến Vatican xin triều yết Đức Thánh Cha. Họ quỳ gối trước mặt ngài để cám
ơn ngài đã cầu nguyện và lên tiếng can thiệp để họ được trả tự do. Trước tin
vui này, Đức Giáo Hoàng đã cùng với gia đình 2 người phụ nữ dâng lời cảm tạ
Thiên Chúa.
Hai người phụ nữ đã cám ơn Đức Giáo Hoàng và tạ ơn Thiên Chúa vì
những ân huệ đã lãnh nhận. Đó cũng là thái độ của mọi người trước những hồng ân
cao cả của Thiên Chúa. Nhưng đáng tiếc, nhiều người đã quên nói lời cám ơn
trước những ơn lành mình nhận được.
Bài Tin Mừng theo thánh Luca hôm nay thuật lại câu chuyện Chúa
Giêsu chữa lành mười người phong cùi, nhưng chỉ có một người trở lại để tạ ơn
Chúa. Và thật trớ trêu, đó lại là một người xứ Samaria, một người dưới mắt
người Do thái là một kẻ ngoại giáo! Đó là một điều đáng buồn, đến nỗi Chúa
Giêsu phải thốt lên: “Chớ thì không phải cả mười người được lành sạch cả sao?
còn chín người kia đâu?”. Có lẽ đó cũng là lời chất vấn dành cho những ai không
nhận biết ơn Thiên Chúa để cảm tạ Ngài. Hơn ai hết, chính Chúa Giêsu đã nên mẫu
mực cho chúng ta về lòng biết ơn Thiên Chúa và cả cuộc đời của Ngài luôn vang
lên lời tạ ơn Thiên Chúa Cha.
Cuộc đời Chúa Giêsu là bài ca tạ ơn.
Chúa Giêsu thường tìm đến nơi thanh vắng để cầu nguyện với Chúa
Cha. Nhưng khi biểu lộ tâm tình tạ ơn thì Ngài lại thực hiện công khai trước
mặt mọi người. Chúa muốn dạy mọi người bài học về lòng biết ơn đối với Thiên
Chúa.
Trước khi làm phép lạ hóa bánh ra nhiều, Chúa cầm lấy bánh, dâng
lời tạ ơn rồi phân phát cho mọi người (Ga 6, 11). Trong bữa Tiệc Ly, khi
lập bí tích Thánh Thể, Ngài cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, bẻ ra và trao cho các
môn đệ (Lc 22, 19). Đứng trước nấm mồ Lazarô, trước khi làm cho anh ta sống
lại, Chúa Giêsu đã dâng lời cảm tạ Thiên Chúa (Ga 11, 41).
Cả cuộc sống của Chúa Giêsu là một lễ tạ ơn liên lỉ. Ngài đã hy
sinh mạng sống làm hy tế dâng lên Đức Chúa Cha. Vì thế, ngày hôm nay, khi dâng
lễ tạ ơn mỗi ngày, chúng ta cử hành mầu nhiệm cuộc đời Chúa, chúng ta sống lại
tâm tình tạ ơn của Chúa, là tâm tình của Người Con dâng lên Chúa Cha.
Cuộc đời của Chúa là bài ca tạ ơn luôn vang lên những giai điệu
vui tươi trong những giây phút hân hoan và trong cả những giờ khắc bi thảm. Bài
ca tạ ơn đó đã ngân lên từ môi miệng của Mẹ Maria (Magnificat), ông Zacaria
(Benedictus) và vẫn tiếp tục ngân vang trong tâm hồn những người tín hữu hôm
nay.
Lời cám ơn, bông hoa đẹp của cuộc sống.
Ngạn ngữ Pháp nói: “Lòng biết ơn là trí nhớ của trái tim”.
Đúng vậy, lời tri ân cảm tạ là lời nói của con tim. Lòng biết ơn là nghĩa cử
của tâm hồn. Chỉ có những trái tim gỗ đá mới không nhận biết ân huệ được trao
tặng. Vì vậy, lòng biết ơn là bông hoa đẹp tô điểm cho cuộc đời. Chính những
lời cám ơn sẽ làm cho cuộc sống tăng thêm hương vị ngọt ngào và làm cho cuộc
đời này thêm ý nghĩa vì mọi người biết liên đới với nhau hơn.
Ngạn ngữ Anh nói: “Cho người có lòng biết ơn là cho vay”. Quả
thật, cuộc sống hiện tại của mọi người sẽ đẹp biết bao khi mọi người biết chia
sẻ tình thương cho nhau. Mỗi cử chỉ yêu thương sẽ được đánh dấu bằng lời “cám
ơn”, sẽ làm giàu thêm tình người. Mọi người sẽ sống trong tình huynh đệ với
những “món nợ tình thương” trao trả cho nhau.
Lời tạ ơn Thiên Chúa của chúng ta còn là những bông hoa đẹp đẽ
nhất của tấm lòng mà chúng ta dâng cho Chúa mỗi ngày. Những bông hoa ấy trang
điểm cho tâm hồn chúng ta thêm xinh đẹp nhờ những ân sủng Thiên Chúa tặng ban.
Vì “thật ra, Chúa không cần chúng ta ca tụng, nhưng được tạ ơn Chúa lại là một
hồng ân cao cả, vì những lời ca tụng của chúng ta chẳng thêm gì cho Chúa, nhưng
đem lại cho chúng ta ơn cứu độ muôn đời” (Kinh Tiền Tụng Chung, IV). Đúng vậy,
những lời tạ ơn của chúng ta như làn hương tỏa bay lên cao và kéo thêm nhiều
cơn mưa hồng phúc xuống cuộc đời chúng ta, vì thế, khi người Samaria quay trở
lại tạ ơn Chúa, Chúa nói: “Ngươi hãy ra về, vì lòng tin của ngươi đã cứu chữa
ngươi”. Người Samaria không những được ơn lành bệnh mà còn được ơn cứu rỗi nữa.
Cũng thế, sau khi được tiên tri Êlisê chữa khỏi bệnh cùi, tướng Naaman người xứ
Syria đã trở lại để tạ ơn và tôn vinh Thiên Chúa. Từ đó, ông nhận được niềm tin
vào Thiên Chúa (bài đọc 1, trích sách Các Vua Quyển thứ hai).
Một ngày kia, có hai thầy trò đi dạo trên con đường miền
quê. Đang đi, họ chợt nhìn thấy một đôi giày cũ kỹ để bên vệ đường. Đó là đôi
giày của người nông dân nghèo khó đang làm ruộng bên cạnh. Cậu học trò tinh
nghịch định giấu đôi giày đi để trêu chọc người nông dân, nhưng ông thầy đã
ngăn cản cậu: con đừng tìm niềm vui qua việc trêu chọc một con người nghèo khổ
như thế, nhưng hãy tìm niềm vui khác to lớn hơn: con hãy bỏ vào mỗi chiếc giày
một đồng tiền xem ông ta phản ứng ra sao?”. Sau khi bỏ tiền vào đôi giày, hai
thầy trò trốn vào một bụi cây để xem người nông dân xử sự thế nào. Khi xỏ chân
vào đôi giày để ra về, người nông dân phát hiện ra hai đồng tiền. Ông ta rất
ngạc nhiên nhìn chung quanh, nhưng không thấy ai, ông ngắm nghía hai đồng tiền
thật lâu rồi bỏ vào túi. Với sự xúc động tràn ngập trong lòng, người nông dân
quỳ xuống, ngước mặt lên trời dâng lời tạ ơn Thiên Chúa đã dùng bàn tay vô hình
nào đó đem đến cho ông một món quà thật đúng lúc trong hoàn cảnh khốn khó hiện
tại của gia đình ông.
Chúng ta bắt chước người nông dân kia luôn cảm tạ Thiên Chúa
trước những ân huệ Ngài ban. Chúng ta cũng hãy học lấy hành động yêu thương của
hai thầy trò: hãy luôn biết cho đi bằng những “bàn tay vô hình” đầy ắp tình
thương. Đó là cách tạ ơn Chúa tốt đẹp nhất của chúng ta.
6. Thể hiện của tự do thực
sự
(Trích dẫn từ ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’ – Radio Veritas Asia)
Trong suốt nhiều thế kỷ, người Do thái đã phải còng lưng dưới
sức nặng của lao động khổ sai bên Ai Cập. Dưới sự lãnh đạo của Môsê, Thiên Chúa
đã giải phóng họ và đưa họ vào vùng đất tự do. Để đánh dấu cuộc giải phóng khỏi
các thứ khổ sai đó, Thiên Chúa đã thiết lập một ngày trong tuần như ngày Hưu
Lễ. Đó là lý do tại sao người Do thái đã trân trọng tuân giữ ngày Hưu lễ. Nó
chính là biểu trưng của tự do, bởi vì thời nô lệ, bẩy ngày trên bẩy ngày, người
Do thái không thể có được một ngày nghỉ ngơi. Như vậy, nghỉ ngơi là dấu chỉ của
tự do, và đó là ý nghĩa nguyên thủy của ngày Hưu lễ.
Thế nhưng, dần dà qua dòng thời gian các nhà thần học Do thái đã
thay đổi ý nghĩa ấy của ngày Hưu lễ: thay vì là biểu tượng của tự do, họ đã
biến ngày Hưu lễ thành một gánh nặng đầy đọa và trói buộc con người; họ đã kéo
dài ngày Hưu lễ thành một bản kê khai tỉ mỉ những gì không được phép làm trong
ngày Hưu lễ và như vậy dấu chỉ của tự do giờ đây chỉ còn là một hình thức nô lệ
mới đối với người Do thái: thay vì là dấu chỉ của tự do đưa con người vào gặp
gỡ với Thiên Chúa, ngày Hưu lễ đã trở thành một gánh nặng chồng chất trên vai
con người, nhất là làm cho con người xa cách Thiên Chúa.
Đó cũng là tình trạng của lề luật nói chung thời Chúa Giêsu.
Luật lệ không còn là vì con người, nghĩa là giải phóng con người, mà trở thành
gánh nặng đè bẹp con người và tách lìa con người khỏi Thiên Chúa; con người chú
tâm thi hành lề luật hơn là yêu mến Thiên Chúa và yêu thương tha nhân. Thái độ
của 9 người phong cùi người Do thái trong Tin Mừng hôm nay phản ánh tâm thức
chung của người Do thái thời đó. Chúa Giêsu chữa lành 10 người phong cùi, trong
đó chỉ có một người Samari không phải tuân hành luật Do thái. Theo đúng đòi hỏi
của lề luật, Chúa Giêsu đã yêu cầu 9 người Do thái đến trình diện các tư tế để
được xác nhận là đã khỏi bệnh, riêng người Samari không phải tuân giữ điều đó,
nhưng đây lại là người duy nhất trở lại cám ơn Chúa Giêsu và ngợi khen Thiên
Chúa.
Câu truyện trên cho chúng ta thấy luật lệ đã cản trở con người
đến gặp gỡ Chúa Giêsu và cảm tạ Thiên Chúa. Người Samari vì không bị chi phối
bởi lề luật, nên đã được tự do để nói lên tình cảm chân thật của mình, người
này gần với tôn giáo đích thực bởi vì ông có tự do hơn. Thiên Chúa thi ân một
cách nhưng không thì con người cũng phải đáp trả một cách tự do. Một tương quan
như thế không thể có được trong một xã hội lề luật, trong đó con người chỉ biết
tính toán theo thứ công bình hoán đổi. Người Do thái vốn quen thuộc với tâm
thức ấy, họ tính toán chi ly về công đức của mình, họ lượng giá phần thưởng dựa
trên công nghiệp của mình. Chúa Giêsu đã đánh đổ một quan niệm như thế về tương
quan giữa con người và Thiên Chúa: ơn cứu rỗi mà Ngài loan báo và thực hiện là
ơn cứu rỗi nhưng không, đến độ con người chỉ được cứu độ nhờ lòng tin vào lòng
từ bi của Thiên Chúa, đến độ những kẻ tội lỗi là những người đầu tiên được vào
Nước Chúa.
Ngày nay, có lẽ nhiều người chúng ta cũng giống như 9 người
phong cùi Do thái trong Tin Mừng hôm nay. Họ đã bị lề luật giam hãm trong Đền
thờ để không còn có thể nói lên lời tạ ơn đối với Đấng đã thi ân cho mình; họ
xem lề luật trọng hơn điều thiết yếu của niềm tin là lòng biết ơn và niềm tín
thác. Cũng như họ, có lẽ chúng ta đã tỏ ra trung thành một cách chi ly với luật
Hội Thánh, nhưng nhiều lúc chúng ta vẫn còn tự hỏi: Tôi phải đọc bao nhiêu
kinh? Tôi phải lần bao nhiêu chuỗi? Tôi phải ăn chay bao nhiêu lần? Tôi phải bố
thí cho bao nhiêu người nghèo khó? Tính toán như thế là quên rằng Thiên Chúa
như Chúa Giêsu mạc khải là Thiên Chúa Tình Yêu. Ngài ban ơn cho chúng ta hơn cả
những gì chúng ta chờ đợi và tính toán. Một Thiên Chúa như thế, con người không
thể có một tâm tình nào xứng hợp hơn là lòng tri ân, niềm tín thác. Đó là sự
thể hiện của một tâm hồn tự do đích thực, nhờ đó con người có thể vượt qua bốn
bức tường nhà thờ để không ngừng gặp gỡ Chúa trong cuộc sống mỗi ngày.
7. Đức tin của con đã cứu
con – Veritas.
(Trích dẫn từ ‘Hãy Ra Khơi’)
Có câu chuyện kể rằng, một hôm Chúa sai hai thiên thần
xuống trần gian đi làm nhiệm vụ, đúng hẹn hai thiên thần trở về, một vị đeo cái
giỏ nặng trĩu, thấy vị kia đeo cái giỏ nhẹ tênh, hầu như không có gì bèn nói:
Chúa sai tôi xuống trần gian thâu tất cả những lời cầu xin, nhưng nhiều quá nên
cái giỏ của tôi rất nặng. Còn ngài, ngài đã làm gì mà sao cái giỏ của ngài nhẹ
quá vậy? Vị kia trả lời: Tôi xuống trần gian để thu tất cả những lời tạ ơn,
nhưng chẳng có bao nhiêu.
Câu chuyện phần nào nói lên một thực tế của con người và giúp
chúng ta hiểu được bài Tin Mừng mà chúng ta vừa nghe đọc, thì ra người ta hầu
như biết cầu xin hơn là biết đón nhận và tạ ơn. Thánh Luca thuật lại sự kiện có
mười người phong cùi đến gặp Chúa Giêsu và khẩn khoản cầu xin Chúa thương xót,
Chúa đã chữa lành bệnh cho họ, nhưng chỉ có một người quay lại để tạ ơn Chúa.
Người quay trở lại tôn vinh Thiên Chúa lại là một người ngoại, vậy thì chẳng lẽ
những người kia không được lành bệnh sao?
Đọc bài Tin Mừng này tôi nhớ lại một sự kiện tôi đã gặp mà tôi
nhớ rất rõ, đó là trưa ngày mùng 3 tháng 11 năm 1995 tại một nhà thờ của
Dòng Đaminh, có một phụ nữ ôm một bó hoa tươi đang phân vân đi đi lại lại trước
các tượng thánh Đaminh, thánh Vinh sơn Liêm và thánh Martinô trong khuôn viên
nhà thờ. Tôi tiến lại gần và hỏi hình như bà muốn đặt hoa trước vị thánh nào đó
phải không? Bà thú nhận bà là người ngoại đạo, bà làm việc này theo yêu cầu của
đứa con trai của bà. Nhưng thật đáng tiếc, bà không biết đâu là thánh Martinô,
rồi bà tiếp tục tâm sự: gia đình bà đều ngoại giáo, cách đó nhiều năm đứa con
trai của bà học lớp 9, theo các bạn bè Công giáo đến khấn xin thánh Martinô cho
học hành tốt đẹp và tất cả chúng đã đạt được như ý. Kể từ đó, hàng năm vào ngày
3/11 lễ thánh Martinô nó vẫn mang bông đến tạ ơn thánh nhân, nhưng bởi vì năm
nay nó đi xa, nó vẫn nhớ việc này và nhờ bà làm giúp cho nó.
Một người ngoại đạo họ không biết Chúa, không đón nhận Phép Rửa,
không cùng tuyên xưng đức tin với chúng ta nhưng họ đã nhận ra nguồn hạnh phúc
thật của sự sống. Họ ý thức rất rõ và xác tín những gì họ đã đón nhận. Họ hiểu
ra rằng tất cả cuộc đời của họ đều là hồng ân. Họ chưa bao giờ tuyên xưng đức
tin, nhưng họ đã luôn sống và thể hiện đức tin: “Lòng tin của ngươi đã cứu
ngươi”. Có thể nói, người biết tạ ơn đó là người có thái độ biết cầu xin và
biết đón nhận, hay là người có thái độ tạ ơn Thiên Chúa, đó là người có đức
tin.
Mỗi người chúng ta khi cầu nguyện, chúng ta thường hay nhắm đến
cầu xin và luôn luôn cầu xin cho chúng ta, cho nên chúng ta đã quên mất rằng,
tạ ơn là một trong những yếu tố quan trọng trong đời sống cầu nguyện. Cùng với
chúc tụng, sám hối, chúng ta cầu nguyện hình như là để cầu xin Thiên Chúa thực
hiện theo ý của chúng ta hơn là để chúng ta nhận ra thánh ý Chúa và thực hành ý
Ngài.
Chính thái độ đó mà chúng ta cứ quay quắt trong ý định riêng tư
và dằn vặt trong tính toán nên không thể nào nhận ra được hồng ân cao cả đầy
yêu thương của Thiên Chúa đang thực hiện trong cuộc đời của mình. Nếu chúng ta
ý thức một chút, chúng ta sẽ nhận ra cuộc đời của chúng ta là cả một cuộc đời
đầy những hồng ân. Vì vậy, chúng ta phải chúc tụng, tạ ơn cả cuộc đời và cả một
cuộc đời của chúng ta phải là một cuộc đời tạ ơn liên lỉ.
Xin cho mỗi người chúng ta vững mạnh trong đức tin để nhận ra
trên thế giới này Thiên Chúa vẫn đang sống, vẫn đang hành động, đang ở với
chúng ta, để chúng ta chúc tụng và tạ ơn. Giờ đây chúng ta cùng nhau tuyên xưng
đức tin và xin cho mỗi người chúng ta cũng sống trọn vẹn đức tin để chúng ta
chúc tụng, tạ ơn Chúa.
8. Suy niệm của
Lm. Giuse Nguyễn Hữu Duyên
Những bài Thánh Kinh hôm nay ít nhiều đều đề cập tới một tâm
tình tự nhiên của con người: lòng biết ơn. Tướng Naaman sau khi được khỏi bệnh
đã quay trở lại gặp người của Thiên Chúa với một lễ vật tạ ơn. Người phong hủi
Samaria thấy mình được khỏi bệnh liền quay trở lại tạ ơn Đức Giêsu. Những câu
chuyện như thế không có gì đáng nói, vì là lẽ thường tình trong xã hội. Nhưng ở
đây tâm tình biết ơn có một điểm nổi bật khiến cho Đức Giêsu phải ngạc nhiên và
trân trọng: sự biết ơn phát xuất từ lòng tin và là lời diễn tả lòng tin.
Trong một chỗ khác trong Tin Mừng, Đức Giêsu đã nói về Naaman
"Cũng thế, trong thời tiên tri Êlisêô có nhiều người bị phong cùi trong
Israel, nhưng không ai trong họ được chữa lành, chỉ có Naaman, người dân
ngoại.", để ca ngợi lòng tin của viên sỹ quan A-ram này. Cũng như ở đây,
Đức Giêsu không khỏi đau đớn khi lên tiếng hỏi "Không phải cả mười người
đều được khỏi bệnh sao? Thế thì chín người kia đâu? Sao không thấy họ trở lại
tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại quốc này?" Và Người dã đưa ra
kết luận "Đứng dậy và đi! Lòng tin của con đã cứu con". Rõ ràng, lòng
biết ơn là điều thường tình, nhưng biết ơn bởi lòng tin thì là một điều thật
họa hiếm. Sự biết ơn trong cuộc sống xã hội thường chỉ phát xuất từ quyền lợi
bản thân: muốn người làm ơn có một cái nhìn thiện cảm và vui lòng. Ngay cả
trong tôn giáo, thường cũng chỉ gặp được những lời tạ ơn như thế.
Tiên tri Êlisêô, và cả Đức Giêsu nữa khi bắt người bệnh của mình
phải đi tắm ở sông Giođan hay đi trình diện với các tư tề là để họ phải đặt mình
trước ngưỡng cửa đức tin. Naaman, và người phong hủi thời Đức Giêsu qủa thực đã
phải đấu tranh với bản thân mình để có sự vâng phục trong đức tin. Đức tin
không cắt đứt người tin khỏi những tương quan trong cuộc sống, nhưng giúp con
người biết nhìn mỗi tương quan ấy trong cái nhìn của Thiên Chúa. Naaman muốn
dâng lễ vật cho Êlisêô, điều đó sẽ làm cho đức tin vừa chớm nở nơi Naaman bị
tổn thương, nên người của Thiên Chúa đã trả lời "Trước mặt Đức Chúa hằng
sống là Đấng tôi phục vụ, tôi thề sẽ không nhận gì cả". Naaman đã hiểu để
tạ ơn ông phải làm cho chính trọn vẹn đời sống trở thành Lễ Tế cho Thiên Chúa.
Người phong hủi Samaria cũng nhận được một lệnh truyền tương tự "Đứng dậy
về đi! Lòng tin của anh đã cứu anh." Lời tạ ơn phải là cả hành trình đời
sống thường ngày trong lòng tin.
Chúng ta sẽ không hiểu đúng tâm tình tạ ơn theo đức tin, nếu
không cùng thánh Phaolô chiêm ngưỡng Lễ Tạ Ơn của chính Đức Giêsu. Bằng một gợi
nhớ thật vắn gọn, nhưng thánh Phaolô đã cho thấy Lời Tạ Ơn của Đức Giêsu xuất
phát từ đâu, và đi về đâu "Con hãy nhớ đến Đức Giêsu Kitô, Đấng đã chỗi
dậy từ cõi chết, Đấng xuất thân từ dòng dõi Đavít." Lời Tạ Ơn đi từ nhập
thể, ngang qua sự chết và sống lại vinh hiển. Đó là sự VÂNG PHỤC ĐỨC TIN toàn
hảo của Đức Giêsu đối với LÒNG TRUNG TÍN tuyệt đối của THIÊN CHÚA trong GIAO
ƯỚC của Ngài "Người vẫn một lòng trung tín, vì Người không thể nào chối bỏ
lời hứa của mình." Lời tạ ơn như thế, đòi hỏi người tin "cùng chết
với Người" "cùng kiên tâm chịu đựng với Người". Lễ Tạ Ơn bắt
nguồn và hình thành trong chính cuộc sống.
Người Kitô hữu chúng ta ngày nay thường muốn đóng khung lễ tạ ơn
của mình trong nhà thờ, nơi đền đài. ở đó họ đôi khi cũng rất quảng đại, nhưng
cuộc sống của họ lại là nơi của những thần tượng khác. Thật đau lòng thay.
Cuộc sống hôm nay thật qúa nhiều khó khăn: nhiều gia đình phải
bươn trải từng ngày cũng không đủ sống. Lại thêm bị ám ảnh chiến tranh, người
ta bắt đầu có khuynh hướng thu gom và tích trữ, và dường như cố quên đi những
mảnh đời đau khổ. Lời Tạ Ơn không còn là "cùng cam chịu chết, cùng cam
chịu đựng". Đức Giêsu "hôm qua,hôm nay và mãi mãi" vẫn là
"đồng hình đồng dạng" với những con người lam lũ đễ làm thốt lên
trong lòng họ NIỀM TIN vào lòng Thương Xót của Thiên Chúa, và biến cuộc đời
những con người cùng khổ thành Lời Tạ Ơn và Chúc Tụng, bằng sự hiến thân đến
cùng cho họ. Lễ tạ ơn của chúng ta phải là "lễ tạ ơn" của những con
người đang bị khủng bố, bị bom đạn dày xéo, bị lũ lụt cuốn trôi. Chính trong
thời điểm khó khăn của chính mình, sự hiến tặng tình thương của mỗi người mới
là của lễ mà Thiên Chúa chờ đợi.
Từ quan điểm ấy, một lần nữa tôi tha thiết mời gọi sự giúp đỡ
đặc biệt cho anh em bị lũ lụt của chúng ta. Sự khó khăn của chúng ta không thể
là lý do để chúng ta khép lại Tình Thương Trung Tín của Thiên Chúa.
9. Lòng biết ơn –
Lm Ignatio Trần Ngà
(Trích dẫn từ ‘Cùng Đọc Tin Mừng’)
Sau một trận động đất dữ dội hoặc một vụ khủng bố tựa như
đã xảy ra tại Trung Tâm Thương Mại NewYork tháng 11 năm 2001, một số người bị
vùi dưới hàng khối bê tông và gạch đá, nhưng không bị chết ngay vì được nằm lọt
vào một khoang trống. Trong khoảng không gian chật khít người, vừa tối tăm vừa
ngột ngạt đó, họ dùng điện thoại di động gọi về gia đình, gọi cho nhân viên cứu
hộ đến cứu giúp. Mạng sống của họ chỉ được tính từng giây!
Trong những giờ phút kinh hoàng như thế, người ta cảm nhận rằng
được sống thêm mươi phút nữa, dù chỉ thêm mươi phút nữa thôi, cho đến khi toán
cấp cứu đến kịp, là cả một hồng ân vô cùng lớn lao. Và đang lúc gần như bị chôn
sống dưới cả một núi bê tông như thế, họ nghiệm thấy rằng được tự do hít thở
như bao nhiêu người khác bên ngoài là một ân huệ vô cùng quý báu; được uống vài
ngụm nước lúc nầy thì thật sung sướng không gì bằng...
Mươi phút sống... một chút không khí trong lành... mấy ngụm
nước... là những gì mà những người lâm nạn hết lòng khao khát và ước mơ, nhưng
những ước mơ giản dị đó đã không đến được với nhiều nạn nhân bị chôn vùi ở
nhiều nơi vì tai nạn hầm mỏ, vì nạn khủng bố hay động đất... nhưng những ân huệ
đó đang ở trong tầm tay chúng ta cách dồi dào và dư dật. Chúng ta có thừa những
gì mà những người lâm nạn đang mơ ước. Thế mà chúng ta không xem đó là ân huệ,
mà chỉ xem đó là chuyện thường tình.
Nước, không khí, ánh nắng mặt trời... chỉ là một vài trong vô
vàn ân huệ Thiên Chúa rộng ban cho mọi người. Đếm sao cho xiết những ân huệ
Chúa ban. Vậy mà số người nhận ra và tỏ lòng tri ân Thiên Chúa thì vô cùng khan
hiếm.
Khi Chúa Giêsu đi qua biên giới Samaria thì gặp mười người phong
cùi. Họ là những người mang số phận bi đát. Vì mắc bệnh truyền nhiễm đáng sợ,
họ bị xã hội Do-thái thời bấy giờ xua ra khỏi gia đình, làng mạc, cách ly với
tất cả mọi người. Những con người bất hạnh nầy tụ tập với nhau, sống trong các
hang hốc ngoài đồi núi, áo quần tả tơi, đầu tóc bù xù và buộc phải để đầu trần,
đi đâu phải lấy tay che miệng và hô lên báo hiệu cho người qua lại biết mà lánh
xa. Vì thế, họ không được phép lại gần Chúa Giêsu để xin Ngài cứu chữa. Họ phải
đứng đằng xa kêu lên: "Lạy Thầy Giêsu, xin dủ lòng thương chúng tôi".
Theo luật quy định, nếu có người nào mắc bệnh phong có cơ duyên
lành bệnh, thì phải đến trình diện với các tư tế, để khám xét lại. Nếu thực sự
được lành bệnh thì họ mới được cho hoà nhập với cộng đồng. Chúa Giêsu bảo mười
người phong đến trình diện với các tư tế là vì lý do đó. Họ đã đi trình diện,
đã được chứng nhận là khỏi bệnh, nhưng chỉ có một người xứ Samari, người được
xem là thuộc phường rối đạo, biết quay trở lại tôn vinh Thiên Chúa và cảm tạ
Chúa Giêsu. Còn chín người kia thì không. Chưa được ơn thì van vái cầu xin,
được ơn rồi thì nín thinh như hến.
Chuyện kể rằng có hai thiên thần được Thiên Chúa sai xuống
trần, một vị có nhiệm vụ thu gom những lời cầu khẩn van xin của con người; còn
vị kia thì đi thu nhặt những lời tạ ơn người ta dâng lên Chúa. Chỉ vài giờ sau,
vị thiên thần có nhiệm vụ thu gom lời cầu nguyện van xin của nhân loại vội vã
trở về vì hai va-li lớn của ngài đầy cứng và nặng trịch vì những lời cầu khẩn,
khiến ngài hầu như không cất cánh nổi để bay về. Chờ mãi không thấy thiên thần
kia trở lại, Thiên Chúa lại sai một vị thiên thần khác xuống thế kiếm tìm, thì
mới hay là thiên thần thứ hai đang rảo khắp phố phường, khắp hang cùng ngõ hẻm
suốt cả tháng trời mà chẳng gom góp được bao nhiêu lời tạ ơn nên còn phải lặn
lội đến những nơi xa xôi hiểm trở may ra có thể kiếm thêm được ít gì nữa chăng!
Dấu hiệu để nhận ra người có văn hoá là biết nói tiếng cám ơn.
Trong xã hội văn minh, dường như hai tiếng cám ơn liên tục được phát ra làm ấm
lòng người nghe và làm tăng thêm giá trị của người nói. Người biết nói tiếng
cám ơn, khi được người khác làm ơn cho mình, cả trong những điều nhỏ nhặt, được
đánh giá là người văn hoá, văn minh.
Ước gì trong tương quan với Chúa, mỗi người chúng ta cũng không
thua kém những người khác trong xã hội thế trần, biết nhận ra hồng ân Thiên
Chúa bao phủ đời mình và luôn dâng lời cảm tạ Thiên Chúa vì hồng ân Ngài tuôn
ban trong suốt dòng lịch sử đời mình. Và lời tạ ơn đẹp nhất, xứng hợp nhất, là
cùng với Chúa Giêsu dâng hy tế tạ ơn Thiên Chúa Cha qua mỗi thánh lễ hằng tuần.
10. Lòng biết ơn -
Lm. Trần Việt Hùng
Có một vở kịch, nhan đề ‘Phố Của Chúng Tôi’ (Our Town), nơi
đó có một người phụ nữ trẻ bị chết. Việc xảy ra là cô ta được Chúa cho phép trở
lại dương thế để sống lại một ngày của đời cô. Cô chọn ngày sinh nhật của tuổi
12. Trở lại thế gian, mới vài giờ trôi qua, cố ta la lớn ‘Tôi không thể, tôi
không thể tiếp tục. Thời gian trôi qúa mau. Tôi không có thời gian để ngắm nhìn
nhau… Ôi dương gian quá tuyệt vời cho bất cứ ai nhận ra nó. Rồi, với dòng lệ
tuôn rơi, cô hỏi, ‘Con người có cảm nhận được đời sống, trong khi họ đang sống
ở trần gian không? Tiếng thầm trả lời cô, ‘Không’. Các thánh và các thi sĩ có
thể – đôi khi họ nhận ra.
Trong sách Các Vua kể câu truyện ông tướng Naaman được tiên tri
của Chúa chữa lành bằng cách bước xuống sông Giođan tắm bảy lần. Naaman được
thanh sạch các dấu vết của bệnh tật. Ông đã tỏ lòng tôn kính Thiên Chúa và trở
lại dâng lời tạ ơn vị tiên tri của Chúa: Sau đó, ông và đoàn tuỳ tùng trở lại
gặp người của Thiên Chúa. Đến nơi, ông đứng trước mặt người của Thiên Chúa và
nói: “Thật tôi biết không có Thiên Chúa nào khác trên hoàn vũ, ngoài một Thiên
Chúa ở Israel. Vì thế, tôi xin ông nhận lấy phần phúc của tôi tớ ông” (2V 5,
15). Trước khi được rửa sạch tì vết phong cùi, Naaman là người dân ngoại. Ông
chưa bao giờ nhận ra hồng ân sự sống và cuộc sống. Vâng lời người của Chúa,
bước xuống dòng sông và bảy lần ngụp lặn dưới dòng nước, Naaman được hoàn toàn
đổi mới. Từ ân huệ nhỏ được chữa lành, ông nhận ra ân huệ của sự sống và Đấng
ban sự sống.
Naaman đã thay đổi tận tâm can. Ông đã hoàn toàn đổi hướng. Giờ
đây, ông đã chọn Chúa làm gia nghiệp cuộc đời: Naaman nói thêm rằng: “Tuỳ ý
ông, nhưng tôi xin ông ban phép cho tôi, là đầy tớ của ông, được chở một ít đất
vừa sức hai con la chở được, vì từ nay ngoài Chúa, tôi tớ của ông sẽ chẳng dâng
của lễ toàn thiêu hoặc hy lễ cho thần minh nào khác” (2V 5, 17). Qua sự khiêm
cung và lòng thành tín, Naaman đã được Thiên Chúa chữa lành. Ông đã nhận lãnh
hồng ân thanh tẩy cả hồn lẫn xác. Với lòng tri ân, ông đã trở lại tìm đến người
của Chúa. Ông đã xưng tụng danh Thiên Chúa và tôn thờ Chúa. Một thái độ khôn
ngoan tuyệt vời. Cũng thế, đã nhiều lần Chúa chữa lành tâm hồn thể xác của
chúng ta. Mấy khi chúng ta nhận diện ra lòng thương xót và tình yêu của Chúa để
dâng lời tạ ơn.
Biết rằng mọi sự trên thế gian này đã qua, đang qua và sẽ qua
mau. Mỗi ngày chúng ta sống là mỗi giây phút rút bớt đời sống của chúng ta.
Chẳng mấy ai nói rằng cuộc sống như thế là qúa đủ hay quá dài. Cho dù người
thượng thọ cao niên vẫn muốn sống thêm, dù một ngày vắn gọn. Chúng ta cần trân
quí món qùa của sự sống. Mỗi giây phút sống là hồng ân Chúa ban. Nếu buông bỏ
giữa chốn hoang địa, chúng ta đã biến mất từ lâu. Ngay từ lúc được thụ thai
trong lòng mẹ, chúng ta đã tùy thuộc vào người khác. Cha mẹ sinh chúng ta vào
đời trần trụi. Từng giây phút, chúng ta bắt đầu nhận lãnh và chịu ơn suốt dọc
cuộc sống. Hồng ân sự sống là cao trọng nhất. Thiên Chúa đã an bài môi trường
chung quanh để đón nhận chúng ta vào đời. Xã hội con người đã gầy dựng và dọn
sẵn sàng để đáp ứng nhiều nhu cầu cuộc sống. Chúng ta chỉ cần cố gắng bỏ công
sức để đón nhận, góp phần và hoàn thành sứ mệnh.
Sự liên đới trùng điệp ân phước trong cuộc sống có một giây
truyền nối tiếp. Kẻ đến trước, người tới sau. Ai cũng nhận ơn và cần có thái độ
biết ơn. Biết ơn, cám ơn, tạ ơn, tri ân, mang ơn và trả ơn nói lên tính ưu việt
của con người. Càng biết ơn, chúng ta càng sống làm người hơn. Chúng ta biết
rằng không có sự gì là tự nhiên mà có. Phàm bất cứ sự gì đều có nguyên nhân và
hậu qủa. Điều quan trọng là chúng ta nhận diện ra những hoa trái mà chúng ta
đang thụ hưởng, cả tinh thần lẫn thể chất. Người đời rất đau lòng vì sự vô ơn,
bạc nghĩa và phản phúc. Người ta nói là: Ăn cháo đái bát. Còn ngại hơn nữa khi
thiên hạ nói: Cứu vật, vật trả ân. Cứu nhân, nhân trả oán. Cho dù sự giúp đỡ
rất nhỏ nhoi lúc khởi đầu, nhưng đó chính bậc thang để giúp chúng ta tiến lên:
Có bột mới gột nên hồ là thế. Tha nhân chính là ân nhân. Ai cũng có vô số các
ân nhân ẩn danh trong cuộc sống. Tất cả những kiến thức và của cải chúng ta
đang hưởng dùng, đều có sự đóng góp công sức của người khác. Thái độ biết ơn
phải được trải dài mọi nơi và mọi lúc.
Trong bài phúc âm tường thuật câu truyện mười người phong cùi
được Chúa chữa lành, nhưng chỉ có một người ngoại giáo trở lại dâng lời tạ ơn
Chúa. Câu truyện làm cho chúng ta phải tự vấn lương tâm. Có thể chúng ta là
những người tín hữu rất chân thành, nhưng bị loại tên ra ngoài. Thánh Luca
tường trình: Một người trong bọn họ thấy mình được lành sạch, liền quay trở
lại, lớn tiếng ngợi khen Thiên Chúa, rồi đến sấp mình dưới chân Chúa Giêsu và
tạ ơn Người, mà người ấy lại là người xứ Samaria (Lc 17, 15-16). Qua các Bí
Tích trong Hội Thánh, chúng ta được rửa sạch tội nguyên tổ, được tha thứ các
tội riêng, được nhận lãnh các ân sủng và nhận của ăn chữa lành và dưỡng nuôi
hồn xác, bấy nhiêu cũng đủ để chúng ta luôn nhớ dâng lời tạ ơn Chúa.
Chúa Giêsu không trách cứ những người đã được ơn chữa lành phong
cùi. Chúa ngạc nhiên không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa: Không thấy ai
trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này (Lc 17, 18). Người
làm ơn không đòi phải trả ơn. Nhưng người nhận ơn, có bổn phận cám ơn. Chúa
nhắc nhở mỗi người chúng ta đừng bao giờ quên tạ ơn vì những ân phúc đang được
vui hưởng. Truyện kể: Bob Evans, một người bị mù từ khi mới sanh. Năm 50 tuổi,
nhờ cuộc giải phẫu, mắt của ông đã được nhìn thấy lần đầu tiên. Ông đã vui
sướng một cách ngoại thường. Thế giới của ông đã thay đổi ngoài sức tưởng
tượng. Qua bài phỏng vấn trong tờ báo, ông chia sẻ vài điều rất phấn khởi, “Tôi
không thể đợi tới buổi sáng thức dậy để nhìn xem những cái tôi có thể nhìn
thấy. Mọi sự qúa kinh ngạc trong thế giới. Ban đêm, tôi ngắm nhìn các vì sao
lấp lánh…tôi như bay bổng trên cao. Bạn không nhận biết mọi sự mà bạn nhìn thấy
là qúa tuyệt vời sao!
Chúng ta trải nghiệm cuộc sống với biết bao hồng ân. Thời gian
sống thật quí báu. Chúng ta đã hoang phí biết bao thời gian trong đời một cách
vô ích. Đôi khi chúng ta than rằng sao mà ngày dài thế, thời gian chán nản quá
và tìm mọi cách để quên và giết thời gian. Thiệt là uổng phí! Thảm kịch của đời
sống là chúng ta cố đạt tới cùng đích và chẳng bao giờ sống thực sự. Chúng ta
chạy theo thời gian để hoàn thành hết ước mơ này sang ước mơ khác. Ít khi chúng
ta dừng tâm lại để nhận biết sự hiện hữu thực sự trong tâm tình biết ơn. Biết
ơn có nghĩa là chúng ta nhận diện và chạm tới cuộc sống. Tôi đang sống trong
giây phút tuyệt đẹp này, đang hít thở thật đầy, ngắm nhìn thật kỹ và an hưởng
tất cả những gì hiện diện chung quanh.
Thánh Phaolô trong thơ gởi cho Timôthêô đã khuyên răn một cách
rất chân tình: Nếu chúng ta kiên tâm chịu đựng, chúng ta sẽ cùng thống trị với
Người. Nếu chúng ta chối bỏ Người, thì Người cũng sẽ chối bỏ chúng ta (2Tm 2,
12). Ngài vạch rõ con đường phải đi để được lãnh nhận ơn cứu độ. Chúng ta không
có con đường nào khác ngoài sự tin tưởng và phó thác vào Đức Kitô. Tất cả những
sự khổ đau đời này rồi cũng sẽ qua mau. Những khổ đau của chúng ta ở thế gian
này chẳng là chi, so với hạnh phúc Nước Trời mà Chúa đã hứa ban.
Lạy Chúa, hồng ân Chúa bao la tuyệt vời. Từng hơi thở, từng
nhịp sống và từng giây phút trong đời là những ân huệ Chúa thương ban. Chúng
con chỉ biết cúi đầu tạ lễ và xin ơn phúc lành của Chúa. Cảm tạ ơn Chúa và tri
ân đồng loại suốt cả đời.
11. Chín người kia
đâu?
Suy Niệm
Mười người phong đón gặp Đức Giêsu. Họ chỉ dám đứng xa, nài xin
Ngài thương xót. Đức Giêsu không chữa cho họ ngay, Ngài muốn thử thách lòng tin
của họ. Ngài bảo họ hãy đi trình diện với các tư tế như thể họ đã được khỏi
bệnh rồi. Mười người phong đã vâng phục lên đường, và chính trên đường đi, tất
cả được khỏi bệnh.
Niềm vui bất ngờ ùa vào lòng mọi người. Cả nhóm tiếp tục cuộc
hành trình, trừ một người phong ở vùng Samari.
Lòng biết ơn đối với Đức Giêsu khiến anh quay lại, sấp mình dưới
chân Ngài mà tạ ơn.
Chín người kia đâu?
Đức Giêsu ngạc nhiên đặt câu hỏi.
Chắc họ đã đi trình diện các tư tế như lời Đức Giêsu, nhưng họ
quên Đấng mới ban ơn cho họ.
Họ vui mừng ngừng lại ở quà tặng, nhưng không vươn tới người
tặng quà.
Họ đã có lòng tin nên được khỏi bệnh, nhưng họ lại thiếu lòng
biết ơn cần thiết.
Lòng biết ơn khiến lòng tin trở nên sâu xa hơn, vì là gặp lại
chính Đấng đã ban tặng.
Chín người kia đâu?
Đức Giêsu không làm phép lạ để được biết ơn. Ngài mong những
người kia trở lại để gặp họ, và trao cho họ chính con người Ngài. Điều này còn
quý hơn cả ơn được khỏi bệnh.
Ơn lành bệnh chỉ là nhịp cầu để ta gặp gỡ Đấng ban ơn, và lớn
lên trong niềm tin cậy mến.
Chín người kia đâu?
Có khi tôi thường thuộc về nhóm chín người. Tôi quá quen với
những ơn Chúa ban, đến độ thấy đó là chuyện bình thường, đến độ không thấy cần
phải tỏ lòng biết ơn.
Thật ra, biết ơn phải là tâm tình chủ yếu chi phối lời cầu
nguyện và cuộc sống của tôi.
Toàn bộ đời tôi là một hồng ân, một quà tặng. Tôi muốn sống đời
tôi như một lời tạ ơn không ngừng.
Tạ ơn là mãn nguyện về những gì đã lãnh nhận, là thấy mình được
bao bọc bởi Tình Yêu, và muốn làm mọi sự để đáp lại Tình Yêu đó.
Người phong vùng Samari đã trở lại tôn vinh Thiên Chúa, vì Ngài
đã chữa anh lành bệnh qua Đức Giêsu.
Chúng ta cũng đã nhận được biết bao ơn Chúa từ tay những người
xa lạ hay thân quen.
Xin cám ơn cuộc đời, cám on mọi người.
Đời tôi là quà tặng của Chúa cho tôi. Ước gì nó thành quà tặng
của tôi cho mọi người.
Gợi Ý Chia Sẻ
Ngày nay người ta nói nhiều về lòng biết ơn đối với thầy cô, cha
mẹ. Theo bạn, tại sao nhiều bạn trẻ vẫn sống một cách lãnh đạm, vô ơn?
Có khi nào bạn tạ ơn Chúa vì những khó khăn và vấp ngã trong
cuộc sống không? Bạn có thấy những mảng tối trong đời bạn cũng có thể là một ơn
không?
Cầu Nguyện
Con tạ ơn Cha vì những ơn Cha đã ban cho con, những ơn con
thấy được, và những ơn con không nhận là ơn.
Con biết rằng con đã nhận được nhiều ơn hơn con tưởng, biết
bao ơn mà con nghĩ là chuyện tự nhiên.
Con thường đau khổ vì những gì Cha không ban cho con, và
quên rằng đời con được bao bọc bằng ân sủng.
Tạ ơn Cha vì những gì Cha cương quyết không ban bởi lẽ điều
đó có hại cho con, hay vì Cha muốn ban cho con một ơn lớn hơn.
Xin cho con vững tin vào tình yêu Cha dù con không hiểu hết
những gì Cha làm cho đời con.
12. Ưu tiên cho việc tạ ơn
- Achille Degeest
(Trích dẫn từ ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)
Theo lề luật Do thái, bệnh phong hủi phải được một tư tế kiểm
chứng và kẻ bất hạnh bị tuyên bố là ‘ô uế’, bị gạt ra ngoài lề xã hội, nói với
ai phải đứng đàng xa. Tên bệnh ấy thời xưa chỉ nhiều chứng bệnh ngoài da. Lâu
lâu có người khỏi bệnh, họ cũng phải được một tư tế kiểm chứng, sau đó được trở
về sinh hoạt bình thường. Như vậy, chúng ta hiểu tại sao Đức Giêsu dạy mười kẻ
tật phong hãy đi trình diện các tư tế để được nhìn nhận lành bệnh. Trong số
mười bệnh nhân, chỉ có mỗi một kẻ trở lại tạ ơn Thiên Chúa. Sau khi nêu rõ sự
vô ơn của chín bệnh nhân kia, Chúa nhấn vào ba điểm: Kẻ biết ơn quê xứ Samaria,
nghĩa là một kẻ ngoại giáo đối với người Do thái –kẻ ấy công khai tôn vinh Thiên
Chúa– và được chữa lành vì có đức tin. Một số người nghĩ rằng, Chúa giải thích
như vậy, phải chăng Người muốn gián tiếp xác nhận thần tính của Người. Dẫu sao
chúng ta có thể nêu ra hiểm họa tội vô ơn nấp trong lòng người ta, nó là hình
thức gớm ghiếc nhất của tính ích kỷ. Chúng ta cũng nhấn thêm vào bổn phận cảm
tạ Thiên Chúa.
1) Tại sao chín kẻ phong hủi không nghĩ đến việc phải làm
trước hết là trở lại tạ ơn Đức Giêsu?
Chắc hẳn họ hấp tấp muốn được xác nhận khỏi bệnh thật sự để sớm
trở về trong xã hội. Họ quan tâm trước nhất đến việc đó, họ chỉ biết nghe theo
tư lợi mà quên bẵng việc tạ ơn, hoặc giả nghĩ rằng tạ ơn sau cũng được, nghĩa
là sẽ tạ ơn vào lúc quá muộn. Giữa một bên là quyền lợi về mặt xã hội vì khỏi
bệnh, bên kia là tâm tình muốn tạ ơn tức khắc, họ đặt ưu tiên cho quyền lợi của
họ. Đức Giêsu tỏ thái độ bằng cách lên án chủ nghĩa hình thức, nó bóp nghẹt tâm
hồn. Chúa còn lên án như vậy nhiều lần nữa, nhất là khi nói đến ngày Hưu lễ.
Không bao giờ Chúa coi rẻ Lề Luật, nhưng Người cho biết tín hữu nào tuân thủ Lề
Luật mà thiếu đức tin sống động thì chẳng còn giữ được tình nghĩa con người.
Chúng ta kết luận: Nếu vì tuân thủ Lề Luật, dẫu là Lề Luật Kitô giáo, mà quên
mất những đức tính tự nhiên hoặc không nhớ đến sự khẩn thiết trước tiên của đời
sống nội tâm –con người lúc đó không còn giữ được tinh thần tuân thủ đích thực.
2) Bổn phận tạ ơn.
Theo định nghĩa tôn giáo; tạ ơn là tâm tình biết ơn, thán phục,
tôn vinh, sùng kính, dâng lên Thiên Chúa. Phúc Âm và Tân Ước trình bày Đức
Giêsu là hiện thân của sự tạ ơn. Phúc Âm cho thấy con người ít có xu hướng tạ
ơn không vị lợi, trong khi Đức Giêsu thì thường xuyên trong trạng thái tạ ơn
Cha Người. Theo lời khuyên của thánh Phaolô, thái độ gương mẫu của Đức Giêsu
phải là thái độ tất nhiên của người Kitô hữu. “Anh em hãy để cho lòng chan chứa
niềm tri ân cảm tạ”
(Cl 2,7) – vì nhiều lẽ: vì ân huệ đức tin, vì ơn cứu chuộc, vì đức ái của Đức
Kitô tràn đầy tâm hồn, vì Thánh Thần ngự trong Kitô hữu. Sống kết hợp với Đức
Kitô là sống trong niềm tạ ơn Thiên Chúa.
13. Hãy dâng lời ngợi
khen và tạ ơn Thiên Chúa
(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng’ - Charles E. Miller)
Thánh Lễ lớn lao là hành động trung tâm tôn giáo của chúng ta là
những người Công giáo. Bởi vì Thánh Lễ là hành động của Đức Kitô Thượng Tế và
Thân Thể Ngài là Giáo Hội, đó là một tác động thánh vượt trên hết cả mọi cái
khác. Không có gì có thể ngang với sức mạnh quyền năng của Thánh Lễ, có thể
thay thế sự quan trọng của Thánh Lễ (x. Hiến chế về phụng vụ, đoạn 7).
Thánh Lễ thì giàu có phong phú mà chúng ta không có thể nào lưu
lại hoặc nghĩ về trong một dấu hiệu đơn độc. Thánh Lễ là một hy tế không đổ máu
của thánh giá, đó là bữa ăn tối của chúng ta, đó là việc tưởng nhớ sống động về
mầu nhiệm Vượt Qua, và bí tích của sự chết và sự sống lại của Đức Kitô, đó là
Thân Mình thật của Ngài đã được tuôn đổ vì chúng ta, đó là bữa tiệc thánh mà
trong đó Đức Kitô đã tiêu hủy Mình hoàn toàn, đó là những lời nài xin và lời
hứa từ sự Phục Sinh và cuộc sống đời đời. Giữa những chỉ định rực rỡ này của
Thánh Lễ, nhiều vị tư tế và dân chúng kể từ Công đồng Vatican II đã thường sử
dụng một từ, từ đó là”hy tế Thánh Thể, Euchris”.
Euchris là một từ Hy lạp được dùng trong Tân Ước mà chúng ta đã
chuyển dịch sang là: “Dâng lời tạ ơn”. Dâng lời tạ ơn có liên quan đến sự biết
ơn mà chúng ta mắc nợ trong thời gian nơi bạn bè, cũng như nơi liên hệ của
chúng ta với Thiên Chúa; vì lý do này vị linh mục đọc: “Hãy để chúng ta dâng
lời tạ ơn Chúa là Thiên Chúa chúng ta”. Đáp lại: “Thật chính đáng để dâng lên
Ngài lời tạ ơn và ngợi khen” và thêm lời”ngợi khen” là để chúng ta biết mình
phải dâng lời tạ ơn lên Thiên Chúa. Chúng ta nhận biết rằng quan hệ của chúng
ta với Cha trên trời, Đấng là Chúa và là Thiên Chúa chúng ta.
Hãy nhớ dâng lời tạ ơn là việc tốt đẹp, đừng để cho việc đó trở
nên xấu xa. Khi một người trong mười người bị bệnh hủi đã được chữa lành trở
lại ngợi khen Thiên Chúa, Chúa Giêsu đã hỏi: “Còn chín người kia đâu?”. Chúng
ta hầu như có thể nghe lại câu hỏi thất vọng của Ngài. Chúng ta cũng không cần
làm thất vọng Chúa Giêsu và Cha của Người. Hãy nhớ rằng Thánh Lễ là hy tế tạ ơn
của chúng ta là lời tạ ơn của chúng ta dâng cho Thiên Chúa.
Tất cả chúng ta đều có lý do để dâng lời tạ ơn Thiên Chúa trong
Thánh Lễ. Hôm nay chúng ta có thể ước ao cám ơn Chúa vì đặc ân sự sống nơi một
em bé sơ sinh, hoặc chúc sức khỏe đã được phục hồi nơi một người già lão bệnh
hoạn. Chúng ta cũng có thể dâng lời tạ ơn Thiên Chúa về công việc sau một thời
gian dài thất nghiệp, cho một giải pháp nơi một gia đình đang tranh cãi, hoặc
cho một sự độ lượng của một người bạn tốt. Mỗi Chúa Nhật chúng ta cần hồi tâm
lại về những động lực cá nhân của chúng ta để dâng lời cám ơn. Tiếp đó, chúng
ta hãy nhớ rằng luôn luôn ở mọi nơi, mọi lúc là phải tạ ơn Thiên Chúa, đơn giản
bởi vì Chúa là Thiên Chúa của chúng ta. Dâng lời tạ ơn diễn tả quan hệ của
chúng ta với Thiên Chúa.
Tạ ơn là một điều mà Naaman người Syria đã muốn dâng lên Thiên
Chúa. Ông đã được tẩy sạch bệnh phong cùi sau khi đã tắm bảy lần trong dòng
nước của sông Giođan. Ông đã yêu cầu lấy hai thúng đất của Israel để xây nên
một Đền Thờ trên Syria, nơi quê hương của ông, để từ nơi đó ông có thể dâng lời
tạ ơn với Thiên Chúa. Kinh nghiệm của ông như là một dấu hiệu của phép rửa
chúng ta. Chúng ta đã rửa sạch trong phép rửa và đã được thông dự vào chức tư tế
của Đức Kitô. Phép rửa kêu gọi chúng ta trở thành một dân thờ lạy Thiên Chúa,
dâng cho Ngài lời tạ ơn và ngợi khen. Nhưng chúng ta không cần đất đặc biệt,
không cần một vị trí đặc biệt, để dâng lời tạ ơn cho Thiên Chúa. Bất cứ khi nào
Thánh Lễ cử hành, đó là lễ dâng đẹp nhất của lời cám ơn và ngợi khen Thiên
Chúa. Đối với chúng ta luôn luôn mọi nơi và mọi lúc đều có thể dâng lời cám ơn
Thiên Chúa và chúng ta làm điều đó khi cử hành hy tế Thánh Thể.
14. Tất cả là hồng ân
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Đầu tháng 10 năm 1962, chiếc phi cơ hàng không PanAm (Mỹ),
chở mấy trăm Giám mục người Mỹ đi họp Công Đồng chung Vatican II. Trong hai cô
tiếp viên hàng không phục vụ hành khách, có một cô kiều diễm tuyệt vời. Đức Cha
Fulton Sheen, Tổng Giám Mục giáo phận New York đồng thời là một nhà văn và một
nhà hùng biện nổi tiếng Nước Mỹ, đã lưu ý đến sắc đẹp của cô tiếp viên nầy.
Thế rồi, khi phi cơ hạ cánh, hai cô đứng bên cửa xuống cầu
thang chào từ biệt và hành khách đáp lại hai tiếng cám ơn. Nhưng đến lượt Đức
Cha Fulton Sheen, người ta thấy ngài đưa miệng ghé vào tai cô tiếp viên xinh
đẹp kia mà nói nhỏ một câu gì không ai nghe được.
Bốn tháng sau, khi khóa I Công Đồng chung Vatican II kết
thúc, các Giám Mục được về nước nghỉ. Một hôm, cô chiêu đãi viên xinh đẹp nọ
tìm đến gặp Đức Cha Fulton Sheen: “Thưa Đức Cha, Đức Cha còn nhớ con là ai
không?” – “Tôi còn nhớ lắm, Đức Cha còn đáp. Cô là tiếp viên trên chiếc hàng
không đưa chúng tôi đến Rôma”. – “Nhưng Đức Cha còn nhớ Đức Cha đã nói gì với
con không?” – “Tôi đã nói: có khi nào cô đã tạ ơn Chúa vì Ngài đã ban cho cô
sắc đẹp tuyệt vời không?” – “Thưa Đức Cha, chính vì câu hỏi đó mà hôm nay con
đến hầu chuyện Đức Cha, chính vì câu hỏi đó mà Cha nghĩ con phải làm gì để tạ
ơn Chúa?”. Trước câu hỏi đột ngột, Đức Cha Fulton Sheen lúng túng không biết
trả lời làm sao. Ngài trấn tỉnh, chấp tay lên ngực, rồi ngước mắt lên trời như
thể xin ơn soi sáng. Trong chốc lát, ngài nói: “Cha vừa mới được một tin từ
Việt Nam: đó là Đức Cha Jean Cassaigne, một người Pháp đang là Giám Mục giáo
phận Sài Gòn, đã xin từ chức để đi phục vụ một trại phong cùi ở miền núi Di
Linh – Lâm Đồng. Nhưng người phong cùi ở đó khốn khổ lắm con ạ! Họ đang chờ cái
chết đến với họ. Vậy theo ý cha, cách tạ ơn Chúa đẹp lòng Ngài hơn cả và có ý
nghĩa hơn cả là con hãy hy sinh một thời gian, đem nụ cười xinh tươi, đem tiếng
nói dịu dàng, đem duyên sắc mặn mà của con để an ủi họ”. Mặt cô tiếp viên
tái dần đi. Cô đứng lặng yên trong mấy phút. Đột nhiên cô cúi đầu tạm biệt
không nói một lời. Rồi từ đó không biết hai người còn gặp nhau hay thư từ liên
hệ gì nữa chăng. Nhưng đầu năm 1963, đài phát thanh cũng như báo chí ở Sài Gòn
loan tin: “Một nữ tiếp viên rất xinh đẹp của hãng hàng không Panam tình nguyện
đến Di Linh – Lâm Đồng để sống với những người phong cùi trong sáu tháng”.
Thưa anh chị em,
Cái nhìn đức tin thúc đẩy chúng ta tạ ơn Chúa là như thế đó.
Nhận được ơn thì phải biết chia sẻ cho người khác, để nói với Thiên Chúa và anh
em mình rằng: “Tất cả đều là hồng ân”. Biết bao ơn lành lớn nhỏ Chúa tuôn đổ
xuống trên cuộc đời chúng ta. Có bao giờ chúng ta nhận ra những hồng ân ấy để
dâng lên những lời cảm tạ mỗi ngày không? Những điều chúng ta đang có tưởng
rằng tầm thường, nhưng thật ra lại rất phi thường. Đừng đợi khi mắt mù, tai
điếc, cụt tay, què chân chúng ta mới nhận ra có thân thể lành lặn là quý giá vô
cùng. Nếu chúng ta biết cám ơn những gì mình đang có, chúng ta sẽ biết cám ơn
suốt đời vì tất cả những gì Ngài đã ban cho.
Chúa Giêsu đã hỏi: “Không phải cả mười người được khỏi phong cùi
sao? Thế thì chín người kia đâu, sao không trở lại tạ ơn Chúa, mà chỉ có một
người ngoại giáo nầy thôi?” Đối với người Do Thái, người bị phong cùi được coi
như bị Thiên Chúa chúc dữ và còn bị luật coi là người mắc ô uế nhơ bẩn, bị xã
hội khai trừ, phải sống biệt lập trong bãi tha ma, đi đâu thì phải lắc chuông
lên tiếng báo động cho người ta xa tránh.
Nhưng Chúa Giêsu không xa tránh họ. Họ đã đến với Chúa như Chúa
đến với họ. Vì Ngài là tình thương cứu chữa. Chỉ có tình thương mới tìm đến với
những con người bị bỏ rơi, bị loại trừ. Trên đất nước chúng ta có hàng chục
trại phong cùi. Một số trại do các tu sĩ, nữ tu đảm nhận điều hành, chăm sóc
các bệnh nhân. Nếu ở Việt Nam tên tuổi của Đức Cha Jean Cassaigne gắn liền với
trại phong cùi Di Linh thì danh tiếng của Đức Cha Đamien còn vang vọng giữa hải
đảo Milokai – Thái Bình Dương, người mà nhà ái quốc Gandhi đã ca ngợi và nói:
“Nên tìm hiểu đâu là nguyên do phát sinh một cuộc sống anh hùng như vậy”.
Nguyên do của cuộc đời hy sinh ấy là tình yêu mến Chúa như Chúa đã yêu thương
chúng ta cho đến tận cùng.
Vậy khi chúng ta được Chúa ban ơn, được mọi ơn lành hồn xác thì
đừng quên cám ơn Chúa và đừng kiêu hãnh khinh miệt kẻ khác. Thánh Inhaxiô nói:
“Tội lớn lao hơn cả là tội vô ơn”. Trong nhóm 10 người phong cùi được Chúa chữa
lành, chỉ có một người đã trở lại cám ơn Chúa và người đó lại là người ngoại
giáo. Nhiều khi chúng ta được ơn Chúa, nhưng không biết cám ơn Chúa. Khi hoạn
nạn thì khấn vái bốn phương, khi được như ý thì quên lời đã nguyện hứa. Tệ hơn
nữa, còn tự kiêu tự phụ khinh miệt những người xấu số, bệnh tật, nghèo khó,
phong cùi.
Cám ơn là dấu chỉ của lòng tin. Chúa nói với người phong cùi
biết ơn đang sụp lạy dưới chân Ngài: “Anh hãy đứng dậy mà về, vì lòng tin của
anh đã cứu chữa anh”. Chính lòng tin đã thúc giục người Samari phong cùi trở
lại tạ ơn Chúa trước hết, đang khi chín người Do Thái kia lo đi trình diện các
tư tế để được xác nhận và được hội nhập vào cộng đoàn. Trong bài đọc I hôm nay,
quan Naaman sau khi dược lành sạch phong cùi, cũng vì lòng tin đã tìm đến Ngôn
sứ Êlizê và tuyên xưng lòng tin vào Thiên Chúa: “Thật tôi biết, không có Thiên
Chúa nào khác trên hoàn vụ ngoài một Thiên Chúa của Israel”.
Anh chị em thân mến,
Tạ ơn Chúa là dấu chỉ của niềm tin. Tạ ơn Chúa không chỉ là
chuyện lễ nghĩa, nhưng là nét đặc trưng của những tâm tình mà con người phải có
trước các ơn thiêng đã lãnh nhận từ Thiên Chúa. Việc bẻ bánh ngày xưa cũng như
Thánh lễ ngày nay là gì? Phải chăng là tâm tình tạ ơn mà người Kitô hữu khiêm
tốn và hân hoan dâng lên Thiên Chúa là Cha vì hồng ân Ngài đã ban cho chúng ta
trong Đức Giêsu? Phải chăng là phương thế tuyệt hảo để chúng ta nhận thức lại
sự phong phú đích thực của mình và tìm lại bình an của niềm tin giữa những lắng
lo cuộc sống?
Cũng chính trong tâm tình tạ ơn đó, chúng ta họp nhau chung quanh
Bàn Tiệc Thánh nầy để cử hành Thánh Thể – Bí Tích Tạ Ơn. Ước chi lễ tế tạ ơn
nầy đem lại cho chúng ta bình an và niềm vui sướng vô hạn. Bình an và niềm vui
của một đức tin đã gặp được Đấng Cứu Độ.
15. Lòng biết ơn
(Trích dẫn từ ‘Vietvatican.org’ - bài viết của Nguyễn Hiền Nhu)
Tin Mừng Lc 17, 11-19, thánh sử Luca thuật lại câu chuyện
xảy ra khi Chúa Giêsu đang trên đường tiến lên Giê-ru-sa-lem. Có mười người
phong hủi đón Ngài để xin Ngài chữa lành. Họ không dám tiến tới gần Ngài nhưng
chỉ đứng đằng xa. Họ cất tiếng thưa rằng: “Lạy Thầy Giêsu, xin thương xót chúng
tôi”. Ngài bảo họ đến trình diện với tư tế, và họ đã vâng lời Ngài. Trên đường
đi, tất cả mười người đều được sạch. Trong mười người đó, có một người đã quay
trở lại cám ơn Ngài.
Được sạch là một niềm mong mỏi bấy lâu trong họ. Đã lâu lắm rồi,
họ hằng khao khát được lành lặn, được sống gắn bó với những người mình thương
yêu. Nhìn thấy người ta áp má chúc lành nhau, bắt tay hỏi han sức khỏe của
nhau, họ ao ước được một lần như thế. Sách Lê-vi viết rằng: “Người mắc bệnh
phong hủi phải mặc áo rách, xõa tóc, che râu và kêu lên: ‘Ô uế! Ô uế!’ Bao lâu
còn mắc bệnh, thì nó ô uế; nó ô uế: nó phải ở riêng ra, chỗ ở của nó là một nơi
bên ngoài trại.” (Lv 13,45-46).
Người bị bệnh phong bị xem là ô uế. Họ bị tước quyền chung sống
với những người thân quen; họ phải sống riêng ra. Họ bị đẩy ra bên lề xã hội. Tôi
còn nhớ thời gian tôi được gởi đến sống với người phong tại Trại Phong Bến Sắn
ở Bình Dương. Có một bệnh nhân phong thuật lại với tôi câu chuyện của chị: một
ngày kia, trên đường về nhà, chị bước vào quán ăn để mua ít thức ăn cho con. Có
một người phát hiện chị đến từ trại phong, thế là người đó la lên, và tất cả
lần lượt bỏ bàn ăn đi nơi khác, cách xa chị. Thế đó, xã hội ngày nay, những
bệnh nhân phong đang bị hất hủi. Xã hội ngày xưa đối xử với người phong còn tệ
hơn thế. Để bảo vệ những người khác, họ buộc các bệnh nhân phong tự mình thốt
lên “Ô uế! Ô uế!” (Lv 13,45) để người ta biết và tránh xa. Không ai dám đến gần
bệnh nhân phong, không ai dám làm bạn với họ. Họ bị cô lập. Có lẽ nỗi đau thể
xác do đặt tính của bệnh phong mang lại sẽ không nặng bằng nỗi đau tinh thần do
sự kỳ thị của xã hội gây ra cho họ.
Hơn thế nữa, xã hội Do Thái thời bấy giờ quan niệm bệnh tật là
do tội lỗi, người bị bệnh là người phạm tội và bệnh là án phạt của Thiên Chúa.
Như vậy, người phong hủi còn bị hao mòn tinh thần từng ngày do mặc cảm tội lỗi.
Thấu cảm được vết thương khốn cùng của những bệnh nhân, Chúa
Giêsu đã chữa lành bệnh cho họ. Việc chữa lành của Chúa không đơn thuần chỉ là
việc chữa lành của một bác sỹ. Có lẽ hơn ai hết, Chúa đã hiểu những khát khao
sâu kín trong lòng của họ. Chúa bảo họ đi trình diện tư tế, đi đến với người có
thẩm quyền về phương diện xã hội cũng như tôn giáo thời bấy giờ để được kiểm
chứng đã thanh sạch. Theo luật Lê-vi, một bệnh nhân phong khi được lành bệnh,
phải đi trình diện với tư tế. Sau khi được tư tế khám xét, nếu như họ đã được
lành bệnh, thì sẽ được tư tế tuyên bố là sạch. Khi được tuyên bố thanh sạch
rồi, họ mới được quyền sống chung với xã hội, mới được hưởng những gì cơ bản
nhất của một thành viên trong cộng đồng (x. Lv 13).
Từ thân phận người bị xã hội đẩy ra ngoài, giờ đây, họ được đón
nhận. Chính Chúa đã mang lại cho họ niềm vui đó. Giờ đây, họ hoàn toàn có thể
được sống chung với người thân, hoàn toàn có thể sánh bước cùng người họ thương
yêu trên con đường làng vào mỗi buổi chiều. Họ sẽ không còn mặc cảm tội lỗi
nữa. Quá khứ đã qua đi, và chính Chúa đã mở ra cho họ một cuộc sống mới. Nỗi
đau trước đây bây giờ đối với họ sẽ là một kinh nghiệm quý giá; kinh nghiệm ấy
đưa họ tới yêu quý cuộc sống họ đang có hơn.
Tuy nhiên, khi thấy mình được sạch, một người trong số họ đã
quay trở lại để cám ơn Chúa. Một việc làm nhỏ bé nhưng tuyệt vời. Anh đã tạm
quên con đường đi nhanh đến trình diện vị tư tế để được tuyên bố thanh sạch.
Anh đã tạm quên đi niềm mơ ước bấy lâu của mình để quay trở lại cám ơn Đấng đã
mang lại cho anh niềm vui. Niềm vui của anh đã trở nên trọn vẹn hơn khi anh
được chính Chúa tuyên bố “con hãy đứng dậy mà về: vì lòng tin của con đã cứu
chữa con”. Chúa khen ngợi lòng tin của anh. Quà tặng chỉ là phương tiện để dẫn
đưa con người tới gặp Đấng tặng quà. Niềm vui của anh giờ đây trọn vẹn hơn vì
không chỉ anh được thanh sạch, mà còn được gặp Đấng Chữa Lành anh. Tâm hồn anh
giờ đây tràn ngập hân hoan.
Có lẽ trong tương lai, khi gặp lại Chúa, chín người kia sẽ cám
ơn ngài. Có lẽ trong thâm tâm của họ đang mang một niềm tri ân nào đó mà họ
chưa ý thức hoặc chưa có cơ hội diễn tả. Phải chăng niềm vui đó đã đến với họ
quá bất ngờ, quá lớn lao, khiến họ quên cám ơn ân nhân của họ. Dường như có một
chút gọi là vô ơn nơi họ, một chút vô tâm khi họ xem trọng ân huệ hơn là Đấng
ban ơn. Họ đã không đủ nhạy bén để nhận ra rằng mình đã bỏ qua một cơ hội quý
giá để đếp gặp Đấng đã ban ơn cho mình. Họ hân hoan vui mừng và đi tiếp con
đường để hòa mình vào xã hội; đó là điều tốt đẹp, nhưng sẽ tốt đẹp hơn biết bao
nếu họ không chỉ dừng lại với niềm vui hiện tại của bản thân để dành giây lát
tri ân Đấng ban cho họ niềm vui đó. Chúa không hề hẹp hòi với họ, không hề vì
một chút vô ơn của họ mà rút lại quà tặng. Cho dù họ có quay trở lại cám ơn
Ngài, hoặc cho dù họ đã quên Ngài đi chăng nữa, thì chính Ngài là Đấng đã khôi
phục quyền được sống như một con người của họ. Hy vọng rằng sẽ có một dịp nào
đó họ sẽ nhận ra sự thiếu sót này và quay trở lại tri ân Ngài.
Một lời trách nhẹ nhàng của Chúa “còn chín người kia đâu?” như
một lời nhắc nhớ những người nghe lời này của Ngài ý thức được lòng biết ơn của
mình. Có khi tôi cũng thuộc về nhóm chín người kia. Hằng ngày, tôi vẫn nhận
biết bao ơn lành từ Ngài; nhận nhiều đến độ tôi cảm thấy là bình thường và
không cần thiết phải cám ơn. Chúa ơi, xin đừng để con vô cảm trước những ân huệ
của Chúa. Từng giây từng phút trong đời con được bao bọc bởi tình yêu vô biên
của Ngài. Hãy biến đổi tâm hồn con để cuộc đời con trở nên một lời tri ân Ngài.
16. Mười người phong hủi -
McCarthy
Suy niệm 1: ĐIỀU ẤY XẢY RA NHƯ THẾ NÀO?
Vào thời đại của Đức Giêsu, bệnh phong hủi không có thuốc chữa.
Khi một người mắc phải bệnh ấy, có sống cũng như chết. Thế mà tại sao chín
người phong hủi đã không trở lại để cám ơn Đức Giêsu vì Người đã chữa lành cho
họ? Chúng ta không lạm dụng trí tưởng tượng của chúng ta khi vẽ lại những gì đã
xảy ra. Chúng ta giả sử điều đó xảy ra trong thời đại của mình.
Người thứ nhất là Miriam, vợ của một người bán hàng. Khi về
lại nhà, bà thấy nhà mình bừa bãi, lộn xộn. Không phải do lỗi của chồng bà. Ông
phải tất bật với công việc. Trở lại gặp Chúa không còn là vấn đề nữa – ít ra là
trong lúc này.
Người thứ hai là Aaron, một nông dân. Mùa hè này là một mùa
tồi tệ, và toàn thể mùa màng có nguy cơ bị mất trắng. May mà dự báo thời tiết
đã nói rằng thời tiết tốt, có mưa nhiều đúng vào những ngày ông có thể trở lại.
Người thứ ba là Saul. Khi ông ta trở lại nhà, gia đình ông
đã mở tiệc mừng ông. Họ không muốn nghe ông nói đi đến nơi nào đó. Ông đã không
xa nhà đủ rồi hay sao? Chính họ đã ngăn cản ông trở lại gặp Chúa.
Martha là người thứ tư. Khi chị trở về nhà thì chương trình
Tivi chị ưa thích vẫn còn, trong thời gian sống cách ly vì bệnh phong hủi, chị
luôn thèm khát được xem chương trình đó. Giờ đây chị mải mê với chương trình
ấy. Chị muốn ngày mai trở lại gặp Chúa. Nhưng ngày mai không bao giờ đến.
Người thứ năm là Daniel. Trước khi ông bị phong hủi, ông
rất thành công trong kinh doanh, khi ông về đến nhà, ông thấy việc kinh doanh
hoàn toàn suy sụp. Trở lại gặp Đức Giêsu không nằm trong các ưu tiên của ông.
Chẳng bao lâu sau, ông hoàn toàn quên việc đó.
Amos, người thứ sáu không có nhà để về. Anh đã cảm thấy rất
cay đắng về căn bệnh phong hủi của mình và về cuộc sống chung. Khi anh trở về,
anh gom góp được ít tiền bạc mà người ta cho anh, về đến thành phố, anh uống
rượu. Việc trở lại không bao giờ có trong đầu anh.
Peter là người thứ bảy. Khi anh về nhà, anh không có việc
làm. Vì thế khi nghe nói về một cuộc phỏng vấn để được nhận vào một chỗ làm
tốt, anh đến ngay. Trong lúc này, anh không thể trở lại.
Anna là người thứ tám. Lúc đó nhiên liệu đang bị khan hiếm.
Chị hiện đang trên đường về nhà thì thấy một trạm xăng còn mở cửa. Chị phải xếp
hàng ba giờ liền để được đổ đầy bình xăng. Sau đó chị đi thẳng về nhà. Thật
đáng thương khi muốn phung phí xăng cho một cuộc hành trình thật sự không cần
thiết.
Người thứ chín là Joseph. Khi ông ta về nhà, ông ta quyết
định bán câu chuyện của ông ta cho một tờ báo. Không để mất thời gian. Một
người khác có thể có cùng ý tưởng ấy và sẽ phỗng tay trên. Quay lại không có
chỗ trong kế hoạch của ông.
Sau cùng, đó là Simon. Ông có mấy lý do để không quay trở
lại. Một lý do đặc biệt thuyết phục. Ông là người Samari lại được một người Do
Thái chữa lành. Một người Samari cám ơn một người Do Thái không phải là chuyện
dễ. Nhưng là một người nhân ái, ông gạt bỏ những lý lẽ ấy và quay lại để cám
ơn.
Xin lỗi! Những lý lẽ ấy xem ra nguỵ biện, đê tiện, trơ trẽn và
rác rưởi. Nhưng có hiệu lực trong chín trên mười trường hợp. Chúng ngăn cản
chín người ấy làm một việc mà có lên trời người ta cũng phải làm.
“Chúng ta viết trên cát những ơn ích mà chúng ta nhận được,
nhưng viết trên đá cẩm thạch những tổn thất” (Thomas More).
Chín người phong hủi không thể diễn tả lòng biết ơn. Sự vô ơn ấy
nói với chúng ta điều gì? Điều đó nói lên rằng họ chỉ lành lặn ở ngoài da. Bệnh
phong hủi đã hết, nhưng không có gì khác nơi họ đã thay đổi. Sau kinh nghiệm
cay đắng ấy, họ trở về với những thái độ cũ, những tập quán, mục tiêu của họ và
sự nông cạn của cuộc đời. Họ đã không học được gì từ đau khổ của họ. Đây là một
bi kịch thật sự.
Nhưng rõ ràng người Samari đã học được từ kinh nghiệm đau thương
của mình. Kể từ đó, ông đã trở thành một con người hoàn toàn đổi khác, như
Naaman sau khi được Êlisa chữa lành phần xác. Naaman và người Samari được chữa
lành cả xác lẫn hồn.
Trong những lúc tốt đẹp, chúng ta quên mất Thiên Chúa, dù rằng
chúng ta vẫn tiếp tục phục vụ Người bằng môi miệng. Nhưng rồi một cơn bệnh đến
bắt chúng ta phải quỳ gối xuống, và bất ngờ chúng ta đối diện với sự nghèo nàn,
yếu đuối và tính dễ chết của chúng ta. Tuy nhiên, nếu điều ấy đưa chúng ta đến
gần Thiên Chúa hơn và làm cho chúng ta sống tâm linh hơn thì nó đúng là một ơn
lành trong bộ áo cải trang. Dường như trong mười người phong hủi, chỉ có một
người được đưa đến gần Thiên Chúa hơn qua bệnh tật và sự bình phục của người
ấy.
Suy niệm 2: CÁI NHÌN SÂU XA HƠN
Câu chuyện mười người bị phong hủi có một bài học rất rõ ràng,
đó là tầm quan trọng của việc bày tỏ lòng biết ơn. Nhưng nó có một bài học
khác: Tìm thấy Thiên Chúa qua đau khổ. Đau khổ có thể đưa con người rời xa
Thiên Chúa hoặc có thể đem họ đến gần Thiên Chúa. Nhiều người trở lại đạo là
những tân tòng của Ngày Thứ Sáu Tốt Lành: họ vào Nước Chúa qua những cái cổng
của đau khổ. Naaman là một gương tốt.
Vào một giai đoạn của đời mình, ông ở đỉnh cao của ngọn sóng.
Ông có một công việc danh giá: chỉ huy trưởng đạo quân hùng mạnh của nước Syri.
Ông được nhà vua kính nể có quyền lực và danh tiếng. Ông ta không cần Thiên
Chúa. Tôn giáo không có vai trò nào trong đời sống của ông. Ông là kiểu mẫu của
một số người thành công hôm nay. Họ dường như không dành chỗ cho Thiên Chúa
trong đời họ.
Tuy nhiên, khi ông đã đạt đến đỉnh cao của quyền lực, ông mắc
một chứng bệnh kinh khủng: bệnh phong hủi. Thình lình, thế giới của ông bắt đầu
tan rã.
Một phút trước, ông ở đỉnh cao của thế giới. Một phút sau ông
rơi xuống vực thẳm.
Tuyệt vọng về việc chữa trị, ông phải nuốt trửng lòng tự hào và
tìm kiếm sự giúp đỡ của ngôn sứ Êlisa ở Do Thái, một quốc gia nhỏ bé mà ông đã
từng cướp bóc và khinh miệt. Tuy nhiên điều ông tìm kiếm là một “thứ thần dược”
để ông có thể sớm quay về và đảm nhận đời sống cũ giống như trước đây.
Nhưng ông đã mau chóng nhận ra rằng không có thứ thần dược ấy;
không có sự chữa lành mau chóng và không đau đớn. Vì thế ông phải học để trở
nên khiêm nhường và nhẫn nại. Ông đã học tuân lệnh để thay đổi. Nhưng thời gian
ông bỏ ra không uổng công bởi vì ông không chỉ được chữa lành bệnh phong hủi mà
còn được hoán cải. Ông tìm thấy Thiên Chúa chân thực. Vì thế sau cùng ông có lý
do để cám ơn bệnh phong hủi của ông, bởi vì qua đó ông đã nhận được ơn đức tin.
Người ta tự hỏi chín người phong hủi thu được gì từ kinh nghiệm
khủng khiếp của họ. Khi họ không tạ ơn Thiên Chúa thì không chắc họ đã rút ra
được lợi ích tâm linh nào từ kinh nghiệm ấy.
Giống với ông Naaman trước khi mắc bệnh, trong những thời kỳ tốt
đẹp, chúng ta bỏ quên Thiên Chúa, dù rằng chúng ta vẫn tiếp tục phục vụ Người
bằng môi miệng. Nhưng rồi một bệnh tật hoặc một cái gì tương tự bắt chúng ta
phải quỳ gối, và chúng ta bất ngờ đối diện với sự nghèo nàn, yếu đuối và phải
chết của chúng ta. Chúng ta nhận ra nền móng mà trên đó chúng ta đã xây dựng
bao nhiêu niềm hy vọng sao quá mong manh, nông cạn.
Nếu điều ấy đưa chúng ta đến gần Thiên Chúa hơn và làm cho chúng
ta sống tâm linh hơn thì đó là một sự chúc lành trong bộ y phục cải trang.
Dường như chỉ một trên mười người phong hủi đã được đưa đến Thiên Chúa gần hơn
qua bệnh tật và sự bình phục của người ấy.
Chúng ta không phải lúc nào cũng làm chủ những gì xảy đến với
chúng ta, nhưng chúng ta phải làm chủ phản ứng của chúng ta khi sự việc xảy
đến. Ví dụ như, có hai người bị thương nặng trong một tai nạn. Một người chọn
cách sống cay đắng kinh nghiệm ấy và bị nó huỷ hoại. Người kia sống kinh nghiệm
ấy với lòng biết ơn. Người này tin rằng dù sự việc xảy ra là gì, dù nó có đau
khổ thì nó vẫn có thể đem lại một điều tốt. Vấn đề không phải là quên nó đi mà
nhớ đến nó và hội nhập nó vào trong đời sống của mình.
Ước muốn đền đáp lại một điều gì là một dấu chỉ cao cả của lòng
biết ơn. Khi bạn có đầy lòng biết ơn, bạn sẽ không có chỗ cho sự cay đắng hoặc
căm giận. Mọi người hạnh phúc đều biết ơn. Những người bội bạc không thể có
hạnh phúc.
CÂU CHUYỆN KHÁC
Một ngày nọ, David bố thí cho một người nghèo mà ông gặp
trên đường phố. Khi ông tiếp tục bước đi ông bắt đầu cảm thấy một niềm vui thoả
mãn bừng lên trong ông. Nhưng rồi một bóng tối lướt qua ông – ông nhớ lại người
nghèo đó đã không cám ơn ông. Sau đó, ông kể lại sự cố cho vị giáo trưởng của
ông. Vị giáo trưởng kiên nhẫn lắng nghe, sau đó ông này nói: “Ông cảm thấy thế
nào khi ông bố thí?”
“Tôi cảm thấy rất vui” David đáp.
“Điều đó không đủ là phần thưởng cho ông sao?”
“Con vẫn nghĩ rằng hắn ta phải cám ơn con”, David nhấn
mạnh.
“Chắc chắn ông không muốn được cám ơn vì đã có hành động
như một người theo đạo phải có? Vậy thì ông đã cám ơn Thiên Chúa chưa?”.
“Về điều gì?” David ngạc nhiên hỏi.
“Vì Người đã ban cho ông cơ hội trở nên một công cụ để tình
yêu của Người đến với một người đồng loại của ông”, câu đáp là như thế.
17. Đức tin đích thực - R.
Gutzwiller
1. Niềm tin bất toàn.
Mười người phong cùi hình như đã có một niềm tin lớn lao. Họ
nghe nói về Đức Kitô và tin rằng Ngài có thể chữa lành họ. Chính vì niềm tin
đó, mà họ đã vượt qua những luật lệ cưỡng bách họ sống tách biệt.
Họ đến một làng nhỏ, tiến gần đến Đức Giêsu và xin Ngài thương
họ. Họ đã thất vọng hoàn toàn đối với khả năng của con người, chỉ còn tin tưởng
vào sự cứu giúp của Đức Kitô thôi.
Niềm tin đó đã bị thử thách và rồi được giữ vững, vì Chúa Giêsu
không chữa cho họ ngay, Ngài gửi họ tới trình diện với các tư tế, đó là lệ
thường đối với những người được chữa khỏi: nhưng đây họ đâu đã được khỏi. Do
đó, người ta có thể đoán được rằng họ sẽ đứng im, không nhúc nhích cho tới khi
Chúa giải thoát họ khỏi cơn bệnh ghê tởm.
Thế mà, họ lại đã tin, chỉ dựa vào có một lời của Ngài thôi. Và
rồi đang khi đi, họ thấy mình được khỏi, họ có niềm tin đích thật, dầu vậy, đó
cũng chỉ là niềm tin bất toàn. Họ còn bám víu vào ngoại cảnh, nhắm vào tật bệnh
và sự lành lặn của họ.
Vì thế, họ không khám phá được Đấng chữa lành họ là ai. Họ chưa
đi sâu vào cái chính yếu. Ngoài sức khoẻ thể xác, Ngài còn ban cho họ sức khoẻ
của tâm hồn.
2. Đức tin hoàn toàn.
Chỉ có một người, lại là người ngoại quay lại tìm gặp Chúa
Giêsu, tuyên xưng đức tin vào Thiên tính của Ngài và phục lạy để tỏ lòng cảm tạ
tri ân.
Chỉ có người này có được đức tin hoàn toàn. Chính vì thế mà Chúa
Giêsu đã nói với anh ta: ‘Hãy chỗi dậy mà về, lòng tin của anh đã chữa anh’. Cả
xác lẫn hồn được giải phóng, được chữa bệnh và thánh hoá một lượt.
Anh ta không còn bị bận trí vì cái thân xác phong cùi vây hãm.
Đức tin hoàn toàn không dừng lại ở việc chữa trị mà phải dừng lại ở người chữa
mình; không phải ở công việc mà là ở tác giả của công việc đó. Đức tin chân
thực vượt lên trên mọi dấu chỉ, để được gặp gỡ Thiên Chúa hằng hữu.
18. Lòng biết ơn
Nhờ có cuốn sách Sehirdler’s Ark và cuốn phim Schindler’s
List, tên của Oskar Schindler được hàng triệu người trên thế giới biết đến.
Schindler là một nhà công nghiệp người Đức. Trong suốt Thế chiến II, ông đã cứu
hàng ngàn người Do thái ở Ba Lan khỏi các trại tập trung. Khi chiến tranh chấm
dứt, quân Đức rút khỏi Ba Lan và người ta chờ đợi quân Liên Xô đến. Ngay trước
khi quân Liên Xô đến, Schindler cũng đã quyết định trốn qua phương Tây.
Khi những công nhân người Do Thái, giờ đây đã được tự do
nghe tin ông ra đi, họ họp lại để xem có thể bày tỏ lòng biết ơn ông như thế
nào. Phải bắt tay ngay để làm một món quà bằng kim loại. Rồi một người gợi ý
một cái gì tốt hơn. Ông ta mở miệng mình ra và chỉ chiếc răng vàng.
“Hãy lấy cái này”, ông nói, “Nó mà còn là nhờ có Oskar, bọn
mật vụ SS muốn chiếm lấy các vật dụng bằng mọi cách. Cái răng của tôi lẽ ra
cũng đã ở trong đống đồ trong nhà kho của SS, giữa những chiếc răng vàng của
những người khác”.
Ban đầu, những người khác phản đối đề nghị ấy, nhưng vì
người ấy nài nỉ mãi nên người ta nhận. Một tù nhân trước kia là nha sĩ ở Cracow
đã lấy cái răng vàng đó ra khỏi hàm răng. Một thứ kim hoàn trong số họ nấu chảy
vàng và tạo thành một chiếc nhẫn. Vòng bên trong của chiếc nhẫn, người ta ghi
những lời lấy từ Kinh Talmud: “Người nào cứu sống chỉ một mạng người, người ấy
cứu sống toàn bộ thế giới”.
Đó là một cử chỉ bày tỏ lòng biết ơn làm người ta ngạc nhiên và
cảm động sâu xa. Đó là một trong những việc kỳ diệu về lòng biết ơn –nó làm cho
chúng ta muốn đền đáp một điều gì. “Lòng biết ơn là ký ức của tâm hồn” (Tục ngữ
Pháp). Nhưng rồi người ta phải nói rằng đó là điều tối thiểu mà người ta có thể
làm khi người ta mang ơn Schindler về cuộc đời của họ.
Mười người phong hủi trong Tin Mừng cũng mang ơn Đức Giêsu về
cuộc đời của họ. Tuy nhiên, chỉ có một người trở lại để cảm ơn Người.
Dường như cũng kỳ lạ khi người quay trở lại để cảm ơn là một
người ngoài cuộc –một người Samari. Nhưng điều đó không thường xảy ra đó sao?
Người trong cuộc cho rằng mọi sự là đương nhiên và chính người ấy cũng được coi
là đương nhiên. Trái lại, người ngoài cuộc nhìn mọi sự vật là một ân huệ. Chúng
ta thấy bài đọc I cũng một ý tưởng. Người nước ngoài Naaman trở lại để cảm ơn
Êlisa vì đã chữa cho ông khỏi bệnh phong hủi.
Chúng ta đòi người khác biết ơn mình hơn là tỏ lòng biết ơn
người khác. Điều này chỉ ra lòng ích kỷ của chúng ta khi chúng ta thi ân. Nếu
có người nào nhận thấy người anh em mình vô ơn, bội bạc thì người ấy không tìm
kiếm hạnh phúc cho người khác mà tìm kiếm hạnh phúc cho chính mình.
Đức Giêsu đòi hỏi lòng biết ơn, không phải cho chính Người. Điều
Người nói là: “Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người
ngoại bang này?”. Qua đó rõ ràng Người không nghĩ đến chính mình. Người nghĩ
đến những người phong hủi. Người nhận một ân huệ có thể bày tỏ lòng biết ơn là
một điều tốt và cần thiết.
Chúng ta biết bày tỏ lòng biết ơn là một việc rất quan trọng.
Trước tiên điều ấy tốt cho chúng ta, nó bắt buộc chúng ta phải biết món nợ mà
chúng ta còn mắc người khác. Lòng tri ân dĩ nhiên cũng tốt cho người khác ấy
–nó làm cho người làm ơn cảm thấy được đánh giá cao. Người không cảm ơn điều
nhỏ, sẽ không cảm ơn điều lớn. Vì thế điều quan trọng là biết ơn và đánh giá
cao các ơn huệ nhỏ mà người khác làm cho chúng ta cũng như các dịch vụ mà chúng
ta nhận được mỗi ngày.
Về việc thể hiện lòng biết ơn đối với Thiên Chúa. Thiên Chúa
không cần những lời cảm ơn của chúng ta nhưng chúng ta cần cảm ơn Thiên Chúa.
Điều ấy nhắc chúng ta rằng mọi sự mà chúng ta có đều do Thiên Chúa ban cho. Cảm
ơn Thiên Chúa về điều xảy đến cho chúng ta là việc dễ dàng. Nhưng chúng ta cố
gắng biết ơn về trọn cả cuộc đời mình: điều xấu cũng như điều tốt, những niềm
vui và nỗi buồn, những thành công và thất bại. Đó không phải là một việc dễ
dàng. Chúng ta chỉ thật sự gọi mình là những người có lòng biết ơn khi chúng ta
có thể nói lời cảm ơn về mọi việc đã đưa chúng ta đến giây phút này. Loại tri
ân này làm chúng ta có khả năng cải tạo toàn bộ quá khứ của chúng ta và coi nó
như là con đường cụ thể trong đó Thiên Chúa dẫn đưa chúng ta đến giây phút này.
Khi chúng ta nhìn lại đời sống của mình, chúng ta thấy rằng
những điều làm tổn thương chúng ta và những điều giúp đỡ chúng ta không thể
tách rời nhau. Chúng ta hãy cố gắng nhìn ra bàn tay hướng dẫn của Thiên Chúa
yêu thương trong mọi việc đã đưa chúng ta đến nơi chúng ta đang có mặt hiện
nay.
19. Biết ơn
Thái độ vô ơn của chín người Do Thái được chữa lành, phải chăng
cũng chính là thái độ của mỗi người chúng ta?
Rải rắc trên đường đời, chúng ta đã nhận lãnh biết bao nhiêu ơn
lành của Chúa, từ những ơn làn phần xác, đến những ơn lành phần hồn, thế nhưng
chúng ta cho rằng mình được quyền hưởng dùng những ơn lành ấy và chẳng bao giờ
chúng ta nghĩ tới việc phải cảm tạ Ngài.
Khi gặp gian nan thử thách, chúng ta khẩn cầu cùng Chúa, chúng
ta thú nhận những sai lỗi, những vấp phạm của mình và chúng ta hứa với Ngài
điều nọ điều kia. Thế nhưng, khi tai qua nạn khỏi, chúng ta dường như không còn
nhớ gì nữa và chẳng bao giờ biết cám ơn Ngài.
Nếu thái độ vô ơn của chín người Do Thái đã làm cho Chúa Giêsu
phải buồn phiền, thì chắc chắn thái độ vô ơn của chúng ta cũng sẽ chẳng hơn gì.
Làm sao chúng ta có thể kể ra cho hết những ơn lành Chúa đã ban, bởi vì tình
thương của Ngài thì dạt dào như biển khơi, không bờ không bến.
Thân phận chúng ta chỉ là tro bụi, thế nhưng, Chúa đã dựng nên,
đã trao tặng sự sống phần xác, đã chiếu dõi ánh sáng đức tin phần hồn và đã hứa
ban niềm hạnh phúc vĩnh cửu làm sản nghiệp, vậy mà chúng ta lại không biết cảm
tạ Ngài hay sao?
Lòng biết ơn là một bông hoa tươi xinh của tình bác ái. Trái
lại, sự vô ơn chính là một phép lạ vĩ đại của ma quỉ. Tôi xin đưa ra một thí
dụ.
Chẳng hạn sức khỏe là một điều quí giá mà không một quà tặng
trần gian nào có thể đánh đổi được. Một ông tỷ phú, trong cơn hấp hối, dù có bỏ
ra hằng triệu đô la cũng không thể nào mua về cho mình sự sống, bởi vì đó là
một hồng ân của Chúa. Thế mà biết bao nhiêu lần chúng ta đã hoang phí cho những
cuộc nhậu thâu đêm, cho những canh bài suốt sáng. Đáng lẽ chúng ta phải dùng
cuộc sống để làm đẹp tâm hồn và nâng tâm hồn lên cùng Chúa mà cảm tạ Ngài, thì
chúng ta lại sử dụng nó để làm nô lệ cho những đam mê dục vọng xấu xa, cho
những ý đồ đen tối và bất chính…
Vì thế, thánh Bernađô đã nói:
- Sự vô ơn là một bức tường ngăn cách giữa Thiên Chúa và tạo
vật, là một chiếc đập ngăn chặn nguồn suối với dòng sông.
Bởi đó, phải biết cảm tạ Chúa vì tâm tình biết ơn cũng chính là
một lời kinh tuyệt vời chúng ta dâng lên Chúa, một cách không so đo, không tính
toán.
Với những người biết ơn, chắc chắn Chúa sẽ ban cho họ những sự
cần thiết, mặc dù họ không kêu xin. Vì biết ơn là một nhân đức đẹp đẽ nhất của
người Kitô hữu. Chúng ta hãy cảm tạ Chúa, không phải chỉ trong những giờ phút
may mắn và gặp được những sự tốt lành. Trái lại, chúng ta còn phải cảm tạ Chúa
ngay cả trong những khi buồn phiền với những tai ương hoạn nạn xảy ra.
Có một chàng thanh niên, cha mẹ chẳng may bị giết chết
trong một cuộc thảm sát. Tuy buồn, nhưng anh vẫn thầm thĩ kêu lên cùng Chúa:
- Lạy Chúa, con xin quì gối cảm tạ Chúa vì sự đau khổ con
đang phải chịu cũng là một ơn huệ Chúa ban, để con biết chia sẻ với những khổ
đau của Chúa.
Lòng biết ơn cũng chính là một dấu chỉ để phân biệt người đạo
đức thật với kẻ đạo đức giả. Kẻ đạo đức giả thì trong những hoàn cảnh đen tối
thường kêu trách Chúa. Còn người đạo đức thật, thì luôn khám phá ra bàn tay yêu
thương của Chúa trong mọi tình huống, vì đối với họ: mọi sự đều là hồng ân.
Lời kinh cảm ta tuyệt vời nhất, theo tôi nghĩ, đó là lời kinh
chúng ta thường hát trong thánh lễ:
- Chúng con cảm tạ Chúa vì vinh quang cao cả Chúa.
Hay như trong kinh tiền tụng, chúng ta vốn thường đọc:
- Lạy Chúa, chúng con cảm tạ Chúa thật là chính đáng, phải đạo
và sinh ơn cứu rỗi cho chúng con.
Và sau cùng, ở mọi nơi và trong mọi lúc, hãy sống một cuộc sống
đạo đức và thánh thiện, bác ái và yêu thương, nhờ đó bản thân chúng ta sẽ trở
thành những chứng nhân cho tình thương của Chúa và cuộc đời chúng sẽ trở thanh
một hiến lễ tạ ơn dâng lên Chúa.
20. Cám ơn
Một trong những tiếng được kể là đẹp nhất trong kho tàng ngôn
ngữ con người, từ đông sang tây, từ bắc tới nam, tức là khắp mọi nơi. Một tiếng
rất ngắn nhưng đưa đi rất xa, nếu chúng ta biết sử dụng nó một cách trọn vẹn,
chân tình. Đó là tiếng “cám ơn”. Nhưng trong thực tế, dường như người ta còn
quá dè dặt và tiết kiệm tỏ lòng biết ơn nhau và cám ơn nhau.
Bài Tin Mừng Chúa Giêsu lưu ý chúng ta về lỗ hổng trầm trọng ấy.
Chúa đã làm phép lạ chữa lành cho cả mười người phong cùi. Thế là họ ra đi sung
sướng, thỏa mãn, chỉ có một người nghĩ tới việc trở lại cám ơn Chúa. Chúa hỏi
người ấy: “Không phải cả mười người đều được sạch sao? Thế thì chín người kia
đâu?” Chỉ là vì họ quên cám ơn. Trong cuộc sống, nhiều khi chúng ta quên: cố
tình quên hoặc vô tình quên như thế.
Có phải chúng ta vẫn thường coi việc người khác làm cho chúng ta
hay phục vụ chúng ta như là những chuyện đương nhiên, những việc họ phải làm?
Chẳng hạn khi có người lưu ý một ông giám đốc hay một ông chủ về sự tận tâm của
người thừa hành hay người giúp việc, thì các vị này đã tỉnh bơ trả lời: “Họ đã
được trả lương để làm việc ấy mà”. Người ta trả tiền công và tưởng thế là sòng phẳng.
Chúng ta nên suy nghĩ tới đức bác ái Kitô giáo, tới tình người
được gói ghém trong tiếng “cám ơn”, dù khi đã trả tiền công. Thực vậy, có biết
bao nhiêu chuyện mà người ta không thể thanh toán được bằng tiền bạc, nhưng
bằng một nụ cười, một thoáng quan tâm, một tiếng cám ơn. Những người bán hoa đã
viết một biểu ngữ trước quầy hàng của họ thế này: “Hãy diễn tả tâm tình của bạn
bằng những bông hoa”. Cũng vậy, chúng ta phải diễn tả tâm tình của mình ra nhờ
những cái gì khác hơn là tiền bạc, hoặc cả tiền “puộc boa”, tiền trà nước, đó
là lời cám ơn. Có cả một nghệ thuật bày tỏ lòng tri ân mà chúng ta phải tập để
biết sử dụng hợp thời, đúng lúc và tinh tế khéo léo.
Chúng ta phải biết cám ơn những người sống chung quanh mình, bắt
đầu từ những người gần gũi nhất, đó là những người trong gia đình. Người ta
nói: hạnh phúc của mái gia đình tùy thuộc một phần không nhỏ vào bổn phận nhớ
ơn nhau. Cuộc sống của chúng ta được dệt thành bởi trăm ngàn điều nhỏ mọn chẳng
đáng kể gì, thế mà hạnh phúc gia đình phần lớn lại lệ thuộc vào những điều
chẳng đáng kể gì đó, là tiếng “cám ơn” bé nhỏ nói cho đúng lúc.
Thực vậy, hạnh phúc thay gia đình nào có những người con biết
nói cám ơn người cha người mẹ vẫn tận tâm tận lực lo lắng cho chúng và suốt
ngày tảo tần mưu ích cho chúng. Và cũng thật hạnh phúc cho gia đình nào người
chồng biết nói cám ơn đối với người vợ và người vợ biết nói cám ơn đối với
người chồng. Tiếng cám ơn người chồng nói với người vợ đáng giá hơn tất cả mọi
thứ vật chất, vì nó chứng tỏ người chồng lưu ý tới những gì người vợ làm cho
mình. Cũng vậy, tiếng cám ơn người vợ nói với người chồng sẽ động viên cho ông
thêm nghị lực, thêm can đảm, thêm sức mạnh để hăng say với công việc đều đều
cực nhọc vất vả hằng ngày.
Sau hết nhưng trước hết và trên hết, chúng ta phải biết cám ơn
Thiên Chúa, vì tất cả những gì chúng ta đang có, đang sử dụng: về ngôi nhà đang
che chở chúng ta, cái bàn kia, cái giường ấy, chiếc tủ này, những quyển sách
đó, cái đèn đang cháy sáng kia, những người bạn chúng ta gặp tình cờ trong cuộc
sống, và hàng trăm hàng ngàn điều khác đang ở trong tầm tay chúng ta… Chính
Thiên Chúa ban cho chúng ta những điều ấy xuyên qua những nguyên do phụ thuộc.
Vì thế, chúng ta phải luôn dâng lên Thiên Chúa tâm tình cảm tạ tri ân như đối
với nguyên nhân tối hậu, từ đó phát xuất ra mọi điều thiện hảo cho chúng ta.
Có một người cha trong gia đình đã ghi lại câu chuyện và những ý
nghĩ sau đây: Một đêm kia, trong lúc đang đọc báo, tôi nghe đứa con gái bé
nhỏ của tôi nói: “Bố ơi, con sẽ đếm xem trên trời có bao nhiêu ngôi sao nhé”.
Sau đó, tôi nghe giọng nói êm đềm của con tôi bắt đầu đếm 1,2,3,4… Rồi tôi chăm
chú vào việc đọc báo, không để ý đến tiếng con tôi đếm các ngôi sao nữa. Đến
khi đọc xong bài báo, tôi chú ý lắng tai và nghe tiếng nó vẫn tiếp tục đếm 123,
124, 125…Đến đây nó bỗng ngừng lại, không đếm nữa, rồi quay sang nói với tôi:
“Bố ơi, con không dè trên trời lại có nhiều sao đến thế”. Nghe con gái nhận
xét như vậy, tôi chợt nhớ là thỉnh thoảng tôi cũng âm thầm nói với Chúa: “Chúa
ơi, để con thử đếm xem con đã nhận lãnh bao nhiêu ơn lành Chúa đã ban”, và càng
đếm, trái tim tôi hình như càng cảm thấy thổn thức, không phải vì âu sầu mà vì
bị quá nhiều hồng ân Chúa đè nặng. Rồi tôi cũng thường phải thốt lên như con
gái tôi: “Lạy Chúa, con không dè đời con lại có quá nhiều hồng ân của Chúa đến
thế”.
Hôm nay, mỗi người chúng ta hãy nhìn lại thời gian đã qua, nghĩ
lại quá khứ cuộc đời mình và gia đình mình: có phải chúng ta đã lãnh nhận được
rất nhiều ơn lành của Chúa mà rất ít khi chúng ta để ý cám ơn Chúa và tri ân
Ngài không? Đó là một thiếu sót lớn lao đấy. Cuộc đời chúng ta lãnh nhận từ
Thiên Chúa, từ mọi người thực là nhiều: từ một đồng bạc đến một sản nghiệp, từ
một nụ cười đến một tình thương, từ một lời chào đến những lời an ủi, khích lệ,
trao đổi, gặp gỡ…
tất cả và bất cứ sự gì chúng ta lãnh nhận được đều là những viên gạch xây dựng
đời chúng ta và gia đình chúng ta. Nên chúng ta phải luôn tạ ơn Chúa và cám ơn
mọi người. Tạ ơn Chúa là chúng ta đem các ơn mình đã lãnh nhận được trình bày
với Chúa, để rồi Chúa sẽ ban lại nhiều hơn, như người ta thường nói: “Một lần
cám ơn là hai lần xin ơn”.
Xin Chúa cho chúng ta luôn biết sống trong tâm tình tạ ơn Chúa
như thánh Phaolô đã khuyên bảo giáo dân Côlôsê: “Anh em hãy luôn sống trong tâm
tình tạ ơn Chúa và biết ơn Chúa”. Đồng thời, chúng ta cũng phải luôn biết cám
ơn mọi người, vì có thể nói, tất cả những người có liên hệ xa gần với chúng ta,
đều là những ân nhân của chúng ta.
21. Suy niệm của
Lm. Phạm Thanh Liêm
TÌNH YÊU THIÊN CHÚA ĐƯỢC DIỄN TẢ QUA TRUNG GIAN CON NGƯỜI
Thiên Chúa là tình yêu. Ai ở trong tình yêu, thì ở trong Thiên
Chúa. Ai nói mình yêu Thiên Chúa mà ghét anh em mình, đó là người nói dối. Tình
yêu đối với Thiên Chúa được diễn tả qua tình yêu con người đối với nhau. Thiên
Chúa cũng yêu thương con người qua những trung gian của Ngài, cụ thể qua những
con người sống chung quanh chúng ta.
Thay đổi con người, để có thể lãnh nhận hồng ân
Naaman trước khi xuống tắm bảy lần ở sông Jordan, đã phẫn nộ với
tiên tri Êlisa vì ông tưởng rằng tiên tri sẽ đứng trước ông, giơ tay cầu khẩn
cùng Thiên Chúa, và chữa ông khỏi. Đằng này, tiên tri chỉ sai người nói với
Naaman: “đi tắm bảy lần ở sông Jordan, thì sẽ được sạch”. Naaman nghĩ: “Nước
sông ở Đa-mát chẳng sạch hơn nước sông ở Jordan sao?” Và Naaman đã không muốn
xuống tắm.
Naaman đòi người của Thiên Chúa phải làm theo suy nghĩ và cách
thế của mình. Nhưng Thiên Chúa không muốn thế, và người của Thiên Chúa lại
không muốn vậy. Đòi hỏi để được khỏi bệnh quá đơn giản đến độ Naaman không thể
tin được, và không muốn tin. Nếu Naaman không khiêm tốn bỏ mình để làm theo lời
sứ giả của tiên tri, thì chắc ông chẳng khỏi bệnh. Trong cuộc sống, người ta
cũng thường đòi Thiên Chúa phải làm theo ý người ta, theo điều kiện người ta
đặt cho Chúa. Trường hợp của Naaman cho thấy, nếu người ta không bỏ mình, e
rằng người ta khó có thể đón nhận hồng ân của Thiên Chúa.
Bao nhiêu yếu tố xảy đến giúp Naaman đón nhận hồng ân: người tớ
gái “quá thơ ngây” suýt gây họa cho cả nhà vua nước mình, những đầy tớ của
Naaman khuyên ông nên vâng lời vị sứ giả của tiên tri, và cả dòng sông nước
không được sạch dưới con mắt của Naaman. Trong cuộc sống của mỗi người, dường
như cũng được đan dệt bằng bao nhiêu lời, bao nhiêu biến cố nhỏ nhỏ, để làm nên
mỗi người như hiện tại. Chúng ta có nhận ra đó là những hồng ân để tạ ơn Thiên
Chúa không?
Đức Giêsu- tình yêu của Thiên Chúa cho con người
Người phong cùi, theo luật Do Thái, không được tiếp xúc với
người lành. Chính vì vậy, họ đứng đàng xa và kêu xin Đức Giêsu thương xót, chữa
lành họ. Họ đáng thương, không chỉ vì con bệnh hành hạ làm họ đau đớn thể xác,
nhưng họ còn đau khổ hơn khi phải tách biệt với xã hội con người, với những
người thân yêu: cha mẹ, vợ chồng, con cái của họ. Đức Giêsu giúp con người giao
hoà với Thiên Chúa và giao hoà với nhau.
Đức Giêsu nói với những người phong cùi: “đi trình diện với các
tư tế”. Luật Do Thái dạy
những người phong cùi thấy mình khỏi bệnh, phải đi trình diện thầy tư tế, để
được xác nhận là đã khỏi bệnh. Đang khi họ đi, họ được khỏi. Niềm tin phó thác
biểu lộ qua thái độ vâng lời Đức Giêsu, làm những người phong cùi được khỏi
bệnh. Thiên Chúa đòi con người tin tưởng và phó thác tất cả nơi Ngài. Tin tưởng
phó thác tất cả nơi Thiên Chúa, đó là dấu chỉ của những người được thương và
được cứu độ.
Chỉ có mỗi người ngoại trở lại để tạ ơn Thiên Chúa. “Chín người
kia đâu? Không phải cả mười người được khỏi sao?” Chín người kia chắc chắn được
khỏi bệnh phong cùi, còn người ngoại này không chỉ được khỏi bệnh thân xác,
nhưng còn được nhiều ơn thiêng liêng khác nữa. Nhận ra hồng ân Thiên Chúa trong
đời mình, là một dấu chỉ của người đang sống hạnh phúc.
Thiên Chúa vẫn muôn ngàn đời thành tín
“Nếu chúng ta cùng chết với Đức Kitô, chúng ta sẽ cùng sống với
Ngài”. Đi theo Đức Giêsu, đòi chúng ta phải bỏ mình, bỏ những ham muốn của thế
gian và xác thịt. Không chiều theo những ham muốn của xác thịt và thế gian, là
một cách chết cho thế gian, cùng chết với Đức Kitô. Thiên Chúa vẫn muôn ngàn
đời thành tín: nếu chúng ta chết cho thế gian cùng với Đức Kitô, chúng ta sẽ
được cùng sống lại với Ngài.
“Nếu chúng ta chối Ngài, Ngài cũng chối chúng ta”. Sở dĩ vậy, vì
nếu chúng ta cứng lòng và cố tình chối Ngài, đứng đối nghịch với Ngài. Ngài
không thể làm khác được. Thiên đàng không thể có đối với người không muốn “lên
thiên đàng”. Về phía Thiên Chúa, Ngài luôn luôn yêu thương con người, Ngài muốn
con người ở trong tình yêu của Ngài, Ngài muốn họ “lên thiên đàng” nhưng Ngài
không buộc họ phải lên thiên đàng. Nếu một người cố tình thù nghịch Ngài, Ngài
phải chịu vì Ngài đã cho con người tự do.
“Nếu chúng ta bất trung, thì Ngài vẫn trung thành”. Nếu vì yếu
đuối, chúng ta bất trung, thì Thiên Chúa vẫn thành tín, Ngài chờ đợi chúng ta
trở lại với Ngài. Tình yêu Thiên Chúa đối với con người được cụ thể qua bí tích
hoà giải, mỗi khi con người trở lại với Thiên Chúa, đều được lãnh ơn hoà giải
với Ngài qua trung gian thừa tác viên của Giáo Hội. Hơn nữa, hối hận hay muốn
trở lại, đã là hồng ân của Thiên Chúa cho tội nhân rồi.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Xin bạn cho một vài thí dụ cho thấy Thiên Chúa yêu thương con
người qua các trung gian!
2. Đức Giêsu có là diễn tả tình yêu của Thiên Chúa đối với con
người không? Xin bạn chia sẻ quan điểm lập trường của bạn.
3. Với kinh nghiệm bản thân, thay đổi bản thân nên có thể đón
nhận hồng ân, hay, đón nhận hồng ân nên thay đổi chính mình? Xin bạn chia sẻ
kinh nghiệm!
22. Suy niệm của
JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Có thể tín nhiệm vào lương tâm của những người thường tỏ ra
vô ơn với những ân nhân của mình không? Tại sao?
2. Người Kitô hữu có nhiều tâm tình biết ơn hơn những người khác
không? Nếu không thì bạn nghĩ thế nào?
3. Trong đời sống Kitô hữu, chúng ta cần phải biết ơn những ai?
Và phải làm những gì để tỏ lòng biết ơn đối với những người ấy?
Suy tư gợi ý:
1. Làm ơn đừng nên nhớ, chịu ơn chớ nên quên
Bài đọc I đưa ra cho ta một hình ảnh rất đẹp. Tướng của Sy-ri là
Na-a-man bầy tỏ lòng biết ơn của mình đối với ngôn sứ Ê-li-sa một cách cụ thể
bằng lễ vật mà ông tha thiết xin ngôn sứ nhận cho. Còn ngôn sứ Ê-li-sa thì
cương quyết từ chối, mặc dù lễ vật ấy chắc chắn sẽ giúp ngài sống đỡ thiếu
thốn, và nhất là – theo cách suy nghĩ bình thường của người đời – có thể tạo
cho ngài nhiều phương tiện hơn để thi hành sứ mạng của mình.
Cả hai thái độ tốt đẹp trên có thể làm chúng ta suy nghĩ và xét
lại thái độ của chúng ta khi hàm ơn ai hoặc làm ơn cho ai. Thông thường người
ta có tâm lý hay quên hoặc không nhận ra những điều tốt người khác làm cho
mình, nhưng lại dễ nhớ những gì tốt đẹp mình làm được cho người khác. Không
những thế, mình còn mong họ nhớ ơn và trả ơn mình. Nếu họ vô tình quên ơn, thì ta
buồn phiền, oán trách, thậm chí sẵn sàng lên tiếng chê bai.
Đức Giêsu cũng như các bậc cổ nhân xưa dạy ta thái độ nhớ và
biết ơn đối với những người hy sinh cho ta, những người làm những điều tốt lành
cho ta. Không phải chỉ nhớ và biết ơn, mà còn phải đền đáp lại ơn đó khi nào có
thể. Nhưng đối với những người mà ta làm ơn cho, thì trái lại, không nên nhớ,
cũng không nên đòi hỏi họ phải biết ơn hay trả ơn ta. Trang Tử, một triết gia
Trung Hoa, khuyên ta nên “vô kỷ, vô công, vô danh” trong các việc làm của ta,
nghĩa là không làm vì mình, làm rồi không cậy công, cũng không mong được khen
ngợi, biết ơn.
2. Suy nghĩ về lòng biết ơn
Một trong những nguyên nhân hay động lực quan trọng của tình yêu
thương là lòng biết ơn. Không phải tình yêu thương nào cũng phát xuất và đặt
nền móng trên lòng biết ơn: Thiên Chúa hay cha mẹ yêu thương ta không phải vì
mang ơn ta. Nhưng rõ ràng là tình thương của ta đối với Thiên Chúa, cha mẹ và
nhiều ân nhân khác phát sinh và đặt nền tảng trên lòng biết ơn. Thiên Chúa và
cha mẹ yêu thương ta trước, sinh thành tạo dựng, nuôi dưỡng giáo dục ta. Tình
thương đó, công ơn đó làm nẩy sinh nơi ta lòng biết ơn, khiến ta đáp lại tình
thương đó bằng chính tình yêu thương của ta đối với các Ngài. Lòng biết ơn đối
với Thiên Chúa và cha mẹ lại là tiêu chuẩn nền tảng để đánh giá mọi thứ biết ơn
khác. Một người vô ơn đối với Thiên Chúa và cha mẹ, thì khó mà biết ơn thật sự
đối với người khác.
Khi làm ơn cho ai, giúp ai việc gì, mà về sau người đó vô ơn, tự
nhiên ta cảm thầy buồn, có khi đau khổ. Khuynh hướng tự nhiên của mọi người là
mong muốn hoặc đòi hỏi người thụ ơn mình phải biết ơn (mặc dù khi làm ơn cho
ai, tính cao thượng đòi hỏi ta vượt khỏi khuynh hướng tự nhiên ấy). Do đó, lòng
biết ơn là một đức tính rất cần thiết trong giao tế xã hội, trong tư cách một
con người. Trong xã hội, tiếng “cám ơn” luôn luôn nở trên môi những con người
có giáo dục, lịch thiệp, lễ độ. Lòng biết ơn, tiếng cám ơn xuất phát từ đáy
lòng luôn luôn làm vui lòng những người tốt bụng, khuyến khích họ tiếp tục thi
ân làm phúc. Trong đời sống tâm linh, tinh thần hay tôn giáo, lòng biết ơn đối
với Thiên Chúa và các ân nhân cần phải được biểu lộ trong các kinh nguyện, lễ
nghi, trong tâm tình và cử chỉ của các tín hữu.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, ta thấy 10 người được Đức Giêsu chữa
lành, nhưng chỉ có một người trở lại cám ơn Ngài. Và mỉa mai thay, người biết
ơn đó lại là một người ngoại giáo! Điều này làm ta phải tự hỏi: người Kitô hữu
có nhiều tâm tình biết ơn hơn các tín đồ tôn giáo khác không? Nếu ta không tốt
bằng họ hoặc không hơn họ, thì việc ta nỗ lực truyền giáo cho họ quả thật có
phần nào nực cười! Việc Đức Giêsu – với tư cách là thầy dạy về tâm linh – đã
trách móc 9 người vô ơn kia không biết tạ ơn Thiên Chúa cho thấy: rõ ràng là
lòng biết ơn không thể nào thiếu được trong đời sống tu đức, đời sống hướng về
sự toàn thiện. Không những thế, nó có thể là căn bản cho một lương tâm đứng
đắn. Một người vô ơn, thường xuyên vô ơn, khó có thể có một lương tâm tế nhị và
đúng đắn. Nhưng mỉa mai thay, biết bao người mang danh theo Chúa lại tỏ ra vô
ơn với những người làm ơn cho mình nhiều hơn người thường!
3. Biết ơn ai? – Bốn trọng ân trong đời sống con người
Trong Phật giáo, có bốn trọng ân mà người Phật tử thường được
các sư tăng nhắc nhở, nhất là vào dịp lễ Vu Lan (rằm tháng 7 âm lịch): ơn cha
mẹ, ơn tam bảo (Phật, Pháp, Tăng), ơn tổ quốc xã hội, và ơn thầy bạn. Chúng ta
thử khai triển bốn trọng ân ấy trong chiều hướng Kitô giáo.
· Ơn cha mẹ: Cha mẹ trước tiên của chúng ta là Thiên Chúa. Chính
Thiên Chúa đã tạo dựng và sinh thành chúng ta, cho ta sự sống siêu nhiên lẫn tự
nhiên, đồng thời ban cho ta đủ mọi ơn để duy trì và phát triển sự sống ấy. Kế
đến là cha mẹ ruột thịt của ta, là người sinh ra ta, nuôi dưỡng giáo dục ta nên
người. Công ơn của cha mẹ ta to lớn biết bao! Ca dao có câu: “Công cha như núi
Thái Sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”. Người trần gian mà ta phải
biết ơn nhất là cha mẹ.
· Ơn tam bảo: là công ơn của những người đã đem lại cho ta đời
sống tâm linh, làm cho đời sống tâm linh ta phát triển và trở nên phong phú.
– Người đầu tiên mà ta phải nói tới là Đức Giêsu, Đấng chủ chốt
đem lại đời sống tâm linh cũng là vị Thầy lớn nhất về đời sống này cho mọi
người Kitô hữu. Ngài cũng là Đấng cứu chuộc để ta có lại đời sống thần linh,
siêu nhiên của Thiên Chúa đã bị mất từ thời nguyên tổ, trước khi ta sinh ra.
Bên cạnh Đức Giêsu có Mẹ của Ngài là Đức Maria. Theo niềm tin của người Công
giáo, tất cả mọi ơn Thiên Chúa ban, đều nhờ Mẹ và qua tay Mẹ.
– Kế đến là Lời Chúa, hay Kinh Thánh và Tin Mừng, là phương tiện
hữu hiệu nhất Thiên Chúa dùng để soi sáng cho ta đi đúng đường, hầu phát triển
đời sống thần linh và tâm linh của ta. Ta cần phải biết ơn bằng cách năng đem
ra suy gẫm để thực hành những gì Lời Chúa chỉ dạy.
– Giáo Hội các cấp (toàn cầu, địa phương, giáo xứ, cộng đoàn cơ
bản), là yếu tố nhân sự để tiếp nối công trình của Đức Giêsu, đồng thời là môi
trường đào tạo và nuôi dưỡng đời sống tâm linh của ta. Nói một cách cụ thể hơn
đó là các tông đồ, các vị chủ chăn các cấp mà gần nhất là cha xứ, những người
dạy dỗ ta về mặt tâm linh (các nhà thần học, tu đức, các giáo lý viên, các
huynh trưởng hội đoàn, v.v…)
Đó là Tam Bảo của Kitô giáo, là các đại ân nhân của chúng ta, mà
chúng ta phải luôn luôn yêu mến và tỏ lòng biết ơn.
· Ơn tổ quốc và xã hội: Chúng ta không chỉ sống trong gia đình
và Giáo Hội, mà còn sống trong lòng quốc gia dân tộc nữa. Quốc gia xã hội đã
tạo cho chúng ta những điều kiện dễ dàng để có một đời sống ấm no, yên vui,
hạnh phúc, một cách bao trùm, tổng quát, vượt khỏi khả năng hạn hẹp của cha mẹ,
gia đình ta. Chúng ta được sống trong an vui, là do công sức của biết bao người
đã từng hy sinh xương máu để bảo vệ tổ quốc, đã vắt óc ra để đưa ra những chính
sách sáng suốt hầu phát triển xã hội về kinh tế, văn hóa, v.v… làm cho đời sống
của ta tươi đẹp. Để thấy được công lao của quốc gia xã hội, ta thử tưởng tượng
nếu mình sống một mình trong rừng, ta sẽ thấy thiếu thốn và không được bảo vệ
như thế nào!
· Ơn thầy bạn: Trong đời sống của ta, ta còn biết bao người phải
mang ơn, trước hết là những vị thầy đem lại cho ta đời sống tri thức, những
người giáo dục ta nên người. Sau là những bà con thân thuộc, bạn bè, những
người quen biết… Biết bao người đã vô tình hoặc cố ý làm ơn cho ta trong tất cả
mọi lãnh vực mà ta có thể biết hoặc không biết. Chúng ta có bổn phận phải biết
ơn và tìm cách trả ơn những người ấy.
Cầu nguyện
Lạy Cha, xin cho con ý thức được rằng lòng biết ơn chính là
thước đo của tình yêu đối với Thiên Chúa, nhân loại, Giáo Hội, xã hội, và tha
nhân, và cũng là tiêu chuẩn đánh giá lương tâm và tư cách một con người. Xin
giúp con ý thức được những hồng ân mà Chúa ban cho con từng giây từng phút, để
con nhận ra được hạnh phúc Chúa ban hầu cảm tạ Chúa. Xin cho con luôn nhạy bén
nhận ra tình thương, sự hy sinh, những ơn huệ, những cử chỉ yêu thương của những
người chung quanh đối với con, để con cảm thấy hạnh phúc vì được yêu thương,
đồng thời biết đáp trả bằng chính tình yêu chân thành và sự hy sinh của con.
Xin cho con biết luôn cầu nguyện và mong ước những sự tốt lành cho các ân nhân
của con. Amen.
23. Gặp gỡ để bày tỏ lòng
biết ơn
(Suy niệm của Lm. FX. Vũ Phan Long)
1.- Ngữ cảnh
Với giai thoại Đức Giêsu chữa mười người phong này (17,11-19),
tác giả bắt đầu phần thứ ba (17,11–18,14) của bài tường thuật hành trình lên
Giêrusalem: tại c. 11a, độc giả gặp lời nhắc về hành trình này lần thứ ba (hai
lần trước: 9,51; 13,22). Cho dù c. 11b tạo ra một điểm khó giải thích (“thập
giá của các nhà chú giải”) do có những lời quy chiếu về Samari và Galilê, độc
giả vẫn không quên rằng mối bận tâm thần học của Lc là đưa Đức Giêsu về
thành định mệnh, để tại đó công cuộc cứu độ loài người được vĩnh viễn hoàn tất.
Đây là giai thoại chỉ có trong Tin Mừng Luca.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành bốn phần:
1) Địa điểm (17,11);
2) Đức Giêsu chữa lành mười người phong (17,12-14);
3) Người Samari trở lại cám ơn Đức Giêsu (17,15-18);
4) Liên hệ giữa đức tin và cứu độ (17,19).
3.- Vài điểm chú giải
- Đức Giêsu đi qua giữa hai miền Samari và Galilê
(11): “Đi qua giữa (dia meson) hai miền Samari và Galilê” có thể có nghĩa là đi
trong giải đất làm thành biên giới giữa hai miền. Nếu thế, hẳn là Đức Giêsu đi
theo con đường này để đến thung lũng Giođan phía Sythopoli và từ đó đi xuống
tới Giêrikhô (18,35), rồi từ đó Người sẽ đi lên Giêrusalem. Từ ngữ meson
(mesos, “giữa”) được dùng ở đối-cách, thay vì thuộc-cách (Đối-cách:
accusative; thuộc-cách: genitive) và không có mạo từ dường như hỗ trợ cho
cách giải thích này. Cả về mặt địa lý, cách giải thích này cũng chắc chắn hơn,
bởi vì nếu Đức Giêsu đi về Giêrusalem, thì Người đi từ bắc xuống nam; nhưng nếu
Người “đi qua Samari và Galilê” (theo một cách dịch), thì dường như Người đi từ
nam lên bắc! Phải chăng chi tiết địa lý này có một ý nghĩa thần học? Trong
trường hợp này, chắc là Lc viết “đi qua Samari và Galilê”, mà mắt nhìn lui về
phía sau để ngó lại đoạn đường đã đi qua. Con đường và hoạt động của Đức Giêsu
luôn luôn được hướng dẫn bởi Giêrusalem, nên bây giờ Người như đứng tại
Giêrusalem mà nhìn ngược lại. Ta chỉ có thể hiểu được lộ trình, cuộc tiến bước
và tất cả hoạt động của Người nếu khởi đi từ Giêrusalem, nơi số phận bi thương
đang chờ Người. Phần tường thuật cuộc hành trình đã bắt đầu với một sự cố nhắc
đến Samari, nay Samari cũng bắt đầu chặng cuối của cuộc hành trình. Như thế,
Samari là cái cầu chuyển Lời Chúa từ Galilê đến Giêrusalem, rồi từ Giêrusalem
đến với Dân ngoại. Sau khi sống lại, Đức Giêsu sẽ giao cho các môn đệ sứ mạng
này: “Anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp miền Giuđê và
miền Samari và cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1,8). Như thế, con đường Đức
Giêsu theo hôm nay phác ra trước con đường Giáo Hội sẽ theo sau này: con đường
của Giáo Hội là hoa trái của con đường Đức Giêsu.
Chúng ta ghi nhận rằng về phương diện ngữ học, cách giải thích
thứ hai có thể chấp nhận được: cách dùng dia trong thể thơ với từ ngữ chỉ nơi
chốn ở đối-cách, dù chỉ có ở đây trong Tân Ước, ta thấy có trong hy-ngữ sau
này.
Cũng khó có thể chọn lựa dứt khoát cách giải thích nào. Theo N.
Guillemette, nếu Lc đã muốn nói “ở biên giới của Samari và Galilê” như BJ (“aux.
confins de la Samarie et de la Galilée”) hoặc “dọc theo biên giới Samari và
Galilê”, hẳn ông đã nói. Về phương diện này, dường như cách dịch của TOB
(“Người đi băng qua Samari và Galilê”, “il passa à travers la Samarie et la
Galilée”) tự nhiên hơn. Mặc dù cách giải thích thứ hai có thể khiến ta có ấn
tượng là hơi ép về mặt thần học, nó lại hài hòa với các bận tâm thần học và địa
lý của tác giả Luca. Vì thế, trong khi chờ đợi những khám phá mới,
Guillemette nghiêng về cách giải thích này.
- mười người mắc bệnh phong
(12): Rất có thể con số “mười” chỉ có nghĩa là một con số tròn.
- Hãy đi trình diện các tư tế
(14): Đức Giêsu không chữa lành họ, mà bảo họ cứ đi gặp các tư tế trong tình
trạng bệnh tật. Người gợi đến quy tắc Lv 13,49. Các “tư tế” đây có lẽ nói chung là giới chức phục
vụ thánh điện, chứ không nhất thiết là tư tế Do-thái đang làm việc tại Đền Thờ
Giêrusalem hoặc tư tế Samari đang phục vụ tại Núi Garidim.
- Anh sấp mình dưới chân Đức Giêsu mà tạ ơn
(16): Hành vi phủ phục cho hiểu là anh ta nhìn nhận Đức Giêsu là người của
Thiên Chúa.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Địa điểm (11)
Vị trí địa lý cũng như ngôi làng đều không được xác định. Điều
quan trọng là Đức Giêsu đang tiến về Giêrusalem; trên đường, Người đi qua cả
Samari, là khối dân bị coi là bội giáo, và Người đã có những khám phá độc đáo.
* Đức Giêsu chữa lành mười người phong (12-14)
Vào thời Đức Giêsu, có câu tục ngữ nói rằng: “Có bốn hạng người
có thể được coi như người chết, dù vẫn sống, đó là những người nghèo, người
phong cùi, người mù và người không có con”. Mọi chứng bệnh đều bị coi như hình
phạt của Thiên Chúa để trừng phạt tội lỗi, nhưng bệnh phong cùi được coi như là
chính biểu tượng của tội. Người Do-thái nghĩ rằng Thiên Chúa dùng bênh phong
cùi để trừng phạt kẻ ghen tị, kiêu căng, quân trộm cướp, giết người, thề gian
và loạn luân.
Hôm nay Đức Giêsu gặp mười người phong. Đôi khi số phận cướp mất
sự tự do hành động của con người, buộc con người phải sống một kiểu sống rất
giới hạn. Ai mắc bệnh phong là rơi vào tình trạng đó. Người ấy bị dứt khoát
loại khỏi gia đình và làng quê và phải sống bên lề cộng đồng nhân loại. Người
ấy chỉ được sống chung với những người cũng mắc chứng bệnh đó. Vì sợ bị lây
nhiễm, xã hội bắt họ phải la to hoặc rung chuông mà báo cho biết là họ đang
đến; họ sống nhờ xin bố thí, nhưng luôn phải ở cách những vùng dân cư; họ được
vào một làng, nhưng không được vào một thành có tường lũy bao quanh. Như thế,
vì chứng bệnh này, họ phải sống một kiếp sống thê thảm bên lề xã hội. “Mười” có
thể có nghĩa là “toàn vẹn”. Như thế, “mười người phong” tượng trưng cho tình
trạng tội lỗi, là biểu tượng của tội, của tình trạng bần khốn của con người,
của tình trạng xa lìa Thiên Chúa và người thân cận. Đức Giêsu đã gặp mười người
đúng với hoàn cảnh của họ: họ đứng đàng xa và kêu lớn tiếng xin Đức Giêsu giúp
đỡ. Đáng ghi nhận là nhóm này gồm cả người Do-thái lẫn người Samari. Hẳn là
bệnh tật và sự bần khốn đã giúp xóa đi những tị hiềm giữa Do-thái và Samari (x.
Lc 9,53; Ga 4,4-9). Sự bất hạnh đã đưa họ lại với nhau và làm cho họ thành bạn
bè. Mười người phong cùi này không tách riêng nhau ra mà xin giúp đỡ từng người
một; họ cùng đi với nhau mà gặp Đức Giêsu. Lời cầu xin của họ là lời thỉnh cầu
của cộng đoàn: “Lạy thầy Giêsu, xin rủ lòng thương chúng tôi!” (c. 13).
Trong trường hợp bà goá Nain (7,11-17) và người phụ nữ còng lưng
(13,10-17), Đức Giêsu đã lấy sáng kiến, đến gần và thương xót cứu giúp các bà.
Trong trường hợp những người phong này, Người lại để cho họ có sáng kiến, họ
cầu khẩn Người. Người cũng chẳng đến gần họ, mà lại bảo họ đi xa Người, như thể
Người muốn tránh né họ. Người phái họ đến gặp các tư tế mà bề ngoài chưa hề làm
gì để chữa họ cả. Theo quy định của Cựu Ước (Lv 13–14), các tư tế có thẩm quyền
tuyên bố về các chứng bệnh này. Các vị phải xác nhận rằng một người phong đã
thật sự khỏi bệnh. Nhờ phán quyết này mà một người đã hết bệnh được tái nhập xã
hội. Mười người phong này cần được chữa lành đã, thì việc họ đi trình diện các
tư tế mới có ý nghĩa. Đức Giêsu lại bảo họ cứ việc đi, vì Người đòi hỏi họ có
lòng tin để hiểu rằng việc ra đi do Người truyền lệnh có một ý nghĩa và đưa đến
một cùng đích. Trong khi đi đường, họ đã được khỏi bệnh.
* Người Samari trở lại cám ơn Đức Giêsu (15-18)
Cho tới lúc này, mười người phong được giới thiệu như một nhóm.
Tất cả đều sống như nhau; tất cả đều sống một biến cố như nhau. Bây giờ có một
người tách khỏi nhóm và quay lại với Đức Giêsu. Tại sao chỉ có một người trở
lại bày tỏ lòng biết ơn? Tại sao Đức Giêsu than thở về chín người kia khi chính
Người đã truyền họ đi và trình diện trước tiên với các tư tế? Phải chăng người
Samari đã không vâng lời Người? Có lẽ những người khác cũng sẽ trở lại cám ơn
Đức Giêsu, nhưng lúc này họ vội vã đến gặp các tư tế vì họ muốn được tuyên bố
là sạch bệnh càng sớm càng tốt và thế là bỏ được số phận bi đát. Họ mong muốn
được trở vào cộng đồng nhân loại càng sớm càng tốt, như là những thành viên có
đầy đủ quyền lợi và nghĩa vụ. Họ nhìn tới tương lai, chứ không nhìn lui về Đấng
đã kéo họ thoát khỏi số phận bi thương. Chỉ có một người duy nhất đã “quay trở
lại và lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa”. Chỉ có người Samari này đã nhận ra được
Đức Giêsu là ai và muốn nhìn nhận tư cách đặc biệt của Đức Giêsu như là trung
gian của Thiên Chúa. Chín người kia làm các công việc theo cách quy ước và đi
theo những cách hành đạo truyền thống, họ không nhận thấy là một trật tự mới đã
được thiết lập. Điều này đã xảy ra cho dân Israel. Những kẻ laic đạo, những
người ngoại giáo là những người đầu tiên nhận ra rằng Đức Giêsu là Đấng trung
gian đưa ơn cứu độ của Thiên Chúa đến cho trần gian.
* Liên hệ giữa đức tin và cứu độ (19)
Người Samari này ca ngợi Thiên Chúa và cám ơn Đức Giêsu. Anh coi
điều Đức Giêsu đã làm cho anh là một ân huệ của Thiên Chúa. Tất cả mười người
đều đã được lành. Nhưng chỉ đối với anh Samari này, cuộc chữa lành không những
là dịp khôi phục sức khoẻ và đời sống chung với loài người, mà còn trở thành
dịp gặp gỡ Thiên Chúa và Đức Giêsu. Chứng nan y đã đưa anh đến một tiếp xúc đầu
tiên với Đức Giêsu, một cuộc gặp gỡ từ đàng xa. Sau khi được chữa lành, anh
không chạy xa Đức Giêsu, nhưng đã trở lại với Người mà ca ngợi Thiên Chúa. Với
lần thứ hai này, anh có thể gặp Người gần kề hơn, như Đấng đã tỏ lòng thương
xót anh. Không những trong tư cách là người đã chữa bệnh phong, mà còn trong tư
cách là người có ơn ban thường trực là kinh nghiệm này, Đức Giêsu chỉ cho anh
lộ trình sau này. Tất cả giai thoại kết thúc bằng câu nói: “Đứng dậy về đi!
Lòng tin của anh đã cứu chữa anh”.
Đức Giêsu không nói: “Tôi cứu chữa anh”, mà lại nói: “Lòng tin
của anh đã cứu chữa anh”. Anh đã nhận biết hoạt động của Đức Giêsu là Đức Chúa,
anh đã đón nhận, nay anh dâng trả lại cho Người. Những người khác nhận được sự
chữa lành như là một món nợ được trả, họ giữ ân huệ của Thiên Chúa lại cho
mình. Chỉ có anh Samari này “quay trở lại”, “hoán cải” và nhận biết rằng anh ta
mắc món nợ phải trả. Vì thế, chỉ có anh này mới thật sự “được cứu”.
Bằng việc quay trở lại với Đức Giêsu, người Samari cho chúng ta
thấy rằng anh đã hiểu tại sao lúc đầu anh lại được sai đến với các tư tế. Anh
phải nói cho họ biết tin này: Thiên Chúa đã sai đến Đấng từng được các ngôn sứ
loan báo, Đấng làm cho người mù được thấy, kẻ điếc được nghe, kẻ què được đi,
người chết trỗi dậy và người cùi được lành (x. Lc 7,22). Anh làm chứng rằng
Thiên Chúa ở gần mọi người, kể cả người phong cùi. Từ nay sẽ không còn chia
cách giữa người khỏe mạnh và người phong cùi, giữa người công chính và lẻ tội
lỗi.
+ Kết luận
Đức Giêsu đã chiếu cố đến cả mười ngươi phong cùi, dù họ là
người Do-thái hay là người Samari. Tuy nhiên cách Người chữa lành đòi hỏi sự
cộng tác nghiêm túc của con người. Trước tiên, các bệnh nhân phải đi trình diện
với các tư tế, y như thể họ đã lành: họ phải chứng tỏ đức tin bằng cách vâng
lời Người mà đi đến với các vị lãnh đạo có quyền cho họ được tái tháp nhập vào
trong cộng đồng. Sau đó, điều mà Đức Giêsu chờ đợi chứ không truyền lệnh: họ
phải chứng tỏ đức tin vào Người bằng cách nói lên tâm tình biết ơn. Chỉ có một
người bị coi là bội giáo, coi như kẻ ngoại, là người Samari, đã quay trở lại mà
cám ơn, tức là nhìn nhận rằng điều tốt lành mình có được là do một Đấng khác.
Chỉ khi thực hiện được cả hai điều này, vâng lời và cám ơn Thiên Chúa, người ta
mới thực sự được lành mạnh trọn vẹn. Đức tin phát sinh từ việc nhận biết ân huệ
Thiên Chúa ban và được diễn tả ra bằng một tiếng “cám ơn” không ngừng. Khi nhìn
nhận người Samari đã được đức tin chữa lành, Đức Giêsu đã công nhận chỉ có anh
này mới được chữa lành hoàn toàn.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Mười người phong cùi được lành bệnh đang khi họ đi đường với
nhau. Tân Ước vẫn so sánh đời sống Kitô hữu như một hành trình dài, mệt nhọc.
Sự lành mạnh thiêng liêng của chúng ta không xả ra tức khắc. Nếu chúng ta đã
sống nhiều năm như một người “phong cùi”, chúng ta sẽ không được chữa lành đột
ngột. Chúng ta phải đi với nhau, và trên đường đi, chúng ta sẽ nhận ra rằng tất
cả chúng ta đã được chữa lành.
2. Nghĩ về thân phận người phong, chúng ta phải đặt ra cho mình
câu hỏi: Ai là những người đang sống một cuộc sống bên lề cộng đồng chúng ta?
Họ đang phải sống kiểu sống nào? Hôm nay, có những dạng bệnh và tật mới, hoặc một
sự sa cơ thất thế, cũng khiến người ta có thể bị đẩy ra bên lề xã hội. Phải
chăng chúng ta coi đó là chuyện đương nhiên, dễ hiểu?
3. Thông thường khi nhận được một sự trợ giúp, người ta mau quên
người đã giúp đỡ mình. Người ta say sưa với viễn tượng tương lai đang mở ra.
Đối với Thiên Chúa, có khi ta còn đối xử tệ hơn. Bởi vì Người thường xuyên ban
cho chúng ta qua nhiều ơn lành, chúng ta chẳng nghĩ rằng mọi điều ta có đều là
do Thiên Chúa xót thương ban tặng. Chúng ta cứ lao tới trước, bỏ lại đàng sau chúng
ta Đấng liên tục ban ơn để chúng ta có thể lao tới phía trước.
4. Khi chúng ta nhận được một điều tốt lành, chúng ta nên đặt ra
cho mình câu hỏi: Điều gì đáng giá hơn đối với chúng ta, ân huệ hay là người
ban ơn? Cần phải đặc biệt đặt ra câu hỏi này cho mọi ơn lành nhận được từ Thiên
Chúa. Nếu chúng ta chỉ chú ý đến ân huệ (quà tặng), nghĩa là đến các của cải
vật chất, đến sức khoẻ, v.v., thì trái tim của chúng ta còn giới hạn, còn ích
kỷ. Nếu đi từ quà tặng, chúng ta chú ý đến tình yêu và lòng nhân ái của ân
nhân, thì kinh nghiệm về ân huệ trở thành gặp gỡ mới mẻ và riêng tư với người
ban ơn. Ân ban có thể là một sự trợ giúp lớn lao. Nhưng điều làm cho chúng ta
sung sướng hơn nữa là có thể nhận biết sự tốt lành của Đấng ban và có thể cám
ơn Ngài về điều đó. Không phải là Thiên Chúa nhận được gì từ lời cám ơn của
chúng ta. Nhưng chúng ta sẽ nên nghèo nàn hơn nếu không cám ơn Ngài. Nếu chúng
ta chỉ ích kỷ nhìn vào tặng phẩm, chúng ta đang mất khả năng thấy, trải nghiệm
và nhận biết tình yêu của Đấng ban ơn.
5. Cám ơn Thiên Chúa là dâng trả ân huệ về cho Ngài, là nhìn
nhận Ngài là nguồn mạch tuôn trào ra ân huệ chúng ta đã lãnh nhận. Cám ơn là đi
vào luồng tương giao tình yêu phát xuất từ Thiên Chúa đến với chúng ta và trở
lại với Ngài. Người vô ơn là người chặn đứng luồng tương giao này lại, không
cho nó trở về với nguồn mạch, và sẽ làm cạn khô tương giao đang có. Công trình
cứu độ của Đức Giêsu chỉ thực sự sinh hiệu quả nếu chính chúng ta cởi mở để cho
mọi sự quay trở lại với Người.
24. Chú giải mục vụ
của Hugues Cousin
TRONG MƯỜI NGƯỜI PHONG CÙI ĐƯỢC CHỮA LÀNH, CHỈ MỘT NGƯỜI
SAMARI BIẾT ƠN
Lần thứ ba, một điệp khúc về cuộc hành trình lên Giêrusalem làm
giai đoạn trình thuật (c.11). Thay vì tiếp tục con đường xuống phiá Nam, dường
như Chúa Giêsu rẽ qua hướng Đông, giữa Galilê và Samari, để đến thung lũng sông
Giođan. Ghi chú này làm cho dễ chấp nhận việc có mặt của một người Samari trong
nhóm người Do Thái bị phong cùi.
Trình thuật về việc chữa lành (cc. 12-14) rất ngắn và giống với
5,12-16, trong đó lần đầu tiên Chúa Giêsu đối diện với một trong những kẻ tiện
dân bị loại khỏi cộng đoàn. Chắc hẳn ở đây họ không phục lạy nhưng họ chào kính
Chúa Giêsu như một vị Thầy –như các môn đệ gọi Ngài. Họ kêu xin Ngài, mà không
xin rõ được chữa lành (so sánh với 5,12) cũng không xin của bố thí. Chúa Giêsu
báo họ đi đến các tư tế, là những người đúng theo luật lệ của Lv 14,1tt, có
nhiệm vụ nhận xét về việc lành bệnh. Tuy nhiên, Chúa Giêsu không làm một cử chỉ
gì để chữa bệnh và như thế việc lành không xảy ra ngay tức khắc (so sánh với
5,13).
Khi nghe lời Chúa Giêsu chỉ dạy, mười người này chứng tỏ có lòng
tin tưởng, một niềm tin trái ngược với niềm tin của đại tướng Naaman người Syri
(x.4,27), thoạt tiên ông này từ chối làm theo lời báo của của ngôn sứ Êlisê (2V
5,10-12). Như vậy, việc chữa lành xảy ra từ xa.
Cho tới đây, trình thuật đề cao quyền lực lớn lao của lời Chúa
Giêsu và, do đó, chuẩn bị cho câu giải đáp mà Ngài sắp nói với các người
Pharisêu (17,21). Nhưng cao điểm của lời giải đáp này nằm ở những gì xảy ra sau
khi chữa lành và sẽ minh hoạ khoảng cách giữa việc chữa bệnh và ơn cứu độ.
Trong các câu 15-19, một trong các người phung cùi được chữa lành quay trở lại
ngay cả trước khi vâng lệnh Chúa Giêsu và Lề Luật: vừa tôn vinh Thiên Chúa, anh
vừa sấp mình –điều đã bị bỏ ở các câu 12-13, và nhất là tạ ơn Chúa Giêsu. Và
điều đáng ngạc nhiên là chỉ tới đây, một khi thái độ của anh gây ấn tượng tốt
cho ta, ta mới biết anh thuộc về chủng tộc nào: đó là một người Samari. Sự
tương phản giữa lòng biết ơn của người này và sự vô ơn của chín người khác vẽ
nên một đường ranh phân biệt giữa những người Do Thái và người mà chính Chúa
Giêsu nói đến như một người ngoại bang (người Samari cũng như người Do Thái
nhìn nhận uy thế của Luật Môsê, và như vậy nhìn nhận uy thế của những quy luật
trong sách Lêvi về bệnh phong). Như trong dụ ngôn về người Samari tốt lành
(10,30tt) và khi rao giảng ở Nagiaret (4,24-27). Trình thuật nhấn mạnh đến tình
yêu mà các người ngoại bang bày tỏ. Do đó, Chúa Giêsu bác bỏ cái nhìn theo chủ
nghĩa dân tộc quá khích, theo đó Thiên Chúa chỉ tỏ mình ra cho người biết trong
các thể chế văn hoá: chính bên cạnh Chúa Giêsu mà người ta tôn vinh Thiên Chúa.
Lúc nào cũng nghĩ đến Thiên Chúa trong những mối bận tâm của
mình nên Chúa Giêsu trách cứ chín người tật phong khác vì đã không tôn vinh
Thiên Chúa. Nhưng chính lời Chúa Giêsu nói về đức tin (c.19) mới là đỉnh cao
của trình thuật. Mười người phong cùi được chữa lành, nhưng duy nhất chỉ có
người Samari biết ơn mới được tuyên bố là được cứu độ. Như vậy ơn cứu độ là điều
cao quý hơn việc chữa lành thể xác. Và niềm tin trọn vẹn của kẻ quay trở lại
thì cao quý hơn niềm tin tưởng đã thúc đẩy cả mười người đi trình diện với các
tư tế trước khi được chữa lành. Việc chữa lành chỉ khai mở cho ơn cứu độ trọn
vẹn khi con người nhận ra sáng kiến nhưng không của Thiên Chúa đối với mình và
nếu họ đáp lại bằng cách dấn thân vào một liên hệ thật sự với Chúa Giêsu: đó là
niềm tin trọn vẹn.
25. Chú giải của
Noel Quesson
Trên đường lên Giê-ru-sa-lem, Đức Giêsu đi…
Một lần nữa, Luca nhắc chúng ta biến cố đang được chuẩn bị. Đức
Giêsu đang sống những tuần lễ cuối cùng. Trước tiên tôi cần dành thời gian để
dừng lại trên từng chữ đó: Đức Giêsu... đi... lên... Giêrusalem. Chúng ta hãy
thử hình dung cảnh tượng. Hãy thử tưởng tượng những tư tưởng của Đức Giêsu lúc
Người đang tiến bước. Giêrusalem! Mục tiêu của cuộc hành trình sau cùng.
Đức Giêsu đi qua biên giới giữa hai miền Samari và Galilê
Luca nhấn mạnh rằng Đức Giêsu đi qua miền Samari. Người không
theo các quan điểm về chủng tộc của những người đồng thời: Người không ngần
ngại đi qua miền đất ấy mà người dân ở Giêrusalem đã tuyệt thông. "Quả
thế, người Do Thái không được giao thiệp với Người Samari" (Ga 4,9).
Khi vương quốc ở miền Bắc sụp đổ và dân bị đi đày năm 722 trước
công nguyên. Quân đội chiến thắng Át-xi-ri đã đưa những đám nô lệ về định cư
lại trên miền Samari. Những đoàn dân ấy thuộc mọi chủng tộc từ mọi miền chuyển
về tạo thành một sự pha trộn về chủng tộc và tôn giáo. Các hội đoàn tôn giáo ở
Giêrusalem vẫn coi họ như những người dị giáo.
Quan điểm phóng khoáng của Đức Giêsu phải tra vấn chúng ta.
Chúng ta đã không giữ lại những hơi hướng khinh thị đối với một số hạng Người,
một số chủng tộc, một số môi tường đó sao?
Điều lý thú mà Luca mang lại cho miền Samari là nó chứa đựng một
ý nghĩa tượng trưng sâu sắc: Chính trong tỉnh này mà "sứ vụ Tin Mừng
hóa" đã thực hiện những bước đầu tiên bên ngoài vùng Giu-đê. Khúc dạo đầu
của việc phát triển to lớn của Giáo Hội trong những vùng đất của dân ngoại.
Đối với những Kitô hữu, phải có những con người khác ngoài con
đường mà Đức Giêsu đã mở đầu. Ngày hôm nay, có phải tôi tránh xa những
"miền Samari".
Lúc Người vào một làng kia, thì có mười người phong hủi đón
gặp Người.
Trong miền đất bị chúc dữ này; đây là những người bị chúc dữ
nhiều nhất. Ở đây cũng vậy, tôi phải dám tưởng tượng ra cảnh tượng đó. Dưới từ
ngữ "phong hủi", trong tâm thức của Kinh Thánh (Lv 13 và 14); người
ta gọi chung mọi bệnh tật trên da thịt, bề ngoài rất ghê tởm và không chỉ bệnh
phong hủi theo nghĩa y học hiện đại.
Hơn thế nữa, Kinh Thánh nhìn trong bệnh phong hủi một hình phạt
của Thiên Chúa, hình ảnh của chính tội lỗi làm hư hỏng con người.
Còn Đức Giêsu, Người không sợ. Là sự dịu dàng của Thiên Chúa.
Người đã đến vì những người nghèo hèn nhất. Ngày hôm nay cũng thế, Đức Giêsu đã
không ghê tởm tội lỗi của tôi, tội lỗi của những người gớm ghiếc nhất. Đức
Giêsu đã đến vì điều đó để cứu chuộc, để chữa lành.
Họ dừng lại đằng xa và kêu lớn tiếng.
Tôi tưởng tượng tiếng kêu của mười cái cổ họng ấy.
Ngay khi họ nhận ra có người nào đó ở đằng xa, họ có thói quen
kêu lớn tiếng, một điều bắt buộc. Luật của Môsê thật hà khắc nhằm đóng khung
dịch bệnh lan truyền: "Người mắc bệnh phong hủi phải mặc áo rách, xõa tóc,
che râu và kêu lên; "ô uế! ô uế!" (Lv 13,45). Không cần phải nói thêm
rằng họ đương nhiên phải bị cấm đến ở những nơi có dân cư, và hoàn toàn bị đuổi
ra khỏi những nơi thờ phụng. Những người nghèo ấy thuộc về hạng nghèo nhất.
Lạy Thầy Giêsu, xin dủ lòng thương chúng tôi!
Họ gọi Đức Giêsu bằng tên Người, một sự kiện tương đối hiếm thấy
trong các sách Tin Mừng. Trong ngôn ngữ Aramêen, Jéshouah có nghĩa là “Thiên
Chúa cứu”. Kitô hữu Phương Đông gọi "kinh cầu Chúa Giêsu” chính là lời cầu
xin ấy được lặp lại nhiều lần: Lạy Chúa Giêsu, xin thương xót chúng con. Lạy
Chúa Giêsu, xin thương xót. Lạy Chúa Giêsu, xin thương xót. Chúng ta, cũng rất
thường lăp lại kinh này trong thánh lễ: Kyrie eleison. Lạy Chúa, xin thương
xót!
Thấy vậy, Đức Giêsu bảo họ: "Hãy đi trình diện với các
tư tế.
Cũng theo Luật (Lv 14,2). Các tư tế là những Người duy nhất có
tư cách xác nhận sự lành bệnh. Vậy mệnh lệnh này của Đức Giêsu phải được họ
hiểu như một lời hứa chữa lành.
Người ta không khỏi ngạc nhiên bới sứ cứng rắn bề ngoài của Đức
Giêsu. Thay vì chữa lành họ ngay tức khắc, người đòi hỏi những người tội nghiệp
khẳn khổ ấy ra đi như thế. Và chúng ta thấy họ ra đi, vẫn còn chứng bệnh phong
hủi gớm ghiếc ở trên người.
Mọi sự xảy ra như thể Đức Giêsu muốn thử thách Đức tin của họ,
có thể nói như thế. Và chúng ta nghĩ đến cùng một thử thách đức tin mà ngôn sứ
Êlisê bắt ông Na-a-man, gốc Xyri phải chịu khi yêu cầu ông này phải tự mình
thực hiện một biện pháp; điều này làm ông Na-a-man nổi giận!
Ngày nay đối với chúng ta cũng thế, đức tin thường là một thử
thách đi qua đêm tối và không thấy, không hiểu chúng ta phải trông cậy vào lời
Người. Chúng ta cầu xin Chúa để được giải thoát. Người hứa một ngày nào đó sẽ
giải thoát chúng ta. Và chúng ta phải tiếp tục đi theo con đường của chúng ta
với chỉ lời hứa của Người.
Đang khi đi thì họ được sạch
Một lần nữa, phép lạ hoàn thành trong sự kín đáo, ở một khoảng
cách xa Đức Giêsu. Khía cạnh "giật gân” lạ lùng mà chúng ta rất thích đã
cố tình bị làm cho mờ nhạt.
Chúng ta cũng ghi nhận những cộng hưởng tôn giáo của việc chữa
lành này, một việc chữa lành không được mô tả dưới khía cạnh y học: Đấy là một
sự "thanh luyện". Lời cầu xin của các bệnh nhân hầu như là lời phụng
vụ: “Xin thương xót chúng con". Đức Giêsu đã yêu cầu họ "trình diện
với các tư tế".
Xuyên qua sự chữa lành đặc biệt này, chúng ta được mời gọi nhận
ra một dấu chỉ. Đức Giêsu có thể thanh luyện tôi. Đức Giêsu có thể cứu tôi nữa.
Trước tiên chúng ta chớ xin Người những lợi ích vật chất
"Lạy Chúa Giêsu Kitô, xin hãy chữa lành tâm hồn con người hôm nay bằng
Mình và Máu Chúa".
Một người trong bọn, thấy mình được khỏi, liền quay trở lại
và lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa. Anh ta sấp mình dưới chân Đức Giêsu mà tạ ơn
“Vinh quang của Thiên Chúa! Hãy "cao giọng lên để" ca
ngợi vinh quang của Thiên Chúa!”
“Sấp mình xuống dưới chân"! Một cử chỉ mà những Người
phương Tây no nê không bao giờ làm nữa, trừ một vài người trẻ tuổi. Chúng ta có
cái bụng quá căng khó mà sấp mình sát đất được. Chúng ta tưởng rằng chúng ta
chỉ mang ơn chính mình, khả năng và công việc của mình, những tài sản mà chúng
ta thừa mứa. Chúng ta không ngạc nhiên khi thấy những người Hồi giáo có thể gập
mình làm đôi đến độ trán họ chạm vào mặt đất đó sao? Một ngày nào đó, bạn hãy
thử làm ở nhà bạn không cần ai thấy. Và trong tư thế đó của thân thể, hóa ra
không, bạn hãy để cho tư tưởng của bạn thoát đi đến những điều mà tư thế ấy hầu
như bắt buộc bạn thực hiện: Con không là gì cả con đã nhận tất cả. Lạy Chúa,
con đang ở trước mặt Chúa. Con chỉ là một kẻ quê mùa bẩn thỉu, một “Ađam".
Con chỉ là cát bụi trên mặt đất cát bụi này.
Trong Kinh Thánh, sự sấp mình xuống tận đất là một cử chỉ mà
người ta chỉ làm trước Thiên Chúa. Ở đây, người phong hủi được chữa lành đã sấp
mình sát đất "trước mặt Đức Giêsu”. Đức Giêsu tham dự vào vinh quang và sự
vô cùng của Thiên Chúa: Một mầu nhiệm còn ẩn giấu đằng sau nhân tính rất người
của Đức Giêsu!
"Mà tạ ơn!" "eucharistôn!", "trong khi
tham dự vào Thánh Thể "…
Ngày nay cũng thế, trong tiếng Hy Lạp hiện đại, "cám
ơn" thì nói "efkaristo". Thật là tai hại khi sự chuyển thể của
ngôn ngữ đã làm chúng ta mất dần ý nghĩa của các từ. Ai trong chúng ta khi nói
"tôi đến với Thánh Thể" thì một cách tự phát nghĩ rằng "tôi đến
tạ ơn"... tôi sẽ nói lời tạ ơn Thiên Chúa! Thánh lễ trước hết chính là
Giáo Hội bước vào một hành động cao cả, "hành động tạ ơn" Đức Giêsu
khi "Người ra khỏi thế gian này để về với Chúa Cha".
"Người cầm lấy bánh, người cầm lấy rượu, tạ ơn và nói: “này
là Mình Ta, này là Máu Ta, chịu nộp vì các con". Mọi bữa ăn của người Do
Thái và đặc biệt là bữa ăn lễ Vượt qua đều bắt đầu bằng một bài
"berakha" "kinh tạ ơn". Đức Giêsu được đào tạo trong tín
ngưỡng của dân tộc Người, đã không ngừng tạ ơn Thiên Chúa vì sự dịu dàng và
lòng nhân hậu của Người dựng nên thế giới bao la và xinh đẹp và cho chúng ta
biết bao điều tốt lành đặc biệt là lương thực để sống: (bánh và rượu). Người còn
giải thoát và cứu chuộc chúng ta. Chúng ta hãy biết ơn Người. Chúng ta không
còn biết cám ơn Thiên Chúa.. Chúng ta luôn miệng nói tiếng cám ơn vì lịch sự về
mọi việc, do thói quen mà không cần suy nghĩ ở bàn ăn, cửa hàng, trên đường
phố; cũng không để nó tạo ra một quan hệ với một ai. Vả lại việc nói cám ơn
phải làm chúng ta hiệp thông với một con người: thật ra, đó là một lời bộc lộ
tình yêu thương. Nói cám ơn, thông thường phải nhìn thẳng vào người đã làm cho
chúng ta hạnh phúc? Người phong hủi tội nghiệp của Tin Mừng, khi nhận được hạnh
phúc của mình, đã đi được một khoảng xa. Trong sự vui mừng ngây ngất, người ấy
muốn tìm lại khuôn mặt của Đức Giêsu. Anh ta đi ngược trở lại con đường. Anh
trở về với Người để nói với Người lời cám ơn! Và giờ đây, tôi thử tưởng tương
những cử chỉ, giọng nói và khuôn mặt của anh ta.
Anh ta lại là người Sa-ma-ri.
Vậy ra Người ngoại quốc, người dị giáo, người đáng khinh nhất đó
đã có cử chỉ nhân bản nhất, tự nhiên nhất.
Đức Giêsu mới nói: "Không phải cả mười người đều được
sạch sao? Thế thì chín người kia đâu? Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên
Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này?" Rồi Người nói với anh ta:
"Đứng dậy về đi! Lòng tin của anh đã cứu chữa anh.
Đối với Đức Giêsu, phép lạ này là một thất bại; bởi vì nó không tạo
ra hiệu quả mà Người có quyền chờ đợi: Đối với chín Người kia, phép lạ này
không tạo ra "đức tin". Điều thật sự đáng kể đối với Người. Và vì thế
Đức Giêsu rất buồn.
Người Kitô hữu thật sự phân biệt với tất cả các "tín đồ
khác không phải vì họ cầu nguyện, họ xin ơn và họ được ơn. Mà chính vì họ
"cảm tạ" Thiên Chúa qua Đức Giêsu Kitô. Cần phải đi từ đức tin sơ
đẳng chỉ biết cầu xin đến đức tin phát triển biết hướng về Đấng Khác (Tha Thể
Tuyệt Đối) để gặp gỡ thật sự Khuôn Mặt của Người.