CHÂN PHƯỚC ANRÊ BÊSÉT
(1845-1937)
Lược sử
Khi Anrê Bêsét đến tu
hội Các Thầy Thánh Giá vào năm 1870, anh mang theo tờ giấy giới thiệu của cha xứ viết rằng:
"Tôi gửi đến các thầy một vị thánh." Thật khó để các thầy dòng ở đây
tin nổi. Bệnh đau bao tử kinh niên
đã khiến Anrê không thể đảm nhận được công việc nào lâu dài, ngay từ khi còn
nhỏ Anrê đã lang thang từ nông trại này sang nông trại khác, tiệm này sang tiệm
khác, ở ngay trên quê hương Gia Nã Đại hoặc ở đất Hoa Kỳ, mà chỉ được có vài
hôm là chủ nhân đã phải sa thải vì anh không thể làm được việc nặng nhọc. Công
việc của các thầy dòng Thánh Giá là dạy học và dù đã 25 tuổi, Anrê vẫn chưa
biết đọc biết viết. Dường như anh đến nhà dòng vì sự tuyệt vọng hơn là vì ơn gọi tu
trì.
Anrê thật tuyệt vọng,
nhưng anh cũng là người siêng năng cầu nguyện và rất
thành tâm với Thiên Chúa cũng như sùng kính
Thánh Giuse. Có lẽ anh chẳng còn nơi nào để nương tựa, nhưng anh tin
rằng đây là nơi anh phải sống trong suốt cuộc đời.
Nhà dòng nhận anh vào
đệ tử nhưng sau đó không lâu họ thấy đúng như những gì trong quá khứ -- dù
Anrê, bây giờ là Thầy Anrê, rất muốn làm việc, nhưng sức khoẻ không cho phép.
Họ yêu cầu thầy rời nhà dòng, nhưng trong sự tuyệt vọng, thầy đã xin đức giám
mục sở tại can thiệp để được ở lại và được giao cho công việc khiêm tốn là gác
cổng trường học Đức Bà ở Mônrêan, cùng với các nhiệm vụ phụ là dọn lễ, giặt giũ
và đảm trách việc thư từ. Thầy Anrê khôi hài rằng: "Khi tôi gia nhập cộng
đoàn này, cha bề trên chỉ cho tôi cánh cửa ấy, và tôi ở đó suốt 40 năm."
Trong căn phòng nhỏ bé
của ngài ở gần cổng trường, hầu như suốt đêm ngài quỳ gối cầu nguyện. Trên
thành cửa sổ, trông ra đồi Rôgian, là bức tượng Thánh Giuse nhỏ, là người mà
thầy hằng sùng kính ngay từ khi còn nhỏ. Khi được hỏi về điều ấy thầy trả lời:
"Một ngày nào đó, Thánh Giuse sẽ được tôn kính một cách đặc biệt trên đồi
Rôgian!"
Khi biết có ai bị đau
yếu, ngài đến thăm để cổ võ tinh thần cũng như để cầu nguyện với họ. Ngài cũng
thường thoa lên bệnh nhân chút dầu lấy từ chiếc đèn luôn cháy sáng trước tượng
Thánh Giuse trong nguyện đường của trường học. Từ đó tiếng đồn về sức mạnh chữa
lành bắt đầu lan tràn.
Khi bệnh dịch bùng nổ
từ một trường kế cận, Thầy Anrê đã xung phong đến đó chăm sóc bệnh nhân. Không
một ai bị thiệt mạng. Số người bệnh đến với thầy ngày càng gia tăng. Cha bề
trên cảm thấy bối rối; giới thẩm quyền địa phận nghi ngờ; các bác sĩ gọi ngài
là lang băm. Thầy thường lập đi lập lại rằng "Đâu có phải tôi chữa mà là
Thánh Giuse đó." Sau cùng thầy phải cần đến bốn người thư ký để trả lời
80.000 lá thư ngài nhận được hàng năm.
Đã nhiều năm Tu Hội
Thánh Giá cố nài nỉ để mua lấy miếng đất trên ngọn đồi Rôgian nhưng không thành
công. Thầy Anrê và một vài người khác đã leo lên đó để đặt một tượng Thánh
Giuse. Bỗng dưng, chủ đất đồng ý. Thầy Anrê quyên góp được 200$ để xây một nhà nguyện
nhỏ và dùng làm nơi tiếp khách thập phương mà ở đó lúc nào thầy cũng tươi cười
để thoa dầu Thánh Giuse trên bệnh nhân. Có người được khỏi bệnh, có người
không. Số nạng, gậy chống cũng như xe lăn người ta bỏ lại để minh chứng cho sức
mạnh chữa lành của Thánh Giuse ngày càng gia tăng.
Nguyện đường cũng cần
được nới rộng thêm. Vào năm 1931, một thánh đường to lớn được khởi công xây
cất, nhưng tài chánh bị thiếu hụt vì đó là thời kỳ kinh tế đại suy thoái.
"Hãy đặt tượng Thánh Giuse vào trong ấy. Nếu ngài muốn có mái che trên đầu
thì ngài sẽ giúp cho." Sau cùng, Vương Cung Thánh Đường Thánh Giuse nguy
nga trên đồi Rôgian đã hoàn thành sau 50 năm xây cất. Nhưng Thầy Anrê đã không
được chứng kiến ngày huy hoàng đó, và đã từ trần năm 1937 khi thầy 92 tuổi.
Suy niệm 1: Chứng
thư
Khi Anrê Bêsét đến tu hội Các Thầy Thánh
Giá vào năm 1870, anh mang theo tờ giấy giới thiệu của cha xứ viết: "Tôi
gửi đến các thầy một vị thánh." Thật khó để các thầy dòng ở đây tin, vì
chứng thư thường có giá trị giúp tạo niềm tin chứ chưa hẳn là buộc phải tin,
nếu chưa được kiểm chứng.
Giấy giới thiệu thật cần thiết cho một
người đi vào một môi trường mới với một sứ mạng mới. Chính vì thế Saolô đã phải
đích thân tới gặp thượng tế, để xin chứng thư giới thiệu đến các hội đường
Dothái ở Đamát, hầu bắt trói những người theo Đạo và giải về Giêrusalem (Cv
9,1-2).
Đức Giêsu chữa lành người phong hủi, thì
cũng truyền cho người thụ ân không cần nói với ai cả, nhưng phải đi trình diện
tư tế và dâng của lễ theo Luật Môsê, để làm chứng cho mọi người biết (Mt 8,4),
hầu được tự do trở lại nếp sinh hoạt bình thường trong xã hội, như bao người
lành mạnh khác.
* Lạy
Chúa Giêsu, chứng thư bằng văn tự chỉ có giá trị thật sự để tạo được niềm tin
nơi tha nhân, khi được biện minh bằng chính cuộc sống. Xin giúp chúng con hiểu
và sống mãi như thế.
Suy niệm 2: Thể
trạng
Bệnh đau bao tử kinh niên đã khiến Anrê
không thể đảm nhận được công việc nào lâu dài, ngay từ khi còn nhỏ Anrê đã lang
thang từ nông trại này sang nông trại khác, tiệm này sang tiệm khác, ở ngay
trên quê hương Gia Nã Đại hoặc ở đất Hoa Kỳ, mà chỉ được có vài hôm là chủ nhân
đã phải sa thải vì anh không thể làm được việc nặng nhọc.
Thể trạng cũng có thể hiểu là nén bạc Thiên
Chúa trao ban cho mỗi người theo sự quan phòng đầy yêu thương của Người. Người
không đòi hỏi phải làm gì quá khả năng và quá sức (1Cr 10,13), mà chỉ mong muốn
ai nấy phải làm, làm theo thể trạng của mình.
Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu đã phải mang
bệnh ngay từ thuở nhỏ đến suốt đời và đã chết vì bệnh lao. Dĩ nhiên vốn biết những
việc nặng nhọc không thích hợp với ngài, nên ngài bằng lòng thực hiện những
việc nhỏ nhặt và tầm thường: nhặt kim, chăm hoa, tỉa cành, giặt rửa, dọn bàn.
Nhưng ngài làm với một tinh thần mến Chúa phi thường.
* Lạy
Chúa Giêsu, xin giúp chúng con đừng ngồi chờ làm những việc vĩ đại để rồi không
làm gì cả, nhưng hãy chọn làm những việc tầm thường theo thể trạng, nhưng với
một tinh thần mến Chúa yêu người phi thường, để thành nhân và thành thánh nhân.
Suy niệm 3: Hy vọng
Công việc của các thầy dòng Thánh Giá là
dạy học và dù đã 25 tuổi, Anrê vẫn chưa biết đọc biết viết. Dường như anh đến
nhà dòng vì sự tuyệt vọng hơn là vì ơn gọi tu trì. Nhà dòng yêu cầu thầy rời
nhà dòng, nhưng trong sự tuyệt vọng, thầy đã xin đức giám mục sở tại can thiệp
để được ở lại.
Tuyệt vọng đến mức rời xa cả Chúa thì thật
là đã lâm vào ngõ cụt, như một Giuđa Ítcariốt đã tuyệt vọng đến tuyệt mạng (Mt
27,5). Ngược lại tuyệt vọng nhưng vẫn còn bám víu vào Chúa thì chưa hẳn là
tuyệt đường vì vẫn còn lối thoát hiểm: trên đường trốn chạy sự săn đuổi của
hoàng hậu Ideven, ngôn sứ Êlia đi một ngày đường trong sa mạc, đến ngồi dưới
gốc một cây kim tước và chỉ ước được chết. Thiên sứ đến trợ lực. Ngài được hồi
sinh và tiếp tục lên đường để đến được núi Khôrép sau bốn mươi đêm ngày (1V
19,1-8).
Như vậy hy vọng là một ơn huệ lớn lao, như
lời phát biểu của tổng thống Václô Haven: Hy vọng là cảm thức rằng cuộc sống và
công việc luôn có ý nghĩa. Một cuộc sống không hy vọng là một cuộc sống vô ích,
chán chường và trống rỗng. Tôi tạ ơn Chúa vì Người đã ban cho tôi ơn biết hy
vọng. Ơn huệ này lớn lao ngang tầm với chính sự sống.
* Lạy
Chúa Giêsu, xin giúp chúng con đừng bao giờ thất vọng ngã lòng, nhưng luôn
trông cậy vững vàng vào Chúa là chính nguồn hy vọng của chúng con.
Suy niệm 4: Cầu
nguyện
Anrê thật tuyệt vọng, nhưng anh cũng là
người siêng năng cầu nguyện và rất thành tâm với Thiên Chúa. Có lẽ anh chẳng
còn nơi nào để nương tựa, nhưng anh tin rằng đây là nơi anh phải sống trong
suốt cuộc đời. Trong căn phòng nhỏ bé của anh ở gần cổng trường, hầu như suốt
đêm anh quỳ gối cầu nguyện. Khi biết có ai bị đau yếu, anh đến thăm để cổ võ
tinh thần cũng như để cầu nguyện với họ.
Đức Giêsu rất bận rộn với công việc rao
giảng, đến mức không có thì giờ ăn uống (Mc 3,20;6,31), thậm chí cả thì giờ
nghỉ ngơi cũng không (Mc 10,13-15). Dầu vậy, Ngài vẫn chuyên tâm cầu nguyện,
khi lên núi, khi vào nơi thanh vắng, lúc chiều hôm cũng như lúc sáng tinh
sương, đặc biệt vào những thời điểm quan trọng, chẳng hạn việc chọn các tông đồ
(Lc 6,13), lập bí tích Thánh Thể (Lc 22,19-20), đi vào cuộc Tử Nạn (Mt 26,39).
Cầu nguyện quả là một vũ khí sắc bén mang
lại nhiều hiệu quả không tưởng. Sau ba ngày ăn chay cầu nguyện, hoàng hậu Étte
đã thuyết phục được vua Asuêrô đổi lòng, mến chuộng dân Dothái, thâu hồi sắc
chỉ tru diệt người Dothái (Et 8,12a...). Lời cầu nguyện của ngôn sứ Êlisa cũng
làm cho cậu bé con của bà Sunêm bị chết được sống lại (2V 4,32-35).
* Lạy
Chúa Giêsu, xin giúp chúng con thấy được giá trị của việc cầu nguyện, và nhất
là giúp biến đời sống chúng con thành lời cầu nguyện liên lĩ, theo như lời
khuyên dạy của thánh Phaolô: “Dù ăn, dù uống, hay làm bất cứ việc gì, anh em
hãy làm tất cả để tôn vinh Thiên Chúa” (1Cr 10,31).
Suy niệm 5: Thánh
Giuse
Lòng sùng kính Thánh Giuse từ thuở Anrê còn
nhỏ đã bộc lộ cách rõ ràng. Trên thành cửa sổ, trông ra đồi Rôgian, ngài đã đặt
một bức tượng Thánh Giuse nhỏ. Khi được hỏi về điều ấy thầy trả lời: "Một
ngày nào đó, Thánh Giuse sẽ được tôn kính một cách đặc biệt trên đồi
Rôgian!" Vào năm 1931, một thánh đường to lớn được khởi công xây cất, và
sau cùng, Vương Cung Thánh Đường Thánh Giuse nguy nga trên đồi Rôgian đã hoàn
thành sau 50 năm xây cất.
Đã nhiều năm Tu Hội Thánh Giá cố nài nỉ để
mua lấy miếng đất trên ngọn đồi Rôgian nhưng không thành công. Thầy Anrê và một
vài người khác đã leo lên đó để đặt một tượng Thánh Giuse. Bỗng dưng, chủ đất
đồng ý. Thầy Anrê quyên góp được 200$ để xây một nhà nguyện nhỏ và dùng làm nơi
tiếp khách thập phương mà ở đó lúc nào thầy cũng tươi cười để thoa dầu Thánh
Giuse trên bệnh nhân.
Chân phước Maria Rêpéttô cũng rất có lòng
sùng kính Thánh Giuse. Có thể nói chính Thánh Giuse dẫn chị tới bậc thánh
thiện, trao ban cho chị những đặc sủng kỳ diệu, và dùng tay chị mà phân phát ơn
lành cho nhiều người. Có ai tìm đến chị xin một lời khuyên, chị thường bảo chờ
một chút, rồi chị đi cầu nguyện Thánh Giuse trước tượng Đấng Thánh ở hành lang
gần đó. Lát sau chị trở ra, là có câu trả lời mãn nguyện cho họ.
* Lạy
Chúa Giêsu, chúng con xin hạ quyết tâm đi dâng lễ và dọn mình rước lễ mỗi ngày
thứ tư để tỏ lòng sùng kính Thánh Giuse, hầu được mọi ơn theo kinh nghiệm của
Mẹ Têrêxa: Chưa bao giờ tôi cầu xin sự gì cùng thánh Giuse mà không được như ý.
Suy niệm 6: Linh
dược đức tin
Anrê cũng thường thoa lên bệnh nhân chút
dầu lấy từ chiếc đèn luôn cháy sáng trước tượng Thánh Giuse trong nguyện đường
của trường học. Từ đó tiếng đồn về sức mạnh chữa lành bắt đầu lan tràn. Khi
bệnh dịch bùng nổ từ một trường kế cận, Thầy Anrê đã xung phong đến đó chăm sóc
bệnh nhân. Không một ai bị thiệt mạng. Số người bệnh đến với thầy ngày càng gia
tăng. Thầy thường lập đi lập lại rằng "Đâu có phải tôi chữa mà là Thánh
Giuse đó" và "Chính cây cọ nhỏ bé đã giúp nghệ nhân hoàn thành bức
họa tuyệt mỹ."
Thoa lên vết thương với dầu và ảnh tượng?
Đó có phải dị đoan không? Người dị đoan chỉ trông nhờ vào "yêu thuật"
của lời nói hay hành động. Dầu và ảnh tượng của Thầy Anrê là những dấu tích
đích thực của một đức tin đơn sơ, trọn vẹn nơi Thiên Chúa Cha là Đấng đã giúp
vị thánh của thầy chữa lành cho các con cái của Thiên Chúa.
Với quyền năng của vị Thiên Chúa làm người,
Đức Giêsu chỉ cần một lời phán là cải tử hoàn sinh được người nô lệ của một đại
đội trưởng (Lc 7,7), chàng thanh niên của bà góa Naim (Lc 7,14), anh Ladarô
chết chôn bốn ngày (Ga 11,43). Nhưng có lúc Ngài cũng đòi hỏi đức tin như một
điều kiện (Mt 10,29), cho dầu đức tin chỉ nhỏ bé bằng hạt cải (Lc 17,6).
* Lạy
Chúa Giêsu, đức tin chúng con vốn còn non kém, xin thương ban thêm đức tin cho
chúng con, và nhất là giúp chúng con nuôi dưỡng và làm phát triển bằng việc
sống đức tin, vì đức tin không hành động là một đức tin chết (Gc 2,17).