THỨ BA - Điều kiện làm người lớn nhất
ĐỨC MẸ LÀ MẸ HỘI THÁNH – Này là Mẹ
con
LỄ ĐỨC MẸ ĐI VIẾNG - Nhận ra dấu chỉ
của Chúa
CNTN
7A -
Lời |Chúa
TRUYỆN KỂ
1. truyện
CNTN
7B -
Lời |Chúa
TRUYỆN KỂ
1. truyện
CNTN
7C -
TRUYỆN KỂ
1. truyện
THỨ
HAI -
Lời Chúa
TRUYỆN KỂ
1. truyện
THỨ
BA - Điều kiện làm người lớn nhất
Lời Chúa:
Mc. 9, 29-36
Khi ấy,
Chúa Giêsu và các môn đệ từ trên núi xuống, rồi đi ngang qua xứ Galilêa và Người
không muốn cho ai biết. Vì Người dạy dỗ và bảo các ông rằng: "Con Người sẽ
bị nộp vào tay người ta và họ sẽ giết Người. Khi đã bị giết, ngày thứ ba, Người
sẽ sống lại.” Nhưng các ông không hiểu lời đó và sợ không dám hỏi Người.
Các ngài tới
Capharnaum. Khi đã vào nhà, Người hỏi các ông: "Dọc đàng các con tranh luận
gì thế?" Các ông làm thinh, vì dọc đàng các ông tranh luận xem ai là người
lớn nhất.
Bấy giờ Người
ngồi xuống, gọi mười hai ông lại và bảo các ông rằng: "Ai muốn làm lớn nhất,
thì hãy tự làm người rốt hết và làm đầy tớ mọi người.” Và Người đem một em bé lại
đặt giữa các ông, rồi ôm nó mà nói với các ông rằng: "Ai đón nhận một
trong những trẻ nhỏ như thế này vì danh Thầy, tức là đón tiếp chính mình Thầy.
Và ai đón tiếp Thầy, thực ra không phải đón tiếp Thầy, nhưng là đón tiếp Ðấng
đã sai Thầy.”
TRUYỆN KỂ
1. Làm tôi tớ mọi người
Ở cuối văn
kiện Tòa Thánh, các Ðức Giáo Hoàng thường ghi dòng chữ này cùng với chữ ký của
mình: "Tôi tớ của các tôi tớ.” Ðây là tinh thần mà Chúa Giêsu muốn tất cả
các vị lãnh đạo trong Giáo Hội phải có, như được đề cập đến trong bài Tin Mừng
hôm nay: "Ai muốn làm đầu thì phải làm người rốt hết, và làm tôi tớ mọi
người.”
Điều đó
luôn được thể hiện trong cuộc đời Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II. Nhất là
ngài đã lặp lại hành động của Chúa Giêsu được diễn tả trong bài Tin Mừng hôm
nay: Chúa Giêsu đã ôm lấy một em bé để dạy các môn đệ biết tiếp nhận những người
bé nhỏ nghèo hèn.
Đó là vào
ngày 17/9/1987, trong chuyến viếng thăm San Francisco, Hoa Kỳ, Đức Cố Giáo
Hoàng đến thăm tu viện Dolores, nơi chăm sóc các nạn nhân Aids. Đang bước đi chầm
chậm để ban phép lành cho mọi người, ngài bỗng nghe thấy tiếng đứa bé: “Con
chào Đức Thánh Cha.” Quay lại, ngài nhìn thấy một em bé xanh xao gầy còm đang
bò tới bên ngài. Đôi mắt xanh của em bé đang nhỏ lệ. Ngài dừng lại, cúi xuống bế
lấy đứa bé và ôm vào lòng. Đó là bé Brendan, 4 tuổi, nạn nhân của bệnh Aids.
Người ta chụp được bức ảnh ngài đang ôm đứa bé vào lòng. Và người ta đã bày tỏ
cảm nghĩ: “Đức Thánh Cha muốn chứng tỏ trước hết rằng: khi giúp đỡ một người
đau khổ, việc đầu tiên là hãy ôm lấy họ.” Hai năm sau, em bé Brendan đã qua đời.
Nhưng có lẽ em rất hạnh phúc vì đã được ở trong vòng tay yêu thương của vị đại
diện Đức Kitô ở trần gian.
2. Sợ quan hơn sợ cọp
Khổng Tử đi
ngang qua núi Thái thì gặp một phụ nữ đang khóc lóc thảm thiết bên mộ con. Thầy
đến hỏi lý do tại sao bà ta khóc, thì được cho biết là bà khóc cho con, cho chồng
và cho cả cha chồng đã bị cọp ở núi Thái bắt ăn thịt.
Khổng Tử
bèn hỏi tại sao gia đình không dọn đi nơi khác, thì được bà thổ lộ là: “Ở đây
không có hà chính” (hà chính ám chỉ sách lược quốc trị hà khắc, quan lại lộng
quyền làm khổ dân chúng). Khổng Tử quay sang học trò và nói: “Hà chính mãnh ư hổ
giã” (có nghĩa là sách lược quốc trị hà khắc còn ghê gớm hơn cọp). Bởi vì gia
đình của người phụ nữ tránh chính sách làm khổ dân của vua quan đến lánh trong
rừng thiêng nước độc chấp nhận ngay cả nguy hiểm với cọp dữ và cái chết.
3. Giá trị trước cái chết
Bác sĩ
Elizabeth Couplaros là giáo sư về môn tâm lý trị liệu tại đại học Chicago, Hoa
kỳ. Một trong những tác phẩm bán chạy nhất của bà có tựa đề “Sự chết và Chết.”
Cuốn sách
ghi lại sự phỏng vấn của tác giả với hàng trăm người đã từng bị bác sĩ tuyên bố
là chết nhưng bỗng dưng sống lại. Có thể nói người chết sống lại này đều cho biết
rằng trong khoảnh khắc mà bác sĩ gọi là chết ấy họ như sống lại cả quãng đời của
họ, cứ như thế họ xem lại cuốn phim về cuộc đời của họ. Khoảnh khắc ấy có nghĩa
gì không?
Bác sĩ
Couplaros đã nhận định như sau: “Khi bạn trải qua khoảnh khắc ấy, bạn chỉ thấy
có hai điều quan trọng trong cuộc đời, một là bạn đã phục vụ; hai là bạn sống
yêu thương, còn tất cả những điều mà chúng ta xem trọng như danh tiếng, tiền của,
uy tín và quyền lực đều vô nghĩa.”
4. Cần tinh thần phục vụ.
Những thuộc
viên cao cấp của Bà-la-môn ở Ấn Độ không bao giờ cúi xuống làm việc của người đầy
tớ. Vì thế Shirman Naraayan sốc làm sao khi ông được giao nhiệm vụ mà ông thấy
như mình bị hạ thấp khi ông dành thời gian làm tại trung tâm Grandhi (là một
trung tâm tĩnh tâm của người Hindu).
Tốt nghiệp
tiến sĩ tại trường Kinh Tế Luân Đôn, chàng thanh niên này đã đến tìm hướng đi
cho tương lai. Chàng không biết rằng mọi người tại trung tâm này đều được giao
nhiệm vụ cụ thể, và Shirman phải chùi nhà vệ sinh. Thấy bị xúc phạm ghê gớm,
anh đi thẳng đến chỗ Grandhi và phàn nàn: “Tôi có bằng tiến sĩ. Tôi có thể làm
được nhiều điều lớn lao hơn, tại sao lại bắt tôi phải phí thời gian và tài năng
vào việc lau chùi phòng vệ sinh vậy”? Grandhi trả lời: “Tôi biết anh có thể làm
được nhiều việc lớn, nhưng tôi cũng phải xem thử anh có đủ năng lực để làm những
việc nhỏ không đã.”
Có thể bạn
đủ năng lực để phục vụ Chúa một cách đặc biệt. Qua nền giao dục bạn hấp thụ và
ân tứ bạn có được, có thể bạn có khả năng làm những công việc lớn lao và hiệu
quả. Nhưng bạn có sẵn lòng khiêm nhường làm những việc của đầy tớ nếu Chúa giao
công việc đó cho bạn không? Bạn có sẵn lòng lau chùi nhà vệ sinh hay rửa chân
cho người khác không (Ga 13,14-15)? Đó mới thật sự là điều một môn đệ vâng lời
cần làm.
5. Nước Trời thuộc về người nhỏ bé
Một người
mơ thấy rằng: Trong ngày cánh chung, Chúa Giêsu đứng trước cửa Trời đón người
công chính vào Thiên Đàng,lúc ấy ai cũng muốn vào trước, nhưng không ai dám
tranh với những vị có chức quyền. Lúc ấy một vị đội mũ cà cuống, tay cầm gậy rồng,
mặc áo vua tiến đến trước mặt Chúa,
Chúa hỏi
- Ngươi là
ai?
- Dạ con là
Giáo hoàng.
- Giáo
hoàng ư? Đứng ra bên cạnh tính sau.
Một người
khác mặc veston, đi giày tây, oai phong lẫm liệt đến trình diện. Chúa hỏi
- Ngươi là
ai?
- Dạ, con
là Tổng thống Mỹ ạ.
- Tổng thống
Mỹ à, đứng sang bên, chờ xét.
……
Cuối cùng một
cụ già khòm lưng chống gậy đến trình diện. Chúa hỏi
- Ngươi là
ai?
- Dạ, thưa
là con nít ạ.
- Con nít
à, vô con vô con, lẹ lên!
6. Teresa Calcutta và Diana
Năm 1997 là
năm của hai người phụ nữ nổi tiếng thế giới. Đó là Mẹ Têrêxa Calcutta và Công
nương Diana. Vào ngày 05/9/1997, Mẹ Têrêxa đã qua đời tại Calcutta, Ấn Độ. Cả
thế giới đã xúc động trước cái chết của Mẹ. Và trước đó một tuần, Công nương
Diana của nước Anh đã qua đời trong một tai nạn xe hơi thảm khốc tại nước Pháp.
Thế giới cũng xôn xao về cái chết của vị công nương lừng danh này.
Trong thời
gian đó, một số tờ báo trên thế giới đã đăng một tấm hình đầy ý nghĩa về hai
người phụ nữ được nhiều người biết đến này. Đó là tấm hình chụp Mẹ Têrêxa đứng
bên cạnh Công nương Diana trong một lần hai người đi làm việc từ thiện. Đó là một
hình ảnh hoàn toàn tương phản nhau. Công nương Diana cao lớn, xinh đẹp và quý
phái, đứng bên cạnh Mẹ Têrêxa thấp bé, xấu xí và hèn kém.
Tuy nhiên, ở
nơi Mẹ Têrêxa, một người nhỏ bé và hèn mọn, người ta đã tìm thấy một cái gì đó
thật lớn lao và vĩ đại. Mẹ Têrêxa tuy là “người bé nhất” nhưng thật ra lại là
“người lớn nhất.” Bởi vì Mẹ đã thực hiện lời Chúa Giêsu dạy trong bài Tin Mừng
theo thánh Marcô hôm nay: “Ai muốn làm lớn nhất, hãy tự làm người rốt hết và
làm đầy tớ mọi người.”
7. Bởi đâu mà cãi cọ và cạnh tranh
Họ Tử Xa có
con lợn nái sắc đen tuyền, đẻ một lứa ba con, hai con đen tuyền, một con loang
lổ. Lợn nái nuôi hai con lợn con giống mình rất chăm chỉ cẩn thận, hơi một tí
cũng lo sợ. Còn con lợn loang lổ khác mình thì ghét bỏ, sau cắn chết xé cả gan
ruột nát nhừ mới thôi.
Tử Hoa Tử
nói: “Gớm thay lòng người dễ thay đổi. Mắt đã mờ vì kẻ khác giống mình hay khác
mình, thì bụng sanh ngay ra có kẻ yêu, kẻ ghét. Đã ghét thì đến con ruột đẻ ra
cũng hại cả con mà không hối huống chi là người khác máu với mình. Người đời
lúc bình cư thì âu yếm thân thiết, thề ước cùng nhau, kiên cố tưởng keo sơn
cũng không bằng. Khi lâm đến thế lợi, chỉ chênh nhau bằng sợi tơ sợi tóc, thì mặt
đã đổi sắc, cơn giận nổi lên và tìm cách tàn hại nhau ngay lập tức, gớm thay!
Lòng người đổi thay, tưởng chẳng khác gì con lợn nái.” (Cổ học tinh hoa)
Đó không phải
là chuyện hoang đường hay chuyện ngày xưa, mà là chuyện cũng có thể tận mắt thấy
được trong bản tin thế giới hay mục thời sự hằng ngày: “Bởi đâu Bởi đâu anh em
cạnh tranh và cãi cọ nhau? Nào không phải tại điều này: tức tại các đam mê đang
giao chiến trong chi thể anh em đó sao? Anh em ham muốn mà không được hưởng nên
anh em giết nhau. Anh em ganh tị mà không được mãn nguyện, nên anh em cạnh
tranh và cãi cọ.” (Gc 4,1-2).
8. Chỉ cần mỉm cười
Mẹ Têrêxa
Calcutta, vị thánh của thời hiện đại được nhiều người kính phục, cũng không làm
gì khác hơn là sống triệt để lời dạy xa xưa của Đức Kitô.
Một số người
tới Calcutta, trước khi ra về đã hỏi xin Mẹ dạy cho họ một điều có thể giúp họ
sống tốt hơn. Mẹ đã nói với họ: “Hãy mỉm cười với nhau; hãy mỉm cười với vợ
mình, với chồng mình, với con cái mình, và mỉm cười với người khác, bất luận là
ai. Điều đó sẽ giúp bạn thấy tình yêu thương lớn lên.”
Chúa là
tình yêu, mà nụ cười là công cụ tuyệt vời của tình yêu và là thước đo tình yêu
đặt trong tầm tay mọi người.
“Tôi có thể
mỉm cười với hết mọi người không?”
9. Sự thật và ảo tưởng
Trong trận
phản công quân Đức, Bộ tham mưu đồng minh qua vùng Ardennes vào một buổi sáng
mùa đông, tuyết phủ đầy đường, tới một khúc quanh, chính bộ tham mưu phải bỏ
quân phục xuống thu dọn tuyết cho xe đi qua. Một quân nhân lùn, béo làm việc rất
hăng. Bỗng người ta thấy một sĩ quan (sĩ quan chỉ huy miền đó) đi tới, dáng điệu
trịch thượng và hỏi quân nhân có thân hình mập và lùn, đang hăng hái xúc tuyết:
“Các anh ở đâu đến, và làm gì ở đây?” Quân nhân này hỏi lại: “Còn anh, anh là
ai? Anh đang ở đâu, khi những người này làm việc?” Sĩ quan kia trả lời: “Tôi hả,
tôi ở trên xe, tôi là đại úy mà!” Quân nhân này nói: “Còn tôi, tôi là thống tướng
Model, tôi cần nói cho anh biết: từ nay anh không còn là sĩ quan nữa, anh bị
giáng chức xuống làm binh nhì.”
10. Cám ơn cho món quà
Thánh
Clêmentê đi xin của bố thí để giúp đỡ một cô nhi viện, Gặp một người giầu đang
thua bạc, cáu kỉnh nhổ ngay nước miếng vào mặt thánh nhân. Nhưng thánh Clêmentê
bình tĩnh lấy khăn tay lau mặt là ôn tồn nói: “Đây là quà ông tặng tôi, xin cảm
ơn ông, còn quà cho cô nhi đâu?”
Người kia cảm
động về đức khiêm nhượng của thánh nhân, và đã cho thánh nhân một số tiền lớn.
11. Được Đức Mẹ chọn
Thánh nữ
Bernadette sinh năm 1844 tại Lộ Đức và mất năm 1879 tại Nervers. Lộ Đức trước
năm 1888 chỉ là một miền sơn cước, heo hút, ít ai biết tới, tuy gần đó có thắng
cảnh Peau. Nhưng do 18 lần Đức Mẹ hiện ra với Bernadette kể từ ngày 11-2-1888,
thì Lộ Đức trở thành phồn thịnh. Có những ngày, số người hành hương tới hơn nửa
triệu. Ngôi vương cung thánh đường ba tầng được xây cất trên sườn núi, sát gần
hang Massabielle nơi Đức Mẹ hiện ra với Bernadette. Do việc Đức Mẹ hiện ra và
do nhiều bệnh nhân được chữa khỏi một cách lạ lùng nơi suối nước Đức Mẹ đã chỉ
cho Bernadette mà ngày nay Lộ đức đã trở thành khu du lịch và hành hương đông
nhất thế giới vào những tháng hè. Thế, nhưng khi Lộ Đức bắt đầu nổi danh, thì
cô gái quê Bernadette lại đi sống ẩn dật tại tu viện nữ tu bác ái (Soeurs de la
Charité et de l’Instruction chrétienne) ở Nevers và không hề biết tới Lộ Đức
cho tới lúc tắt thở.
Bernadette
có ghi trong sổ tay năm 1874: “Ơn quan trọng nhất phải cầu xin là: biết mỗi
ngày mỗi sống thầm lặng, ẩn dật theo gương Chúa Giêsu và Mẹ Maria.” Người ta
cũng đọc thấy trong sổ tay của cô ghi năm 1878: “Tôi cố gắng tìm hạnh phúc qua
việc sống thầm lặng, quên mình, và đừng ai biết đến tôi, để tôi chỉ sống với
Chúa.”
Khi bà giám
đốc viện mồ côi Cahors hỏi cô có bao giờ thích thú về việc người ta biết tên tuổi
của cô không? Thì cô đã trả lời: “Sở dĩ Đức Mẹ chọn con để hiện ra với con, là
vì con là đứa ngu dốt nhất. Nếu có người nào ngu dốt hơn con, thì chắc Đức Mẹ
đã chọn người ấy.”
12. Cái chổi để ở đâu
Biết bao lần,
các nữ tu sống với Bernadette, gợi truyện, nhắc tới việc Đức Mẹ hiện ra, thì
Bernadette đã khôn khéo lẩn tránh, không bao giờ đề cập tới một chi tiết nào
trong việc Đức Mẹ hiện ra. Một hôm, hai nữ tu từ Lộ đức về Nevers, đưa cho
Bernadette coi mấy bức ảnh chụp quanh cảnh náo nhiệt tại hang Massabielle, Lộ Đức,
mong Bernadette kể lại truyện Đức Mẹ hiện ra, nhưng khi coi xong những ảnh đó,
Bernadette chỉ nói: “Sao mà những cây dương liễu chóng cao thế!” rồi bỏ đi thẳng.
Vào năm
1876, nữ tu Philippine Molinéri đưa cho Bernadette coi một bức ảnh chụp quang cảnh
Lộ đức hy vọng Bernadette nhắc tới việc Đức mẹ hiện ra, nhưng Bernadette đột
nhiên hỏi: “Người ta dùng cây chổi để làm gì nhỉ?”
Nữ tu
Molinéri trả lời: “Thì để quét nhà chứ còn làm gì nữa.”
Bernadette
lại hỏi: “Nhưng quét xong thì làm gì?”
Molinéri
đáp: “Người ta quăng nó vào xó nhà.”
Bernadette
tiếp lời: “Cuộc đời của em là thế đó. Đức Mẹ đã dùng em và rồi em đã được quăng
vào xó nhà.”
13. Khiêm nhường, khiêm nhường, khiêm nhường
Thánh
Phanxicô Salesiô, đột nhiên đau nặng và mất ngày 28 tháng 12 năm 1622. Ngày hôm
trước tức ngày 27 tháng 12, tuy cảm thấy mệt, ngài cũng ghé thăm nhà tập dòng Đức
Mẹ Thăm Viếng, Mẹ Giám Đốc tập viện là nữ tu Blonay, có đưa ngài một mảnh giấy
và nói: “Các nữ tu và con thành khẩn xin Đức Cha vui lòng viết cho chúng con
đôi dòng chữ, nhắc nhở chúng con tập luyện nhân đức.”
Cầm lấy
trang giấy, thánh Phanxicô Salesiô viết ở đầu giữa trang và cuối trang vỏn vẹn
có chữ: khiêm nhường, khiêm nhường, khiêm nhường, khiêm nhường.
14. Khách hàng là số một
Một ông chủ
cửa hàng nọ viết ra “tín điều” này và phát cho mỗi nhân viên một bản sao:
“Khách hàng là người quan trọng nhất trong kinh doanh. Khách hàng không lệ thuộc
chúng ta, nhưng chúng ta lệ thuộc khách hàng. Khách hàng không bao giờ ngăn trở
công việc chúng ta, nhưng là mục đích công việc chúng ta. Khách hàng ban cho
chúng ta một ân huệ khi ghé đến cửa hàng chúng ta, nhưng chúng ta không làm ơn
cho họ khi phục vụ tận tình. Khách hàng không chỉ là tiền bạc nơi thâu tiền,
nhưng là con người có cảm xúc và đáng được đối xử cách kính trọng. Khách hàng
là huyết mạch của công việc kinh doanh, đừng bao giờ quên điều đó.”
Điều gì đã
làm tôi quên đi lời Chúa Giêsu: “Ai muốn làm người đứng đầu, phải làm người phục
vụ mọi người”?
Chúa Giêsu
nói: “Con cái đời này khôn khéo hơn con cái ánh sáng khi xử sự với người đồng
loại” (Lc 16, 8)
15. Trước hết là tình yêu
Có một vị
tu sĩ già, đã nhiều năm cầu nguyện xin Chúa hiện ra để củng cố niềm tin của
mình, nhưng điều đó lại chẳng bao giờ xảy ra. Thế rồi, khi ông hoàn toàn tuyệt
vọng, thì một ngày nọ Chúa lại hiện ra với ông. Vị tu sĩ già vui mừng hớn hở.
Tuy nhiên,
giữa lúc ông đang tâm sự với Chúa thì một hồi chuông vang lên báo hiệu giờ phát
gạo cho những người nghèo và hôm nay lại chính là phiên trực của ông. Nếu ông
không đến thì những kẻ nghèo khổ kia sẽ bị đói suốt cả một ngày. Ông bị giằng
co giữa Chúa và đám dân nghèo. Cuối cùng ông đã quyết định tạm ngưng cuộc gặp gỡ
với Chúa để đi phát gạo cho đám dân túng cực.
Sau hơn một
tiếng đồng hồ làm việc, ông trở về phòng và khi mở cửa, ông không thể nào tin
vào mắt mình, bởi vì Chúa đang ở đó và chờ ông. Thế là ông quỳ gối xuống và cảm
tạ Ngài. Bấy giờ Chúa nói với ông:
- Giả như
con không chịu đi phát cơm gạo cho đám dân nghèo thì Ta cũng chẳng ở lại đây chờ
con đâu.
16. Đầy Tớ Của Mọi Người
Bác sĩ
Charles Mayo cùng với cha và người em xây dựng bệnh viện Mayo nổi tiếng trên thế
giới tại Rochester thuộc bang Minnnesota. Một lần có phái đoàn chuyên viên y
khoa từ Âu Châu được mời đến nhà bác sĩ Charles Mayo. Theo tục lệ ở đó, khách sẽ
để giầy ở ngoài cửa phòng ngủ để ban đêm có người đánh bóng.
Bác sĩ
Charles Mayo về sau cùng. Khi về phòng, ông thấy các đôi giầy để đó và đã quá
khuya, ông không muốn đánh thức người giúp việc. Ông thở dài, rồi đem các đôi
giầy xuống bếp, tự tay ông, thức hết nửa đêm để đánh bóng các đôi giầy của
khách.
Đây là một
tấm gương Chúa Giêsu nói với bạn và tôi trong Tin Mừng hôm nay: “Nếu ai muốn
làm lớn, phải nên kẻ hèn nhất và làm đầy tớ cho mọi người.” Cũng như các Tông đồ
chúng ta thường tranh luận ai trong chúng ta là người lớn nhất. Đức Kitô trả lời
chúng ta: “Người lớn nhất phải làm đầy tớ cho mọi người.” Bác sĩ Charles Mayo
là một trong những bác sĩ nổi tiếng trên thế giới. Thế nhưng ông đã đánh giầy
cho khách của ông.
17. “Bởi
đâu có xung đột giữa anh em?”
Một giáo sư tâm lý hỏi các sinh viên, “Tại sao khi cãi nhau người
ta hét to?” Một người trả lời, “Bởi họ mất bình tĩnh!”; ông lại hỏi, “Tại sao họ
phải hét lên khi đứng cạnh nhau?” Không ai trả lời thoả mãn; cuối cùng, giáo sư
giải thích, “Khi xung đột, trái tim của họ xa nhau!” “Với người yêu nhau, họ
nói rất nhỏ, vì tim họ gần nhau”; “Khi tình yêu nồng nàn hơn, họ thì thầm. Và
cuối cùng, đến một lúc, họ chỉ cần nhìn nhau mà không cần nói gì!”
Thật thú vị đến bất ngờ khi cả hai bài đọc hôm nay có chung một
chủ đề: ‘Xung đột!’.
Thánh Giacôbê nói, “Bởi đâu có chiến tranh, bởi đâu có xung đột
giữa anh em? Chẳng phải là bởi chính những khoái lạc của anh em đang gây chiến
trong con người anh em đó sao?” - bài đọc một. Tin Mừng cho thấy, ngoài việc chậm
hiểu, chậm tin, các môn đệ còn có một điểm yếu khác là ‘xung đột’ nhau. Hôm
nay, họ xung đột nhau để xem ai là người lớn nhất. Thật tệ, họ xung đột nhau
ngoài đường; và tệ hơn, họ xung đột ngay sau khi Chúa Giêsu - Thầy của họ -
loan báo lần thứ hai về cái chết và sự phục sinh của Ngài. Trong bối cảnh Thầy
trò lên Giêrusalem, việc họ lớn tiếng với nhau mà Ngài nghe được hẳn sẽ làm
Ngài quặn lòng.
Và Chúa Giêsu - quả là một bậc thầy - điềm đạm đợi khi về tới
nhà, Ngài mới gọi các ‘lãnh đạo tương lai’ của Giáo Hội đến, tiết lộ cho họ bài
học của con tim, bài học của đôi tay, bài học của sự cúi xuống một khi phải quản
trị cộng đoàn, “Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết, và làm
người phục vụ mọi người!” Và Ngài đã thực hiện một cử chỉ ấn tượng bằng cách ôm
lấy một em bé để cho các môn đệ thấy ai thực sự là người lớn nhất trong Nước Trời.
Một em bé có thể dạy chúng ta điều gì về sự vĩ đại? Trẻ em trong thế giới cổ đại
ở “dưới cùng của bậc thang xã hội” và phải phục vụ cha mẹ như những người giúp
việc.
Chúa Giêsu là mẫu mực của chúng ta. Ngài là “em bé dưới cùng của
bậc thang xã hội.” Ngài đến không để được phục vụ nhưng để phục vụ; tự bỏ mình,
mặc thân tôi tớ đến nỗi chết trên thập giá, mang lấy bản án thấp hèn nhất của
con người để nâng chúng ta lên, mặc cho chúng ta phẩm tính thần linh của Ngài.
“Bởi đâu có xung đột giữa anh em?” Có xung đột vì ai cũng đặt
quyền lợi của mình trên quyền lợi của người khác. Gioan Maria Vianney nói, “Mỗi
lần chúng ta đặt nhu cầu của người khác lên trên nhu cầu của mình, miễn là điều
này không trái Luật Chúa, chúng ta đang đạt được những công đức mà chỉ có Chúa
mới biết.” Augustinô thì nói, “Hãy quan sát một cái cây, lúc đầu nó có xu thế
hướng xuống dưới, rồi sau đó vươn lên cao. Nó cắm rễ sâu vào lòng đất để có thể
vươn lên trời. Bạn muốn vươn lên không mà chẳng có gốc rễ? Đó không phải là sự
phát triển mà là sự sụp đổ!” Chúng ta chỉ bước theo Chúa Giêsu sau Thập Giá và
sự Phục Sinh của Ngài. Bên cạnh đó, đồng hành với Trinh Nữ Maria, bạn và tôi sẽ
ngày càng trở nên nhỏ bé để Chúa Giêsu lớn lên trong mình và trong thế giới.
“Lạy Chúa, xin cất khỏi con những xung đột, vì tim con sẽ xa rời
tim anh chị em con; và một ngày nào đó, khi khoảng cách trở nên quá lớn, nó sẽ
không tìm thấy đường về!”, Amen. (Lm. Minh
Anh, Gp. Huế)
THỨ TƯ - Cộng tác trong thiện chí
Lời Chúa: Mc 9, 37-39
Khi ấy, Gioan thưa cùng Chúa Giêsu rằng: "Lạy Thầy, chúng
con thấy có kẻ nhân danh Thầy mà trừ quỷ, kẻ đó không theo ta, và chúng con đã
ngăn cấm y.”
Nhưng Chúa Giêsu phán: "Ðừng ngăn cấm y, vì chẳng ai có thể
nhân danh Thầy mà làm phép lạ, rồi liền đó lại nói xấu Thầy. Ai chẳng chống đối
các con, là ủng hộ các con.”
TRUYỆN KỂ
1. Cộng tác
với nhau
Disney và Roy là hai anh em, mỗi người có một biệt tài và họ đã
sớm nhận ra tài năng của nhau. Disney là họa sĩ, còn Roy là một doanh nhân. Họ
phân công với nhau: Roy lo sản xuất và tiêu thụ. Disney thì tập trung vào sáng
tác. Nhờ sự hợp tác chặt chẽ này, hai anh em đã tạo được sự nghiệp lớn lao.
Nhận ra tài năng của người khác là việc ai cũng có thể làm,
nhưng thành thật nhìn nhận tài năng và cùng cộng tác với người khác là điều
không dễ thực hiện. Ðó cũng đã là tâm trạng của các môn đệ Chúa Giêsu. Họ khám
phá có người nhân danh Chúa để trừ quỷ, nhưng người này lại không thuộc nhóm của
họ, thế là họ ngăn cấm người ấy, Chúa Giêsu trả lời: "Ðừng ngăn cấm người
ta... Quả thật, ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta.”
2. Ai là
người thuộc nhóm chúng ta?
Người ta thường so sánh khả năng làm việc nhóm giữa người Việt
Nam và người Nhật Bản, kết quả như sau:
Cùng một công việc, một người Việt và một người Nhật, người Việt
hơn hẳn người Nhật.
Hai người Việt làm việc với nhau và hai người Nhật làm với nhau,
kết quả bằng nhau.
Ba người Việt làm việc chung và ba người Nhật làm việc chung,
thì ba người Nhật hơn hẳn về chất lượng cũng như tinh thần cộng tác.
Tại sao vậy? Thưa không phải người Việt không nhận ra khả năng của
nhau! Cả người Việt và Nhật đều nhận ra khả năng của người đối diện. Tuy nhiên,
về sự trân trọng tài năng và sử dụng chất xám trong khi làm việc chung thì người
Nhật bỏ xa chúng ta!
Đây cũng chính là tâm trạng, thái độ của các môn đệ khi thấy người
khác làm việc tốt hơn mình, nhưng chỉ vì họ không thuộc về nhóm của các ông,
nên các ông tìm cách ngăn cấm họ.
3. Phép thử
lòng người
Ngụ ngôn Ấn Độ có kể truyện thần Krisna một hôm muốn thử lòng các vua trên trần gian.
Trước tiên thần cho gọi Duriana, một ông vua nổi tiếng tàn ác, đến:
"Ta muốn ngươi đi khắp thế giới tìm cho ta một con người có lòng tốt.”
Duriana đi khắp thế giới một thời gian rồi trở về tâu: "Lạy Ngài, con
không thể gặp được một con người nào như thế cả, vì mọi người đều ích kỷ, đê
hèn.”
Thần gọi tiếp một ông vua khác nổi tiếng quảng đại, tên là
Damanatra và ra lệnh ngược lại: "Ngươi hãy đi tìm cho ta một con người thực
sự xấu xa.” Một thời gian sau, Damanatra trở về buồn bã báo cáo: "Lạy Ngài
con xin chịu tội, con đã gặp rất nhiều người hẹp hòi, ích kỷ, gian tham, trộm cắp…
nhưng người thực sự xấu xa thì con không gặp, vì cho dù có vấp ngã, mọi người đều
có lòng tốt.”
4. Người buồn
cảnh có vui đâu bao giờ!
Người ta kể lại: hôm ấy một bác nông phu nọ đang cày ruộng, tình
cờ có một người khách qua đường dừng lại hỏi.
- Thưa bác, người dân làng trước mặt tôi đây là người thế nào?
Không buồn dừng tay cày, cũng chẳng cần phải ngoảnh mặt lên nhìn
người khách lạ, bác nông phu trả lời bằng một câu hỏi khác.
- Thế thì làng vừa đi qua ông đã gặp thấy những người như thế
nào?
Người khách lạ vừa bâng quơ chỉ chỏ, vừa trả lời.
- Ôi thôi, toàn những người độc ác, ích kỷ, vô lương tâm.
Bấy giờ, bác nông phu mới dừng tay cày ngước mắt lên nhìn người
khách lạ và nói.
- Rất tiếc, tôi cũng phải nói với ông rằng: những người trong
làng trước mặt ông đây cũng y như thế thôi. Ông sẽ khám phá ra rằng, họ cũng là
những người giống y như những người trong làng ông vừa mới đi qua.
Nghe vậy, người khách lạ bực mình phóng ngựa ra đi. Xế chiều hôm
ấy, một người khách lạ khác cũng đi ngang qua lối ấy, thấy bác nông phu cày ruộng
đang chuẩn bị ra về, khách qua đường dừng chân lịch sự hỏi: - Những người dân sống
trong làng gần đây thế nào?
Bác nông phu cũng đáp lại bằng một câu hỏi y như bác đã hỏi người
khách lạ ban sáng.
- Những người trong làng ông vừa đi qua thế nào?
Người khách lạ vui vẻ đáp:
- Họ thực là những người tốt lành, niềm nở, hiếu khách, tôi rất
tiếc là phải sớm từ giã họ.
Bác nông phu liền bỏ cày, bỏ cuốc, tiến lại gần người khách qua
đường vừa bắt tay vừa nói:
-Tôi rất mừng vì những người ông đã gặp, ước chi ông sẽ gặp được
những người như thế trong làng gần đây.
Khách qua đường thứ hai mỉm cười, lại vẫy tay chào bác nông phu
rồi ra đi tiếp vào làng.
5. Tái ông
thất mã
Ngày xưa có một ông lão sống ở biên giới phía Bắc Trung Quốc
giáp với nước Hồ (tái ông). Ông có nuôi một con ngựa. Một hôm, ngựa của ông bỏ
chạy sang địa phận nước Hồ, mọi người xung quanh đều đến chia buồn với ông,
nhưng ông lại bảo:
- Biết đâu lại có chuyện tốt đến.
Không lâu sau con ngựa của ông trở về và còn dẫn theo một con ngựa
cao lớn, mạnh mẽ của nước Hồ. Mọi người đến chúc mừng ông, nhưng ông lại nói:
- Có lẽ nó sẽ dẫn đến tai họa cũng nên.
Quả nhiên, con trai ông lão vốn rất thích cưỡi ngựa nên đã cưỡi
con ngựa to khỏe nước Hồ,cuối cùng bị ngã gãy xương và bị que chân. Lúc này
hàng xóm lại rối rít đến thăm nom, nhưng ông lại nói rằng:
- Biết đâu nhờ họa mà lại được phúc.
Một năm sau, quân Hồ tràn sang gây chiến tranh và những người trẻ
tuổi trong vùng hầu như đều chết trận. Thế nhưng con trai ông lão vì què chân
nên được miễn đi lính và cuối cùng may mắn thoát chết.
6. Chúa xem
bóng đá
Một linh mục Ấn Ðộ chuyên về huấn luyện tu đức là cha Anthony de
Mello đã tưởng tượng ra một câu chuyện như sau:
Chúa Giêsu than phiền là Ngài chưa được một lần tham dự một trận
túc cầu. Chúng tôi bèn đưa Ngài đi xem một trận đấu rất gay go giữa một đội Tin
Lành và một đội Công Giáo.
Ðội Công Giáo làm bàn trước một không. Chúa Giêsu vỗ tay hoan hô
và tung cả mũ lên trời. Vài phút sau, đội Tin Lành lại làm bàn. Lần này Chúa
Giêsu cũng vỗ tay reo hò và tung mũ lên trời.
Một khán giả ngồi bên cạnh lấy làm khó chịu về thái độ của Chúa
Giêsu. Ông ta lấy tay đập lên vai Ngài rồi hỏi: "Ê ông bạn, ông bạn ủng hộ
bên nào vậy?” Xem chừng như vẫn còn bị khích động bởi trận đấu, Chúa Giêsu trả
lời: "Tôi hả? Tôi không ủng hộ bên nào cả. Tôi đến đây là chỉ để thưởng thức
trận đấu thôi.”
Người khán giả khó chịu về thái độ của Chúa Giêsu, nay lại càng
bực bội hơn. Ông quay sang người bên cạnh và nói nhỏ: "Hắn là một tên vô
thần.”
Trên đường trở về nhà, chúng tôi chất vấn Chúa Giêsu về tình
hình tôn giáo trên thế giới. Chúng tôi nói với Ngài: "Thưa Chúa, những con
người có tôn giáo thật là buồn cười. Họ tưởng rằng Chúa Giêsu chỉ đứng riêng về
phía họ và nghịch lại với những người thuộc tôn giáo khác.”
Chúa Giêsu gật đầu tỏ vẻ ưng ý. Ngài nói: "Ðó là lý do tại
sao ta không ủng hộ tôn giáo mà chỉ ủng hộ con người. Con người quan trọng hơn
tôn giáo. Con người trọng hơn ngày Sabbat. Chúng con nên biết là chính những
người có tôn giáo đã treo Ta lên thập giá.”
THỨ NĂM - Quyết liệt theo Chúa
Lời Chúa: Mc. 9, 41–50
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Ai cho các
con (uống) một ly nước vì lẽ các con thuộc về Ðấng Kitô, thật Thầy bảo các con:
kẻ đó sẽ không mất phần thưởng đâu. Nhưng nếu kẻ nào làm cớ vấp phạm cho một
trong những kẻ bé mọn có lòng tin Thầy, thà buộc thớt cối xay vào cổ người ấy
mà xô xuống biển thì hơn.
"Nếu tay con nên dịp tội cho con, hãy chặt tay đó đi: thà
con mất một tay mà được vào cõi sống, còn hơn là có đủ hai tay mà phải vào hoả
ngục, trong lửa không hề tắt. Và nếu chân con làm dịp tội cho con, hãy chặt
chân đó đi: thà con mất một chân mà được vào cõi sống, còn hơn là có đủ hai
chân mà phải ném xuống hoả ngục. Và nếu mắt con làm dịp tội cho con, hãy móc mắt
đó đi, thà con còn một mắt mà vào nước Thiên Chúa, còn hơn là có đủ hai mắt mà
phải ném xuống hoả ngục, nơi mà dòi bọ rúc rỉa nó không hề chết và lửa không hề
tắt. Vì mọi người sẽ bị ướp bằng lửa.
"Muối là vật tốt, nhưng nếu muối ra lạt, các con lấy gì mà
ướp nó cho mặn lại được? Các con hãy có muối ở trong mình và sống hoà thuận với
nhau.”
TRUYỆN KỂ
1. Vất bỏ
khối nam châm
Có một thuyền trưởng ghé tàu qua đảo hoang, bắt gặp một khối lượng
nam châm rất lớn. Ông đem hết lên tàu để về làm giàu. Nhưng tàu bị lạc giữa biển
không sao định hướng được, kim nam châm hải bàn lúc nào cũng chỉ về phía khoan
tàu chứa khối nam châm. Cuối cùng lương thục thiếu, nhiên liệu cạn dần, người
thuyền trưởng phải quyết định vất bỏ khối nam châm để hải bàn có thể định hướng
đúng mà cứu sống cả con tàu.
2. Chạm tay
trước
Xét ra Lời Chúa hôm nay cũng không xa thực tế lắm. Có người chỉ
vì lòng tham của cải chứ không phải vì Nước trời mà đã dám hy sinh một phần
thân thể. Họ dám hy sinh cái nhỏ để chiếm được cái lớn.
Đó là ông O’Neil, nhà thám hiểm đã tìm ra đất Ái Nhĩ Lan. Khi
nhóm thám hiểm đến gần phần đất mới, vị thuyền trưởng tuyên bố: “Hễ ai chạm tay
trước hết vào phần đất trên bờ thì người ấy làm chủ phần đất ấy.” Ông O’Neil
quyết tâm chiếm cho bằng được. Ông chèo một chiếc thuyền nhỏ vào bờ. Nhận thấy
có kẻ khác vượt lên trên mình, ông quyết định lấy rìu chặt đứt cánh tay trái và
liệng vào bờ, chạm đất trước hết, thắng cuộc.
3. Ấn tượng
xấu để lại
Trên một chuyến xe lửa, cha Bernard Vogan gặp một hành khách ăn
nói rất ư tự do và thô tục. Ông ta nói những chuyện đồi bại, lấy làm thích thú
và cười khoái trá. Mọi thái độ khôn ngoan và lịch sự nhắc ông ta để ông ta im lặng
đều không hiệu quả. Xe đến ga, người hành khách ấy xuống. Cha Vogan thò đầu ra
cửa xe gọi theo: “Này ông, ông còn quên cái gì đây này.” Người đó vội lên toa,
nhìn quanh và hỏi: “Quên cái gì đâu?” Cha Vogan nói với giọng tử tế nhưng cứng
rắn: “Ông để lại một ấn tượng xấu cho hành khách trong toa.” Người ấy xấu hổ đi
xuống ngay.
4. Thuê tài
xế lái xe
Có một người giàu có rất yêu mến mẹ già. Một hôm ông muốn đi
thuê một người tài xế chở bà mẹ già đi chơi mỗi buổi chiều. Có ba người đến xin
chân tài xế đó.
Người giàu nói: “Tôi không muốn có một tai nạn nào xảy ra trong
khi các ông mang mẹ tôi đi chơi cả. Tôi sẽ thử cả ba ông xem các ông lái xe giỏi
đến mức nào. Tôi muốn xem các ông lái sát hào bao nhiêu mà không bị rơi xuống.”
Người tài xế thứ nhất tự nhủ: “Cái đó thì dễ ợt.” Ông ngồi bẻ
tay lái và chạy vù xuống đường, cách cái hào một tấc.
Người thứ hai thầm bảo: “Mình lái ngon hơn hẳn là cái chắc.” Ông
này cũng lái vèo xuống đường và chỉ cách cái hào có nửa tấc.
Trong khi đó, người thứ ba suy nghĩ rất hung, kết quả ông lái
cách hào những một mét.
Hai người tài xế trước thấy thế cười đắc chí, nhưng người giàu lại
bảo bác tài xế thứ ba rằng: “Tôi xin nhận bác làm tài xế cho mẹ tôi. Tôi cần
người tài xế có bảo đảm, mà một người lái có bảo đảm thì không bao giờ lái sát
hào quá.
5. Làm cho
người bé mọn
Một hôm, có một phóng viên báo chí đến quan sát công việc của mẹ
Têrêxa tại Calcutta. Thấy mẹ làm những công việc ghê tởm: cúi mình trước những
người hấp hối, người phong cùi. Ông nói với mẹ:
- Nếu có ai cho tôi một triệu Mỹ kim, tôi cũng không đủ can đảm
làm những việc ghê tởm như vậy.
Mẹ trả lời: “Tôi không làm vì tiền bạc. Tôi làm vì tôi nhìn thấy
khuôn mặt của Chúa đau khổ nơi anh chị em tôi.”
6. Cho người
khát uống
Một nhà truyền giáo kể lại một câu chuyện đẹp sau đây:
Một chị giáo viên vừa dạy các học sinh cấp I người Phi Châu về
việc nhân danh Chúa Giêsu mà cho người ta một chén nước lạnh. Hôm ấy, chị đang
ngồi trước hiên nhà, thì thấy một đám phu khuân vác người bản xứ đi vào làng. Họ
vác những kiện hàng thật nặng. Ai nấy đều mỏi mệt, khát nước và ngồi bệt xuống
đất để nghỉ ngơi. Họ là người của bộ tộc khác, và nếu họ xin nước nơi những người
thường dân không theo Kitô giáo, thì họ sẽ được trả lời ngay: hãy tự đi tìm lấy
mà uống, vì có một bức tường ngăn cách giữa chúng tôi và các anh. Thế nhưng,
đang khi những người mệt mỏi kia ngồi đó và chị đang nhìn họ, thì có một nhóm
em gái nhỏ người Phi Châu từ trường học đi ra, mỗi em đội trên đầu một vò nước.
Cả bọn đều rụt rè, sợ sệt. Các em tiến đến gần những người phu khuân vác đang mệt
mỏi nọ và quì xuống, đưa các vò nước cho họ. Những người khuân vác kia ngạc
nhiên, đưa tay nhận lấy và uống ngon lành rồi sau đó trả vò lại. Các bé vội
vàng chạy đến cô giáo và nói:
- Chúng em vừa nhân danh Chúa Giêsu cho những người khát uống.
Các bé gái đã tiếp nhận lời dạy dỗ ấy theo nghĩa đen của nó. Ước
gì cũng có nhiều người làm như vậy. Chính những việc làm đơn sơ tỏ ra lòng tử tế
là những việc hết sức cần thiết
7. Tội thì đáng
thương, địp tội thì đáng ghét
O. Henry, nhà văn Mỹ lừng danh về chuyện ngắn đã sáng tác câu
chuyện về một em bé gái mồ côi mẹ như thế này:
Cha cô bé có thói quen mỗi khi đi làm về là ngồi ngay xuống ghế,
mở cặp, lôi giấy tờ ra, đốt ống điếu và gác chân lên ngăn kệ đặt gần lò sưởi. Một
lần kia con ông là một bé gái mở cửa bước vào. Em xin ông chơi đùa với em một lát
vì em cảm thấy rất cô đơn. Lần này cũng như lần khác ông bảo ông mệt lắm, hãy để
cho ông yên. Và ông bảo em hãy ra đường mà chơi. Thế là em đi ra chơi ngoài đường,
và chuyện không tránh được đã xảy ra là em đã trở thành một cô gái đứng đường.
Thời gian trôi qua, ông bố chết và cô cũng chết. Linh hồn cô được đưa lên Thiên
Đàng. Thánh Phêrô vừa nhìn thấy cô liền thưa với Chúa Giêsu:
- Thưa Thầy, đây là cô gái thật xấu nết. Con nghĩ phải đưa cô xuống
hỏa ngục ngay.
Nhưng Chúa Giêsu ôn tồn đáp:
- Không, hãy cho cô ấy vào.
Rồi đôi mắt ngài trở nên nghiêm nghị:
- Và con hãy đi tìm người cha đã từ chối không chịu chơi đùa với
con gái nhỏ của mình, đuổi nó ra thiên đường, và đưa hắn xuống hỏa ngục.
Thiên Chúa không nghiêm khắc đối với tội nhân, nhưng sẽ hết sức
nghiêm khắc đối với những kẻ khiến người khác sa vào tội lỗi, dù kẻ đó vô tình
hay cố ý, đã đặt một tảng đá làm cớ vấp chân trên lối đi của một người anh em yếu
đuối hơn mình.
8. Làm cho
Chúa
Trong sân của một ngôi trường phổ thông kia có những hàng phượng
trồng đều tăm tắp. Giữa những hàng phượng đó, có một cây đặc biệt được bao
quanh bằng một hàng rào sắt sơn phết thật đẹp. Lý do khiến nó được “ưu ái” như
vậy không phải vì nó là giống phượng quý đẹp hơn những cây khác mà vì nó đã được
trồng bởi chính tay vị chủ tịch nước khi ông đến thăm trường.
Chuyện cây phượng chỉ là hình ảnh mờ nhạt so với việc các môn đệ
được thuộc về Chúa Kitô. Chẳng những họ coi như hiện thân của chính Chúa Kitô
–“Ai đón tiếp anh em là đón tiếp Thầy” (Mt 10,40)– mà cả những ai tiếp đón họ,
dù chỉ với một ly nước lã, cũng được trọng thưởng nữa.
9. Phải chặt
bỏ nguyên nhân
Tội xâm nhập vào con người không phải một cách đột nhiên, nhưng
có những nguyên cớ của nó. Trước khi ông bà Ađam và Evà nhận lời quyến rũ của
con rắn, hai ông bà đã nuôi tính kiêu ngạo trong lòng rồi. Chính tính kiêu ngạo
là nguyên cớ dẫn ông bà tới chỗ phạm tội. Do đó, ngăn chặn và diệt trừ nguyên
nhân phạm tội là điều cần thiết phải làm, dù phải hy sinh đau đớn, để tránh phạm
tội. Tay, chân và mắt là những chi thể cần thiết và hữu dụng góp phần cho sự sống
con người. Kiểu nói Chúa dùng: “chặt tay,” “chặt chân,” “móc mắt” không hiểu
theo nghĩa đen, nhưng nhằm nhấn mạnh rằng giá trị cao quý của Nước Trời đáng
cho chúng ta hy sinh tất cả để chiếm hữu, cho dù phải đau đớn như việc chặt
tay, chặt chân hay móc mắt.
Nguyên cớ gây ra tội được tập hợp lại trong “bảy mối tội đầu.”
Trong bảy mối ấy, mối nào cũng nguy hiểm đến nỗi ai chiều theo chúng thì không
thể thấy Nước Trời. Muốn chiếm hữu Nước Trời, bạn phải đi con đường hẹp: con đường
hy sinh quyết liệt và sẵn sàng chịu mọi mất mát do dứt bỏ nguyên cớ phạm tội.
THỨ SÁU - Bất khả phân ly
Lời Chúa: Mc. 10, 1-12
Khi ấy, Chúa Giêsu đến địa hạt xứ Giuđêa và miền bên kia sông
Giođan. Dân chúng lại tụ họp bên Người và Người lại dạy dỗ họ như thường lệ.
Những người biệt phát đến gần và hỏi thử Người rằng: "Người
ta có được phép ly dị vợ mình chăng?" Người đáp: "Môsê đã truyền cho
các ông thế nào?" Họ thưa: "Môsê cho phép làm giấy ly dị và cho ly dị.”
Bấy giờ Chúa Giêsu đáp lại: "Chính vì sự cứng lòng của các
ông mà Môsê đã viết ra điều luật đó. Nhưng lúc khởi đầu cuộc sáng tạo, Thiên
Chúa đã dựng nên một người nam và một người nữ. Bởi đó người nam sẽ lìa cha mẹ
để luyến ái vợ mình, và hai người sẽ nên một huyết nhục. Vì thế, họ không còn
là hai mà là một huyết nhục. Vậy sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không
thể phân rẽ.”
Về đến nhà, các môn đệ lại hỏi Người về điểm đó. Và Người bảo
các ông: "Ai bỏ vợ mình và lấy vợ khác, thì phạm tội ngoại tình đối với
người vợ trước. Và người nữ bỏ chồng mà lấy chồng khác, thì cũng phạm tội ngoại
tình.”
TRUYỆN KỂ
1. Án Tử trung thành với vợ
Án Tử, người nước Tề, là một người nổi tiếng thanh liêm và thuỷ
chung. Xuất thân từ gia đình nghèo, Án Tử được vợ hy sinh tảo tần buôn bán để
nuôi ăn học. Đỗ đạt làm quan, không bao giờ Án Tử quên ơn ấy của vợ.
Dù cuộc sống có đầy cạm bẫy, ông vẫn trung thành. Một hôm vua Cảnh
Công đến thăm và ở lại dùng bữa với Án Tử. Một người đàn bà vừa già vừa xấu xuất
hiện trong bữa tiệc. Án Tử liền giới thiệu đó là vợ mình, nhà vua ngạc nhiên đến
sửng sốt, ông mới đề nghị với Án Tử: “Ôi, vợ khanh sao vừa già lại vừa xấu. Quả
nhân có một đứa con gái vừa trẻ vừa đẹp, quả nhân muốn cho về hầu khanh. Khanh
nghĩ sao?”
Án Tử liền trả lời một cách dứt khoát không chút do dự: “Nhà tôi
nay tuy đã già và xấu, nhưng chúng tôi đã lấy nhau và ăn ở với nhau bao lâu nay
kể từ khi nàng còn trẻ đẹp. Xưa nay, đàn bà lấy chồng lúc trẻ cốt để nhờ lúc
già, lấy chồng lúc đẹp để nhờ cậy khi xấu. Nhà tôi thường nhờ cậy tôi như tôi
đã từng nhờ cậy sự giúp đỡ của nhà tôi. Nay bệ hạ muốn ban ơn mưa móc là tùy ở
bệ hạ, nhưng xin đừng để tôi mang tiếng là ăn ở bội bạc với nhà tôi.”
Nói xong, Án Tử lạy hai lạy từ chối không nhận lấy con gái của
vua.
2. Vấn đề li dị
Những người biệt phái phỏng vấn Chúa Giêsu về vấn đề li dị.
Ngay trong giới biệt phái cũng có hai lập trường ngược nhau về vấn
đề này: lập trường dễ dãi (đứng đầu là Rabbi Hillel) cho phép li dị vì những cớ
rất tầm thường; lập trường khắt khe (đứng đầu là Rabbi Shammað) chỉ cho li dị
trong trường hợp ngoại tình. Tuy khác nhau, nhưng hai lập trường này có điểm
chung là cho phép li dị.
Còn lập trường của Chúa Giêsu là tuyệt đối không được li dị:
"Điều gì Thiên Chúa kết hợp, loài người không được phân li.”
Nhân dịp này, Chúa Giêsu còn dạy cách sống đời hôn nhân: phải
yêu thương nhau ("luyến ái") và đồng tâm nhất trí ("nên một huyết
nhục") với nhau.
3. Tình yêu hôn nhân là món quà quý cho con cái
Báo TUỔI TRẺ CHỦ NHẬT 9.1998 có đăng những lời tâm sự của một
người con nói về người cha của mình: Tên anh là Roberto Mc Donald
Tôi mồ côi mẹ từ lúc lên 6. Cha tôi vừa là người cha cũng lại vừa
là người mẹ. Do vậy, khi cha tôi nằm xuống vì chứng ung thư xương vào tuổi 75,
thì tôi đâm ra ngã lòng tuyệt vọng thật sự!
Khi còn nhỏ, một ngày nọ, tôi nghe cha tôi sai người chị cả của
tôi vào phòng ông để lấy một ít tiền từ một chiếc hộp màu đen. Tôi cứ thắc mắc
mãi, tại sao tôi lại không được phép nhìn vào trong chiếc hộp ấy xem nó dựng
cái gì mà có vẻ bí mật thế?
Năm tháng qua mau, tôi càng lớn lên thì cha tôi càng già yếu.
Mái tóc ông bạc đi, khuôn mặt nhăn nheo và tấm thân bắt đầu gập lại. Tuy nhiên,
nụ cười tươi vẫn cứ luôn đọng lại trong đôi môi của ông, và nó sẽ còn đó cho đến
khi ông trút hơi thở cuối cùng. Khi dọn dẹp và lôi ra mọi thứ trong phòng ông,
thật sự là tôi không còn nhớ đến chiếc hộp màu đen. Các thứ trong ngăn kéo đều
đã được lấy đi, đồ đạc cũng được dọn bớt, căn phòng giờ đây trống vắng làm sao.
Khi mở đến chiếc tủ sau cùng, mắt tôi bỗng chạm phải chiếc hộp
màu đen. Đó là một chiếc hộp dẹt bình thường bằng kim loại bọc da, các cạnh hộp
đã rách và mòn đi rất nhiều. Nhẹ nhàng mở ra, lần đầu tiên tôi được nhìn thấy mọi
thứ bên trong.
Bên trong hộp chính là tất cả những gì thiêng liêng mà người cha
thân yêu của tôi đã gìn giữ: Tờ hôn thú với chữ ký của mẹ, một tấm ảnh đẹp nhất
của mẹ trong chiếc váy dài màu vàng mà cha thích nhất, một tấm ảnh chụp tôi lúc
lên 5 với những lời đề tặng nguệch ngoạc của một đứa trẻ “Tặng ba và mẹ của con.”
Hóa ra, tôi đã có mặt ở bên trong chiếc hộp màu đen, mẹ tôi cũng thế!
Tôi hình dung ra cha tôi đã nhiều lần lặng lẽ lôi chiếc hộp ra
nhìn ngắm mọi thứ. Ông đã mỉm cười và nói thầm một mình. Tôi nghĩ rằng, cha đã
thường làm như thế nhiều lần trong bao nhiêu năm trời qua, vì mọi thứ đều cũ kỹ
sờn rách... Giờ đây chiếc hộp ấy đã thuộc về tôi. Khi tôi nhắm mắt xuôi tay, nó
sẽ lại thuộc về các con tôi. Và ở bên trong, chúng cũng sẽ tìm thấy những gì
thân thương nhất của tôi. Chúng sẽ có được một gia tài lớn ở bên trong chiếc hộp
nhỏ màu đen, đó là tình yêu và niềm tin của tôi. Tôi tin chúng sẽ nhận ra rằng,
điều quan trọng thật sự và duy nhất trong cuộc đời này chính là tình yêu mà
chúng ta dành cho nhau...
4. Đời sống đạo và tỷ lệ ly hôn
Văn phòng Nghiên Cứu Hiện Tượng của Hoa Kỳ về Đời Sống Hôn Nhân,
kết quả được Hội Đồng Tòa Thánh Đặc Trách về Gia Đình trích dẫn trong tài liệu
có tựa đề “Bí tích Hôn Phối” xuất bản năm 1989 như sau:
- Trong 100 gia đình không theo đạo Công Giáo, thì có khoảng 50
gia đình ly dị (50%).
- Trong 100 gia đình theo Công Giáo, chỉ đi dự lễ Chúa nhật thì
có khoảng 10 gia đình ly dị (10%).
- Trong 100 gia đình Công Giáo, đi dự Lễ và rước Chúa hằng ngày,
gia đình có giờ cầu nguyện riêng, thì ly dị xuống thấp nhất, chỉ còn tối đa khoảng
1% gia đình ly dị.
Có cầu nguyện, đặc biệt là dự Lễ, gia đình mới thưa cùng Chúa:
“Lạy Chúa, trên đường mệnh lệnh Chúa, xin dẫn con đi” (Tv 119/118, 35a: ĐC năm
lẻ). Vì “Lời Chúa là sự thật, xin Chúa lấy sự thật mà thánh hiến chúng con” (Ga
17, 17b.17a: Tung Hô Tin Mừng).
5. Tình yêu nên một
Có một câu truyện cổ kể về đôi bạn trai gái nọ đến gõ cửa một
ngôi nhà kia. Có tiếng nói từ bên trong: “Ai đó?” Người thanh niên trả lời:
“Tôi đây. Tôi đến để xin cưới con gái của bà.” Giọng nói từ bên trong vang lên:
“Cậu chưa sẵn sàng. Một năm nữa hãy trả lại.” Một năm sau, đôi bạn trở lại và
gõ cửa. Tiếng từ bên trong lại hỏi: “Ai đó?” Người thanh niên đáp: “Con gái của
bà và tôi”, chúng tôi đến xin phép cưới nhau.” Lần này, có tiếng nói: “Mời vào.”
Khi nào tôi cảm thấy hợp nhất với người bạn đời hay với người
nào khác?
Yêu là mãnh lực duy nhất giúp mọi sự nên một mà không phá hủy
chúng (Teilhrad de Chardin).
6. Tình yêu hôn nhân phản ánh tình yêu Thiên Chúa
Những người hâm mộ môn bóng chày đều nhớ Jimmy Piersall, cầu thủ
chơi cho đội Red Sox trong đầu thập niên 1950. Họ cũng nhớ cả cuốn sách của
ông: “Nỗi sợ hãi đốn ngã”, nói về những cay đắng ngọt bùi trong đời ông, Khi mới
nhập cuộc, anh đã phải trải qua một cuộc khủng hoảng và được đưa đến bệnh viện
tâm thần. Trong những năm thử thách này, Mary, người vợ yêu quý, luôn ở bên cạnh,
yêu thương, động viên và giúp đỡ ông. Nói về lòng chung thủy xúc động của Mary,
Albert Cylwicki cho biết: “Lòng chung thủy của Mary đối với Jimmy phản ánh lòng
trung thành của Thiên Chúa đối với chúng ta.”
Tôi phản ánh lòng trung của Thiên Chúa như thế nào?
Ta có thể cho đi mà không yêu thương, nhưng không thể yêu thương
mà lại không cho đi.(Richard Brounstein)
7. Chung thủy lúc gian nan
Catherine Jagellon kết hôn với Jean Wasa Đức Ông xứ Phần Lan.
Khi chồng bà bị án tù chung thân, vì tội phản loạn. Bà xin với vua Eric nước Thụy
Điển, để cùng vào tù sống với chồng. Nhà vua kinh ngạc, khuyên can bà, không
nên tự chuốc đau khổ một cách vô lý như thế.
Nhà vua nói: “Bà không biết chồng bà từ nay, đã phải giam trong
hầm kín cho tới chết, không trông thấy ánh sáng mặt trời nữa sao?”
Bà trả lời: “Tâu Bệ Hạ tôi biết.”
Nhà vua nói: “Bà có biết, chồng bà ngày nay không còn được cư xử
như một đức ông, mà bị đối xử như một tên phản bội không.”
Bà trả lời: “Tâu bệ hạ, tôi biết, nhưng được tự do hay bị tù ngục,
có tội hay vô tội, anh ấy vẫn là chồng của tôi.”
Nhà vua nói: “Nhưng sau những sự kiện xẩy ra, bà không còn gì phải
ràng buộc với anh ấy nữa.”
Bà Catherine, liền rút chiếc nhẫn đang đeo ở ngón tay, đưa cho
nhà Vua. Bà nói: “Xin đức vua đọc những dòng chữ khắc trên chiếc nhẫn cưới của
chúng tôi.”
Nhà vua cầm lấy chiếc nhẫn, và thấy trên chiếc nhẫn có khắc hai
tiếng: “Mors sola”, đó là hai tiếng La văn, có nghĩa là: chỉ có cái chết (mới
chia lìa được chúng ta).
Bà Catherine đã can đảm theo chồng vào nhà giam, sống với chồng
dòng dã 17 năm, chia sẻ những thiếu thốn, đau khổ, cơ cực của chồng, cho tới
lúc Vua Eric băng hà.
Sau khi vua Eric băng hà, chồng bà đã được trả tự do.
8. Sống kết hợp với Chúa
Cậu Gioan Berchman đang hăng say chơi banh với chúng bạn. Cha xứ
tiến đến hỏi các cậu:
- Nếu một giờ nữa Chúa đến gọi chúng con ra khỏi thế gian, chúng
con sẽ làm gì bây giờ?
Một cậu thưa:
- Con sẽ chạy về nhà xin lỗi mẹ con, vì con đi đá banh chưa xin
phép.
Cậu khác:
- Con sẽ vào Nhà Thờ cầu nguyện, và xin cha giải tội, vì mấy
tháng nay con chưa xưng tội.
- …………
Đến lượt Gioan Berchman nói:
- Con cứ tiếp tục chơi banh cho đến khi Chúa đến gọi con, vì mọi
việc trong ngày: Đi lễ, học bài, phụ giúp cha mẹ, con đã hoàn tất, và giờ này
là giờ chơi banh của con, cha mẹ con đã cho phép.
Như thế cậu Gioan Berchman đang đá banh là cậu đang sống đẹp từng
giây phút hiện tại, nghĩa là cậu đang sống trong Nước Thiên Chúa.
THỨ BẢY - Điều kiện để vào Nước Trời
Lời Chúa: Mc 10, 13-16
Khi ấy, người ta đưa những trẻ nhỏ đến cùng Chúa Giêsu để Người
đặt tay trên chúng, nhưng các môn đệ khiển trách họ.
Thấy vậy, Chúa Giêsu bất bình và bảo các ông rằng: "Hãy để
các trẻ nhỏ đến cùng Thầy, đừng ngăn cản chúng, vì nước Thiên Chúa là của những
người giống như chúng.
Thầy bảo thật các con: Ai không đón nhận nước Thiên Chúa như trẻ
nhỏ, sẽ không được vào nước đó.” Rồi Người ôm chúng, đặt tay ban phép lành cho
chúng.
TRUYỆN KỂ
1. Lớn và
nhỏ
Ðức Giáo Hoàng Piô X khi nhậm chức Giám mục giáo phận Mantova,
Ngài đã nghĩ đến người mẹ hiền và trở về thăm mẹ như để nói lên lòng biết ơn.
Trong câu chuyện thân mật với mẹ, Ngài vừa nói vừa khoe chiếc nhẫn Giám mục của
mình: "Mẹ xem chiếc nhẫn Giám mục của con có đẹp không?"
Người mẹ mỉm cười đưa chiếc nhẫn cũ kỹ trên bàn tay đầy vết nhăn
cho con xem và nói: "Nếu không có chiếc nhẫn này, thì đâu có chiếc nhẫn
Giám mục của con.”
2. Tầm quan
trọng của bài học nhà trẻ
"Những gì tôi cần biết, tôi đều học được lúc tôi còn ở nhà
trẻ", đó là tựa đề quyển sách của Mục sư Robert Fangum, một quyển sách bán
chạy nhất tại Hoa kỳ trong thời gian gần đây. Tác giả viết "Những bài học
chúng ta học được ở nhà trẻ đều là những
điều chúng ta cần biết để sống hạnh
phúc; nếu tất cả chúng ta đều trở lại nhà trẻ thì có lẽ thế giới này không hỗn
loan như hiện nay." Những điều đó là gì?
- Hãy chia sẻ mọi sự, hãy chơi đúng luật, đừng làm tổn thương
người khác, và nếu có xúc phạm đến ai thì hãy xin lỗi.
- Lấy đâu thì trả lại đó, dọn dẹp những gì mình bày ra, và nhất
là không lấy những gì không thuộc về mình.
- Ra đường phải chú ý đến xe cộ qua lại, phải nắm tay nhau mà
đi.
- Biết ngạc nhiên trước những mầu nhiệm của cuộc sống.
3. Một thầy
dạy bất đắc dĩ
Ông Tamba, một nhà trí thức tại Indonesia và cũng là một tín hữu
Kitô đã kể lại như sau:
Tôi rất hãnh diện và tôi cho rằng tôi là người tín hữu duy nhất
trong giáo xứ Palembang có được bằng tiến sĩ đại học Siuydaia, mà còn là chủ tịch
hội luật gia, đồng thời là chủ tịch hội trí thức trong tỉnh nữa. Với tất cả những
danh hiệu và chức vụ này tôi tưởng như chẳng ai bằng tôi. Thế nhưng, tôi lại bê
trễ việc đạo vì quá bận rộn. Tôi không còn quan tâm gì đến việc cầu nguyện nữa.
Lúc ấy, Chúa sai một người thầy đến dạy tôi. Người thầy là đứa
cháu trai mới có bốn tuổi. Tôi thường nói với cháu rằng, người tin Chúa phải cầu
nguyện trước khi đi ngủ. Một hôm, cháu đến nhà tôi chơi và ở lại ngủ chung
phòng với tôi. Khi tôi lên giường ngủ, cháu hỏi:
- Cậu ơi, sao cậu không cầu nguyện? Cậu cãi nhau với Chúa Giêsu
rồi đấy à?
Câu hỏi ngây thơ của đứa cháu làm tôi tỉnh ngộ. Thật đúng là
Chúa đã dùng một đứa bé mới có bốn tuổi làm nhân chứng cảnh tỉnh tôi và nhắc nhở
tôi. Tôi đã lập tức cầu nguyện ngay trước mặt đứa cháu. Và từ đó tới nay, tôi
không bao giờ quên cầu nguyện trước khi đi ngủ nữa.
4. Một vĩ
nhân ít tuổi
Nhà văn Pécaut, người Pháp, có kể lại một câu chuyện có thật và
đầy xúc động, mà ông đã gặp một lần trong đời để rồi vẫn còn nhớ mãi, không thể
nào quên được. Câu chuyện như sau:
Một hôm, tôi vừa ra khỏi nhà thì một em bé trạc 12 tuổi chạy đến
van nài tôi mua giúp em một hộp diêm quẹt. Động lòng thương, tôi rút ví ra định
mua, nhưng tôi lại chỉ có toàn tiền chẵn. Tôi đang ngần ngại thì thằng bé nói
ngay:
- Không sao ông ạ, xin ông cứ vui lòng đưa tiền cho cháu, cháu sẽ
chạy đi tìm chỗ đổi tiền rồi trở lại trả cho ông ngay.
Tôi nhìn thằng bé với một thoáng nghi ngờ. Nó vội nói:
- Thưa ông, cháu không phải là một thằng ăn cắp đâu ạ!
Quả vậy, gương mặt xanh xao của nó có vẻ thành thật đến mức tự
hào. Tôi liền trao cho nó một đồng tiền vàng, và nó chạy biến ngay về hướng cuối
phố. 5 phút trôi qua, rồi 10 phút, tôi bắt đầu hồ nghi sự ngay thẳng của thằng
bé. Và nửa giờ sau thì tôi hết kiên nhẫn, bỏ đi tiếp tục cuộc dạo phố, lòng thầm
nhủ sẽ chẳng bao giờ còn tin vào những bọn lêu lổng đầu đường xó chợ như thế nữa...
Buổi trưa, khi về tới nhà, đúng chỗ ban sáng thì tôi lại thấy một
đứa bé, bé hơn, chỉ độ 8, 9 tuổi, khuôn mặt giống "thằng ăn cắp" như
tạc. Nó thổn thức nói với tôi:
- Thưa ông, có phải ông đã đưa cho anh cháu một đồng tiền vàng
không ạ? Đây là chỗ tiền lẻ. Chính anh cháu nhờ gửi lại cho ông. Chúng cháu đều
là trẻ mồ côi nhưng không phải là bọn ăn cắp. Anh cháu không thể trao tận tay
ông ngay lúc sáng là vì anh cháu đã bị xe đụng khi vội chạy đi tìm chỗ đổi tiền.
Cháu... cháu sợ rằng, anh cháu chết mất thôi..."
Tôi bàng hoàng vội hỏi thằng bé trong tiếng nghẹn ngào:
- Thế bây giờ anh cháu nằm ở đâu? Dắt bác đến gặp anh cháu ngay
đi...
Chúng tôi rời khỏi những khu phố giàu sang để lách vào những con
hẻm lầy lội tối tăm của một khu lao động nghèo khổ. Em bé dừng lại trước một
căn lều xiêu vẹo. Trong một xó tối, tôi nhận ra thằng bé bán diêm quẹt ban
sáng.
- Thưa ông, xin ông lại gần cháu hơn một chút với...
Tôi tiến lại gần, quỳ một chân, cúi xuống đỡ lấy bàn tay nhỏ bé
và lạnh ngắt. Em nói với tôi, ánh mắt lấp lánh niềm vui ngây thơ:
- Em cháu đã đưa chỗ tiền lẻ cho ông rồi phải không ạ? Ông thấy
không, chúng cháu đâu có phải là những đứa lừa gạt và ăn cắp. Cháu chỉ có mình
nó là em ruột, cháu bị tai nạn thế này, rồi đây... Ôi trời ơi, rồi đây em cháu
sẽ ra sao đây?
Tôi lặng lẽ cúi xuống hôn lên vầng trán bị giập nát vì vết
thương của em, và tôi hứa với em rằng, tôi sẽ hết lòng chăm sóc thằng bé thay
cho em.
Tội nghiệp thằng bé, tôi biết vết thương rất trầm trọng, không
còn có thể làm gì để kịp cứu chữa cho em. Thằng bé có lẽ đã cố gắng thoi thóp sống
chỉ cốt để gặp được tôi, trăn trối một lời cuối cùng. Bây giờ thì em không còn
rên rỉ đau đớn nữa, đôi mắt em liếc nhìn đứa em thân yêu rồi chớp chớp nhìn tôi
với một vẻ bình thản gần như hạnh phúc...
Đấy, người bạn bé nhỏ của tôi đã chết như thế đấy. Thằng bé đã
cho tôi biết thán phục và thương cảm trước một tâm hồn trẻ thơ vô cùng trong trắng
ngay giữa cảnh đời nghèo khó và đau khổ đến cùng cực...
5. Ưu tiên
số một
Trong một giấc mơ, tôi thấy một đoàn người đông vô số kể, thuộc
đủ mọi thành phần trong xã hội, ai cũng chen nhau muốn đến trình diện Chúa để
được vào Thiên Đàng trước. Ông Phêrô đã được Chúa trao chìa khóa Nước Trời,nên
ông luôn túc trực tại Cổng, để bất cứ ai muốn qua Cửa Trời vào gặp Chúa, thì
ông phải xét duyệt lý lịch họ trước, trừ phi là con nít.
Một vị mặc áo vua, đội mũ cà cuống, cầm gậy vàng tiến đến, ông
Phêrô hỏi:
- Ngươi là ai?
- Thưa con là Tổng Giám mục ạ.
- Tổng Giám mục à, đứng qua một bên, đợi đã.
Một vị khác tiến đến mặc áo dòng, tay cầm cuốn Kinh Thánh:
- Ngươi là ai?
- Dạ, con là cha Sở.
- Cha Sở à, cũng đứng qua bên, hậu xét.
…..
Và còn biết bao nhiêu đấng bậc khác, cứ chen nhau tiến vào,
nhưng ai cũng bị ông Phêrô bảo đứng một bên chờ. Bất ngờ có một cụ già chống gậy
bước tới:
- Ngươi là ai?
- Bẩm thưa ngài, con là con nít ạ!
- Con nít à, vô lẹ đi con!
Ông Phêrô cho “ông cụ non” vào Thiên Đàng ngay mà không cần xét
duyệt lý lịch, vì ông nhớ Lời Thầy Giêsu đã nói trước: “Ai không đón nhận lấy
Nước Thiên Chúa với tâm hồn một trẻ em, thì sẽ chẳng được vào” (Mc 10,15: Tin Mừng).
“Như trẻ thơ nép mình lòng mẹ, trong con hồn lặng lẽ an vui. Cậy
vào Chúa, Israel ơi, từ nay đến mãi muôn đời muôn năm” (Tv 131/130,2b-3).
6. Tâm hồn
trẻ thơ
Nhà khoa học lừng danh Isaac Newton chia sẻ: "Trong đời
mình, tôi nhận biết được hai sự thật: thứ nhất, tôi là kẻ hèn mọn tội lỗi và thứ
hai, Đức Giêsu Kitô vĩ đại vô cùng là Đấng cứu độ tôi."
Đứng trước Thiên Chúa cao cả và Nước Trời cao quý của Ngài, nhà
khoa học, người trí thức hay kẻ ít học đều phải có tâm hồn của trẻ thơ để có thể
đón nhận.
Tâm hồn trẻ thơ hay con đường thơ ấu thiêng liêng theo chị thánh
Têrêxa Hài Đồng Giêsu là cung cách sống như trẻ thơ: ý thức mình thuộc về Chúa,
cần đến Chúa là Cha nhân lành, hoàn toàn tin tưởng và phó thác vào Ngài, không
tính toán lời lỗ thiệt hơn khi làm theo ý Thiên Chúa hay khi hy sinh từ bỏ để
đi theo Ngài.
7. Những điều
vĩ đại “tầm thường”
Donald Cross Peattie đã viết rất nhiều về thiên nhiên trên tờ
Reader's Digest. Trong một bài báo, tác giả đưa ra lời đề nghị này: “Nếu bạn thấy
một con nhện đang làm tổ, hãy chạy đi và dẫn một đứa trẻ lại. Hãy chỉ cho nó
xem và bảo nó rằng sợi tơ óng ánh từ cơ thể con nhện có một sức bền hơn cả sắt.
"Nếu đứa trẻ ngưỡng mộ thay vì chán ghét người thợ xe chỉ
nhỏ bé này, chắc hẳn nó sẽ học được một trong những bài học tuyệt vời trong
thiên nhiên, đó là tất cả cuộc sống đều thánh thiêng.”
Ngày nay, hơn thế nữa, chúng ta cần nhấn mạnh rằng tất cả mọi sự
sống, đặc biệt sự sống của con người, là món quà của Thiên Chúa và là điều
thánh thiêng.
Ở mức độ nào và tại sao tôi đồng ý rằng ngày nay chúng ta cần nhấn
mạnh đến sự thánh thiêng của sự sống hơn nữa?
Bằng việc tôn trọng sự sống, chúng ta bước vào mối liên hệ với
thế giới (Albert Schweitzer).
8. Tư tưởng
lớn
Một buổi sáng nọ, Irene Champernowne đang đi dạo dọc theo bờ biển.
Tình cờ bà thấy một đám trẻ đang ném đá vào một con mòng biển. Bà dừng lại và
nhẹ nhàng nói: “Con chim tội nghiệp đó chắc đang đau đớn lắm.” Rồi bà hỏi đám
trẻ chúng cảm thấy thế nào nếu chúng bị thương và người khác cố tình làm cho
thương tích chúng nặng hơn nữa. Nửa giờ sau, khi trở lại, bà sung sướng khi thấy
đám trẻ đang cho con mòng biển ăn và xây cho nó một “cái nhà” để trú đêm.
Tôi nhớ lại xem có lần nào tôi giáo dục người trẻ thay vì chỉ
tích chúng không?
Nếu bạn đặt kế hoạch cho một năm, hãy gieo lúa.
Nếu đặt kế hoạch cho một trăm năm, hãy trồng cây.
Nếu bạn đặt kế hoạch cho cả đời, hãy giáo dục một người (Ngạn ngữ
Trung Quốc).
9. Việc nhỏ
bé với trái tim lớn
Một nữ công nhân viênvà một cậu bé tham dự buổi nói chuyện của
Bill Russell, một siêu sao bóng rổ. Sau buổi nói chuyện, chị yêu cầu Bill đến
nói đôi lời khích lệ các cậu bé. Bill đã quen với những cậu bé như thế, và đã lớn
lên cùng với chúng . Vì vậy, anh đáp ứng lời yêu cầu của người phụ nữ. Về sau
khi nhắc lại sự kiện này , Bill nói: “Toi đã bảo các cậu bé là tôi không có ý định
nói những gì chúng thường nghe. Rồi tôi bắt tay chúng, vì muốn chúng hiểu rằng
qua cử chỉ đó tôi quan tâm đến chúng như thế nào.”
Bằng cách nào tôi cho người ta thấy tôi quan tâm đến họ?
Tôi không nhớ tôi đã có lần nào ôm hôn cha tôi… Tôi cần tình yêu
và sự che chở đầy cảm xúc, nhưng tôi chưa bao giờ thực hiện điều đó (Mark
Chapman).
ĐỨC MẸ LÀ MẸ HỘI THÁNH – Này là Mẹ con
Lời Chúa: Ga 19, 25-27
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo thánh
Gioan
Khi ấy, đứng gần thập
giá Chúa Giêsu, có mẹ Người, cùng với chị mẹ Người là bà Maria, vợ ông Clêôpas
và Maria Mađalêna.
Khi thấy mẹ và bên cạnh
có môn đệ Người yêu, Chúa Giêsu nói với mẹ rằng: “Thưa Bà, này là Con Bà."
Rồi Người nói với môn đệ: “Này là Mẹ con." Và từ giờ đó môn đệ đã đón bà về
nhà mình.
TRUYỆN KỂ
1. Hội Thánh cùng với Mẹ
tiến bước
Trong diễn từ của Đức Giáo hoàng Phaolô VI ngày bế mạc kỳ họp thứ
ba của Công đồng Vatican II – 21.11.1964 viết: “Thiên chức Thánh Mẫu đã làm cho
Mẹ có những mối liên hệ đặc biệt với Chúa Kitô và hiện diện trong công trình cứu
rỗi nhân loại do Chúa Giêsu Kitô thực hiện, cũng chính thiên chức đó tạo nên mối
tương quan giữa Đức Maria và Hội Thánh; vì Đức Maria là Mẹ của Chúa Kitô, Đấng
đã nhận lấy bản tính nhân loại trong cung lòng khiết trinh của Mẹ, Đấng là Đầu
của Nhiệm thể là Hội Thánh. Vì thế Đức Maria, Mẹ của Chúa Kitô, cũng là Mẹ của
tất cả các tín hữu và mục tử, nghĩa là của Hội Thánh."
Vì là Mẹ của Hội Thánh, nên suốt cuộc đời Mẹ luôn là máng thông
ơn Thiên Chúa xuống cho Hội Thánh. Để sống tốt hành trình dương thế, chúng ta
hãy chạy đến với Mẹ, cầu xin Mẹ, để có thể khám phá ra niềm vui về sự dịu dàng
của Thiên Chúa. Không ai đã bước vào mầu nhiệm sâu xa của việc nhập thể như Mẹ
Maria. Toàn bộ cuộc sống Mẹ được hun đúc theo Chúa Giêsu Con Mẹ. Mẹ minh chứng
rằng tình yêu của Con Mẹ là vô cùng vô tận và mở rộng cho tất cả mọi người,
không một ngoại lệ nào. Chúng ta hãy tiếp bước theo Mẹ.
Lạy Đức Mẹ Hội Thánh, xin cầu cho chúng con. Amen.
2. ĐGH Phanxicô thiết lập
lễ nhớ Đức Maria là Mẹ Giáo Hội--G. Trần Đức Anh OP
ĐTC Phanxicô đã quyết định thiết lập lễ kính Đức Maria là Mẹ
Giáo Hội và cử hành hằng năm vào ngày thứ hai sau lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống,
theo lịch chung của Giáo Hội.
Trong sắc lệnh công bố hôm 3-3-2018, DHY Robert Sarah, Tổng trưởng
Bộ Phụng Tự và kỷ luật bí tích cho biết ĐTC đưa ra quyết định trên đây xét vì
việc thăng tiến lòng sùng kính này có thể giúp gia tăng cảm thức của các vị mục
tử, các tu sĩ và tín hữu về Mẹ Giáo Hội, cũng như lòng kính mến chân thành đối
với Đức Mẹ.
Chính Đức Giáo Hoàng Phaolô 6, ngày 21-11 năm 1964, khi bế mạc
khóa III của Công đồng chung Vatican 2 đã tuyên bố Đức Trinh Nữ Maria là ”Mẹ
Giáo Hội, nghĩa là của toàn thể dân Kitô giáo, các tín hữu cũng như các vị Chủ
Chăn, họ gọi Đức Maria là Mẹ rất quí mến” và Ngài thiết định rằng ”toàn thể dân
Kitô giáo ngày càng gia tăng lòng tôn kính Mẹ Thiên Chúa dưới danh hiệu rất dịu
dàng này."
Sắc lệnh của Bộ Phụng tự khẳng định: Lễ kính Đức Maria là Mẹ
Giáo Hội, do ĐGH Phanxicô ấn định, ”sẽ giúp chúng ta nhớ rằng đời sống Kitô, để
tăng trưởng, cần phải ăn rễ sâu nơi mầu nhiệm Thánh Giá, nơi hy tế của Chúa
Kitô trong Tiệc Thánh Thể, nơi Đức Trinh Nữ hiến dâng, Mẹ Đấng Cứu Chuộc và Mẹ
của những người được cứu chuộc."
Vì thế, lễ này cần được ghi trong tất cả các lịch và sách phụng
vụ để cử hành thánh lễ và phụng vụ các giờ kinh. Các văn bản phụng vụ liên hệ
được đính kèm, sắc lệnh này và các bản dịch, được các HĐGM chấp thuận, sẽ được
công bố sau khi Bộ Phụng Tự và kỷ luật bí tích phê chuẩn. Tại những nơi nào lễ
kính Đức Trinh Nữ Maria Mẹ Giáo Hội đã được cử hành theo luật riêng được phê
chuẩn, vào một ngày khác, với bậc phụng vụ cao hơn, thì trong tương lai vẫn được
cử hành theo cùng thể thức ấy."
Theo quyết định trên đây, thứ hai 21-5-2018 sẽ là lễ kính Đức
Maria là Mẹ Giáo Hội. (Rei 3-3-2018)
3. Lịch sử tước hiệu Mẹ
Giáo Hội
Mẹ Giáo Hội (tiếng La-tinh: Mater Ecclesiae) là một trong nhiều
tước hiệu của Đức Maria. Với tước hiệu này, Mẹ Thiên Chúa được tôn kính với tư
cách là Mẹ của Giáo Hội, thân mình mầu nhiệm của Chúa Ki-tô. Ngay từ hồi thế kỷ
thứ IV, tước hiệu này đã được Giáo Phụ Am-brô-xi-ô nhắc tới. Ngài đã liên kết
hình ảnh Mẹ Giáo Hội với Đức Maria như là nguyên mẫu „có tính hiện thân“ của
Giáo hội. Vào giữa thời Trung Cổ, tước hiệu trên của Đức Maria đã được phổ biến
khá rộng rãi trong Giáo hội.
Tước hiệu Đức Maria Mẹ Hội Thánh có nguồn gốc xa xưa và đã hiện
diện trong Giáo Hội thời của Thánh Augustinô và Thánh Leo Cả. Trong nhiều thế kỷ,
lòng sùng kính Đức Mẹ với nhiều tước hiệu, nhưng với tước hiệu Mẹ Hội Thánh xuất
hiện trong một số văn bản của các tác giả thiêng liêng và trong giáo huấn của
ĐTC Benedict XIV và Leo XIII.
Tuy nhiên, phải đợi đến ĐTC Phaolô VI mới có bước ngoặt; đó là
ngày 21 tháng 11 năm 1964, khi kết thúc phiên thứ ba của Công đồng Vatican II, Đức
Giáo hoàng tuyên bố Đức Trinh Nữ Maria “Mẹ Hội Thánh”, nghĩa là của mọi Kitô hữu.”
Với quyết định này, ĐTC Phaolô VI lấy nội dung chủ yếu trong Tín
điều của Công đồng Nicea năm 325 và trên hết là các quyết định của các giáo phụ
Công đồng Êphêsô (430), xác định Đức Maria là "Mẹ Thiên Chúa.”
Trong Năm Thánh (1975), có Thánh lễ tạ ơn sùng kính Đức Maria, Mẹ
Hội Thánh, sau đó lễ này được đưa vào Sách lễ Rôma, nhưng chưa phải là lễ nhớ bắt
buộc trong lịch phụng vụ. Tuy nhiên, ở một số quốc gia - ví dụ Ba Lan và
Argentina - và trong một số hội dòng, lễ Đức Maria, Mẹ Hội Thánh được đưa vào lịch
riêng.
Vào năm 1980 ĐTC Gioan Phaolô II đưa lòng sùng kính Đức Maria, Mẹ
Hội Thánh vào trong kinh nguyện. Và đến ngày 11 tháng 02 năm 2018, kỷ niệm 160
năm lần đầu tiên Đức Trinh Nữ hiện ra tại Lộ Đức. Nhân dịp này, Đức Giáo hoàng
Phanxicô đã ấn định lễ nhớ Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Giáo hội, được ghi vào Lịch
Rôma và được cử hành hàng năm, vào thứ hai sau Chúa Thánh Thần hiện xuống. Theo
đó, thứ Hai ngày 21 tháng 05 năm 2018 sẽ là ngày đầu tiên Lễ Kính Đức Maria là
Mẹ Giáo Hội được cử hành trên toàn Giáo hội với bậc Lễ nhớ buộc, tức Lễ bậc
III.
4. Mẹ đau khổ--Lm. Nguyễn
Vinh Sơn SCJ
Vào ngày thứ sáu tuần thánh tại các nước châu Mỹ La Tinh được cử
hành với một truyền thống rất đặc biệt, ở đó người ta sống lại sự hiện diện của
Mẹ Maria dưới chân thập giá Chúa Giêsu: Các phụ nữ tập trung lại dưới chân thập
giá, họ đi lại từng bước những khổ nạn của Chúa Giêsu trong tiếng hát, trong những
lời cầu nguyện và cả trong tiếng khóc nữa.
Các tín hữu còn giữ một truyền thống khác gọi là “chia buồn."
Truyền thống này được cử hành sau nghi thức phụng vụ của Giáo hội vào chiều thứ
sáu tuần thánh: Mọi người trở vào nhà thờ để an ủi Đức Mẹ Sầu Bi, như thể được ở
bên Mẹ khi Mẹ đứng dưới chân thập giá Chúa Giêsu, dân chúng chia sẻ nỗi đau của
Ngài, vừa nói lên chính nỗi đau của họ. Trong nghi thức truyền thống chia sẻ nỗi
đau buồn này là bức tượng của người phụ nữ mặc áo đen đứng dưới chân thập giá,
khi xác Chúa Giêsu được tháo gỡ khỏi thập giá, thì bức tượng của người phụ nữ
được đặt ở đầu chiếc quan tài.
Người phụ nữ mặc áo đen ấy dĩ nhiên tượng trưng cho Mẹ Maria, là
Mẹ của Người Con bị hành quyết, là người đàn bà luôn phấn đấu để tin vào sứ điệp
của Con. Mẹ đã phải dằn lại cơn giận dữ trước thái độ phản bội của dân chúng,
và của những người môn đệ thân tín của Chúa Giêsu. Mẹ đã phải tha thứ cho tất cả
mọi người… (Theo R. Veritas).
5. Đức Mẹ là ai?
Thánh Gioan Bosco gật đầu
nói tiếp: "Đúng thế, Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, nhưng nói thế vẫn chưa đủ.
Tôi muốn anh chị em kể hết những tước hiệu của Mẹ Maria." Liền sau đó, cử
toạ liền kể ra tất cả những tước hiệu của Mẹ: Mẹ là cửa Thiên Đàng, Mẹ là Đấng
an ủi những kẻ có tội, Mẹ là Đấng phù trợ các tín hữu, Mẹ là Đấng cứu chữa kẻ bệnh
tật v.v...
Sau khi nghe kể hết những
tước hiệu mà người ta gán cho Đức Maria, thánh Gioan Bosco mỉm cười nối tiếp:
"Đức Maria là tất cả những gì anh chị em vừa kể ra, nhưng vẫn chưa hết.
Tôi muốn nói thêm về Đức Maria...." Chờ mãi vẫn không thấy có câu trả lời
nào, thánh nhân mới nói: "Tôi xin được nói với anh chị em Đức Maria là ai:
Ngài là Mẹ chúng ta. Phải, Mẹ chúng ta. Đó là điều đáng nói nhất về Mẹ Maria.
Trên trần gian này, không ai có thể gần gũi thiết thân với chúng ta cho bằng Mẹ
chúng ta, không ai yêu thương chúng ta hơn Mẹ chúng ta. Cũng thế trên Thiên
Đàng không có vị thánh nào yêu thương chúng ta và sẵn sàng lắng nghe chúng ta
cho bằng Mẹ Maria...."
Tước hiệu nói lên tương
quan mẫu tử của Đức Maria với Giáo Hội.
6. Tâm tình con thảo
Trong cuốn sách tựa đề “Đồng Hành” có thuật lại câu chuyện về cuộc
đời của một nhà thừa sai Canada, Giám mục Emile Crôa, Ngài thú nhận: Ngay từ
thuở nhỏ, tôi là một đứa trẻ nghịch ngợm, phá phách và cứng đầu, lười biếng. Có
một lần thầy giáo đã phải giận dữ thốt lên rằng: “Chưa bao giờ tao thấy một học
sinh nào quá quắt như mày." Ngày nọ, thay vì đến trường, tôi lại trốn học
ra đồng. Cha tôi biết được, ông giận dữ và thay vì đưa tôi về nhà, ông lại dẫn
tôi vào một nhà nguyện. Ông xô tôi đến trước bàn thờ Đức Mẹ đang mỉm cười và
quát: “Thằng khốn nạn, qùy xuống." Và rồi ông ngước nhìn lên tượng Đức Mẹ
và nói: “Xin Mẹ nhận lại thằng nhỏ này, vì quả thực con không còn biết phải làm
gì với nó nữa. Xin Mẹ lo lắng cho nó để một ngày kia, nó khỏi trở thành một tướng
cướp, bị treo cổ trên dây."
Nhưng lời nói của cha tôi như một làn roi quất mạnh vào tôi. Tôi
cảm thấy đau hơn tất cả các trận đòn từng bị đánh trước đây. Và nhìn lên Đức Mẹ
đang mỉm cười tôi tự nhủ: “Nếu cha tôi đã phó thác tôi cho Đức Mẹ thì tôi phải
minh chứng được Đức Mẹ đã làm điều gì đó tốt đẹp cho tôi’. Với sự trợ giúp của
Đức Mẹ, Emile đã thay đổi, đi tu, thụ phong Linh mục, Giám mục và truyền giáo ở
vùng thổ dân ngoại giáo ở Canada.
Kể lại câu chuyện này, đức cha không chỉ muốn dạy cho chúng ta
cách thức hay nhất để chúng ta có thể dạy dỗ, uốn nắn sửa sai con cái, nhất là
những đứa ngỗ nghịch, khó dạy hay bướng bỉnh quậy phá như Emile. Điều mà Chúa
muốn xác tín với chúng ta cũng như với tất cả các gia đình Công giáo: “Mẹ Maria
rất gần gũi, gắn bó và quan tâm đến những nhu cầu, khó khăn và cay cực của các
gia đình."
7. Mẹ chúng ta
Thánh Aelred thành Rievaulx, một tu sĩ dòng Xitô và là người
cùng thời với Thánh Bernard thành Clairaux, đã chỉ ra cho chúng ta thấy vai trò
thần linh của Đức Maria:
Chúng ta nợ Mẹ Maria sự tôn kính, vì Mẹ là Mẹ của Chúa chúng ta.
Ai không tôn kính Người Mẹ thì làm mất lòng Người Con. Ngoài ra, Kinh thánh
nói: Hãy tôn vinh cha và mẹ của bạn. . . Như chúng ta đã biết và tin tưởng, khi
tất cả chúng ta chết đi trong tội lỗi, bóng tối và đau khổ. Trong cái chết, vì
chúng ta đã mất Thiên Chúa; trong tội lỗi, vì sự tham lam của chúng ta; trong
bóng tối, vì chúng ta không có ánh sáng của sự khôn ngoan, và do đó đã bị diệt
vong hoàn toàn. Nhưng sau đó chúng tôi được sinh ra, tốt đẹp hơn nhiều so với
Evà, nhờ Đức Maria, vì Chúa Kitô được Mẹ sinh ra. Chúng ta được phục hồi cuộc sống
mới thay cho tội lỗi, sự bất tử thay cho sự chết, ánh sáng thay cho bóng tối. Mẹ
là mẹ của chúng ta, mẹ của Nguồn Sống [Chúa Giêsu], mẹ của sự cứu chuộc [Chúa
Giêsu], mẹ của ánh sáng [Chúa Giêsu]. Thánh Phaolô tông đồ nói về Chúa của
chúng ta: “Người đã trở nên vì chúng ta, nhờ quyền năng của Chúa Cha, sự khôn
ngoan và công chính, sự thánh thiện và sự cứu chuộc cho chúng ta. [Mẹ Maria]
sau đó, với tư cách là mẹ của Chúa Kitô, là mẹ của sự khôn ngoan và công chính
của chúng ta, về sự thánh thiện và cứu chuộc của chúng ta. Mẹ là Mẹ của chúng
ta nhiều hơn mẹ của chúng ta. Được sinh ra từ Mẹ là tốt đẹp hơn, vì từ Mẹ sinh
ra là sự thánh thiện, sự khôn ngoan, công chính, sự thánh hóa, sự cứu chuộc của
chúng ta.
Tất cả chúng ta đã nhận được sự sống mới trong Chúa Kitô và Mẹ Maria
đã thụ thai và sinh ra Người.
LỄ ĐỨC MẸ ĐI VIẾNG - Nhận
ra dấu chỉ của Chúa
Lời Chúa: Lc 1, 39-56
Trong những ngày ấy, Maria chỗi dậy, vội vã ra đi lên miền núi,
đến một thành xứ Giuđêa. Bà vào nhà ông Giacaria và chào bà Elisabeth. Và khi
bà Elisabeth nghe lời chào của Maria, thì hài nhi nhảy mừng trong lòng bà, và
bà Elisabeth được đầy Chúa Thánh Thần, bà kêu lớn tiếng rằng:
"Bà được chúc phúc giữa các người phụ nữ, và con lòng Bà được
chúc phúc. Bởi đâu tôi được Mẹ Thiên Chúa tôi đến viếng thăm? Vì này tai tôi vừa
nghe lời Bà chào, thì hài nhi liền nhảy mừng trong lòng tôi. Phúc cho Bà là kẻ
đã tin rằng lời Chúa phán cùng Bà sẽ được thực hiện."
Và Maria nói: "Linh hồn tôi ngợi khen Chúa, và thần trí tôi
hoan hỉ trong Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ tôi, vì Chúa đã đoái nhìn đến phận hèn tớ
nữ của Chúa. Này từ nay muôn thế hệ sẽ khen rằng tôi có phước, vì Đấng toàn
năng đã làm cho tôi những sự trọng đại và Danh Ngài là thánh. Lòng thương xót
Chúa trải qua đời nọ đến đời kia dành cho những người kính sợ Chúa.
"Chúa đã vung cánh tay ra oai thần lực, dẹp tan những ai thần
trí kiêu căng. Chúa lật đổ người quyền thế xuống khỏi ngai vàng và nâng cao những
người phận nhỏ. Chúa đã cho người đói khát no đầy ơn phước, và để người giàu có
trở về tay không. Chúa đã săn sóc Israel tôi tớ Chúa, bởi nhớ lại lòng thương
xót của Ngài. Như Chúa đã phán cùng các tổ phụ chúng tôi, cho Abraham và dòng
dõi người đến muôn đời."
Maria ở lại với bà Elisabeth độ ba tháng, đoạn Người trở về nhà
mình.
TRUYỆN KỂ
1. Mẹ dạy con
Một bà mẹ đi chợ, một tay xách giỏ, một tay ẵm đứa con nhỏ . Ở một
góc chợ, có một bà lão ăn mày, hai tay giơ lên, miệng nài khẩn kẻ qua người lại.
Bà mẹ bồng con đứng lại, rút ở giỏ ra chiếc bánh và ít tiền. Bà không đưa trực
tiếp cho bà ăn mày. Nhưng trao cho đứa con đang bồng trên tay. Bà ngồi xuống, bảo
con đưa bánh và tiền cho bà lão ăn mày. Đứa bé vâng lời thực hiện từng chi tiết
mẹ dạy. Làm xong, đứa bé tỏ vẻ vui mừng hớn hở. Nó làm thay cho mẹ nó.
Bà mẹ đó đã nói với tôi: Bé của con làm thay cho con. Nhưng con
cũng làm thay cho Đức Mẹ. Lời đơn sơ đó đủ nói cho tôi sứ mạng mà Mẹ Maria đang
trao cho con cái Mẹ trong cuộc sống hôm nay. “Hãy thay Mẹ đi thăm viếng những
người khốn khó." Việc thăm viếng này có thể thực hiện được bằng nhiều
cách. Yếu tố quan trọng nhất của mọi cách thăm viếng theo gương Mẹ là tấm lòng
tế nhị, nhạy bén và thương cảm trong Chúa Giêsu.
2. Mẹ nghèo mà diễm
phúc
Nhà vua bị bệnh nặng. Quan ngự y lo lắng, nhưng đành bó tay. Một
nhà chiêm tinh đến bảo vua chỉ khỏi bệnh khi nào được mặc chiếc áo của một người
hạnh phúc nhất.
Quan quân đổ xô đi khắp nước để tìm người hạnh phúc nhất. Cuối
cùng thì họ cũng tìm được một người hạnh phúc thực sự. Nhưng khổ thay, người ấy
quá nghèo, chẳng có lấy một chiếc áo! (Góp nhặt)
3. Lòng bác ái của bác
sĩ Longet
Bác sĩ Longet là một người Pháp, đã từng phục vụ ở Việt Nam cách
đây mấy mươi năm và cũng nổi tiếng như bác sĩ Tom Dooley, người Mỹ đã phục vụ ở
Đông Nam Á. Ông tận tụy săn sóc các bệnh nhân bất kể giai cấp, tôn giáo, chủng
tộc, ngày lẫn đêm.
Được hỏi tại sao ông quý mến bệnh nhân như thế?
Bác sĩ Longet đáp:
- Vì tôi thấy Chúa Giêsu trong mỗi bệnh nhân.
Chính vì thế, mỗi sáng khi đi dự thánh lễ; bệnh nhân lương hay
giáo, ai muốn đi ông đều chở trên xe; mỗi chiều Chúa nhật, ông lại chở các bệnh
nhân đi chơi, tham quan nơi này nơi nọ. Và mỗi tối ông lần hạt chung với người
Công giáo. Ít lâu sau, ông Longet trở về nước Pháp, vào chủng viện dâng mình
làm linh mục và tình nguyện sang phục vụ những người nghèo ở Giáo phận Cần Thơ.
Nhưng tiếc thay, sau khi chịu chức xong, ông lâm trọng bệnh và qua đời trước
khi tới nơi hằng mong ước.
4. Thắp sáng ngọn đèn
cũ
Mẹ Têrêsa thành Calcutta đã thuật lại một câu chuyện sau nhân dịp
một đài truyền hình phỏng vấn Mẹ.
Mẹ nói: Một lần khi khi còn ở Úc tôi có đến thăm một người thuộc
thổ dân Aborigine. Ông cụ sống trong cảnh cô độc thật thảm thương. Ông sống
trong một túp lều xiêu vẹo với tuổi đã già nua của mình. Khởi đầu câu chuyện
cho lần gặp đầu tiên, tôi đã đề nghị:
- Để tôi dọn dẹp nhà và sửa soạn giường ngủ cho ông.
Ông ta trả lời hững hờ:
- Tôi đã quen sống như vậy rồi.
- Nhưng ông sẽ cảm thấy dễ chịu hơn với căn nhà sạch sẽ và ngăn
nắp.
Sau cùng ông ta bằng lòng để tôi dọn dẹp lại nhà cửa cho ông.
Trong khi quét dọn tôi thấy một cái đèn cũ đẹp nhưng phủ đầy bụi bặm và bồ
hóng. Tôi hỏi ông:
- Có bao giờ ông thắp đèn này chưa?
Ông la trả lời cộc lốc:
- Nhưng thắp đèn để cho ai? Có ai bước chân vào nhà này bao giờ
đâu? Tôi sống ở đây đã từ lâu không hề trông thấy mặt người nào cả.
Tôi hỏi ông:
- Nếu như có người tình nguyện đến thăm ông thường xuyên, ông có
vui lòng thắp đèn lên không?
- Dĩ nhiên.
Từ ngày đó, các nữ tu quyết định mỗi chiều sẽ ghé qua nhà ông.
Ông ta bắt đầu thắp đèn và dọn dẹp nhà cửa sạch sẽ hơn. Ông còn sống thêm hai
năm nữa. Trước khi qua đời ông nhờ các nữ tu ghé thăm nhắn tin giúp ông:
- Xin nhắn với mẹ Têrêsa, bạn tôi, rằng ngọn đèn mà mẹ thắp lên
trong đời tôi vẫn còn chiếu sáng.
Đó chỉ là một việc nhó mọn, nhưng trong bóng tối cô đơn của đời
tôi, một tia sáng đã thắp lên và vẫn còn tiếp tục chiếu sáng mãi.
Vâng! Đúng là một cuộc viếng thăm thật tuyệt vời.
Ngọn đèn cũ không được thắp sẽ trở nên vô dụng và quên lãng nơi
một xó xỉnh nào đấy, nhưng khi được châm vào một chút dầu tình yêu và sự bao
dung thì nó đem đến sự sáng và sưởi ấm lòng người. Giờ đây, con người dù phải sống
cô độc nhưng không còn cô đơn nữa vì bóng tối đã bị đẩy lui và nhường bước cho
tình yêu và lòng bao dung của những đốm sáng nhỏ nơi con người, nơi nhân loại.
5. Washington thăm mẹ
George Washington, một trong những nhà anh hùng của nền độc lập
Hoa Kỳ, thường được đề cao như một người con chí hiếu đối với mẹ mình.
Sau những trận chiến cam go nhất, giữa những công việc nặng nề của
một nguyên thủ quốc gia, ông thường về nhà thăm viếng và trò chuyện lâu giờ với
người mẹ già.
Một hôm, ngạc nhiên về sự gắn bó của ông đối với mình, mẹ đã đặt
câu hỏi như sau: "Tại sao con lại chịu khó mất hằng giờ như vậy để ngồi
bên cạnh mẹ?"
Vị tổng thống của nước Mỹ đã trả lời như sau: "Thưa mẹ, ngồi
bên cạnh mẹ để lắng nghe mẹ nói, không phải là một việc mất giờ. Bởi vì, sự
thanh thản và lòng tốt của mẹ dạy con còn muốn tiếp tục sống."
Hôm nay, Giáo Hội mừng lễ Mẹ đi viếng bà thánh Isave. Giáo Hội đặt
lễ này vào cuối tháng năm như cao điểm của tháng hoa.
Sự vội vã lên đường của Mẹ Maria để đi thăm người chị họ cưu
mang trong lúc tuổi già là biến cố khai mạc sứ mệnh của Mẹ: đó là sứ mệnh của một
người Mẹ luôn có mặt để phù trợ con người. Sự hiện diện ấy đã củng cố niềm tin
của bà Isave. Sự hiện diện ấy đã đem lại niềm an ủi vô bờ cho Gioan Tẩy giả.
Bên cạnh Chúa Giêsu, từ việc cưới Cana cho đến dưới chân thập
giá, và những ngày đầu của Giáo Hội, Mẹ luôn có mặt để nâng đỡ, để ủi an, để củng
cố niềm tin của mọi người.
Một cách âm thầm nhưng vô cùng gần gũi, ngày nay lúc nào Mẹ cũng
có mặt trong Giáo Hội và trong từng phút giây của cuộc sống chúng ta.
6. Đức Maria thăm viếng.
Ngày lễ này đã được Đức Urban VI thiết lập vào năm 1389, vào khoảng
thời gian giữa lễ Truyền Tin và lễ sinh nhật thánh Gioan Tẩy Giả, phù hợp với
những chi tiết Phúc Âm. Ngày lễ hôm nay ghi nhớ việc Đức Mẹ đi thăm bà chị họ
Elizabeth, lúc ấy đã cao niên và đang có thai. Mẹ đến để chia sẻ niềm vui về những
điều kỳ diệu Thiên Chúa đã thực hiện nơi hai chị em. Ngày lễ này - nhằm ngày kết
thúc tháng Năm kính Mẹ – cho chúng ta thấy tinh thần chiêm niệm, sự phục vụ, và
đức khiêm nhượng thẳm sâu của Mẹ, dạy chúng ta biết mỗi khi đi đâu, chúng ta
cũng phải theo gương Mẹ Maria, trở nên một nguồn vui cho toàn thể nhân loại.
Phục vụ vui tươi.
Hãy đến mà nghe, hỡi tất cả các bạn là những người kính sợ Chúa,
tôi sẽ kể cho các bạn những điều Người đã làm cho tôi.1 Đó là những lời trong
Ca Nhập Lễ hôm nay.
Ngay sau ngày Truyền Tin, Đức Maria lập tức đi thăm bà Elizabeth
tại miền đồi núi xứ Giuđêa, cách Nazareth chừng bốn năm ngày đàng. Thánh Luca
viết: “Trong những ngày ấy, Maria vội vã ra đi lên miền đồi núi, đến một thành
xứ Giuđêa." Sau khi được sứ thần cho biết về việc bà Elizabeth có thai, Đức
Trinh Nữ đã vội vàng ra đi để phụ giúp những công việc cho bà chị họ. Không ai
buộc Mẹ phải đi: Thiên Chúa, qua sứ thần, cũng không đòi Mẹ phải làm như thế,
và cả bà Elizabeth. Đức Maria có thể ở nhà để bắt đầu chuẩn bị cho Con Mẹ, Đấng
Cứu Độ, sắp chào đời; nhưng Mẹ đã hân hoan, vội vã lên đường để đến giúp đỡ bà
Elizabeth.
7. Lời các thánh
- Thánh Ambrosiô: Mẹ lên đường không phải vì không tin lời sứ thần
báo cho Mẹ, mà vì hối hả ước ao làm ơn cho gia đình bà chị. Sung sướng vì được
làm cho người khác sung sướng, và tận lực thi hành đức ái.
- Thánh Augustinô: Qua Mẹ, tình thương đổ xuống người cơ khổ, ân
sủng đổ xuống những kẻ vô ơn, và ơn tha thứ được ban phát cho những người tội lỗi.
- Thánh Phêrô Kim Ngôn: Mẹ Thiên Chúa đã khám phá ra ân sủng, để
cung cấp ơn cứu độ cho nhân loại. Mẹ phát sinh ơn sủng. Đó là một ân sủng dư dật
để độ phúc cho mỗi người chúng ta, để trào đổ dạt dào sóng dư ân sủng đó xuống
mọi thụ tạo.
- Thánh Ilđêphong: Lạy Mẹ, trong hết mọi ân sủng Chúa đã định
ban cho loài người, không có ơn nào mà Chúa không muốn đổ xuống qua tay Mẹ, vì
Chúa đã ký thác cho Mẹ hết báu tàng, hết mọi phú quí về ơn sủng Người ban.
- Thánh Germanô: Ôi Maria, không ai được cứu độ nếu không nhờ Mẹ;
không ai được hưởng ơn trời nào nếu không có Mẹ.
- Thánh Đamascenô: Mẹ là Thánh đô rộng mở đón tiếp hết những ai
cầu xin Mẹ. Hỡi các con Mẹ hãy đến mà lãnh nhận tràn đầy ơn sủng vượt trên mọi
khát vọng của các con.
- Lạy Mẹ Chí Thánh Thiên Chúa, xin mở tình thương cho chúng con,
vì Mẹ là ơn độ phúc của cả nhân loại.
- Thánh Đamianô: Mẹ là kho báu chứa gồm hết mọi thánh ân. Lạy Mẹ
là hy vọng của chúng con, chúng con biết hết mọi báu tàng tình thương của Chúa
đều ở trong tay Mẹ.
- Thánh Bênađô: Chúa đã tàng trữ nơi Mẹ Maria toàn thể mọi ơn
sung mãn, nên chúng ta có được hy vọng nào, ân sủng nào, ơn cứu độ nào là đều
lãnh nhận từ tay Mẹ.
- Chúng ta hãy đi tìm ân sủng, và hãy nhờ Mẹ mà tìm. Cứ xin điều
gì là Mẹ được điều ấy. Không bao giờ Mẹ có thể bị từ chối.
- Mẹ Maria được tặng ban cho thế giới di chuyển tình thương để qua
Mẹ các ân sủng được liên tiếp trao ban từ trời cao xuống cho nhân loại.
- Thánh Albertô: Mẹ là Đấng quản thủ kho báu của Chúa Giêsu.
- Thánh Bonaventura: Mẹ gồm chứa báu tàng của Thiên Chúa là Chúa
Giêsu và cùng với Chúa gồm chứa nguyên ủy và nguồn mạch hết mọi ân sủng.
- Lý do nào đã thúc đẩy Mẹ hối hả đi thăm nhà Gioan Tẩy giả nếu
không phải là đức ái thiêu đốt tâm hồn Mẹ.
- Lời của Mẹ có mãnh lực lớn lao biết bao, vì Mẹ vừa mới nói,
Chúa Thánh Thần liền xuống đầy lòng bà Elizabeth.
- Thánh Bênađinô: Khi Đức Trinh Nữ chào bà Elizabeth, lời chào
vào tai bà rồi xuống thai nhi, và vì thế, thai nhi nhận được Chúa Thánh Thần.
- Từ lúc trở nên Mẹ Chúa Cứu Thế, Đức Nữ Trinh uy linh đã được
quyền tài phán đối với hết các cuộc nhiệm sinh của Chúa Thánh Thần, đến nỗi
không ai được Chúa ban một ơn nào mà không qua trung gian nhân từ hiền ái của Mẹ.
- Thánh Laurensô Brinđisi: Được đầy Thánh Thần bà Elizabeth do
Chúa thúc đẩy đã thấy và nói những việc đã qua hiện tại và tương lai. Bà biết
phẩm chức vô biên, vinh quang hiện tại và tương lai của Đức Trinh Nữ Maria rất
thánh đức và khiêm hạ.
- Thánh Anphong: Vừa đặt chân vào nhà Gioan Tẩy giả Mẹ Maria đã
rộng ban cho gia đình ông nào là ân trạch trời cao, nào là hồng ân thiên quốc.
Do đó, ngày Lễ Mẹ Thăm Viếng thường được gọi là Lễ Mẹ ban ân sủng.
8. Giáo huấn của Giáo Hội
- Đức Phaolô VI: Lễ Thăm viếng nhắc nhớ việc Rất Thánh Trinh Nữ
Maria đang cưu mang Con Mẹ đi viếng thăm, giúp đỡ bà Elizabeth, và công bố lòng
xót thương của Thiên Chúa cứu chuộc.
- Đức Gioan Phaolô II
1. Mẹ Maria hiện diện một cách linh thiêng giữa chúng ta. Chúng
ta chiêm ngưỡng Mẹ với cùng một cặp mắt mà bà Elizabeth đã nhìn xem Mẹ khi Mẹ vội
vã tới viếng thăm bà, và nghe lời Mẹ chào bà thì bà nói: "Ngay lúc tiếng
em chào vừa đến tai chị, thì hài nhi trong dạ chị liền nhảy mừng" (Lc
1:44). Niềm vui bà Elizabeth cảm thấy nêu bật ân huệ có thể ẩn chứa trong lời
chào mừng, khi lời chào đó do một tấm lòng tràn đầy Thiên Chúa. Những bóng tối
của tình trạng cô độc đè nén một tâm hồn, thường có thể bị tia sáng một nụ cười
và một lời nói âu yếm phá tan.
2. Đáp lại lời chào mừng của Đức Trinh Nữ, bà Elizabeth nói:
"Phúc cho em là người đã tin mọi điều Chúa phán truyền cho em sẽ được ứng
nghiệm" (Lc 1:45). Những lời này được nói ra do Chúa Thánh Linh và đề cao
nhân đức cốt yếu của Mẹ Maria là "đức tin." Các Giáo phụ của Giáo hội
đã nhiều ý nghĩa của nhân đức này trong cuộc sống của Đức Trinh Nữ. Các ngài
không ngần ngại diễn tả những bình luận có thể làm chúng ta ngạc nhiên. Như
Thánh Augustinô nói: "Tính cách người mẹ của Đức Trinh Nữ không ích chi
cho Người, nếu Người không cưu mang Chúa Kitô trong tâm lòng hơn là trong cung
dạ."
- Nhờ đức tin của Mẹ, Mẹ Maria có thể không sợ hãi tới gần vực
thẳm chủ định cứu độ khôn dò của Thiên Chúa: Không dễ gì tin rằng Thiên Chúa muốn
"mặc xác phàm và đến ở giữa chúng ta" (Ga 1:14). Người muốn ẩn mình
trong đời sống thường ngày vô nghĩa của chúng ta, và mặc lấy nhân tính yếu hèn
phải chịu nhiều điều kiện mất thể diện. Mẹ Maria đã dám tin dự án "bất khả
hữu = impossible" này. Mẹ tin cậy vào Đấng toàn năng và trở thành người cộng
tác vào sáng kiến lạ lùng của Thiên Chúa đã mở ra niềm hy vọng cho lịch sử
chúng ta.
Người tín hữu cũng được mời gọi vào thái độ đức tin giống như thế.
Đức tin lôi kéo họ can trường nhìn qua bên kia những khả năng và giới hạn những
biến cố hoàn toàn nhân loại.
- Công đồng Vatican II
Sự liên kết giữa Mẹ và Con trong công cuộc Cứu rỗi được tỏ rõ
khi Đức Maria thụ thai Chúa Kitô cách trinh khiết cho đến lúc Chúa Kitô chết.
Thực vậy, trước hết, Đức Maria đã vội vã đến thăm bà Elizabeth, và được bà ấy
chào mừng là người có phúc, vì đã tin vào sự Cứu rỗi Chúa đã hứa, và vị Tiền hô
nhảy mừng trong lòng mẹ.
9. Đến với tha nhân
Vào một buổi chiều hôm đó trong nhà thờ, đầy nghẹt những người
cùi hủi. Đức cha Maigret đứng bên bàn thờ quay xuống hỏi họ:
Các con thân mến, các con hằng mong ước có một linh mục đến ở
cùng và phục vụ các con. Thì đây tôi xin giới thiệu: cha Đamien (Joseph Damien
de Veuster 1840-1889 người Bỉ. Ngài đã đến và sẽ ở lại để chăm sóc, phục vụ và
chia sẻ với các con từ nay cho đến chết. Các con có vui mừng không?
Cả nhà thờ xôn xao, thì thầm to nhỏ. Cha Đamien đứng bên cạnh Đức
giám mục mà chẳng hiểu tí gì! Rồi họ từ từ tiến lên cung thánh, họ đến bên cha,
sờ vào mặt, vào tay và vào áo cha…Cha hỏi Đức giám mục: Họ làm gì vậy? Đức cha
giải thích: Họ nói họ không thể tưởng tượng được một người từ nơi phương xa, chẳng
có bà con huyết thống gì với họ, còn trẻ và lại đẹp trai nữa, không bệnh tật gì
mà tự nguyện đến phục vụ họ trên mảnh đất khốn cùng này. Họ không tin vào mắt
mình nên họ mới xúm lại sờ mó vào người cha xem thử cha có thực sự bị bệnh
phong cùi như họ không? Rồi họ nói với nhau rằng: “Không, cha không bệnh tật gì
và cha đẹp trai quá!"
Vào năm 1873, cha Đamien đã tự tình nguyện ra đảo Molokai, nơi
mà chính quyền Hawaii thời đó “thu gom” những người bất hạnh bị bệnh cùi hủi ra
sống ở đảo nhằm cách ly, tránh sự lây lan cho xã hội. Vì thế họ bị bỏ mặc, sống
lạc loài và cô đơn trên đảo, không nhận được bất cứ một sự chăm sóc nào về thể
xác cũng như tâm linh!
Cha Đamien đã đến và biến đổi một trại cùi hiu quạnh bị cô lập
hoàn toàn với thế giới bên ngoài thành một trung tâm sinh hoạt yên vui như một
gia đình lớn.
Và rồi sau mười sáu năm tận tình phục vụ những anh chị em cùi,
cha đã bị lây bệnh và qua đời vào năm 1889. Vì thế cha được mệnh danh là “Tông
Đồ người cùi."
(Ngài được phong chân phước ngày 04/06/1995 và được phong hiển
thánh ngày 11/10/2009).
Hôm nay Giáo Hội mừng lễ Đức Mẹ đi thăm viếng gia đình bà
Elisabet. Chúng ta thấy theo tường thuật của Phúc Âm, thì ngay sau khi nói lời
“xin vâng” để chương trình cứu thế của Thiên Chúa được bắt đâu thực hiện thì Đức
Mẹ đã “vội vã” lên đường đên thăm gia đình người chị họ.
10. Lễ Đức Mẹ Thăm Viếng--Trầm
Thiên Thu (từ CatholicCulture.org)
Lễ Đức Mẹ Thăm Viếng nhắc nhở chúng ta về các sự thật và sự kiện
này: Cuộc thăm viếng của Đức Mẹ dành cho người chị họ Êlidabet ngay sau khi được
Sứ thần truyền tin; Thánh Gioan Tẩy giả khỏi tội Nguyên tổ khi còn trong lòng mẹ,
lúc Đức Mẹ cất tiếng chào; Elizabeth's proclaiming of Mary – theo linh hứng của
Chúa Thánh Thần – là Mẹ thiên chúa và “được chúc phúc giữa các phụ nữ”; Thánh
ca siêu phàm Magnificat (Linh hồn tôi ngợi khen Chúa) trở thành một phần trong
lời cầu nguyện chính thức của Giáo hội. Sự Thăm Viếng thường được mô tả trong
nghệ thuật và là mầu nhiệm trung tâm trong các sự sùng kính của Thánh Phanxicô
Salê.
LỊCH SỬ
Lễ này kính chào Đức Mẹ đã mang trong lòng chính Vua Trời Đất, Đấng
Tạo Tác thế gian, Con Thiên Chúa, Mặt Trời Công Chính. Đức Maria được diễm phúc
làm “Mẹ Thiên Chúa” và nhận biết hồng ân xuống trên Thai nhi Gioan, Đức Mẹ đã
thốt lên lời ca tụng Thiên Chúa: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi
hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi. Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái
thương nhìn tới; từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc. Đấng Toàn Năng đã
làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn!” (Lc
1:46-49).
Lễ này có nguồn gốc từ Thời Trung Cổ, được Dòng Phanxicô duy trì
từ trước năm 1263, và mau chóng lan truyền khắp Giáo hội hoàn vũ. Trước đây, lễ
này kính vào ngày 2 tháng Bảy. Nay được cử hành vào khoảng giữa lễ Truyền Tin
và lễ Sinh nhật Thánh Gioan Tẩy giả, phù hợp với trình thuật Phúc Âm. Một số
nơi mừng lễ này theo thực tế và thánh hóa các thai nhi. Phụng vụ sử dụng màu Trắng.
Lời Chúa Tuần 7 Thường Niên
Thường niên V-GS C-PS Ngoại Lịch