Lời Chúa tuần 10 thường niên _ câu truyện minh họa

LỜI CHÚA TUẦN 10 THƯỜNG NIÊN
CÂU TRUYỆN MINH HỌA

CNTN 10A -

CNTN 10B -

CNTN 10C -

THỨ HAI - PHÚC THAY!!!

THỨ BA - MUỐI VÀ ÁNH SÁNG

THỨ TƯ - KIỆN TOÀN LỀ LUẬT

THỨ NĂM - PHẢI SỐNG CÔNG CHÍNH HƠN

THỨ SÁU – QUYẾT LIỆT XA TỘI

THỨ BẢY - CÓ THÌ NÓI CÓ, KHÔNG THÌ NÓI KHÔNG

LỄ THÁNH THỂ NĂM A - BÁNH HẰNG SỐNG TỪ TRỜI

LỄ THÁNH THỂ NĂM B

LỄ THÁNH THỂ NĂM C

LỄ THÁNH TÂM NĂM A - NGÀY THẾ GIỚI XIN ƠN THÁNH HOÁ CÁC LINH MỤC – TÌNH YÊU

LỄ THÁNH TÂM NĂM B

LỄ THÁNH TÂM NĂM C

LỄ KÍNH TRÁI TIM VÔ NHIỄM MẸ MARIA

LỄ KÍNH THÁNH TÔNG ĐỒ BARNABA

 

CNTN 10A -

Lời Chúa

TRUYỆN KỂ

1. truyện

CNTN 10B -

Lời Chúa

TRUYỆN KỂ

1. truyện

CNTN 10C -

Lời Chúa

TRUYỆN KỂ

1. truyện

THỨ HAI - PHÚC THAY!!!

Lời Chúa: Mt. 5, 1-12

Khi ấy, Chúa Giêsu thấy đoàn lũ đông đảo, Người đi lên núi, và lúc Người ngồi xuống, các môn đệ đến gần Người. Bấy giờ Người mở miệng dạy họ rằng: "Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó, vì Nước Trời là của họ. - Phúc cho những ai hiền lành, vì họ sẽ được Đất Nước làm cơ nghiệp. - Phúc cho những ai đau buồn, vì họ sẽ được ủi an. - Phúc cho những ai đói khát điều công chính, vì họ sẽ được no thoả. - Phúc cho những ai hay thương xót người, vì họ sẽ được xót thương. - Phúc cho những ai có lòng trong sạch, vì họ sẽ được nhìn xem Thiên Chúa. - Phúc cho những ai ăn ở thuận hoà, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa. - Phúc cho những ai bị bách hại vì lẽ công chính, vì Nước Trời là của họ."

"Phúc cho các con khi người ta ghen ghét, bách hại các con, và bởi ghét Thầy, họ vu khống cho các con mọi điều gian ác. Các con hãy vui mừng hân hoan, vì phần thưởng của các con sẽ trọng đại ở trên trời. Người ta cũng đã từng bắt bớ các tiên tri trước các con như vậy."

TRUYỆN KỂ

1. Phúc thay (Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)

Đức Đạt-lai Lạt-ma, vào mùa thu năm 1994 tại thủ đô nước Anh, đã được mời chia sẻ về giáo huấn của Chúa Giêsu trong các sách Tin Mừng.

Một trong những bài chia sẻ đầu tiên là về các Mối Phúc. Theo ngài các Mối Phúc dường như nói về nghiệp (karma), về nhân quả. “Nếu bạn hành động như thế, thì bạn sẽ chịu hậu quả như thế. Nếu bạn không hành động như thế, thì bạn cũng chẳng chịu hậu quả như thế. Vậy rõ ràng nguyên lý nhân quả nằm ở trong giáo huấn của các Mối Phúc.”

Thật ra các Mối Phúc của Kitô giáo lại không bắt nguồn từ nguyên lý nhân quả, dù mới đọc ta có cảm tưởng như vậy.

Các Mối Phúc bắt đầu bằng chữ “Phúc thay”, kế đến nói lên ai là người được hưởng phúc ấy, cuối cùng nêu lên lý do hay nền tảng của hạnh phúc ấy bằng chữ “vì."

Hạnh phúc đích thật của người Kitô hữu không phải là “quả” tự nhiên do “nhân” là việc lành phúc đức của họ. Dù sống tốt đến mấy đi nữa, thì “nhân” ấy cũng không thể sinh “quả” ấy được.

“Quả” hạnh phúc của Kitô giáo là quà tặng lớn của Thiên Chúa cho con người. Điều này được diễn tả qua những lối dùng động từ ở thể thụ động: “sẽ được ủi an, sẽ được no thỏa, sẽ được xót thương, sẽ được gọi.”

2. Nghi ngờ về tám mối phúc thật (‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Có lẽ người Công giáo nào cũng thuộc nằm lòng Tám Mối Phúc Thật, và có lẽ nhiều người ngoài Kitô giáo cũng đã ít hay nhiều nghe nói đến bản Hiến Chương này. Cũng giống như bản thân Chúa Giêsu, Tám Mối Phúc Thật là dấu chỉ của sự mâu thuẫn. Nếu đối với người Công giáo và nhiều bậc vĩ nhân của nhân loại, Tám Mối Phúc Thật là nguồn cảm hứng cho cuộc sống cao thượng; thì đối với một số người khác, như triết gia Nietzsch chẳng hạn, Tám Mối Phúc Thật chỉ là một lô những đức tính của loài vật, bởi vì chỉ có loài vật mới cúi đầu khuất phục và nhẫn nhục chịu đựng; đối với một số khác nữa, Tám Mối Phúc Thật chỉ là những lời hứa hão về một thứ thiên đàng ảo tưởng, hay nói theo ngôn ngữ của Karl Marx, đó chỉ là thuốc phiện ru ngủ quần chúng. Vậy đâu là tinh thần đích thực của Tám Mối Phúc Thật?

3. Câu hỏi về hạnh phúc

Là con người, từ cổ chí kim, từ Đông chí Tây, đủ mọi lứa tuổi, mọi thành phần, ai ai cũng đều mong muốn mình được hạnh phúc hoặc sờ chạm thấy hạnh phúc dù chỉ một chút. Thánh Tôma Aquinô cũng đã nói: “Theo bản tính tự nhiên, tất cả mọi người đều khát mong hạnh phúc." Chính vì thế, nhiều người chấp nhận đánh đổi rất nhiều để cầu mong được hạnh phúc. Ngày nay, cũng đã có nhiều người tìm ra cho mình những kỹ năng để nâng niu và nắm giữ được hạnh phúc lâu dài.

Tuy nhiên, điều họ mong muốn và tìm kiếm đó có đúng không hay chỉ là một sự mơ tưởng hoặc bị hiểu sai về hạnh phúc? Vậy, hạnh phúc đích thực là gì và ở đâu?

4. Bản đồ cho hạnh phúc

Ở Hoa Kỳ, hằng năm, những hãng xăng dầu thường phát hành miễn phí những tấm bản đồ chỉ đường. Lịch sử của những tấm bản đồ chỉ đường này bắt đầu vào năm 1895, khi tờ báo “Chicago Times Herald” vẽ ra lộ trình của cuộc đua xe hơi từ Chicago tới Waukegan cho các độc giả theo dõi. Từ đó trở đi những người lái xe đã bắt đầu đòi hỏi những bản đồ chỉ đường giữa các thành phố. Những tấm bản đồ vẽ ra những con đường tốt nhất, những chỗ phải đi đường vòng, những điều kiện của xa lộ, những chỗ nghỉ ngơi, đổ xăng và những điểm cần phải chú ý dọc theo bên đường…

Hạnh phúc là điều ai cũng mong tìm và đạt đến trong hành trình của cuộc sống như triết gia Aristốt đã nói xa xưa: “Hạnh phúc là cái mà tất cả mọi người tìm kiếm." Chúa Giêsu đã chỉ cho chúng ta đường tới hạnh phúc qua tấm bản đồ tám mối phúc thật. Chính sứ mạng của Chúa Giêsu đến thế gian trao cho con người tấm bản đồ để dẫn tới hạnh phúc, một niềm vui nội tại không bị chi phối khi ta sống giữa những hoàn cảnh.

Chúa Giêsu trong bài giảng trên núi vào đầu sứ vụ của Ngài đã dẫn nhân loại đến với hạnh phúc bằng tám phúc. Mỗi mối phúc mà Chúa Giêsu đề cập, không được con người quan tâm như là những điều may mắn hạnh phúc, trái lại là những khổ đau mà con người luôn tránh. Những hoàn cảnh này Chúa Giêsu tuyên bố: họ hạnh phúc thật.

5. Hạnh phúc là gì?

Hạnh phúc! Một điều mơ ước muôn thuở của con người. Tuy người ta chưa đồng ý với nhau về một định nghĩa của hạnh phúc, nhưng mọi người đều nỗ lực tìm đến hạnh phúc bằng mọi phương tiện và bằng bất cứ giá nào. Giấc mơ lớn nhất của con người là hạnh phúc. Từ xa xưa, triết gia Aristote đã cảm nghiệm được điều này khi ông nói: “Hạnh phúc là một cái mà tất cả mọi người đều tìm kiếm." Còn triết gia Blaise Pascal bảo rằng: “Ai cũng đi tìm hạnh phúc, kể cả người thắt cổ tự tử."

Có thể qui tất cả 8 đức tính ấy vào một đức tính căn bản là “Tâm hồn nghèo." Người có tâm hồn nghèo là người:

Mặt tiêu cực: không màng đến và không cậy dựa vào tiền bạc của cải, danh lợi lạc thú trần gian, ăn thua hơn thiệt đời này... (nói cách khác: không màng đến nước trần gian).

Mặt tích cực: chỉ ước ao sống tốt theo thánh ý Thiên Chúa và được hưởng những ơn lành Thiên Chúa (nói cách khác: được sống trong Nước trời).

Vì căn bản hạnh phúc là có tâm hồn nghèo, nên có thể nói: hạnh phúc đích thực của Kitô hữu là vứt hết những gì mình có, để được lấp đầy bằng chính Chúa (Lm Carôlô)

Vậy hạnh phúc là gì? Thực ra chưa có một định nghĩa nào về hạnh phúc khả dĩ thúc đẩy mọi người phải công nhận, nhưng xét cho cùng, đối với chúng ta thì hạnh phúc là được sống đúng bản chất của mình. Con chim ở trong lồng son không hạnh phúc, nó chỉ hạnh phúc khi được bay nhảy thoải mái như chim. Con cá chỉ hạnh phúc khi được bơi lội như cá. Bản chất con người là được Thiên Chúa tạo dựng và được trở về với Thiên Chúa. Bởi đó, Chúa Giêsu dạy rằng hạnh phúc của con người là được ở trong Nước Thiên Chúa.

6. Quỷ dữ cũng khát khao hạnh phúc

Một hôm khi cầu nguyện, một linh mục xin Chúa cho tra vấn một tên quỷ:

‘‘Nhân danh Chúa, ta hỏi mi: đâu là hạnh phúc nhất?’’

‘‘Dĩ nhiên là thiên đàng. Ôi, được nhìn thấy Chúa là tất cả niềm hoan lạc. Nếu có lấy mọi vẻ đẹp của muôn vàn châu báu thế gian và mọi tinh tú trong vũ trụ, rồi đem so sánh với vẻ đẹp của Chúa, thì tất cả cũng chỉ là con số không.’’

‘‘Ngươi đã được hưởng tất cả những thứ đó, tại sao ngươi đánh mất hạnh phúc thiên đàng?’’

‘‘Chỉ vì chúng tôi kiêu ngạo phản loạn. Khổ nỗi là bây giờ đã quá muộn để hối hận. Lúc này dù phải chịu tất cả mọi cực hình hoả ngục gom lại cho riêng tôi, tôi cũng sẵn sàng đón nhận, miễn là sau đó tôi được hưởng thiên đàng trong giây lát. Nhưng đã quá muộn rồi!’’

7. Ngày hạnh phúc của Napoleon

Khi hoàng đế Napoléon của nước Pháp, người chinh phục cả Âu Châu bị đày sang đảo Sainte Helène, người viết tiểu sử của ông vẫn theo ông sát cánh. Đối với anh chàng viết tiểu sử này, mỗi chi tiết trong cuộc đời của Napoléon đều được ghi chép lại, không một biến cố nào được bỏ qua.

Một hôm, biết rằng, ngày tận cùng của Napoléon đã gần đến. Lúc Napoléon cảm thấy thoải mái nhất, người viết tiểu sử mới hỏi Hoàng đế:

- Thưa ngài, xin ngài cho biết trong suốt cuộc đời của ngài, ngày nào là ngày hạnh phúc nhất?

Napoléon không trả lời ngay, quay đầu ra cửa sổ, nhìn biển xanh thăm thẳm phía xa một hồi, đoạn thở dài, rồi quay lại nói với người viết tiểu sử của ông:

- Ta nhớ, ta nhớ rất rõ ngày hạnh phúc nhất trong đời ta đã xảy ra cách đây lâu lắm rồi, khi còn bé. Đó là ngày ta Rước lễ lần đầu.

8. Hạnh phúc hay không là tuỳ ở ta.

Ngày xưa, tại một quảng trường của thành phố nọ ở Ba Tư, có nhà hiền triết xuất hiện và tuyên bố sẽ giải đáp được mọi thắc mắc của bất cứ ai đến vấn kế.

Một hôm, giữa lúc mọi người đang say mê lắng nghe lời nhà hiền triết, thì có một mục tử từ trên núi xuống. Nghe tiếng đồn về sự khôn ngoan thông thái của nhà hiền triết, anh muốn được chứng kiến tận mắt, nghe tận tai, và nhất là để hạ nhục ông giữa đám đông. Anh đến gần nhà hiền triết, trong tay bóp chặt con chim nhỏ và hỏi:

- Thưa ngài, tôi nghe nói ngài là nhà thông thái khôn ngoan, ngài có thể cho tôi biết con chim tôi đang cầm trong tay là con chim sống hay con chim chết?

Nhà hiền triết biết đó là một cái bẫy. Nếu ông bảo rằng, con chim còn sống thì tức khắc người mục tử sẽ bóp con chim chết trước khi mở bàn tay ra. Còn nếu ông bảo rằng, nó đã chết, thì người mục tử sẽ mở bàn tay ra để con chim bay đi. Sau một lúc im lặng trước sự chờ đợi hồi hộp của đám đông, nhà hiền triết trả lời:

- Con chim ngươi cầm trong tay ấy sống hay chết là tùy ở ngươi. Nếu ngươi muốn nó sống thì nó sống, nếu ngươi muốn nó chết thì nó chết.

Chúa Giêsu đã từng nói: “Thiên Đàng ở ngay trong lòng của ngươi." (Lc 17,19)

9. Hạnh phúc ở nơi Thiên Chúa

Một tác phẩm nổi tiếng của Leonardo da Vinci là bức tranh Bữa Tiệc ly, trong đó vẽ cảnh Chúa Giêsu thân mật ngồi giữa các tông đồ.

Khi đem bức tranh ra triển lãm, ông kín đáo đứng trong một góc phòng quan sát người ta nhìn ngắm bức tranh. Ông rất ngạc nhiên khi thấy điểm thu hút sự chú ý không phải là Chúa Giêsu mà là một bông hoa nhỏ ông vẽ ở góc bức tranh theo thói quen của thời đại.

Khi quan khách ra về, ông dùng cọ xoá ngay cánh hoa đó đi.

Hôm sau, ông rất sung sướng và thoả mãn khi thấy con mắt của mọi người đều chú ý ngắm nhìn khuôn mặt của Đấng Cứu thế.

Chúa đã dựng nên con người để sống hạnh phúc, nên suốt đời người ta là một hành trình đi tìm hạnh phúc. Hạnh phúc đó họ chỉ tìm được nơi Thiên Chúa, Đấng đã đoái thương dựng nên họ theo hình ảnh Ngài, cho họ thông phần bản tính Thiên Chúa, và có được chính Chúa là hạnh phúc thật và là sự sống viên mãn cho cả đời họ: “Thiên Chúa đã tạo thành toàn thể nhân loại, để họ ở trên khắp mặt đất; Người đã vạch ra những thời kỳ nhất định và những ranh giới cho nơi ở của họ. Như vậy là để họ tìm kiếm Thiên Chúa; may ra họ dò dẫm mà tìm thấy Người, tuy rằng thực sự Người không ở xa mỗi người chúng ta. Thật vậy, chính ở nơi Người mà chúng ta sống, cử động, và hiện hữu” (Cv 17,26-28).

10. Tạ ơn trong mọi hoàn cảnh

Gặp được Chúa và thấy mọi sự đều nên tốt, thánh Phaolô lớn tiếng báo cho mọi người niềm vui cho ai tìm kiếm và đã gặp được Chúa: “Anh em hãy vui mừng luôn mãi và cầu nguyện không ngừng. Hãy tạ ơn Chúa trong mọi hoàn cảnh” (1Tx 5,16-18).

ĐGH Gioan Phaolô I, vị giáo hoàng của nụ cười, đã nói: “Sức mạnh nhìn ra mặt tốt của sự việc phải là tính cách của người Kitô hữu. Nếu Phúc âm có nghĩa là Tin Mừng thì Kitô hữu là một người hạnh phúc, một người gieo rắc niềm vui. Những khuôn mặt buồm bã, thánh Phi-lip-phê Nê-ri đã nói, không được dựng nên cho ngôi nhà hạnh phúc thiên đàng.”

Gặp được Chúa rồi, tôi sẽ có thể hoan hỉ tạ ơn Chúa trong mọi hoàn cảnh. Có Chúa trong lòng, sự hiện diện của tôi sẽ gieo rắc ánh sáng, bình an, niềm vui và hy vọng; và chính tôi cũng trở nên lời chúc lành cho mọi người tôi gặp trong đời. Tôi sẽ nên Tin Mừng cho mọi người!

11. Phúc cho ai sầu khổ

Tiến sĩ Tom Dooley làm việc giữa những người nghèo khổ, thiếu thốn của Châu Á. Ngày nọ, ông kể cho một người bạn về sự quý trọng của ông đối với mối phúc thật thứ ba: “Phúc cho ai sầu khổ!” Ông giải thích rằng sầu khổ có nghĩa là “rất nhạy cảm với đau khổ.” Ông nói thêm: “Nếu bạn nhạy cảm với đau khổ và làm một cái gì đó để xoa dịu nó, bạn sẽ được hạnh phúc dù bạn không thể giúp đỡ nhiều hơn.”

Tôi nhạy cảm thế nào trước nỗi khổ trong cuộc đời những người xung quanh? Tôi đã làm gì để xoa dịu nỗi khổ đó?

Tình yêu chỉ để trong tim thì cũng giống như một lá thư viết rồi mà không gửi (Jane Lindstrom).

12. Tôi là người hạnh phúc

Một ông vua giàu có nọ không bao giờ cảm thấy thỏa mãn, bởi vì tất cả tài sản mà ông có đều do sự miễn cưỡng đóng góp của thần dân. Ông tự so sánh mình với những người hành khất: người hành khất nhận được tiền của do lòng thương của người khác, còn ông, ông nhận được tiền do sự cưỡng bách.

Ngày nọ, ông vua giàu có đã quyết định làm một việc táo bạo: đó là cải trang thành người hành khất để cảm nghiệm được những đồng tiền bố thí... Thế là mỗi ngày Chúa Nhật, ông biến mình thành một người ăn xin lê lết trước cửa giáo đường. Ông cho tất cả những tiền ăn xin được vào một chiếc hộp nhỏ. Tuy không là bao so với cả kho tàng của ông, nhưng có lẽ nó vẫn có giá trị hơn... Ông tự nghĩ: bây giờ ta nới thực sự là người giàu có nhất trên đời, bởi vì tiền của ta nhận được là do lòng thương xót của con người, chứ không do một sự cưỡng bách nào.

Khi đã gom góp được một số tiền khá lớn sau những năm tháng ăn xin trước cửa các giáo đường, ông đã xin từ chức khỏi ngai vàng và đi đến một phương xa, nơi không ai có thể nhận ra ông. Ông mua một mảnh đất, và tự tay cất được một ngôi nhà tranh đơn sơ. Không mấy chốc, do sự hòa nhã, vui tươi của ông, mọi người trong lối xóm đều mến thương ông, nhất là các em bé. Ông kể chuyện cho chúng nghe, ông đem chúng đi câu cá, ông dạy chúng ca hát.

Trong đám trẻ nhỏ, có một cậu bé gia đình còn nghèo hơn cả ông nữa. Cậu bé chỉ có vỏn vẹn một con chim họa mi. Nghe tin ông đau nặng, cậu bé đã vội vàng mang con chim đến tặng ông, với hy vọng rằng con chim sẽ hót cho ông được khuây khỏa.

Đón nhận món quà, con người đã từng là vua của một nước mới thốt lên: "Từ trước đến nay, tất cả những gì tôi có, tôi đều lãnh nhận do lòng thương xót của người khác. Người ta cho tôi, nhưng không phải là cho tôi mà là cho một người hành khất. Giờ đây, với món quà tặng là con chim này, người ta tặng cho tôi với tất cả tấm lòng yêu thương... Chắc chắn, tôi là người hạnh phúc nhất trên trần gian."

Một thời gian sau đó, trong vùng, có một người tá điền nghèo bị người chủ đe dọa lấy nhà và trục xuất ra khỏi mảnh vườn đang canh tác. Nghĩ đến cảnh hai vợ chồng và 7 đứa con dại bị đuổi ra khỏi nhà, ông vua không thể nào ăn ngủ được... Cuối cùng, ông quyết định tặng chính mảnh vườn và ngôi nhà của mình cho gia đình người tá điền nghèo... Và một lần nữa, không một đồng xu dính túi, ông lên đường trẩy đi một nơi khác.

Bùi ngùi vì phải chia tay với những người quen biết trong vùng, nhưng ông cảm thấy hạnh phúc vô cùng, bởi vì lần đầu tiên ông cảm nghiệm được niềm vui của sự ban tặng. Ông hiểu được rằng cho thì có phúc hơn là nhận lãnh... Lần này, ông thốt lên với tất cả xác tín: "Tôi là người hạnh phúc nhất trên trần gian này."

Câu chuyện của ông vua đi tìm hạnh phúc trên đây có thể gợi lên cho tôi về hình ảnh của chuyến đi cuộc đời mình... Tôi thường cảm thấy hạnh phúc khi đón nhận một điều gì tốt lành, nhưng không có điều gì tốt lành đến mà lại không đi,… và tất cả cùng nhau đi hết khi tôi nhắm mắt lìa đời. Thế nhưng mỗi điều đã đến và sẽ đi đó để lại một dấu ấn trong đời tôi, sẽ biến đổi chính tôi tùy theo cách tôi tiếp nhận chúng. Hạnh phúc đích thật sẽ đến khi tôi dần dần nên một với Thiên Chúa, trở nên tình yêu… Đó là lúc tôi gặp được chính mình, được là chính mình - hình ảnh của Thiên Chúa-tình yêu!

THỨ BA - MUỐI VÀ ÁNH SÁNG

Lời Chúa: Mt 5, 13-16

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Các con là muối đất. Nếu muối đã lạt, người ta biết lấy gì mà ướp cho mặn lại? Muối đó không còn xử dụng vào việc chi nữa, chỉ còn ném ra ngoài cho người ta chà đạp lên nó.

Các con là sự sáng thế gian. Một thành phố xây dựng trên núi, không thể che giấu được. Và người ta cũng không thắp đèn rồi để dưới đáy thùng, nhưng đặt nó trên giá đèn, hầu soi sáng cho mọi người trong nhà. Sự sáng của các con cũng phải chiếu giãi ra trước mặt thiên hạ, để họ xem thấy những việc lành của các con mà ngợi khen Cha các con trên trời."

TRUYỆN KỂ

1. Muối và Ánh Sáng

(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Muối là để làm gia vị, đèn là để soi sáng. Với hai hình ảnh này, Chúa Giêsu muốn nói lên sứ mệnh của Giáo Hội trong trần thế. Ngay từ đầu lịch sử của mình, Giáo Hội đã ý thức về sứ mệnh ấy. Giáo Hội là muối và ánh sáng của thế giới, bởi vì là Thân Thể của Đấng là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống. Giáo Hội luôn xác tín rằng tất cả chân lý về Thiên Chúa và về con người đã được Chúa Giêsu mạc khải và ủy thác cho Giáo Hội. Qua cuộc sống của mình, Giáo Hội bày tỏ cho nhân loại biết con người là ai? Con người bởi đâu mà đến? Con người sẽ đi về đâu? Qua cuộc sống của mình, Giáo Hội chứng tỏ cho con người cùng đích của cuộc sống, đó là sống với Thiên Chúa.

Các tín hữu tiên khởi đã xác tín về điều đó, cuộc sống bác ái yêu thương của họ đã là muối và ánh sáng cho nhiều người. Những tiến bộ về khoa học, văn hóa, kinh tế và ngay cả chính trị tại Âu Châu thời Trung Cổ quả là thể hiện vai trò muối và ánh sáng của Giáo Hội. Không ai có thể vai trò hạt nhân về phát triển của các Tu viện Công giáo. Văn minh Tây phương, dù muốn hay không, vẫn là văn minh Kitô giáo. Những giá trị tinh thần mà nhân loại đạt được ngày nay, như tự do, dân chủ, nhân quyền, đều là những giá trị xuất phát từ Kitô giáo. Qua những giá trị tinh thần ấy, chúng ta có thể nói rằng muối của Giáo Hội đã ướp được phần lớn trái đất, ánh sáng của Giáo Hội đã chiếu soi vào những góc tối tăm của tâm hồn.

Tuy nhiên, hình ảnh muối và ánh sáng vẫn luôn gợi lên cho chúng ta cái tư thế nhỏ bé của Giáo Hội. Người ta chỉ cần một lượng nhỏ muối để ướp một lượng lớn thực phẩm, một cái đèn nhỏ cũng đủ để chiếu dọi một khoảng không gian lớn.

2. Muối phải mặt

Khi nói đến muối, người ta nghĩ ngay đến vai trò quan trọng của chúng trên sức khỏe của con người, bởi vì: muối có thể làm dung hòa, điều chỉnh độ chứa nước của cơ thể (cân bằng lỏng). Các hoạt động của cơ thể sẽ bị xáo trộn nếu thiếu muối, triệu chứng rối loạn điện giải, co bắp thịt, đau cơ, uể oải, buồn nôn, hoa mắt, chóng mặt, phù thũng... là do thiếu muối. Muối còn có tác dụng xát trùng cao, bảo quản thức ăn cho khỏi hư thối... Tục ngữ ca dao Việt Nam có câu: "Cá không ăn muối cá ươn."

Hôm nay, Đức Giêsu phán cùng các môn đệ: "Chính anh em là muối cho đời." Nhưng liền sau đó, như một sự cảnh báo trước: “Nếu muối đã lạt, người ta biết lấy gì mà ướp cho mặn lại? Muối đó không còn xử dụng vào việc chi nữa, chỉ còn ném ra ngoài cho người ta chà đạp lên nó?"

Thật vậy, đời môn đệ chỉ có giá trị khi trong mình có vị mặn của tình yêu Giêsu, để làm toát lên hương vị của khiên nhường, yêu thương, tự hủy, vâng phục, xóa mình ra không để sống và sống cho người khác

3. Muối phải mặn

Mahatma Gandhi (1869 - 1948), nhà ái quốc và được tôn vinh là vị cha già dân tộc Ấn Độ, cũng là vị thánh của những người Ấn giáo, đã đấu tranh giành lại độc lập và tự do cho Ấn Độ bằng đường lối ôn hòa bất bạo động.

Một hôm người ta hỏi ông rằng: “Trước thảm họa nguyên tử, ngài sẽ làm gì?”

Ganhdi trả lời: “Tôi sẽ cầu nguyện."

Gandhi là người rất yêu mến giáo huấn của Chúa Kitô, nhưng khi được hỏi thêm: “Vì sao ngài không theo đạo Công giáo?”

Ông trả lời: “Phúc Âm của Chúa thì rất tốt lành, nhưng người công giáo đã không sống Phúc Âm, nên không hơn gì chúng tôi."

Sau đó ông còn nói thêm: “Nếu tôi đã hân hạnh gặp được một người nào là Kitô hữu chân thực, có lẽ tôi đã trở nên một người Kitô hữu ngay lập tức."

Chính vì không sống đúng tư cách người môn đệ Chúa Kitô, người tín hữu đã làm che mờ Chúa Kitô nên Gandhi đã không đến với Đạo Kitô. Câu trả lời của Gandhi làm cho chúng ta cảnh tỉnh nhớ lại Lời Chúa nói trong Tin Mừng Mt 5,13-16: “Các con là muối ướp đời, là ánh sáng cho trần gian."

4. Ảnh hưởng của gương sáng

Có những lời nói và việc làm rất vô tình nhưng gây một ảnh hưởng rất lớn. Đức Hồng y Fulton Sheen kể lại hai câu chuyện như sau:

Tại Nam Tư, trong một lần giúp lễ, một cậu bé đã vô tình đánh vỡ lọ nước. Vị linh mục tức giận tát cậu bé và thốt lên: “Cút đi, đừng bao giờ trở lại đây nữa." Cậu bé đó đã không bao giờ trở lại nhà thờ nữa, bởi vì sau này cậu đã trở thành nhà lãnh đạo nước Nam Tư xã hội chủ nghĩa. Cậu bé ấy là Titô.

Tôi còn nhớ tôi cũng là một cậu bé giúp lễ tại nhà thờ chính toà, lúc đó tôi lên 7 tuổi. Trong một phiên giúp lễ, tôi cũng đánh rơi cái lọ. Tôi sợ tưởng chết được, vì mấy cậu bé giúp lễ chúng tôi cứ nghĩ là Đức cha rất nghiêm khắc. Thế nhưng sau Thánh lễ, Ngài gọi tôi lại và hỏi: “Lớn lên con sẽ học ở trường nào? Con có bao giờ nghe nói tới Louvain không?” Tôi đáp: “Thưa Đức cha, chưa." Ngài nói: “Vậy thì con về nói với mẹ con rằng khi lớn lên con sẽ vào học tại trường Đại học Louvain." Tôi không ngờ rằng hai năm sau khi chịu chức linh mục, tôi đã ngồi trên chuyến xe lửa trực chỉ Louvain.

Cũng một biến cố, nhưng tôi đã đi về hướng này, còn Titô thì đi về hướng ngược lại.

5. Muối phải mặn

Vậy thì vị mặn của muối nơi chúng ta là gì? Thưa là những đức tính tốt trong ta gây được ảnh hưởng tốt cho những người chung quanh: trong gia đình, giữa bạn hữu, nơi làm việc, trong trường học.

Mẹ Têrêsa nói: “Thầy Vinod, người điều hành Gandhiji Prem Nivas, trung tâm người cùi ở Titagarh, Calcutta, hiểu tại sao chúng tôi cố không giảng đạo, nhưng chỉ tỏ cho thấy đức tin của chúng tôi qua hành động và sự phục vụ.

- Mẹ có chứng kiến những người được Mẹ giúp đỡ cải đạo sang Công giáo không?

- Có, một vài người đã cải đạo, nhưng chúng tôi không hề cố khuyến khích họ một cách trực tiếp. Bằng việc rèn luyện đức ái của người Thiên Chúa giáo, chúng tôi đến gần Chúa hơn và chúng tôi cũng cố giúp những người khác đến gần Ngài hơn mà không đặt bất cứ áp lực tôn giáo nào lên họ. Khi họ đón nhận tình yêu tức là họ đón nhận Thiên Chúa và ngược lại.

Một câu hỏi đặt ra cho người Kitô hữu hôm nay: sống giữa người khác, chúng ta đã đóng vai trò muối ướp mặn đến đâu rồi? Hay họ chỉ là muối đã lạt đi rồi? Nếu thế thì họ trở thành vô dụng và chỉ còn việc vất ra ngoài đường cho người ta chà đạp lên thôi.

6. Gương sáng thu hút

Ánh sáng là để cho người ta thấy. Đốt đèn rồi che lại, lấy thùng đậy lại thì ngọn đèn trở nên vô dụng. Ánh sáng cũng có nghĩa là làm chứng. Đèn phải để trên đế cao để cho thiên hạ thấy việc tốt của anh em làm mà ngợi khen Cha anh em ở trên trời.

Một trong những nhà truyền thuyết giáo xuất chúng nhất của thế kỷ 19 là Đức Hồng Y Mermillotd, Giám mục giáo phận Lausanne (Thụy sĩ). Ngài qua đời năm 1892. Có một lần, sau khi giảng về phép Mình Thánh Chúa trong nhà thờ chính tòa, giáo dân ra về. Còn ngài theo thói quen ở lại chầu Mình Thánh Chúa nửa giờ. Khi ngài vừa đứng dậy để đi ra, ngài nghe có tiếng của một bà gọi ngài. Ngài rất ngạc nhiên, vì ngài tưởng không còn ai trong nhà thờ nữa. Người phụ nữ trình bày:

“Kính thưa Đức Cha, con đã nghe Đức Cha giảng. Bài giảng rất thuyết phục. Nhưng những lời Đức Cha nói suông chưa làm con xác tín về phép Thánh Thể. Con biết Đức Cha giống như một luật gia bảo vệ cho đức tin của Giáo hội công giáo. Con còn muốn điều gì hơn thế nữa. Vậy là con nấp và con quan sát. Khi con thấy Đức Cha quỳ gối cầu nguyện hồi lâu và sốt sắng, dù Đức Cha biết trong nhà thờ không có ai, gương sáng ấy đã đánh động con. Con không muốn theo đạo Tin lành nữa. Con muốn trở lại đạo công giáo."

Mẹ Têrêsa nói: “Chúa Giêsu đã đến như là ánh sáng của thế gian, và những ai theo Ngài, đều được mời gọi phổ biến ánh sáng này, ánh sáng ban sự sống cho con người."

7. Lời giảng và cuộc sống

Nhà Cách mạng lừng danh Gandhi, tuy ông không phải là người Công Giáo, nhưng ông rất say mê Thánh Kinh, Thánh Kinh chính là Cuốn Sách gối đầu giường của ông. Nhờ thấm nhuần tinh thần Phúc Âm mà ông đã chủ trương bất bạo động, lấy tình thương xóa hận thù để buộc đế quốc Anh phải trả lại độc lập cho dân tộc Ấn, lại còn giúp dân Ấn xây dựng đất nước! Nhờ trải nghiệm này mà ông đã nói với mọi người rằng: “Đời chỉ thành công bao lâu dám thí nghiệm sống chân lý Phúc Âm."

Đức Tin đã đâm rễ sâu vào ông Gandhi đến thế, nhưng sao đến cuối đời ông vẫn không xin theo Đạo??

Lý do là vì một lần kia, ông muốn vào cầu nguyện tại một Nhà Thờ của người da trắng, với hy vọng sẽ gặp một Linh mục để ông xin học Giáo Lý và được lãnh Bí tích Thánh Tẩy, nhưng khi ông vừa mới bước lên bậc thềm của ngôi thánh đường, thì một người da trắng từ bên trong bước ra cản:

- Nhà Thờ này chỉ dành cho người da trắng, ông muốn cầu kinh thì đi Nhà Thờ khác!

Từ đó ông quyết định không theo đạo Công Giáo nữa!

Kẻ đã cản bước đường ông Gandhi đến với Chúa đáng bị lãnh án Đức Giêsu nói: “Buộc cối đá vào cổ nó mà xô xuống biển” (x Mt 18, 6). Vì nó là độc dược, là vi trùng, tệ hơn muối lạt!

8. Anh em là ánh sáng cho trần gian

Chuyện kể rằng sau một thời gian học hỏi tu luyện, người môn đệ hỏi sư phụ: “Thưa Thầy, đâu là sự khác nhau giữa kiến thức và giác ngộ?” Thầy trả lời: “Khi con có kiến thức, con dùng một bó đuốc để soi đường. Còn khi con giác ngộ, chính con sẽ trở thành bó đuốc.”

Trở thành đuốc sáng cho trần gian, quả không phải là chuyện dễ! Vì chỉ có Thiên Chúa mới là ánh sáng (1Ga 1,5) và chỉ có Đức Giê-su mới dám nhận mình là ánh sáng: “Tôi là ánh sáng của thế gian” (Ga 8,12). Thế mà hôm nay, Chúa đã đặt các môn đệ Ngài là ánh sáng: “Chính anh em là ánh sáng cho trần gian.” Đúng vậy. Nhưng chúng ta chỉ là ánh sáng khi chúng ta phản chiếu ánh sáng của Chúa, nghĩa là chúng ta để cho ánh sáng của Người xuyên qua và toả sáng trong cuộc đời chúng ta, để thiên hạ thấy những công việc tốt đẹp chúng ta làm, mà tôn vinh Cha chúng ta, Đấng ngự trên trời (c.16).

9. Bệnh nhân mù

Trong một căn phòng ở bệnh viện, mỗi buổi chiều, khi người đàn ông ở trên chiếc giường gần cửa sổ được phép ngồi dậy, anh lại ngồi đó, mắt hướng ra ngoài và kể cho người bạn cùng phòng về cuộc sống đang diễn ra bên ngoài ô cửa nhỏ. Người này kể, người kia nhắm mắt tưởng tượng. Cứ thế, họ cùng tìm niềm vui nho nhỏ mỗi ngày.

Đó cũng là khoảng thời gian hạnh phúc mà người đàn ông ở chiếc giường bên kia được hưởng. Thế giới được mở ra sống động với anh: “Ô cửa sổ nhìn ra một công viên bên một dòng sông thơ mộng. Nơi có những chú vịt, chú thiên nga đang nhẹ nhàng lướt mình trên mặt nước,nơi có những em bé đang nô đùa rộn rã tiếng cười, nơi mà các cặp tình nhân tay trong tay, ngập tràn hạnh phúc. Ở nơi đó muôn hoa rực rỡ sắc màu và còn thấy cả đường chân trời ửng đỏ trước cảnh hoàng hôn…”

Ngày lại ngày qua đi. Một buổi sáng, y tá mang nước rửa mặt đến cho hai bệnh nhận. Và thật buồn… cô phát hiện ra người đàn ông trên chiếc giường gần cửa sổ đã chết. Anh ra đi, một cách nhẹ nhàng và bình yên trong giấc ngủ của mình. Vô cùng đau buồn, cô gọi nhân viên bệnh viện đến mang xác anh đi. Một không khí nặng nề bao trùm căn phòng. Sau đó, người đàn ông còn lại còn lại ngỏ ý muốn được lại gần cửa sổ. Cô y tá kéo chiếc giường của anh sát lại bên cửa sổ. Sau khi chắc chắn anh đã thoải mái, cô để anh lại một mình.

Một cách chậm chạp và khó khăn, anh tự mình di chuyển bằng khuỷu tay, đến sát bên cửa sổ, rướn người để nhìn ra bên ngoài. Nhưng thật bất ngờ! Tất cả những gì mà anh có thể nhìn được qua ô cửa sổ chỉ là một bức tường trống trơn !

Khi cô y tá quay lại, anh hỏi thăm cô về người bạn cùng phòng, người vẫn hằng ngày mở ra một thế giới tươi đẹp và nên thơ cho anh ta qua những lời kể. Cô y tá cho biết người đàn ông đó bị mù. Nghe xong, anh đã lặng đi, một sự xúc động đến khôn tả dấy lên trong lòng.

Chuyện trên đời thật khó hiểu, thế sự như nước chảy mây trôi. Đến một ngày nào đó, ai ai rồi cũng sẽ biến mất khỏi thế gian này, nhưng có những điều còn ở lại.

Những điều còn ở lại không phải là những gì tôi làm cho mình, mà là những điều tôi làm cho người khác, là TÌNH YÊU.

Tình yêu là như thế. Tình yêu được mọi người trân quí, nhưng tình yêu đòi người ta phải ra khỏi chính mình, phải quên đi chính mình, mà sống cho người khác. Tình yêu là vị mặn của muối trong lời Chúa dạy những ai muốn làm môn đệ của Ngài: "Chính anh em là muối cho đời. Nhưng muối mà nhạt đi, thì lấy gì muối nó cho mặn lại? Nó đã thành vô dụng, thì chỉ còn việc quăng ra ngoài cho người ta chà đạp thôi.” (Mt 5,13)

Như hạt muối được nêm vào món ăn phải tan đi, phải biến mất đi, mà để lại vị ngon. Món ăn được gọi là ngon, là được nêm vừa phải, khi muối không được nhắc đến.

10. Ơn gọi của Itô hữu

ĐHY F.X. Nguyễn văn Thuận, trong cuốn ‘Những người lữ hành trên đường hy vọng’, đã kể chuyện một nữ tu mang tên Céline. Công việc của chị trong 40 năm trường là giữ nhà khách với một câu hỏi được lặp đi lặp lại như một điệp khúc trên môi: “Thưa, ông bà muốn gặp ai ạ?”

Suốt 40 năm, đời chị bị cắt vụn thành từng miếng: bất cứ lúc nào, bất cứ ở đâu hay làm việc gì, chị đều có thể phải quay ngay ra phòng khách đáp lại tiếng chuông reo hay tiếng điện thoại: “Tất cả mọi người đều ăn cắp thời gian của chị, hối thúc chị, cằn nhằn chị. Không ai cần gặp chị…”

Phần chị, chị nói: “Tôi chỉ được Chúa gọi một lần duy nhất và từ dạo ấy, tôi đã luôn luôn gọi những người khác: tôi được gọi để đi gọi.”

Trong Phúc âm Matthêu, sau khi công bố Hiến chương Nước Trời, Đức Kitô đã xác định ngay bản chất và ơn gọi của các môn đệ của Ngài: “Anh em là muối cho đời … anh em là ánh sáng cho trần gian” (Mt 5,13.14).

11. Tính cách của muối và ánh sáng

Năm 1227, bá tước Schavenbourg, nguyên là thiếu tướng trong quân đội hoàng gia Phổ, đã từ bỏ mọi sự để theo Chúa, trở nên một thầy dòng trong dòng Anh em hèn mọn của thánh Phanxicô. Bề trên trao cho ông một bộ quần áo nghèo hèn, một chiếc bị và một cái bát để đi khất thực ngay giữa nơi thành thị đông đúc để nuôi người nghèo và nuôi mình.

Một hôm, trên đường đi xin ăn, ông gặp một vị hoàng thân quý tộc đang dạo phố. Ông đến ngửa tay xin bố thí, nhưng vị hoàng thân không thèm lưu tâm. Ông tiếp tục đi theo sau van nài một cách nhỏ nhẹ và nhẫn nhục. Bực mình, vị hoàng thân quay phắt lại tát cho ông một cái.

Cơn phẫn nộ muốn trào ra ngoài, như ngày xưa khi còn hét ra lửa, nhưng ông đã kịp giữ bình tĩnh và khiêm hạ nói: “Vâng, thưa ngài, tôi xin vui lòng nhận phần tôi là cái bạt tai, còn phần những người nghèo khổ đáng thương, xin ngài đừng quên bố thí …”

Cũng như muối đem lại vị ngon cho món ăn mà hầu như bị người dùng quên đi; ánh sáng tô đẹp bông hoa, soi sáng con đường, mà chẳng được ai nghĩ đến khi ngắm hoa, khi đi lại dễ dàng dưới ánh đèn; đặc điểm của tình yêu mà Đức Kitô đòi hỏi nơi những người muốn trở nên môn đệ Ngài là trao ban, không giữ lại một chút gì cho mình, như muối, như ánh sáng.

12. Là ánh sáng cho trần gian

Bác sĩ Albert Schweitzer được chọn làm “Con người của thế kỷ” vì công việc ông đã làm cho những người nghèo ở Châu Phi. Trong một cuộc phỏng vấn, ông nói: “Khi nhìn lại thời còn trẻ, tôi nhận ra sự giúp đỡ, hiểu biết và lòng can đảm mà nhiều người dành cho tôi quan trọng đến mức nào. Những người nam và những người nữ ấy đã đi vào cuộc đời tôi và trở nên sức mạnh cho tôi.”

Ngoại trừ cha mẹ tôi, ai đã trở nên sức mạnh cho tôi?

Một ngọn nến chẳng mất mát gì khi nó thắp sáng cây nến khác (James Keller).

13. Thành xây trên núi không che giấu được

Nancy Powell 19 tuổi, bị chết trong một tai nạn xe hơi gần Houston. Cái chết bi thảm của cô đã khiến những người quen biết cô vô cùng xúc động. Một thanh niên nói về cô: “Sự trong trắng, tươi trẻ, nhiệt tình, nhất là khả năng yêu thương của cô chan hòa tất cả chúng tôi, những người ở quanh cô. Cô ấy thực sự là niềm vui. Bản chất của Nancy là dù biết con người thực sự là gì, cô vẫn yêu thương họ như thể họ tốt nhất. Tình yêu thương đặc biệt của cô ấy sẽ là động lực cho cả cuộc đời tôi”

Liệu tôi có được người khác nói về tôi như thế không?

Các ngọn hải đăng không thổi còi ầm ĩ, chúng chỉ chiếu sáng (Dwight L.Moody).

THỨ TƯ - KIỆN TOÀN LỀ LUẬT

Lời Chúa: Mt 5, 17-19

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Các con đừng tưởng Thầy đến để huỷ bỏ lề luật hay các tiên tri: Thầy không đến để huỷ bỏ, nhưng để kiện toàn.

Vì Thầy bảo thật các con: Cho dù trời đất có qua đi, thì một chấm, một phẩy trong bộ luật cũng không bỏ sót, cho đến khi mọi sự hoàn thành. Bởi vậy, ai huỷ bỏ một trong những điều luật nhỏ mọn nhất, và dạy người khác làm như vậy, sẽ kể là người nhỏ nhất trong Nước Trời; trái lại, ai giữ và dạy người ta giữ những điều đó, sẽ được kể là người cao cả trong Nước Trời."

TRUYỆN KỂ

1. Nỗi e ngại

Đã có thời người ta nghĩ rằng theo Công giáo là bất hiếu, vì phải từ bỏ việc cúng giỗ cha mẹ tổ tiên.

Nếu người chết cũng có nhu cầu ăn uống tiêu dùng như người sống, thì hiếu thảo đòi phải lo cho người đã khuất được đầy đủ, ấm no.

Nhiều người không dám theo đạo, vì sợ theo đạo thì không được cúng giỗ tổ tiên, phải bỏ ông bà.

Vào thời thánh Mátthêu, một số người Do thái cũng có nỗi sợ tương tự. Họ tin vào Đức Giêsu và muốn trở thành môn đệ của Ngài, nhưng họ lại sợ làm thế là bỏ đạo của cha ông, bỏ Do thái giáo.

Họ sợ giáo huấn mới mẻ của Đức Giêsu làm họ bỏ Luật Môsê, và không còn thuộc về dân Thiên Chúa nữa.

2. Tiếng nói lương tâm của một vị vua

Dạo tháng 4 năm 1990 để khỏi ký đạo luật cho phép phá thai do Quốc hội thông qua, vua nước Bỉ đã từ chức trước đó hai ngày, vì với tư cách là Kitô hữu, lương tâm không cho phép ông ký nhận. Theo hiến pháp Bỉ, do sự từ chức của Nhà vua, Hội đồng Bộ trưởng sẽ thay nhà vua để công bố đạo luật. Theo đạo luật này, nếu gặp khủng hoảng khó khăn và có chứng nhận của bác sĩ, người phụ nữ có quyền phá thai trong 12 tuần lễ đầu. Nhà vua từ chức được đúng hai ngày, Quốc hội tuyên bố việc từ chức của ông chấm dứt, và ông lại tiếp tục cai trị.

Một ông vua từ chức để một luật lệ bất nhân ra đời, đó là hình ảnh của luật pháp loài người: hoặc con người tìm kẽ hở của luật pháp để thủ lợi và hành động ngược với tiếng lương tâm, hoặc do con người nhân danh pháp luật để chà đạp người khác. Mục đích của luật pháp là để phục vụ con người, do đó nếu luật pháp đi ngược lại con người và chối bỏ Thiên Chúa, thì lúc đó thà vâng lời Thiên Chúa còn hơn vâng lời loài người.

3. Đừng chờ đợi hạnh phúc

Nhưng hạnh phúc, phải chăng chỉ ngày mai mới có? Phải chăng đến tận cùng thời gian lời Chúa hứa cho ta hạnh phúc mới được thực hiện? Mà đã là người, ai lại chẳng ước mong khi chết rồi sẽ được hưởng niềm vui và hạnh phúc? Chính ngay bây giờ, hôm nay, ngay lập tức mà chúng ta muốn được hạnh phúc.

Hạnh phúc dù phải vất vả, dù bị người ta hiểu lầm và giễu cợt, dù bị ốm đau, dù cuộc sống vất vưởng, có thể được chăng?

Chúa Giêsu trả lời: được chứ. Ngay bây giờ, chính những ai sống theo tinh thần của tám mối phúc, người ấy sẽ hạnh phúc. Nhưng mai ngày họ sẽ hạnh phúc hơn. Và niềm hy vọng này là nguồn vui cho những kẻ ấy ngay từ hôm nay.

4. Phúc cho ai có tâm hồn nghèo khó

Người ta quen gọi đây là bản Hiến Chương Nước trời. Nước trời là nước hạnh phúc. Muốn vào nước đó phải có 8 đức tính căn bản là:

1/ Tâm hồn nghèo.

2/ Hiền lành.

3/ Sầu khổ.

4/ Khao khát nên đức công chính.

5/ Xót thương người.

6/ Tâm hồn trong sạch.

7/ Xây dựng hòa bình.

8/ Chịu bách hại vì đức công chính.

Có thể quy tất cả đức tính ấy vào một đức tính căn bản là “Tâm hồn nghèo.” Người có tâm hồn nghèo là người không màng đến và không cậy dựa vào tiền bạc, danh lợi lạc thú trần gian, ăn thua hơn thiệt đời này, nói cách khác: không màng đến nước trần gian.

Vì căn bản hạnh phúc có tâm hồn nghèo, nên có thể nói: hạnh phúc đích thực của Kitô hữu là vứt hết những gì mình có, để được lấp đầy bằng chính Chúa.

5. Chiếc nhẫn thần kỳ

Chuyện cổ Đông phương kể rằng: ngày xưa, có một vị đạo sĩ dâng cho vua một chiếc nhẫn thần kỳ và vô giá. Nó vô giá vì được làm bằng thứ kim loại quý hiếm và gắn đầy kim cương lóng lánh: nó kỳ diệu ở chỗ nếu người đeo nó làm điều lành, thì nó rất vừa vặn và chiếu sáng. Nhưng nếu người đó làm điều ác, thì nó sẽ biến thành một cái máy xiết rất mạnh, làm cho ngón tay trở nên đau đớn.

Mỗi người chúng ta cũng có một chiếc nhẫn thần là Lề Luật của Thiên Chúa. Tuy nhiên, chiếc nhẫn thần đó mang lại cho chúng ta niềm vui, hạnh phúc hay đau khổ là do thái độ của chúng ta với chúng. Thái độ đó là yêu mến hay bị ép buộc?

6. Tình yêu có sức mạnh

Người ta kể lại rằng, một lần kia một vị giáo sư của đại học Baltimore, Hoa Kỳ, yêu cầu các sinh viên đang theo lớp giảng huấn của ông về xã hội học, hãy đến một xóm nghèo của thành phố để nghiên cứu về cơ may được thăng tiến trong xã hội của hai trăm em học sinh trong xóm. Vị giáo sư không khỏi ngạc nhiên khi đọc những bản báo cáo của các sinh viên sau thời gian nghiên cứu báo cáo lại. Các sinh viên cho rằng, không em nào trong hai trăm em của xóm nghèo này được xét là có cơ may phát triển.

Nhưng câu chuyện không dừng lại ở đó. Hồ sơ của hai trăm em được lưu giữ cẩn thận tại trường để rồi lại hai mươi năm sau, một vị giáo sư khác đem ra nghiên cứu lại và lần này giáo sư yêu cầu các sinh viên của mình hãy đến xóm nghèo trên, để điều tra lại xem hai trăm em đã được phỏng vấn cách đây hai mươi năm hiện đang như thế nào. Bản tường trình thứ hai này cho biết một kết quả hết sưc bất ngờ và tích cực:

“Ngoại trừ hai mươi em chết hoặc đã cùng gia đình dọn đi nơi khác không để lại địa chỉ, còn lại 180 em thì có một trăm bảy mươi sáu đã thành công trên đường đời, vượt xa mức tiên đoán của bản phúc trình thứ nhất đã được thực hiện hai mươi năm trước. Các em đó đã trở thành: người thì luật sư, kẻ thì bác sĩ, người khác là những nhà kinh doanh nổi tiếng."

Vừa bỡ ngỡ, vừa tò mò muốn biết tại sao các em trước kia bị thẩm định như là không có cơ may nào để tiến lên trong xã hội, nhưng nay đã thành công như vậy thì vị giáo sư này mới cho các sinh viên đi gặp từng người đã thành công để hỏi lý do. Tất cả đều nói đến một con người còn sống đã ảnh hưởng sâu xa đến đời sống của họ, con người đáng kính đó chính là thầy giáo của ngôi trường họ đã học. Vị giáo sư tìm đến người thầy giáo già để hỏi xem đã ông dùng bí quyết nào mà những học trò của ông lại thành công như vậy.

Thầy giáo già trả lời: “Bí quyết của tôi đơn sơ lắm: tôi đã lấy tình yêu thương giáo dục những trẻ đó."

Tôi đã lấy tình yêu thương mà giáo dục những trẻ đó. Đấy là bí quyết của giáo dục. Và chỉ có tình yêu mới có thể giúp con người phát triển.

Không có tình yêu trong gia đình, cha mẹ không thể giúp con cái phát triển. Không có tình yêu trong xã hội, xã hội đó không thể đem lại sự phát triển đích thực cho con người. Con người cần đến tình yêu nhiều hơn của cải vật chất. Mẹ Têrêsa Calcutta đã có lời khuyên rất đơn sơ nhưng cũng rất căn bản cho mọi công cuộc phát triển và cho hạnh phúc của con người. Mẹ nói:

“Hãy phổ biến tình yêu khắp nơi bạn sinh sống, trước hết là trong gia đình: cha mẹ hãy yêu thương con cái, vợ chồng yêu thương nhau, mọi người yêu thương người thân cận, đừng để bất cứ ai đến với bạn mà lúc ra về lại không cảm thấy mình được trở thành tốt hơn, hạnh phúc hơn. Hãy biểu lộ hình ảnh sự tốt lành của Thiên Chúa trong ánh mắt, nụ cười, trong lời nói việc làm."

Chỉ tình yêu thương mới giúp con người phát triển. Thiên Chúa đã đối xử với chúng ta như vậy. Ngài là tình yêu và không ngừng yêu thương chúng ta. Hãy mở rộng tâm hồn đón nhận tình yêu của Ngài, đồng thời đối xử như thế đối với anh em chung quanh. Yêu mến Chúa và yêu thương anh em, đó là trọn cả lề luật.

7. Luật của trái tim

“Luật là cái mạng nhện các con ruồi lớn vượt qua và những con nhỏ bị dính vào” (De Balzac). Luật lệ nào cũng có những kẻ hở, nếu chỉ là hình thức áp đặt bên ngoài. Luật Mô-sê và các ngôn sứ cũng vậy thôi. Đức Giê-su đã kiện toàn luật Cựu Ước, đặc biệt là Mười Điều Răn, bằng cách nội tâm hóa lề luật, đưa con người vào cái gì là cốt lõi của lề luật, đó là tâm tình yêu mến. Chính tâm tình mến Chúa yêu người ấy giúp con người đạt đến mức hoàn thiện như Cha trên trời. Chính vì thế, thánh Phao-lô đã nhắc đi nhắc lại: “Yêu thương là chu toàn lề luật” (Rm 13,8.10). Việc thờ phượng Thiên Chúa không cốt ở dâng lễ vật nhưng ở lòng nhân từ, cũng chẳng phải nằm ở việc tuân giữ lề luật cách máy móc bề ngoài, nhưng ở quả tim yêu mến chân thành.

 “Cuộc sống Ki-tô giáo có thể gồm tóm trong một câu: Hãy yêu mến Chúa và làm điều bạn muốn” (Th. Augustinô). Được ơn nhận biết Chúa và tình yêu của Ngài, đời bạn chỉ còn mỗi một việc là đáp lại bằng tình yêu mến. Lúc đó, tất cả những gì bạn muốn là sống đẹp lòng Chúa mà thôi.

8. Luật và hạnh phúc

Tin đài Chân Lý Á Châu loan đi khắp thế giới sáng ngày 16-08-2000:

“Văn phòng Nghiên Cứu Hiện Tượng của Hoa Kỳ về Đời Sống Hôn Nhân, kết quả được Hội Đồng Tòa Thánh Đặc Trách về Gia Đình trích dẫn trong tài liệu có tựa đề “Bí tích Hôn Phối” xuất bản năm 1989 như sau:

- Trong 100 gia đình không có Đạo, thì 50 % gia đình ly dị.

- Trong 100 gia đình Công Giáo, chỉ đi dự Lễ Chúa nhật, ly dị xuống thấp chỉ còn 10%.

- Trong 100 gia đình Công Giáo, đi dự Lễ hằng ngày, và có giờ cầu nguyện riêng, chỉ còn 1% ly dị.

Vậy gia đình hoặc bất cứ cộng đoàn nào muốn có bình an hạnh phúc, phải năng dự Lễ và có giờ cầu nguyện chung với nhau.

9. Giữ lề luật thật đáng trọng

Một nữ sinh trung học kể câu truyện sau đây: Một buổi sáng nọ, cha cô chuẩn bị đi làm nhưng sớm hơn thường lệ nửa tiếng. Cô hỏi: “Ba, sao ba không nghỉ ngơi ở nhà, còn nửa tiếng nữa, đi làm quá sớm vậy?”… Cha cô trả lời: “Ba không đi làm ngay, ba thường dự thánh lễ lúc 8 giờ tại nhà thờ Chúa Ba Ngôi.” Sau này, cô nói với một người bạn: “Tôi thực sự bị tác động, bởi vì điều đó khiến tôi có một thái độ mới đối với Thánh lễ và một cái nhìn mới về ba tôi.”

Tôi có thực sự tin rằng gương sáng có sức thuyết phục hơn lời nói suông không? Tôi có thể cho người khác dẫn chứng gì về niềm tin của tôi?

Những con người thánh thiện phục vụ thế giới bằng việc phản chiếu ánh sáng vào người khác. (John W. Donohue)

10. Làm điều phải làm

Buổi tụ họp tại hội đường bắt đầu bằng việc rước sách luật xung quanh cộng đoàn. Đây là một thí dụ nhỏ về sự kính trọng của người Do Thái đối với Luật Môsê. Chúa Giêsu đến để kiện toàn lề luật. Trong tân ước, từ Hy Lạp “exousia” được dịch là uy lực, nghĩa là sức mạnh thêm hay bớt một điều gì đó. Đó chính là sức mạnh Chúa Giêsu đòi hỏi và thể hiện trong bài giảng trên núi. Chúa Giêsu hoặc là một người điên hoặc là Con Thiên Chúa để làm điều Ngài đã làm. Ngài đã luôn mâu thuẫn với các nhà lãnh đạo tôn giáo, và Ngài phải rất can đảm để thi hành sứ mệnh Chúa Cha trao phó.

Tôi cần can đảm thế nào để thi hành sứ mệnh người kitô hữu của tôi?

Nhờ ơn Chúa trong tôi và sức mạnh của Ngài sau tôi, tôi có thể vượt qua bất cứ chướng ngại nào trước mắt.

11. Đừng coi thường điều nhỏ

Clara Feldman sống sót sau cuộc sát tế của Đức Quốc Xã trong thế chiến thứ hai. Hiện nay bà đi đến các trường học để dạy trực tiếp cho các học sinh về điều đó. Bà nỗ lực áp dụng bài học của nó vào thế giới hiện đại. Bà khuyên các học sinh: “Chúng ta không thể thờ ơ trước sự ác. Chúng ta không thể nhắm mắt làm ngơ như thể không thấy gì cả.”

Lời của Chúa Giêsu và ví dụ của Clara mời gọi tôi tự hỏi: có điều xấu xa nào tôi nên nỗ lực để chống lại ngay không? Tôi có thể làm gì?

Ai chấp nhận điều xấu mà không chống lại, thì đã thực sự cộng tác với nó. (Martin Luther King)

THỨ NĂM - PHẢI SỐNG CÔNG CHÍNH HƠN

Lời Chúa: Mt 5, 20-26

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Nếu các con không công chính hơn các luật sĩ và biệt phái, thì các con chẳng được vào Nước Trời đâu.

"Các con đã nghe dạy người xưa rằng: "Không được giết người. Ai giết người, sẽ bị luận phạt nơi toà án." Còn Thầy, Thầy sẽ bảo các con: Bất cứ ai phẫn nộ với anh em mình, thì sẽ bị toà án luận phạt. Ai bảo anh em là "ngốc", thì bị phạt trước công nghị. Ai rủa anh em là "khùng", thì sẽ bị vạ lửa địa ngục. Nếu con đang dâng của lễ nơi bàn thờ mà sực nhớ người anh em đang có điều bất bình với con, thì con hãy để của lễ lại trước bàn thờ, đi làm hoà với người anh em con trước đã, rồi hãy trở lại dâng của lễ. Hãy liệu làm hoà với kẻ thù ngay lúc còn đi dọc đường với nó, kẻo kẻ thù sẽ đưa con ra trước mặt quan toà, quan toà lại trao con cho tên lính canh và con sẽ bị tống ngục. Ta bảo thật cho con biết: Con sẽ không thoát khỏi nơi ấy cho đến khi trả hết đồng xu cuối cùng!"

TRUYỆN KỂ

1. Công chính hơn Biệt phái (TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Chúa kiện toàn Lề Luật để phù hợp với Nước Trời. Và môn đệ phải sống theo luật mới để công chính hơn các kinh sư và người Pha-ri-sêu.

Luật cũ đòi buộc bên ngoài. Luật mới đòi buộc trong tâm hồn. Luật cũ cấm ghen ghét. Luật mới đòi yêu thương. Không chỉ cấm giết người. Mà còn cấm cả ghen ghét. “Anh em đã nghe Luật dạy người xưa rằng: Chớ giết người…Còn Thầy, Thầy báo cho anh em biết: Bất cứ ai giận anh em mình, thì đáng bị đưa ra toà. Ai mắng anh em mình là đồ ngốc, thì đáng bị đưa ra trước Thượng Hội Đồng. còn ai chửi anh em mình là quân phản đạo, thì đáng bị lửa hoả ngục thiêu đốt." Không những không được giận anh em. Mà còn không được để cho anh em bất bình với mình. “Vậy, nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hoà với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình." Luật mới là luật yêu thương. Yêu thương không phải ở bề mặt. Mà phải từ đáy sâu tâm hồn. Như thế mới đẹp lòng Chúa. Là của lễ xứng đáng dâng Chúa. Mới công chính hơn kinh sư.

2. Sự thánh thiện đích thực (‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Chân phước Marchello, một kỹ nghệ gia giàu có người Italia, đã bán hết tất cả gia sản và sang Châu Mỹ La tinh phục vụ những người phong cùi, có kể lại câu chuyện như sau: tại một viện bài phung giữa rừng già miền Amazone, có một người đàn bà thoạt nhìn qua ai cũng thấy đáng thương. Từ nhiều năm qua, vì phong cùi, bà bị chồng con bỏ rơi, bà sống đơn độc trong một túp lều gỗ, mặt mũi đã bị đục khoét đến độ không còn hình tượng con người nữa.

Mang đến cho bà vài món quà, chân phước Marchello hỏi bà:

- Bà làm gì suốt ngày? Có ai đến thăm bà không?

Người đàn bà trả lời:

- Tôi sống đơn độc một mình. Tôi không còn làm được gì nữa, tay chân bại liệt, mắt mũi lại chẳng còn trông thấy gì nữa.

Marchello tỏ ra cảm thông trước nỗi khổ của bà, ngài hỏi:

- Vậy chắc bà phải cô đơn buồn chán lắm phải không?

Người đàn bà liền nói:

- Thưa ngài, không. Tôi cô độc thì có, nhưng tôi không hề cảm thấy buồn hoặc bị bỏ rơi, bởi vì tôi cầu nguyện suốt ngày và tôi luôn cảm thấy có Chúa bên cạnh.

Ngạc nhiên về lòng tin của bà, chân phước Marchello hỏi tiếp:

- Thế bà cầu nguyện cho ai?

Người đàn bà như mở to được đôi mắt mù lòa, bà nói:

- Tôi cầu nguyện cho Đức Giáo Hoàng, cho các Giám Mục, Linh mục, Tu sĩ. Tôi cầu nguyện cho những người phong cùi bị bỏ rơi, cho các trẻ em mồ côi, cho tất cả những ai giúp đỡ trung tâm này.

Chân phước Marchello ngắt lời bà:

- Bà không cầu nguyện cho bà sao?

Với một nụ cười rạng rỡ, người đàn bà quả quyết:

- Tôi chỉ cầu nguyện cho những người khác mà thôi, bởi vì khi người khác được hạnh phúc, thì tôi cũng được hạnh phúc.

3. Ta muốn lòng nhân từ - (Lm Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

Câu chuyện

Lần đầu tiên một buổi lễ được trực tiếp truyền thanh cho cả thế giới theo dõi là lễ đăng quang của vua George VI của Vương quốc Anh.

Trong lễ đó, có nghi thức Đức Tổng giám mục Canterbury trao cho nhà vua cuốn Kinh Thánh và nói: “Thưa Hoàng đế cao cả, chúng thần xin trình Ngài cuốn sách này. Đây là báu vật cao quý nhất trên thế giới. Sự khôn ngoan ở đây, quy luật của hoàng gia cũng ở đây. Đây là những lời hằng sống của Thiên Chúa."

4. Hoà giải trước vị thần

Một trong những đền thờ cổ nói lên tinh thần của người Rôma xưa, đó là đền thờ dâng kính nữ thần có sứ mệnh hoà giải loài người với nhau, nhất là những đôi vợ chồng bất hoà.

Người Rôma xưa coi định chế hôn nhân là điều quan trọng trong sinh hoạt chính trị, xã hội; do đó, họ rất quan tâm đến việc bảo toàn gia đình. Khi hai vợ chồng bất hoà và như vậy có thể nguy hại cho đời sống gia đình, người ta khuyên họ đến trình diện nữ thần hòa giải.

Nghi thức diễn ra trước nữ thần rất đơn sơ: mỗi người có thể trình bày lý lẽ, phơi bày những bất công mà mình phải gánh chịu trong đời sống gia đình. Nghi thức đòi hỏi hai người không được nói một lúc, hễ ai ngắt lời người kia hoặc cả hai cùng nói một lúc thì điều đó bị coi như phạm thánh.

Nghi thức này có thể mang đến những kết quả phi thường: sau khi trình bày lý lẽ, rủa xả thậm tệ người phối ngẫu, bác bỏ mọi lời buộc tội, hai vợ chồng thường làm hoà với nhau trước mặt vị thần.

5. Thước đo sự công chính

Trong một làng nọ, có ba người bạn đã quen biết nhau từ lâu:

- Ablin là người thợ rèn.

- Ali làm ruộng.

- Carin là thầy lang.

Ablin, người thợ rèn có tính nóng nẩy, hay say rượu và lười biếng. Còn Ali thì có lòng kính sợ Chúa và ngày ngày từ sáng sớm đến chiều tối, ông chăm chỉ làm việc trên cánh ruộng để có đủ cơm ăn áo mặc cho gia đình. Người ta thấy đôi lúc Ali cũng nổi sùng với những người hàng xóm chung quanh, nhưng cách chung ai cũng phải công nhận ông là người tốt bụng và không hề lường gạt ai. Và cuối cùng, là Carin, một thầy lang nổi tiếng là thánh thiện. Kẻ ốm đau nhất là những người từ ở nơi xa đến, chỉ cần nhìn thấy gương mặt hiền hậu của ông cũng đủ khỏi bệnh.

Nhưng không hiểu vì lý do gì mà cả ba người đều mắc bệnh phong cùi trong cùng một ngày. Dĩ nhiên theo luật pháp và vì lợi ích của dân làng, họ phải bị trục xuất ra khỏi làng và người ta đã dựng cho ba người một túp lều để họ có chỗ che nắng che mưa.

Một hôm, cả ba người nằm ngủ và mơ thấy Chúa. Chúa phán với họ: “Hãy cầu xin cho được lành bệnh." Sáng thức dậy, họ thuật lại giấc mơ của mình cho nhau nghe và vui mừng vì biết chắc đó là điều Chúa muốn. Họ quyết tâm cùng cầu xin Chúa như Ngài đã phán bảo họ.

Sau ba ngày, người thợ rèn, Ablin, được khỏi bệnh, khỏe mạnh và trở về làng trước. Ông tự nhủ trong lòng: không hiểu vì sao mà mình được Chúa thương nhất trong ba người.

Sau ba tháng, thì đến lượt bác nông phu là Ali, cũng được lành bệnh và trở về làng. Trên đường về ông thầm nghĩ là mình được Chúa yêu thương hơn là ông bạn thầy lang. Ông ấy vẫn còn đang bị bệnh! Thật tội nghiệp. Rồi ông tự nhủ với lòng của mình: phải chăng tiếng đồn về lòng nhân đức của thầy lang đều là sai hay sao! Nếu quả ông ta là người thánh thiện, được Chúa thương thì ông phải được Chúa chữa lành bệnh trước chớ. Còn mình, tại sao mình chính trực hơn tên thợ rèn mà cũng phải chờ đến ba tháng.

Ngày tháng trôi qua, năm này đến năm khác, ông thầy lang vẫn còn bị bệnh phong cùi hành hạ, ngày càng thêm ghê tởm và bác nông phu không sao giải thích được điều thắc mắc đó.

Một hôm, đang nằm ngủ ông nghe tiếng Chúa phán bảo:

- Ali, Ta biết rõ trong lòng con vẫn đang thắc mắc về số phận của Carin. Tại sao một con người tệ hơn con như Ablin lại được khỏi bệnh trước, mà Carin là người thánh thiện hơn con lại bị bệnh lâu như vậy. Hãy nghe đây: Sở dĩ ta nghe lời Ablin mau mắn như vậy chỉ vì sự yếu đuối của hắn. Nếu Ta để lâu hơn hắn sẽ ngã lòng thất vọng, không còn tin tưởng vào Ta nữa. Trong trường hợp của con, nếu Ta để lâu hơn ba tháng nữa thì con cũng ngã lòng thất vọng. Trái lại, lòng tin tưởng của Thầy Carin rất mạnh. Ta có thể làm ngơ như không nghe thấy lời Carin cầu xin, vậy mà Carin vẫn không thất vọng, bởi vì Carin là bạn thân của Ta, nên đã hiểu lòng Ta và vì Ta đã trở thành mọi sự cho Carin rồi."

Sáng hôm sau, Ali giật mình thức dậy, bên tai vẫn còn nghe rõ ràng Lời Chúa cắt nghĩa và ông tự hỏi: “Biết đến bao giờ Chúa mới trở nên mọi sự, trở nên tất cả cho đời tôi. Tình yêu Chúa thật bao la và mầu nhiệm biết bao. Làm sao con có thể hiểu được Chúa cư xử như vậy với những bạn thân tình của Chúa. Thế mà con cứ ngỡ rằng: họ là những người bị Chúa quở phạt."

Vâng, người công chính là người biết đặt Chúa lên trên tất cả mọi sự và trên cà cuộc đời của mình.

6. Tha thứ là quyết định tốt nhất

Cuộc sống của Mary Ehrlichmann rơi vào vực thẩm sầu đau khi chồng bà bị ám sát bởi những kẻ vô danh đi nhờ xe. Trong nỗi đau tột cùng, bà viết một lá thư công khai cho những kẻ đã giết chồng bà như sau: “Nếu các người đọc được thư này, hãy tìm một thánh đường, nơi mà các người có thể ở lại một mình, rồi đọc lại một lần nữa. Hãy biết rằng Thiên Chúa đã tha thứ cho các người, cả gia đình tôi và tôi cũng tha thứ cho các người, rồi hãy ra đi và làm điều gì đó có ích cho quãng đời còn lại của các người.”

Đối với tôi, hành động tha thứ nào khó thực hiện nhất?

Tội lỗi không thể xóa bỏ được, điều chính yếu là tha thứ (Igor Stravinsky).

7. Giận dữ là tự sát

Một con rắn bị bẫy có thể giận dữ đến độ cắn chính mình. Đó là hình ảnh thích hợp để diễn tả điều gì sẽ xảy ra, nếu chúng ta để cơn giận làm chủ chúng ta. Rốt cuộc, chúng ta tự hại mình, chứ không phải là kẻ thù hại chúng ta. Càng ngày càng có nhiều bác sĩ khuyến cáo rằng nguyên nhân chính của nhiều căn bệnh là do cơn giận không được kiềm chế. Thuốc sẽ vô hiệu, nếu bệnh nhân không giải quyết được cơn giận của mình.

Tôi có gắng giải quyết cơn giận ra sao khi nó sục sôi trong tôi?

Tha thứ tiết kiệm cái giá phải trả do giận dữ, ghen ghét và lãng phí năng lượng. (E.C.McKenzie)

8. Phúc cho ai xây dưng hòa bình

Ngay khi đèn giao thông bật xanh, động cơ xe hơi của một phụ nữ bị chết máy. Khi bà ta không thể khởi động lại máy, người tài xế xe sau bà bắt đầu nhấn còi. Bà ta cố gắng nhiều lần, nhưng không có kết quả. Lúc đó người tài xế xe sau hết sức tức giận và nhấn còi inh ỏi. Cuối cùng, người phụ nữ ra khỏi xe, đi về phía người tài xế và nói: “Tôi rất sẵn lòng nhấn còi dùm ông, nếu ông khởi động hộ tôi chiếc xe.”

Sự bình tĩnh của người phụ nữ mời gọi tôi tự hỏi: Tôi có thể làm gì để xoay sở những tình huống khó xử?

Phúc cho ai xây dựng hòa bình, vì họ sẽ được gọi là Con Thiên Chúa. (Mt 5,9)

9. Hãy hỏi chính mình

Cựu tổng thống Hoa Kỳ John F. Kenedy đã nói một câu rất hay mà nhiều người Mỹ thường hay nhắc tới: "Đừng hỏi đất nước tôi đã làm gì cho tôi, mà hãy hỏi tôi đã làm gì cho đất nước tôi?" Ông là một người Công Giáo và có lẽ ông đã "chôm" được câu nói lịch sử này từ Lời của Chúa hôm nay: "Có phải đường lối của Ta không chính trực ư? Hay trái lại đường lối của các ngươi không chính trực?" Người Việt Nam có câu: "ghét của nào trời cho của ấy" hay hiểu là vì ghét nên nhận được ghét.

Có nhiều khi muốn đặt câu hỏi cho Chúa thì tôi hãy tự hỏi chính mình. Tôi và bạn có lẽ cũng đã có lần thắc mắc tại sao Chúa không yêu mình? Vậy hôm nay, tôi hãy tự hỏi mình câu hỏi ấy: Tôi có yêu Chúa không? Thường câu trả lời của tôi là: "có chứ." Thế nhưng có lúc nào, có bao nhiêu mới là vấn đề. Hãy thử nhìn lại quá khứ trong Kinh Thánh để hỏi thử xem sao nhé: "Có phải Chúa đuổi ông Adong và bà Evà ra khỏi vườn điạ đàng hay tự họ đã đuổi họ ra khỏi nơi đó?", "Có phải Chúa đuổi dân Dothái hay dân Dothái đuổi Chúa khi chọn Sa-un làm vua của họ?"

10. Cần một tấm lòng

Bài tình ca “Để gió cuốn đi” của Trịnh Công Sơn được nhiều người ưa thích đã xác quyết: “Sống trong đời sống cần có một tấm lòng.” Với người môn đệ Chúa, tấm lòng ấy phải đi trước lễ vật đến độ lễ vật dâng Chúa chỉ có giá trị khi đi kèm theo tấm lòng. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu khẳng định với ta rằng việc thờ phượng Thiên Chúa chỉ được chấp nhận khi được xây dựng trên nền tảng tương quan tốt đẹp với tha nhân. Bởi vì khi chúng ta không yêu thương nhau thì Thiên Chúa cũng từ chối cử chỉ yêu thương của chúng ta dành cho Người. Đó chính là biện chứng của đức tin. Mến Chúa và yêu người chỉ là hai thực tại của hành vi thờ phượng mà thôi.

Lâu nay tôi giữ đạo với tinh thần nào? Lòng mến Chúa và yêu người có kết hợp thành chỉ một hành vi thờ phượng hay tách biệt nhau? Nghi lễ thờ phượng tại nhà thờ có bị “ly dị” với cách cư xử của tôi với tha nhân hay là một thánh lễ kéo dài trong đời sống?

11. Yêu như Chúa yêu

Chân Phước Marcello Candia là một kỹ nghệ gia giàu có người Ý, đã từ bỏ mọi sự, sang Châu Mỹ Latinh phục vụ người phong cùi. Ngài kể một câu chuyện trong đời phục vụ của ngài.

Một lần, đến một trại phong giữa rừng Amazon, ngài gặp một người phụ nữ bị cùi nặng, bị chồng con bỏ rơi. Mặt mũi bà bị biến dạng, sống cô độc trong túp lều nhỏ. Ngài hỏi bà: “Bà sống một mình như vậy có buồn không? Có ai đến thăm không?”

Bà đáp: “Tôi sống một mình, không ai đến thăm, nhưng tôi không cô đơn. Tôi cầu nguyện suốt ngày và cảm thấy có Chúa ở ngay bên cạnh tôi.”

Marcello hỏi tiếp: “Thế bà cầu nguyện cho ai?”

Bà mở to đôi mắt lòa của mình và nói: “Tôi cầu nguyện cho Đức Giáo Hoàng, cho các giám mục, linh mục, tu sĩ, cho người phong cùi bị bỏ rơi, cho các trẻ mồ côi và cho các ân nhân giúp đỡ trung tâm này.”

Ngài hỏi: “Bà không cầu nguyện cho chính mình sao?”

Bà mỉm cười rạng rỡ: “Không, tôi chỉ cầu nguyện cho người khác thôi. Bởi vì khi người khác được hạnh phúc, thì tôi cũng được hạnh phúc.”

Một lời thật sự của một vị thánh. Một trái tim biết yêu như Chúa.

THỨ SÁU – QUYẾT LIỆT XA TỘI

Lời Chúa: Mt 5, 27-32

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Các con đã nghe dạy người xưa rằng: "Chớ ngoại tình.” Phần Thầy, Thầy bảo các con: Ai nhìn người nữ mà ước ao phạm tội, thì đã ngoại tình với người ấy trong lòng rồi. Nếu mắt bên phải con làm con vấp phạm, thì hãy móc quăng khỏi con đi: thà mất một chi thể còn lợi cho con hơn là toàn thân bị ném vào hoả ngục. Và nếu tay phải con làm con vấp phạm, thì hãy chặt mà quăng đi, vì thà mất một chi thể còn lợi cho con hơn là toàn thân bị ném vào hoả ngục.

"Có lời dạy rằng: "Ai bỏ vợ mình, hãy trao cho vợ một giấy ly dị.” Phần Thầy, Thầy bảo các con: bất cứ ai bỏ vợ mình-ngoại trừ vì lý do gian dâm-là làm cớ cho vợ ngoại tình; và ai cưới người vợ bị bỏ, cũng phạm tội ngoại tình nữa.”

TRUYỆN KỂ

1. Hãy sống trong sạch từ tư tưởng? ?

Trên các trang mạng xã hội gần đây có đăng tải câu chuyện của một quan tham, ông ta là Phó Chánh Văn phòng UBND tỉnh Giang Tây, Trung Quốc. Ông này có ý đồ dâm đãng với nhiều phụ nữ. Ông ta trở thành điển hình cho thói ăn chơi sa đọa và bệnh hoạn. Giấc mơ mà ông này đeo đuổi chính là được "qua đêm" với 1.500 người phụ nữ. Kết cục ông đã bị bắt (xc. http://www.tienphong.vn/the-gioi/quan-tham-trung-quoc-dat-muc-tieu-ngu-voi-1500-nguoi-phu-nu-711861.tpo).

Hôm nay Đức Giêsu dạy cho các môn đệ bài học về sự thanh bạch, khiết tịnh từ bên trong, Ngài nói: “Ai nhìn người nữ mà ước ao phạm tội, thì đã ngoại tình với người ấy trong lòng rồi.” Sau đó, Ngài đã nói lên tính cẩn trọng, dứt khoát với tội để có sự toàn vẹn trong cuộc sống mai hậu: “Nếu mắt bên phải con làm con vấp phạm, thì hãy móc quăng khỏi con đi: thà mất một chi thể còn lợi cho con hơn là toàn thân bị ném vào hoả ngục. Và nếu tay phải con làm con vấp phạm, thì hãy chặt mà quăng đi, vì thà mất một chi thể còn lợi cho con hơn là toàn thân bị ném vào hoả ngục.”

2. Thà chết chẳng thà phạm tội

Đaminh Saviô sinh ra trong một gia đình Công giáo, cha mẹ sống rất đạo đức, đặc biệt là người mẹ. Bà chu đáo trong giáo dục con cái, dạy cho con biết phân biệt điều lành điều dữ và nhất là biết tránh xa các dịp tội. Đaminh ghi nhớ rõ từng lời mẹ dạy.

Lên năm tuổi, ngài trở thành một cậu giúp lễ. Khi lên bảy tuổi, ngài được rước lễ lần đầu. Trong ngày đó, Đaminh đã chọn cho mình một quyết tâm để sống. Ngài hứa với Chúa Giêsu: “Thà chết chẳng thà phạm tội!”

Hằng ngày, Đaminh đã cầu nguyện để luôn trung thành với lời hứa ấy... Đaminh luôn gìn giữ tâm hồn trong trắng, không dính vết tội nhơ. Cậu rất gớm ghét tội lỗi làm mất lòng Chúa.

Ngày 18/5/1950, Đaminh Saviô qua đời lúc tuổi đời vừa tròn 14 và trở nên một trong những vị thánh trẻ nhất trong Giáo hội Công giáo.

3. Giữ cho mình và cho người

Đức Hồng Y Roncalli (sau là Giáo Hoàng Gioan 23) ngày kia dự tiếp tân bên cạnh nữ công tước mặc chiếc váy cực kỳ ngắn. Ngài tỏ vẻ khó chịu bằng cách suốt cả bữa tiệc làm như không biết bà. Cuối bữa, ngài đưa cho bà một trái táo. Rất hân hạnh, bà nói:

- Tôi không biết phải cám ơn ngài như thế nào. Nhờ đâu tôi được ưu ái như thế?

 Ngài chăm chăm nhìn bà rồi nói:

- Sau khi Eva ăn quả táo, bà mới nhận ra là mình thiếu quần áo.

4. Bức tranh đẹp nhất cho nhân loại

Một họa sĩ nọ, suốt đời mơ ước sẽ vẽ được một bức tranh đẹp nhất trần gian. Ông đến hỏi một vị giáo sĩ:

- Xin ngài cho con biết điều gì đẹp nhất trần gian?

Vị giáo sĩ liền trả lời:

- Tôi nghĩ rằng: Điều đẹp nhất trần gian là niềm tin, bởi vì niềm tin nâng cao giá trị con người. Ông có thể tìm thấy niềm tin bất cứ nơi nhà thờ nào có những người họp nhau để cử hành và chia sẻ cơm bánh cho nhau.

Nhà nghệ sĩ chưa thỏa mãn, tiếp tục cuộc điều tra, ông đặt ra một câu hỏi tương tự với một cô dâu. Cô dâu trả lời:

- Tình yêu là điều đẹp nhất trần gian, bởi vì tình yêu làm cho đắng cay nên ngọt ngào, mang lại tiếng cười thay cho tiếng khóc, biến nghèo nàn thành giàu sang, làm cho điều bé nhỏ trở thành cao trọng. Cuộc sống sẽ nhàm chán nếu không có tình yêu.

Vẫn chưa thỏa mãn với điều mơ ước, nhà nghệ sĩ đến gặp một người lính chiến từ trận mạc trở về. Được vấn kiến, người lính chiến trả lời:

- Hòa bình là điều đẹp nhất trần gian, chiến tranh là điều bỉ ổi, ở đâu có hòa bình, ở đó có cái đẹp.

Sau khi nghe những lời phát biểu trên đây, nhà họa sĩ tự hỏi? Làm sao có thể vẽ lại một lúc: Niềm tin, Tình yêu và Hòa bình. Về đến nhà, ông nhận ra niềm tin nơi ánh mắt con cái. Tình yêu trong cái hôn của người vợ. Chính niềm tin nơi con cái và tình yêu nơi người vợ làm cho tâm hồn ông tràn ngập hạnh phúc và an bình. Nhà nghệ sĩ chợt hiểu thế nào là điều đẹp nhất trần gian. Sau khi hoàn thành tác phẩm, ông đặt tên cho nó là: Mái ấm gia đình.

5. Chúa Kitô là miếng gỗ

Một lá thư của thánh Phanxicô Salêsiô mô tả một phong tục của nông dân thời ngài: Khi đổ nước vào thùng, người ta cho nổi trên nước một mảnh gỗ để giữ cho nước khỏi sóng sánh. Mảnh gỗ đó giống như Chúa Kitô và nước sóng sánh giống như cuộc đời chúng ta. Hễ khi nào nước cuộc đời trào ra đe dọa hủy diệt chúng ta, lúc đó chúng ta chỉ cần hướng về Chúa Kitô. Ngài sẽ làm cho chúng dịu xuống như đã làm cho biển yên lặng. Ngài sẽ làm cho chúng ta được thanh thản trước gian nan thử thách, như Ngài đã làm điều đó cho thánh Phaolô.

Tôi tin tưởng hướng về Chúa trong những lúc thử thách như thế nào?

Như một con kiến trên một cây gậy đang bị đốt cháy. Tôi đi tới đi lui mà chẳng biết phải làm gì. Và trong nỗi thất vọng ê chề, Ngài đã âu yếm nhìn tôi, tình yêu Ngài là cứu cánh đời tôi.

6. Thiên Chúa thu hút qua thiên nhiên

John Buchan, cựu đại biểu của Nữ Hoàng trong khối liên hiệp Anh ở Canada, đang thực hiện một chuyến du lịch. Buổi sáng sớm nọ, ông đi bơi trước khi ăn sáng. Ông lên khỏi nước và nằm phơi nắng. Những âm thanh tự nhiên – tiếng nước chảy và tiếng chim hót – tác động sâu xa đến ông. Ông quên cả bữa ăn sáng và dường như được đưa vào trạng thái đê mê như thể được dìm vào cõi vĩnh hằng.”

Cũng như Buchan và Êlia, đã bao giờ tôi cảm nhận được Chúa trong thiên nhiên chưa?

Thiên nhiên là bức màn trong suốt, nơi đó vinh quang Thiên Chúa tỏa ra từ khắp nơi. (Ralph Waldo Emerson)

7. Hãy tìm kiếm điều tốt hơn

Có một cảnh rất vui trong phim Peter Pan, Peter vừa bay lên trong không trung. Nhiều đứa trẻ khác cũng thử bay, nhưng không được. Chúng liền hỏi Peter: “Làm thế nào mà bay lên được?” Peter nói: “Hãy nghĩ tới một điều gì đáng yêu. Ý nghĩ đó sẽ nâng bạn lên không trung.” Lời khuyên của Peter có thể được áp dụng trong Bài Tin Mừng hôm nay. Trong Bài Tin Mừng này, Chúa Giêsu khuyến cáo chúng ta về những tội trong tư tưởng. Một cách để chống lại những tội trong tư tưởng là theo lời khuyên của Peter: “Hãy nghĩ tới một điều gì đó đáng yêu. Ý nghĩ đó sẽ nâng bạn lên không trung.”

Tôi đã xoay sở ra sao đối với những cám dỗ trong tư tưởng?

Tư tưởng tốt sinh trái tốt,

Tư tưởng xấu sinh trái xấu,

Và con người là thợ làm vườn của mình. (James Allen)

8. Thuốc để khỏi bị ngựa đá

Bên Tầu, có một làng chuyên buôn ngựa, dân làng hầu như ai cũng bị ngựa đá ít là một lần, và có kẻ đã phải mất mạng! Ngày nọ có một mãi võ sơn lâm đến làng rao bán thuốc ngừa khỏi bị ngựa đá. Ai ai cũng đổ xô ra mua, người bán chỉ trao cho mỗi người một hộp, với lời dặn: khi nào gặp ngựa thì mới mở hộp ra. Nhiều người mua hộp thuốc ấy về, tò mò mở ra, trong hộp chẳng có gì ngoài một sợi dây dài 2m cùng tờ giấy nhỏ có ghi: “Bạn hãy đứng xa ngựa khoảng cách bằng sợi dây này”!?

Trải nghiệm thực tế, không ai có thể thắng nổi sự yếu đuối của xác thịt, vì nó là bản năng con người, cả đến thánh Tông Đồ cũng phải thốt lên: “Ai tưởng mình đứng vững, hãy coi chừng kẻo ngã” (1Cr 10, 12).  

9. Đức khiết tịnh của thánh Antôn Pađua

Thánh Antôn Pađua, một linh mục dòng Phanxicô, nổi tiếng không chỉ vì tài giảng thuyết và hiểu biết Kinh Thánh sâu sắc, mà còn vì đời sống nhân đức, đặc biệt là đức khiết tịnh của ngài.

Có một lần, trong khi giảng thuyết tại một thành phố lớn, ngài được mời ở lại một nhà trọ sang trọng do một người giàu có và quý trọng ngài sắp xếp. Tuy nhiên, đêm hôm đó, một người phụ nữ trẻ đẹp, bị sai khiến bởi kẻ thù của ngài, đã lẻn vào phòng với ý định dụ dỗ ngài phạm tội.

Thánh Antôn, biết được ý định xấu xa, lập tức chạy đến quỳ gối trước Thánh Giá và cầu nguyện tha thiết, xin Chúa gìn giữ ngài khỏi cơn cám dỗ. Rồi, với lòng tin tưởng mãnh liệt, ngài nắm lấy một thanh củi từ lò sưởi, giơ cao và dứt khoát vẽ hình Thánh Giá trên không trung. Lạ lùng thay, người phụ nữ ấy ngã xuống đất, hoảng sợ và ăn năn, rồi lập tức bỏ đi. Sau này, cô ta đã hoán cải đời sống và trở nên một người đạo đức.

Trong một dị bản khác, người ta kể rằng ngọn lửa thanh củi ấy không làm cháy tay ngài, như dấu chỉ cho thấy Chúa đang gìn giữ ngài trong đức khiết tịnh.

Từ đó, bông huệ trắng, biểu tượng của đức trong sạch, thường được vẽ cùng thánh Antôn trong các bức tượng hoặc tranh ảnh, như lời nhắc rằng ngài đã giữ lòng mình tinh tuyền giữa một thế gian đầy cám dỗ.

Câu chuyện này không chỉ đề cao sự thánh thiện và kiên định của Thánh Antôn, mà còn dạy chúng ta rằng  

Khiêm nhường và cầu nguyện là khí giới mạnh mẽ nhất để vượt qua cám dỗ.

Đức khiết tịnh không phải là điều dễ giữ, nhưng nhờ ơn Chúa, ta có thể gìn giữ nó như một kho báu quý giá.

THỨ BẢY - CÓ THÌ NÓI CÓ, KHÔNG THÌ NÓI KHÔNG

Lời Chúa: Mt 5, 33-37

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Các con lại còn nghe dạy người xưa rằng: "Ðừng bội thề, nhưng hãy giữ lời ngươi đã thề với Chúa.”

Phần Thầy, Thầy bảo các con: Ðừng thề chi cả, đừng lấy trời mà thề, vì là ngai của Thiên Chúa; đừng lấy đất mà thề, vì là bệ đặt chân của Người; đừng lấy Giêrusalem mà thề, vì là thành của Vua cao cả; cũng đừng chỉ đầu mà thề, vì con không thể làm cho một sợi tóc ra trắng hoặc ra đen được.

Nhưng lời các con phải: có thì nói có, không thì nói không; nói thêm thắt là do sự dữ mà ra.”

TRUYỆN KỂ

1. Có thì nói có

Những vần thơ sau đây của thi sĩ Phùng Quán quả thật đáng cho chúng ta suy nghĩ:

Yêu ai cứ bảo rằng yêu

Ghét ai cứ bảo rằng ghét.

Dù ai ngon ngọt nuông chiều,

Cũng không nói yêu thành ghét.

Dù ai cầm dao dọa giết,

Cũng không nói ghét thành yêu.

2. Lời cầu nguyện đẹp nhất

Có một người nông dân nghèo khó nhưng đạo đức. Đi đâu anh cũng mang theo trong người cuốn sách kinh. Nhưng một buổi chiều nọ, trên đường từ chợ về nhà, anh không còn thấy quyển sách kinh trong túi của mình nữa. Anh bối rối vô cùng vì đã đến giờ cầu kinh mà anh lại không nhớ bất cứ lời kinh nào cả.

Suy nghĩ mãi, cuối cùng người nông dân ngước mắt lên trời cầu nguyện mà không có quyển sách kinh trước mắt. Anh cầu nguyện như sau: “Lạy Chúa, con đã phạm một điều thật đáng trách. Sáng nay con vội vã ra đi mà không mang theo quyển sách kinh. Mà trí nhớ của con tồi tàn, đến độ đã bao năm trời cầu kinh mà con không nhớ được một kinh nào cả. Xin cho phép con được làm như thế này: Con xin đọc chậm rãi mỗi lần năm mẫu tự. Và Chúa là Đấng quen thuộc những kinh đọc của con, xin Chúa hãy thêm các chữ khác vào. Và như thế các lời kinh của con được hoàn tất.

Nghe thế, Chúa liền nói với các thiên thần: “Trong tất cả những lời kinh mà ta nghe đọc hôm nay, đây là lời cầu nguyện đẹp nhất vì nó xuất phát từ một tấm lòng đơn sơ và chân thật”

3. Có thì nói là có, không thì nói là không

Về vấn đề này, thánh tiến sĩ Tôma Aquinô đã ghi lại trong sổ tay một đoạn văn ngắn sau đây: “Thiên Chúa chính là một bậc thầy tuyệt hảo, Ngài đã để lại cho chúng ta 2 tác phẩm siêu việt, để chúng ta có thể được học hỏi một cách chu đáo. Đó chính là pho sách Tạo vật và pho sách Kinh thánh. Riêng với pho sách Tạo vật, thì có bao nhiêu tạo vật trong vũ trụ thì có bấy nhiêu chương sách tuyệt mỹ trong tác phẩm ấy. Cuốn sách khổng lồ này đã dạy cho chúng ta sự thật mà không pha trộn vào đó một chút giả dối nào cả. Vì thế, khi có người đến hỏi nhà hiền triết Aristote rằng, ông ta đã học được ở đâu mà có được những cơ sở lý luận, những tư tưởng trung thực và cao cả đẹp như vậy, thì ông ta đã trả lời: “Tôi đã học được từ chính các tạo vật quanh tôi, bởi vì các tạo vật thì không bao giờ biết nói dối.”

4. Nhà hiền triết Xénophon với cái lưỡi

Nhiều người trong chúng ta thuộc lòng câu chuyện “Cái lưỡi” của Xénophon, sống vào thế kỷ thứ 6, Xénophon bị bắt làm nô lệ trong một nước láng giềng. Biết ông là người tài giỏi, vua trao cho ông nhiều việc. Một trong những việc quan trọng là thết tiệc. Vua sai ông chọn một món ăn ngon nhất để đãi khách. Ông liền ra chợ mua toàn là lưỡi về nấu. Thực khách ăn và khen ngon.

Nhưng một lần, hai lần, ba lần, lần nào người đầu bếp cũng chỉ đãi toàn lưỡi. Ngạc nhiên, nhà vua cho tìm ông đến hỏi lý do. Người nổi tiếng là khôn ngoan mới giải thích: Còn gì quí hoá cho bằng lưỡi: lưỡi là máy khôn ngoan, nhờ lưỡi ta học biết điều khôn ngoan, nhờ lưỡi con người biết ca tụng lẫn nhau, nhờ lưỡi con người giao ước với nhau và dâng lời cảm tạ Thượng Đế, không gì cao quí cho bằng lưỡi.

Nhà vua lấy làm ưng ý về sự giải thích đó, và để thử lòng nhà hiền triết, vua sai ông nấu một món ăn dở nhất. Lại một lần nữa, Xénophon nấu toàn là lưỡi. Khi được vua chất vấn, ông giải thích: Tâu bệ hạ, còn gì xấu xa cho bằng cái lưỡi, dưới ánh mặt trời này còn gì xấu xa mà lưỡi không can dự vào: phản bội, bất công, gian dối, lừa đảo, trộm cắp, giết người, chiến tranh, tất cả đều do cái lưỡi: nó có thể làm sụp đổ cả Đế quốc, có thể huỷ hoại cả một dân tộc, đạp đổ cả một gia đình, còn gì xấu xa cho bằng cái lưỡi.

Ai trong chúng ta cũng hơn một lần hối tiếc vì những lời do miệng lưỡi chúng ta thốt ra. Và một lời lẽ xúc phạm đến người khác cũng là một xúc phạm đến Thiên Chúa. Một lời dối trá cũng là một lừa đảo người khác, đồng thời xúc phạm đến bản thân bởi vì đánh đổ hình ảnh của Thiên Chúa – Đấng chân thật.

5. Tìm vẻ đẹp không bị mất đi

Người cha có hai con gái ở tuổi thanh xuân. Một cô rất đẹp và một cô kia có dáng vẻ bình thường. Ngày nọ, khi cả hai đang chuẩn bị tới trường, cô bé đẹp hơn nhìn vào gương, rồi phàn nàn với cha rằng gương này không phản chiếu hình ảnh trung thực của cô.

Thay vì giận dữ, ông bố khuyên con: “Ba muốn cả hai con nhìn vào gương đó mỗi ngày. Các con có được vẻ đẹp tự nhiên, phải tự nhắc mình đừng bao giờ làm mất đi vẻ đẹp của gương mặt bằng những hành động xấu. Và con là người không đẹp, con có thể che dấu sự thiếu vẻ đẹp đó bằng sự duyên dáng nơi những đức tính và các cư xử đẹp của con.”

6. Chữ tín của Nhạc Chính Tử

Ngày xưa, nước Lỗ có một cái đỉnh rất cao quí. Nước Tề bắt phải đem dâng. Vua Lỗ tiếc lắm, cho làm một cái đỉnh giả đưa sang. Vua Tề bảo:

- Phải có Nhạc Chính Tử đem sang nói, ta mới tin!

Vua Lỗ cho gọi Nhạc Chính Tử đến bảo đi. Nhạc Chính Tử hỏi:

- Sao không đưa cái đỉnh thật?

- Ta quí nó lắm?

 Vua Lỗ nói.

Nhạc Chính Tử thưa:

- Nhà vua quí cái đỉnh ấy thế nào, thì tôi cũng quí cái đức “tín” của tôi như thế!

Sau, vua Lỗ phải đưa cái đỉnh thật, Nhạc Chính Tử mới chịu đi.

7. Chúa là Sự Thật

Chúa rất ghét sự gian trá. Chúa đã phạt thật nặng những người lừa đảo, thiếu thành thực. Sách Tông Đồ Công Vụ (Cv 5,1-11) có thuật lại:

Hồi ấy có hai vợ chồng Anania và Saphira bán ruộng, lấy tiền dâng các tông đồ, nhưng lại lại lừa đảo thánh Phêrô, giữ lại một phần. Người chồng là Anania đưa tiền để dưới chân thánh Phêrô, và vì thiếu thành thực, nên thánh Phêrô đã nặng lời lên án hành vi giả trá của anh. Lập tức anh ngã lăn ra chết.

Ba giờ sau người vợ là Saphira đến gặp thánh nhân và khi thánh nhân hỏi: “Tiền bán ruộng chỉ có bấy nhiêu sao?” Saphira lừa dối thánh nhân, trả lời là: “Chỉ có ngần ấy.” và Saphira cũng ngã lăn ra chết.

Chúng ta hãy cố gắng sống thành thực với nhau. Đồng thời chúng ta cũng phải nghĩ tới việc sống thành thực với Chúa.

8. Được tha vì biết mình có tội

Hôm ấy quận công Osola được dẫn đi thăm một nhà tù nổi dọc bờ sông. Các tù nhân được tự do trao đổi ý kiến cùng quận công. Ngài ân cần hỏi thăm xem vì những lý do gì mà họ bị giam giữ. Mỗi tù nhân được tự do trình bày về sự lầm lẫn của guồng máy công lý. Nhiều phạm nhân đã một mực không chịu nhận tội mình. Người thì than là anh ta phải bị phạt vào đó chỉ vì ông quan toà thích vậy, người khác nữa lại khăng khăng đổ tội cho lòng ganh tị của kẻ thù riêng. Nói chung, không ai đáng tội phải cầm tù tại đó cả. Cuối cùng có một tù nhân thưa.

- Thưa ngài quận công, tôi thật đáng hình phạt, vì tôi cần tiền, tôi đã ăn trộm và bị bắt.

Ngài quận công rất cảm động với lòng thành thật và khiêm nhường của tội nhân này. Giữa đoàn tù nhân xúm quanh, ngài nói lớn tiếng:

- Anh thật có tội, không xứng đáng ở chung với chúng tôi. Anh hãy rời khỏi nơi đây lập tức.

Ngay tức thì, ngài quận công tha bổng cho tù nhân khiêm tốn chân thành đó.

9. Lời Mẹ dặn

Bài thơ của nhà thơ Phùng Quán. Bài thơ có tên cũng rất hay: Lời Mẹ Dặn.

Con ơi! trước khi nhắm mắt,

Cha con dặn con

Suốt đời phải làm người chân thật.

Mẹ ơi! Chân thật là gì?

Mẹ tôi hôn lên đôi mắt

Con ơi! một người chân thật:

Thấy vui, muốn cười, cứ cười.

Thấy buồn, muốn khóc, cứ khóc

Yêu ai cứ bảo là yêu

Ghét ai cứ bảo ghét.

Dù ai ngon ngọt nuông chiều

Cũng không nói yêu thành ghét

Dù ai cầm dao dọa giết

Cũng không nói ghét thành yêu.

Năm nay tôi hai mươi lăm tuổi

Đứa bé mồ côi thành nhà văn.

Những lời mẹ dặn thuở lên năm

Vẫn nguyên vẹn mầu son chói đỏ

Người làm xiếc đi dây rất khó

Nhưng chưa khổ bằng nhà văn

Đi trọn đời trên con đường chân thật.

10. Lời nói dối vĩ đại!

Edison, sinh ngày 11/2/1847, tại Milan, Ohio (Mỹ), vốn bị coi là đứa trẻ "đần độn, rối trí" (tâm thần). Vào khoảng năm 7 tuổi, một hôm cậu từ trường về nhà và nói với mẹ: "Mẹ, thầy giáo bảo con đưa cho mẹ cái này!”

Cẩn thận mở ra xem, bên trong kèm lá thư của giáo viên chủ nhiệm gửi phụ huynh em Edison, nước mắt bà Nancy Elliott giàn giụa. Cậu bé đứng ngẩn người kinh ngạc, cậu hỏi mẹ rằng thầy giáo đã viết gì trong đó?

Ngập ngừng một lát, bà Nancy đọc to lá thư cho con trai mình: "Con trai của ông bà là một thiên tài! Nhưng ngôi trường này quá nhỏ, các giáo viên của chúng tôi không có đủ năng lực để dạy dỗ cậu bé. Bởi vậy, xin ông bà hãy tự kèm cặp con trai mình.”

Kể từ đó, Edison được mẹ, cũng từng là giáo viên ở Canada kèm cặp, dạy dỗ mà không đến trường thêm lần nào nữa.

Nhiều năm sau đó, mẹ của Edison đã qua đời, còn con trai bà thì trở thành một trong những nhà phát minh vĩ đại nhất thế kỷ 20, người được mệnh danh là "Thầy phù thủy ở Menlo Park" nhờ những sáng chế thiên tài cống hiến cho nhân loại.

Một ngày, khi xem lại những kỷ vật của gia đình, Edison vô tình nhìn thấy một tờ giấy gập nhỏ được cất trong ngăn kéo bàn. Tò mò mở ra đọc, trước mắt cậu chính là lá thư của thầy giáo năm nào. Trong thư, có đoạn: "Con trai ông bà là đứa trẻ rối trí. Chúng tôi không thể chấp nhận cho trò ấy đến trường được nữa.”

Edison đã khóc hàng giờ sau khi đọc lá thư năm nào. Thiên tài viết trong nhật ký rằng: "Thomas Alva Edison là một đứa trẻ rối trí, vậy mà, nhờ có một người mẹ tuyệt vời, cậu đã trở thành thiên tài của thế kỷ.”

11. Cái nhìn của đức tin biến đổi vạn vật

John Powell kể về một thanh niên trong 18 năm trời chỉ thấy được khoảng vài thước trước mặt. Cuối cùng, khi đeo kính, anh bỗng ngạc nhiên sao mọi thứ lại đẹp đẽ đến thế. Anh nói “Đeo kính là kinh nghiệm đẹp đẽ thứ hai của đời tôi.” John hỏi: “Thế kinh nghiệm đầu tiên là gì?” Người thanh niên trả lời: “Đó là ngày tôi tin vào Chúa Giêsu và được biết rằng Thiên Chúa là Cha của tôi. Điều đó cũng giống như bắt đầu một cuộc đời mới.”

Tôi đã bao giờ có một kinh nghiệm thiêng liêng tác động đến tôi một cách đáng nhớ chưa? Điều đó xảy ra ở đâu? Khi nào?

Đừng sợ rằng cuộc đời bạn sẽ kết thúc, nhưng tốt hơn, hãy sợ rằng nó không bao giờ có khởi đầu. (John Henry Newman)

12. Ơn gọi theo Chúa

Cuốn sách “Một người tên là Phêrô” của Catherine Marshall kể câu truyện về người chồng tác giả, một tuyên úy nổi tiếng của Quốc hội. Cuốn sách đã được dựng thành phim. Một ngày nọ, Catherine nhận được một bức thư từ một biên tập thể thao trẻ. Anh ta nói rằng sau khi xem phim, anh cảm thấy tiếng Chúa kêu gọi trở thành thừa tác viên. Anh đã đáp trả và hiện đang sung sướng theo học trong một chủng viện. Đó là một bối cảnh không bình thường tương tự như Êlisa nghe tiếng Chúa gọi trở thành người nối nghiệp Êlia với tư cách một tiên tri của dân Israel.

Tôi đã bao giờ cảm thấy Thiên Chúa đang trò chuyện với tôi qua một cuốn phim hay một cuốn sách nào đó chưa? Đã bao giờ tôi chợt nghĩ về Thiên Chúa trong một bối cảnh không bình thường chưa?

Hiểu được cái vĩnh cửu từ cái ngắn ngủi mau qua, đó là trò chơi kỳ diệu trong cuộc sống của con người (Tennessee William)

13. Trung thực để làm người

Một học sinh trung học viết nguệch ngoạc bằng bút chì dòng suy nghĩ sau đây: “Mỗi ngày, khi đi nhờ xe từ nhà đến trường, tôi thường gặp đi gặp lại một số tài xế. Họ ra dấu là họ sắp phải quay lại nên không thể cho bạn đi nhờ. Rồi khi bạn nhìn theo, họ vẫn cứ thẳng đường tiến. Lạy Chúa, tại sao họ không nói thật? Tại sao họ không nói “không” khi họ có ý từ chối, và nói “có” khi họ đồng ý?”

Theo mức độ từ một đến mười, tôi đã trung thực tới mức nào?

Kẻ hèn nhát hỏi: “Có an toàn không?”

Kẻ thủ đoạn hỏi: “Có khôn ngoan không?”

Kẻ kiêu ngạo hỏi: “Có nổi tiếng không?”

Sẽ đến lúc người ta phải đảm nhận một vị trí không an toàn, không khôn ngoan, cũng chẳng nổi tiếng, nhưng họ phải làm vì điều đó là đúng. (Martin Luther King)

LỄ THÁNH THỂ NĂM A - BÁNH HẰNG SỐNG TỪ TRỜI

Lời Chúa: Ga 6, 51-59

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng dân Do-thái rằng: "Ta là bánh hằng sống từ trời xuống; ai ăn bánh này, thì sẽ sống đời đời. Và bánh Ta sẽ ban, chính là thịt Ta, để cho thế gian được sống."

Vậy người Do-thái tranh luận với nhau rằng: "Làm sao ông này có thể lấy thịt mình cho chúng ta ăn được?"

Bấy giờ Chúa Giêsu nói với họ: "Thật, Ta bảo thật các ngươi: Nếu các ngươi không ăn thịt Con Người và uống máu Ngài, các ngươi sẽ không có sự sống trong các ngươi. Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta thì có sự sống đời đời, và Ta, Ta sẽ cho kẻ ấy sống lại ngày sau hết. Vì thịt Ta thật là của ăn, và máu Ta thật là của uống.

Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta, thì ở trong Ta, và Ta ở trong kẻ ấy. Cũng như Cha là Đấng hằng sống đã sai Ta, nên Ta sống nhờ Cha, thì kẻ ăn Ta, chính người ấy cũng sẽ sống nhờ Ta. Đây là bánh bởi trời xuống, không phải như cha ông các ngươi đã ăn manna và đã chết. Ai ăn bánh này thì sẽ sống đời đời."

TRUYỆN KỂ

1. Kẻ ăn Tôi sẽ sống nhờ Tôi

"Lúc đó tôi biết thế nào tôi cũng chết nhưng tôi muốn con tôi được sống." Đó là lời của bà Susanna sau khi được cứu trong trận động đất ở Ácmêni vào tháng 12-1987.

Trong số hàng ngàn người bị vùi lấp dưới đống gạch, có hai mẹ con bà Susanna may mắn còn sống sót. Cô con gái bốn tuổi đòi uống nước. Tìm đâu ra nước khi hai mẹ con không có lối ra?

Tình mẫu tử đã gợi lên cho bà một ý nghĩ táo bạo, đó là rạch ngón tay mình chảy máu để cho con mút. Đứa bé đã đỡ khát nhờ máu người mẹ. Nó đã sống cho đến khi cả hai mẹ con được cứu.

Đức Giêsu đã chết để chúng ta được sống. Ngài chấp nhận chịu đổ máu qua cái chết thập giá, và Ngài muốn máu Ngài trở nên thức uống cho chúng ta.

2. Lương thực hằng ngày

Khi Mẹ Têrêxa Calcutta sang Liên Xô xin lập một chi nhánh của Dòng bà, bà đã kiên trì xin cho bằng được có một Linh mục để mỗi ngày dâng Thánh lễ cho các nữ tu. Bà giải thích lý do: sở dĩ các nữ tu có đủ tinh thần và nghị lực để mỗi ngày đem đến cho những người nghèo khổ sự an ủi, phục vụ và yêu thương, đó là nhờ Mình Thánh Chúa mà họ rước mỗi ngày. “Thịt ta thật là của ăn và máu ta thật là của uống."

3. Thánh Thể, nguồn sống thiêng liêng.

Trong lời mở đầu của thông điệp về Bí tích Thánh Thể “ECCLESIA DE EUCHARISTIA”, Đức Thánh Cha Gioan-Phalô II đã xác tín “Giáo hội múc nguồn sự sống từ Bí tích Thánh Thể. Sự thật này không đơn thuần diễn tả một kinh nghiệm thường nhật của đức tin, nhưng tóm kết cốt lõi của mầu nhiệm Giáo hội. Trong niềm hân hoan, Giáo hội kinh nghiệm, dưới nhiều hình thức, sự thực hiện liên lỉ lời hứa “Thầy sẽ ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”(Mt 28,20). Kể từ ngày Lễ Ngũ Tuần, Giáo hội bắt đầu cuộc hành trình đi về Quê Trời, bí tích thần thiêng tiếp tục ấn dấu trên ngày sống, bằng cách tuôn đổ trên họ niềm hy vọng tin tưởng."

Công đồng Vatican II tuyên bố cách xác đáng rằng “Mọi Bí tích đều liên hệ và hướng về Thánh Thể. Vì phép Thánh Thể chứa mọi kho tàng thiêng liêng của Giáo hội, nghĩa là chính mình Chúa Kitô Phục sinh. Phép Thánh Thể là nguồn suối, là chóp đỉnh việc rao giảng Tin mừng” (P.O, số 5).

Thánh Thể đóng một vai trò rất quan trọng trong đời sống Giáo hội và giáo dân, nên Giáo hội lập ra lễ kính Thánh Thể để thúc giục giáo dân gia tăng lòng tôn sùng phép Thánh Thể. Lễ kính này đã manh nha ở thành phố Liège bên Bỉ với những ơn lạ của chị dòng Juliana về phép Thánh Thể từ năm 1208 cho mãi đến năm 1263 với phép lạ máu Chúa chảy loang thấm ướt khăn thánh ở làng Polsena bên Đức. Ngày 8.9.1264, Đức Thánh Cha Urbanô ban sắc lệnh Transiturus lập lễ kính Mình Máu thánh Chúa Kitô trên khắp hoàn cầu.

4. Biến đổi trong Chúa.

Một người ngoại giáo hỏi người bạn Công giáo:

- Người Công giáo các bạn ăn Chúa Kitô phải không?

- Vâng, người Công giáo trả lời.

Người kia hỏi tiếp:

- Vậy sao các bạn không trở nên như Chúa?

Một lát sau, khi đi ngang qua trại heo, người Công giáo hỏi:

- Bạn có khi nào ăn thịt heo không?

- Rất nhiều lần. Mà hỏi làm gì vậy?

- Sao bạn chưa biến đổi thành heo?

Đó là câu trả lời cứng cỏi nhưng kiến hiệu cho câu hỏi cứng cỏi. Trong thực tế, chúng ta được biến đổi trong Chúa cách thiêng liêng nhờ sự rước lễ.

5. Hiện diện thực sự.

Một linh mục và một mục sư Tin lành ở cùng một tỉnh thường nói chuyện với nhau nhiều về đạo. Thời gian trôi qua, mục sư bắt đầu tin những chân lý của đạo Công giáo dần dần. Ông tin hết mọi chân lý, trừ có một – chân lý Chúa ngự thật trong phép Thánh Thể. Chân lý duy nhất này ông không thể nào tin được. Ông vẫn nói: “Nếu tôi có thể tin được rằng tôi rước lấy Chúa thực sự khi chịu lễ, thì chắc là tôi sẽ hạnh phúc nhất trên đời; nhưng xem chừng tôi không thể tin được."

Ít lâu sau, vị mục sư đau nặng, Linh mục đến thăm ông, nhưng ông mê man bất tỉnh. Qùi gối bên giường, linh mục cầu xin Chúa ban cho mục sư tỉnh lại và lời cầu nguyện của ngài đã được Chúa nghe. Vị mục sư hấp hối đó mỉm cười và xin được phép ngồi lên, tựa lưng vào gối. Ông có thể tiếp tục nói, nhưng mắt ông nhìn chòng chọc vào cái gì ở chân giường. Ông chỉ tay, nhưng vị linh mục không trông thấy gì cả. Rồi người hấp hối cứ nhìn chòng chọc và bỗng nhiên mặt ông tươi lên như hoa. Ông vừa thở hổn hển vừa phều phào: “Hiện diện thực sự – Nếu tôi được biết kịp thời thì chắc tôi đã giảng cho toàn thế giới chân lý này."

6. Nuôi dưỡng và biến đổi

Đức Cha Helder Camera, Tổng Giám Mục Braxil, đã chia sẻ kinh nghiệm sống mầu nhiệm Thánh Thể như sau: “Mỗi sáng, tôi được nuôi dưỡng bằng Đức Kitô trong Bí tích Thánh Thể, rồi suốt ngày, tôi gặp gỡ Đức Kitô nơi anh chị em tôi. Cũng một Chúa Giêsu ở trên bàn thờ và ngoài đường phố." Bất cứ ai được Thánh Thể cảm hóa đều nhận ra Ngài nơi anh chị em mình, vì Ngài đang hiện diện ẩn dấu nơi họ, nhất là nơi những người nghèo khổ và bất hạnh. Chỉ khi cảm nhận thâm sâu về Mình Máu Chúa Giêsu đang thấm nhập vào máu thịt ta, mới làm ta choáng ngợp và thay đổi dần dần, thay đổi tận căn, để như Đức Kitô, ta lại tiếp tục trở thành tấm bánh cho người khác.

Tuổi trẻ chúng ta luôn khao khát tình yêu, muốn yêu và được yêu đến vô cùng. Chỉ có tình yêu Thiên Chúa qua Đức Kitô mới lấp đầy khát vọng vô biên của chúng ta. Hãy mở toang trái tim mình cho tình yêu Chúa trào tuôn. Tình yêu là con đường ngắn nhất để cho Mình Chúa biến hóa cuộc đời ta thành chính Chúa, vì Bí tích Thánh Thể là Bí tích tình yêu, để cho tâm hồn ta được thỏa lòng khát mong.

Ước chi chúng ta thật sự hăm hở và vui mừng mỗi khi được rước Chúa, được cận kề bên Chúa, để được sống trong Chúa và Chúa sống trong ta. Dần dần ta mới cảm thấy Chúa lấp đầy trái tim khao khát của mình, mới cảm nhận Ngài là sự sống viên mãn và niềm vui miên trường cho chúng ta từ chính cuộc sống hôm nay, để ta dám sống vì tha nhân.

7. Sự sống đích thực—Lm. JB. Lê Ngọc Dũng

Trong lịch sử Giáo Hội, Bí Tích Thánh Thể đôi khi được chứng thực bằng những phép lạ. Trong những phép lạ đó, cũng có những trường hợp là Bí Tích Thánh Thể nuôi dưỡng cả phần thân xác con người. Louis Lateau, một nguời Bỉ được in năm dấu thánh vào năm 1868. Từ nhỏ, cô đã bị đau yếu, ít ăn uống, nhất là sau khi được in năm dấu thánh, cô chỉ còn được ăn chút ít, mỗi ngày một mẫu bánh nhỏ. Và kể từ năm 1871 trở đi, cô không ăn uống được gì, chỉ còn rước lễ hàng ngày, trong suốt bảy năm.

Những trường hợp khác tương tự cũng đã xảy ra trong thời gian gần đây. Trong số những người đó, có Têrêsa Niu-man và Matta Robin đã không ăn uống trong nhiều chục năm. Họ chỉ rước lễ mỗi ngày. Như thế, Thánh thể vốn là của ăn thiêng liêng đôi khi trở nên một ơn lạ nuôi sống cả phần thân xác.

Tuy nhiên khi Chúa Giêsu nói đến bánh hằng sống, Ngài không có ý nhắc đến cuộc sống thể lý mà Ngài có ý nói đến sự sống thiêng liêng, sự sống đơì đời trong tình yêu và hạnh phúc với Thiên Chúa.

Thực ra, cái mà chúng ta gọi là sự sống, trong lãnh vực tự nhiên ở đời này, chẳng đáng gọi là sự sống. Trong Tin Mừng thánh Gioan, Chúa Giêsu muốn sửa sai quan niệm của chúng ta về sự sống và sự chết. Khi tạo dựng con người, Thiên Chúa ban cho ông bà tổ Ađam và Evà cả hai sự sống ấy. Chẳng những đời sống thể lý mà còn đời sống siêu nhiên nữa. Đó là sự sống thân ái kết hiệp với Thiên Chúa.

8. Chiếc nhẫn kỷ vật của tình yêu.

Có một đôi vợ chồng trẻ kia mới lấy nhau được hơn một năm. Trong thời gian đó họ đã sống thật hòa hợp hạnh phúc. Mỗi buổi sáng trước khi rời nhà đi làm, và buổi chiều khi vừa trở về ngôi nhà thân thương, anh chồng không bao giờ quên trao cho vợ một cử chỉ âu yếm và một lời nói yêu thương. Nhờ đó tình yêu giữa hai vợ chồng ngày một nồng thắm. Nhưng rồi hạnh phúc của họ đã bị đe dọa khi một hôm người chồng trên đường từ sở làm về nhà bị trúng mưa. Anh đã bị cảm lạnh phải nằm liệt giường và được vợ anh tận tình chăm sóc. Do bệnh không thuyên giảm, nên anh đã được vợ mang đi bệnh viện và được chẩn đoán mắc bệnh sưng phổi. Sau đó anh tiếp tục được bác sĩ xét nghiệm và xác định anh bị mắc ung thư màng phổi ác tính thời kỳ thứ ba vô phương cứu chữa. Khi biết mình sắp chết, anh chồng đã cầm lấy tay vợ thều thào nói: “Em yêu quí! Có lẽ sắp tới giờ Chúa gọi anh về. Anh đã chuẩn bị và sẵn sàng vâng theo ý Chúa. Anh chỉ tiếc một điều là không còn được tiếp tục sống bên em. Trước khi đi xa, anh không có gì trối lại cho em ngoài chiếc nhẫn mà cách đây hơn một năm hai vợ chồng mình đã trao cho nhau khi kết ước trước bàn thờ Chúa. Bây giờ anh xin tặng chiếc nhẫn kỷ vật này cho em, để em tin là anh luôn ở bên em và hằng cầu xin cho em an lành hạnh phúc." Nói xong, anh tháo chiếc nhẫn đang đeo và âu yếm xỏ vào tay vợ, giống như trước đây anh đã trao nhẫn trong lễ hôn phối của hai người. Sau khi chết, anh được an táng tại nghĩa trang gần nhà. Từ ngày đó, hằng ngày người ta đều thấy một phụ nữ còn rất trẻ, đầu chít khăn tang, tay cầm bó bông đi viếng nghĩa trang. Chị đứng hằng giờ trước ngôi mộ cỏ mọc chưa xanh của chồng để cầu nguyện cho anh. Tay chị có đeo hai chiếc nhẫn: Một chiếc của ngày thành hôn và một chiếc nhẫn thứ hai là kỷ vật thân thương của người chồng quá cố đã để lại khi sắp từ giã cuộc đời.

Hơn hai ngàn năm trước đây, trong bữa Tiệc Ly, Đức Giêsu đã lập phép Thánh Thể, để trao cho Hội Thánh dấu hiệu của một tình yêu vô cùng lớn lao là Mình Máu Thánh của Người dưới hình bánh rượu, để nên của ăn của uống cho các tín hữu, hầu ban cho họ được sự sống đời đời.

9. Hãy làm việc này mà nhớ đến Ta

Có lẽ chúng ta còn nhớ tới vụ động đất tại Nhật Bản vào tháng 3 năm 2011 với một câu chuyện thật cảm động về tình mẹ. Chuyện kể rằng: Sau khi động đất qua đi, lực lượng cứu hộ bắt đầu các hoạt động tìm kiếm cứu nạn. Và khi họ tiếp cận đống đổ nát từ ngôi nhà của một phụ nữ trẻ, họ thấy thi thể của cô qua các vết nứt. Nhưng tư thế của cô có gì đó rất lạ, tựa như một người đang quỳ gối cầu nguyện; cơ thể nghiêng về phía trước, và hai tay cô đang đỡ lấy một vật gì đó. Ngôi nhà sập lên lưng và đầu cô.

Đội trưởng đội cứu hộ đã gặp rất nhiều khó khăn khi anh luồn tay mình qua một khe hẹp trên tường để với tới thi thể nạn nhân. Anh hy vọng rằng, người phụ nữ này có thể vẫn còn sống. Thế nhưng cơ thể lạnh và cứng đờ cho thấy cô đã chết.

Cả đội rời đi và tiếp tục cuộc tìm kiếm ở tòa nhà đổ sập bên cạnh. Không hiểu sao, viên đội trưởng cảm thấy như bị một lực hút kéo trở lại ngôi nhà của người phụ nữ. Một lần nữa, anh quỳ xuống và luồn tay qua khe hẹp để tìm kiếm ở khoảng không nhỏ bên dưới xác chết. Bỗng nhiên, anh hét lên với vẻ đầy ngạc nhiên: "Một đứa bé! Có một đứa bé!"

Cả đội đã cùng nhau làm việc; họ cẩn thận dỡ bỏ những cái cọc trong đống đổ nát xung quanh người phụ nữ. Có một cậu bé 3 tháng tuổi được bọc trong một chiếc chăn hoa bên dưới thi thể của người mẹ. Rõ ràng, người phụ nữ đã hy sinh để cứu con mình. Khi ngôi nhà sập, cô đã lấy thân mình làm tấm chắn bảo vệ con trai. Cậu bé vẫn đang ngủ một cách yên bình khi đội cứu hộ nhấc em lên.

Bác sĩ đã nhanh chóng kiểm tra sức khỏe của cậu bé. Sau khi mở tấm chăn, ông nhìn thấy một điện thoại di động bên trong. Có một tin nhắn trên màn hình, viết: "Nếu con có thể sống sót, con phải nhớ rằng mẹ rất yêu con."

Một tin nhắn thật cảm động. Cảm động vì nó nói lên một tình yêu hy sinh cao đẹp mà người mẹ dành cho con. Qua bí tích Thánh Thể Chúa Giêsu cũng để lại cho chúng ta một tin nhắn: “Hãy làm việc này mà nhớ đến Ta."

10. Nên một với Chúa Giêsu

Muốn cho cành nho rừng tiếp nhận được sự sống của cây nho vườn, thì nó phải được tháp nối nên một với cây nho vườn.

Muốn cho một bàn tay bị cắt lìa thân được tiếp nhận sự sống từ thân thể thì bàn tay đó phải được ghép nối vào thân thể, trở nên một với thân thể.

Vậy muốn cho loài người tiếp nhận được Sự Sống của Chúa Giê-su thì phải làm cho họ nên một với Chúa Giê-su.

Khi rước Mình Máu Chúa Giê-su, chúng ta được kết hợp mật thiết với Chúa Giê-su, như bàn tay nối liền cơ thể. Nhờ đó, Sự Sống đời đời của Thiên Chúa nơi Chúa Giê-su sẽ được thông ban cho ta, tựa như sự sống của thân mình chuyển thông cho bàn tay. Nhờ đó, chúng ta được mang lấy Sự Sống đời đời của Thiên Chúa nơi thân mình chúng ta, như lời Chúa Giê-su xác nhận: “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời” (Ga 6,54)

Như thế, khi hiệp dâng Thánh lễ sốt sắng và trọn vẹn, chúng ta được hưởng cùng một lúc ba hồng ân vô giá:

- Được xóa bỏ tội lỗi;

- Được kết hợp nên một với Chúa Giê-su

- Và được tiếp nhận Sự Sống đời đời do Chúa thông ban.

Lạy Chúa Giê-su,

Chúa phải trả giá rất đắt, trả giá bằng cả cuộc đời và sinh mạng của Chúa để đem lại cho chúng con những ân huệ quá đỗi tuyệt vời này. Lẽ nào chúng con lại ngoảnh mặt quay lưng hay tỏ ra thờ ơ hững hờ với những hồng ân cao vời như thế?

Xin cho chúng con sớm nhận ra hồng ân vô giá nầy để ngày ngày siêng năng tham dự Thánh lễ để tận hưởng những ân huệ lớn lao.

11. Từ thế giới này đến thế giới vĩnh cửu!

Một trong những cuốn sách nổi tiếng và bán chạy nhất là cuốn "On Death và Dying" (Hấp Hối và Chết). Tác giả cuốn sách này diễn tả sự chết qua 5 giai đoạn sau đây: 1) Giai đoạn từ chối và không chấp nhận cái chết (denial), 2) Giai đoạn tức giận (anger): "Tại sao tôi lại chết?" 3) Giai đoạn mặc cả (bargaining) để tìm một lúc khác thuận lợi hơn, 4) Giai đoạn chán nản ngã lòng (depress), 5) Giai đoạn cuối cùng là chấp nhận (acceptance).

Tất cả mọi người chúng ta cho dù ở giai đoạn cuối của những cơn bệnh nạn hiểm nghèo hay ở bất cứ lúc nào, tùy theo mỗi người, thì ai cũng phải đối diện với sự chết. Từ lúc chúng ta lọt lòng mẹ là chúng ta bắt đầu cuộc hành trình tiến đến sự chết.

Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu nói với chúng ta thêm một giai đoạn thứ 6 mà tác giả ở trên đã không nhắc tới. Giai đoạn này là câu hỏi mà nhiều người phải đương đầu đó là "Chúng ta sẽ đi đâu sau khi chết?"

Đã có rất nhiều thuyết về sự sống đời sau mà con người đã vẽ lên bằng trí tưởng tượng trong phạm vi của loài người. Mỗi một dân tộc đều có những nét đặc điểm của họ. Đối với người Hy Lạp ngày xưa, họ cho rằng cuộc sống đời sau như là một nơi cực lạc chan chứa niềm hạnh phúc và không có bất cứ một thay đổi gì về vấn đề thời tiết. Đối với người Ái Nhĩ Lan, sự sống đời sau giống như một hòn đảo của những người được chúc phúc (Island of the Blest). Trên hòn đảo này đầy những cây ngon vật lạ, mọi người đều vui mừng không ngớt, không có đêm hay ngày gì cả, và cũng không có tiếng khóc hay than van.

Tân Ước thì không cho chúng ta hình ảnh về thế giới đời sau theo tính cách của loài người. Tân Ước cũng không nói cho chúng ta biết kỹ lưỡng về những thiết kế của Nước Trời. Tân Ước cho chúng ta một vài hình ảnh như: Thành thánh Giêrusalem mới, kho tàng châu báu, căn nhà với nhiều chỗ ở, quốc gia mà Chúa Kitô làm Vua.

Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu dạy cho chúng ta một bài học rất quan trọng đó là linh hồn bất tử và sự sống đời sau. Ngài trao ban sự sống đời đời cho những ai tin vào Ngài: "Ta là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh Ta sẽ ban tặng, chính là thịt Ta, để cho thế gian được sống" (Ga 6:51).

12. Chúa là nguồn sống

Sau đây là tâm trạng của hai hoàn cảnh khác nhau, một của vị linh mục và một của giáo dân, để giúp chúng ta thấy sự khao khát và sự biến đổi từ Nhiệm tích Thánh Thể:

- Có một thương gia Công giáo người Đức đã đến đảo Green Land, miền Bắc cực vào thời đạo Công giáo còn bị cấm hoạt động ở đây. Vì công việc làm ăn, ông phải ở lại đảo suốt mùa Giáng Sinh. Được biết ông là người Công giáo, một gia đình ở đó, đã mời ông đến nhà để cầu nguyện cùng với họ trong đêm Giáng Sinh. Trong đêm tối lạnh buốt, họ quây quần quanh một chiếc bàn nhỏ và cùng nhau cầu nguyện.

Sau lời chào chúc, họ đọc, nghe Kinh Thánh và một vài lời nguyện, ông lão kéo ngăn bàn và lấy ra một hộp nhỏ. Trong hộp, có một khăn Thánh đã vàng úa theo thời gian. Vừa nâng chiếc khăn Thánh lên, ông lão vừa run run, vừa bày tỏ: “Cách đây 50 năm, Thánh Lễ Giáng Sinh cuối cùng trên mảnh đất này đã được dâng trên chiếc khăn Thánh mà tôi đang cầm. Lúc đó, tôi là một chú giúp lễ và chiếc khăn này là vật duy nhất còn lại khi ngôi Thánh Đường bị thiêu rụi. Mình Máu Thánh Chúa Giêsu đã ngự trên chiếc khăn này." Sau khi nghe những lời ấy, tất cả mọi người quì gối và cầu nguyện trong tiếng nghẹn ngào: “Lạy Chúa, xin cho chúng con được tự do. Xin gởi các Linh mục đến để chúng con được phúc có lễ Chúa Giáng Sinh, để chúng con được dự phần vào Mình Máu Chúa." Mọi người lúc đó, chẳng một ai cầm được nước mắt. Đôi mắt của người thương gia Đức đã rơi lệ chẳng biết từ lúc nào. Lòng ông cảm động, bùi ngùi với tràn đầy ước muốn, tha thiết được rước Thánh Thể. Một sự khao khát mà trước đây ông chưa hề có, cho dù ông vẫn đến Nhà Thờ dự lễ mỗi ngày.

- Và đây là trang nhật ký của một Linh mục: “… Đức Giêsu và Hội Thánh bấy giờ xuất hiện với tôi như một cái gì thật khô cứng, sự khô cứng của những khái niệm Thần học, những bổn phận “phải” làm hơn là một tình yêu thiết tha tung cánh… Rồi chẳng biết từ đâu, triết đông và Phật giáo len lỏi vào tâm hồn tôi, phất phơ nhẹ nhàng nhưng nó lại có sức giật tung những gì mòn mỏi trong lòng tôi. Tôi nằng nặc đòi nhà dòng cho tôi được ra ở một mình trên núi, sống với nắng, với gió mưa, với đói khát, và với cả sợ hãi nữa. Nhưng mỗi lần tôi để tâm suy, trí niệm thì vấn đề Đức Giêsu lại vang lên, đeo bám mãi. Sau một năm, tôi hết phép. Với thân tàn ma dại, tôi thua cuộc, lại mò về nhà dòng hoàn toàn tay trắng! Nhưng Chúa Giê- su cứ đeo bám tôi mãi. Một năm trời nổi loạn, thất bại đã trôi qua và kể như trắng tay, tôi được bề trên gọi làm… Linh mục. Hoang mang và sợ hãi, tâm hồn rối bời, tan nát, tôi vào ngồi bất động trong Nhà Nguyện trầm lặng nhưng lòng như bị đay nghiến, như một mất mát đòi tôi đền bù.

Trước khi làm Linh mục vài hôm, một đêm tôi thử tiến lên đứng sát Nhà Chầu. Có cái gì đó hơn là một cảm giác, hơn là một sự rung động, phủ chụp lấy toàn bộ cuộc đời và con người tôi. Ngay từ giây phút đó, tôi hiểu rằng, cho dù có là hòn đá, hòn sỏi, dù tôi có là con người bê bết lấm bùn, thân tàn ma dại, dù đã làm hỏng cuộc đời, thì Đức Giêsu vẫn gọi và chọn tôi. Việc đó làm cho tâm hồn tôi bừng sáng lên huy hoàng. Và tôi gọi Ngài là Chúa, Cứu Chúa cuộc đời của tôi…"

13. Thánh Thể Là Trung Tâm Đời Sống Kitô Hữu--Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

Đức cố Hồng y FX Nguyễn Văn Thuận đã từng nói: Tôi mơ ước, Tòa Thánh cùng với tất cả các cơ quan của mình, như một bánh thánh lớn, một chiếc bánh duy nhất được dâng hiến trong hy tế thiêng liêng, giữa lòng Giáo Hội như một nhà Tiệc Ly rộng lớn... Mỗi lần dâng Thánh lễ là mỗi lần tôi được dịp giang tay đóng đanh chính mình vào Thập giá với Chúa Giêsu, cùng cạn chén đắng với Ngài... Dù thiếu tất cả, dù mất tất cả, nhưng còn Thánh Thể là còn tất cả vì con có Chúa Thiên Đàng dưới đất... (Trích Bài Thuyết Trình tại Đại Hội Thánh Thể thế giới, Mexico 2004).

Phúc Âm kể lại: Đang khi ăn, Chúa Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, bẻ ra trao cho các môn đệ và nói: “Này là Mình Thầy, các con hãy cầm lấy mà ăn. Rồi Người cầm lấy chén rượu và nói: Này là Máu Thầy, các con hãy cầm lấy mà uống” (Mt 26, 26-29; Lc, 22, 14-20). Chúa đã lập bí tích Thánh Thể và Chúa dặn dò các môn đệ: “Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy."

Tiệc Thánh Thể được chính Chúa Giêsu tiên báo trong tiệc cưới Cana, được hứa ban cho dân ở Caphanaum, được thiết lập trong Tiệc Ly và đã được chính Chúa cử hành đầu tiên tại làng quê Emmau. Bốn khung cảnh này hòa quyện đan kết với nhau thật tuyệt đẹp trong ngày lễ Mình Máu Thánh Chúa Kitô.

Thánh Thể là sự sống của Giáo Hội, là lương thực thiêng liêng cho đời sống và là bảo đảm cho hạnh phúc trường cửu của người tín hữu. Thánh Thể là mối hiệp nhất giữa Thiên Chúa với con người, và giữa con người với nhau. Thánh Thể chính là Tặng Phẩm Thần Linh mà Thiên Chúa trao cho nhân loại.

Lịch sử cứu độ là lịch sử hồng ân và là lịch sử tình yêu tự hiến của Thiên Chúa. Cao điểm của lịch sử này là Thập Giá Đức Kitô. Thập Giá là tột đỉnh hy sinh của Thiên Chúa. Thập Giá biểu lộ tình yêu điên rồ của Thiên Chúa. Thập Giá cũng là tột đỉnh hy sinh của Đức Kitô, Đấng đã hạ mình vâng phục Chúa Cha cho đến chết và chết trên Thập Giá. Thập Giá là cao điểm tình yêu tự hiến của Chúa Kitô.

14. Thánh Thể và đời sống Kitô hữu

ĐHY FX Nguyễn Văn Thuận viết: ”Con muốn hỏi: ‘Cách gì đẹp lòng Chúa hơn cả?’. Hãy tham dự Thánh lễ, vì không kinh nào, không tổ chức, nghi thức nào sánh bằng lời nguyện và hy lễ Chúa Giêsu trên Thánh giá” (Đường Hy Vọng #349); “Muốn tin, phải nuôi mình bằng Thánh Thể, vì Thánh Thể chứa đựng ‘Mầu nhiệm Đức tin’ và ban sức mạnh đức tin cho con." (Đường Hy Vọng #373); ”Biết giá trị Thánh lễ, dù xa dù khó con cũng cố gắng tham dự. Càng hy sinh con càng thấy mến Chúa hơn” (Đường Hy Vọng #346); ”Dù cô đơn nơi đèo heo hút gió, dù tăm tối trong ngục tù, con hãy hướng về các bàn thờ trên thế giới, nơi Chúa Giêsu đang tế lễ; con dâng lễ và rước lễ thiêng liêng. An ủi và can đảm sẽ tràn ngập lòng con” (Đường Hy Vọng #364).

Louis, vị hoàng đế nước Pháp, một vì hoàng đế tốt lành, một người rất siêng năng làm việc. Vua đam mê hoạt động. Vậy mà vua vẫn tìm thời giờ để dự hai ba Thánh lễ mỗi ngày. Mấy người cận thần của vua nói: “Hoàng thượng đã đóng thuế quá nhiều cho những Thánh lễ." Ngài trả lời: “Nếu ta dành thời giờ săn đuổi những thú vui, tham dự những bữa tiệc linh đình với bạn bè, coi hát mỗi ngày, có thể các người than phiền rằng ta đã dành thời giờ quá nhiều cho những thú vui đó. Nhưng các bạn tốt của ta ơi. Các ngươi quên rằng ta dự Thánh lễ mỗi ngày không phải chỉ để cầu nguyện cho bản thân ta mà còn cầu cho cả đất nước của ta, vì ngoài những Thánh lễ ra ta không còn cách nào khác tốt hơn là chuyện đó."

Thánh Louis đã ám chỉ, hàng ngàn người Công giáo: “Họ có thể dự Thánh lễ mỗi ngày nhưng họ không làm. Nếu họ hy sinh chút ít thời giờ đi lễ, họ có thể lãnh nhận được vô vàn ân sủng ngoài sự tưởng tuợng của họ. Thật không hiểu được, không thể giải thích tại sao bao người Công giáo không chịu dự lễ mỗi ngày để lãnh nhận bao ân huệ từ trời cao, vì dự một Thánh lễ giá trị cả ngàn ngày cho họ. Họ không hiểu được bao ơn huệ tuyệt vời và những ích lợi mà họ lãnh nhận được qua Thánh lễ."

Tham dự Thánh lễ tích cực, trọn vẹn là cách tốt nhất thể hiện lòng yêu mến Chúa. Thỉnh thoảng trong ngày, trong tuần, chúng ta nên quỳ gối trước Thánh Thể, chúng ta có thể học được nhiều điều từ bí tích Tình Yêu.

15. Thiên đàng ở đây

Nước Trời, Thiên Đàng, Ơn Cứu Rỗi đang ở đây, không ở đâu xa, đang ở trong lòng ta: chính Thánh Thể Chúa Giêsu, như Chúa Giêsu đã xác quyết: "Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta, thì ở trong Ta, và Ta ở trong kẻ ấy. Cũng như Cha là Đấng hằng sống đã sai Ta, nên Ta sống nhờ Cha, thì kẻ ăn Ta, chính người ấy cũng sẽ sống nhờ Ta" (Ga 6, 56 – 57).

Hơn nữa, dù Thánh Lễ diến ra ở Âu, Á, Mỹ hay Phi, ở thành thị hay thôn quê, ở Nhà Thờ Chính Tòa hay trong nơi lao tù, trong trại cải tạo, thì tấm bánh ấy, chén rượu ấy, cũng là chỉ một Mình Thánh Máu Thánh Chúa Giêsu, và tất cả chúng ta, những người rước lấy, đều sống chung một nguồn sống duy nhất là Chúa Giêsu Thánh Thể. Như vậy, mọi người đang sống trong thiên đàng của Thiên Chúa ngay hôm nay. Vì thế, việc thể hiện tình hiệp nhất, yêu thương, việc bác ái giúp nhau phần hồn phần xác để đi trọn cuộc lữ hành này, là bổn phận thiết yếu của mỗi chi thể trong cùng một Thánh Thể Chúa Kitô.

Thánh Phaolô dạy: "Anh em thân mến, chén chúc tụng mà chúng ta cầm lên chúc tụng Chúa chẳng phải là thông hiệp với máu Chúa Kitô sao? Tấm bánh mà chúng ta bẻ ra chẳng phải là thông phần vào Mình Chúa đó sao? Vì có một tấm bánh, nên chúng ta tuy nhiều người, chúng ta cũng chỉ là một thân thể, vì hết thảy chúng ta thông phần cùng một tấm bánh." (1Cr 10, 16 – 17)

Thế là, hình ảnh sống động của Nước Trời, của Thiên Đàng, của Ơn Cứu Rỗi, còn cụ thể qua việc bác ái. Hai cụ bà hành khất ở xó chợ. Một bà còn lết được, một bà bất toại một chỗ. Bà còn lết được chia cho bà kia những gì mà mình kiếm được mỗi ngày. Hai bạn tù chia nhau một mẫu bánh. Hai người cùng khổ chia nhau mấy con cá lăn tiêu... Đó là hình ảnh Nước Thiên Đàng của Thiên Chúa đang sống động trong chúng ta.

Thiên Đàng không ở đâu xa, không là tương lai, nhưng là hiện tại, là ngay lúc nầy, ở ngay trong lòng ta: Chúa Giêsu Thánh Thể và việc bác ái yêu người mà Thánh Thể Chúa mong muốn, thôi thúc, hướng dẫn.

16. Thánh Thể và đức ái

Ở một Giáo xứ gần chỗ tôi, có cụ già đạo đức đặc biệt. Tuổi cụ hơn gấp đôi tuổi cha sở. Gần đây, cụ thường nhắm mắt lại khi cha sở đọc Lời Truyền Phép. Ai hỏi cụ tại sao nhắm mắt, cụ trả lời là thói quen. Nhưng thực ra, không phải như thế. Mới đây, cụ đã vào xin gặp riêng cha sở.

"Xin cha đóng cửa lại. Con muốn thưa chuyện riêng với cha... Thưa cha, mỗi khi cha đọc Lời Truyền Phép, con nhắm mắt lại để không nhìn thấy cha, để chiêm ngưỡng chỉ một Chúa Giêsu quá sức khiêm nhường. Vì dù cha là con người có bất toàn thế nào đi nữa, có thể có nhiều tai tiếng không tốt, hoặc kể là cha có tội lỗi đi nữa, thì Chúa Giêsu cũng vâng lời cha mà ngự xuống trong hình Bánh Rượu, để nên Mình Thánh Máu Thánh dưỡng nuôi linh hồn chúng con...

Cha biết đó, giáo dân xứ mình đang không vâng lời cha, bỏ xứ nhà sang dự lễ xứ bạn, không tham dự thánh lễ với cha, không xưng tội với cha, còn chống lại cha nữa. Trong khi đó, Chúa Giêsu không bỏ cha, còn thương cha, thương con, thương yêu mọi người mà chịu vâng lời cha ngự xuống trong hình bánh rượu nữa. Mong cha nghĩ lại điều này, để giáo dân cũng vâng lời cha như trước."

Tôi nghĩ cụ già ấy đang làm một việc bác ái do chính Thánh Thể Chúa thôi thúc, Khi đã hiệp nhất trong cùng một tấm bánh, trong cùng một thân thể, thì thương tích của chi thể nầy cũng là nỗi đau của chi thể kia. Không thể có sự dững dưng vô tình trước những thương tích xác hồn của anh em cùng chung tấm bánh, chung ly rượu, đặc biệt hơn khi những anh em đó lại là những hiện thân của Chúa Kitô.

17. Bí tích tình yêu

Một câu chuyện lạ lùng và cảm động về một loài vật vốn đã rất quen thuộc với chúng ta. Chuyện kể rằng, khi sửa nhà, một anh thanh niên người Nhật đã nhìn thấy một con thằn lằn bị kẹt bên trong khe hở giữa hai bức tường bằng gỗ. Một sự tình cờ nào đó đã khiến chân chú thằn lằn tội nghiệp bị một cây đinh ghim vào tường. Nhưng lạ lùng hơn nữa là căn nhà đã được xây dựng hơn mười năm, điều đó đồng nghĩa với việc chú thằn lằn đã sống trong tình trạng này suốt thời gian qua.

Quá ngạc nhiên với những gì đang diễn ra trước mắt, chàng trai bèn ngưng làm việc và tò mò theo dõi xem chú thằn lằn đã sống ra sao trong tình trạng bị "cầm tù" như vậy.

Không lâu sau đó, anh nhìn thấy một con thằn lằn khác xuất hiện, miệng ngậm đồ ăn đến bên con thằn lằn bị ghim vào tường.

Một cảnh tượng thật cảm động. Con thằn lằn bị ghim đinh vào tường đã được một con thằn lằn khác nuôi ăn trong suốt mười năm qua. Không ngờ một loài vật không có linh hồn, không biết suy nghĩ, mà lại có một tình cảm sâu nặng đến như thế.

Thử tưởng tượng cặp thằn lằn ấy đã sống thế nào suốt chừng ấy năm.

Chắc hẳn con thằn lằn bị ghim vào tường dù phải chịu đau đớn nhưng vẫn không ngừng hy vọng. Với con còn lại, nó đã làm việc không biết mệt mỏi và không hề bỏ rơi bạn mình trong suốt mười năm.

Con thằn lằn là như vậy, còn con kiến thì sao?

Trong một lần cháy rừng, khi cánh rừng bốc cháy, anh chị em có biết đàn kiến thoát thân như thế nào không? Chúng nhanh chóng tập hợp lại, ôm nhau thành một cuộn đen tròn rồi lăn như một trái banh, thoát khỏi biển lửa. Mỗi lần đọc đến đây chắc hẳn mỗi người chúng ta đều xúc động. Dường như chúng ta nhìn thấy ngọn lửa đang rừng rực cháy, một bầy kiến đen đang lăn tròn; dường như chúng ta nghe thấy tiếng lắc rắc trong đám lửa, đấy chính là tiếng của những con kiến bị lửa thiêu, những con kiến ở vòng ngoài cùng đã dùng thân mình để mở đường máu. Nếu không nhanh trí quấn lại thành cuộn tròn, nếu không có sự hy sinh của những con kiến vòng ngoài thì dòng họ nhà kiến đã bị thiêu cháy hết. Một loài kiến nhỏ bé sao chúng dám hy sinh cho nhau đến mức ấy.

Câu chuyện con kiến và con thằn lằn như muốn nhắc nhở chúng ta về lời tâm huyết của Chúa Giêsu: Các con hãy yêu thương nhau như chính Thầy đã yêu thương các con.

18. Thiết lập lễ Thánh Thể

Vào năm 1263, tại nhà thờ thánh Catherine, thành Bolsène nước Ý, có một linh mục trong khi dâng lễ, sau khi đọc lời truyền phép đã nghi ngờ về bánh và rượu trở thành Mình và Máu Chúa. Xảy ra là Máu Thánh chảy ướt khăn thánh và khăn bàn thờ. Đức Giáo Hoàng nghe tin và đã rước khăn thánh về để tạm tại nhà thờ Orviette. Sau đó, xây nhà thờ để thờ kính Máu Chúa nơi Khăn Thánh này. Ngày 8 tháng 9, 1264, Đức Giáo Hoàng Urbanô IV (1262-1268) đã ban hành tự sắc Transiturus, lập lễ kính Mình Máu Thánh Chúa Kitô và cử hành sau tuần 8 ngày của lễ Chúa Thánh Thần. Thánh Tôma Aquinô đã sáng tác bài Pange Lingua và Adoro Te để tôn kính Mình Máu Thánh Chúa.

Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ muôn loài và quan phòng mọi sự một cách lạ lùng. Mọi thụ tạo trong hoàn vũ đều thay đổi mỗi giây phút. Các loài có sự sống từ thực vật, động vật đến sinh vật đều theo một tiến trình phát triển, có sinh và có tử. Trong mọi loài Chúa đã dựng nên, được phát triển và nẩy nở theo thời gian năm tháng tùy theo mỗi loại. Nơi mọi loài có sự sống, đều phải hấp thụ dưỡng chất qua môi trường chung quanh để sinh tồn. Có nghĩa mọi loài hiện hữu cần có ăn uống, hấp thụ, tiêu hóa, đào thải, phát triển, già nua và tiêu diệt. Ăn uống là nhu cầu cần thiết để sống và sinh tồn. Ngày xưa dân Do-thái lữ hành trong sa mạc trên đường về miền Đất Hứa, Thiên Chúa đã nuôi dân bằng Manna, thịt chim cút và nước nguồn. Chúa đã nuôi dân suốt thời gian: Trong hoang địa, Người đã nuôi các ngươi bằng Manna mà cha ông các ngươi chưa từng biết tới (Đnl 8, 16a). Manna lương thực nuôi dưỡng hằng ngày là hình ảnh của bánh trường sinh.

19. Ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời

Tại Tây Ban Nha có một câu chuyện về cậu bé tên là Marcellino. Mới sinh ra cậu bị người ta quăng trước cửa tu viện, và đã được các tu sĩ đem về nuôi.

Vốn tính hay nghịch ngợm, nên thày đầu bếp không cho cậu leo lên gác. Nhưng vì tò mò, một ngày kia Marcellino lén leo lên, cậu ngạc nhiên thấy một người khổng lồ bị treo trên thập giá. Nghĩ rằng người ấy chắc là đói lắm, nên đêm hôm ấy Marcellino vào bếp ăn cắp bánh mang lên cho ông. Người khổng lồ đưa tay nhận bánh và mỉm cười với cậu.

Từ đó, ngày nào cậu cũng đem bánh cho người ấy. Ngày kia, ông âu yếm ôm lấy cậu bé và hỏi:

- Con thích nhất điều gì trên trần gian này?

Cậu mau mắn thưa:

- Con muốn được gặp mẹ con.

Người ấy liền nói với cậu bé:

- Con sẽ được gặp mẹ con ngay tức khắc nếu con chấp nhận phải chết đi.

Hôm sau các thầy tìm thấy cậu nằm chết như đang ngủ say trong vòng tay thương mến của Chúa Giêsu.

Vì yêu thương mẹ, muốn được ở bên mẹ, mà Marcellino đã bằng lòng chịu chết. Vì yêu thương con người, Đức Giêsu cũng đã sẵn lòng chịu chết để cho con người được sống. Hơn nữa, Người còn có sáng kiến là hiện diện trong Bí tích Thánh Thể, để được ở mãi với con người, để làm của ăn của uống, như lương thực nuôi dưỡng con người trên cuộc hành trình về quê trời. Người đã hứa: “Ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời."

20. Mình Máu Thánh Đức Kitô.

Palestine là một vùng đất hiện vẫn còn rất đông người theo đạo Hồi. Ngày nọ có một vị thầy, lãnh đạo một cộng đoàn Hồi giáo, mời một linh mục Công giáo đến để công khai tranh luận về bí tích Thánh Thể trước sự hiện diện của các tín hữu đôi bên. Vị thầy hỏi:

- Làm sao một miếng bánh nhỏ lại có thể trở thành Đức Kitô được?

Vị linh mục trả lời:

- Được chứ sao lại không? Tôi xin minh chứng cho thầy biết bằng một thí dụ đơn sơ. Nếu thầy ăn cơm, thầy có thể biến cơm thành máu thịt của thầy, có thật thế không nào? Chớ thì tại sao Chúa lại không biến tấm bánh nhỏ trở thành máu thịt Chúa được.

Bậc thầy đó lại hỏi tiếp:

- Làm sao Đức Kitô to lớn như thế lại có thể ở trong miếng bánh nhỏ xíu?

Vị linh mục trả lời:

- Thầy hay nhìn trời, nhìn núi và các thôn làng. Bầu trời thì mênh mông. Ngọn núi thì cao lớn hùng vĩ, còn thôn làng thì rộng rãi bao la, thế mà con mắt nhỏ xíu của thầy có thể chứa được tất cả. Nếu con mắt của Thầy làm được chuyện đó thì tại sao Thiên Chúa lại không thể làm cho miếng bánh nhỏ xíu chứa đựng được Đức Kitô.

Bậc thầy không chịu thua lại hỏi thêm:

- Làm sao có thể cử hành nhiều thánh lễ cùng một lúc tại nhiều nơi trên thế giới, mà mỗi thánh lễ lại có Mình và Máu của Đức Kitô được?

Vị linh mục đáp:

- Đối với Thiên Chúa không có gì là không thể làm được.

Rồi để chứng minh cho câu trả lời này, vị linh mục lấy một tấm gương ném xuống đất khiến nó bể tan thành rất nhiều mảnh nhỏ. Tiếp đến, vị linh mục giơ tay chỉ cho bậc thầy đang ngạc nhiên và nói:

- Trước đây trong tấm gương này, thầy trông thấy gương mặt mình có phải không nào. Và bây giờ thầy cũng trông thấy gương mặt mình trong từng mảnh nhỏ. Thế thì tại sao Thiên Chúa lại không thể hiện diện tại nhiều nơi trong cùng một lúc được.

Cuộc tranh luận trên giúp chúng ta hiểu được phần nào mầu nhiệm Mình Máu Thánh Đức Kitô mà Giáo Hội cử hành mỗi ngày trong bí tích Thánh Thể. Vậy chúng ta phải có thái độ nào khi đi tham dự Thánh lễ?

Thánh lễ không phải là nơi trình diễn thời trang hay văn nghệ. Vì thế xén đầu bớt đuôi không tham dự đầy đủ, biến Thánh lễ thành buổi trình diễn chỉ có ca đoàn độc tấu từ đầu đến cuối, còn cộng đoàn thì yên lặng, là tỏ ra không hiểu gì về ý nghĩa phụng vụ và tinh thần cộng đoàn của Thánh lễ.

21. Bánh của tình yêu

Trong suốt những năm từ 1984 đến 1986, Ethiopie đã phải chịu đựng một nạn đói khủng khiếp. Đức Hồng y Hume ở Westminster kể lại một sự kiện đã xảy ra, khi ngài thăm viếng Ethiopie giữa thời kỳ nạn đói. Một trong những nơi mà ngài thăm viếng là một trại định cư nằm trên các sườn đồi, tại đó, dân chúng đang chờ đợi thực phẩm không chắc sẽ được gửi tới. Đức Hồng Y đã được chở đến đó bằng trực thăng. Ngay khi ngài vừa mới bước ra khỏi trực thăng, thì có một bé trai, khoảng độ 10 tuổi, chạy đến và nắm bàn tay của ngài. Cháu bé không mặc quần áo gì cả, chỉ đóng một cái khố nhỏ mà thôi. Suốt thời gian mà Đức Hồng Y có mặt ở đó, cháu bé này không hề buông tay mình ra khỏi bàn tay của ngài. Trong khi Đức Hồng y và bé trai này đi bên nhau, cháu bé có hai cử chỉ: cháu dùng một bàn tay chỉ vào miệng của mình, còn bàn tay kia vẫn nắm chặt bàn tay Đức Hồng Y, và ép sát bàn tay ngài lên má của mình. Sau này, Đức Hồng Y đã nói: “Đây là một đứa trẻ mồ côi, đã bị mất hết cha mẹ vì nạn đói. Tuy nhiên, bằng hai cử chỉ đơn giản đó, cháu bé đã chứng tỏ hai nhu cầu đói khát căn bản của con người. Bằng cử chỉ đầu tiên, cháu bé đã cho tôi thấy cơn đói ăn của mình, và bằng cử chỉ kia, cháu đã nói lên nhu cầu được yêu thương. Không bao giờ tôi quên được sự kiện đó, và cho đến hôm nay, tôi vẫn thắc mắc không biết cháu bé đó còn sống không. Tôi còn nhớ là khi bước lên trực thăng, cháu cứ đứng nhìn tôi bằng một cái nhìn đầy trách móc."

Bài đọc hôm nay nói: “Con người không chỉ sống bằng cơm bánh, nhưng còn bằng mọi lời từ miệng Thiên Chúa phán ra."

22. Các phép lạ Thánh Thể

Vào năm 1263, một linh mục từ Prague, thủ đô Tiệp Khắc, đi hành hương tới Rôma cầu xin Thiên Chúa gia tăng đức tin cho ngài vì đang có những nghi ngờ về ơn kêu gọi. Trên đường tới Rôma, ngài ngừng lại ở một thị xã cách Rôma 70 dặm về phía bắc. Tại đây, trong thánh lễ, khi truyền phép ngài nâng cao bánh lễ lên, tấm bánh đã trở nên thịt và bắt đầu chảy máu. Những giọt máu đã chảy xuống trên tấm khăn thánh nhỏ màu trắng trên bàn thờ. Năm sau, 1264 Đức Giáo Hoàng Urban IV đã thành lập lễ Mình Máu Thánh Chúa Giêsu, và ngài đã yêu cầu thánh Thomas Aquinas sáng tác một bài ca cho ngày lễ. Thánh Thomas đã viết ra hai bài nổi tiếng là “Tantum Ergo” và “O Salutaris” mà chúng ta vẫn thường hát khi chầu Thánh Thể. Tấm khăn thánh mang những vết máu vẫn còn được lưu giữ tại vương cung thánh đường Orvieto, phía bắc thành phố Roma.

Mặc dù phép lạ thánh thể này đã dẫn tới việc thiết lập ngày lễ Mình và Máu Chúa Giêsu, nhưng phép lạ Thánh Thể nổi tiếng ở Lanciano, cũng tại Ý, đã xảy ra nhiều thế kỷ trước vào năm 700. Câu chuyện xảy ra tại nhà thờ thánh Legonzanô khi một linh mục dòng thánh Basiliô đang dâng thánh lễ bỗng trở nên nghi ngờ sự hiện diện thực sự của Mình Máu Thánh Chúa trong hình bánh rượu. Lúc truyền phép, sự lạ liền xảy ra ngay trong tay vị linh mục. Bánh trở nên thịt sống và rượu trở nên máu tươi rồi đông đặc lại thành 5 cục to nhỏ. Tuy đã trải qua 1300 năm rồi, ngày nay vẫn còn thấy rõ miếng bánh đã biến thành thịt này có màu hơi nâu, nhìn dưới ánh sáng thấy màu hồng được đặt trong một mặt nhật quý giá. Và năm cục máu màu vàng nghệ được đặt trong một chén thánh bằng kính trưng bày ở nhà thờ Lancianô để giáo dân tự do kính viếng.

Trong 12 thế kỷ qua, giáo quyền đã cho làm nhiều cuộc giám nghiệm vào những năm 1574, 1637, 1770, 1886. Mới đây vào năm 1971 và 1981 một phòng thí nghiệm của bệnh viện đã thử nghiệm lại bằng những thiết bị khoa học tối tân. Công việc được trao cho ông Odoardo Linoli, giáo sư môn giải phẫu nhân hình, kiêm giáo sư mô học bệnh lý, hóa học và hiển vi học, với sự cộng tác của giáo sư Ruggero Bertelli thuộc đại học đường Siena. Kết quả được công bố vào ngày 04.03.1971 trước các vị trong giáo quyền, chính quyền, các giới khoa học, văn học và báo chí:

- Thịt và máu này là thịt và máu thật, của một người có máu AB đã sống.

- Thịt được lấy ra từ mô cơ tim (myocardium), một phần thịt của trái tim, một cách khéo léo tuyệt vời như do một nhà phẫu thuật tài giỏi. Điều này có nghĩa là từ trái tim của Chúa Giêsu, Thánh Tâm. Đây chính là biểu tượng của tình yêu.

- Thịt và máu không có vết tích của một chất nào được dùng để ướp xác cả.

- Trong máu có các chất clorua, phốt pho, magnesium, potassium, sodium và calcium.

Các di tích này được lưu trữ bao nhiêu thế kỷ một cách tự nhiên, lại chịu ảnh hưởng của những xúc tác vật lý, không khí, sinh vật mà vẫn giữ nguyên tình trạng như thế là một hiện tượng kỳ lạ, khoa học không sao giải thích được. Hơn thế nữa, điều lạ lùng là nếu đem cân một cục máu, trọng lượng vẫn bằng tổng số của cả năm cục. Đem cân riêng lẻ từng cục hay cân chung lại với nhau tổng số vẫn không thay đổi.

Đây là hai phép lạ Thánh Thể trong tổng số khoảng 22 các phép lạ khác xảy ra ở khắp nơi trên thế giới. Những phép lạ này trả lời cho những nghi ngờ về sự hiện diện thực của Chúa Giêsu qua hình bánh và rượu. Lòng đạo đức và sự trung thành của chúng ta sẽ tùy thuộc vào sự ràng buộc bởi mệnh lệnh của Chúa Giêsu đã ban trước ngày chịu nạn: “Anh em hãy làm việc này để tưởng nhớ Thầy."

23. Thánh thể tưởng niệm sự hy sinh của Chúa Giêsu:

Một câu chuyện có thật gợi lên sự hy sinh cao cả của Chúa Kitô được những tù binh người Anh bị lính Nhật giam giữ trên bờ sông Kwai kể lại như sau: Một người lính Anh Quốc của trung đoàn Argyll bị lính Nhật bắt giam phải đi làm lao động khổ sai xây dựng đường rầy xe lửa. Như thường lệ, sau mỗi ngày lao động, tất cả những dụng cụ làm việc phải được kiểm kê. Ngay khi một nhóm tù binh vừa trao nộp dụng cụ xong, sắp sửa trở về trại, thì người lính Nhật canh giữ la lên rằng có một cái xẻng bị mất. Anh lính quả quyết rằng một người nào đó đã ăn cắp và bán cho người Thái. Cả nhóm tù binh phải tập họp lại. Anh lính Nhật bước tới bước lui trước mặt từng người tù, anh phô trương, nộ nạt, sỉ vả họ vì hành động xấu xa và vô ơn đối với hoàng đế. Đến lúc phát cáu, hắn nổi giận, và la hét. Hắn yêu cầu thủ phạm phải bước ra khỏi hàng ngũ chấp nhận hình phạt. Nhưng chẳng có ai động đậy. Tên lính Nhật lại càng nổi cơn điên lên cao độ hơn nữa. Hắn hét lên: “Tất cả phải chết! Chết hết! Chết hết!"

Để chứng tỏ điều hắn nói là thật, hắn lên cò súng, kê báng súng lên vai và chĩa nòng súng vào từng người một, sẵn sàng bắn từ đầu cho đến cuối. Vào lúc đó Argyll bước tới, đứng yên và nói: Tôi đã làm điều đó." Tên lính Nhật tuôn ra tất cả sự thù hận, hắn đấm đá túi bụi vào Argyll. Tuy nhiên anh vẫn đứng lặng thinh với khuôn mặt đầy máu me đang chảy xuống. Sự yên lặng của anh đã khiêu khích sự phẫn nộ của tên lính Nhật lên tột độ. Hắn nắm lấy cây súng trường, đưa lên cao khỏi đầu, và với một tiếng tru lên như chó, hắn bắn vào đầu Argyll. Argyll tung người lên, rơi xuống đất, rồi nằm yên bất động. Mặc dù rõ ràng rằng người tù đã chết, nhưng tên lính Nhật vẫn tiếp tục đánh anh cho đến khi hắn kiệt sức mới thôi! Những người tù khổ sai đã lãnh xác người bạn mình, vác những dụng cụ lao động trên vai, bước về trại. Khi những dụng cụ lao động được đếm lại một lần nữa ở đồn lính canh, đã không có cái xẻng nào bị mất cả. Tất cả dụng cụ lao động đều đầy đủ! Thánh Thể là sự tưởng niệm cuộc tử nạn và Phục sinh của Chúa Kitô. Theo ý nghĩa của Thánh Kinh “tưởng niệm” không chỉ có nghĩa là nhớ lại những biến cố của quá khứ, nhưng còn có nghĩa công bố những kỳ công mà Thiên Chúa đã thực hiện cho loài người. Trong Tân Ước từ “tưởng niệm” còn có nghĩa là sự tái diễn có tính cách bí tích, làm cho trở thành hiện tại sự hy sinh của Chúa Kitô như Công đồng Vatican II đã nói: “Tất cả mỗi khi hy lễ thập giá mà Chúa Kitô, lễ Vượt Qua của chúng ta, được hiến tế trên bàn thờ, thì công cuộc ơn cứu chuộc của chúng ta được thực hiện."

24. Chuyện tình cao cả

Trong quyển "Sống Một Nghệ Thuật" có một chuyện tình được xếp vào hàng chuyện tình đẹp nhất Trung Quốc 2006: Một ông cụ 70 tuổi đã tự tay đẽo 6.000 bậc thang để giúp người vợ 80 tuổi của mình trèo lên núi, hay nói đúng hơn đó là cái hang mà họ đã sống 50 năm qua. 50 năm trước, chàng trai Liu Guojiang đem lòng yêu Xiu Chaoqing, một goá phụ đã có con. Quá mệt mỏi bởi những lời đàm tiếu, chống đối, ngăn trở của gia đình, bạn bè, họ đã bỏ nhà lên hang động này sống ẩn dật để được trọn vẹn yêu nhau. "Anh có chắc là không hối tiếc không?" Đó là câu hỏi Xiu thường hỏi chồng. "Chừng nào chúng mình còn làm việc cần cù, cuộc sống chắc chắn sẽ tốt lên." Đó là câu trả lời của Liu.

Vâng, sức mạnh của tình yêu là thế đó. Không có điều gì có thể quật ngã được sức mạnh ấy. Tình yêu nơi nhân loại chính là hình bóng của tình yêu nơi Thiên Chúa. Và nơi Thiên Chúa, tình yêu cũng được cụ thể hoá bằng hành động. "Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một mình cho thế gian... để nhờ Người Con nầy mà thế gian được cứu" (Ga 3,16-17). Tột đỉnh của tình yêu ấy là cái chết đau thương của Đức Giêsu trên thập giá, "Ngài đã tự hiến mình để trở nên của ăn của uống cho toàn dân."

25. Thịt Ta thật là của ăn

Thời cách mạng Pháp 1789, đạo Công giáo bị làm khó dễ và bị cấm không được truyền đạo. Một cha xứ nhà quê lén đem Mình Thánh Chúa cho kẻ liệt, theo sau có cậu giúp lễ tên là Benjamin. Bọn lính cách mạng phát hiện đuổi theo rất gấp. Cha xứ dúi vào tay cậu bé cái hộp đựng Mình Thánh Chúa và bỏ chạy. Lính bắt cha lại và giết cha. Cậu bé giúp lễ vừa chạy vừa mở hộp Mình Thánh Chúa ra và bỏ vào miệng nuốt đi. Lính bắt cậu và tra hỏi. Cậu nói: "Mình Thánh Chúa đang ở trong người tôi." Lính tức giận giết luôn cậu bé, rồi chôn xác cha xứ và cậu bé chung nhau dưới gốc cây sồi to...Sau đó cuộc cách mạng thất bại và qua đi. Một hôm một cơn lốc mạnh đã làm trốc gốc cây sồi, để lộ hai xác: cha xứ và cậu bé giúp lễ. Người ta phát hiện Mình Thánh Chúa vẫn còn trong người cậu bé và xác của cậu vẫn còn tươi dù đã nằm dưới đất khá lâu...

26. Chúa Giêsu bồng ẵm tôi

Một trong những truyện hay nhất của cuộc đời Chúa Giêsu là truyện Chúa bồng ẵm một em bé. Các tông đồ tranh cãi xem ai là người cao cả nhất. Chúa Giêsu bảo các ông: “Ai muốn ở bậc nhất thì phải làm người rốt hết và làm tôi tớ mọi người." Rồi Chúa dắt một em bé lại và để em đứng giữa các ông. Chúa bồng ẫm em và nói: “Ai đón nhận một trẻ nhỏ như em bé này vì danh Ta là đón nhận Ta, và ai đón tiếp Ta, thì không phải đón tiếp Ta, nhưng là đón tiếp Đấng đã sai Ta” (Mc 9,36).

Theo truyền tụng thì em bé này sau trở nên thánh Ignatuiô thành Antiochia, Ngài đã hiến dâng mạng sống vì Chúa Kitô năm 107. Khi còn là thiếu niên, Ignatio thường dẫn bạn bè tới nơi mà Chúa Giêsu đã bồng ẵm cậu và bảo bạn bè: “Các bạn coi đó. Đây là chỗ Chúa Giêsu đã bồng ẵm tôi."

Nếu bạn muốn, bạn có thể coi đó là câu chuyện tưởng tượng của thời trung cổ, nhưng chúng ta biết chắc chắn rằng Chúa Giêsu đã bồng ẵm một em bé. Sự kiện đó hôm nay làm nổi bật tư tưởng của tôi, nghĩa là trong sự Hiệp lễ, chúng ta không chỉ ôm ẵm Chúa Giêsu, nhưng chính Ngài cũng ôm ẵm chúng ta.

LỄ THÁNH THỂ NĂM B

Lời Chúa

TRUYỆN KỂ

1. truyện

LỄ THÁNH THỂ NĂM C

Lời Chúa: Lc 9, 11b-17

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, Chúa Giêsu nói với dân chúng về nước Thiên Chúa và chữa lành những kẻ cần được cứu chữa. Vậy khi đã xế chiều, nhóm mười hai đến thưa Người rằng: "Xin Thầy giải tán dân chúng, để họ đi vào trong các làng mạc và trại quanh đây mà trú ngụ và kiếm thức ăn, vì chúng ta đang ở nơi hoang địa.”

Nhưng Người nói với các ông: "Các con hãy cho họ ăn đi.” Các ông trả lời: "Chúng con chỉ có năm chiếc bánh và hai con cá, trừ phi chúng con phải đi mua thức ăn cho cả đám đông này.” Số đàn ông độ năm ngàn.

Người nói với các môn đệ rằng: "Hãy cho họ ngồi xuống từng nhóm độ năm mươi người.” Các ông đã làm như thế, và bảo tất cả ngồi xuống.

Chúa Giêsu cầm lấy năm chiếc bánh và hai con cá, nhìn lên trời, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và phân phát cho các môn đệ để các ông dọn ra cho dân chúng. Tất cả đều ăn no nê, và người ta thu lượm được mười hai thúng miếng vụn còn dư lại.

TRUYỆN KỂ

1. Thánh lễ trong nhà thờ và thánh lễ ngoài cuộc đời

Đức Hồng Y Hellder Camara về ban phép Thêm sức cho trẻ em trong một xứ đạo. Khi đến nơi, Ngài thấy cả xứ đạo đang quỳ gối lăn lộn trên đất, đấm ngực khóc lóc than van như trong cơn đại hoạ. Đêm trước, trong khi mọi người mê mải chuẩn bị đón Đức Hồng Y, kẻ trộm đã lẻn vào nhà thờ ăn trộm những bình đựng Mình Thánh. Kẻ trộm đổ Mình Thánh Chúa ra vườn, lấy đi những bình mà họ tưởng làm bằng vàng. Thật là một sự phạm thánh ghê gớm.

Thế nhưng trong bài giảng hôm ấy, Đức Hồng Y đã làm cho mọi người kinh ngạc khi Ngài nói: Tại sao hôm nay anh chị em mới than khóc. Hằng ngày biết bao lần Chúa Giêsu bị nhục mạ, bị hành hạ, bị chà đạp, bị giết chết trong những anh chị em nghèo khổ, vô gia cư, trong các trẻ em không cha mẹ, không gia đình, sao chẳng thấy ai than khóc? Anh chị em không biết sao, những anh chị em ấy chính là Chúa Giêsu, là Thân Mình Chúa Giêsu, là Thánh Thể Chúa.

Nói như thế, Đức Hồng Y không có ý coi thường phép Mình Thánh Chúa. Nhưng Ngài có ý nhắc cho ta một khía cạnh thường hay bị lãng quên trong khi cử hành bí tích. Đó phải là cử hành bí tích không chỉ trong nhà thờ mà còn phải cử hành cả ngoài cuộc đời nữa.

2. Ta thương dân bị đói

Tháng 11/ 1979. Đài BBC tiết lộ Mỹ tổn phí sáu mươi tỷ đô và hai vạn quân trong chiến tranh Việt Nam từ 1965-1969. Một phá tán kinh khủng sau thế chiến thứ II. Báo chí tính tiền đổ vào bom đạn ở miền Nam, chưa kể miền Bắc, có thể mua vàng chất đầy một đoàn xe tải đậu sát nhau dài từ Vũng Tàu tới Sài Gòn. Còn trong thế chiến thứ II, người ta tính số tiền phung phí đánh nhau, nếu lấy chia cho mỗi người trên thế giới, sẽ được một nhà lầu và một xe hơi. Ngày nay, theo phát giác của một sử gia Thụy Điển, mỗi phút trên thế giới chi phí quốc phòng là một triệu đô.

Ông Mác Namara, Chủ tịch Ngân hàng Thế giới mười một năm, đã cảnh giác: Mỗi năm thế giới chi phí vô ích vào vũ khí ba mươi tỷ đô với năm trăm nghìn bác học và kỹ sư ! Trong khi hơn bốn tỷ người phải thiếu thốn khổ cực và chết đói.

Tiếng than của chính Đức Kitô đến nay vẫn còn kêu lên: “Ta thương đám dân này vì đã bị đói lả.” Đói lả phần xác, ta có thể đổ lỗi cho xã hội bất công, còn đói lả phần hồn, không đổ lỗi cho ai, mà phải đấm ngực mình ăn năn để lo lãnh nhận của ăn đời đời.

3. Phép lạ ở nhà thờ thánh Christiana.

Vào năm 1263, có một linh mục người Đức đang cử hành thánh lễ tại nhà thờ kính thánh Christiana, thì lúc bẻ bánh trước khi rước lễ, vị linh mục này đã trông thấy Mình thánh hình bánh đã biến thành Thân xác Đức Giêsu tử nạn. Trên thân mình Chúa, máu đang rịn ra qua các vết thương ở tay chân và cạnh sườn Người. Máu chảy ra làm ướt tấm khăn thánh và mấy lớp khăn phủ bàn thờ. Vị linh mục vội gấp các tấm khăn kia lại. Nhưng gấp tới đâu thì máu lại thấm ra tới đó. Cuối cùng máu thấm qua 25 lần vải khăn. Vừa cảm động lại vừa sợ hãi đến nỗi vị linh mục  không thể tiếp tục dâng hết Thánh lễ được.

Sau đó, vị linh mục đến xin yết kiến Đức Giáo hoàng Urbanô và tường trình sự kiện lạ lùng ấy. Đức Giáo hoàng liền sai một phái đoàn, đứng đầu là một vị Giám mục đến điều tra thực hư. Sau khi xác định là phép lạ, vị Giám mục đã cho rước Mình Thánh Chúa về Rôma và đặt tại một nhà thờ dâng kính phép Thánh Thể, và mời giáo dân đến chầu Mình Thánh liên tục. Sau đó, vào ngày mồng 8 tháng 9 năm 1264, Đức Giáo hoàng Urbanô đã ra sắc dụ truyền thiết lập lễ kính Mình Máu thánh Chúa Giêsu và truyền mừng lễ trong toàn thể Hội thánh.

4. Ta đã dựng nên ngươi.

Tại góc đường của một thành phố lớn, có một người đàn bà quần áo rách tả tơi đứng xa ăn xin với đứa con trai nhỏ gầy ốm xanh xao của bà. Trong số những người đi qua đường phố, có một người đàn ông triệu phú bước qua, nhìn họ không nói tiếng nào, cũng chẳng giúp đỡ gì. Nhưng khi trở về biệt thự sang trọng của mình rồi, nhìn vào bàn ăn  với đủ mọi thứ cao lương mỹ vị, ông liên tưởng đến thằng bé còm kĩnh và người mẹ khốn khổ của nó.

Càng nghĩ về họ ông càng tức giận Thiên Chúa. Rồi ông nắm tay lại đưa quả đấm lên trời la to với Thiên Chúa: “Làm sao Ngài lại có thể để cho sự khốn khổ như thế này xẩy ra cho được? Tại sao Ngài lại không làm gì để giúp đỡ những con người bất hạnh đó”? Và từ một nơi nào đó, rất sâu tự bên trong tâm hồn của ông, có tiếng Thiên Chúa trả lời: “Ta đã làm. Ta đã dựng nên ngươi”

5. Hy sinh để được rước Chúa

Linh mục Walter Ciszek bị quân Nga bắt trong thế chiến thứ hai. Ngài bị kết tội là "Gián điệp Vatican" và phải qua 23 năm trong tù và trong các trại lao động Sibêrica. Cuối cùng, khi ra khỏi tù, Ngài viết lại một quyển sách về những kinh nghiệm của mình và đặt tựa cho nó là: "He Liadeth me" (Ngài dẫn dắt tôi)

Một số câu chuyện cảm động trong cuốn sách nói về những hy sinh mà các tù nhân phải chịu để được nhận lãnh Mình Thánh Chúa Kitô ở trong tù. Đặc biệt có một câu chuyện đáng ghi nhớ. Trước khi chia sẻ câu chuyện này với anh chị em, tôi xin trình bày bối cảnh của câu chuyện:

Vào những ngày xảy ra thế chiến thứ hai, tức là trước Công Đồng Vatican II, giáo luật buộc kiêng ăn uống suốt 24 giờ đồng hồ trước khi rước lễ. Xin lưu ý điều này khi đọc đoạn văn sau trích từ quyển sách của Linh mục Ciszek:

"Tôi thấy các tù nhân phải bỏ bớt giấc ngủ cần thiết và thức dậy trước chuông rung để tham dự thánh lễ bí mật. Chúng tôi sẽ bị trừng trị nghiêm khắc nếu bị khám phá đang hành lễ và luôn luôn lúc nào cũng có những tên chỉ điểm… Tất cả điều trên khiến cho những thánh lễ có đông tù nhân trở nên rất khó khăn, vì thế khi có thể chúng tôi thường truyền phép thêm bánh lễ để phân phối cho các tù nhân khác. Đôi khi chúng tôi thường chỉ trông thấy họ khi chúng tôi trở về trại vào ban tối trước bữa ăn. Tuy vậy, những người này thường phải thực sự nhịn đói cả ngày và phải lao động cật lực mà không dám ăn một miếng kể từ bữa ăn tối chiều hôm trứơc chỉ với mục đích là để có thể rước Thánh Thể, điều này cho thấy Bí Tích Thánh Thể có ý nghĩa với họ biết là dường nào !" (Trích từ He Leadeth me của Walter Ciszek và Daniel Fatherly, bản 1973 của Walter J. Ciszek S. J).

6. Bí tích tình yêu

Trái bom nguyên tử đầu tiên đã nổ tại Hiroshima ngày 6 tháng 8, 1945. Năm giờ rưỡi sáng hôm sau, một thánh lễ được cử hành ở ngoại ô thành phố giữa những nạn nhân nằm la liệt.

Linh mục giám đốc tập viện Dòng Tên mở cửa nguyện đường đón nhận họ và tìm cách săn sóc họ. Về sau, khi đã trở nên Bề Trên Cả Dòng Tên, cha giám đốc tập viện Pedro Arrupe kể lại cảnh tượng sáng hôm đó như sau: "Nguyện đường tập viện chúng tôi phân nửa đã bị tàn phá, khi ấy tràn ngập những người bị thương do bom nguyên tử. Họ nằm la liệt bên nhau trên nền nhà, co quắp lại, bị đau khủng khiếp. Tôi khởi sự dâng thánh lễ, ráng tập trung trong một thế giới chẳng hiểu biết gì về những điều đang thực hiện trên bàn thờ. Họ là người ngoại đạo chưa hề dự một thánh lễ. Tôi không thể nào quên được cử chỉ tôi làm khi hướng về họ và nói: Chúa ở cùng anh chị em, giữa cảnh họ đang chịu đau đớn. Tôi hầu như bị tê liệt với hai tay giang ra mà tôi nghĩ tới thảm kịch con người dùng tiến bộ khoa học và kỹ thuật để tiêu diệt loài người. Đáp lại là những cặp mắt của những nạn nhân đang chờ nguồn an ủi nào đó từ bàn thờ giữa cảnh họ đang hấp hối và tuyệt vọng (...)

Sáu tháng sau, tất cả các nạn nhân được chữa trị đều trở về nhà, chỉ trừ hai người đã chết. Nhiều người trong số họ đã chịu Phép Rửa và ai thì cũng được biết thế nào là đức Ái Kitô giáo (...)

Bí Tích Thánh Thể - Dấu chỉ hữu hình của Tình Yêu siêu việt

7. Bí tích Thánh Thể và nghiên cứu khoa học

Vào thế kỷ thứ 8 tại Lancianô nước Ý, một linh mục dòng thánh Basiliô đang khi cử hành thánh lễ, sau khi truyền phép xong, bỗng đâm ra nghi ngờ sự hiện diện của Chúa dưới hình bánh ruợu thì lập tức Phép lạ đã xẩy ra ngay trong tay vị linh mục đó: Bánh trở nên thịt sống và rượu trở nên máu tươi.

Được giáo quyền cho phép, ngày 18/11/1970 các cha dòng Phanxicô, những người có trách nhiệm bảo lưu đã trao thánh tích cho một nhóm chuyên viên khoa học để họ làm công việc nghiên cứu tế nhị và khó khăn này.

Nhóm này do Giáo sư Odoardo Linoli với sự cộng tác của Giáo sư Ruggero Bartelli thuộc đại học nổi tiếng Siena điều khiển.

Sau đây là kết luận của công trình nghiên cứu được nhiều tạp chí khoa học trên thế giới đăng tải:

1. Thịt này là thịt thật. Máu này đúng là máu thật.

2. Thịt và máu là thịt và máu của con người

3. Thịt và máu đều thuộc cùng nhóm A-B

4. Đồ hình của Máu này giống với đồ hình của máu người được trích lấy từ một cơ thể con người trong một ngày.

5. Thịt được làm thành từ mô cơ tim.

6. Thịt máu hoàn toàn giống với thịt máu của một người sống thực sự.

7. Không hề tìm thấy dấu vết việc tẩm ướp mô tế bào bởi bất cứ một hóa chất nào được dùng trong kỹ thuật bảo trì bằng tẩm ướp.

8. Miếng thịt này được lấy ra từ phần thịt của trái tim một cách khéo léo tuyệt mỹ như do một nhà phẫu thuật tài ba thực hiện.

9. Hàm lượng các protéin chứa trong máu được phân phối đều đặn theo tỷ lệ y hệt như trong đồ hình protéin huyết thanh của máu tươi bình thường.

10. Trong máu có các chất chlorua, photspho, manhêdi, potassium, sodium và calcium.

11. Việc các di vật thánh này được lưu giữ một cách tự nhiên từ bao thế kỷ, bất chấp ảnh hưởng của những xúc tác vật lý, không khí. sinh vật... là một hiện tượng không sao giải thích được theo phương diện khoa học.

Như vậy chúng ta có thể nói sau khi được mời gọi để thẩm định, Khoa học đã nói lên tiếng nói khách quan của mình về phép lạ Chúa đã làm tại Lancianô.

8. Nhận ra Chúa khi Chúa bẻ bánh

Trong cuộc khủng hoàng con tin xẩy ra ở Pêru cách đây mấy năm. Một cuộc khủng hoảng dai dẳng, nghẹt thở kéo dài nhiều tuần lễ, người ta đã hết lời ca tụng một người. Người đó chính là cha Juan Julio Wicht. Ngài được thả nhưng ngài đã tình nguyện ở lại. Việc Ngài ở lại đã làm nức lòng thủ lãnh của quân khủng bố. Ngày 18/4/1965 nhân ngày sinh nhật của Ngài, Nestor Cerpa Carlotini thũ lãnh quân khủng bố có gửi đến Ngài một điện văn như sau: "Mặc dù giữa chúng ta có những khác biệt nhưng chúng tôi muốn gửi đến cha những lời chúc tốt đẹp nhất nhân ngày sinh nhật của cha cũng như lòng kính trọng của chúng tôi với quyết định ở lại của cha.”

Sau này khi được hỏi về những ngày bị giam giữ, Cha Juan Julio Wicht đã nói: "Các du kích đã không làm gì xúc phạm đến chúng tôi trong lời nói cũng như trong việc làm"

Chính sự hiện diện của Cha đã làm cho mọi người đối xử tốt với nhau hơn.

Chúa Giêsu cũng thế: Cha Teilhard de Chardin nói tiếp: "Bây giờ tôi có thể nói như hai môn đệ Emmau: Tôi nhận ra Ngài lúc Ngài bẻ bánh. Chính lúc bẻ bánh chúng tôi mới nhận ra chúng ta là anh chị em trong Đức Kitô. Có những người mà trước đó gặp ngoài đường, chúng ta dửng dưng như người xa lạ, nhưng trên bàn tiệc thánh, chúng ta thấy gần gũi với nhau. Tôi gặp Chúa Kitô nơi họ, cũng như họ gặp Chúa Kitô nơi tôi. Bởi chúng tôi cùng tin Phúc Âm, cũng lãnh nhận một của ăn là Mình và Máu Thánh Chúa Kitô.”

9. Bài học từ dòng sông

Trong một giờ học, thầy giáo mở một tấm bản đồ ra và hỏi các học viên: "Các bạn hãy nhìn xem, những dòng sông trên bản đồ này có đặc điểm gì?"

Các học viên trả lời: "Tất cả đều không chảy thẳng theo một đường mà chảy quanh co, gấp khúc."

"Tại sao lại như vậy? Hay nói cách khác, tại sao những dòng sông đó không chảy theo đường thẳng mà lại chảy đường vòng như thế?" – thầy giáo tiếp tục hỏi.

Sau đó thầy mới nhẹ nhàng đúc kết: Dòng sông luôn chảy quannh co để ôm ấp đất, thẩm thấu vào mọi ngõ ngách nó đi qua, để không nơi nào dòng sông đi qua mà không để lại màu xanh sự sống.

Dẫu rằng, dòng sông cũng có lúc cạn, nhưng chẳng vì thế mà dòng sông lo âu, rồi toan tính giữ nước cho mình. Từ quá khứ, xuôi nguồn vào tương lai, nước làm thành dòng sông chứ không phải dòng sông làm nên nước. Từ ý nghĩ đó, dòng sông vào đời tự do theo ơn gọi của nó.

Cuộc đời con người cũng thế, nếu ngày nào chúng ta băn khoăn bắt dòng sông cuộc đời ngưng trôi chảy dấn thân cho đời, ngày đó cuộc đời thành ao tù.Con người sống là để yêu thương và yêu thương không ngừng. Ngày nào con người không còn biết yêu thương tức là cuộc đời con người đó đã chấm dứt với anh em, với xã hội vì họ thực sự đã chết trong lòng người thân của mình.

Hôm nay lễ Mình Máu Thánh Chúa là dịp để chúng ta khơi nguồn sức sống từ dòng chảy tình yêu của Chúa. Chúa yêu ta mà chẳng cần lý do, vì Ngài là tình yêu. Chúa yêu ta đến nỗi hiến trao chính Thánh Thể Ngài làm của ăn nuôi dưỡng linh hồn chúng ta. Khi ta rước Mình Thánh Chúa là ta được nuôi dưỡng bởi chính sức sống thần linh của Chúa, để từ nay Chúa sống trong ta và ta được nên một với Ngài trong huyền nhiệm tình yêu.

10. Tình yêu mạnh hơn sự chết

Một bài báo đã đăng tin ngay trên trang nhất về vụ cháy rừng vừa mới xảy ra. Một câu chuyện đã gây nhiều xúc động cho người đọc: sau khi ngọn lửa đã được dập tắt, những người kiểm lâm rất vất vả và khi đã đi vào rừng để ước lượng mức độ thiệt hại của vụ cháy rừng.

Một người kiểm lâm trẻ tuổi nhất bất chợt phát hiện một con chim đã chết vẫn đứng im lìm như bức tượng gỗ trên một cành cây cao đang cháy dở trước mặt anh. Một chút sợ hãi chen lẫn chút tò mò, anh lấy một cành cây nhỏ, chọc vào xác con chim đã chết. Lúc anh đang chọc nhẹ vào con chim đã chết cháy như vậy, bất thình lình, anh hốt hoảng khi thấy  một chú chim con nhỏ bé từ dưới cánh con chim chết cháy bay vụt ra… những người đi trong đoàn kiểm lâm ai nấy đều sửng sốt.

Người kiểm lâm cao tuổi nhất trong nhóm, có mái tóc bạc phơ nói rằng, suốt mấy chục năm làm mghề gác rừng, ông chưa từng thấy có chuyện lạ như vậy. Hóa ra, trong lúc ngọn lửa ma quái thiêu đốt cánh rừng, vì yêu con, chim mẹ đã dang rộng đôi cánh để che chở cho con mình. Lúc đám cháy chưa lan tới, chim mẹ đã có thể bay đi thật nhanh để tìm một nơi an toàn cho riêng mình, nhưng chim mẹ đã không bay đi, vì biết con mình còn rất yếu ớt, bé bỏng, không thể bay kịp theo mình. Chim mẹ không muốn bỏ mặc con mình ở lại với mối nguy hiểm đang chờ đợi nó.

Khi ngọn lửa hung hãn đã bùng lên dữ dội và khi sức nóng của ngọn lửa sắp thiêu cháy mình, chim mẹ vẫn không hề nao núng, dao động. Chim mẹ sẵn sàng đón nhận cái chết để lấy đôi cánh chở che cho con mình được sống. Có lẽ chim mẹ biết chắc một điều rằng, với tình yêu và đôi cánh chở che của mình, con mình sẽ sống. Ôi! Tình yêu có một sức mạnh lớn lao và kỳ diệu, nên một vĩ nhân nào đó đã nói: “tình yêu mạnh hơn sự chết.”

11. Từ bàn tiệc của Chúa đến bàn ăn của anh em

Trên thế giới ngày nay đang xảy ra hai sự kiện rất thời sự, nhưng cũng rất bi thảm và chua cay: đó là cảnh một số người dư tiền thừa của, ăn uống lu bù… Và bên cạnh đó, một thảm cảnh trái ngược khác: đó là hàng triệu người thiếu ăn, hay không có gì để ăn… Ngay hôm nay đây, có những vùng rộng lớn trên thế giới-như Phi Châu- đang thiếu ăn đến độ không sống nổi, bên cạnh những người khác đang phung phí tiền của một cách phi nhân… Ăn uống tràn trụa, ăn chọ bội thực, ăn quá mà chết, và người ta đã chết vì ăn quá nhiều cũng như biết bao nhiêu người khác đã chết vì không có gì ăn!.

Trong hai thực trạng bi thảm đó, có chung hậu quả nầy là: cái chết. No quá mà chết. Đói quá mà chết. Tại sao lai chết? Vì hai nhu cầu không được đáp ứng: nhu cầu thứ nhất, người ta muốn biết sống để làm gì? Tại sao lại sống? Vì thấy đời sống phi lý, nên người ta ăn để mà chết, ăn cho nó nổ tung cái bụng ra cũng được! Nhu cầu thứ hai, người ta muốn có cái gì ăn để sống. Sống bằng cái gì? Câu hỏi nầy lệ thuộc hoàn toàn vào câu hỏi thứ nhất: sống để làm gì?

Qua Bí tích Thánh Thể, Chúa Giêsu trả lời: người ta sống với nhau và chia sẻ với nhau. Thánh Thể Chúa ban cho chúng ta để thúc đẩy chúng ta chia sẻ tình yêu với anh em của mình. Nếu chúng ta thực hiện được điều nầy là giải quyết được nạn đói trên thế giới.

12. Hãy Ra Khơi 

Hôm nay, tôi bỗng chợt nhớ đến một kinh nghiệm sống trong gia đình và thường được lặp đi lặp lại mãi trong thời gian tôi 57 tuổi. Cứ mỗi lần mẹ tôi làm bánh hay cha tôi tát các mương đìa quanh nhà bắt cá thì tôi thèm thuồng ngồi bên nồi bánh vừa chín hoặc tiếc nuối những rổ tôm cá. Thèm thuồng vì rổ bánh chín mà mình muốn ăn nhưng mẹ tôi lại cứ lấy đi phân chia, bảo tôi đem cho người này người nọ, hoặc hối tiếc những con tôm, con cá mà mẹ tôi bắt đem cho các gia đình hàng xóm, những người cần đến. Mỗi lần bảo tôi mang đi cho người khác thì tôi không muốn cho đi, bấy giờ mẹ tôi lại bảo: “Con ạ, mình giữ lại ăn thì hết mà cho người ta ăn thì còn mãi.” Tôi không bao giờ quên lời nói đơn sơ này đi kèm với chính hành động chia bánh, chia cá cho những người xung quanh.

Hôm nay đọc lại đoạn Tin Mừng của lễ Mình Máu Thánh Chúa, kinh nghiệm gia đình tôi đã trải qua và nhất là lời giải thích của mẹ tôi: “Mình ăn thì hết, người ta ăn thì còn.” Một lần nữa lại xuất hiện và giúp tôi phần nào hiểu thêm kinh nghiệm mà các tông đồ đã trải qua ngày xưa trong biến cố được kể lại trong đoạn Tin Mừng mà chúng ta vừa đọc qua. Vào thời điểm của biến cố, chắc chắn các tông đồ đã được nhìn thấy nhiều việc làm của Chúa Giêsu để thực hiện tình thương đối với con người.

Những lời nhắn nhủ dạy bảo của Chúa đã đánh động các ngài là sẽ không được sống ích kỷ, không được mơ ước vinh quang, danh vọng, địa vị cho bản thân khi theo Chúa. Thế nhưng, khi phải đối diện với một nhu cầu cụ thể của muôn người đang theo Chúa mà bị đói thì các ngài có phản ứng tránh né, thoái thác, không muốn hy sinh làm một cái gì đó để giúp vào. Các ngài đã nhắc khéo Chúa cho đoàn người ra về để họ tự lo giải quyết lấy vấn đề ăn uống.

Chúa Giêsu đã làm ngược lại, Ngài ra lệnh: “Các con phải cho họ ăn.” Làm đồ đệ của Chúa, nhất là trong địa vị các tông đồ thì càng không thể chối từ trước lời mời gọi của tình bác ái liên đới. Và không để các tông đồ sống trong một thái độ tiêu cực lâu hơn nữa. Chúa Giêsu ra lệnh cho các ông cộng tác vào công việc cho đi của Ngài.

13. Hãy noi gương Thánh Thể

Nói tới Thánh Thể, chúng ta thường nghĩ tới việc phải làm sao để nhận được từ Thánh Thể những ơn cần thiết cho mình. Nhưng thiết tưởng chúng ta không nên bỏ qua một bài học tuyệt vời và rất quan trọng của Thánh Thể là sự quên mình và tính vị tha.

Không có gì tỏ ra quên mình và vị tha cho bằng trở nên của ăn cho người khác, hay sẵn sàng để cho người khác “ăn” mình. Thật vậy, đồ ăn hiện hữu vì người ăn nó, chứ không hiện hữu một chút xíu nào vì bản thân mình cả. Tất cả mọi sự, để trở thành đồ ăn thì đều phải chết đi mới có thể nuôi sống người ăn mình. Bản chất của đồ ăn chính là chết đi để nhờ đó người khác được sống, bị tiêu diệt để nhờ đó người khác tồn tại.

Thông thường, chúng ta có khuynh hướng bắt người khác phải vì mình, biến họ thành phương tiện hay công cụ phục vụ cho mình. Biến mình thành đồ ăn thì hoàn toàn đi ngược lại khuynh hướng thông thường ấy: sẵn sàng hiện hữu vì người khác, sẵn sàng chấp nhận làm phương tiện hay công cụ vì hạnh phúc đời này hay đời sau của những người mình yêu thương. Danh ngôn Pháp có câu: “Aimer, c’est permettre d’abuser” (yêu là cho phép người mình yêu lợi dụng mình).

Cả cuộc đời Đức Giêsu là một thứ đồ ăn: Ngài hiện hữu không phải vì bản thân Ngài, mà hoàn toàn vì Thiên Chúa và vì con người. Ngài đã chết để con người được sống, đã tự hủy để con người được tồn tại, đã đau khổ để con người hạnh phúc, đã tự hạ để con người được nâng lên, đã chấp nhận bị đối xử như người tội lỗi để làm cho con người trở nên thánh thiện, v.v… Ngài hiện hữu, Ngài làm mọi sự đều vì người khác, chẳng vì mình một chút nào. Và Ngài đã biểu hiện tính chất “là của ăn”một cách cụ thể và tuyệt vời khi lập bí tích Thánh Thể.

Chúng ta ăn Ngài, nhưng chúng ta đừng quên bắt chước Ngài trong tính chất ấy. Ngài đã yêu cầu chúng ta: “Anh em hãy làm như Thầy vừa làm, để tưởng nhớ đến Thầy.” Tưởng nhớ ở đây không gì tốt hơn và ý nghĩa hơn là bắt chước Ngài trong tính chất ấy: Hãy trở nên đồ ăn cho những người chung quanh mình, nhất là những người sống gần mình nhất.

14. Hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy

Đức Hồng Y F.X. Nguyễn văn Thuận có viết trong cuốn Năm chiếc bánh và hai con cá: "Thánh Thể là kinh nguyện đẹp nhất, là đỉnh cao cuộc đời Chúa Giêsu"; tham dự Thánh lễ là tham dự vào Bữa ăn của Chúa. Chúng ta thấy tấm hình Đức Hồng Y trong trại giam dâng lễ: Ngài quì gối trên nền nhà tù, dang hai tay, trong lòng bàn tay có ba giọt rượu và một giọt nước, với bánh lễ được xé nhỏ ở ngoài gởi vào bỏ trong cái lọ chống ẩm, ngài dâng thánh lễ: đọc thuộc lòng Kinh nguyện Thánh Thể ... Nhờ vậy mà Thánh Thể Chúa thêm sức cho ngài vượt qua được những khó khăn thời gian ngục tù.

Chúng ta ghi nhớ lời Chúa Giêsu dạy: "Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy.” Chính do lời này của Chúa Giêsu  mà các linh mục cử hành Bí tích Thánh Thể: Giây phút nào trên thế giới cũng có linh mục dâng Thánh lễ để nói lên Chúa Giêsu  là tấm bánh bẻ ra cho thế giới mới.

15. Phép lạ Thánh Thể: Thánh Antôn và con la: 

Có một ông lạc giáo Albigeois thách thức thánh Antôn như sau: "nhà tôi có con la cái. Tôi sẽ nhốt vào chuồng cho nó nhịn đói ba ngày. Ngày thứ ba tôi sẽ dẫn nó đến đây trước mặt mọi người, đem cho nó một thùng kiều mạch. Còn ông, ông hãy đem cái mà ông gọi là Mình thánh Chúa Kitô. Nếu con vật bị đói mà không thèm ăn nhưng lại chạy đến quì lạy Mình Thánh Chúa thì tôi sẽ tin.”

Thánh Antôn chấp nhận cuộc thách thức này. Đúng ngày hẹn dân thành Toulouse có mặt rất đông tại quảng trường. Ông lạc giáo dắt con lừa tới mang theo thức ăn nó ưa thích còn thánh Antôn kiệu Mình Thánh Chúa từ trong nhà thờ ra, Ngài dơ cao Mình Thánh và truyền cho con lừa: "Nhân danh Thiên Chúa, ta truyền cho ngươi hãy mau lẹ quì gối thờ lạy Chúa.” Cùng lúc ấy người ta đem thùng kiều mạch thơm ngon đến trước mặt con lừa. Lạ lùng thay con lừa không đoái hoài tới thức ăn mà nó theo lệnh thánh Antôn: gập hai cẳng trước rồi quì xuống cung kính thờ lạy Mình Thánh Chúa.

Trước cảnh tượng đó, các tín hữu công giáo vui mừng khôn xiết. Còn nhóm lạc giáo Albigeois thì tỏ ra kính sợ. Ông lạc giáo đưa ra cuộc thách thức đã giữ lời hứa xin trở lại với đức tin Công giáo.

Chúng ta tin Chúa Giêsu  ngự thật trong bí tích Thánh Thể, mỗi lần tham dự thánh lễ, chúng ta liệu sao để có thể  Rước lễ được, đồng thời chúng ta cũng dự giờ chầu Thánh thể và khi giáo xứ hay giáo hạt tổ chức Rước kiệu Mình Thánh Chúa, chúng ta hãy sốt sắng tham gia để tỏ lòng tôn kính Chúa Giêsu Thánh Thể và để lãnh nhận được rất nhiều hồng ân Chúa ban cho ta qua Bí tích cực trọng này. Amen.

16. Bữa ăn chung

Tối thứ bảy, 2-6-2012, 350 ngàn người thuộc các gia đình năm châu đã tham dự lễ hội chứng từ do Đức Thánh Cha Benedicto chủ tọa bắt đầu từ lúc 8 giờ rưỡi tại Công viên Bresso ở mạn bắc Milano, Italia.

Trong lễ hội này, dưới bầu trời dịu mát, đã có phần trình bày chứng từ, xen lẫn 5 câu hỏi được nêu lên với các câu trả lời ứng khẩu của Đức Thánh Cha và các bài ca điệu vũ được trình diễn.

Mở đầu, bé gái Cát Tiên 7 tuổi, trong chiếc áo dài màu đỏ, đầu đội khăn đóng, cầm bó hoa đến cắm trước ảnh Thánh Gia, và em tiến đến trước Đức Thánh Cha để chào ngài và nói (bằng tiếng Anh):

”Con chào Đức Giáo Hoàng, con là Cát Tiên, con đến từ Việt Nam. Năm nay con 7 tuổi và con muốn giới thiệu với Đức Giáo Hoàng gia đình con: đó là ba con tên là Đang, và mẹ con tên là Thảo, và đó là em con tên là Bình. Con rất muốn biết về gia đình Đức Giáo Hoàng và hồi đức thánh cha còn bé như con..

”Cám ơn con rất yêu quí, và cha mẹ con.. Cha chân thành cám ơn. Con hỏi cha kỷ niệm về gia đình cha như thế nào: có nhiều lắm. Cha chỉ muốn nói ít điều. Đối với gia đình cha, điều rất quan trọng là Chúa nhật, và Chúa nhật thì bắt đầu ngay từ chiều thứ bẩy. Ba của cha vẫn đọc cho con cái các bài đọc của ngày lễ Chúa nhật, rút từ cuốn sách rất phổ biến bấy giờ ở Đức, trong đó cũng có những giải thích về các bài đọc. Và thế là Chúa nhật bắt đầu: gia đình cha đã bước vào phụng vụ trong một bầu không khí vui mừng. Ngày hôm sau, cả gia đình cha đi lễ.

“Và trong gia đình thì dĩ nhiên điều quan trọng là dùng bữa chung với nhau. Trong gia đình cha vẫn thường ca hát nhiều: anh của cha là một nhạc sĩ giỏi, sáng tác nhạc ngay từ nhỏ cho cả gia đình, và cả nhà cha đều hát.

“Và dĩ nhiên là gia đình cha cũng đi chung với nhau, đi bộ; nhà cha gần một khu rừng và vì thế đi bộ trong rừng là điều rất tốt: có những cuộc phiêu lưu và các trò chơi nữa, cùng những thứ khác.

“Thú thực là khi cha tìm cách tưởng tượng xem thiên đàng như thế nào, cha luôn hình dung ra thời cha còn trẻ, thời niên thiếu của cha. Trong khung cảnh tín thác, vui mừng và yêu thương như thế, gia đình cha thật là hạnh phúc và cha nghĩ rằng thiên đàng cũng giống như trong thời niên thiếu của cha. Theo nghĩa đó, cha hy vọng được ‘đi về nhà’, đi sang phần bên kia của thế giới.”

17. Tôi muốn con tôi sống

"Tôi muốn con tôi sống" đó là lời của bà Suzanna Petrosyan đã thốt ra và được báo chí nhắc lại. Thực ra, có bà mẹ nào lại không muốn con của mình được sống đâu? Thế nhưng trường hợp của bà Petrosyan và đứa con gái 4 tuổi của bà không giống như những trường hợp của nhiều bà mẹ khác, vì hai mẹ con bà này là nạn nhân của cơn động đất khủng khiếp tại Armeni, thuộc liên bang Xô Viết hồi tháng 12 năm 1987.

Sau khi động đất, cũng giống như hàng ngàn người khác, cả hai mẹ con bà Petrosyan đều bị lấp vùi dưới hàng trăm ngàn tấn gạch, đá và xi măng, nhưng họ may mắn nằm lọt vào trong một khoảng trống nhỏ chỉ vừa đủ chỗ cựa quậy mà thôi. Tất cả lương thực họ có chỉ là một hũ mứt và chẳng mấy chốc hũ mứt cũng hết sạch. Lúc đó, cô gái 4 tuổi mới kêu: "Mẹ ơi, con khát quá. Mẹ cho con uống nước.”

Nhưng lấy nước đâu bây giờ? Tiếng kêu khát của con cứ tiếp tục làm cho bà mẹ vừa đau lòng vừa lúng túng. Nhưng tình mẫu tử thiêng liêng đã gợi cho bà một ý nghĩ táo bạo: đó là lấy những giọt máu cuối cùng của bà cho con uống để cầm cự với tử thần. Lúc đó, người mẹ đáng thương mới lấy tay sờ sẫm và vớ được một miếng kính bể. Bà lấy miếng kính cắt đầu ngón tay trỏ và đút ngón tay vào miệng con bảo con mút. Em bé mút ngón tay của mẹ một lúc rồi nói: "Mẹ cắt một ngón tay nữa cho con mút thêm.” Bà liền cắt một ngón tay nữa nhưng vì trời lạnh quá nên bà không thấy đau đớn gì nữa...

Sau khi được cứu sống, người đàn bà thuật lại rằng: "Lúc đó, tôi biết thế nào tôi cũng chết, nhưng tôi muốn con tôi được sống.” (Vietnamese Missionaries in Asia, Tôi Muốn Con Tôi Sống)

18. Tình yêu phi thường

Tháng 3/2011 sau cơn động đất và sóng thần kinh hoàng tại Fukushima, Miền Trung Nhật Bản, đội cứu hộ đi đào bới tìm kiếm dưới những đống đổ nát may đâu còn có thể tìm thấy để cứu sống ai. Sau khi tìm rất kỹ lưỡng, toàn đội đã quyết định ra đi, thế nhưng, như có một linh tính hay ánh sáng gì đó lóe lên báo cho biết, người đội trưởng quyết định toàn đội phải quay trở lại để tiếp tục đào bới; sau một hồi lâu họ tìm thấy dưới đống đổ nát một người mẹ đã chết trong tư thế ngồi cúi đầu ôm cái gì đó.

Lạ lùng thay khi đưa xác người mẹ ra được khỏi đống đổ nát, họ bàng hoàng thấy có đứa con thơ mấy tháng tuổi của chị vẫn đang còn sống nằm chặt trong lòng và vòng tay của chị. Thật kỳ lạ làm sao, ánh sáng le lói mà người đội trưởng cảm nhận được đó chính là ánh sáng từ chính chiếc điện thoại của chị với tin nhắn như sau: “Nếu con được sống sót, thì con hãy nhớ rằng, Mẹ rất thương con.”

Cũng có một câu chuyện khác rất cảm động, nói lên tình mẫu tử sau cơn động đất mà tôi còn nhớ đó là: Có một người mẹ dưới đống đổ nát, chị đã dùng vật nhọn để đâm những đầu ngón tay của mình lấy máu cho đứa con thơ khỏi cơn khát, nhờ đó, hai ngày sau khi đội cứu hộ tới, đứa con của chị vẫn còn sống nhưng người mẹ đã hy sinh. Thưa ACE, con người chúng ta khi yêu thương hay muốn cứu sống ai, chúng ta cũng có thể làm những việc phi thường như vậy.

Hôm nay chúng ta mừng Lễ Mình Máu Thánh Chúa, các bài đọc Lời Chúa hôm nay soi sáng và hướng dẫn chúng ta đến với những câu chuyện trao ban tình yêu thương và cung cách cứu sống tuyệt vời của Thiên Chúa dành cho con người yếu đuối tội lỗi chúng ta. Thiên Chúa vì yêu thương đã hiến ban chính Người Con Một của Ngài là Chúa Giêsu cho chúng ta, để Chúa trở nên nguồn thần lương dưỡng nuôi con người.

19. Lịch sử Lễ kính Mình Máu Thánh Chúa:

Vào năm 1263, có một linh mục người Đức đang cử hành thánh lễ tại nhà thờ thánh Chris-ti-a-na, tới lúc bẻ bánh trước khi rước lễ, vị linh mục này đã trông thấy tấm bánh mới truyền phép đã biến thành Thân Mình Chúa Giê-su chịu tử nạn. Trên thân xác Chúa, máu đang rịn ra qua các vết thương bị đóng đinh ở hai bàn tay bàn chân và vết lưỡi đòng đâm thâu ở cạnh sườn Người. Máu chảy ra làm ướt tấm khăn thánh và mấy lớp khăn phủ trên bàn thờ.

Vị linh mục vội gấp các tấm khăn kia lại. Nhưng gấp tới đâu thì máu lại thấm ra tới đó. Cuối cùng máu thấm qua 25 lần vải khăn. Vừa cảm động lại vừa sợ hãi, vị linh mục không thể tiếp tục dâng hết Thánh lễ được. Sau đó, vị linh mục này đã đến xin vào yết kiến Đức Giáo hoàng Ur-ba-nô và tường trình sự kiện lạ lùng ấy.

Đức Giáo hoàng liền sai một phái đoàn, đứng đầu là một vị Giám mục đến điều tra thực hư. Sau khi xác định sự việc đó thực là phép lạ, vị Giám mục đã cho rước Mình Thánh Chúa về Rôma và đặt tại một nhà thờ dâng kính phép Thánh Thể, và mời giáo dân đến chầu Mình Thánh Chúa liên tục. Sau đó, vào ngày mồng 8 tháng 9 năm 1264, Đức Giáo hoàng Ur-ba-nô đã ra sắc dụ truyền thiết lập lễ kính Mình Máu Thánh Chúa Giê-su và truyền mừng lễ này trong toàn thể Hội thánh.

20. Mình Thánh ở trong lòng tôi

Thời kỳ cách mạng Pháp, có một cha xứ miền Bờ-ta-nhờ (Bretagne) đưa Mình Thánh Chúa đến cho một gia đình. Theo giúp Cha là một cậu bé tên là Ben-gia-manh (Benjamin). Bấy giờ cha xứ bị bọn lính phát hiện và đuổi theo rất gấp. Ngài vội dúi vào tay cậu bé chiếc hộp nhỏ có đựng Mình Thánh Chúa trước khi chạy trốn. Sau đó cha đã bị bắt và bị giết chết.

Bấy giờ cậu bé Ben-gia-manh vừa chạy vừa mở hộp lấy Mình Thánh Chúa bỏ vào miệng mà nuốt đi. Sau đó cậu bé cũng bị bắt và bị tra hỏi về nơi đã cất giấu Mình Thánh Chúa. Cậu hiên ngang chỉ tay vào người mình và nói rằng: “Mình Thánh Chúa đang ở trong người tôi đây này! Các ông hãy mổ ra mà lấy.” Bọn lính điên tiết đã đâm chết cậu bé rồi chôn vùi xác chết của hai cha con dưới một gốc cây sồi ở đầu làng. Một thời gian sau thì cuộc cách mạng đã lụi tàn và cuối cùng bị thất bại.

Một hôm một cơn bão lốc xóay rất mạnh đã đốn ngã đổ cây sồi cổ thụ kia, để lộ ra hai xác chết của cha xứ và cậu bé giúp lễ. Người ta đã phát hiện ra Mình Thánh Chúa vẫn đang còn ngự trong người cậu khi thấy thân xác cậu vẫn luôn ngời sáng ánh hào quang.

21. Phép lạ Mình Thánh Chúa do Thánh Antôn thực hiện

Một phép lạ khác xảy ra với thánh An-tôn Pa-đô-va. Có một người Do thái, tên là Bôn-vi-lô, không tin và thường nhạo báng Phép Thánh Thể. Thánh An-tôn nói thế nào ông ta vẫn cứ thế.

Một hôm, ngài nói với ông ta giống như thách thức: “Nếu con lừa ông cưỡi mà quì xuống và thờ lạy Chúa ngự trong hình bánh thì ông có tin không?” Ông ta nghĩ đó chỉ là một câu nói chơi và đã nhận lời thách thức. Hai ngày liền, ông ta không cho lừa ăn, rồi dẫn tới chợ để có đông người chứng kiến.

Giữa một bên là lúa mạch và bên kia thánh An-tôn kiệu Mình Thánh Chúa đến gần. Con lừa quên đói, không ngó ngàng gì đến lúa mạch, quay sang thánh An-tôn quì gối xuống cúi đầu thờ lạy Chúa cho đến khi thánh An-tôn kiệu Mình Thánh đi qua. Mọi người đều quì xuống thờ lạy Chúa Thánh Thể và hoan hô thánh An-tôn.

22. Đức Giêsu hiện thân nơi người nghèo đang chờ được phục vụ

Đức Hồng Y Ca-ma-ra về ban phép Thêm sức cho trẻ em trong một xứ đạo. Khi đến nơi, Ngài thấy cả xứ đạo đang quỳ gối đấm ngực than khóc như vừa gặp đại hoạ. Thì ra đêm trước, trong khi mọi người mê mải chuẩn bị đón Đức Hồng Y, thì kẻ trộm đã lẻn vào nhà thờ ăn trộm các bình đựng Mình Thánh. Chúng đổ Mình Thánh ra ngoài vườn, lấy đi những bình mạ vàng mà chúng tưởng được làm bằng vàng thật. Đây thật là tội phạm thánh nặng nề.

Thế nhưng trong bài giảng lễ hôm ấy, Đức Hồng Y Ca-ma-ra đã làm cho mọi người kinh ngạc khi Ngài nói: Tại sao hôm nay anh chị em mới than khóc. Hằng ngày biết bao lần Chúa Giê-su vẫn bị nhục mạ, hành hạ, chà đạp, bị giết chết nơi những người nghèo khổ, vô gia cư, trẻ mồ côi … Sao chẳng thấy ai than khóc? Anh chị em không biết sao, những người nghèo ấy chính là hiện thân của Chúa Giê-su, là Thân Mình Chúa giữa đời thường cần được chúng ta chăm sóc.

Nói như thế, Đức Hồng Y không có ý coi thường phép Mình Thánh Chúa. Nhưng Ngài có ý nhắc cho các tín hữu về khía cạnh thường bị quên lãng. Đó là chúng ta cần phải hiệp thông với nhau khi dự thánh lễ tại nhà thờ mà còn phải hiệp thông với nhau trong cuộc sống xã hội nữa.

23. Hiệu quả của việc rước lễ

Đức Hồng Y Newman là một chức sắc cao cấp và nổi tiếng của Giáo Hội Anh Giáo, mỗi năm được hưởng một khoản trợ cấp của nhà nước là 100.000 quan thời đó. Ngài đã nghiên cứu lâu năm đạo Công Giáo và cuối cùng Ngài xin trở lại Đạo Công Giáo. Vài ngày trước khi ngài trở lại, một người bạn thân khuyên rằng: “Ngài hãy nghĩ lại việc ngài làm! Nếu ngài trở thành người Công Giáo, ngài sẽ mất 100.000 quan mỗi năm đó!” Newman bất bình nói lớn tiếng: “Một trăm ngàn quan là gì so với chỉ một lần rước lễ!”

Vì sao Đức Hồng Y Newman lại quyết định một cách táo bạo và khẳng định một cách chắc chắn như vậy? Thưa, vì Ngài đã hiểu được hiệu quả của việc rước lễ. Thật vậy, giáo lý về bí tích Thánh Thể dạy rằng: Rước lễ thì được những ơn ích này: Một là được kết hợp mật thiết với Chúa Kitô và Hội thánh; Hai là được tẩy xóa các tội nhẹ; Ba là được lớn lên trong ân sủng; Bốn là được bảo đảm sự sống muôn đời.

Chính vì hiệu quả của việc rước lễ như vậy nên Giáo Hội đã khôn ngoan ấn định rước lễ mỗi năm ít là một lần, buộc nặng, ai không thi hành là mắc tội trọng. Giáo Hội còn kêu gọi con cái mình năng rước lễ, và rước lễ mỗi ngày. Bởi vì, ngoài những ơn ích trên, năng rước lễ sẽ có thêm sức mạnh và sự can đảm để giữ đạo, sống đạo và truyền đạo.

Trong thời kỳ đầu của Hội Thánh, dân ngoại bỡ ngỡ khi thấy người kitô hữu anh dũng chấp nhận cái chết vì Chúa. Đâu là lý do của sự lạ lùng đó?

Chính Thánh Siprianô trả lời rằng: “Chính nhờ Mình Thánh Chúa Giêsu gìn giữ mà người có đạo mới ra pháp trường một cách anh dũng như vậy.”

24. Hoa trái của lòng mến Chúa Thánh Thể

Vào đầu thế kỷ 20, tại Luân đôn, có gia đình ông bà Vaughan đông con và rất nghèo khó. Chồng suốt ngày ở trong xí nghiệp còn vợ thì ở nhà làm nghề phụ, thêm vào với việc nội trợ. Đầu tắt mặt tối nhưng trưa nào bà cũng dành một giờ chầu Chúa ở nhà thờ. Có người thắc mắc tại sao bà vẫn xếp giờ đến chầu Chúa, mặc dù công việc lo cho 13 người con thật không ít bề bộn. Bà Vaughan tươi cười trả lời:

“Một bầy con đông đúc, ăn bữa nay chạy bữa mai, tôi lo lắm. Hơn thế, lúc đi học, chúng có thể theo bạn bè rủ rê đây đó, gặp nhiều nguy hiểm, tôi lại càng thao thức hơn. Vì thế, dù bận việc tới đâu, mỗi ngày tôi cũng bỏ ra một giờ để chầu Chúa, sốt sắng xin Ngài ban ơn cho vợ chồng tôi nuôi các cháu hằng ngày dùng đủ, và dạy dỗ chúng nên người đạo đức.”

Chúa đã nhận lời và ân thưởng cho lòng tin cùng sự hy sinh của bà Vaugran: trong 13 người con, một người làm Hồng Y Tổng Giám mục giáo phận Luân Đôn, một người khác làm Tổng Giám mục, hai người làm linh mục hai nam tu sĩ, hai nữ tu sĩ; còn 5 người ở thế gian lập gia đình lưu truyền nòi giống, sống cuộc đời đạo đức thánh thiện. (Những người lữ hành trên đường hy vọng).

Thật là đúng với lời Chúa dạy “Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái” (Ga 15,5).

25. Đáp lại tình yêu Chúa

Một ngày kia, đang đến trường thì Saviô gặp một linh mục kiệu Mình Thánh cho kẻ liệt. Nghe tiếng chuông, Saviô quì gối mà không để ý gì đến đường xá dơ bẩn. Hai vết bùn in rõ trên đầu gối quần cậu. Một người bạn lúc nãy đã cẩn thận quì xuống một nơi khô ráo sạch sẽ mới nói với cậu: “Thiên Chúa đâu có đòi chúng ta phải hy sinh quá như vậy.”

Saviô trả lời: “… Tôi còn quăng mình vào lửa nếu Chúa Giêsu muốn, để cảm tạ Ngài vì đã cháy lửa yêu chúng ta trong phép Mình Thánh.”

Thánh Thể được gọi là “của ăn đàng” cho kẻ liệt, nhưng không chỉ là của ăn đàng cho kẻ liệt mà Thánh Thể thực sự là của ăn đàng dành cho hết những ai đang trên đường lữ hành, đang trong “nơi hoang địa.”

“Lạy Chúa ẩn dật, Chúa tạo thành thiên địa! Chúa xử với chúng con lạ lùng quá! Chúa đối với người Chúa chọn cách hiền hậu và nhân từ quá! Vì Chúa ban chính mình làm của nuôi họ trong bí tích Thánh Thể” (Imit IV, I, 39).

26. Bí tích tình yêu

Một phụ nữ người Anh được Thánh Giáo hoàng Pi-ô X tiếp kiến riêng. Khi đến gặp ĐTC, bà ta dắt theo đứa con trai mới bốn tuổi để xin ngài chúc lành. Trong khi bà nói chuyện thì đứa bé đứng xa xa, một lát sau nó đến bên ĐTC, đặt hai tay trên đầu gối ngài và ngước mắt lên nhìn ngài. ĐTC hỏi người mẹ:

- Cậu bé được mấy tuổi rồi?

- Thưa ĐTC, cháu được bốn tuổi rồi, con mong là hai hay ba năm nữa nó sẽ được rước lễ lần đầu.

ĐTC nhìn thẳng vào cặp mắt trong xanh của cậu bé  và hỏi:

- Khi rước lễ là con rước ai thế?

- Dạ, con rước Chúa Giêsu ạ, cậu bé trả lời.

- Chúa Giêsu là ai vậy con?, ĐTC hỏi thêm.

- Chúa Giêsu là Thiên Chúa, cậu bé trả lời thật mau mắn.

ĐTC liền bảo bà mẹ:

- Ngày mai hãy đem cháu lại đây, chính Cha sẽ cho nó rước Lễ.

Đức Giáo hoàng Piô X được gọi là “vị Giáo hoàng của bí tích Thánh Thể.” Ngài đã có công rất lớn trong việc chống lại bè rối Jansénisme, một bè rối nhấn mạnh quá đáng lòng tôn thờ phải có đối với bí tích Thánh Thể, quá kính sợ mà quên mất rằng Thánh Thể là dấu chứng của tình yêu Thiên Chúa.

LỄ THÁNH TÂM NĂM A - NGÀY THẾ GIỚI XIN ƠN THÁNH HOÁ CÁC LINH MỤC – TÌNH YÊU

Lời Chúa: Mt 11, 25-30

Khi ấy, Chúa Giêsu cất tiếng nói rằng: “Lạy Cha là Chúa trời đất, Con xưng tụng Cha, vì Cha đã giấu không cho những người hiền triết và khôn ngoan biết những điều ấy, mà lại mạc khải cho những kẻ bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì ý Cha muốn như vậy. Mọi sự đã được Cha Ta trao phó cho Ta. Và không ai biết Con, trừ ra Cha. Và cũng không ai biết Cha, trừ ra Con và kẻ mà Con muốn mạc khải cho.

“Tất cả hãy đến cùng Ta, hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng, Ta sẽ nâng đỡ bổ sức cho các ngươi. Hãy mang lấy ách của Ta và hãy học cùng Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhượng trong lòng, và tâm hồn các ngươi sẽ gặp được bình an. Vì ách của Ta thì êm ái và gánh của Ta thì nhẹ nhàng."

TRUYỆN KỂ

1. Martin Luther King

Trong quyển nhật ký của ông, mục sư Martin Luther King, người đã hy sinh mạng sống để tranh đấu cho quyền bình đẳng của người da đen, đã viết:

“Tôi rất hãnh diện nếu ngày tôi qua đời ai đó kể lại rằng Martin Luther King là người đã cố gắng sống vì yêu thương. Ngày đó tôi mong muốn các bạn sẽ có thể nói rằng tôi đã cố gắng sống cho công lý, rằng tôi đã đồng hành với những ai thực thi công lý, rằng tôi đã dấn thân để đem lại cơm bánh cho những người đói khổ, rằng tôi đã luôn luôn cho kẻ rách rưới ăn mặc. Tôi mong rằng ngày đó các bạn sẽ nói tôi đã xả thân để thăm viếng những người tù tội và yêu thương phục vụ mọi người… Còn tất cả những thứ khác, như giải Nobel hoà bình 1964 không có gì quan trọng…”

Lạy Chúa, Chúa đã tạo dựng chúng con theo hình ảnh Chúa. Chúa đã phú bẩm cho chúng con một trái tim để yêu thương. Xin cho chúng con luôn biết tìm kiếm hạnh phúc và ý nghĩa cuộc sống trong yêu thương và phục vụ, nhất là yêu thương và phục vụ những người nghèo khổ chung quanh chúng con

2. Lễ Kính Thánh Tâm Chúa.

Về việc tôn sùng Thánh Tâm Chúa, nhiều tài liệu cho biết Thánh Tâm Chúa Giêsu đã được nói đến từ núi Canvê khi môn đệ hạ xác Chúa Giêsu xuống khỏi thập giá, tỏ cho thấy “vết giáo đâm vào cạnh sườn Người thấu đến trái tim” mà thánh Gioan kể rõ: “Tức thì máu cùng nước chảy ra” (Ga 19,34).

Nhưng từ thế kỷ 11-12, lòng tôn sùng Thánh Tâm mới được phát triển nhờ các dòng Biển Đức và Xitô. Và, vào thế kỷ 16-17, lòng tôn sùng ấy được thịnh hành nhờ các dòng Phan Sinh, Đa Minh và nhất là Hội Liên minh Thánh Tâm Chúa Giêsu…

Một cách đặc biệt, lòng tôn sùng Thánh Tâm Chúa Giêsu đã được thánh Gioan Euđê (1680) cổ võ từ thế kỷ 17 và nhất là qua thị kiến mà thánh nữ Margarita Maria Alacoque (1690) đã nhận được từ tu viện thăm viếng ở Paray-le-Monial vào năm 1673 và 1675. Trong các thị kiến đó, chị Margarita được Chúa Giêsu chỉ cho thấy Trái tìm Ngài “đã yêu thương nhân loại thế nào mà chỉ nhận được sự đáp trả bạc bẽo vô ơn”!  Thánh nữ còn được Chúa Giêsu ủy thác việc xin giáo quyền thiết lập một ngày lễ kính Thánh Tâm Chúa. Nhưng, lòng tôn sùng Thánh Tâm Chúa tuy được cổ võ từ 2 thế kỷ trước – với lể kính Thánh Tâm được tổ chức lần đầu tiên vào 31/08/1670 tại thành phố Rennes, Pháp – sau khi thánh nữ qua đời, Đức Giáo hoàng Piô IX (1846-1878) mới chính thức thiết lập lễ kính Thánh Tâm vào tháng 06 năm 1856, ngày thứ Sáu sau lễ kính Mình Thánh Chúa.

3. Mẫu ảnh Thánh Tâm Chúa.

Năm 1597 lệnh bắt đạo trên đất Nhật thật gắt gao. Chỉ trong một tuần lễ mọi cơ sở Công giáo đều bị triệt hạ, giáo sĩ bị bắt gần hết, giáo dân bị phân tán và bị khủng bố tồi tệ. Tại vùng Odawakura, người ta bắt được hai Linh mục cùng nhiều ảnh tượng. Quan đại thần Tsukamoto nhặt trong đống ảnh tượng một mẫu ảnh thật kỳ cục:  người gì mà để trái tim ra bên ngoài! Tsukamoto là một nhà nho uyên thâm có óc thực tế, thích tìm hiểu. Ông cầm mẫu ảnh Trái Tim Chúa Giêsu coi qua rồi vất vào sọt rác. Nhưng đến tối ông nhớ lại và ngẫm nghĩ chắc hẳn mẫu ảnh này phải có ý nghĩa nào đó. Ông lượm lại để trên bàn và suy nghĩ.

Trời đã về khuya mà quan ngồi bất động một mình với mẫu ảnh trước mặt. Mãi đến một giờ sáng, vị đại thần mới thở ra nhẹ nhõm, khoan khoái, tay câm bút lông ghi dưới tấm ảnh mấy chữ: “Đối ngoại hữu kỳ tâm, đối nội vô tâm giả." Rồi ông đặt mẫu ảnh Thánh Tâm Chúa Giêsu trên bàn làm việc cách kính cẩn.

Một hôm, một người bạn đến chơi thấy vậy hỏi: “Thế nào, ông bạn lại thích ảnh tượng  của bọn tà đạo rồi sao”? Vị quan trả lời: “Đứng về mặt chính trị của triều đình thì tôi không dám phản kháng, nhưng về mặt văn hóa và nhân đạo thì tôi rất thích mẫu ảnh này. Phải chăng đây là bức ảnh nói lên chương trình và hành động cùng lối xử thế tổng quát của Kitô giáo? Ông bạn thử nghĩ coi: đối với thiên hạ, tha nhân bên ngoài thì hữu tâm, còn đối với bản thân mình thì vô tâm. Cho nên họ mới vẽ trái tim lộ ra bên ngoài. Nghĩa là phải đem hết trái tim của mình  mà phục vụ xã hội, giúp ích cho đời. Còn về phần mình thì hy sinh xả kỷ, đừng bao giờ lo riêng cho mình, phải diệt cái ngã vị kỷ. Đem hết trái tim ra để giúp đời giúp người. Nội dung bức ảnh này tôi thấy đầy đủ hơn cả bài học từ bi của Phật, khoan dung hơn đức nhân của Khổng Tử, cao siêu hơn cái vô ngã của Lão, mạnh hơn cái dũng của thần đạo Nhật bản. Một tôn giáo dạy phụng sự nhân loại, yêu thương mọi người, còn bản thân mình thì không màng tới, không quan tâm tới tư lợi, thì quả là điều ngay chính của thiên hạ."

4. Đỉnh cao của tình yêu thương--Lm Trần Ngà

Một người mẹ bị chứng đau tim nặng và bác sĩ khuyến cáo rằng nếu bà không được giải phẩu thay tim ngay thì ngày sống còn lại của bà chỉ được đếm trên mấy đầu ngón tay. Thế rồi người ta đề nghị một trong các con của bà hiến tim cho mẹ để cứu lấy sinh mạng của bà.

Khi người anh cả được mời gọi hiến tim cho mẹ, thì dù rất thương mẹ, anh ta cũng lắc đầu từ chối với lý do: anh là con trai trưởng, là rường cột của gia đình, anh cần sống để chăm sóc đàn em, để trông coi nhà từ đường, để nối dõi tông đường, vân vân. Anh đề nghị đứa em gái nên hiến tim cho mẹ thì hợp lý hơn, vì theo anh nghĩ: tim người phụ nữ có lẽ thích hợp cho người phụ nữ hơn!

Đứa em gái nghe vậy giẫy nẩy lên và quyết liệt từ chối với lý do cô là con gái duy nhất trong nhà và gia đình nào cũng cần có bàn tay người phụ nữ trông nom sắp xếp mới gọn gàng trật tự. Thiếu cô thì lấy ai đi chợ nấu ăn; thiếu cô thì lấy ai quét dọn nhà cửa, giặt giũ áo quần cũng như đảm đang nhiều việc nội trợ rất quan trọng khác... Vậy cô cần phải sống. Có lẽ đứa em trai út vốn hay lêu lỏng chơi bời, là người vô tích sự, chịu hiến tim chết thay cho mẹ thì phải lẽ hơn...

Đến lượt mình, đứa em nầy cũng viện lý do là nó mới chỉ mười sáu tuổi tròn, chưa hưởng đời được bao nhiêu, lẽ nào lại từ giã cuộc đời quá sớm! Anh Hai hoặc Chị Ba đã hưởng được nhiều vui thú trên đời hơn nó cả chục năm rồi, nếu có phải giã từ đời nầy trước đứa em út, thì cũng không có gì để ân hận... Thôi, Anh Hai hoặc Chị Ba vui lòng hiến tim cho mẹ thì phải lẽ hơn.

Thế là, dù yêu thương mẹ vô vàn, nhưng không người con nào yêu đến nỗi dám hiến tặng trái tim cho người mẹ yêu quý của mình.

Thế nhưng có một Đấng vô cùng cao cả và đầy quyền năng, không những đã hiến ban Trái Tim mà còn toàn cả thân xác và mạng sống của Người để cứu độ chúng ta. Đó là Ngôi Hai Thiên Chúa. Người đã hạ mình xuống thế, mang lấy tội lỗi chúng ta và chết thay cho chúng ta.

5. Xin Cha tha cho họ

Ông Chirwin, trong cuốn “Thánh Kinh trong thế giới truyền giáo” có kể lại câu truyện có thật sau đây:

Tokichi Ishii, một tên tử tội đã từng giết người không gớm tay đang chờ ngày chịu hành quyết. Có hai bà trong hội Legio Mariae của Nhật-Bản thường đi công tác Tông Đồ trong các trại giam, đã nhiều lần cố gắng tìm cách vào thăm và khuyên nhủ Ishii nhưng đành thất bại ra về. Các bà chỉ còn biết để lại một cuốn Thánh Kinh Tân Ước với một lời đề nghị thật dịu dàng nhân ái: “Lúc nào thấy buồn quá, không biết làm gì thì anh chịu khó mở cuốn sách nhỏ này ra đọc nhé!”

Trong những ngày dài phải chờ đợi cuộc xử bắn, quả thật Ishii đâm ra buồn chán và khủng hoảng, không biết làm gì cho khuây khỏa, anh ta trông thấy cuốn Tân Ước để trên bàn đã phủ bụi lâu nay và tò mò mở ra đọc. Anh ta không ngờ tập sách nhỏ ấy lại khiến anh say mê đọc ngấu nghiến từng câu.

Sau đó một tuần, Ishii kể lại cho người cai ngục Công Giáo: “Khi tôi đọc đến câu Đức Giêsu nói trên Thập Giá: “Xin Cha tha cho họ vì họ không biết việc họ làm...” thì tôi dừng lại. Con tim tôi như bị một con dao dài đâm thâu. Tôi có thể gọi đó là Tình Yêu của Đức Giêsu, hay tôi phải gọi đó là Lòng Thương Xót của Người? Tôi không biết, nhưng điều duy nhất tôi biết, đó là sự hung dữ tàn bạo nơi tôi đã tan biến, và tôi đã tin vào Đức Giêsu...”

Ngày bị đem đi hành quyết, mọi người hiện diện đều ngạc nhiên vì Ishii đã biến đổi thành một con người khác hẳn!

6. Nguồn Mạch Của Tình Yêu

Một câu chuyện tình có thật đã được dựng thành phim và được chiếu trên đài truyền hình Pháp năm 1996, câu chuyện có nội dung như sau:

Có một chàng trai tên là Antôn người Phi châu, mồ côi mẹ, sống với cha trên đất Pháp. Không giấy tờ cũng chẳng có việc làm, nơi ở chỉ là một góc tối trên căn gác chật hẹp. Điều trớ trêu là Antôn lại yêu Valery, một cô gái người pháp thuộc gia đình giàu có, nặng óc kỳ thị. Tình yêu của hai người rất bấp bênh vì màu da chủng tộc. Nhiều lần cha mẹ của Valery đã đến nói rõ với cha của Antôn rằng, họ không bao giờ để cho con gái của họ sống chung với người da đen.

Đau khổ và tuyệt vọng, hai người đành quyết định đi tìm khung trời riêng cho chính họ. Thế là cô gái lấy cắp tiền của cha mẹ và lên đường đi xa, nhưng họ đã bị cảnh sát bắt ngay trong chính đêm họ muốn trốn đi. Quá xúc động bởi nhiều biến cố dồn dập, Valery bị nhồi máu cơ tim phải vào bệnh viện. Gia đình cô lợi dụng cơ hội này để cắt đứt mối liên lạc giữa hai người, và để ngăn ngừa hậu hoạ, cha mẹ Valery đã báo cho cảnh sát biết về tình trạng cư trú bất hợp pháp của hai cha con Antôn, nhưng cảnh sát đã không bắt được Antôn, vì hôm ấy chàng trai thất tình còn mãi lang thang ngoài đường phố. Nhiều tuần lễ sau, các bác sĩ cho biết Valery phải được thay tim mới có hy vọng sống còn. Tình cờ biết được tin này, Antôn đã ghé thăm người yêu đang đau nặng.

Trở về căn nhà của anh, vắng bóng cha chàng trai đau khổ khóc suốt đêm cho đến khi cảnh sát ập đến để bắt chàng, họ thấy chàng mê man bất tỉnh, thay vì đưa chàng vào nhà tù, họ đã chở chàng đến bệnh viện và chỉ vài tiếng sau Antôn tắt thở, trong túi áo của chàng người ta chỉ tìm thấy vỏn vẹn một tờ di chúc với dòng chữ: “Xin được trao tặng trái tim này cho Valery, người yêu của tôi” và Valery đã được cứu sống nhờ trái tim của người tình da đen bất hạnh và đau khổ ấy (nguồn: Internet).

Tình yêu của Antôn dành cho Valery trong câu chuyện trên đây phần nào phản ánh tình yêu của Đức Giêsu đối với nhân loại. Hôm nay, cùng với Giáo Hội chúng ta mừng lễ trọng thể Kính Thánh Tâm Chúa Giêsu. Thánh Tâm Chúa Giêsu là nguồn mạch của tình yêu.

7. Mặc Khải Thánh Tâm

Thế kỷ XVII, khi mặc khải Thánh Tâm cho Thánh nữ Margaritta Maria Alacoque, một nữ tu khiêm nhường của Dòng Thăm Viếng ở Paray-le-Monial, Chúa Giêsu đã cho thánh nữ thấy Thánh Tâm Ngài có lửa cháy, bị vòng gai quấn quanh, và bị lưỡi gươm đâm thâu. Lần hiện ra quan trọng xảy ra trong tuần bát nhật lễ Mình Máu Thánh Chúa Giêsu (Corpus Christi) năm 1675, có thể vào ngày 16 tháng 6, Chúa Giêsu nói: “Hãy ngắm nhìn Thánh Tâm Ta yêu thương nhân loại biết bao… Nhưng thay vì được biết ơn, Ta chỉ nhận được sự vô ơn…." Ngài yêu cầu Thánh nữ vận động thành lập lễ kính Thánh Tâm vào Thứ Sáu sau lễ kính Mình Máu Thánh. Và ngày 11-6-1899, theo lệnh của ĐGH Lêô XIII, cả thế giới đã được tận hiến cho Thánh Tâm Chúa Giêsu.

Thánh Tâm Chúa Giêsu là Trung Tâm Tình Thương Tha Thiết, nơi tuôn chảy Nguồn Tình với hai dòng Máu và Nước. Dù chỉ là tội nhân, nhưng chúng ta được diễm phúc trở thành con cái của Thiên Chúa, là “dân riêng” của Ngài: “Anh em là một dân thánh hiến cho Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em. Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em đã chọn anh em từ giữa muôn dân trên mặt đất, làm một dân thuộc quyền sở hữu của Người” (Đnl 7:6).

8. Sống Lạc Quan

Nhà văn Tolstoi đã kể một câu chuyện sau để khuyên người ta phải sống lạc quan:

Một hôm, một con chó sói kia gặp thấy con sóc có bộ lông màu nâu đang nhởn nhơ gặm củ cà rốt trên một cành cây gần mặt đất, sói liền nhe hàm răng nhọn hoắc ra, gầm gừ đe dọa và hỏi sóc nâu rằng: “Này tên sóc nâu khốn kiếp kia. Tại sao tao thấy họ hàng sóc bọn bay lúc nào cũng vui vẻ nhảy nhót ăn uống như thế? Bộ chúng bay không thấy ông nội của chúng bay đang rầu thúi ruột ra đây hay sao?” Bấy giờ chú sóc nâu kia vội leo lên cành cao hơn để đề phòng bất trắc. Sau khi ngồi an toàn trên cành, sóc nâu mới trả lời chó sói rằng: “Thưa ông sói. Sở dĩ ông luôn cảm thấy buồn thúi ruột vì ông là kẻ gian ác, lúc nào cũng để lòng giận hờn, luôn tìm cách bắt nạt và giết hại những kẻ yếu đuối hơn mình. Còn họ sóc nhà chúng tôi luôn cảm thấy vui tươi và nhảy nhót suốt ngày, vì chúng tôi sống hiền lành, hòa thuận với mọi loài vật khác và không làm hại bất cứ ai."

Câu trả lời của chú sóc nâu rất phù hợp với bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giê-su là một con người lạc quan. Dù vừa gặp phải thất bại ở các thành ven Biển Hồ (x. Mt 11,20-24), nhưng Người vẫn nhận ra thánh ý Chúa Cha: “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho các bậc khôn ngoan thông thái biết những điều mầu nhiệm này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha (Mt 11,25-26).

9. Tình yêu

Vào một buổi sáng Chúa nhật đẹp trời năm 1912, chiếc tàu khổng lồ mang tên là Titanic được hạ thủy và khởi hành sang Mỹ. Trong chuyến đi đầu tiên này, chiếc tàu ấy chẳng may đụng phải băng sơn, khiến cho nước ùa tràn vào và con tàu bị chìm dần dưới lòng đại dương.

Hành khách hoảng hốt tìm cách cứu thoát lấy mình và những người thân yêu trên những chiếc thuyền cứu cấp. Giữa cảnh kinh hoàng ấy, bỗng người ta nghe thấy một giọng hát vang lên:

- Gần bên Chúa, linh hồn con sướng vui.

Với chúng ta cũng vậy, giữa lòng cuộc đời đầy sóng gió, khổ đau và thử thách, nếu chúng ta biết suy nghĩ về tình thương của Chúa và nhất là nếu chúng ta biết sống gắn bó mật thiết với Thánh Tâm Chúa, chắc chắn chúng ta sẽ tìm thấy được niềm vui mừng và hạnh phúc.

10. Kẻ Đâm Ngọn Giáo

Như chúng ta đã biết vào chiều Thứ sáu Tuần Thánh, trên đỉnh đồi Canvê, có một người lính lấy lưỡi đòng đâm thủng cạnh sườn, trúng trái tim Chúa Giêsu, tức thì máu cùng nước chảy ra.

Tương truyền rằng kẻ đâm ngọn giáo ấy tên là Longinô. Anh đã được biết Chúa và trở lại cùng Chúa. Khi chết đi, anh được chôn cất tại Pháp và trên phần mộ của anh còn ghi những chữ như sau:

- Đây là nơi an nghỉ của Longinô, người đã đâm cây đòng vào cạnh sườn Đấng Cứu thế.

Chúa Giêsu đã đổ máu không phải riêng gì do lưỡi đòng của người lính này. Thực ra, cả nhân loại đã đứng lên giết Chúa. Trong đó có chính bản thân chúng ta nữa.

Tuy nhiên, cái chết của Chúa không phải là một vụ thảm sát, nhưng là một cuộc cách mạng. Cái chết của Chúa không phải là một sự thất bại, nhưng là một thành công to lớn, bởi vì máu Chúa đem lại sự sống, như hạt lúa phải mục nát để mầm sống xanh tươi được vươn lên.

11. Chúa không dám giết

Một người vô thần ngày nọ đứng giữa công trường, ngửa mặt thách Chúa trong 5 phút xem có dám giết ông không. 5 phút trôi qua, chẳng có chuyện gì xảy ra. Anh ngạo nghễ ăn nói xúc phạm đến Chúa. Chợt một bà già hỏi:

- Này ông, ông có đứa con nào không?

- Ồ, sao bà lại hỏi thế?

- Nếu một đứa con anh cầm con dao đưa cho anh bảo anh giết nó, anh có làm không?

- Không, tôi thương chúng lắm.

- Chúa cũng vậy, Ngài thương anh lắm, đâu nỡ giết anh.

12. Con tim rộng mở

Năm 1597 lệnh bắt đạo trên đất Nhật thật gắt gao. Chỉ trong một tuần lễ, mọi cơ sở công giáo đều bị triệt hạ, giáo sĩ bị bắt gần hết, giáo dân bị phân tán và khủng bố tàn tạ.

Tại vùng Odawara, Kamakura, người ta bắt được 2 linh mục trẻ tuổi là Simauchi và Uzawa cùng nhiều ảnh tượng giải về Tokyo. Quan đại thần Tsukamoto nhặt trong đống ảnh tượng một mẫu ảnh thật kỳ cục: người gì mà để trái tim ra ngoài!

Tsukamoto là một nhà nho uyên bác có óc thực tế, thích tìm hiểu. Ông cầm mẫu ảnh trái tim coi qua rồi vứt vào sọt rác, nhưng đến tối, ông nhớ lại và nghĩ bức ảnh kỳ lạ kia hẳn có một ý nghĩa nào đó. Ông lượm lại bức ảnh để trên bàn và suy nghĩ. Trời đã về khuya mà quan vẫn ngồi bất động một mình với bức ảnh trước mặt. Mãi đến gần một giờ sáng, vị đại thần mới thở ra nhẹ nhàng khoan khoái, tay cầm bút lông ghi dưới bức ảnh mấy chữ: "đối ngoại hữu kỳ tâm - đối nội vô tâm giả."

Từ đó Tsukamoto đặt bức ảnh trái tim trên bàn làm việc một cách kín cẩn. Một hôm có ông bạn tên Osaki đến chơi, thấy vậy hỏi:

- Thế nào, bạn lại thích ảnh tượng của bọn tà đạo rồi sao?

- Đứng về mặt chính trị của triều đình thì tôi không dám phản kháng. Nhưng về mặt văn hóa và nhân đạo thì tôi rầt thích bức ảnh này. Phải chăng bức ảnh này đã nói lên chương trình và hành động cùng lối xử thế tổng quát của Kitô giáo. Để ông bạn coi: đối với thiên hạ, tha nhân bên ngoài thì "Hữu Tâm", còn với bản thân mình thì "Vô Tâm." Cho nên họ mới vẽ trái tim để ra ngoài... Nghĩa là phải đem hết trái tim của mình mà phục vụ xã hội, giúp ích cho đời; còn về phần mình thì hy sinh xả kỷ, đừng bao giờ lo riêng cho mình, phải diệt cái ngã vị kỷ. Đem hết trái tim ra giúp đời giúp người. Nội bức ảnh nầy tôi thấy đầy đủ hơn cả cái học Từ Bi của Phật, khoan dung hơn cái Nhân Thứ của Khổng, cao siêu hơn cái Vô Ngã của Lão, mạnh mẽ hơn cái học Dũng thuật của Thần Đạo Nhật bản vậy. Một tôn giáo dạy phụng sự nhân loại, yêu thương mọi người, còn bản thân mình thì không màng tới, không quan tâm đến tư lợi, thì quả là ngay chính của Thiên hạ vậy. Osaki cảm phục sự diễn đạt của bạn. Không ngờ Đạo công giáo lại hàm chứa một triết lý nhân sinh cao siêu như vậy. Từ đó hai ông trở nên những người bạn chí thân và đã âm thầm nhận phép rửa tội, đồng thời vận động triều đình thả hai linh mục...

13. Chỉ cần mẹ

Tai nạn xảy ra cho cô gái 16 tuổi buộc cô phải nằm nhiều tháng trong bịnh viện. Mẹ cô lại là người đàn bà ham vui, chẳng nghĩ đến chuyện ở lại bên con. Trong khi đang đi du lịch bên Italia, bà nhớ đến sinh nhật của con, liền gửi cho con gái chiếc bình cắm hoa rất đẹp. Cô y tá đem chiếc bình đến, nói rằng mẹ em đã cẩn thận gửi quà vào đúng ngày sinh nhật của con. Cô gái dửng dưng nhìn chiếc bình, rồi hét: "Vứt đi! Dẹp đi! Tôi không cần. Mẹ ơi, mẹ đừng gửi gì cho con nữa, đừng gửi sách vở, quà cáp, hình ảnh... Con chẳng cần những thứ đó. Con chỉ cần mẹ!"

Đức Giêsu cũng thế, Ngài chẳng cần gì vật chất. Ngài chỉ cần con tim rộng mở của bạn, tình yêu chân thành của bạn, niềm tin phó thác của bạn. Và Ngài muốn nên một với bạn.

14. Trái tim rộng mở

Một nhà truyền giáo đến kiểm tra trình độ giáo lí một bà già 73 tuổi để được nhập đạo

- Đức Kitô là ai?

- Là người đã chết cho con.

- Người chết thế nào?

- Con không biết.

- Ai là môn đệ đức Kitô?

- Con không nhớ. Con không biết chữ.

- Bà có biết một cuốn sách Thánh Kinh nào không?

- Thưa không. Với người mù chữ thì…

- Đức Kitô sống ở nước nào?

Thinh lặng.

Nhà truyền giáo dừng lại. Bà già tỏ vẻ đau khổ vô cùng. Người hướng dẫn cho bà nói: "Bà này là người rất vững tin, luôn có mặt trong các buổi phụng vụ, dù ở cách xa đó 3 dặm. Bà luôn sẵn lòng cho đi những gì có thể. Trước đây tính khí thất thường, nhưng từ ngày học đạo, bà trở nên hiền hoà và rộng lượng. Mọi người đều thấy thế."

Nhà truyền giáo nhìn bà. 73 tuổi. Bà chẳng còn sống bao lâu nữa, một năm cũng khó. Và ngài quyết định tiếp tục.

- Thiên Chúa là ai?

- Thiên Chúa là Cha trên trời.

- Thiên Chúa ở đâu?

- Con ở đâu, Ngài ở đó.

- Bà có hay thưa chuyện với Ngài?

- Rất thường. Làm việc ngoài đồng hay làm bữa trong nhà, lúc vui cũng như lúc buồn, con đều thân thưa với Chúa. Lúc có nhiều chuyện, con nói lâu. Khi có ít, con nói vắn hơn. Có gì trong lòng, con đều trình bày với Ngài hết. Và lòng con thấy rộng mở.

15. Hiền lành

Mặt trời và gió luôn tranh cãi xem ai mạnh hơn ai. Hôm đó, có một người mặc áo choàng đi trên con đường vắng. Mặt trời nói với gió:

– Ai làm cho người ấy cởi bỏ chiếc áo choàng mau hơn thì sẽ thắng cuộc.

Gió đồng ý và ra tay trước. Chàng ta càng thổi thì người kia lại càng giữ chặt lấy chiếc áo. Cuối cùng chàng gió kiệt sức và đành chịu thua.

Lúc đó mặt trời mới ra tay. Bác ta toả xuống những tia nắng khiến người kia cảm thấy nóng bức. Và thế là người ấy phải cởi áo ra.

Tác giả câu chuyện trên đã kết luận như sau: Bạn có thể thành công nhờ sự hiền lành dễ thương hơn là nhờ bạo lực.

16. Liêm Pha và Lạn Tương Như

Vua Triệu phong Lạn Tương Như làm tướng quốc. Liêm Pha cậy mình có công hơn mà lại đứng dưới nên tức giận, hăm hễ gặp mặt Lạn Tương Như là giết.

Tương Như nghe nói thế thì tìm cách lánh mặt Liêm Pha mãi.

Một hôm, Tương Như ra đường, gặp toán lính tiền đạo của Liêm Pha, vội bảo tên đánh xe đi tránh vào trong ngõ, đợi Liêm Pha đi qua rồi mới đi ra.

Bọn xa nhân thấy thế tức giận, bèn họp nhau hỏi Tương Như:

“Chúng tôi bỏ nhà cửa, xa thân thích đến đây hầu ngài, tức coi ngài là bậc trượng phu nên yêu mến mà đi theo. Nay ngài cùng Liêm tướng quân cùng hàng mà hạng thứ lại ở trên. Liêm tướng quân doạ ngài, ngài đã không báo lại, đã tránh ở triều nay lại tránh ở ngoài đường. Sao ngài lại sợ quá thể vậy? Chúng tôi thật lấy làm xấu hổ, vậy xin đi thôi, không ở nữa.”

Tương Như nói: “Các ngươi xem Liêm tướng quân có hơn được vua Tần không?”

Bọn xa nhân thưa: “Không."

Tương Như nói: “Lấy như cái oai của vua Tần, thiên hạ không ai dám chống, Tương Như nầy một mình dám mắng giữa triều đình, lại làm nhục cả quần thần nữa. Tương Như dẫu hèn, há lại sợ một Liêm Tướng Quân ư? Nhưng ta nghĩ Tần sở dĩ không dám đánh Triệu là vì ngại có ta và Liêm tướng quân. Nay hai con hổ tranh nhau, tất không cùng sống. Tần mà nghe tin ấy tất thừa cơ đánh Trịêu. Ta sở dĩ chịu nhục tránh Liêm tướng quân là vì coi việc nước là trọng mà thù riêng là nhẹ vậy thôi."

Bọn xa nhân quỳ mọp tâu rằng: “Tiểu nhân chúng tôi trí hẹp làm sao độ nổi đại chí của tướng công."

Liêm Pha hay được tin nầy, cả thẹn than rằng: “Ta thật còn kém Lạn Tương Như nhiều lắm”, bèn trần vai áo đến trước cửa Tương Như tạ tội: “Tính tôi thô bạo, đội ân tương quốc bao dung, nghĩ lấy làm hổ thẹn quá!”

Tương Như đỡ dậy, nắm tay cùng khóc và kết bạn sống chết có nhau.

17. Thánh Phanxicô Salêsiô.

Thời còn trai trẻ, ngài là một người có tính nóng như lửa đốt, hơi một chút là nổi sùng, hơi một chút là quát tháo. Phải mất hơn hai mươi năm tập luyện. ngài mới trở thành một vị thánh hiền dịu và dễ thương.

Ngày kia, có một người đang tức giận đối với ngài. Ông ta xua bày chó sang tòa giám mục để chúng sủa vang. Còn ông ta và đám gia nhân thì bước vào phòng ngài và chửi bới om xòm. Chính ông ta đã nhổ nước miếng vào mặt ngài. Thế nhưng, ngài vẫn yên lặng, bình tĩnh rút khăn ra lau. Chính thái độ hiền hòa khả ái này đã cảm hóa được ông ta, khiến ông ta sám hối và quay trở về cùng Chúa.

Như vậy, hiền lành không phải là hèn nhát, nhưng là anh hùng. Kẻ khác đánh chúng ta và chúng ta đánh trả lại, thì đó chỉ lả phản ứng thông thường của loài vật. Trái lại, kẻ khác đánh chúng ta mà chúng ta vẫn tha thứ, vẫn cầu nguyện cho họ, thì đó mới là thái độ anh hùng, xứng đáng với địa vị của con người.

Hơn thế nữa. sự hiển lành còn là một phương tiện hữu hiệu nhất để cảm hóa người khác, bởi vì chỉ với một giọt mật, người ta có thể bắt được nhiều ruồi hơn cả một thùng dấm chua.

18. Mang lấy ách

Có một câu chuyện cổ kể về một người đàn ông đang đi trên đường, tình cờ gặp một em bé trai đang cõng một em bé trai khác nhỏ hơn nhưng đã bị cụt hai chân trên lưng. Người đàn ông đó nói với bé trai rằng: “Đó quả thật là một gánh nặng cho em phải mang." Nhưng em bé trai đã trả lời rằng: “Đó không phải là một gánh nặng. Đó là đứa em nhỏ của cháu." Gánh nặng được trao ban trong tình yêu và mang lấy bằng tình yêu sẽ luôn nhẹ nhàng!

Trong chuyện “Ngụ ngôn về những con chim” kể rằng thuở sáng tạo trời đất và các loài súc vật, tất cả đều bước đi bằng chân loanh quanh trên mặt đất, trừ những con chim! Nhưng những con chim này chẳng chịu làm gì hết mà chỉ phàn nàn về gánh nặng Thiên Chúa bắt chúng phải mang trên vai, trong khi đó chẳng có một loài vật nào phải mang cả. Thoạt đầu, đối với loài chim, đôi cánh là những bộ phận xấu xí và luộm thuộm nhất chúng phải mang. Chúng nghĩ rằng đó là cách chúng đã bị Thiên Chúa phạt vì một lý do nào đó. Tại sao cứ phải mang lấy những cái cánh vướng vít gây cản trở và khó khăn mỗi khi cất bước? Tại sao? Tại sao lại là chúng mình? Sau cùng có hai hay ba con chim mạo hiểm hơn bắt đầu tập cử động những bộ phận phụ thuộc này. Chúng bắt đầu chớp cánh phất phơ, và sớm khám phá ra rằng cái mà chúng coi như một gánh nặng trên vai thực ra đã làm cho chúng có thể cất cánh bay lên cao được. Cái “gánh nặng” đã biến thành một món quà đẹp đẽ.

Con người sinh ra đời kèm theo với cái ách, gánh nặng và trách nhiệm. Đó là cuộc đời! Và chúng ta cũng không thể tránh được lòng mong ước thoát khỏi chúng. Đó cũng là cuộc đời! Chúng ta muốn được giải thoát, nhưng tự sức chúng ta không làm nổi. Chúa Giêsu nói với chúng ta: “Tất cả hãy đến với Ta, hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng, Ta sẽ nâng đỡ bổ sức cho các người." Chúng ta không mang vác một mình, nhưng với sự giúp đỡ của Chúa Giêsu, cái ách sẽ trở nên êm ái và gánh nặng sẽ nên nhẹ nhàng. Với sự trợ giúp của Thiên Chúa, cái ách trở nên giống như đôi cánh chim giúp ta bay lên cao hơn trong đời sống tinh thần.

19. Những vết thương

Trong tiểu sử cuộc đời thánh nữ Têrêsa Avila có kể một câu chuyện về việc ma quỉ giả dạng giống Chúa Giêsu sống lại hiện ra với thánh nữ. Vừa nhận ra sự giả dạng thánh nữ đuổi nó đi ngay. Trước khi ra đi, Satan hỏi: “Làm thế nào bà đã biết được tôi là một người mạo nhận?” Thánh nữ đáp lại: “Bởi vì mày không có những vết thương." Trong bài suy niệm của thánh nữ về đời sống tinh thần, The Interior Castle – Lâu Đài Nội Tâm – thánh nữ Têrêsa đã nói đi nói lại về hình ảnh của Chúa Kitô chịu đau khổ đến hơn 40 lần. Thánh nữ thường xuyên đề cập đến đau khổ là vì, đối với thánh nữ, hình ảnh Chúa Kitô mang thương tích đã đến với chúng ta trong chính thương tích của chúng ta là chìa khóa để tìm hiểu cuộc hành trình thiêng liêng. Chúng ta có một Thiên Chúa cùng đồng hành với chúng ta. Ngài biết sự phấn đấu và hiểu nỗi đau khổ của chúng ta.

Cái ách ở thế kỷ thứ nhất thường được mang bởi hai con vật cùng kéo cày hay kéo xe chung với nhau. Khi chúng ta mang lấy trách nhiệm phục vụ Chúa Kitô, chúng ta cũng mang lấy ân sủng và sức mạnh của Chúa Kitô. Thiên Chúa là Đấng đã ra lệnh cho chúng ta phải cúi xuống để Người đặt lên chúng ta cái ách của Người, cũng sẽ ở bên cạnh chúng ta để cùng mang vác với chúng ta. 

LỄ THÁNH TÂM NĂM B

Lời Chúa

TRUYỆN KỂ

1. truyện

LỄ THÁNH TÂM NĂM C

Lời Chúa

TRUYỆN KỂ

1. truyện

LỄ KÍNH TRÁI TIM VÔ NHIỄM MẸ MARIA

Lời Chúa

TRUYỆN KỂ

1. truyện

LỄ KÍNH THÁNH TÔNG ĐỒ BARNABA

Lời Chúa: Mt 10, 7-13

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các Tông đồ rằng: “Các con hãy đi rao giảng rằng: Nước Trời đã gần đến. Hãy chữa những bệnh nhân, hãy làm cho kẻ chết sống lại, hãy làm cho những kẻ phong cùi được sạch và hãy trừ quỷ: Các con đã lãnh nhận nhưng không thì hãy cho nhưng không.

“Các con chớ mang vàng, bạc, tiền nong trong đai lưng, chớ mang bị đi đường, chớ đem theo hai áo choàng, chớ mang giày dép và gậy gộc: vì thợ thì đáng được nuôi ăn. Khi các con vào thành hay làng nào, hãy hỏi ở nơi đó ai là người xứng đáng, thì ở lại đó cho tới lúc ra đi.

“Khi vào nhà nào, các con hãy chào rằng: “Bình an cho nhà này.” Nếu nhà ấy xứng đáng thì sự bình an của các con sẽ đến với nhà ấy; còn nếu nhà ấy không xứng đáng, thì sự bình an của các con sẽ trở về với các con.”

TRUYỆN KỂ

1. Thánh Banaba tông đồ

Ba-na-ba “là một người tốt lành, đầy Thánh Thần và lòng tin’’ (Cv11,23). Ngài được sách công vụ nhận là Tông Đồ (14,4) cho dù ngài không thuộc nhóm Mười Hai

Ngài là một người Do Thái thuộc giáo tỉnh Cypern, gốc Lê-vi và tên gọi là Giuse. Chúng ta không biết lúc nào ngài gia nhập Kitô giáo. Như Công Vụ ghi, ngài có lòng đại độ: “Giuse, người đã được các Tông Đồ đặt tên là Ba-na-ba -nghĩa là con của sự an ủi- một người Lê-vi, người gốc Ky-prô, có một thửa ruộng, ông đã bán đi và đem bạc đặt dưới chân các Tông Đồ” (Cv 4,36-37)

Ngài là người hướng dẫn Saolô mới trở lại đến gặp các vị Tông Đồ ở Giêrusalem (Cv 9,26-27). Sau này vào khoảng năm 42, đã tìm Saolô từ Tar-sô sang An-ti-ô-ki-a làm người cộng sự truyền giáo. Trong cuộc hành trình truyền giáo lần thứ nhất, cả hai đi Ky-prô và mạn nam Tiểu Á. Cả hai đã đi Giêrusalem dự Công Nghị Tông Đồ để đấu tranh cho việc người ngoại, một khi gia nhập Ki-tô giáo, không phải lệ thuộc Lề Luật. Sau đấy, có cuộc tranh cãi giữa hai người, chỉ vì Phao-lô không muốn đem theo Mác-cô, bà con của Ba-na-ba, trong cuộc hành trình truyền giáo lần thứ hai. Ba-na-ba đã đem Mác-cô đi với mình đến Ky-prô (Cv 15,39)

Theo truyền thuyết sau này, Ba-na-ba bị ném đá chết tại Sa-la-mít.

2.  Nhận và cho

Một hôm có một vị bá tước đến cho Thánh Gioan Thiên Chúa số tiền 25 đồng vàng để ngài giúp những người nghèo khổ. Ngay chiều hôm ấy, ông ta giả trang làm một người ăn xin đến xin thánh nhân bố thí. Thánh Gioan Thiên Chúa động lòng thương, lấy cả số tiền 25 đồng vàng đem cho người ấy kèm với những lời khích lệ an ủi.

Ngày hôm sau, vị bá tước đích thân đến thú nhận tất cả với thánh nhân và xin lỗi vì đã thử lòng bác ái của Ngài. Khi từ giã, ông đưa tặng thêm 150 đồng vàng nữa ngoài số 25 đồng mà ông xin hoàn lại. Từ đó cứ mỗi tuần ông lại gởi tới bệnh viện của thánh nhân một số tiền lớn, một số thuốc men, lương thực và quần áo để thánh nhân giúp đỡ những người nghèo.

3. Nên một trong khác biệt

Phaolô và Banaba đều là những tông đồ nhưng cá tính và cách đối xử khác hẳn nhau. Phaolô thì nguyên tắc và cứng rắn, còn Banaba thì tình cảm và mềm dẽo. Bởi thế đôi khi hai ông đụng độ nhau:

Lần thứ nhất là về vấn đề ăn chung (Ga 2,13). Số là Giáo Hội đã có quyết định rằng lương dân tòng giáo không bị buộc giữ tục lệ do thái giáo, trong đó có tục lệ phân biệt những món ăn nào sạch những món ăn nào dơ. Bởi đó các tông đồ đều hòa đồng với lương dân, ăn chung bàn với họ. Nhưng một lần kia vì có mặt những người do thái nên vì muốn không gây khó chịu cho họ, thánh Banaba và cả thánh Phêrô đã tránh ngồi chung bàn ăn với những người lương tòng giáo. Lần đó Phaolô đã nổi giận đứng lên công khai trách nặng hai ngài. Nhưng sách thánh không viết gì về phản ứng ngược lại của hai vị, tức là hai vị đã nhịn. Phêrô vị lãnh đạo Giáo Hội, Banaba người đỡ đầu cho Phaolô, còn Phaolô chỉ là một kẻ đến sau, một người cấp dưới. Thế mà hôm nay người đến sau và người cấp duới ấy công khai chỉ trích hai bậc truởng thuợng truớc mặt cả nguời do thái lẫn nguời luong tòng giáo. Vậy mà hai vị này vẫn nhịn. Thật là một tấm guong về lòng khiêm tốn và coi trọng hòa khí.

Lần đụng độ thứ hai là về việc của Marcô (Cv 15,39): Trong chuyến truyền giáo thứ nhất, Banaba đã cho Marcô nhập đoàn. Nhung sau một số gian khổ, Marcô đã bỏ cuộc về nhà với mẹ. Phaolô giận lắm. Đến khi chuẩn bị chuyến truyền giáo thứ hai, Banaba lại rủ Marcô theo, có ý là để Marcô đoái công chuộc tội. Nhung Phaolô cuong quyết không nhận. Phần Banaba thì cũng thiết tha muốn cứu vớt Marcô nên cũng nhất định giữ anh này. Kết quả là Banaba và Phaolô đành phải chia tay nhau, mỗi nguời dẫn một đoàn truyền giáo riêng đi giảng một huớng riêng. Chuyện bất đồng này lại sinh kết quả tốt là việc truyền giáo càng đuợc đẩy mạnh hon.

Còn thêm một kết quả nữa chứng minh quan điểm của Banaba là hợp lý, đó là ông đã thực sự cứu chữa đuợc Marcô, Marcô trở thành một tông đồ nhiệt thành và tác giả quyển Tin Mừng thứ hai.

Mỗi nguời chúng ta khi sinh ra mang sẵn một loại tính tình. Hãy sống Tin Mừng và loan Tin Mừng theo cá tính riêng của mình.

4. Thánh Phanxicô truyền giáo

Thánh Phanxicô gọi một thầy dòng cùng đi giảng với ngài. Hai thầy trò cùng đi các đuờng phố Assisi, cách nghiêm trang, suy tuởng về Chúa... Về nhà, thầy dòng hỏi cha thánh: Thưa cha, giảng ở đâu ạ?

Cha thánh trả lời: Giảng là đem Chúa đến bằng guong sáng, bằng cách sốt sắng mang Chúa trong tâm hồn .

5. Chuyện thánh Barnaba truyền giáo

Một truyền thống sau này nói tới chuyến hành trình của thánh Barnaba tới Alexandria, Rôma, và Milan. Tại Milan, Ngài là Giám mục tiên khởi. Một truyền thống đáng tin hon cho biết Ngài chết vì ném đá ở Salamis, sinh quán của Ngài. Nay còn nhiều mảnh vụn của cuốn ngụy thu Phúc Âm thánh Barnaba và của một tác phẩm thuộc thế kỷ thứ V là công vụ thánh Barnana. Nhung những tài liệu này không cho biết nhiều hon những điều đã biết đuợc từ sách Công Vụ các tông đồ. cuốn gọi là tho thánh Barnaba mà nhiều giáo phụ chép vào tho mục Thánh Kinh, nay nguời ta biết đuợc là tác phẩm của một nguời Do Thái theo Kitô giáo ở Alexandria.

 Nguời ta nói rằng mộ Ngài đuợc tìm thấy nãm 448. Trên ngực Ngài còn có một cuốn Phúc Âm theo thánh Matthêu mà chính thánh Ngài đã chép tay.

6. Chuyện thánh Barnaba

Một số chuyên gia đã so sánh Thánh Bác-na-ba ngang hàng với Thánh Phao-lô về tầm quan trọng của Ngài trong công cuộc truyền giáo cho dân ngoại.

Có một bức thu mang tên của Ngài, nhung nó đuợc coi là mạo danh, và cũng đuợc xếp vào hàng ngũ các sách Ngụy Thu. Bức thu này muốn chứng minh những huấn giáo của Ki-tô giáo nguyên thủy về Chúa Giê-su Ki-tô và về cuộc khổ hình của Ngài nhu là sự tuong ứng và hài hòa với Cựu Uớc; trong thời Giáo hội cổ đại, bức thu này đôi khi đuợc coi nhu thành phần của quy điển Tân Uớc. Thực tế thì bức thu đó đã xuất hiện khá muộn, chỉ khoảng vào nãm 130, và với cách giải thích Cựu Uớc có tính bài Do-thái của mình, nên bức thu này không đuợc công nhận là của Thánh Bác-na-ba. Cũng có một cuốn Tin Mừng mạo danh Thánh Nhân, nhung tiếc rằng nó đã bị thất truyền. Một tác phẩm khác cũng mạo danh Thánh Nhân, nhung mãi cho tới thế kỷ XVI nó mới đuợc biên soạn. Theo một truyền thống truớc đây, mà truyền thống này phát xuất từ Tertullianô, Thánh Bác-na-ba đuợc coi là tác giả của Thu gửi Tín Hữu Do-thái.

Các Giáo hội Chính Thống đã liệt Thánh Nhân vào nhóm 70 môn đệ do đích thân Chúa Giê-su tuyển chọn.

7. Phần mộ của thánh Barnaba

Theo tuong truyền, vào nãm 477, trong một buổi tối, Thánh Bác-na-ba đã hiện ra với Đức Tổng Giám Mục Anthemios của đảo Sýp, và đã chỉ cho Đức Tổng Giám Mục này biết vị trí ngôi mộ của Ngài. Sau đó, thi hài của Thánh Nhân đã đuợc tìm thấy.

Khai quật ngôn mộ của Ngài, nguời ta phát hiện ra rằng, khi Thánh Bác-na-ba qua đời, nguời bạn đuờng của Ngài là Thánh Mác-cô, đã an táng Ngài một cách hết sức trang trọng. Trên ngực của Thánh Bác-na-ba có đặt một bản sao cuốn Tin Mừng theo Thánh Mát-thêu do chính Thánh Bác-na-ba chép lại. Đức Tổng Giám mục Anthemios đã cấp tốc báo cho triều đình hoàng đế Zenon tại Constantinopoli biết tin về vụ khai quật. Qua đó vị Giám mục của Giáo hội Sýp đã thuyết phục đuợc nhà cầm quyền rằng, Giáo hội Sýp đuợc thành lập bởi Thánh Bác-na-ba, nên không ít tính Tông Truyền hon Giáo hội Antiochia, và vì thế đuợc coi là ngang hàng với Giáo hội đó.

Một nguồn suối đã bắt nguồn ngay bên cạnh ngôi mộ trống ngày nay. Nguồn suối này đuợc cho là có khả nãng chữa lành cũng nhu có khả nãng kỳ diệu, đặc biệt là đối với những phụ nữ vô sinh và những bệnh ngoài da. Vào nãm 1953, một nhà nguyện mới đã đuợc kiến thiết ngay trên phần mộ đuợc cho là của Thánh Bác-na-ba.

Lời Chúa Tuần 10 Thường Niên
Thường niên V-GS C-PS Ngoại lịch

EDIT