“Nơi
đâu ta càng thấy có nhiều ơn gọi linh mục và tu sĩ, nơi đó người ta đang sống
Tin Mừng với sự quảng đại lớn lao.” (Đức Phaolô VI, Sứ Điệp Radio, 11 tháng 4
năm 1964).
“Theo
Đức Giêsu cũng có nghĩa là giao nộp chính chúng ta cho Ngài, sống trong tình
thân mật với Ngài, và nhờ Ngài đi vào sự hiệp thông với Chúa Cha trong Chúa
Thánh Thần, và cũng là với anh chị em chúng ta. Sự hiệp thông đời sống với Đức
Giêsu là một “tình trạng” đặc ân, nơi đó chúng ta có thể kinh nghiệm được niềm
hy vọng và nơi đó đời sống chúng ta trở nên tròn đầy và tự do.” Đó là lời của Đức
Thánh Cha Biển Đức XVI trong thông điệp gửi cho toàn thể dân Chúa nhân Ngày Thế
Giới Cầu Nguyện Cho Ơn Gọi lần thứ 50 sẽ được cử hành vào Chúa Nhật Thứ Tư Phục
sinh, 21-4-2013. Sứ điệp này được Đức Thánh Cha Biển Đức 16 công bố ngày 15
tháng 12 năm 2012, sau đây là nội dung toàn bộ Sứ Điệp.
Anh
chị em thân mến,
Nhân
dịp lần thứ 50 ngày Thế Giới Cầu Cho Ơn Gọi, được tổ chức vào ngày 21 tháng 4
năm 2013, Ngày Chúa Nhặt Thứ 4 Phục Sinh, tôi muốn mời gọi các bạn phản tỉnh về
chủ đề: Ơn gọi, dấu chỉ hy vọng đặt nền tảng trên đức tin, được diễn ra trong
năm Đức Tin cùng với dịp kỷ niệm 50 năm khai mạc công Đồng Vaticano II. Trong
khi Công Đồng đang họp, Tôi tớ Chúa, Đức Phaolô VI, đã thiết lập ngày toàn thể
Giáo hội cầu nguyện cho ơn gọi. Vào ngày này, mọi người được mời gọi để cầu
nguyện với Thiên Chúa là Cha, xin Ngài tiếp tục sai các thợ gặt đến với Giáo Hội
(Mt 9,38). Tại thời điểm đó, Ngài nói rằng: “Vấn đề có đủ số lượng các linh mục
có một ảnh hưởng trực tiếp đến mọi tín hữu, không chỉ vì linh mục là nền tảng của
xã hội Kitô giáo trong tương lai, nhưng hơn thế, việc có đủ số linh mục là một
dấu chỉ rõ ràng của sức sống đức tin và là dấu chỉ tình yêu thương của mỗi giáo
xứ cũng như các cộng đoàn giáo phận, đồng thời nó cũng là dấu chỉ rõ ràng về một
đời sống luân lý lành mạnh nơi các gia đình Kitô hữu. Nơi đâu ta càng thấy có
nhiều ơn gọi linh mục và tu sĩ, nơi đó người ta đang sống Tin Mừng với sự quảng
đại lớn lao (Đức Phaolô VI, Sứ Điệp Radio, 11 tháng 4 năm 1964).
Trong
suốt nhiều thế kỷ qua, các cộng đoàn Kitô hữu khác nhau từ khắp nơi trên thế giới
quây quần bên nhau vào ngày Chúa Nhật Thứ Tư Phục Sinh và cùng nhau cầu nguyện
để xin Thiên Chúa những món quà ơn gọi linh thánh, đồng thời gợi ý cho mọi người
tiếp tục phản tỉnh về nhu cần khẩn thiết trong việc đáp trả lời mời gọi linh
thánh. Thực vậy, hàng năm sự kiện quan trọng này đã giúp các Kitô hữu thấy được
tầm quan trọng của ơn gọi linh mục và tu sĩ, và nhờ đó giúp họ ý thức về điều
này trong đời sống thiêng liêng, cầu nguyện và tông đồ của mình.
Hy
vọng là một sự trông mong về một điều gì đó tích cực trong tương lai, nhưng mặt
khác nó cũng nuôi dưỡng hiện tại thường bị ghi dấu bởi những bất mãn và thất bại.
Vậy, đâu là nền tảng niềm hy vọng của chúng ta? Nhìn vào lịch sử của dân tộc Do
thái, được tường thuật lại trong Cựu Ước, chúng ta thấy một yếu tố luôn xuất hiện,
đặc biệt là trong những thời điểm khó nhăn như thời Lưu Đày, một yếu tố được
tìm thấy đặc biệt nơi các bài viết của các Ngôn Sứ, đó là việc Thiên Chúa luôn
luôn trung thành với lời Ngài đã hứa với các Tổ Phụ: Một sự ghi nhớ mời gọi
chúng ta bắt chước mẫu gương sáng chói của Tổ Phụ Abraham, ngài “mặc dầu không
còn gì để trông cậy, ông vẫn trông cậy và vững tin, do đó ông đã trở thành tổ
phụ nhiều dân tộc, như lời Thiên Chúa phán: “Dòng dõi người sẽ đông đảo như thế”
(Rm 4,18). Một chân lý đầy an ủi và có tính soi sáng luôn hiển lộ trong toàn bộ
lịch sử cứu độ, đó chính là sự trung tín của Thiên Chúa đối với Giao Ước. Ngài
luôn đi vào Giao Ước và đổi mới nó, bất chấp con người đã phá vỡ nó khi bất
trung và phạm tội, từ thời lụt hồng thủy (St 8,21-22) đến lúc xuất hành và
ngang qua cuộc hành trình qua sa mạc (x. Dt 9,7).
Sự
trung tín đó khiến cho Thiên Chúa tiếp tục ký kết một giao ước mới, giao ước
vĩnh cửu với con người, nhờ vào máu của Người Con, Đấng đã chết và sống lại để
cứu độ chúng ta. Trong mỗi giây phút, đặc biệt là trong những lúc khó khăn, sự
trung tín của Thiên Chúa luôn là nguồn sức mạnh đích thực của lịch sử cứu độ. Sức
mạnh này khơi nên trong trái tim của những người nam và người nữ một niềm xác
tín vững chắc vào niềm hy vọng rằng một ngày họ sẽ đạt đến “Đất Hứa”. Đây chính
là nơi chúng ta tìm thấy nền tảng chắc chắn của mọi hy vọng: Thiên Chúa chưa
bao giờ từ bỏ chúng ta và Ngài vẫn luôn trung tín với Lời của mình. Vì lý do
đó, trong mọi hoàn cảnh, thuận lợi hay khó khăn, chúng ta vẫn có thể nuôi dưỡng
một niềm hy vọng chắc chắn và cầu nguyện với Thánh Vịnh: “Chỉ trong Thiên Chúa
mà thôi, này hồn tôi hãy nghỉ ngơi yên hàn. Vì hy vọng của tôi bởi Người mà đến
(Tv 62, 6).
Như
thế, để có hy vọng, chúng ta cần tin tưởng vào Thiên Chúa là Đấng tín trung,
Ngài luôn giữ lời hứa đã giao ước. Vì thế, đức tin và hy vọng có mối liên hệ mật
thiết với nhau. “Thực ra, “Hy vọng” là một từ chủ yếu trong Thánh Kinh – đến mức
trong nhiều đoạn những từ “đức tin” và “hy vọng” dường như có thể hoán chuyển
cho nhau. Vì thế Thư Do Thái liên kết chặt chẽ “sự viên mãn của đức tin”
(10:22) với “sự tuyên xưng cách quả quyết niềm hy vọng của chúng ta” (10:23).
Cũng thế, trong thư Thứ Nhất, khi Thánh Phêrô khích lệ các Kitô hữu hãy luôn
luôn sẵn sàng đưa ra câu trả lời liên quan đến logos – ý nghĩa và lý do –cho niềm
hy vọng của họ (x. 3:15), thì từ “hy vọng” là tương đương với từ “đức tin” (Spe
Salvi, 2).
Anh
chị em thân mến,
Chính
xác thì sự trung tín của Thiên Chúa là gì mà chúng ta có thể đặt để niềm hy vọng
của mình? Thưa, đó chính là tình yêu của Ngài. Ngang qua Chúa Thánh Thần, Thiên
Chúa là Đấng đã đổ tràn tình yêu vào nơi sâu thẳm nhất trong mỗi chúng ta (xem
Rm 5,5). Và tình yêu này, được biểu lộ trọn vẹn nơi Đức Kitô, đã thấm sâu vào
tâm khảm mỗi chúng ta và đòi hỏi một lời đáp trả ngang qua cách thức mà mỗi cá
nhân muốn chọn lựa cách sống cho riêng mình. Tình yêu Thiên Chúa đôi lúc dẫn
người ta tới nơi mà mình chưa bao giờ tưởng tượng, nhưng tình yêu này cũng luôn
dẫn ta đến với những con người mà ta muốn tìm gặp. Như thế, hy vọng được dưỡng
nuôi bởi sự xác tín này: “Còn chúng ta, chúng ta đã biết tình yêu của Thiên
Chúa nơi chúng ta, và đã tin vào tình yêu đó” (1 Ga 4,16).
Tình
yêu sâu xa và mang tính đòi hỏi này đã thấm sâu vào chúng ta và trao ban cho
chúng ta một niềm can đảm. Tình yêu này cũng trao cho ta niềm hy vọng vào cuộc
hành trình của mình, vào lịch sử và tương lai. Cách riêng, cha muốn nhắn nhủ với
các bạn trẻ, cha muốn nhắc lại rằng: “Sự sống của các con sẽ là gì nếu thiếu
tình yêu này? Thiên Chúa chăm sóc mọi người nam và người nữ từ khi tạo dựng đến
khi thời gian tới hồi viên mãn, khi Ngài hoàn tất kế hoạch cứu độ của mình. Nơi
Thiên Chúa Phục Sinh, chúng ta có một niềm hy vọng chắc chắn” (Bài Huấn Dụ Dành
Cho Các Bạn Trẻ Thuộc Giáo phận Sang Marino – Montefeltro, 19 tháng 6 năm
2011).
Như
xưa Đức Giêsu đã sống cuộc đời dương thế như thế nào, thì hôm nay Đức Giêsu Phục
sinh cũng đồng hành trong cuộc sống của chúng ta như vậy. Ngài dìm mình vào
hành động của chúng ta, với tất cả khao khát và nhu cầu của ta. Giữa mọi hoàn cảnh,
Đức Giêsu tiếp tục nói với chúng ta; Ngài mời gọi chúng ta sống với Ngài, vì chỉ
duy Ngài là Đấng có thể thỏa đáp được mọi khát vọng nơi ta. Giờ đây, Đức Giêsu
hiện diện giữa cộng đoàn các môn đệ chính là Giáo Hội, và Ngài vẫn mời gọi mọi
người bước theo mình. Lời mời gọi này có thể đến bất kỳ lúc nào. Hôm nay, Đức
Giêsu tiếp tục cất lời: “Hãy đến và theo tôi” (Mc 10,21). Chấp nhận lời mời gọi
này nghĩa là không còn chọn lựa con đường của riêng mình nữa. Theo Ngài nghĩa
là đặt để ý muốn của chúng ta nơi Ý muốn của Đức Giêsu, trao ban cho Ngài chính
mình, đặt Ngài vào vị trí trổi vượt trong mọi lĩnh vực của đời sống: gia đình,
công việc, sở thích riêng và chính bản thân mình. Theo Đức Giêsu cũng có nghĩa
là giao nộp chính chúng ta cho Ngài, sống trong tình thân mật với Ngài, và nhờ
Ngài đi vào sự hiệp thông với Chúa Cha trong Chúa Thánh Thần, và cũng là với
anh chị em chúng ta. Sự hiệp thông đời sống với Đức Giêsu là một “tình trạng” đặc
ân, nơi đó chúng ta có thể kinh nghiệm được niềm hy vọng và nơi đó đời sống
chúng ta trở nên tròn đầy và tự do.
Ơn
gọi linh mục và tu sĩ được nảy sinh từ kinh nghiệm gặp gỡ cá vị với Đức Kitô, từ
một cuộc đối thoại chân thành và đầy tin tưởng với Ngài, nhờ đó đi vào trong ý
muốn của Ngài. Do đó, điều cần thiết là phải lớn lên trong kinh nghiệm về đức
tin, được hiểu như là một mối liên hệ sâu xa với Đức Giêsu, như là một sự lắng
nghe nội tâm đối với tiếng nói của Ngài vốn âm vang trong sâu thẳm cõi lòng
chúng ta. Tiến trình này, một tiến trình mà ngang qua đó chúng ta đáp trả một
cách tích cực đối với lời mời gọi của Thiên Chúa, chỉ khả thi nơi những cộng
đoàn Kitô hữu sống đức tin một cách mạnh mẽ và quảng đại làm chứng cho Tin Mừng,
nơi có một cảm thức truyền giáo mạnh mẽ đến nỗi thúc đẩy người ta hiến mình cho
Nước Thiên Chúa. Tiến trình này được nuôi dưỡng bởi các bí tích, đặc biệt là Bí
Tích Thánh Thể và ngang qua một đời sống cầu nguyện liên lỉ. Đời sống cầu nguyện,
“một đàng là cái gì đó rất riêng tư, là một cuộc gặp gỡ giữa thâm sâu của chính
tôi với Chúa, Thiên Chúa hằng sống. Đàng khác, lời cầu ấy phải luôn được hướng
dẫn và soi sáng bởi những kinh nguyện quý giá của Giáo Hội và của các thánh, và
bởi lời cầu phụng vụ, trong đó Chúa dạy đi dạy lại chúng ta làm thế nào cầu
nguyện cho xứng hợp” (Spe Salvi, 34).
Đời
sống cầu nguyện sâu xa và bền bỉ giúp tăng trưởng đức tin nơi cộng đoàn Kitô hữu.
Đồng thời đời sống cầu nguyện cũng giúp đổi mới không ngừng niềm xác tín rằng
Thiên Chúa không bao giờ từ bỏ dân Ngài và luôn nuôi dưỡng họ bằng cách trao
ban những ơn gọi đặc biệt – ơn gọi linh mục và tu sĩ – để họ có thể là dấu chỉ
hy vọng cho thế giới. Thực vậy, linh mục và tu sĩ được mời gọi để trao ban
chính mình một cách vô điều kiện cho Dân Thiên Chúa, trong một sự phục vụ yêu
thương cho Tin Mừng và Giáo hội, với niềm xác tín vào niềm hy vọng vốn chỉ có
thể đến từ một sự mở ra đối với Thiên Chúa. Do đó, ngang qua những chứng tá về
đức tin và lòng nhiệt thành tông đồ, họ có thể thông truyền, đặc biệt với các
thế hệ trẻ, một khao khát mạnh mẽ để quảng đại và mau mắn đáp lại lời mời gọi của
Đức Kitô, Đấng mời gọi họ bước theo Ngài một cách gần gũi hơn. Khi một người
môn đệ của Đức Giêsu chấp nhận lời mời gọi thần linh để dâng hiến chính mình
trong đời sống linh mục hay tu trì, chúng ta chứng kiến một hoa trái chín mùi
nhất của cộng đoàn Kitô hữu, giúp chúng ta nhìn vào tương lai của Giáo Hội và sứ
mạng rao giảng Phúc Âm của Giáo Hội trong niềm tin tưởng và hy vọng. Điều này
đòi hỏi cần có những người thợ gặt mới để công bố Tin Mừng, để cử hành Thánh Lễ
và bí Tích Hòa Giải. Vì thế, không thể thiếu những linh mục nhiệt thành, những
người luôn ở bên người trẻ với tư cách là “những người bạn đồng hành”, giúp đỡ
họ, trong bước đường đời đầy khó khăn và cam go, nhận ra Đức Ki-tô là Đường, là
Sự Thật và là Sự Sống (xem Ga 14,6). Các linh mục cũng là người nói cho người
trẻ về lòng can đảm của Tin Mừng, về vẻ đẹp của việc phục vụ Thiên Chúa, cộng
đoàn Kitô hữu và anh chị em của mình! Các linh mục là hiện thân của hoa trái
phát sinh từ một sự dấn thân nhiệt thành vốn trao ban ý nghĩa trọn vẹn cho cuộc
sống của họ, vì đời sống này được đặt nền tảng trên niềm tin vào Thiên Chúa, Đấng
đã yêu thương chúng ta trước ( x. Ga 4,19).
Các
bạn trẻ thân mến, dẫu các con đang phải đối diện với biết bao nhiêu lựa chọn hời
hợt và chóng qua, cha hy vọng các con vẫn có thể nuôi dưỡng khao khát về điều
gì có giá trị đích thực với những mục đích cao cả, những lựa chọn triệt để
trong việc phục vụ tha nhân và bắt chước Đức Kitô.
Các
con đừng sợ bước theo Đức Giêsu và bước đi trên con đường đức ái đầy đòi hỏi và
sự can đảm này. Trên hành trình này, các con sẽ hạnh phúc để phục vụ và làm chứng
về một niềm vui mà thế giới không thể trao ban; các con sẽ là những ngọn lửa sống
động về một tình yêu vô hạn và vĩnh cửu; và các con sẽ học để sẵn sàng đưa ra một
câu trả lời cho niềm hy vọng nơi các con (Pr 3,15).
Nguyễn
Minh Triệu sj chuyển ngữ