Tìm hiểu Lời Chúa _ cnps 4c

CHÚA NHẬT 4 PHỤC SINH - NĂM C
Cv 13,14.43-52; Kh 7,9.14b-17; Ga 10,27-30
BÀI ĐỌC I: Cv 13,14.43-52
            14 Ngày ấy hai ông Phao-lô và Ba-na-ba rời Péc-ghê tiếp tục đi An-ti-ô-khi-a miền Pi-xi-đi-a.Ngày sa-bát,hai ông vào hội đường ngồi tham dự.
                43 Tan buổi họp, có nhiều người Do-thái và nhiều người đạo theo, tức là những người tôn thờ Thiên Chúa, đi theo hai ông. Hai ông nói chuyện với họ và khuyên nhủ họ gắn bó với ơn Thiên Chúa.
                44 Ngày sa-bát sau, gần như cả thành tụ họp nghe lời Thiên Chúa. 45 Thấy những đám đông như vậy, người Do-thái sinh lòng ghen tức, họ phản đối những lời ông Phao-lô nói và nhục mạ ông. 46 Bấy giờ ông Phao-lô và ông Ba-na-ba mạnh dạn lên tiếng: "Anh em phải là những người đầu tiên được nghe công bố lời Thiên Chúa, nhưng vì anh em khước từ lời ấy, và tự coi mình không xứng đáng hưởng sự sống đời đời, thì đây chúng tôi quay về phía dân ngoại.47 Vì Chúa truyền cho chúng tôi thế này: Ta sẽ đặt ngươi làm ánh sáng muôn dân, để ngươi đem ơn cứu độ đến tận cùng cõi đất."
            48 Nghe thế, dân ngoại vui mừng tôn vinh lời Chúa, và tất cả những người đã được Thiên Chúa định cho hưởng sự sống đời đời, đều tin theo.49 Lời Chúa lan tràn khắp miền ấy.
            50 Nhưng người Do-thái sách động nhóm phụ nữ thượng lưu đã theo đạo Do-thái, và những thân hào trong thành, xúi giục họ ngược đãi ông Phao-lô và ông Ba-na-ba, và trục xuất hai ông ra khỏi lãnh thổ của họ.51 Hai ông liền giũ bụi chân phản đối họ và đi tới I-cô-ni-ô. 52 Còn các môn đệ được tràn đầy hoan lạc và Thánh Thần.
ĐÁP CA: Tv 99
Đ. 3c Ta là dân Chúa, là đoàn chiên Người dẫn dắt.
1 Hãy tung hô Chúa, hỡi toàn thể địa cầu,2 phụng thờ Chúa với niềm hoan hỷ,vào trước thánh nhan Người giữa tiếng hò reo.
3 Hãy nhìn nhận Chúa là Thượng Đế, chính Người dựng nên ta, ta thuộc về Người, ta là dân Người, là đoàn chiên Người dẫn dắt.
5 Bởi vì Chúa nhân hậu, muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương, qua bao thế hệ, vẫn một niềm thành tín.
BÀI ĐỌC II: Kh 7,9.14b-17
                9 Tôi là Gio-an, tôi thấy một đoàn người thật đông không tài nào đếm nổi, thuộc mọi dân, mọi chi tộc, mọi nước và mọi ngôn ngữ. Họ đứng trước ngai và trước Con Chiên, mình mặc áo trắng, tay cầm nhành lá thiên tuế. 14b Họ là những người đã đến, sau khi trải qua cơn thử thách lớn lao. Họ đã giặt sạch và tẩy trắng áo mình trong máu Con Chiên.15 Vì thế, họ được chầu trước ngai Thiên Chúa, đêm ngày thờ phượng trong Đền Thờ của Người; Đấng ngự trên ngai sẽ căng lều của Người cho họ trú ẩn. 16 Họ sẽ không còn phải đói, phải khát, không còn bị ánh nắng mặt trời thiêu đốt và khí nóng hành hạ nữa.17 Vì Con Chiên đang ngự ở giữa ngai sẽ chăn dắt và dẫn đưa họ tới nguồn nước trường sinh. Và Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ."
TUNG HÔ TIN MỪNG: Ga 10,14
Hall-Hall: Chúa nói: Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Tôi biết chiên của tôi, và chiên của tôi biết tôi. Hall.
TIN MỪNG: Ga 10,27-30
            Khi ấy, Đức Giê-su nói với người Do-thái rằng: 27 "Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi; tôi biết chúng và chúng theo tôi.28 Tôi ban cho chúng sự sống đời đời; không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai giựt được chúng khỏi tay tôi.29 Cha tôi, Đấng đã ban chúng cho tôi, thì lớn hơn tất cả, và không ai giựt được chúng khỏi tay Chúa Cha.30 Tôi và Chúa Cha là một."
CHỦ CHIÊN VÀ CHIÊN
            Chúa nhật này được gọi là Chúa nhật “Ơn Thiên Triệu”, nhằm mục đích quy tụ muôn dân thành một “đoàn chiên của Thiên Chúa”. Muốn làm thế giới này này mọi người trở nên một đoàn chiên của Chúa:
-          Ta phải nhận biết Chúa Giê-su là Vị Mục Tử nhân lành của loài người có một không hai.
-          Ta phải đặt chỉ tiêu cho mình trở thành chiên ngoan của Mục Tử Giê-su.
-          Ta phải trở thành mục tử cho đồng loại theo mẫu gương Chúa Giê-su.
I. NHẬN BIẾT CHÚA GIÊ-SU LÀ Vị MỤC TỬ NHÂN LÀNH CỦA LOÀI NGƯỜI CÓ MỘT KHÔNG HAI.
            Đức Giê-su nói về những người có trái tim nghe Lời Ngài: “Tôi ban cho chúng sự sống đời đời, không bao giờ chúng bị diệt vong, không ai giựt được chúng khỏi tay tôi. Cha tôi, Đấng đã ban chúng cho tôi, thì lớn lao hơn tất cả, và không ai giựt được chúng khỏi tay Cha tôi. Tôi và Cha tôi là một” (Ga 10,28-30: Tin Mừng).
                  * “Tôi ban cho chúng sự sống đời đời” (x. Ga 10,28a): Đối với những ai được kết hợp nên một với Chúa Giê-su, đặc biệt qua Bí tích Khai tâm, kiên trì sống đức ái trong Hội Thánh (x. HCHT số 14), thì họ có chết cách nào cũng sẽ được sống lại vinh hiển muôn đời (x. Ga 6,54). Bởi đó, ai đã được Chúa Ki-tô cứu độ, thì cái chết thể lý của họ trước mặt Chúa chỉ là một giấc ngủ (x. Mc 5,39).
                  * “Không bao giờ chúng bị diệt vong” (x. Ga 10,28b): Diệt thì khác với giết. Diệt là mất cả hồn lẫn xác, còn giết thì chỉ hại được thân xác ở đời này mà thôi. Vì vậy Đức Giê-su nói với các môn đệ khi họ phải đương đầu với những quyền lực sự ác: “Đừng sợ những kẻ giết được thân xác, nhưng không thể giết được linh hồn; hãy sợ Đấng có thể diệt cả hồn lẫn xác trong hỏa ngục” (Mt 10,28). Đó là lý do một bà mẹ có bảy người con bị vua hành quyết trước mặt bà, vì không theo lệnh vua bỏ Lề Luật Chúa mà thờ thần của vua. Bà ghé miệng vào tai con thì thầm: “Mẹ không rõ các con đã thành hình trong bụng mẹ thế nào. Không phải mẹ ban cho các con Thần Khí và sự sống. Cũng không phải mẹ sắp đặt các phần cơ thể cho mỗi người trong các con. Chính Đấng Tạo Hóa càn khôn đã nắn đúc nên loài người, và đã sáng tạo nguồn gốc muôn loài. Chính Người do lòng thương xót, cũng sẽ trả lại cho các con Thần Khí và sự sống, bởi vì bây giờ các con trọng Lề Luật của Người hơn bản thân mình. Con ơi, con hãy thương mẹ: chín tháng cưu mang, ba năm bú mớm, mẹ đã nuôi nấng dạy dỗ con đến ngần này tuổi đầu. Mẹ xin con hãy nhìn xem trời đất và muôn loài trong đó, mà nhận biết rằng Thiên Chúa đã làm nên tất cả từ hư vô, và loài người cũng được tạo thành như vậy. Con đừng sợ tên đao phủ này; nhưng hãy tỏ ra xứng đáng với các anh con, mà chấp nhận cái chết, để đến ngày Chúa thương xót, Người sẽ trả con và các anh con cho mẹ” (2Mcb 7,22-23.27-29).
                  * “Không ai giựt được chúng khỏi tay tôi” (x. Ga 10,28c): Đức Giê-su hữu ý dùng động từ giựt này, vì muốn ám chỉ Ngài là ông Hô-sê mới gìn giữ người nghe Lời Ngài hơn ông Hô-sê đã gìn giữ bà vợ Gô-mơ mang tính dâm đãng: Ta biết vào thời Cựu Ước, người đàn ông có nhiều đặc quyền trong hôn nhân: họ có quyền lấy nhiều vợ, và muốn rẫy từ người vợ nào tùy ý họ, khi họ khám phá ra bà nào có bất cứ điều gì không vừa ý. Thế mà ông Hô-sê không dùng những đặc quyền này, ông chỉ trung thành và quyết tâm gìn giữ người vợ dâm đãng. Đã nhiều phen ông bắt gặp vợ trong vòng tay tình lang, ông vẫn dụ bà vào nơi vắng vẻ, lòng kề lòng thỏ thẻ tâm sự và tặng nhiều báu vật. Nhưng vợ ông vẫn ngựa quen đường cũ. Ông mới nghĩ ra kế: “Phen này ta sẽ lột trần cái đĩ già của vợ ta trước mặt các gã tình lang, để không ai giựt được nó khỏi tay ta” (Hs 2,12: Bản dịch NTT).
            Chắc chắn do ơn Chúa gìn giữ ông Hô-sê sống trung thành với người vợ bất trung như thế, để Chúa dùng ông báo trước về tình yêu của Thiên Chúa dành cho những ai yêu mến nghe Lời Ngài và tuân giữ, dù nơi họ còn có điều bất xứng (x. Rm 7, 18-19). Cũng không sự dữ nào có thể giựt được họ khỏi tay Chúa Con và Chúa Cha. Đó là lý do khi Đức Giê-su thấy chị Matta băn khoăn, bận rộn lo phục vụ bữa ăn thiết đãi Ngài, và chị đã tỏ ra bất mãn khi thấy cô em Maria cứ ngồi dưới chân Thầy Giê-su để nghe giảng dạy, thì Ngài đã cảnh tỉnh chị: “Matta, Matta, con lo lắng xôn xao về nhiều chuyện quá, chỉ có một điều cần thôi, Maria em con đã chọn phần tốt nhất, và không bị ai giựt mất” (Lc 10,38-42).
            Trước năm 1975, một anh phi công đem lòng thương mến một cô lầm lạc làm nghề bán thân. Anh hy vọng cưới cô về, cô cảm nhận được lòng quảng đại và yêu thương của chồng và cô sẽ từ bỏ nếp sống cũ. Ai ngờ sau những ngày cưới không bao lâu, anh phải ra chiến trường, vì có việc riêng anh phải trở về nhà, anh hoảng hốt bắt gặp quả tang cô vợ đang trong vòng tay người tình. Anh chịu không nổi, đã rút súng kết liễu hai mạng người! Đời là thế, Chúa thì khác hẳn!
                  * “Cha tôi, Đấng đã ban chúng cho tôi, thì lớn lao hơn tất cả” (Ga 10,29a): Lý do Đức Giê-su đã nói với các môn đệ: “Những gì của Thầy là của Cha, và của Cha cũng là của Thầy” (Ga 17,10), và “mọi quyền năng trên trời dưới đất Cha đã trao vào tay Thầy” (Mt 28,18). Nhưng trong những quà tặng Chúa Cha trao vào tay Chúa Con, thì không có gì Đức Giê-su yêu quý hơn “những người Cha đã lấy từ trong thế gian mà ban cho Con, và Con đã ban lại cho chúng những Lời của Cha, và chúng đã giữ Lời Cha” (x. Ga 17,6-8). Bởi thế Đức Giê-su gìn giữ họ không bị sự dữ nào giựt được họ khỏi tay Ngài.
                  * “Không ai giựt chúng khỏi tay Cha tôi. Tôi và Cha tôi là một” (Ga 10,29b-30): Như vậy người có trái tim nghe và thực hành Lời Chúa, họ ở trong vòng tay quyền năng yêu thương của Chúa Con và Chúa Cha, để không sự dữ nào giựt được họ khỏi tay Chúa Con (x. Ga 10,28c) và cũng không ai giựt được họ khỏi tay Chúa Cha (x. Ga 10,29b). Bởi vì cả Chúa Con và Chúa Cha cùng một quyết tâm gìn giữ họ.
            Hình ảnh “chiên ở trong tay Con và tay Cha” còn gợi nhớ đến Tv 139/138, 5-10: “ Chúa chặn con trước (tay Chúa Con), Ngài ngừa con sau (tay Chúa Cha). Bàn tay của Ngài (Con và Cha) đặt trên con mãi, và tay hữu Ngài (quyền năng và yêu thương) nắm lấy con”.
II. TA PHẢI ĐẶT CHỈ TIÊU CHO MÌNH TRỞ THÀNH CHIÊN NGOAN CỦA MỤC TỬ GIÊ-SU.
            Muốn trở thành chiên ngoan của Mục Tử Giê-su, người Ki-tô hữu phải:
                  - Nghe Lời Chúa.
                  - Thanh tẩy mình bằng Lời Chúa và bằng máu đào.
                  - Nên một trong Chúa Giê-su Phục Sinh.
                  a- Ta biết nghe Lời Chúa, như Lời Đức Giê-su nói: “Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi” (Ga 10,27: Tin Mừng), vì chiên của Mục Tử Giê-su không phải do dòng giống xác thịt nào sinh ra, mà là những người được thanh tẩy bởi Lời Chúa (x. Ga 15,3), và cũng bởi Lời Chúa được tái sinh trở nên của lễ đầu mùa dâng tiến Chúa (x. Gc 1,18).
            Bài đọc I đã xác định điều này: Bất cứ ai – người Do-thái (dòng giống các đấng thánh tổ phụ như ông Ab-ra-ham, Gia-cóp…), hay dân ngoại được ví như con chó (x. Mt 15,21t) mà biết nghe Lời Chúa qua các chủ chăn của Hội Thánh (x. Ga 18, 19-21; Lc 10,16), thì họ đều là chiên của Thiên Chúa. Trái lại, kẻ nào chống đối không muốn nghe Lời Chúa, thì cho dù họ có cùng huyết thống với tổ phụ Ab-ra-ham, Gia-cóp cũng sẽ bị loại ra khỏi đoàn chiên của Thiên Chúa! (x. Cv 13,14-52: Bài đọc I).
                  b- Ta được thanh tẩy không phải chỉ bằng Lời mà còn được thanh tẩy nhờ kết hợp với Chúa Giê-su, ta phục vụ Tin Mừng đến đổ máu. Thực vậy, ông Phao-lô và ông Bar-na-ba nhiệt tâm rao giảng Lời Chúa, đã chấp nhận đổ máu vì người Do-thái ghen ghét, loại trừ (x. Cv 13,44.50: Bài đọc I). Người như thế mới được nhập vào “một đoàn người thật đông không tài nào đếm nổi, thuộc mọi dân, mọi chi tộc, mọi nước và mọi ngôn ngữ. Mặc áo trắng tay cầm ngành lá vạn tuế, sau khi trải qua cơn thử thách lớn lao, họ đã giặt sạch và tẩy trắng áo mình trong Máu Con Chiên. Nên họ được chầu trước ngai Thiên Chúa, đêm ngày thờ phượng trong Đền Thờ của Người (dự Phụng Vụ); Đấng ngự trên ngai sẽ căng lều của Người cho họ trú ẩn (Chúa che chở).… Vì Con Chiên (Chúa Giê-su Phục Sinh) đang ngự ở giữa ngai sẽ chăn dắt và dẫn đưa họ tới nguồn nước trường sinh. Và Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ” (Kh 7,9.14b-17: Bài đọc II).
                  c- Ta nên một trong Chúa Giê-su Phục Sinh, được diễn tả qua hình ảnh vợ chồng gắn bó với nhau và cùng đồng hành, như lời Chúa Giê-su nói: “Tôi biết chúng và chúng theo tôi.” (Ga 10,27b)
·         Biết’’ trong Thánh Kinh là sống đời vợ chồng với nhau. (x. St 4,1; Lc 1,34). Chúa biết ta từ lúc ta lãnh Bí tích Thánh Tẩy, ta đã trở nên Hiền Thê của Ngài (x. 2Cr 11,2)
·         Chiên theo Mục Tử” không phải bị bạo lực lôi kéo, mà vì từ nơi chủ chiên toát ra hấp lực sự sống. Ví dụ bạn ôm bó cỏ đi vào giữa đàn dê, tức khắc cả đàn dê theo sau bạn, vì hấp lực sự sống thúc bách chúng đi theo bạn. Cũng vậy, một đoàn lũ dân chúng đông đảo kể không xiết chạy đi tìm Đức Giê-su, cũng chỉ vì họ biết Ngài dư quyền cho họ được no bụng! Nhưng Ngài phải dẫn họ đến dự tiệc Thánh Thể là của ăn thật, mới cho họ sự sống đời đời vinh quang (x. Ga 6,22-26).
Lý do quan trọng hơn ta phải theo Chúa Giê-su để được Ngài bảo vệ, và Ngài còn biến dữ ra lành cho ta. Ta biết cả một bầy chiên không thể chống cự lại một con sói hay con sư tử, vì chúng có nanh vuốt sắc bén, lại nhanh như cắt và rất mạnh; trong khi chiên không có răng nanh ăn thịt, không có sừng, không có vuốt chống đối thủ. Bởi đó chiên phải theo chủ mới được an toàn.
Ông Phao-lô tuy là cột trụ Hội Thánh, ông giáo dục được nhiều giáo đoàn, nhưng ông không thắng được tính yếu đuổi của bản thân, ông đã thú nhận với giáo đoàn Roma: “Chẳng có gì lành cư ngụ trong tôi, sự lành tôi muốn tôi không làm, còn sự dữ tôi không muốn tôi lại cứ làm” (Rm 7,18-19). Ông Phê-rô đã nói: “Ma quỷ thù địch của anh em, nó như sư tử gầm thét rảo quanh tìm mồi cắn xé anh em” (1Pr 5,8), làm sao ông Phao-lô có thể thắng được con người yếu đuối của mình? Bởi đó ông chỉ còn biết cầu nguyện và bám chặt lấy Chúa như lời ông nói: “Đã ba lần tôi nài xin Chúa nó rời khỏi tôi. Nhưng Ngài đã phán bảo tôi: ơn Ta đủ cho ngươi. Vì chưng quyền năng được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối”. Vì thế ông Phao-lô lại tự hào về sự yếu đuối của mình, nhờ ông đi theo Chúa. Ông nói: “Khi tôi yếu chính là lúc tôi mạnh” (2 Cr 12,7-10).
      Người như thế mới đúng là chiên của Thiên Chúa, được Ngài cứu độ.
III. TA PHẢI TRỞ THÀNH MỤC TỬ CHO ĐỒNG LOẠI THEO MẪU GƯƠNG CHÚA GIÊ-SU.
            Chúa nói: “Ta sẽ đặt ngươi làm ánh sáng muôn dân, để ngươi đem ơn cứu độ của Ta đến tận cùng cõi đất” (Cv 13,47: Bài đọc I). Để làm mục tử đem ánh sáng Tin Mừng cứu độ đến cho muôn dân, ta hãy bắt chước Mục Tử Giê-su trong ba việc:
-          Chia sẻ Lời Chúa cho đồng loại.
-          Hy sinh mạng sống vì đem Tin Mừng cho đồng loại.
-          Phó thác việc trong tay Chúa và cầu nguyện cho đồng loại.
            1/ Chia sẻ Lời cho đồng loại. Đức Giê-su thưa với Chúa Cha về các môn đệ Ngài: “Các Lời của Cha đã ban cho Con, Con đã ban lại cho chúng, chúng đã chịu lấy và nhận thật rằng Con đã xuất tự Cha, cùng đã tin rằng chính Cha đã sai Con” (Ga 17,8).
            Vậy người mục tử của Chúa Giê-su có một ngôn ngữ riêng từ trời ban cho, đó là tiếng kêu đặc thù để chăn dắt chiên. Trong nghề chăn chiên, khi lùa chúng ra khỏi chuồng, mỗi mục tử có âm thanh riêng, chiên của chủ nào thì theo tiếng kêu đó mà theo chủ, nó không theo người lạ, vì chiên nhận biết tiếng người lạ (x. Ga 10, 4b-5). Vì vậy mà mục tử Phê-rô dạy chúng ta: “Ai có nói thì nói Lời Thiên Chúa, ai phục vụ thì phục vụ bằng sức lực Chúa ban, trong mọi việc chúng ta mới tôn vinh Thiên Chúa, nhờ Đức Giê-su Ki-tô” (1 Pr 4,11).
2/ Hy sinh mạng sống vì đem Tin Mừng cho đồng loại. Người mục tử vừa làm gương, vừa đem thân đỡ đạn bảo vệ đoàn chiên. Do đó, “người mục tử đi trước và chiên theo sau” (x. Ga 10,4a). Hình ảnh này có hai ý:
a-    Mục tử đi trước là để nêu gương cho chiên. Chính Đức Giê-su đã làm gương cho mọi hoạt động của Hội Thánh, nên ông Luca khi viết lịch sử Hội Thánh (sách Công vụ), ông mở đầu bằng câu: “Đức Giê-su làm rồi mới dạy” (Cv 1,1).
b-    Mục tử đi trước để che chở chiên khỏi bị thú dữ vồ. Mục tử đàn chiên không phải là kẻ chăn bò, chăn trâu, vì người chăn đi sau trâu bò dùng roi quật vào chúng để bắt chúng đi.
Ông Đavid, dù chỉ là cậu bé chăn chiên nhưng đã trở nên thủ lãnh dân Do-thái, vì khi đoàn quân Do-thái ra nghênh chiến với quân Philitinh có Golyat, tướng mạo oai phong lẫm liệt dẫn đầu. Ông Đavid chạy về phía đầu đoàn quân Do-thái để chiến đấu với đối phương, Golyat thì cao lớn với áo giáp và gươm sắc, làm sao Đavid dám đọ sức, vì Đavid chỉ có chiếc nỏ với năm viên sỏi. Nhưng ông đã thách thức Golyat, vì tin tưởng vào Chúa như lời ông nói: “Mày đánh tao bằng gươm với giáo và đao phóng, phần ta, ta đến đánh mày với danh Thiên Chúa các cơ binh” (1Sm 17,45).
Hai thánh Tông Đồ Phao-lô và Barnaba trên đường truyền giáo cũng can đảm như ông Đavid, nên dù hai ông bị những người Do-thái ngược đãi, cũng không làm cho các ông thối chí trên đường phục vụ Tin Mừng (x. Cv 13, 14.43-52: Bài đọc I).
3/ Người mục tử của Chúa Giê-su phó thác công việc phục vụ trong tay và cầu nguyện cho mọi người. Cụ thể hai ông Phao-lô và Barnaba khi bị dân Do-thái chống đối không nghe các ngài giảng để tin vào Chúa Giê-su, thì các ông quay sang dân ngoại, làm dân ngoại hết sức vui mừng, vì tất cả những người này cũng được Thiên Chúa ban cho hưởng sự sống đời đời. Trái lại người Do-thái xách động nhóm phụ nữ thượng lưu đã theo đạo Do-thái và những thân hào trong thành xúi giục họ trục xuất Phao-lô và Barnaba ra khỏi lãnh thổ của họ. Hai ông liền rũ bụi chân phản đối, rồi đi tới Ikonium, lòng các ông đầy tràn hoan lạc và Thánh Thần. (x. Cv 13,48-52: Bài đọc I).
Việc các Tông Đồ rũ bụi chân ra đi, là hình ảnh những người Do-thái sau khi rời vùng đất dân ngoại trở về quê hương, họ làm cử chỉ này để minh xác rằng: dù họ tới vùng dân ngoại, nhưng không nhiễm lây thờ tà thần như dân ngoại, thậm chí bụi không để bám vào chân! Như vậy hai ông Phaolo và Barnaba rũ bụi chân trước mặt người Do-thái chống đối Tin Mừng, là các ông cảnh cáo họ có lối sống như dân ngoại. Mà dân ngoại lại được Đức Giê-su quan tâm, hay lui tới, dù Luật không cho phép (x. Mt 4, 15; 8, 5t; 15, 21t)
Một anh Công Giáo mồ côi cha mẹ từ bé, anh không có nơi nương tựa. Nhiều lúc quá đói anh phải ăn cắp vặt để sống qua ngày! Nhưng nhiều phen anh bị công an bắt được, anh ra tù vào khám như cơm bữa. Vào trại tù gặp những tay giang hồ khét tiếng dạy anh nhiều mánh khóe lưu manh hơn. May có lần anh được ở chung với một số tù nhân chính trị, họ là những người có ý chí và giàu nghị lực, họ đã dạy anh phải cố gắng vươn lên bằng đôi tay với sức mình mà sống, chứ đừng sống nhờ vào của ăn ắp.
Sau khi mãn hạn tù, anh trở về đi làm phụ hồ, dù lương ít nhưng cũng đủ sống qua ngày, và đã từ bỏ nếp sống cũ. Anh thuê một phòng trọ, ngày kia anh gặp một người bạn đạo Phật từ quê lên tỉnh cũng làm nghề phụ hồ như anh, thế là hai anh trở nên bạn bè thân thiết. Ngày kia, chủ nhà kêu mất đồ, họ đi báo công an, và công an ập tới phòng hai anh khám xét, và họ đã tìm được tang vật trong rương của anh Phật giáo. Công an liền lập biên bản. Anh Công Giáo biết chắc rằng bạn mình sẽ vào tù, mà vào tù thì học nhiều thói xấu hơn trước, anh đã có kinh nghiệm này, nên không muốn để bạn mình vào tù. Lúc đó anh rỉ tai người bạn Phật Giáo: “Tôi sẽ nhận tội thế cho anh, với điều kiện từ nay anh phải từ bỏ hẳn thói ăn cắp”.Thế rồi, anh nói với công an: “Chính tôi chủ mưu lấy món đồ đó và tôi giấu vào rương của bạn tôi”. Thế là anh bị công an còng tay đưa đi. Khi ra tòa, tòa án đã biết anh này đã từng ra tù vào khám, nên lần này tòa xử anh nặng hơn những lần trước: 10 năm tù giam! Anh Phật Giáo thấy bạn quá tốt, anh vô cùng hối hận, từ bấy giờ anh không bao giờ ăn cắp nữa và tận tâm làm việc nhiều hơn để kiếm thêm chút tiền thăm nuôi người bạn, nhất là anh đã xin theo đạo Công Giáo như bạn anh. Thế ra người ta nói: “Cái khó nó ló cái khôn”. Anh Công Giáo mồ côi, qua gian khổ anh lại trở thành mục tử cho bạn mình được gặp Chúa và sống lương thiện”.
            Là mục tử được Chúa Giê-su chọn, ta hãy noi gương thánh Phao-lô khi bị bắt, ông rất thương những người còn ở lại: "Giờ đây, tôi xin phó thác anh em cho Thiên Chúa và cho Lời ân sủng của Người, là Lời có sức xây dựng và ban cho anh em được hưởng phần gia tài cùng với tất cả những người đã được thánh hiến”. Mọi người ôm lấy ông Phao-lô rồi oà lên khóc, vì họ sẽ không còn được nhìn thấy ông nữa! (x. Cv 20,32t)
THUỘC LÒNG.
            Tôi phải sống đạo sao cho lương dân níu lấy áo tôi mà nói: Chúng tôi muốn đi theo anh, vì chúng tôi đã nghe biết rằng Thiên Chúa ở với anh! (Dcr 8,23)