MỘT CHÚT CHỨNG TỪ
Về Thông Điệp " Ánh Sáng Đức Tin"
Về Thông Điệp " Ánh Sáng Đức Tin"
Đức tin của tôi là như thế. Tôi phải
biết khiêm nhường đón nhận, tỉnh thức bảo vệ, siêng năng chăm sóc, và chân
thành diễn tả. Nhất là trong những thử thách cam go khủng khiếp đang và sẽ đổ
xuống lịch sử một cách bất ngờ.
1.
Trong thông điệp “Ánh Sáng Đức Tin”, do Đức
Giáo Hoàng Phanxicô mới ban hành ngày 29.6.2013 vừa qua, tôi thấy có một đoạn
lôi cuốn tôi một cách đặc biệt, đó là đoạn: “Đức tin như một thính giác và thị
giác” gồm ba số 29, 30, 31.
Đoạn đó lôi cuốn tôi một cách đặc biệt, bởi vì chính tôi
đã cảm nghiệm thấy đức tin trong tôi có một khả năng Chúa ban, để nhận ra Chúa.
Nhận ra tiếng của Người, nhận ra dung mạo của Người, nhận ra thánh ý của Người.
Tất nhiên, những nhận ra đó luôn nhận mình chỉ ở mức độ thấp và chỉ mang tính
cách riêng tư.
Cảm nghiệm đó xảy ra trong tôi đã từ rất lâu. Cho đến hôm
nay, đức tin trong tôi là một gặp gỡ với Chúa. Gặp gỡ đó rất riêng tư, rất thân
mật. Có nghe thấy, có nhìn thấy, có chạm đến.
Một đức tin như thế là một hồng ân siêu nhiên Chúa ban
cho tôi. Đức tin như thế đã trở thành ánh sáng hướng dẫn suốt hành trình cuộc đời
tôi.
2.
Trong tâm tình tạ ơn Chúa về hồng ân cao cả đó, tôi xin
phép nói lên đôi chút về cảm nghiệm đức tin như một thính giác và thị giác, mà
Đức Thánh Cha Phanxicô đã đề cập trong thông điệp Ánh Sáng Đức Tin.
Đôi chút cảm nghiệm này xin được chia sẻ những gì rất
riêng tư, nhất là trong đời Giám mục của tôi.
Tháng tư, năm 1975, tình hình miền Nam thay đổi từng giờ.
Một hôm, tôi được Đức Cha Cố Micae Nguyễn Khắc Ngữ đích thân tới thăm tại phòng
riêng của tôi. Ngài hỏi thăm tôi về tình hình sức khoẻ. Rồi với vẻ trân trọng,
Ngài cho tôi biết là Toà Thánh quyết định chọn tôi làm Giám mục phó giáo phận
Long Xuyên.
Tôi thực sự xấu hổ và hoảng sợ. Tôi xin Ngài thương cứu
tôi bằng cách trình với Toà Thánh là tôi xin được phép từ chối.
Ngài bình tĩnh trấn an tôi và quả quyết là sự chọn lựa của
Toà Thánh đã được cân nhắc. Tình hình rất nghiêm trọng, cần phải vâng lời. Rồi
Ngài ra về với lời ủi an khích lệ.
3.
Đang lúc bối rối, tôi chợt nhớ hôm đó là ngày thứ sáu, và
lúc đó là khoảng 3 giờ trưa. Tôi như nhìn thấy Chúa Giêsu trên thánh giá. Chúa
cho tôi thấy chỉ có tình yêu Chúa dám hy sinh đến cùng trên thánh giá mới cứu
được con người. Tôi như nghe Chúa kêu cầu: “Lạy Cha, con xin phó thác linh hồn
con trong tay Cha” (Lc 33,46).
Đức tin của tôi trong giờ phút bất ngờ trên đây là như
thính giác và thị giác. Tôi như nhìn thấy Chúa Giêsu. Tôi như nghe thấy những lời
Người nói. Hơn nữa, tôi như cảm được những tâm tình của Người.
Tôi nhìn thấy Người yêu thương tôi, mặc dầu tôi hèn hạ yếu
đuối. Tôi nhìn thấy trách nhiệm nặng nề và tình hình rất phức tạp. Tôi nhìn thấy
rõ chỉ Chúa Giêsu là Đấng Cứu Độ.
4.
Nhìn thấy, nghe thấy, cảm thấy là những gì đi sâu vào
trái tim, chứ không là lý thuyết. Trái tim được nhìn thấy, nghe thấy, cảm thấy
Chúa Giêsu, có thể coi như trái tim được chạm đến tình yêu Chúa. Đúng là một hồng
ân cao cả. Hồng ân cao cả ấy giúp tôi cậy trông phó thác mình cho tình yêu
Chúa, hướng về một tương lai được xác tín là tình yêu sẽ thắng.
Nhưng thắng của tình yêu Chúa được thể hiện trên nhục
hình thánh giá. Một tình yêu chịu đau khổ, để đền tội thay.
Đền tội thay cho những con người tội lỗi biết sám hối, và
cả cho những con người tội lỗi cố chấp.
5.
Cảnh Chúa Giêsu chịu treo trên thánh giá vì yêu thương giữa
một đám đông vẫn chọn tội lỗi hơn chọn sự sám hối, là một thực tế làm tôi quá sợ
hãi. Tôi cũng sẽ phải như thế sao?
Sự quá sợ hãi đó tôi chỉ thắng vượt được nhờ đức tin, một
đức tin là như nhìn thấy Chúa, như nghe thấy Chúa, như cảm được Chúa trên thánh
giá đã dấn thân đến cùng cho tình yêu. Qua đó, Chúa ban cho tôi ơn được tin vào
tình yêu thương xót Chúa. Tôi thắng vượt được sợ hãi, nhưng sợ hãi vẫn còn, khó
khăn vẫn chồng chất.
6.
Trong sợ hãi, tôi cầu nguyện thực nhiều, một cách rất đơn
sơ. Đột nhiên, tôi nhớ tới câu chuyện đã xảy ra cho mẹ tôi 48 năm về trước.
Chuyện đó vẫn được mẹ kể đi kể lại như một sự lạ lùng.
Đại khái thế này:
Khi mẹ tôi mang thai tôi, bố mẹ tôi vẫn có thói quen lần
chuỗi chung trước khi ngủ. Tối hôm đó, đọc kinh xong, mẹ vào mùng ngồi đọc kinh
riêng. Bỗng mẹ thấy một cây nến cháy xuất hiện giữa nhà. Mẹ sửng sốt, tiếp tục
đọc kinh. Bỡ ngỡ tiếp theo sửng sốt: Mẹ thấy một chiếc ghế trống xuất hiện sau
cây nến. Mẹ hết sức hoảng hồn, khi thấy một người không rõ mặt đến ngồi vào ghế.
Người đó mặc phẩm phục giám mục. Mẹ chưa hiểu gì, thì thấy Đức Mẹ hiện ra đứng
đàng sau vị giám mục đó, một tay để trên vai ngài. Mẹ vui mừng tiếp tục đọc
kinh. Một lát sau, tất cả cảnh lạ đó đều biến đi. Mẹ vội gọi bố, và kể lại những
gì đã thấy. Nhưng bố không tin. Còn mẹ thì tin là mình đã thấy thực sự. Mẹ bùi
ngùi không hiểu những gì mẹ được thấy có ý nghĩa gì.
7.
Bây giờ, trong giờ phút sợ hãi vì được gọi làm giám mục,
chuyện đó hiện lên trong tôi như một ánh sáng. Tôi nhìn thấy Chúa nhìn tôi ngay
khi tôi còn trong lòng mẹ. Tôi như nghe được tiếng Chúa gọi tên tôi. Tôi cảm thấy
bàn tay Mẹ Maria đang đặt trên vai tôi lúc này, để ủi an và che chở tôi. Tôi
tin vào Chúa. Đức tin của tôi lúc này là khả năng nhìn thấy, nghe thấy, cảm thấy
Chúa Giêsu. Tất cả đều rất riêng tư. Tôi xác tín tôi được Chúa yêu thương, mặc
dầu tôi tội lỗi, sẽ bơi lội vụng về trong dòng lịch sử đầy sóng gió.
8.
Trong tâm tình cảm tạ và phó thác, tôi thầm thưa với Chúa
là suốt đời tôi sẽ làm chứng cho niềm tin vào Chúa. Niềm tin ấy sẽ như ngọn lửa
bé nhỏ. Để chọn biểu tượng, tôi chọn cây nến cháy, như hình ảnh mẹ tôi đã thấy
48 năm về trước. Tôi chỉ mong mình được là ngọn lửa bé nhỏ như thế thôi. Nhưng
rồi, đức tin của tôi không ngừng lại ở những gì mình đã được thấy, được nghe,
được cảm về Chúa. Do biến cố sau đây:
9.
Mấy ngày sau khi thụ phong Giám mục, một đêm tôi gặp được
Chúa Giêsu. Người cầm tay tôi, dẫn vào một bệnh viện rộng lớn. Người đưa tôi
qua các phòng bệnh. Bệnh nhân nằm la liệt, quằn quại trong đau khổ. Tôi cảm thấy
xót xa. Tôi đau nỗi đau của họ. Và một lúc, lòng tôi như muốn vỡ ra. Tôi bừng tỉnh,
tôi thấy lửa đức tin trong tôi đã biến thành lửa tình yêu thương xót dành cho
những người đau khổ.
10.
Lửa tin yêu ấy khiến tôi nhiều khi phải cô đơn, như bị loại
trừ. Trong cơn đau đớn, tôi kêu kên: “Lạy Cha, sao Cha nỡ bỏ con” (Mc 15,34).
Và tôi hiểu lửa tin yêu trong lòng tôi được cảm nghiệm như một sự chia sẻ thân
phận những người cùng cực nhất. Họ khổ lắm. Họ lầm than lắm.
11.
Tới đây, tôi xin phép được kết luận thế này: Đức tin
trong tôi có một phần rất lớn là khả năng Chúa ban để thấy được, nghe được, chạm
tới được và nhận ra được Chúa Giêsu.
Đức tin ấy là một ngọn lửa.Ngọn lửa đó không những soi
sáng, mà còn thanh luyện và đốt nóng, thúc đẩy tôi đi ra khỏi cái tôi, để đến với
Chúa và đến với con người, nhất là con người cùng khổ. Đức tin đó là một cuộc
xuất hành.
12.
Lửa đức tin đó từ đâu? Chúa Giêsu phán: “Thầy đã đem lửa
vào thế gian, và Thầy chỉ mong lửa ấy cháy bùng lên” (Lc 12,49). Thế nghĩa là lửa
đức tin trong tôi là do Chúa Giêsu đốt lên. Người đốt lên và Người ở trong đó.
Nhờ lửa đức tin ấy, tôi biết biến đổi mọi đau đớn tôi chịu thành những việc yêu
thương có giá trị cứu độ. Cũng nhờ lửa đức tin ấy, tôi đi về Cõi Sau, từng bước
theo Chúa Giêsu, trong niềm phó thác tuyệt đối vào Cha trên trời giàu tình yêu
thương xót.
Đức tin của tôi là như thế. Tôi phải biết khiêm nhường
đón nhận, tỉnh thức bảo vệ, siêng năng chăm sóc, và chân thành diễn tả. Nhất là
trong những thử thách cam go khủng khiếp đang và sẽ đổ xuống lịch sử một cách bất
ngờ.
Chúa ơi! Con nay thuộc về Chúa. Xin Chúa thương dắt dìu
con.
ĐGM. GB Bùi Tuần