CÁC BÀI SUY NIỆM CN 5 PHỤC SINH - C
MỤC LỤC
1. Yêu thương
2. Yêu thương anh em
3. Yêu thương như Thầy đã yêu thương
4. Yêu thương nhau - Lm. Giuse Trần Việt Hùng
5. Yêu thương
6. Tôi là môn đệ của ai?
7. Như Thầy đã yêu
8. Giáo Hội chia sẻ tình thương – Cố Lm Hồng Phúc
9. Suy niệm của Lm. GB. Hiếu
10. Yêu như Chúa yêu
11. Vinh quang thập giá
12. Để nhận ra người môn đệ chân chính _ Lm Trần Ngà
13. Yêu thương và giúp đỡ
14. Điều răn mới
15. Yêu người như Chúa _ Tgm Ngô Quang Kiệt
16. Yêu như Thầy yêu.
17. Hãy gieo yêu thương - Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
18. Như Thầy đã yêu – Thiên Phúc
19. Yêu như Thầy đã yêu
20. Giới răn yêu thương – R. Veritas.
21. Giới răn yêu thương
22. Vương quốc tình yêu – Lm. Anmai.
23. Suy niệm của Lm Phaolô Cao Thế Bình
24. Trời mới đất mới – Lm. Jos. Phạm Thanh Liêm
25. Ai yêu thương đều là Kitô hữu
26. Giới luật yêu thương
27. Điều răn mới
28. Yêu thương
29. Yêu như Thầy yêu – Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
30. Tình thương
31. Văn minh tình thương - Lm Phêrô Bùi Quang Tuấn
32. Anh em hãy yêu thương nhau
33. Hãy yêu như chính Thầy - Jos.Vinc. Ngọc Biển
34. Người môn đệ đích thực
35. Đức Giêsu luôn luôn hiện diện
36. Mọi người sẽ nhận biết anh em _ Noel Quesson
37. Youtube thánh vịnh đáp ca Nhóm thánh vịnh Nauy
38. Giới luật yêu thương Lm Carolo Hồ Bạc Xái
39. Luật yêu thương Lm Giuse Đinh lập Liễm
40. Xin hiệp nhất chúng con Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền
41. Mối tình tuyệt vời của Linhda và Pe ter Mark Link S.J.
42. Điều răn mới Giáo Hoàng Học Viện
43. Như Thầy đã yêu thương Fiches Dominicales
44. Điều răn mới nhóm Nha Trang
45. Dấu chứng thực sự Suy Niệm của JKN
46. Giới răn yêu thương Flor McCarthy
47. Ai là gương mẫu của chúng ta Achille Degeest
48. Yêu thương Sợi Chỉ Đỏ
1. Yêu thương
2. Yêu thương anh em
3. Yêu thương như Thầy đã yêu thương
4. Yêu thương nhau - Lm. Giuse Trần Việt Hùng
5. Yêu thương
6. Tôi là môn đệ của ai?
7. Như Thầy đã yêu
8. Giáo Hội chia sẻ tình thương – Cố Lm Hồng Phúc
9. Suy niệm của Lm. GB. Hiếu
10. Yêu như Chúa yêu
11. Vinh quang thập giá
12. Để nhận ra người môn đệ chân chính _ Lm Trần Ngà
13. Yêu thương và giúp đỡ
14. Điều răn mới
15. Yêu người như Chúa _ Tgm Ngô Quang Kiệt
16. Yêu như Thầy yêu.
17. Hãy gieo yêu thương - Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
18. Như Thầy đã yêu – Thiên Phúc
19. Yêu như Thầy đã yêu
20. Giới răn yêu thương – R. Veritas.
21. Giới răn yêu thương
22. Vương quốc tình yêu – Lm. Anmai.
23. Suy niệm của Lm Phaolô Cao Thế Bình
24. Trời mới đất mới – Lm. Jos. Phạm Thanh Liêm
25. Ai yêu thương đều là Kitô hữu
26. Giới luật yêu thương
27. Điều răn mới
28. Yêu thương
29. Yêu như Thầy yêu – Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
30. Tình thương
31. Văn minh tình thương - Lm Phêrô Bùi Quang Tuấn
32. Anh em hãy yêu thương nhau
33. Hãy yêu như chính Thầy - Jos.Vinc. Ngọc Biển
34. Người môn đệ đích thực
35. Đức Giêsu luôn luôn hiện diện
36. Mọi người sẽ nhận biết anh em _ Noel Quesson
37. Youtube thánh vịnh đáp ca Nhóm thánh vịnh Nauy
38. Giới luật yêu thương Lm Carolo Hồ Bạc Xái
39. Luật yêu thương Lm Giuse Đinh lập Liễm
40. Xin hiệp nhất chúng con Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền
41. Mối tình tuyệt vời của Linhda và Pe ter Mark Link S.J.
42. Điều răn mới Giáo Hoàng Học Viện
43. Như Thầy đã yêu thương Fiches Dominicales
44. Điều răn mới nhóm Nha Trang
45. Dấu chứng thực sự Suy Niệm của JKN
46. Giới răn yêu thương Flor McCarthy
47. Ai là gương mẫu của chúng ta Achille Degeest
48. Yêu thương Sợi Chỉ Đỏ
1.
Yêu thương
Nếu kiểm điểm lại đời sống, xét mình về những lời nói, những cử chỉ
và những việc làm đối với những người chung quanh, chúng ta sẽ thấy mình đã sai
lỗi rất nhiều giới luật yêu thương của Chúa. Tôi nghĩ rằng Lời Chúa phán: Ngươi
phải yêu thương anh em như chính mình ngươi, sẽ bao gồm tất cả và chi phối mọi
liên hệ giữa người với người. Nếu chúng ta hiểu thấu đức bác ái và cố gắng thực
hiện, chúng ta sẽ trở nên những người lịch sự, tế nhị và dễ thương.
Yêu thương anh em, nhiều người trong chúng ta cho rằng, lệnh truyền
này có tính cách giáo điều, mang nặng tính chất đạo đức, không còn gây được
những ấn tượng mạnh mẽ. Trong khi đó, cuộc sống thì biến đổi từng ngày và từng
giờ. Người ta chú trọng đến những vẻ hào nhoáng bên ngoài. Những lời nói tuyên
truyền. Tất cả làm thành như một lớp sơn, phết trên thanh gỗ mục. Trong khi đó
tinh thần bác ái, tinh thần yêu thương vẫn cứ bị quên lãng, và không có một chỗ
đứng quan trọng nào trong sinh hoạt thường ngày.
Bên Phi châu, có những bộ lạc, khi gặp nhau người ta chào nhau bằng
câu: Tôi nhìn thấy bạn. Câu nói này đối với chúng ta không mang một ý nghĩa gì
đặc sắc, nhưng nếu suy nghĩ một chút, chúng ta sẽ thấy được cả một quan niệm
sống của dân bản xứ. Tôi nhìn thấy bạn, có nghĩa là tôi không tập trung cái
nhìn ích kỷ trên bản thân tôi, tôi không coi tôi như là cái rốn của vũ trụ,
nhưng tôi nhìn thấy bạn, với tất cả địa vị và giá trị của bạn.
Tôn trọng người khác, có lẽ đó là điều mà hiện nay chúng ta còn thiếu
sót rất nhiều. Người khác không phải là một hòn đảo để cho tôi thám hiểm, cũng
không phải là một trái chanh cho tôi vắt kiệt. Người khác là anh em của tôi, là
hình ảnh của Thiên Chúa. Dù họ có xấu xa và tệ bạc đến đâu chăng nữa thì họ
cũng đã được cứu chuộc bằng Máu Thánh Đức Kitô, thuộc về gia đình Thiên Chúa
cũng như tôi. Trong gia đình này, Thiên Chúa là Cha và chúng ta là anh em với
nhau. Nếu nhìn người khác như thế, chúng ta sẽ trở nên người Kitô hữu trưởng
thành và sống đạo.
Một người ngoại quốc bước xuống xe điện. Ông ta hỏi thăm về địa chỉ
với người mà ông ta gặp đầu tiên. Người ấy đã chỉ vẽ cặn kẽ rồi lại đi theo và
xách hành lý cho ông ta tới tận địa chỉ mà ông ta định đến. Tò mò, ông ta bèn
hỏi người ấy: Tại sao ông lại làm cho tôi như thế, đang khi tôi chỉ là một kẻ
xa lạ. Rất đơn sơ và thành thật, người kia đã trả lời: Vì tôi là người Kitô
hữu.
Là người Kitô hữu, chúng ta hãy yêu thương người khác trong Đức
Kitô và vì Đức Kitô. Hãy yêu thương người khác, vì tất cả đều là anh em, đều có
chung một Cha là Thiên Chúa ở trên trời.
2.
Yêu thương anh em
Thầy truyền cho các con một điều răn mới là các con hãy yêu thương
nhau.
Không phải chỉ có Kitô giáo mới giảng dạy về tình yêu thương. Văn
hoá Á đông đã từng nhấn mạnh: Tứ hải giai huynh đệ, bốn bể đều là anh em. Cha
ông chúng ta thuở trước cũng đã khuyên nhủ: Thương người như thể thương thân,
để nói lên tấm lòng yêu thương rộng mở đối với mọi người trong xã hội. Vậy giới
luật của Chúa có điều chi mới mẻ?
Dựa vào những lời tâm sự cuối cùng của Chúa, chúng ta có thể tìm
thấy được những nét độc đáo của tình thương yêu trong Kitô giáo. Nét độc đáo thứ nhất đó
là hãy yêu thương nhau như Chúa Giêsu đã yêu thương chúng ta. Thực vậy, cái khuôn mẫu
lý tưởng, cái thước được dùng để đo tình yêu thương của chúng ta, không còn là
mối liên hệ máu mủ, cũng không còn là chính bản thân của mình nữa, nhưng là
chính tình yêu của Chúa Giêsu, Đấng đã xuống thế và chịu chết trên thập giá để
cứu chuộc chúng ta như lời Ngài đã nói: Không ai có tình yêu cao quý hơn người
dám hy sinh mạng sống vì bạn hữu. Chỗ khác Ngài cũng bảo: Ta là mục tử tốt
lành. Người mục tử tốt lành thì hy sinh mạng sống cho đoàn chiên. Tình yêu ấy
không bị giới hạn, không bị ngăn cách nhưng được dành cho hết mọi người.
Bên cạnh thập giá Đức Kitô không ai là không có chỗ của mình, kể cả
những kẻ tội lỗi, đĩ điếm và trộm cướp. Ngài không huỷ diệt một khả năng nào để
vươn lên. Đứa con hoang đàng cũng có chỗ trong nhà cha mình. Người trộm cắp
cũng được mời gọi tham dự tiệc cước và người phụ nữ nhẹ dạ cũng có thể hôn chân
Ngài. Ngài đã tỏ cho chúng ta thấy một Thiên Chúa đầy lòng nhân từ và thương
xót đối với mọi người, không trừ một ai. Tình yêu thương vô bờ ấy phải trở nên
mẫu mực để chúng ta noi theo: Hãy yêu thương như như Thầy đã yêu thương các
con.
Nét độc đáo thứ hai đó là tình yêu thương phải trở nên dấu chỉ của
những người thuộc về Chúa. Người ta cứ dấu này mà
nhận biết các con là môn đệ Thầy là các con yêu thương nhau. Thực vậy, Chúa
Giêsu không đòi hỏi các môn đệ của mình phải thông thái như các tiến sĩ luật,
cũng không bắt họ phải sống gò bó nhiệm nhặt như nhóm biệt phái. Điều duy nhất
Ngài đòi hỏi nơi các ông đó là tình yêu thương.
Ngay từ đầu các tín hữu đã thực sự sống tình bác ái yêu thương để
làm chứng cho Đức Kitô phục sinh và trải qua dòng lịch sử của Giáo Hội, các tâm
hồn ở mọi nơi và trong mọi lúc, vẫn nhận ra Thiên Chúa là tình yêu xuyên qua
những chứng từ sống động của những người tin Chúa, được biểu lộ bằng hành động
bác ái yêu thương.
Trong cuộc sống hằng ngày không phải chúng ta không biết rằng
thương yêu là đòi hỏi căn bản nhất của Tin Mừng, thương yêu là giới luật mới
của Chúa Giêsu, thương yêu là dấu chỉ của người môn đệ Chúa. Thế nhưng, từ chỗ
biết đến chỗ sống, từ chỗ hiểu đến chỗ làm luôn luôn có một khoảng cách. Chúng
ta vẫn thích lấy lòng mình làm thước đo tình yêu dành cho người khác. Chúng ta
vẫn muốn giới hạn tình thương ấy trong một phạm vi hạn hẹp nào đó. Chúng ta vẫn
thích tính toán cộng trừ để tình thương không làm chúng ta bị thiệt thòi mà
trái lại còn đem đến những lợi ích riêng tư. Chúng ta vẫn muốn dựa vào màu cờ,
sắc áo hay danh xưng để xác định chúng ta thuộc về Chúa, chúng ta không dám
chứng tỏ bằng những hành đông yêu thương và hy sinh mạng sống của mình. Quan hệ
của chúng ta còn quá vụ lợi.
3.
Yêu thương như Thầy đã yêu thương
(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty)
Bài Tin Mừng hôm nay là lời cáo biệt Đức Giêsu nói cho các môn đệ
thân yêu trước khi Người ra đi chịu chết, đồng thời cũng là những lời trăn trối
thâm tình nhất. Chính trong bối cảnh cụ thể và lịch sử đó mà ‘điều răn mới’ trở
thành đặc biệt quan trọng và sâu sắc.
Không hiểu sao: mãi cho tới bây giờ, tôi vẫn chưa hết dị ứng với
chữ ‘giới răn’ (commandments). Một từ vựng khác là ‘thập điều’ (Decalogue)
xem ra nhẹ nhàng hơn nếu xét theo nguyên ngữ. Đối với người công giáo, cũng
không biết từ bao giờ, từ ngữ ‘giới răn’ đã trở thành phổ biến và quen tai.
“Điều răn’ có nghĩa là: một qui đinh, một điều buộc phải làm hay cấm không được
làm, phát xuất từ một thẩm quyền tối thượng. Đã là điều răn, thì mọi người ai
đều ‘phải’ tuân giữ. Người Việt Nam quen với khái niệm: ‘lời răn bảo’ (nên,
hãy), với nội dung nhẹ nhàng và khích lệ hơn. Tôi thiết nghĩ là con người đương
đại (đặc biệt giới trẻ hôm nay) cũng chuộng nhẹ nhàng khuyên nhủ hơn là răn đe.
Hơn nữa, trong các ‘điều răn’ thì, luật buộc phải yêu thương lại có vẻ bất hợp
lý hơn hết! Tình yêu không thể bó buộc! vì nó dựa trên tự do và nhận thức;
không một ai, kể cả Thiên Chúa, có thể bắt buộc người khác phải yêu mình. Là
chúa tể, Ngài chỉ có quyền bắt mọi tạo vật phải thờ lạy, phải kính sợ mình mà
thôi! Thế thì ta phải hiểu câu nói của Đức Giêsu thế nào đây: “Thầy ban cho anh em một
điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau”.
Trước hết hãy nhớ rằng: các thính giả của Đức Giêsu trong cái giờ
phút biệt ly đó là các môn đệ; mà các ông đều là những người Do Thái gốc (xem
Ga 1:47). Các Pha-ri-sêu vẫn thường nói tới ‘điều răn’ (xem Mt 22:34-40), vậy
thì việc Đức Giêsu đề cập tới một ‘điều răn mới’ là hoàn toàn hữu hiệu để lôi
cuốn đám thính giả Do Thái lắng nghe Người. Chắc hẳn các môn đệ đã khá quen
thuộc với các đoạn chương 20, câu 2-17 trong sách Xuất Hành, hoặc chương 5 câu
6-21 sách Đệ Nhị Luật. Các đoạn văn này đều đặt ‘10 giới răn ’ dựa trên thẩm
quyền tối thượng của Đức Chúa Gia-vê, Đấng đã giải thoát dân khỏi ách nô lệ bên
Ai-Cập và dẫn đưa họ vào đất hứa. Mười điều răn hay thập giới có thể được coi
như các điều khoản của giao ước dân Do Thái ký kết với Gia-vê, Đấng giải phóng
họ. Tự nó, thập giới là những qui luật rất nhân bản và hợp lý, kể cả ba khoản
đầu trực tiếp liên quan tới Đức Chúa, tuy nhiên ta không thể khảng định thập
giới đích thực là luật yêu thương! Đúng hơn, đó là luật công bằng, luật sòng phẳng,
luật ràng buộc do cam kết của một khế ước giữa hai bên ký kết với nhau. Ngay cả
‘yêu tha nhân như yêu chính mình’ cũng chỉ xuất phát từ đòi hỏi công bằng của
Cựu ước: “Tất cả Luật Mô-sê và các sách ngôn sứ đều tùy
thuộc vào hai điều răn ấy” (Mt 22:40); chính Đức Giêsu đã khảng định như
vậy.
Trong bối cảnh đó thì “anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã
yêu thương anh em” mới là ‘điều răn’ hoàn toàn mới mẻ, vì nó
vượt xa những đòi hỏi công bằng sòng phẳng của một giao kèo xã hội. Nền tảng và
nguyên lý của ‘hãy yêu thương này’ chính là con người Đức Giêsu Ki-tô, Đấng đã
hiến mình chịu chết trên thập giá… để thực hiện cuộc giải phóng và lập một
vương quốc thứ tha. Đó chính là ‘điều răn’ căn bản của giao ước mới, nói theo
lối diễn tả của của người Do Thái. Nó phát xuất từ sự khám phá ra, hay nhận
thức được: sự trung thành tuyệt đối của một Thiên Chúa cứu độ, nhân ái và giầu
lòng xót thương, để rồi tự đáy lòng mỗi người nẩy sinh và phát triển một tình
yêu đáp trả quảng đại. Chính vì điều này mà, và trong tâm tình sâu đậm nhất của
cuộc tiễn biệt, Đức Giêsu mới chính thức công bố ‘điều răn’ này! Sắp tới đây,
các môn đệ sẽ tận mắt chứng kiến tình yêu này bắt đầu trở thành hiện thực: các
ông sẽ được chứng kiến một Thiên Chúa yêu đến cùng, yêu tới độ “sai Con của
Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta” trên Thập Giá (1 Ga
4:10).
Nếu thế thì đây không còn phải là một ‘điều răn’ chính hiệu nữa, có nghĩa
là không phải là một điều gì áp đặt từ bên ngoài. Tình yêu mời gọi tình yêu!
Những ai đã chứng kiến tình yêu Thập Giá, đã cảm nghiệm thấy “tình yêu đó là như thế
này…” (1 Ga 4:8-11) thì việc ‘buộc’ hay ‘phải’ yêu
thương anh em mình chỉ còn là một cách nói. Thực ra chẳng có buộc gì cả: nếu
anh biết Thiên Chúa trong Đức Giêsu Ki-tô hiến mình trên thập giá cho anh và biết
cách thâm sâu, thì việc yêu người anh em lỗi phạm sẽ là một đòi hỏi nội tại,
một công việc của cõi lòng. Ngược lại, nếu anh thấy mình chưa thể yêu thương
người anh em, thì đơn giản là vì anh chưa thật sự thấu hiểu Thập Giá, nơi Thiên
Chúa đã yêu và hiến mình cho anh bất chấp con người anh đầy tội lỗi. Gioan đã
muốn diễn tả như thế trong các chương 4 và 5 của lá thư thứ nhất: hoặc biết về
tình yêu xót thương của Thiên Chúa hoặc không thể yêu tha nhân: vì nếu thấu
hiểu được lòng Chúa nhân ái xót thương, thì chúng ta ‘phải’, như một định luật
hoàn toàn lô-gích hay đúng hơn một chuyển động tất nhiên của cõi lòng, yêu mọi
người anh em của mình thôi, cho dầu họ có bất toàn tới mấy. Yêu thương tha thứ
cho kẻ thù nghịch sẽ mãi mãi là điều không thể, là một nghịch lý của niềm tin,
bao lâu Thập Giá chưa được chúng ta giương cao trong đời sống.
Do đó, nếu tôi chưa thấy mình có thể yêu mến hoặc tha thức cho cận
nhân, thì tôi biết đâu là nguyên nhân rồi đó!
Lạy Chúa từ nhân, nếu con chưa thể yêu các anh em con, thì đơn giản
là vì con chưa hiểu thấu và cảm nghiệm được: ‘Chúa yêu thương và hiến mình vì
con’ tới mức độ nào. Xin cho con biết chiêm ngắm Thập Giá, nhất là khi cử hành
Thánh Lễ, để con ngày càng vào sâu hơn trong tình yêu xót thương của Chúa. Chỉ
qua cách đó, phải, qua cách duy nhất đó, con mới có thể trở nên một Linh Mục
đích thực, biết yêu mến và tự hiến cho đoàn chiên và các anh em con ‘như Chúa
đã yêu thương’. Xin hãy giúp con đạt được điều này trong công tác mục vụ hàng
ngày của con. Amen.
4.
Yêu thương nhau - Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Truyện kể: Một vị giám mục kiểm tra khả năng của một nhóm ứng viên
xin lãnh nhận Bí tích Thánh Tẩy. Ngài hỏi: Bằng dấu chỉ nào các người khác nhận
ra các con là người Công giáo? Không có tiếng trả lời. Rõ ràng, không có ai ngờ
một câu hỏi như thế. Vị giám mục lặp lại câu hỏi. Và ngài lặp lại thêm một lần
nữa, lần này ngài làm dấu Thánh giá có ý nhắc nhớ cho các người dự tòng một câu
trả lời chính xác. Bất chợt một ứng viên trả lời: Đó là tình yêu. Vị giám mục
rất ngạc nhiên! Khi sắp mở miệng nói “sai”, ngài bỗng kịp thời ngậm miệng lại.
Thánh giá biểu lộ tình yêu. Dấu chỉ của tình yêu là Thánh giá. Đạo Công giáo là
đạo của bác ái yêu thương.
Yêu thương nhau như Thầy yêu. Thiên Chúa là Tình Yêu. Thiên Chúa đã sai chính
Con Một yêu dấu xuống thế để cứu độ nhân loại. Chúa Giêsu đã bày tỏ tình yêu
Thiên Chúa một cách cụ thể trong đời sống. Tình yêu của Chúa trải rộng trong
mọi khía cạnh của cuộc sống con người. Ngài đã dùng mọi cách gần gũi nhất để tỏ
lòng yêu thương. Chúa sinh ra nơi máng cỏ nghèo hèn, chịu chung số phận với
những người kiều cư khách lạ, sinh sống nơi làng quê nghèo và hoạt động cách
bình dị âm thầm. Chúa Giêsu hoà chung những sinh hoạt hằng ngày với mọi người,
đến nỗi người đồng hương chẳng nhận ra Chúa là ai. Họ nghĩ Chúa chỉ là con bác
thợ mộc Giuse và mẹ là bà Maria. Thiên Chúa ẩn mình một cách thật khiêm hạ.
Chúa Giêsu đã kiên nhẫn đợi chờ trong thời gian và không gian để
thi hành sứ mệnh. Ngài đã hoàn tất mọi lời tiên tri loan báo về Ngài. Chúa đã
chịu mọi khổ nhục và chịu chết treo trên cây Thánh giá. Chúa đã sống lại. Mọi
uy quyền trên trời dưới đất được trao ban trong tay Ngài. Mọi tư tưởng, lời
nói, hành động của Chúa Giêsu là lời nói hành động của Thiên Chúa làm Người.
Lời của Ngài là Tin Mừng cứu độ. Trước khi rời khỏi thế gian, Chúa Giêsu đã ưu
ái ban truyền cho các Tông đồ: "Thầy ban cho anh em một điều răn mới là
anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương
anh em" (Ga 13,34). Yêu thương nhau như Thầy yêu chúng con. Một điều răn
căn cốt tóm gọm lời dạy của Chúa.
Chúa yêu thương trong mọi cử chỉ, ngôn ngữ và hành động. Những cử
chỉ thân thương đối với người nghèo, kẻ bệnh tật, người phung cùi, khuyết tật,
kẻ câm điếc, đui mù, quỷ ám và người đau khổ. Những bài giảng nói về đức yêu
thương, yêu Chúa yêu người. Yêu thương anh chị em và yêu cả kẻ thù. Lời giảng
của Chúa được cụ thể hoá qua các hành động Chúa đã thực hiện. Chúa đã tỏ lòng
xót thương người tội lỗi lầm lạc và tha thứ cho những kẻ đã chống đối, nhạo
cười và phản bội giết Chúa. Chúa đã chấp nhận mọi xỉ vả nhục nhã chỉ vì yêu.
Kìa người ta khạc nhổ vào mặt Chúa. Chúng ta có thể chấp nhận một hành động bị
khinh bỉ như thế không? Có khi nào chúng ta bị người ta khạc nhổ vào mặt chưa?
Thật gớm!
Chúa Giêsu đã hiến dâng tất cả chỉ vì yêu. Chúa yêu chúng ta vô
điều kiện. Chúa yêu chúng ta trước. Chúa mời gọi chúng ta học theo Chúa. Chỉ
qua tình yêu, mọi người nhận biết chúng ta là Kitô hữu: "Mọi người sẽ nhận
biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương
nhau" (Ga 13,35). Chúng ta hãy tập sống yêu thương từ trong nôi ấm của gia
đình trước. Khi hạt giống tình yêu nẩy mầm trong tâm, hoa trái tình yêu sẽ tỏa
lan hương thơm ra những người chung quanh. Tất cả hoa trái yêu thương của ngày
mai đều ẩn tàng trong những hạt giống tốt được gieo ngày hôm nay. Khi gieo
trồng tình yêu thì sớm muộn gì cũng sẽ trổ sinh hoa trái yêu thương. Trong cuộc
sống giao tế hằng ngày với tha nhân, chúng ta sẽ hái những gì chúng ta đã gieo.
Như một đóa hoa tươi đẹp dần bị héo úa nhưng luôn để lại những hạt giống tốt
trên mặt đất.
Nếu trái tim bị khô cằn và đóng khung, chúng ta khó có thể mở cửa
đón nhận và cho đi tình yêu. Hạt giống tình yêu phải được vun tưới, chăm bón và
tạo cơ hội để triển nở. Khi tình yêu được hòa trộn trong việc làm thì tình yêu
sẽ thăng hoa. Và chính chúng ta là người đầu tiên được hưởng nếm hạnh phúc của
tình yêu. Chúng ta biết rằng hạnh phúc nhất của cuộc sống này là tin chắc rằng
chúng ta đang được yêu thương. Chúa yêu, cha mẹ yêu, vợ chồng yêu, con cái yêu,
anh chị em và bằng hữu yêu. Chúng ta vui hưởng hạnh phúc ngay trên đường đi,
chứ không phải tìm hạnh phúc ở cuối đường. Thực hành giới răn yêu thương là cốt
lõi đưa dẫn chúng ta đến tình yêu và hạnh phúc thật.
Các Tông đồ với trái tim yêu thương đầy nhiệt huyết đã bước vào
đời. Các ngài rao truyền tình yêu thập giá và tình yêu hiến dâng của Chúa Kitô.
Các ngài gắn bó mật thiết với Chúa và với nhau để củng cố niềm tin yêu. Sách
Tông đồ Công vụ tiếp tục ghi lại sứ vụ của các Tông đồ: Hai ông củng cố tinh thần
các môn đệ, và khuyên nhủ họ giữ vững đức tin. Hai ông nói: "Chúng ta phải
chịu nhiều gian khổ mới được vào Nước Thiên Chúa" (Cv 14,22). Để được
chung hưởng hạnh phúc, chúng ta phải trải qua nhiều gian nan thử thách. Thánh
giá là biểu tượng của tình yêu và thánh giá cũng là biểu tượng của sự hy sinh.
Tình yêu không có hy sinh là tình yêu giả dối. Hy sinh mà không có tình yêu là
hy sinh thừa thãi. Tình yêu và hy sinh như đồng tiền hai mặt luôn gắn kết với
nhau trọn vẹn.
Bước đầu, cơ cấu tổ chức đời sống của các Kitô hữu đã được hình
thành nơi các cộng đoàn. Là một tổ chức tâm linh, các Tông đồ nêu gương ăn chay
cầu nguyện và phó thác niềm tin vào Chúa Phục Sinh. Cậy trông vào ơn thiêng để
kiên trì sống đạo, giữ đạo và hành đạo. "Trong mỗi Hội Thánh, hai ông chỉ
định cho họ những kỳ mục và sau khi ăn chay cầu nguyện, hai ông phó thác những
người đó cho Chúa, Đấng họ đã tin" (Cv 14,23). Các thành viên của các cộng
đồng nhỏ đã liên kết với nhau trong yêu thương và chia sẻ đời sống bác ái nâng
đỡ và phụ giúp nhau sống niềm tin. Giáo Hội của Chúa đã hình thành qua dấu chỉ
của sự yêu thương.
Cuộc lữ hành của Giáo Hội trần thế sẽ dẫn dắt mọi người đến Nước
Trời, thành thánh Giêrusalem mới. Thánh Gioan khai mở hình ảnh về sự viên mãn:
"Bấy giờ tôi thấy trời mới đất mới, vì trời cũ đất cũ đã biến mất, và biển
cũng không còn nữa" (Kh 21,1). Vũ trụ này sẽ qua đi. Chúng ta hiện hữu
trong thời gian và không gian. Chúng ta khó có thể tưởng tượng sự thay đổi một
trời mới và đất mới thế nào. Kinh nghiệm trong cuộc sống cho chúng ta biết, mọi
sự trong vũ trụ đều đang thay đổi. Sự thay đổi rất tiệm tiến về sinh thái. Hằng
năm, chúng ta chứng kiến biết bao nhiêu sự thay đổi ngay trước mắt. Chính chúng
ta cũng đang thay đổi cả nội tâm đến ngoại hình. Sự thay đổi làm cho chúng ta
nhận biết rằng cuộc sống là vô thường. Chúng ta đừng bám víu vào những giá trị
mau qua chóng hết nhưng hướng đến một kết cục hằng hữu đời đời. Đó là Thiên
Chúa của tình yêu.
Thiên Chúa bao dung và nhân ái. Thiên Chúa chậm bất bình và đầy ân
sủng. Chúng ta đặt niềm tin yêu vào Thiên Chúa, Ngài sẽ giải thoát chúng ta:
"Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ. Sẽ không còn sự chết; cũng chẳng còn
tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, vì những điều cũ đã biến mất" (Kh
21,4). Đây là niềm hy vọng tuyết đối cho những ai đặt niềm tin nơi Chúa. Hạnh
phúc tuyệt vời là chúng ta đang được Thiên Chúa yêu thương. Sống từng giây hạnh
phúc, cuộc đời chúng ta sẽ no hưởng hạnh phúc. Khi yêu thương thật lòng, chúng
ta sẽ cảm nghiệm được hạnh phúc ngay trong tầm tay.
Lạy Chúa, Chúa là suối nguồn tình yêu, xin tràn đổ tình yêu trong
tâm hồn để chúng con được no thỏa. Xin cho chúng con biết đón nhận và cho đi
tình yêu như dòng suối mãi tuôn chảy.
5.
Yêu thương
Từ ngàn xưa và cho đến ngày hôm nay, tình yêu vốn là một đề tài được
khai thác nhiều nhất. Nào sách báo và phim ảnh; nào âm nhạc và tuồng kịch; nào
truyền thanh và truyền hình…tất cả đều nói đến tình yêu. Tuy nhiên, nhiều khi
tình yêu lại được nhìn từ một góc cạnh lệch lạc và què quặt, khiến cho tình yêu
ngày hôm nay như đang đi trên bờ một vực thẳm với những sa đoạ trong nếp sống,
những suy đồi trong luân lý và những đổ vỡ trong hôn nhân.
Thế nhưng, Chúa Giêsu đã đến và Ngài đã xác định cho chúng ta một
lập trường rõ rệt, Ngài đòi hỏi nơi chúng ta một tình yêu chân thành dành cho Ngài cũng như dành cho
tha nhân: Các con phải kính mến Thiên Chúa hết lòng và yêu
thương anh em như chính mình.
Nhìn vào xã hội, chúng ta thấy: mặc dù tình yêu đang bị thui chột
và tàn úa đi rất nhiều, nhưng không phải là không còn những tình yêu chân thành
vá tốt đẹp. Tình yêu không chết, nhưng nó phát triển một cách âm thầm, không ồn
ào, không rùm beng quảng cáo.
Đúng thế, ngày hôm nay vẫn còn có những người vì yêu thương mà hết
năm này qua năm khác, hy sinh cả cuộc đời để chăm sóc cho những kẻ ốm đau. Ngày
hôm nay vẫn còn có những người dâng hiến bản thân để làm sáng danh Chúa và cứu
rỗi các linh hồn.
Ngày hôm nay vẫn còn có những ông chồng, mặc dù đời sống kinh tế
gặp nhiều khó khăn, vẫn trung thành với người vợ bệnh tật và vẫn luôn chịu khó
làm lụng để chăm sóc cho đàn con thơ dại. Ngày hôm nay vẫn còn những người vợ
ân cần lo lắng cho chồng, cho con, mặc dù người chồng thì độc ác và con cái thì
ngang bướng ngỗ nghịch.
Vậy đâu là suối nguồn mang lại sức mạnh nâng đỡ cho những tình yêu
yêu cao đẹp ấy? Câu trả lời duy nhất, đó là sức mạnh và vẻ cao đẹp của tình yêu
chỉ có thể xuất phát từ nơi Thiên Chúa, từ nơi Đức Kitô mà thôi.
Đúng thế, tình yêu cũng có cái gia phả, cũng có cái gốc gác và cội
nguồn của nó. Nó xuất từ nơi Thiên Chúa, bởi vì Ngài là nguồn mạch mọi thương
yêu, như lời thánh Gioan Tông Đồ đã xác quyết: Thiên Chúa là tình yêu. Rồi từ
đó, vũ trụ vạn vật và nhất là con người đều là những dấu chỉ, những biểu hiện
của một tình yêu bao la mà Ngài đã thực hiện mà thôi.
Hơn thế nữa, mặc dù biết trước con người sẽ phản bội, quay lưng
chống lại Ngài, thế mà Ngài vẫn yêu thương và đi bước trước đến với chúng ta
qua mầu nhiệm cứu độ và thập giá, như lời thánh Gioan Tông đồ cũng đã xác
quyết: Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta ngay khi chúng ta còn là tội nhân.
Ngài đã yêu thương nhân loại đến nỗi đã trao ban chính Con Một Ngài, để những
ai tin vào danh Con Một Ngài thì sẽ được sống. Chính vì thế, Ngài có quyền đòi
hỏi nơi chúng ta một tình yêu thương chân thành, bởi vì tình yêu chỉ có thể
được đáp trả bằng tình yêu mà thôi.
Đồng thời Đức Kitô cũng đã yêu thương chúng ta bằng một tình yêu
tuyệt vời nhất: Không ai yêu hơn người hiến mạng sống mình vì bạn hữu. Đúng
thế, Ngài đã đổ máu ra để cứu chuộc chúng ta, nhờ đó chúng ta được xoá bỏ bản
án của tội nguyên tổ, lấy lại địa vị làm con cái Chúa. Kể từ nay, chúng ta là
anh em một nhà vì có chung cùng một người cha là Thiên Chúa. Chính vì thế, Ngài
đã truyền dạy: Phải kính mến Thiên Chúa hết lòng và yêu thương anh em như chính
mình. Đồng thời, nhờ tình bác ái yêu thương đối với anh em, mà chúng ta trở nên
người môn đệ đích thực của Chúa: Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là
môn đệ Thầy, là các con yêu thương nhau.
Như vậy, tình yêu đối với Thiên Chúa và tình yêu đối với tha nhân
chỉ là hai phương diện của một giới luật duy nhất, đó là giới luật yêu thương.
Thiên Chúa đang chờ đợi chúng ta nơi những người anh em. Ngài hẹn gặp chúng ta
nơi những kẻ bất hạnh và khổ đau, như lời Ngài đã phán: Tất cả những gì các con
làm cho một trong số những kẻ bé mọn nhất, là các con đã làm cho chính Ta vậy.
Thế nhưng, liệu chúng ta có thực sự tìm gặp Chúa nơi những người anh em của
mình hay không?
6.
Tôi là môn đệ của ai?
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Thành Long)
Kết thúc đoạn Tin Mừng của Chúa Nhật V Phục Sinh hôm nay, Chúa
Giêsu đã “bỏ nhỏ” với các môn đệ yêu dấu của mình một câu rất ngắn gọn: “Người
ta cứ dấu này mà nhận biết anh em là môn đệ của Thầy, là anh em yêu thương
nhau”.
“Môn đệ của Thầy” là gì? “Môn” tức là cửa (“cửa” ở đây được hiểu là
cửa trường); “đệ” là em. Như thế, “môn đệ” nghĩa là người học trò được coi như
em. Môn đệ của Thầy Giêsu nghĩa là người được học dưới mái trường Giêsu và được
Chúa Giêsu coi như là em của Ngài. Được làm em của Chúa Giêsu cũng có nghĩa là
được làm con của Chúa Cha trên trời, được đồng thừa tự với Đức Kitô. Đây quả là
một niềm vinh dự lớn lao. Vinh dự quá đi vì một thụ tạo thấp hèn lại được làm
người học trò của Giêsu Vị Thầy Chí Thánh, và hơn thế còn được Ngài coi như
người anh em của Ngài nữa!
Ở đời, nếu được thụ huấn với một giáo sư, tiến sĩ nào đó danh tiếng
lẫy lừng, có lẽ ta sẽ tự hào lắm lắm, và nếu được làm anh em kết nghĩa với một
nhân vật nào đó có quyền cao chức trọng nữa, ta lại càng tự hào và càng hãnh
diện nhiều hơn. Vậy lẽ nào ta lại không hãnh diện, không tự hào khi được làm
người môn đệ của Đức Giêsu Kitô, tức là được làm người học trò và làm người em
của Ngài.
Đâu là “dấu” để người ta nhận ra mình là môn đệ của Đức Giêsu? Chắc
chắn không phải là bộ đồng phục ta mặc trên người, không phải là chiếc khăn ta
quàng trên cổ, cũng không phải là cái huy hiệu ta đeo trên ngực… mà đó chính là
tình yêu thương ta có đối với anh em đồng loại: “Người ta cứ dấu này mà nhận
biết anh em là môn đệ của Thầy, là anh em yêu thương nhau”. Có điều, yêu thương
thì ai lại không biết; tất cả các nhà hiền triết đều mời gọi đệ tử mình sống
yêu thương. Vậy yêu thương mà Chúa Giêsu mời gọi ở đây là yêu thương như thế
nào?
Thưa là yêu thương “như” Chúa đã yêu thương. Đây là nét mới trong
lời gọi mời yêu thương. “Mới” vì yêu thương ở đây không phải là yêu thương
chung chung, nhưng là “yêu như Chúa đã yêu”! Cũng phải thôi, “làm môn đệ” của
ai thì phải nỗ lực để trở nên giống người đó. Mà nét đặc trưng nơi Thầy Giêsu
Chí Thánh không gì khác là tình yêu thương. Chính vì thế trở nên giống Thầy
mình cũng có nghĩa là yêu thương như Thầy mình đã yêu.
Ở đây, Chúa Giêsu không còn lấy bất cứ thứ gì khác để làm điểm quy
chiếu cho tình yêu, mà là lấy chính tình yêu của Ngài: “Yêu như Thầy”. Sách Đệ
Nhị Luật dạy rằng hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù. Tin Mừng Thánh Mathêu
đi xa hơn một chút, khi trích lại lời sách Lêvi: “Đừng thù oán ai, nhưng hãy
yêu mọi người như yêu chính mình” (Mt 22,39). “Như yêu chính mình” nghĩa là lấy
bản thân mình làm điểm quy chiếu cho tình yêu đối với tha nhân. Tuy nhiên, kinh
nghiệm cho thấy, một tình yêu ngoài Chúa, một tình yêu không lấy Chúa làm trọng
tâm, thì dù có tốt, dù có lấy bản thân làm quy chiếu, vẫn không hoàn hảo được.
Chỉ khi biết yêu như Chúa yêu thì tình yêu mới đạt tới mức trọn hảo. Vậy thì
“yêu như Chúa yêu” nghĩa là gì?
“Yêu như Chúa yêu” nghĩa là chấp nhận cúi xuống rửa chân cho anh
em, cho dù người ấy là Giuđa, kẻ phản bội tình yêu. “Yêu như Chúa yêu” nghĩa là
tự nguyện hạ mình xuống ngang hàng với người mình yêu để cảm thông, chia sẻ và
trao ban như “bạn hữu thân tình”. “Yêu như Chúa yêu” nghĩa là sẵn sàng “yêu cho
đến cùng”, “yêu cho đến chết và chết trên Thập Giá”.
Yêu như thế quả là không dễ chút nào. Yêu người “như yêu chính
mình” đã khó. “Yêu như Chúa yêu” còn khó gấp bội. Nó như một thách thức lớn đối
với bản tính nhân loại bất toàn của ta. Yêu thương những kẻ yêu thương ta thì
không nói làm gì, dễ quá! “Yêu như Chúa yêu” ở đây còn bao hàm cả việc yêu
thương ngay những kẻ thù của ta. Tức là phải cầu nguyện, phải chúc phúc, phải
làm ơn cho họ nữa.
Rõ ràng, đây không phải là điều dễ, nếu không muốn nói là rất khó.
Nhưng khó không có nghĩa là không thể thực hiện được. Nhiều anh chị em của
chúng ta đã thực hiện được điều khó ấy một cách anh dũng, thực hiện đến nơi đến
chốn, nhờ được thấm nhuần lời Chúa dạy. Và họ đã và đang là những môn đệ chân
chính, môn đệ đích thực của Chúa Kitô.
Tôi đang làm môn đệ của ai? Câu trả lời tuỳ thuộc vào
việc ta đang sống yêu thương hay chối từ sống yêu thương.
Nếu tôi từ chối sống yêu thương cũng có nghĩa là tôi đang từ chối
làm môn đệ của Đức Kitô. Và một khi không còn làm môn đệ của Đức Kitô nữa, rất
có thể tôi sẽ tự nguyện đầu quân làm môn đệ cho những thứ “thần” khác.
Tôi có thể là môn đệ của “Al Kaeda”, khi tôi thường xuyên “khủng
bố” anh chị em mình. Khủng bố không phải bằng việc đánh bom tự sát, hay bằng
các thứ vũ khí này kia, nhưng có thể khủng bố bằng những ánh mắt “mang hình thù
viên đạn”; khủng bố bằng những lời nói chua cay gắt gỏng, cộc cằn thô lỗ; hoặc
khủng bố bằng những thái độ coi thường khinh khi người khác.
Tôi có thể là môn đệ của thần tài, thần Mamon khi tôi coi trọng của
cải vật chất hơn anh em và sẵn sàng ăn thua đủ với anh em khi mình bị thiệt
thòi mất mát đôi chút. Có người chỉ vì một mét đất mà đưa anh em ra toà, có
người chỉ vì một con gà con vịt mà vác dao vác rựa tới nhà anh em láng giềng
của mình để thanh toán. Có người chỉ vì một khoản nợ chưa kịp trả đã thuê giang
hồ, thuê xã hội đen tới trấn áp và siết hết đồ đạc trong nhà người khác.
Tôi có thể là môn đệ của “thần lưu linh”, khi sáng xỉn chiều say;
bày đủ cớ để uống, để nhậu; uống mọi nơi, nhậu mọi lúc. Mỗi khi uống vào là lời
ra, uống vào là gây sự. Gây sự với bà con lối xóm, gây sự với vợ con, với anh
chị em trong gia đình; thậm chí còn đập phá đồ đạc, rồi đánh vợ đánh con, khiến
cho gia đình lúc nào cũng lục đục, căng thẳng và ngột ngạt như một hoả lò.
Tôi có thể là môn đệ của “thần đỏ đen”, khi sẵn sàng sát phạt anh
chị em và vô tâm làm cho anh chị em mình đau khổ, gia đình xào xáo, thậm chí là
ly tán. Hết số đề lại đến cá độ, hết cá độ lại sang bài cào hay tiến lên… Đồ
đạc trong nhà cứ thế mà đội nón ra đi không một lời giã biệt; vợ con, cha mẹ
người thân vì thế mà cũng tê dại cả nhà.
Tôi cũng có thể là môn đệ của của “thần sắc dục”, khi tôi bất trung
phản bội với người bạn đời của mình - vợ con, chồng con lăng nhăng, để rồi tự
huỷ hoại thanh danh của mình và gia đình mình,…
Tắt một lời, khi không còn là môn đệ của Đức Kitô nữa mà là môn đệ
của các thứ “tà thần” trên thì hậu quả tất yếu sẽ là bất hạnh và đau khổ triền
miên.
Chớ gì Lời Chúa hôm nay giúp mỗi người chúng ta luôn biết ý thức
rằng được làm môn đệ của Chúa Kitô là một niềm vinh dự và niềm hạnh phúc lớn
lao; nhưng đồng thời cũng là một bổn phận nặng nề, bổn phận phải sống yêu
thương, yêu thương anh em nhiều hơn. Tất nhiên, khi yêu thương anh em nhiều hơn
thì cuộc sống này sẽ phảng phất hương hoa thiên đàng nhiều hơn. Amen.
7.
Như Thầy đã yêu
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
Wiliam Oscar Wilde đã viết về một huyền thoại tình yêu: "Hoạ
mi và bông hồng đỏ".
Một sớm mùa hè, con hoạ mi làm tổ trên cành dương đã nghe trọn lời
than thở của một chàng trai bên cửa sổ:"Nếu anh không kiếm nổi bông hồng
đỏ để em cài ngực áo trong buổi dạ hội đêm nay, em sẽ xa anh mãi mãi". Hoạ
mi dư hiểu chàng trai đã lang thang khắp các nương đồng. Nhưng tìm đâu một bông
hồng màu đỏ dưới nắng cháy mùa hạ này? Trời ơi, người tình sẽ chắp cánh bay xa
mất thôi. Hoạ mi không chịu nổi dằn vặt bi thương của chàng. Hoạ mi phải ra tay
giúp đỡ.Hoạ mi khép cánh trước cây hoa hồng bên giếng nước nài xin:
- Chị hồng ơi, chị có vui lòng tặng em một bông hồng đỏ thắm không?
- Hoạ mi ơi! em vô tâm như những chiếc gai trên thân chị. Mùa hạ
nắng cháy sao em lại xin hoa hồng đỏ?
Chị hồng rung rung cành lá giận dỗi. Hoạ mi tiếp tục tìm kiếm. Nàng
nép mình đậu trên một cành hồng ngoài xa hàng dậu.
- Chị hồng ơi, có phép mầu nào làm nở cho em một bông hồng đỏ
chăng?
- Hoạ mi ơi, đời cần hoa chi cho thương đau?
- Sao cũng được, miễn em kết chặt một mối tình
- Được, những phép mầu cần phải có máu đỏ.
- Bằng mọi giá chị ạ.
- Bằng giá sinh mạng?
- Kể cả sinh mạng em.
- Hoạ mi ơi! Hãy đặt cổ em trên gai nhọn của chị, hãy hót cho chị,
cho cây cỏ, cho đất trời khúc tình ca thắm thiết nhất đời em. Hãy đổ máu đỏ cho
bông hồng nở. Hãy nhuộm máu cho bông hồng đỏ. Mình sẽ có một bông hồng đỏ như
máu đẹp nhất trần gian.
Hoạ mi đã hót say mê đến giây phút cuối cuộc đời, đã đổ đến giọt
máu cuối cùng, đã chết rũ trên cành hồng bên cạnh đoá hồng bí nhiệm đỏ thắm nở
tươi.
Chàng trai mừng vui tiếng cười mở hội. Bông hồng được hái về trau
chuốt trước khi có mặt trong dạ hội. Điều lạ lùng nhất và cũng phi lý nhất, phi
lý như chính cuộc đời phi lý, là người tình đã khước từ đoá hồng bí nhiệm, vì
trên ngực áo cô gái một bông hồng giả đang ngự trị... Sáng hôm sau, dân làng
bắt gặp một đoá hồng bị nghiền nát, nằm tả tơi dưới vết bánh xe bò.
Hoạ mi yêu người, đã lấy máu và sinh mạng đổi lấy bông hồng. Người
thiếu nữ nhận bông hồng giả để chối từ một tình yêu chân thật.
Câu chuyện là một huyền thoại, chuyên chở một nội dung rất thực: Đó
là nét thực của tình yêu, của tự do, của hy sinh. Tình yêu phải được nuôi dưỡng
bằng hy sinh, bằng máu, bằng cả sinh mạng. Tình yêu chân thật phải được trả
bằng một giá rất đắt. Chúa Giêsu đã trả giá cho tình yêu chân thật bằng cái
chết trên thập giá.
Hoạ mi đã cất tiếng hót bi thương trước khi chết vì muốn hiến tặng
đoá hồng tươi thắm nở. Chúa Giêsu trước khi chịu khổ nạn,chịu chết đã để lại
cho các môn đệ những lời tâm huyết rất chân thật và cũng là những chỉ thị cuối
cùng của Ngài."Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh
em". Chỉ thị này bao hàm mọi chỉ thị khác.
Chữ "như" ở đây thật quan trọng. Chúa Giêsu đã so sánh:
như Cha đã yêu mến Thầy, Thầy cũng yêu mến anh em, anh em hãy yêu mến nhau như
Thầy đã yêu mến anh em.
Như Cha đã yêu mến Thầy. Chúa Giêsu đã nhiều lần nói về tình yêu
của Chúa Cha dành cho Ngài ( x.Ga 3,35;5,20;17,24). Chúa Cha cũng nhiều lần xác
nhận điều này(x Mt 3,17;17,5). Tình yêu của Chúa Cha đối với Chúa Con là tình
yêu chia sẽ và trao ban.Tình yêu của Chúa Con đối với Chúa Cha là tình yêu tôn
kính và vâng phục. Chúa Con yêu các môn đệ như tình yêu Chúa Cha đối với Ngài.
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II viết trong thông điệp "Sự Rạng
Ngời Chân Lý": Chữ như này đòi hỏi phải bắt chước Chúa Giêsu, nơi tình yêu
của Người mà việc rửa chân cho các môn đệ là một dấu chỉ cụ thể. Chữ như cũng
chỉ mức độ mà Chúa Giêsu đã yêu thương các môn đệ và các môn đệ cũng phải yêu
thương nhau bằng mức độ ấy" (số 20).
Yêu "như Thầy đã yêu" là yêu như thế nào?
Thầy chấp nhận cái chết thập hình để chuộc tội nhân loại:
"Không có tình thương nào cao hơn tình yêu của người đã hy sinh tính mạng
vì bạn hữu mình".
"Thầy không coi anh em là tôi tớ, nhưng Thầy coi anh em là bạn
hữu của Thầy". Ngài là Thầy, là Chúa.Các môn đệ là người, là đệ tử. Nếu
Chúa muốn coi các ông là tôi tớ cũng được; nhưng không vậy,Chúa đã coi họ là
bạn hữu ngang hàng với Ngài. Bạn hữu tri âm tri kỷ nên "tất cả những gì
Thầy nghe được nơi Cha của Thầy,Thầy đã cho anh em biết".
Cả cuộc đời của Chúa đã sống tình yêu nhập thể và hiến dâng cho tất
cả mọi người.Chúa không để ai về tay không khi đến với Ngài. Kẻ mù được sáng,
người què đi được, kẻ điếc nghe được, người câm nói được, những kẻ tội lỗi và
những cô gái điếm tìm được ơn thứ tha...
Tình yêu của Chúa Giêsu cao đẹp quá, quý giá vô ngần. "Anh em
hãy yêu như Thầy đã yêu". Lời này quả thật là quá khó đối với con người!
Vẫn biết rằng con người chẳng bao giờ yêu nhau tới mức "như Thầy đã
yêu", nhưng lời mời gọi của Chúa vẫn luôn giục giã chúng ta hướng theo
đường Chúa đã đi, lấy tình yêu của Chúa làm tiêu chuẩn cho mọi hành động, làm
khuôn vàng thước ngọc cho mọi suy nghĩ, lời nói việc làm của chúng ta. Vì
thế,Thánh Gioan khuyên rằng: "Anh em thân mến, chúng ta hãy yêu thương
nhau, vì tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa. Phàm ai yêu thương, thì đã được
Thiên Chúa sinh ra, và người ấy biết Thiên Chúa. Ai không yêu thương, thì không
biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu".
Cội nguồn của dòng sông tình yêu phát xuất từ Chúa Cha qua Chúa
Giêsu tuôn chảy đến nhân loại.Tình yêu là nguồn sự sống, là động lực chính yếu
của cuộc đời và sau hết tình yêu cũng là cứu cánh của cuộc đời: "Vạn sự đã
do tình yêu sáng tạo, vạn sự được Tình yêu nâng đỡ, vạn sự đi về tình yêu và đi
vào trong tình yêu" ( R.Tagore).
Nhưng đâu là những dấu hiệu để nhận ra là chúng ta yêu thương nhau?
Tình yêu không phải là cái gì trừu tượng, nên rất dễ nhận ra. Yêu thương nhau là luôn
nghĩ tới nhau. Những người yêu thương nhau thường nghĩ tới nhau; yêu nhau nhiều
thì nghĩ tới nhau nhiều, nghĩ tới mà trong lòng cảm thấy vui sướng.
Yêu nhau nên thích gặp nhau. Những người kitô hữu yêu nhau, thì rất thích tụ
họp, thích gặp gỡ nhau. Và thường họ tụ họp nhau vào ngày Chúa Nhật, trước hết
là để cùng nhau cử hành thánh lễ, sau là để gặp nhau trò chuyện, hàn huyên,
giải trí với nhau, chia sẻ tâm tình với nhau. Yêu nhau nên ước muốn điều lành
cho nhau. Mong cho nhau được sự may mắn, được thăng tiến, được làm ăn thành
đạt, được sức khoẻ dồi dào, được có lòng đạo đức, được mãn nguyện theo ý muốn
tốt lành. Và chính vì thế mà những người yêu nhau thường cầu nguyện cho nhau, xin
Chúa yêu thương, an ủi, cứu giúp, phù hộ bạn mình.
Yêu nhau nên làm những điều lành cho nhau: có thể đó là sự giúp đỡ
khi túng thiếu hay ốm đau, sự chăm sóc sức khoẻ, đời sống tâm linh của nhau, là
sự chia sẻ của cải vật chất và tinh thần cho nhau. Giúp nhau củng cố và giáo
dục đức tin, giúp hoà giải với nhau, giúp nhau xây dựng hạnh phúc gia đình,
giúp nhau thành đạt trong công ăn việc làm. Dấu hiệu rõ nhất của tình yêu là sự
hy sinh cho nhau: hy sinh thì giờ, sức khoẻ, tiền bạc, và thậm chí cả sự sống
vì nhau.
Điều cao quý nhất mà chúng ta nên làm cho nhau là mang Chúa đến cho
nhau,
vì mỗi người kitô hữu khi đã chịu phép rửa đều là đền thờ của Thiên Chúa, trong
đó có Chúa Thánh Thần cư ngụ. Điều tốt nhất mà những có đạo có thể làm là mang
đến cho nhau Chúa Thánh Thần là Niềm vui ở trong Thiên Chúa và là Nguồn vui của
chúng ta. Thánh Thần làm cho chúng ta gắn bó mật thiết với Thiên Chúa và nên
một với nhau.
Nguyện xin Chúa giúp chúng con tập sống yêu thương "như Thầy
đã yêu" khi thực thi lời Chúa dạy " Điều gì chúng con làm cho người
bé nhỏ nhất là làm cho cho chính Ta".
8.
Giáo Hội chia sẻ tình thương – Cố Lm Hồng Phúc
GIOAN phác họa bối cảnh của bài Phúc Âm hôm nay: căn nhà Tiệc ly
nơi Chúa và các môn đệ dùng bữa cuối cùng. Bầu khí ngột ngạt vì Giuđa con người
phản Thầy bán Chúa còn ở đó. Sau khi bị Thầy tế nhị vạch mặt, Giuđa đứng dậy bỏ
ra. “Trời đã tối!” Chúa Giêsu như trút được khối nặng; tình thương không còn bị
dày vò bởi phản bội, Ngài kêu lên: “Bây giờ Con Người được vinh hiển và Thiên
Chúa được vinh hiển với Người”.
Giờ Ngài đã đến. Cả cuộc đời của Chúa đều hướng vọng về giờ này.
Giờ đau thương nhưng cũng là giờ vinh hiển. Giờ tử nạn nhưng cũng
là giờ sống lại. Mầu nhiệm Thánh giá và mầu nhiệm khải hoàn vẫn gắn liền với
nhau, mà chúng ta cùng tuyên xưng trong mỗi thánh lễ: “Con tuyên xưng Chúa đã
chết đi, con tuyên xưng Ngài đã sống lại, con mong đợi Ngài lại đến”.
Trong giờ quan trọng đó, giờ gặp gỡ để biệt ly: “Thầy chỉ còn ở với
con ít nữa thôi”, Chúa Giêsu đã bộc lộ tâm hồn và ban cho các môn đệ luật Bác
ái thương yêu.
Đây không phải chỉ là một răn giới chung như trong Cựu ước, mà là
một lời di chúc: Giáo hội của Ngài phải là một Giáo hội chia sẻ Tình Thương.
Trong đêm Thứ Năm Thánh này, Ngài muốn rằng các môn đệ phải sống
tinh thần tập thể mà mối giây liên lạc khăng khít là tình bác ái yêu thương như
Ngài đã thương yêu họ. “Như Thầy đã yêu thương các con, thì các con hãy yêu
thương nhau”.
Mối tình ấy phản ảnh tình yêu Thiên Chúa, bắt nguồn từ Tình Yêu
giữa Chúa Cha và Chúa Con và tuôn chảy vào chúng ta nhờ Chúa Thánh Thần. Càng
sống mật thiết với Chúa thì càng biết thương yêu anh em, nhất là những người
nghèo khổ.
Mẹ Têrêxa, Ấn độ nói với các tập sinh: “Chúng con đã được rước Chúa
trong Thánh Thể, bây giờ hãy đi sờ đụng Chúa trong người nghèo khổ. Chúng ta là
những người chiêm nghiệm trong hoạt động. Chúa không đòi chúng ta phải thành
công, nhưng phải chung thành, yêu mến” (Messagère de l’Amour de Dieu – Edouard
Le Joly).
Đức Bác ái không phải là một lời khuyên mà là một lệnh truyền, hơn
nữa là một điều răn mới: “Thầy ban cho các con một điều răn mới là hãy yêu
thương nhau. Như Thầy đã yêu thương các con thì các con cũng hãy yêu thương
nhau”. Chúa còn thêm rằng đây là một dấu chỉ: “Căn cứ vào điều này mà mọi người
nhận biết các con là môn đệ của Thầy, là nếu các con yêu thương nhau”.
YÊU THƯƠNG anh em là sống tinh túy của Đạo. Có thể rằng trong vài
đạo giáo có sự đọc kinh nhiều hơn đạo ta, như Hồi giáo với 5 lần kinh nguyện
trong ngày hướng về La Mecca. Có thể có đạo giáo với sự hãm mình phạt xác, diệt
dục nhiều hơn ta như Ấn-độ giáo. Nhưng cái đặc điểm Đạo thánh ta phải là Tình
Yêu, “nhờ dấu ấy, người ta mới biết chúng con là đồ đệ Thầy”. Giáo hữu tiên
khởi đã hiểu và đã thực thi bác ái đến độ mọi người chung quanh đều kêu lên:
“Kìa xem họ thương yêu nhau”.
Ngày nay, những người chung quanh ta, những “dân ngoại” của thời
đại có quan niệm về chúng ta như vậy không
Lạy Chúa, xin dạy chúng con biết yêu thương nhau như Chúa đã yêu
thương chúng con.
9.
Suy niệm của Lm. GB. Hiếu
NHẬP LỄ
Có thể nói: Trong cuộc sống, Tình Yêu vừa là Cùng Đích vừa là Động
Lực thúc đẩy con người. Tình Yêu vừa chiếm vị trí quan trọng trong tương giao
với người khác, vừa là cách hoà hợp cho con người hạnh phúc trong Thiên Chúa.
- Lạy Chúa, vì yêu thương, Chúa đã ban cho chúng con đức tin / tin
nhận Chúa trong cuộc đời chúng con. (Xin Chúa thương xót ...)
- Lạy Chúa, vì yêu thương, Chúa đã đổi mới mọi sự, dọn sẵn trời mới
đất mới cho chúng con. (Xin Chúa Kitô thương xót ...)
- Lạy Chúa, vì yêu thương, Chúa muốn kiện toàn tình yêu chúng con
nên giống Tình Yêu của Chúa. (Xin Chúa thương xót ...)
GIẢNG
Nói theo Thánh Gioan: "Thiên Chúa là Tình Yêu" (1Ga 4,8b)
thì Tình Yêu đã có cùng với Thiên Chúa. Chính từ Tình Yêu của Thiên Chúa và con
người được chia sẻ Tình Yêu ấy, nên Tình Yêu cùng đồng hành và đi vào cuộc sống
con người. Ông Ađam được Thiên Chúa ban cho quyền làm chủ mọi loài Thiên Chúa
đã dựng nên. Thiên Chúa dẫn chúng đến với ông Ađam, để hễ ông đặt tên cho nó là
gì thì nó là thế. Nhưng ông Ađam vẫn "không tìm được cho mình một trợ tá
tương xứng" (St 2,20b), đến nỗi Thiên Chúa phải "lấy cái xương
sườn" của ông, để tạo sinh bà Evà và dẫn bà đến với ông. Cho đến giây phút
này, ông Ađam mới reo vui lên: "Phen này, đây là xương bởi xương tôi, thịt
bởi thịt tôi!" (2,23a). Tình Yêu đã làm cho cuộc sống gia đình có hương
vị. Một thi sĩ viết: "Yêu chẳng phải là chương trình định sẵn, nhưng là
phút giây làm sáng cả lòng ta" (De Belloy, câu 23, Danh ngôn Tình Yêu, Nxb
Đồng Nai 1995). Không có Tình Yêu, cuộc đời quả là bóng tối. Bởi thế, người Á
Đông cũng đã nói: "Tứ hải giai huynh đệ" -bốn bể cùng là anh em, hay
"Thương người như thể thương thân", luật Dothái nói: "Ngươi phải
yêu đồng loại như chính mình" (Lv 19,18b).
Nếu Tình Yêu là vấn đề muôn thuở và mọi người đều được dạy dỗ phải yêu
thương, thì tại sao hôm nay Chúa Giêsu lại tuyên bố với các môn đệ: "Thầy
ban cho anh em một điều răn mới, là anh em hãy yêu thương nhau" (Ga
13,34a) ? Tình Yêu Chúa Giêsu mới ở điểm nào ? Phải đọc thêm câu nói của Chúa,
chúng ta mới có thể thấy được tính chất đó: "Anh em hãy yêu thương nhau,
như Thầy đã yêu thương anh em" (13,34b). Người ta nói "tứ hải giai
huynh đệ", nhưng dường như người ta chỉ xem như anh em những ai theo phe
cánh, ủng hộ ý kiến, cách làm ăn của họ; cùng lắm, vì người đó là đồng hương,
đồng liêu, đồng môn ... y như người Do thái chỉ xem là anh em những ai đồng
tộc, đồng tôn giáo; cho nên mới có yêu nhau "như chính mình",
"thương người như thể thương thân". Nghĩa là tình yêu được ban ra,
nhưng thực chất vẫn là quy về chính mình: "bánh ích đi, bánh quy
lại". Như vậy, tính chất mới mẻ trong Tình Yêu của Chúa Giêsu không quy về
mẫu mực tình ruột thịt hay bản thân mình, nhưng quy về mẫu gương của chính Chúa
-"như Thầy đã yêu thương anh em".
Cả cuộc đời Chúa Giêsu đã không ngừng trao ban Tình Yêu. Người yêu
thương cho đến cùng: "Không ai có Tình Thương lớn hơn Tình Thương của
người hy sinh mạng sống mình cho bạn hữu" (15,13). Người ta có thể chết vì
người lành, không ai dám chết vì người tội lỗi. Thế mà Chúa Giêsu đã chết cho
mọi người, mà mọi người đều là tội nhân trước mặt Thiên Chúa! Chúa Giêsu yêu
thương là để thể hiện Tình Yêu của Thiên Chúa đối với nhân loại, một Tình Yêu
phổ quát, vô vị lợi; một Tình Yêu làm dấu chứng sống động Thiên Chúa đang hiện
diện. Bởi đó, Chúa Giêsu cũng mong ước các môn đệ của Người thể hiện Tình Yêu
sao cho người khác cảm nhận được Thiên Chúa đang hiện diện bên họ và nhờ đó:
"Ở điểm này, mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy, là anh em
có lòng thương nhau" (13,35). Như thế tính chất Tình Yêu nơi Chúa Giêsu
không chỉ là nhu cầu đáp ứng tình cảm thụ ơn "có qua có lại mới toại lòng
nhau", nhưng còn là cách thế để Thiên Chúa bày tỏ quyền năng hiện diện của
Người. Con người được Thiên Chúa sinh ra để sống cho Thiên Chúa và sống quy về
Thiên Chúa. Nói cách khác: Con người được tạo dựng trong Tình Yêu của Thiên
Chúa và được hướng dẫn sống trong Tình Yêu của Thiên Chúa. Đó chính là hạnh
phúc đích thật và tuyệt đối của con người.
Thế nhưng, trong thực tế, cuộc sống không đơn giản! Nhiều khi ngay
trong gia đình -nghĩa là giữa những người thân ruột thịt- Tình Yêu vẫn vắng
bóng! Tình Yêu vẫn chưa là dấu chứng Thiên Chúa hiện diện! Chúng ta vẫn lấy lẽ
"hòn đất ném đi, hòn chì ném lại", người ta đối xử với tôi thế nào,
tôi sẽ đối xử lại như vậy, "mắt đền mắt, răng đền răng". Quan hệ cư
xử của chúng ta còn mang nặng tính vụ lợi, hơn thua vật chất, chẳng những đã
không nói lên được niềm tin vào Thiên Chúa, trái lại còn là lối sống phản
chứng, khiến người khác tránh xa Thiên Chúa! Như thế không phải là phá Đạo, là
chối Đạo sao ?
"Anh em hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương anh
em". Đó không chỉ là lời khuyên của Chúa Giêsu với các môn đệ nữa, nhưng
còn là lý tưởng mục đích cuộc sống chúng ta; bởi vì chỉ có sống Tình Yêu như
Chúa Giêsu là phổ quát, là vô vị lợi, chúng ta mới tìm được và đạt được hạnh
phúc đích thật cho chính mình.
Chúa Thánh Thần là Tình Yêu của Thiên Chúa. Xin Người đổ tràn Tình
Yêu của Người xuống lòng chúng con, giúp chúng con sống điều răn Yêu Thương mới
của Chúa Giêsu cho xứng danh môn đệ Chúa hơn.
10.
Yêu như Chúa yêu
(Tổng Hợp từ R. Veritas)
Tình yêu là một đề tài muôn thuở, nhất là vào thời buổi kim tiền
hôm nay. Tình yêu là một mặt hàng đắt khách. Tình yêu xuất hiện ở mọi nơi, mọi
ngõ ngách của cuộc sống. Tình yêu xuất hiện trên báo chí và sách vở, trên phim
ảnh và mọi ngành nghệ thuật. Những bài tình ca, những cuốn phim nói về tình
yêu. Những cuốn sách, những vần thơ được viết ra để ca ngợi tình yêu… Tất cả đã
thu hút con người về với tình yêu. Có vẻ như tình yêu hiện diện ở khắp mọi nơi
và chi phối đời sống của mọi con người.
***
Bạn thân mến! Lời Chúa trong Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay cũng nhắc
đến tình yêu: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em"
(Ga.13:34)
“Yêu thương nhau” không những là một lời
khuyên mà còn là một lệnh truyền của Chúa Giêsu, là đặc điểm của những người
theo Chúa, là sứ mệnh của mỗi người Kitô.
“Yêu thương nhau” là giới răn của Chúa.
Nhưng không phải yêu thương theo kiểu phàm trần. Người đời thường chỉ yêu những
ai yêu mình, yêu những người xem ra có lợi cho mình, yêu theo bản tính ích kỷ
của mình. Chúa Giêsu muốn các môn đệ của Người phải yêu nhau như Chúa đã yêu.
“Yêu như Chúa yêu” là phải hy sinh quên
mình, phải khiêm nhường phục vụ anh em. Yêu như Chúa yêu là phải yêu cả những
người bé nhỏ nghèo hèn, yêu cả những người ghét mình, những người làm hại mình,
những người khó thương khó ưa.
“Yêu như Chúa yêu” là phải không ngừng tha
thứ, không ngừng làm hoà với nhau.
“Yêu như Chúa yêu” là sự sống của Giáo Hội,
là nét cao đẹp của người Kitô. Nét cao đẹp ấy phản ánh dung nhan Thiên Chúa.
Nét cao đẹp ấy có sức hấp dẫn mọi người đến với Chúa.
"Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ thầy, là
các con yêu thương nhau"(Ga.13:35). Không còn nhầm lẫn nào nữa. Muốn làm
môn đệ Chúa Giêsu, ta phải yêu như Chúa yêu. Tình yêu của Đức Giêsu không phải
tự Ngài nghĩ ra, không phải phát xuất từ chính Ngài, nhưng bắt nguồn từ Chúa
Cha: “Như Cha đã yêu mến Thày thế nào, Thày cũng yêu mến anh em như thế”.
(Ga.15:9).
***
Lạy Chúa, xin dạy con biết yêu mến anh em như Chúa đã yêu thương
con. Amen.
11.
Vinh quang thập giá
Một lời hết sức tự nhiên trong lời từ giã là phải nói về sự ra đi
của mình. Chúa Giêsu đã làm như thế đối với các môn đệ của mình. Tuy nhiên Chúa
báo trước cuộc đi xa này bằng từ ngữ rất khó hiểu đối với các môn đệ: Ngài sẽ
được “vinh hiển” và cũng làm vinh hiển Cha qua cái chết và sự sống lại. Ngài tỏ
bày vinh quang theo bốn phương diện:
1) Vinh quang của Chúa Giêsu đã đến, vinh quang đó là thập giá.
Sự căng thẳng đã qua đi, mọi nghi ngờ còn lại đều được cất đi.
Giuđa đã ra đi và thập giá chắc chắn phải đến. Vinh quang của Chúa Giêsu là
thập giá. Ở đây chúng ta đang đối diện với thực tế của cuộc đời. Vinh quang
rạng rỡ nhất trong đời sống là vinh quang đến từ sự hy sinh.
Có hai thanh niên rất yêu thích hội hoạ. Họ kết thân với nhau, vừa
làm việc, vừa học vẽ. Một thời gian sau, không có đủ tiền cho cả hai cùng học.
Họ quyết định một người lao động để nuôi người kia học cho tới khi thành tài,
rồi đến lượt người này đi học. An-béc-sơ học trước, qua bao năm tháng miệt mài,
khổ công, An-béc-sơ trở thành một hoạ sĩ nổi danh và anh đem bán những bức
tranh lấy tiền nuôi bạn học vẽ, nhưng dầu đã cố gắng hết sức, anh bạn của
An-béc-sơ không sao vẽ nổi. Đôi bàn tay anh lao động đã trở nên thô cứng, không
thể điều khiển bút vẽ được nữa. Khi biết sự thật ấy, An-béc-sơ khóc, ôm bạn
nói: “Đôi bàn tay chai sần của anh đã giúp phần vào những bức vẽ của tôi. Nếu
không có đôi bàn tay anh, những bức tranh này không bao giờ thành hình cả”. Hãy
cho phép tôi hoạ lại đôi bàn tay của anh”.
Bức tranh ấy, với một đôi bàn tay lao động, đã trở thành tác phẩm
nổi tiếng của nền hội hoạ thế giới, hiện nay đang được trưng bày tại một viện
bảo tàng ở Mỹ.
Trong y học, người ta không nhớ những thầy thuốc làm giàu do nghề
nghiệp, nhưng nhớ những người đã hy sinh mạng sống để chữa lành nỗi đau đớn của
con người. Tại một hội nghị chuyên đề về bệnh cùi được tổ chức tại Cairô, thủ
đô Ai Cập, có một y sĩ trẻ người thành Alexandria được người ta để ý, anh chăm
chú nghe các bài thuyết trình của các chuyên gia, nhưng có một điều lạ là anh
luôn ngồi tách rời với đám đông, trong một góc nhỏ. Không ai biết anh dùng bữa
ở đâu. Anh cũng không giao thiệp với bất cứ một thành viên nào của hội nghị.
Vào phiên họp cuối cùng anh lên tiếng. Khi anh tóm kết bài tham luận, một sự im
lặng như chết bao trùm cả phòng họp; nhiều người bật tiếng khóc. Anh nói gì?
Anh tuyên bố rằng anh đã tự nguyện để nhiễm bệnh cùi, để có thể tự anh quan sát
diễn biến của cái bệnh kinh khủng này. Anh cho thấy những vết trắng và nâu ở
cánh tay anh, một triệu chứng không thể chối cãi của sự nhiễm trùng, và rồi anh
mô tả tất cả những gì anh đã cảm thấy, cùng hiệu quả tất cả các thuốc anh đã
dùng. Anh biết rằng anh không thể tránh được cái chết từ từ và đau đớn, nhưng
anh sẵn sàng chịu đựng tất cả để giúp phần vào sự tiến bộ của khoa học, hầu đẩy
lui những hiểm nguy cho các người mắc bệnh. Loài người chỉ biết cúi đầu khâm
phục trước sự hy sinh của những người tự nguyện chấp nhận cái chết để cứu đồng
loại.
Trong mọi cuộc chiến tranh, vinh quang tuyệt đỉnh không thuộc về
những người sống sót mà thuộc về những người đã bỏ thây nơi chiến trường. Bài
học đơn giản của lịch sử là những người chịu hy sinh lớn thì nhận được vinh
quang cao cả. Nhân loại quên đi những người thành công nhưng chẳng bao giờ quên
ơn những người dám hy sinh. Họ bước đi trong các vết chân của Chúa Kitô.
“Khi chúng ta không có sức làm được gì vì còn là hạng người vô đạo,
thì Chúa Kitô đã chết vì chúng ta. Hầu như không ai chết vì người công chính,
hoạ may có ai dám chết vì người lương thiện, thế mà Chúa Kitô đã chết vì chúng
ta, ngay khi chúng ta còn là người tội lỗi”(Rm 5,6-8).
2) Trong Chúa Giêsu, Thiên Chúa được tôn vinh
Chính sự vâng phục của Chúa Giêsu đem lại vinh quang cho Thiên
Chúa. Chỉ có một cách để chứng minh lòng kính yêu, ngưỡng mộ và tin cậy một
lãnh tụ là vâng phục vị lãnh tụ ấy, vâng phục cho đến cuối cùng, dầu phải nếm
mùi đắng cay. Cách thế duy nhất để một người con có thể đem lại vinh dự cho cha
mẹ ấy là vâng phục cha mẹ. Chúa Giêsu đã đem vinh quang tối cao cho Thiên Chúa,
vì Ngài tuyệt đối vâng lời Thiên Chúa, dầu phải đi đến Núi Sọ.
3) Trong Chúa Giêsu, Chúa Cha tự tôn vinh chính Ngài.
Có một tư tưởng lạ lùng, ấy là vinh quang tối cao của Thiên Chúa
lại do sự nhập thể và thập giá của Chúa Giêsu. Chẳng có vinh quang nào như vinh
quang của việc được yêu thương. Nếu Thiên Chúa cứ giữ sự xa cách, uy nghiêm,
bình thản, không xúc động trước bất cứ sự sầu khổ, đau đớn nào thì người ta có
thể sợ hãi Ngài, có thể chiêm ngưỡng Ngài, nhưng họ sẽ chẳng bao giờ yêu mến
Ngài. Định luật hy sinh không chỉ là một định luật của thời gian, nhưng là của
cả trời và đất. Chính trong sự nhập thể và thập giá của Chúa Giêsu, vinh quang
tối cao của Thiên Chúa được tỏ ra. Chúa Giêsu là vinh hiển của Thiên Chúa. Vinh
hiển của Thiên Chúa không biểu lộ trong sự nghiền nát con người, xô đẩy họ
xuống địa vị thấp hèn, nhưng còn biểu lộ trong sự phục vụ, thương yêu con
người, và chết thay cho con người. Vinh hiển của Chúa không phải là vinh hiển
của quyền lực đánh đổ, nhưng là vinh hiển của tình yêu chịu khổ.
4) Thiên Chúa sẽ tôn vinh Chúa Giêsu.
Đây là một mặt khác của vấn đề. Hiện giờ thập giá là vinh quang của
Chúa Giêsu, nhưng kế đến còn nhiều hơn thế nữa, sự phục sinh, sự thăng thiên,
sự toàn thắng vẻ vang cuối cùng của Chúa Cứu Thế là điều Tân Ước muốn nói tới
khi đề cập đến việc trở lại trong vinh quang của Ngài. Tại thập giá, Chúa Giêsu
được vinh quang riêng cho Ngài, nhưng sẽ đến ngày, một ngày chắc chắn, lúc vinh
quang của Chúa Giêsu được tỏ bày cho thế giới và toàn thể vũ trụ. Sự tôn cao
Chúa Giêsu phải tiếp theo sự sỉ nhục Ngài đã chịu, việc Ngài lên ngôi phải theo
sau việc Ngài chịu đóng đinh. Chiếc mũ gai phải biến thành vương miện vinh
hiển. Chiến dịch là chiến dịch của thập giá, nhưng nhà Vua sẽ bước vào chiến
thắng khải hoàn mà cả thế gian đều trông thấy.
12. Để nhận
ra người môn đệ chân chính
(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Trong giờ hấp hối, khi sắp từ giã những người thân yêu nhất để vĩnh
viễn ra đi sang thế giới khác, người hấp hối cố tranh thủ chút thời gian vắn
vỏi còn lại và dành chút hơi tàn để căn dặn người thân yêu những điều mà họ cho
là quan trọng nhất.
Chúa Giêsu cũng thế. Khi sắp từ giã các môn đệ để chịu khổ nạn và
chịu chết, Chúa Giêsu trao cho họ những lời tâm huyết sau cùng: "Hỡi anh
em là những người con bé nhỏ của Thầy, Thầy còn ở với anh em một ít lâu nữa
thôi. Thầy ban cho anh em một điều răn mới, là anh em hãy yêu thương
nhau..."
Chúa Giêsu không muốn các môn đệ Ngài yêu thương nhau hời hợt bề
ngoài, nhưng muốn họ yêu thương theo một mức độ lớn lao, nên nói thêm:
"anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em." Rồi Đức
Giêsu nhấn mạnh: "Người ta sẽ căn cứ vào dấu hiệu nầy để nhận ra anh em là
môn đệ của Thầy, là anh em thương mến nhau."
Như thế, nếu kẻ nào không thương mến tha nhân, thì người đó chưa
phải là môn đệ thật của Chúa Giêsu, mà chỉ là người môn đệ giả.
Trên thị trường ngày nay, có vô số đồ giả: vàng giả, tiền giả,
thuốc giả, hàng giả xen lẫn với hàng thật. Đối với phần đông dân chúng, thì
việc phân biệt đâu là hàng thật, đâu là giả quả là điều rất khó khăn.
Trong đạo thánh Chúa cũng vậy. Có nhiều Kitô hữu giả trà trộn giữa
các Kitô hữu thật, muốn phân biệt ai giả ai thật, cũng không phải là chuyện dễ
dàng. Thế nên Chúa Giêsu chỉ cho chúng ta dấu hiệu phân biệt rất chính xác. Dấu
hiệu đó là lòng yêu thương. Ngài dạy: "người ta cứ dấu nầy mà nhận biết
các con là môn đệ thật của Thầy, là các con yêu thương nhau." Nếu có ai đó
xưng mình là môn đệ Chúa Giêsu mà không tôn trọng, không yêu thương người khác,
thì chắc chắn người đó là môn đệ giả.
* * *
Có người chiêm bao thấy mình từ giã cõi trần tiến đến cửa thiên
đàng. Được biết thánh Phê-rô canh cửa thiên đàng rất nghiêm ngặt, xét hỏi kỹ
càng trước khi cho vào cửa, nên anh ta mang theo đầy đủ những giấy tờ cần
thiết.
Trước hết, anh ta xuất trình chứng thư rửa tội, có chữ ký của cha
sở và dấu đỏ của giáo xứ, nắm chắc hy vọng rằng với chứng thư nầy thì thánh
Phê-rô sẽ mở cửa thiên đàng cho anh ngay. Nào ngờ, thánh nhân lại lắc đầu từ
chối. Thế là anh ta lại xuất trình thêm chứng thư thêm sức, rồi chứng thư hôn
phối, cả sổ gia đình công giáo nữa. Vậy mà thánh Phê-rô vẫn khước từ.
"Ngài còn đòi gì nữa? Con còn cả tràng chuỗi đây, cả cuốn sách
kinh hôm mai đây. Bấy nhiêu không đủ chứng tỏ con là người môn đệ Chúa Giêsu
sao?"
Thánh Phê-rô trả lời: "Con phải mang phù hiệu của người Kitô
hữu."
"Phù hiệu nào nữa, thưa Ngài?"
"Thế con không nhớ lời Thầy chí thánh phán dạy sao:
"người ta chỉ căn cứ vào dấu hiệu (phù hiệu) nầy mà nhận biết các con là
môn đệ Thầy, là các con có lòng thương mến nhau. Chưa có lòng thương mến nhau
thì con chỉ là Kitô hữu giả hiệu."
Qua dụ ngôn phán xét chung, Chúa Giêsu cũng khẳng định điều nầy.
Trong ngày ấy, muôn dân sẽ được tập họp lại và Chúa sai thiên thần tách biệt họ
thành hai. Người lành đứng bên phải còn kẻ dữ bên trái. Bấy giờ Đức Vua sẽ phán
với những kẻ bên phải rằng: "Nào những kẻ được Cha Ta chúc phúc, hãy đến
thừa hưởng Vương Quốc đã dọn sẵn cho các ngươi từ thuở tạo thiên lập địa"
vì... các người đã thương mến chăm sóc các anh em bé nhỏ của Ta.
Rồi Chúa quay sang lên án những người bên trái: "Quân bị
nguyền rủa kia! Hãy đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho
tên Ác Quỷ và các sứ thần của nó"... vì các ngươi đã không yêu thương chăm
sóc các anh em bé mọn của Ta. (Mt 25, 31-46)
Dưới ánh sáng của Lời Chúa hôm nay, chúng ta hãy xem xét lại bản
thân mình. Biết đâu ngay cả bản thân tôi cũng là môn đệ giả của Chúa Giêsu mà
tôi không hề hay biết!
Hãy rà soát lại xem mình đã tôn trọng, chân thành yêu thương và
phục vụ những anh chị em chung quanh chưa? Nếu chưa thì chúng ta vẫn còn là
những Kitô hữu giả hiệu, chúng ta không thuộc vào số những người môn đệ chân
chính và vương quốc thiên đàng không có chỗ cho chúng ta.
13.
Yêu thương và giúp đỡ
Thày truyền cho các con một điều răn mới là các con hãy yêu thương
nhau. Một bác nông dân nghèo túng ngồi trước cửa nhà và than thở vì không biết
phải tìm đâu ra tiền để nuôi sống gia đình. Đang lúc rầu rĩ như vậy, thì có một
người lạ mặt đi qua, trên tay cầm một con ngỗng. Người khách lạ trao con ngỗng
cho bác và nói: bác hãy chăm sóc con ngỗng này, nó sẽ đền đáp cho bác gấp bội.
Nói xong người khách lạ bỏ đi. Bác nông dân mang con ngỗng vào nhà và cho nó ăn
uống đầy đủ. Bác cũng làm cho nó một cái chuồng nho nhỏ và xinh xinh.
Sáng hôm sau, vừa thức dạy, bác liền đến thăm con ngỗng. Bác nhìn
vào trong chuồng và thấy một quả trứng vàng. Bác nhặt lấy quả trứng rồi đem đi
bán. Liên tiếp trong một tuần lễ, ngày nào bác cũng nhặt được một quả trứng
vàng. Không bao lâu, bác đã mua sắm đầy đủ những thứ cần thiết cho gia đình.
Đồng thời bác cũng chăm sóc cho con ngỗng một cách chu đáo.
Thế nhưng, càng có tiền thì lòng tham của bác càng gia tăng. Bác
không muốn ngày nào cũng phải đi nhặt quả trứng vàng nữa. Bác muốn tức khắc tất
cả kho tàng chứa đựng ở trong bụng con ngỗng. Nghĩ thế cho nên bác mới giết con
vật, mổ bụng nó ra, nhưng hỡi ôi, con vật thì đã chết và trong bụng nó cũng
chẳng có lấy một quả trứng vàng nào. Giữa lúc bác đang buồn nản và tuyệt vọng,
thì người khách lạ xuất hiện. Nhìn thấy cảnh tượng trên, người ấy bèn nói: Tôi
đã bảo với bác rằng, nếu bác chịu khó chăm sóc cho con ngỗng của tôi, thì nó sẽ
đền đáp gấp bội cho bác. Bây giờ bác đã giết nó thì bác sẽ mất đi tất cả.
Trong một bài hát mang tựa đề: Hãy hy sinh để được thêm một ngày
trên cõi phúc, có lời ca như sau: Đừng làm lơ khi băng qua đường giữa lúc người
nghèo khổ đang cầu xin được giúp đỡ. Hãy lắng nghe lời khẩn khoản của một bà
già nghèo đói. Bởi vì giúp cho bà là bạn sẽ được sống thêm một ngày trên cõi
phúc.
Một bản nhạc khác cũng đã nhấn mạnh đến tình yêu thương như sau:
Cha ông chúng ta đã dạy chúng ta thế nào là sống bác ái, là sống chia sẻ, nhưng
có ai trong chúng ta đã nhớ thực hiện những điều dạy bảo ấy.
Câu chuyện và những bài hát trên làm cho chúng ta nhớ tới hoạt cảnh
của ngày phán xét, ngày ấy chúng ta sẽ bị Chúa tra hỏi về điều gì nếu không
phải là về những hành động bác ái chúng ta đã làm hay đã không làm cho người
khác. Rồi từ đó, số phận đời đời của chúng ta sẽ được ấn định. Vì thế, cốt lõi
của cuộc sống là tình bác ái, việc cần phải làm ngay là thực thi giới luật yêu
thương, như lời Chúa Giêsu đã nói với chúng ta qua đoạn Tin Mừng hôm nay: Thày
truyền cho các con một điều răn mới, là các con hãy yêu thương nhau.
Bộ đồng phục của người Kytô hữu đâu có phải là màu áo này màu áo
nọ, đâu có phải là những hình thức đạo đức bên ngoài, mà là tình bác ái: Người
ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ Thày, là các con yêu thương nhau.
Trở lại với câu chuyện lúc ban đầu: con ngỗng chỉ đẻ được quả trứng vàng, nếu
nó được chăm sóc. Còn nếu giết nó đi, loại trừ nó đi, thì nó sẽ trả lại cho
chúng ta sự nghèo túng và cô đơn. Đối với người khác cũng vậy, như mộ bài hát
đã diễn tả: Kẻ thù ta đâu có phải là người, giết người đi thì ta ở với ai. Nói
cách khác, những chăm sóc và giúp đỡ anh em sẽ đem lại cho chúng ta những quả
trứng vàng trong ngày sau hết.
14. Điều
răn mới
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Gandhi được coi là bậc đại thánh của dân Ấn Độ. Ông say mê Kinh
Thánh, nhất là bài giảng trên núi. Ông nghĩ rằng Kitô giáo sẽ là câu trả lời
thích đáng cho những xung đột giữa các giai cấp ở Ấn.Một ngày nọ ông đến dự
lễ tại một nhà thờ. Nhưng người giữ cửa ngăn ông lại, và bảo ông nên đến dự lễ
ở một nhà thờ khác dành cho người da đen. Ông đã bỏ đi và không bao giờ quay
trở lại.
Có thể chúng ta đã mất một Kitô hữu tốt như Gandhi chỉ vì có sự
phân biệt màu da nơi nhà thờ.
Biết đâu thế giới này lại chẳng có nhiều Gandhi, họ sống tinh thần
Đức Kitô còn hơn cả các Kitô hữu.
"Thầy ban cho anh em một điều răn mới: hãy yêu thương nhau như
Thầy đã yêu thương anh em."
Lời trăn trối của Đức Giêsu vẫn làm chúng ta nhức nhối.
Ở đây Ngài không nhắc chúng ta yêu thương người ngoài, nhưng Ngài
đòi buộc các môn đệ Ngài yêu thương nhau.
Yêu thương nhau trở thành điều răn mới, mới vì Ngài đòi họ phải yêu
nhau như Ngài đã yêu họ.
Vấn đề cốt lõi là cảm nhận được tình yêu của Ngài.
Trước khi công bố điều răn mới này, Đức Giêsu đã rửa chân cho môn
đệ, trong đó có Giuđa. Ngài cúi xuống bên chân Giuđa để bày tỏ một tình yêu.
Sau đó Ngài còn chấm miếng bánh đầu tiên trao cho Giuđa như đưa ra một vẫy gọi
thân thương cuối cùng. (x. Ga 13,26)
Nhưng vô ích, Giuđa không đổi ý. Anh vẫn ra đi để làm điều mình
muốn (x. Ga 13,31). Đức Giêsu biết rõ số phận đang chờ mình. Ngài sẽ yêu đến
cùng bằng việc hiến mạng trên thập giá.
Đức Giêsu đã yêu trước khi truyền cho ta yêu nhau.
Nếu ta không cảm nhận được tình yêu Ngài dành cho ta, thì ta cũng
chẳng thể yêu nhau như Ngài muốn.
Có nhiều dấu hiệu để người ta nhận ra một Kitô hữu: đeo thánh giá
nơi cổ, làm dấu thánh giá trước khi ăn... Nhưng theo Đức Giêsu, dấu hiệu đặc
trưng của nhóm môn đệ là tình yêu thương mà họ dành cho nhau: cảm thông, tha
thứ, cộng tác, hy sinh, chia sẻ, đối thoại...
Giữa các môn đệ, có bao dị biệt, bao hàng rào. Nếu không vượt qua
được những hàng rào dị biệt này thì coi như việc truyền giáo bị đổ vỡ.
Tiếc thay, vẫn chưa có sự hiệp nhất giữa các Kitô hữu khác màu da,
khác văn hoá, khác quan điểm chính trị... Có bất đồng giữa Công Giáo và Chính
Thống Giáo ở Nga, giữa người Công Giáo và người Tin Lành ở Bắc Ailen. Đến bao
giờ mọi Kitô hữu có thể đọc chung kinh Lạy Cha, mừng chung với nhau lễ Phục
Sinh trong một ngày, cử hành chung với nhau một phụng vụ.
Thế giới hôm nay như sa mạc thiếu vắng tình yêu. Ước gì thế giới
Kitô trở thành một ốc đảo xanh tươi mời mọi người đặt chân tới.
Gợi Ý Chia Sẻ
Theo bạn, thế nào là một tập thể có tình yêu thương lẫn nhau? Có
những dấu hiệu nào để nhận ra tình yêu thương đó?
Bạn thấy nhóm của bạn, giáo xứ của bạn, cộng đoàn của bạn có làm
chứng đủ về tình yêu thương nhau trước mặt mọi người chưa?
Cầu Nguyện
Lạy Cha, xin dạy chúng con biết cộng tác với nhau trong việc xây
dựng Nước Trời ở trần gian.
Xin cho chúng con đến với nhau không chút thành kiến, và tin tưởng
và thiện chí của nhau.
Khi cộng tác với nhau, xin cho chúng con cảm thấy Cha hiện diện,
nhờ đó chúng con vượt qua những tự ái nhỏ nhen, những tham vọng ích kỷ và những
định kiến cằn cỗi.
Ước gì chúng con dám từ bỏ mình, để tìm kiếm chân lý ở mọi nơi và
mọi người, nhất là nơi những ai khác quan điểm.
Lạy Cha, xin sai Thánh Thần đến trên chúng con, để chúng con biết
lắng nghe nhau bằng quả tim, và hiểu nhau ngay trong những dị biệt.
Nhờ sống mầu nhiệm cộng tác, xin cho chúng con được triển nở không
ngừng và Thánh Ý Cha được thể hiện trên mặt đất. Amen.
15.
Yêu người như Chúa
(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)
Bề trên một tu viện Công giáo đến tìm vị ẩn sĩ trên vùng núi Hi mã
lạp sơn để trình bày về tình trạng bi đát của tu viện.
Trước kia tu viện này là một trung tâm sầm uất. Khách hành hương
tấp nập. Nhà thờ lúc nào cũng vang lừng tiếng hát ca cầu nguyện. Tu viện không
còn chỗ nhận thêm người vào tu.
Vậy mà giờ đây tu viện chẳng khác một ngôi nhà hoang phế. Nhà thờ
vắng lặng. Tu sĩ thưa thớt già nua. Cuộc sống buồn tẻ.
Cha Bề trên hỏi vị ẩn sĩ nguyên nhân nào hay lỗi lầm nào đã khiến tu
viện rơi vào tình trạng suy sụp như hiện nay. Vị ẩn sĩ ôn tồn bảo: “Các tội đã
và đang xảy ra trong cộng đoàn đó là tội vô tình”. Ông giải thích thêm: “Đấng
Cứu Thế đã cải trang thành một người trong quý vị, nhưng quý vị không nhận ra
Người”.
Nhận được lời giải đáp, Cha Bề Trên hớn hở ra về. Cha tập họp các
tu sĩ lại và loan báo cho họ biết Đấng Cứu Thế đang ẩn mình giữa cộng đoàn.
Nghe nói thế, mọi người mở to mắt và quan sát nhau. Ai là Đấng Cứu Thế cải
trang? Nhưng chắc chắn nếu Đấng Cứu Thế đã cải trang thì chẳng ai có thể nhận
ra Người. Mỗi người sống chung với ta đều có thể là Đấng Cứu Thế.
Từ ngày ấy mọi người đều đối xử với nhau như với Đấng Cứu Thế. Mọi
người kính trọng nhau. Mọi người quan tâm chăm sóc nhau. Mọi người phục vụ
nhau. Chẳng bao lâu, bầu khí yêu thương huynh đệ, sự sống và niềm vui lại trở
lại với tu viện. Khách hành hương bốn phương lại tấp nập tuốn về. Lời kinh
tiếng hát lại vang lừng trong tu viện. Bị cuốn hút bởi bầu khí vui tươi thánh
thiện, nhiều thanh niên đến xin gia nhập cộng đoàn.
Trước kia tu viện mất hết sức sống vì mọi người không thực hành Lời
Chúa dạy. Sống cá nhân chủ nghĩa, thờ ơ lãnh đạm với nhau. Nay tu viện tràn đầy
niềm vui và sức sống nhờ mọi người biết quan tâm đến nhau, yêu mến và phục vụ
nhau.
Trước kia khách hành hương không muốn đến tu viện, các bạn trẻ
không muốn vào tu viện vì tu viện không là dấu chỉ môn đệ của Chúa. Không sống
theo Lời Chúa, các tu sĩ trở thành những hình ảnh mờ nhạt, không phản chiếu
được nét đẹp của Thiên Chúa. Nay khách hành hương nườm nượp kéo đến, các bạn
trẻ xếp hàng xin nhập tu, vì họ đã thấy nơi các tu sĩ có dấu chỉ của người môn
đệ Đức Kitô, có lòng yêu thương nhau. Lòng yêu thương đã khiến các tu sĩ trở
nên hình ảnh của rõ nét của Thiên Chúa, chiếu toả sự sống của Thiên Chúa, loan
báo hạnh phúc Thiên đàng. Lòng yêu thương ấy có sức hấp dẫn, có sức thuyết
phục, có sức mời gọi mãnh liệt vì qua đó, mọi người nhận ra sự hiện diện của
Thiên Chúa.
Yêu thương nhau đó là giới răn của Chúa. Nhưng không phải yêu
thương theo kiểu phàm trần. Người đời thường chỉ yêu những ai yêu mình, có lợi
cho mình, theo bản tính ích kỷ của mình. Thiên Chúa muốn các môn đệ của Người
phải yêu như như Thiên Chúa đã yêu.
Yêu như Thiên Chúa nghĩa là phải hy sinh quên mình, hạ mình phục vụ
anh em.
Yêu như Thiên Chúa nghĩa là phải yêu những người bé nhỏ nghèo hèn. Yêu như
Thiên Chúa là phải yêu thương cả những người ghét mình, những người làm hại
mình, những người khó thương khó ưa. Yêu như Thiên Chúa là phải không ngừng tha
thứ, làm hoà với nhau.
Yêu như Thiên Chúa đó là sự sống của Giáo Hội. Yêu như Thiên Chúa làm
nên nét đẹp của đạo. Nét đẹp ấy phản ánh dung nhan Thiên Chúa. Nét đẹp ấy có
sức hấp dẫn mọi người đến cùng Chúa.
Lạy Chúa, xin dạy con biết yêu mến anh em như Chúa đã yêu thương
con. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1. Theo bạn, thế nào là một tập thể có tình yêu thương?
2. Bạn đã có tình yêu thương đoàn kết với những anh chị em trong
giáo xứ chưa?
3. Yêu thương như Chúa là yêu thương theo cảm tính hay theo lý trí?
Tuần này, bạn sẽ làm gì để thực hiện điều răn mới của Chúa?
16.
Yêu như Thầy yêu.
(Suy niệm của Lm. GB. Trần Văn Hào)
Ngạn ngữ Pháp có câu: “Ra đi là chết trong lòng một ít” (Partir
c’est mourir un peu). Sự ra đi nào cũng để lại những vấn vương và lưu luyến cho
người ở lại, nhiều khi còn mang vẻ bi thương và tang tóc nữa. Cuộc ra đi thụ
nạn của Chúa Giêsu cũng thế. Chính vì vậy, trong giờ phút ly biệt đầy xốn xang
và ngậm ngùi, Chúa Giêsu đã để lại những lời tâm huyết cuối cùng cho các học
trò. Những lời dặn dò thân tình ấy được Giáo hội đọc lại cho chúng ta trong
phụng vụ hôm nay, giống như một di chúc thiêng liêng. Các nhà chú giải vẫn gọi
đó là ‘diễn từ biệt ly’. Trong những lời trăng trối sau cùng ấy, Chúa nói với
các môn đệ: “Thầy để lại cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương
nhau. Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”.
Điều răn mới.
Ai cũng biết, yêu thương là đạo lý căn bản của cuộc sống làm người.
Ngày xưa triết gia Aristotle đã nói cho các học trò của ông: “Tính ích kỷ và
đầu óc hẹp hòi biến con người trở nên như thú vật, nhưng khi con người đối xử
với nhau bằng lòng nhân ái, họ sẽ trở nên như thần thánh”. Nói chung, tôn giáo
nào cũng dạy người ta ăn ngay ở lành, và chẳng tôn giáo nào lại dạy con người
làm những chuyện thất đức. Tinh thần ‘Tứ hải giai huynh đệ’ của triết lý Đông
phương cũng tương tự như thế. Thế thì, giáo huấn của Chúa Giêsu có gì là mới
lạ? và tại sao Chúa lại gọi đây là điều răn mới? Chúng ta phải đi sâu vào tư
tưởng thần học của Thánh Gioan mới có thể khám phá ra tính cách mới mẻ và độc
đáo của giới răn yêu thương mà Chúa Giêsu gửi trao như một di chúc thánh
thiêng.
Ngay từ thời cựu ước, Đức Chúa Giavê cũng đã ban truyền thập giới
trên núi Sinai qua Moisê, và 10 giới răn đó cũng được tóm kết qua 2 điều luật
căn bản, đó là yêu mến Thiên Chúa và yêu thương tha nhân. Chính Chúa Giêsu cũng
đã khẳng định điều đó khi trả lời cho vị luật sĩ (Lc 10,27) hay cho vị kinh sư
(Mc 12,28) hoặc cho chàng thanh niên giàu có (Mt 19,18-20).
Tuy nhiên các luật sĩ và biệt phái thời xưa chỉ giữ luật một cách
máy móc và vụ hình thức. Chúa tuyên bố rằng Ngài đến không để bãi bỏ lề luật,
nhưng mặc cho nó một chiều kích mới, đó là chiều kích nội tâm. Giới răn mới mà
Chúa nói hôm nay cũng chính là việc thực hành tình yêu, nhưng đi vào cốt lõi
căn bản, nhắm đến chiều sâu nội tâm hóa của giới luật yêu thương. Để huấn luyện
các học trò hiểu thấu giới răn ấy, Chúa Giêsu lấy chính Ngài làm chuẩn mẫu:“
Anh em hãy yêu thương nhau ‘như’ Thầy đã yêu thương anh em”. Tính cách mới mẻ
mà Chúa khởi dẫn chính ở điểm căn bản này.
Kinh nghiệm của Thánh Gioan.
Khi nói về mình, Gioan giới thiệu rất đơn giản bằng thuật ngữ
‘người môn đệ được Chúa yêu mến’. Gioan là người học trò duy nhất được tựa đầu
vào ngực Chúa trong bữa tiệc ly để lắng nghe từng nhịp đập nơi con tim thổn
thức của vị Thầy khả ái. Ngài cũng đứng dưới chân Thập giá cùng với Đức Maria
để mục kích trái tim Chúa bị đâm thâu và mở toang ra, tuôn đổ những giọt nước
và máu của tình yêu cho đến vô tận. Tất cả những chi tiết này đều là những hình
ảnh mà Thánh Gioan ghi lại để biểu thị bài học về tình yêu nơi Chúa Giêsu mà
Gioan đã cảm thấu một cách tường tận. Trong Tin mừng thứ tư, thánh ký quảng
diễn rất nhiều về tình yêu mà Chúa Giêsu đã diễn bày, nhất là qua hình ảnh
người Mục tử nhân lành, biết các con chiên trong đàn, đi tìm kiếm con chiên
lạc, và hy sinh mạng sống cho đoàn chiên. Thánh Gioan cũng dành ra suốt từ
chương 13 đến hết chương 17 để viết lại diễn từ biệt ly, và điểm nhấn quan
trọng nhất trong diễn từ chính là nói về tình yêu. Trong diễn từ này, Chúa
Giêsu lập đi lập lại điệp khúc tình yêu qua chính mẫu gương của Ngài. “Không có
tình yêu nào cao quý bằng mối tình của người hiến ban mạng sống cho bạn hữu”.
“Thầy để lại cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau như Thầy
đã yêu thương”. “Cứ dấu này người ta nhận biết anh em là môn đệ Thầy, là anh em
hãy yêu thương nhau”… Vì thế trong 3 lá thư Thánh Gioan để lại, đặc biệt trong
thư thứ nhất, Ngài đã định nghĩa Thiên Chúa bằng một hạn từ rất đơn giản và cô
đọng: ‘Thiên Chúa là tình yêu’ (1Ga 4,16). Những chân lý về tình yêu, về giới
răn mới mà Chúa Giêsu để lại cho các môn đệ được nói đến trong bài Tin mừng hôm
nay, cũng được lặp lại rất nhiều lần trong lá thư thứ nhất của Thánh Gioan.
Yêu như Thầy đã yêu.
Nhiều người ngoại giáo thường hỏi chúng ta, đạo nào cũng hay, cũng
đẹp, thế đạo Công giáo có cái gì đặc sắc mà các anh muốn quảng bá? Thánh Gioan
hôm nay đã trả lời thay cho chúng ta.
Chúa Giêsu mời gọi chúng ta sống yêu thương giống như Ngài đã yêu
thương. Chúa Giêsu không phải là một lý thuyết gia, không phải là một nhà mô
phạm lý thuyết, nói một đàng làm một nẻo. Cái chết của Chúa Giêsu lột tả trọn
vẹn tình yêu mà Ngài muốn diễn bày. Ngài đã đi đến tận cùng của giai điệu yêu
thương khi bị treo thân trên Thập giá như một tên tội phạm và quảng diễn rất cụ
thể điều Ngài đã nói với các môn sinh: “Không có tình yêu nào cao quý hơn mối
tình của người hiến thân vì bạn hữu”. Trong bữa tiệc ly, Chúa còn cúi xuống rửa
chân cho các học trò như một người tôi tớ. Bằng nhiều cách, Chúa đã cố gắng cắt
nghĩa giới răn mới mà người muốn truyền thụ lại bằng chính cuộc sống gương mẫu
của Ngài.
Kết luận
Thánh Phanxicô Salê, vị Tiến sĩ đức ái, đã viết trong khảo luận về
Đức Ái của Ngài: “Con người là sự hoàn thiện của vũ trụ, tình yêu là sự hoàn
thiện của con người. Đức ái chính là sự hoàn thiện của tình yêu”. Sống sung mãn
ơn gọi tình yêu, chính là con đường dẫn đến hoàn thiện và đó cũng là lộ trình
nên thánh mà Chúa Giêsu mời gọi chúng ta dấn bước. Nhưng chúng ta thực hành
giới răn mới đó như thế nào? Một nhà xã hội học đã chua chát nhận xét: “Ngày
nay, con người đã rất tiến bộ và thành công vượt bậc. Người ta đã lên được tới
mặt trăng, đã nghiên cứu đến tận sao hỏa, đã chế tạo các phi cơ với vận tốc
khủng khiếp... Nhưng có một điều rất đơn giản là học cách sống tử tế với vợ
mình, mà nhiều người học mãi cũng chẳng xong”.
Nói về tình yêu trên lý thuyết rất dễ, nhưng sống và thực hành theo
gương Chúa Giêsu không phải là một chuyện giản đơn. ‘Hãy yêu như Thầy đã yêu’
là bài học mà chúng ta phải nghiền gẫm và phải phấn đấu để thực hành cho đến
suốt đời.
17.
Hãy gieo yêu thương - Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Tục ngữ có câu "có gieo có gặt" nhưng thành quả gặt hái
tùy thuộc vào loại giống mà chúng ta gieo trồng. Vì "gieo gì gặt ấy".
Gieo yêu thương sẽ gặt trong hân hoan và hạnh phúc. Gieo bất công và hận thù sẽ
có ngày "gậy ông đập lưng ông". Đó chính là quy luật của cuộc sống.
Quy luật của tạo hoá luôn đòi sự công bằng cho con người trong cõi nhân sinh.
Có một người đàn ông cao niên, nhưng lại rất giầu có. Ông trao ban
gia tài cho đứa con trai duy nhất, chỉ mong được sống an nhàn tuổi già bên con
cháu cho đến hết cuộc đời. Thế nhưng, người con dâu lại không muốn bố chồng ở
mãi trong nhà nên bảo chồng phải đưa bố đi nơi khác ở. Người con không muốn mất
tình cảm với vợ, nên đã quyết định đưa cha vào viện dưỡng lão, nơi rẻ tiền
nhất.
Một tuần sau đó, hai cha con đi bộ đến nơi mà người cha sẽ ở. Đi
dược một lúc bỗng nhiên người cha già bật khóc. Lương tâm người con không chịu
nỗi, anh nghẹn ngào nói lời xin lỗi cha già. Sau một vài phút, người cha bị hắt
hủi nghẹn ngào nói: "con ơi, cha không khóc vì con đưa cha vào nhà dưỡng
lão dành cho những người già nua tàn tạ. Cha khóc vì nhớ lại cách đây bốn mươi
năm, Cha cũng bước đi trên lối này với ông nội của con, và cũng đưa ông nội con
vào viện dưỡng lão tồi tàn này. Cha chỉ gieo gì gặt ấy thôi".
Thực vậy, "Sóng trước đổ đâu, sóng sau đổ đó". Những gì
chúng ta nhận được từ trong cuộc đời này hôm nay và mai sau, hoàn toàn tùy
thuộc vào những điều chúng ta đã gieo vãi, vun trồng.
Cùng một môi trường nhưng có người có nhiều bạn bè, và ngược lại có
người lại rất nhiều kẻ thù. Có người được yêu thương, giúp đỡ. Có người chỉ
nhận được sự khinh bỉ, dửng dưng xem thường. Có người được hàng xóm làng giềng
bao bọc. Có người bị anh em loại trừ. Tại sao lại có nghịch lý như vậy? Thưa,
đó không phải là nghịch lý mà là lẽ công bằng mà nói theo ngôn ngữ nhà Phật là
"quả báo", là hậu quả do chính chúng ta đã gieo trồng trong cuộc sống
của chúng ta.
Hôm nay Chúa Giêsu bảo chúng ta hãy ra đi gieo vãi yêu thương. Chúa
cầu mong chúng ta sẽ sinh hoa kết trái. Chính Chúa đã gieo vào lòng chúng ta
hạt giống yêu thương. Chúng ta được lớn lên trong tình thương của Chúa. Chúng
ta được sống trong sự quan phòng đầy yêu thương của Chúa. Chúa còn tuyển chọn
chúng ta nên bạn hữu của Chúa. Chúa còn làm tất cả để chúng ta được hạnh phúc.
Chúa đã quên cả chính mình để chúng ta được sống. Chúng ta đã lãnh nhận tình
yêu thương của Chúa. Dù rằng chúng ta chẳng có công lênh gì. Dù rằng chúng ta
không xứng đáng. Thế mà Chúa vẫn cho chúng ta được ở mãi trong tình yêu của
Chúa. Chúa chỉ cầu mong chúng ta: "anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã
yêu thương anh em". Yêu như Thầy đã yêu là tiếp tục gieo vãi hạt giống yêu
thương của Chúa đến cho muôn người. Hãy thực hành tình yêu của Chúa cho anh chị
em chung quanh chúng ta.
Nhưng có mấy ai đã thực sự sống yêu thương mà không có toan tính,
hay pha chút kỷ ích nhỏ nhoen? Có mấy ai đã yêu tha nhân như chính mình? Có mấy
ai đã vì bạn hữu mà dám quên mình? Có lẽ có, nhưng rất ít.
Nhìn lại những gì đang diễn ra nơi các gia đình, nơi xứ đạo và trên
thế giới, dường như những nghĩa cử yêu thương đang thiếu dần, mà thay vào đó là
sự ích kỷ bởi chỉ lo cho bản thân. Nét nổi trội của xã hội hôm nay không phải
là những nghĩa cử yêu thương cao đẹp mà là bạo lực từ gia đình đến học đường. Ở
nơi đâu cũng có bạo lực. Thành phần nào cũng có thể là nạn nhân của bạo lực. Có
mấy ai đã tự vấn lương tâm để xem mình đã sống yêu thương cho anh chị em mình
như thế nào hay chưa? Có mấy ai đã dám nói lời xin lỗi với gia đình, với cộng đoàn,
vì mình mà gia đình, cộng đoàn đang có những xào xáo, bất đồng ý kiến, đố kỵ,
ghen tương? Có mấy ai đã thực sự dấn thân xây dựng hoà bình khởi đầu bằng những
nghĩa cử bao dung, độ lương với tha nhân?
Nhân loại hôm nay, rất biết ơn những con người biết xây dựng hoà
bình từ yêu thương. Năm 1963, tại Washington, 200,000 người lắng nghe Martin
Luther King, vị mục sư da đen, người đoạt giải Nobel hòa bình nói
chuyện:"Tôi ước mơ một ngày kia, trên những cánh đồng miền Georgia, con
cháu của những người nô lệ và của những chủ nô sẽ ngồi chung với nhau trong một
bàn tiệc huynh đệ. Tôi mơ ước một ngày kia, 4 người con của tôi về sống trong
một nuớc mà chúng không còn bị xét xử vì màu da nữa, nhưng vì công
lao...". Ước mơ của ông đã thành hiện thực khi mà cả dân tộc Mỹ chọn một
người da đen lên vị trí số 1 của nước Mỹ, đó chính là đương kim tổng thống
Barach Obama.
Ước gì mỗi người chúng ta cũng gieo vãi những niềm mơ ước của yêu
thương, của tình hiệp nhất cho anh em của mình. Ước gì những ước mơ hoà bình
phải được thực hiện ngay từ chính bản thân mỗi người chúng ta khi chúng ta biết
nói những lời yêu thương, biết sống trong tình yêu thương tha thứ và vì tha.
Xin Chúa giúp chúng ta luôn học bài học yêu thương của Chúa để biết đem ra thực
hành trong cuộc sống thường ngày, ngõ hầu góp phần kiến tạo niềm an vui và hạnh
phúc cho trần thế hôm nay. Amen.
18.
Như Thầy đã yêu – Thiên Phúc
(Trích trong ‘Như Thầy Đã Yêu’)
Vào năm 1995, xảy ra một trận động đất lớn chưa từng có ở Kôbê,
nước Nhật, cả một thành phố hầu như đổ xuống thành một đống gạch vụn khổng lồ.
Thiệt hại về người và của không biết cơ man nào mà kể. Các đội cứu hộ làm việc
ngày đêm để lôi ra khỏi những đống gạch vụn vô vàn người chết, người bị thương.
Trong các tai hoạ vô cùng khủng khiếp ấy, người ta lại khám phá ra
một câu chuyện hết sức cảm động, mà tiếng vang của nó còn mạnh hơn cả sức chấn
động của cơn động đất. Người ta kể lại rằng, đến ngày thứ hai của cuộc tìm kiếm
nạn nhân, họ đào lên được dưới toà nhà đổ nát hai mẹ con vẫn còn sống: Đứa con nhỏ
khoảng mấy tháng tuổi vẫn còn thoi thóp, và người mẹ đã hoàn toàn bất tỉnh..
Sau khi cấp cứu cho hai mẹ con vượt qua cơn thập tử nhất sinh, các nhà báo đã
phỏng vấn bà mẹ: Làm thế nào mà cả hai mẹ con chị có thể sống được hai ngày
dưới đống gạch vụn ấy Chị đáp: Tuy bị chôn vùi dưới toà nhà đổ nát, nhưng có một cái đà đã che chắn cho
mẹ con tôi. Sau vài tiếng đồng hồ thì con tôi quá đói vì hai bầu sữa của tôi
cháu đã uống cạn. Tôi liền mò mẫm trong bóng tối và đụng phải một vật sắc bén.
Tôi liền vồ lấy và rạch một đường nơi cổ tay, đẩy miệng con tôi vào cho cháu
mút giòng máu nóng. Cháu yên lặng được vài tiếng thì cơn đói lại cào cấu, và
cháu lại gào lên khóc. Tôi liền rạch thêm một đường nữa nơi cổ tay bên kia, đưa
vào miệng cháu. sau đó, tôi không còn biết gì nữa? Thế chị không nghĩ rằng làm
như thế thì chị sẽ chết hay sao? Tôi không hề nghĩ đến cái chết của mình, mà
chỉ nghĩ làm cách nào cho con tôi được sống.
Tình yêu hy sinh quên mình, tình yêu hiến dâng mạng sống của người
mẹ dành cho đứa con trong câu chuyện trên đây, là lời minh chứng hùng hồn cho
lời dạy của Đức Kitô trong bài Tin Mừng hôm nay: “Anh em hãy yêu thương nhau
như Thầy đã yêu thương anh em”. Yêu như Thầy đã yêu chính là cúi xuống rửa chân
cho nhau để bày tỏ một tình yêu sâu thẳm, cho dù người ấy là Giuđa, kẻ phản bội
tình yêu. Yêu như Thầy đã yêu chính là hạ mình xuống ngang hàng với người mình
yêu để cảm thông, chia sẻ và yêu thương như bạn hữu thân tình. Yêu như Thầy đã
yêu chính là yêu cho đến cùng, yêu cho đến chết và chết trên thập giá. Vâng, kể
từ khi Con Thiên Chúa đã yêu thương nhân loại cho đến cùng, thì luật yêu thương
đã trở thành điều răn mới, mới ở đây chính là yêu như Thầy đã yêu.
Chúng ta chỉ có thể yêu như Thầy đã yêu khi chúng ta cảm nghiệm sâu
xa tình yêu sâu nặng mà Người đã dành cho chúng ta. Chúng ta chỉ có thể yêu như
Thầy đã yêu khi chúng ta dám quên mình, bắt chước Thầy, cúi xuống trước anh em.
Chúng ta chỉ có thể yêu như Thầy đã yêu khi chúng ta dám xả thân, yêu cùng mức
độ như Thầy, hiến dâng mạng sống cho anh em. Như vậy, yêu như Thầy đã yêu không
phải là tình yêu vị kỷ (Eros) yêu người khác nhưng chỉ để lợi dụng,
chiếm đoạt cho riêng mình, vì mình mà thôi; nhưng chính là tình yêu vị tha
(Agapé) sẵn sàng hiến dâng, hy sinh cho kẻ khác. Yêu như Thầy đã yêu chính là
một dòng chảy không ngừng. Từ suối nguồn yêu thương của Thiên Chúa tuôn đổ
xuống chúng ta, qua Thánh Thần Tình Yêu của Người, rồi từ con tim tràn đầy yêu
thương của chúng ta, dòng suối tình yêu lại tuôn tràn sang những người anh em
khác.
Nếu tình yêu như một dòng chảy liên kết chúng ta lại với Chúa, thì
chính tình yêu ấy cũng liên kết chúng ta lại với nhau. Và đó cũng chính là dấu
chỉ của môn đệ Đức Kitô: “Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy. Là
anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13,35).
Lạy Chúa, nếu “đồng phục của người Kitô hữu là yêu thương” thì xin
cho chúng con luôn tỏa sáng trong cuộc sống những lời nói yêu thương, những
nghĩa cử nhân hậu, những hành động xả thân cho anh em, để xứng đáng làm môn đệ
Đấng đã yêu thương chúng con cho đến cùng.
Xin cho suối nguồn tình yêu của Chúa tuôn chảy vào tâm hồn chúng
con, không đọng lại như nước ao tù, nhưng luôn là dòng chảy tình yêu đến với
mọi người, để khắp thế giới tràn đầy tình yêu. Amen.
19.
Yêu như Thầy đã yêu
Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau
như Thầy đã yêu thương anh em (Ga 13,34)
Trong bộ phim La Strada của Fredorico Fellini được trình chiếu
1954, khán giả thường nhắc lại một cảnh gây ấn tượng: một anh hề đang nói
chuyện với 1 thiếu nữ. Cô nàng tỏ ra mệt mỏi vì phải cố gắng thương yêu những
người không thể yêu và cũng chẳng đáng yêu, và nàng không muốn liên hệ với họ
nữa. Khi (cuộc gặp gỡ sắp kết thúc) thiếu nữ định ra về, anh hề nói với nàng:
Nếu em không yêu những người ấy thì ai sẽ yêu họ.
Lời anh hề nói với cô thiếu nữ làm tôi liên hệ với lời Chúa Giêsu
trong bài Phúc Âm hôm nay. Chúa Giêsu nói với các môn đệ: "Các con hãy
yêu". Đó cũng là lời Chúa Giêsu muốn nói với từng người chúng ta.
Chúa muốn chúng ta yêu thương tha nhân, nhưng thực tế chúng ta đã
yêu thương tới mức độ nào? Có sẵn sàng yêu những người chúng ta không thích?
Những người không ưa chúng ta, những kẻ nghịch thù có ý muốn làm hại chúng ta?
"Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này:
là anh em có lòng yêu thương nhau." (Ga 13, 35)
Chúa Giêsu dạy chúng ta hãy yêu thương nhau và Ngài là mẫu gương
sống động cho chúng ta noi theo. Ngài đã từ trời xuống thế, đi tìm kiếm kẻ tội
lỗi để cứu giúp. Dù tội là chống lại Thiên Chúa. Thế nhưng Chúa Giêsu lại đi
tìm kẻ đang chống lại Ngài và chịu vác thập giá để đền thay tội lỗi cho tội
nhân, chuộc họ khỏi đau khổ đời đời. Chính Chúa Giêsu biết Giuđa sẽ phản bội
nhưng Ngài vẫn thương yêu Giuđa, nhận ông làm người thân cận của mình, nhưng
Giuđa đã không màng đến tình cảm đó, không biết hối cải, sửa mình. Giuđa là đại
diện cho những Kitô hữu không vâng giữ lời Chúa, cứng lòng trước những lời nhắc
bảo của các mục tử và muốn sống xa đàn, không theo ý của chủ chiên.
Tuy nhiên, có một điều Giuđa không ngờ là cho dù ông có yêu mến
Chúa Giêsu hay không thì Chúa vẫn thực hiện được kế họach ngàn đời của Ngài là
cứu vớt các linh hồn. Thiên Chúa khôn ngoan, quyền phép và đầy tình yêu thương
muốn chúng ta cộng tác vào công trình lớn lao của Ngài. Đó là một vinh dự, là
hồng phúc cho con người. Nhưng nếu có ai muốn chống lại kế họach của Thiên
Chúa, muốn phá hại công trình của Người thì vô phúc cho kẻ đó, còn chương trình
Ngài vẫn không bế tắc.
Chính lúc Giuđa nộp Ngài, chính lúc Ngài bị trói hết chân tay trên
thập giá, lại là lúc nhân lọai được ơn cứu rỗi, là lúc Ngài được tôn vinh.
Ngày hôm nay, Chúa Giêsu cũng muốn chúng ta noi gương Ngài, dùng
tình yêu hóa giải hận thù, dùng sự hy sinh giúp đỡ thật tình đáp lại thái độ
hằn thù, chua chát của kẻ ghét mình.
Khi yêu thương, chúng ta trở nên giống Thầy Chí Thánh và được gọi
là con cái sự sáng, là con Chúa Trời. Và chắc chắn chúng ta sẽ được phần
thưởng, được hưởng gia tài của người con Chúa.
Nếu chúng ta không biết yêu thương và tha thứ, chúng ta sẽ không có
niềm hy vọng, như Giuđa bởi cứng lòng mà chết đau đớn trong tuyệt vọng, không
biết trông cậy vào lòng nhân từ Chúa, không biết chạy đến Chúa với lòng khiêm
nhu, sám hối để được Chúa nhân hậu thứ tha.
Ngày hôm nay, ai trong chúng ta cũng biết rõ giới răn Chúa Giêsu đã
trối lại cho các môn đệ: "Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu
thương anh em (Ga 13, 34); nếu anh em yêu thương kẻ yêu thương mình, thì anh em
nào có công chi? Ngay cả những người thu thuế cũng chẳng làm như thế sao?(Mt 5,
46) Đối với người Công Giáo thì không được coi ai là kẻ thù, nhưng luôn cầu
nguyện và mong điều tốt lành cho mọi người, mong cho chân lý, công bằng, bác ái
đươc thực thi. Ước gì chúng ta biết sống triệt để giới luật yêu thương Chúa
Giêsu đã truyền để xứng đáng là con cái Thiên Chúa. Amen.
20.
Giới răn yêu thương – R. Veritas.
Ngày nay, nếu có ai ghé thăm Tientina Alba, một làng nằm ở phía bắc
Rumani, đều trông thấy bên ngoài làng có một gò đất lớn, bên trên cắm một cây
Thánh Giá thật to. Đó là nấm mồ tập thể của 5,000 tín hữu Công giáo thuộc Giáo
hội Đông phương nước Rumani đã bị quân xâm lược sát hại vào buổi sáng ngày lễ
Phục Sinh ngày 1/04/1941.
Tientina Alba trong tiếng Rumani có nghĩa là "Suối
trắng". Nhưng vào một buổi sáng cách đây hơn nửa thế kỷ nó đã trở thành
một con suối máu của 5,000 người Công giáo chết vì Chúa Kitô. Quân xâm lược đã
triệt để thi hành chính sách tiêu diệt tôn giáo. Người dân Rumani sống tại vùng
này đều thuộc Giáo hội Công giáo Đông phương, nên đó là một chướng ngại lớn đối
với đường lối xâm lăng diệt chủng này.
Anh chị em thân mến!
Biến cố thương đau trên đây trong lịch sử Giáo hội Rumani giúp
chúng ta hiểu được phần nào sứ điệp của Tin Mừng Chúa Nhật V Phục Sinh hôm nay.
Đó là điều giúp chúng ta có thể bước vào cuộc sống Phục Sinh vinh quang trên
thành thánh Giêrusalem thiên quốc. Người Kitô hữu cũng phải đi theo con đường
của Chúa Giêsu Kitô bước đi trên con đường tăm tối của bắt bớ, khổ đau và cái
chết.
Thành thánh Giêrusalem thiên quốc như đã diễn tả trong chương 21
của sách Khải Huyền là một kinh thành kỳ lạ, nó là điểm thành toàn của lịch sử cứu
độ cứu độ sau khi vượt thắng tất cả mọi lực lượng lịch sử xã hội tiêu cực và
chiến thắng kinh thành thế tục gian ác tội lỗi của trần gian này. Sau khi chiến
thắng kinh thành Babylon hiện thân của mọi quyền lực chính trị, ý thức hệ và
kinh tế trần gian bắt bớ chống đối Giáo hội, sau khi đánh tan mọi lực lượng sự
dữ do ma quỉ chỉ huy, cộng đoàn Kitô hữu hân hoan khải hoàn bước vào kinh thành
thiên quốc. Họ bước vào trời mới đất mới, nơi không còn khóc than, khổ đau,
chết chóc, buồn thương và mệt nhọc nữa.
Bởi vì, thế giới cũ đã qua rồi và mọi sự đã được đổi mới. Giờ đây,
họ được sự hiện diện rạng ngời của Thiên Chúa, Đấng ở cùng chúng tôi. Nhưng
trước đó, con đường của Giáo Hội lữ hành là con đường khổ nạn của Chúa Giêsu.
Trong khung cảnh thân tình của bữa Tiệc Ly, Chúa Giêsu đã nói với
các tông đồ lời tâm huyết. Sau khi Giuđa, kẻ phản bội Ngài rời khỏi nhà Tiệc Ly
để đi vào đêm tối mịt mù. Đêm tối của tâm hồn và cuộc đời Giuđa và đêm tối của
thế giới.
Qua đó, Chúa Giêsu mới thổ lộ cho các tông đồ biết rõ hơn con đường
dẫn Ngài tới chỗ vinh quang, đó là con đường của Thập Giá. Chính khi bị treo
khổ nhục trên Thập Giá, cũng là chính lúc Chúa Giêsu được tôn vinh và thành
toàn chương trình cứu độ trần gian của Ngài.
Như vậy, những khổ hình Thập Giá thay vì dấu chỉ của hình phạt, thì
nó lại trở thành dấu tích yêu thương cao vời nhất mà Thiên Chúa và Chúa Giêsu
đã dành cho con người. Do đó, chỉ những ai sống yêu thương mới hiểu được cái
logic ngược đời ấy của Thập Giá. Đồng thời đây cũng là kiểu cách hành động của
Thiên Chúa.
Giới răn yêu thương mà Chúa Giêsu trăn trối lại cho các tông đồ và
cho cộng đoàn Giáo hội thật mới mẻ, vì nó diễn tả thái độ dấn thân tuyệt đối và
trọn vẹn mà Chúa Giêsu đã ký kết với loài người bằng chính máu của Ngài. Tình
yêu thương ấy là tình yêu thương hai chiều bình đẳng giữa các tín hữu. Bởi vì
trong cộng đoàn ai cũng cần yêu thương và được yêu thương. Nhưng từ nay không
còn chuyện yêu người như yêu mình nữa, mà yêu người như chính Thầy đã yêu chúng
con, nghĩa là Kitô hữu phải yêu thương nhau với cùng cường độ trong cùng tâm
tình và kiểu cách của Chúa Giêsu là tận hiến vô biên và trọn vẹn. Tình yêu
thương của Chúa Giêsu là suối nguồn, mẫu mực và linh hồn tình yêu thương của
Kitô hữu. Và sau cùng, tình yêu ấy là căn cước, là chứng tích sống động giúp
nhận ra ai là thành viên thực sự thuộc cộng đoàn Giáo Hội của Chúa Giêsu Kitô.
Trong chương 14 sách Tông đồ Công vụ, thánh Phaolô cũng chỉ cho
chúng ta con đường chắc chắn giúp tiến về kinh thành Giêrusalem. Đó là noi
gương Chúa Giêsu can đảm tiến bước trên con đường Thập Giá của lòng tin.
Phần thứ hai của sách Tông đồ Công vụ, các chương 13-28 nêu bật sự
truyền giáo của thánh Phaolô. Các trình thuật cho chúng ta thấy ba nhân tố thần
học song song quan trọng sau đây:
1. Gương mặt của Saolô lòng đầy hận thù, hăng hái tìm cách bắt hại
và bỏ tù tất cả những ai tin vào Tin Mừng của Chúa Giêsu và gương mặt của một
Phaolô không ngừng thôi thúc Kitô hữu vững vàng trong lòng tin và kiên trì chịu
đựng mọi bắt bớ gian lao thử thách vì Chúa Giêsu Kitô.
Kinh nghiệm cuộc gặp gỡ đổi đời với Chúa Kitô Phục Sinh đã khiến
cho Phaolô xác tín rằng con đường duy nhất giúp hiện thực ơn gọi làm
người toàn vẹn là bước theo Chúa Giêsu Kitô và sống Tin Mừng của Ngài, cho dù có phải trả giá
đắt đỏ bằng chính sự sống của mình đi nữa.
2. Nhân tố thần học song song thứ hai là kinh nghiệm đau khổ mà
thánh Phaolô phải chịu vì Thập Giá Chúa Kitô và kinh nghiệm bách hại mà cộng
đoàn Kitô phải sống. Phaolô đã lâm cảnh lao đao lận đận, ba chìm bảy nổi chín
cái lênh đênh vì Chúa Kitô và vì Tin Mừng của Ngài. Và Kitô hữu trong cộng đoàn
tiên khởi thời đó cũng như trong các thế hệ sau này khắp nơi trên thế giới đều phải sống kinh nghiệm
Thập Giá như thầy mình là Chúa Giêsu Kitô.
Chỉ khi biết phám phá ra cái logic lạ lùng ngược đời ấy, con người
và thế giới mới tìm được thế quân bình hạnh phúc trọn vẹn thời khai nguyên vũ
trụ và mới thực hiện được chương trình sống mà Thiên Chúa muốn.
Nói cách khác, con đường dẫn đến cuộc sống giờ đây là con đường dẫn
tới Thập Giá và khổ đau mà Kitô hữu cần phải chấp nhận mỗi ngày trong tâm tình
của Chúa Giêsu Kitô, để sinh vào cuộc sống và thế giới này, để mở mắt nhìn thấy
cha mẹ, người thân, mặt trời, trăng sao, thú vật và hoa cỏ xinh tươi. Đứa bé
nào cũng phải xé lòng mẹ và khóc tiếng chào đời. Nó chào đời và đời chào đón nó
bằng tiếng khóc pha trộn nỗi vui mừng và niềm hy vọng.
3. Mấu điểm thần học song song thứ ba được nêu bật trong phần 2 của
sách Tông Đồ Công Vụ là cái song song giữa kiểu cách mà Thiên Chúa hướng dẫn
cuộc sống của thánh Phaolô với kiểu cáchThiên Chúa hướng dẫn cộng đoàn
Kitô hữu, Giáo hội và thân mình mầu nhiệm của Ngài.
Trên con đường cuộc sống lòng tin, chúng ta tất cả đều cần đến
người hướng đạo có nhiều kinh nghiệm chỉ bảo, khuyên nhủ và khuyến khích. Thánh
Phaolô đã được Annania chỉ bảo, giảng giải và hướng dẫn trên con đường cuộc
sống mới do Chúa Kitô Phục Sinh chỉ vẽ cho ông. Giờ đây thánh nhân chọn lựa các
linh mục, các vị hữu trách có nhiệm vụ hướng dẫn cộng đoàn Kitô hữu. Đó là
những vị bô lão. Bô lão ở đây không ám chỉ sự già dặn của tuổi tác cho bằng sự
già dặn kinh nghiệm trong cuộc sống lòng tin, lòng tin cậy trông và lòng mến.
Vị linh mục, người lãnh đạo tinh thần của cộng đoàn già dặn về tuổi
tác là một phần thứ yếu, nhưng phải già dặn về kinh nghiệm sống thân tình với Thiên
Chúa và thông hiểu giáo huấn Tin Mừng của Chúa cũng như giáo huấn của Giáo hội,
đó là điều thiết yếu mà linh mục cần phải có. Chúng ta hiểu tại sao trước khi
trao cho Phêrô trọng trách hướng dẫn Giáo Hội, Chúa Giêsu đã ba lần hỏi xem ông
có yêu mến Ngài hơn những người này không? Chính tình yêu là linh hồn của công
tác rao giảng nước Chúa và là hộ chiếu giúp tín hữu được bước vào kinh thành
hạnh phúc. Nó là một tình yêu trọn vẹn trong mọi chiều kích thần học cũng như
xã hội ở đời này cũng như trong cuộc đời mai sau. Amen.
21.
Giới răn yêu thương
(Trích trong ‘Một Ngày Một Tin Vui’ – Radio Veritas Asia)
Thánh Gioan đã mở ra một tương lai tươi đẹp cho toàn thể nhân loại.
Trong bài đọc thứ hai được trích từ chương áp cuối của sách Khải Huyền, tức
chương 21,2-5, sẽ có một trời mới, đất mới, một thành thánh Giêrusalem mới, sẽ
không còn sự chết, cũng chẳng còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, vì họ sẽ
là dân của Người, còn chính Người sẽ là Thiên Chúa ở cùng họ. Người sẽ lau sạch
nước mắt của họ, nhưng trong thời lữ hành tại thế, các tín hữu cũng như toàn
thể Hội Thánh phải chịu nhiều gian lao thử thách. Bài đọc một thuật lại cuộc
viếng thăm của hai tông đồ Phaolô và Barnaba tại các giáo đoàn Listra, Ticonio
và Antiokia. Hai vị tông đồ khuyên nhủ các tín hữu giữ vững đức tin mặc dù
những gian lao thử thách: "Chúng ta phải chịu nhiều gian khổ mới được vào
Nước Thiên Chúa".
Tâm điểm của Lời Chúa Chúa Nhật thứ 5 Phục Sinh năm C, chính là
giới luật yêu thương mà Chúa Giêsu ban bố và trăn trối cho các môn đệ
trước khi Người ra đi chịu chết: "Thầy ban cho các con một điều răn mới là
các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con".Giới luật yêu thương của
Cựu Ước: "Ngươi không được để lòng ghét anh em. Ngươi không được trả thù,
không được oán hận. Ngươi phải yêu thương đồng loại như chính mình" (Lêvi
19,17-18). Giới luật đó đã được Chúa Giêsu hoàn tất và ban bố như luật tối
thượng của giao ước mới, của luật mới: "Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên
Chúa của ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn
quan trọng nhất và là điều răn thứ nhất, còn điều răn thứ hai cũng giống điều
răn ấy là ngươi hãy yêu người thân cận như chính mình. Tất cả luật Môisen và
các sách Ngôn Sứ đều tuỳ thuộc vào hai điều răn ấy" (Mt 22,37-40).
Luật yêu thương này là cốt tủy của đạo Chúa và cũng là nền tảng của
mối liên hệ giữa con người với Thiên Chúa cũng như giữa con người với nhau. Mến
Chúa yêu người đi song đôi với nhau. Ai yêu mến Thiên Chúa thì cũng yêu tha
nhân và tình yêu tha nhân là thước đo tình yêu Thiên Chúa. Tình yêu Thiên Chúa
là mẫu mực để tình yêu con người trở nên hoàn thiện. Chính Thiên Chúa đã yêu
thương chúng ta trước để mỗi người noi theo: Tình yêu cốt tủy ở điều này: không
phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa nhưng chính Ngài đã yêu thương chúng ta và
sai Con của Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta. Nếu Thiên Chúa đã yêu
thương chúng ta như thế, thì chúng ta cũng phải yêu thương nhau" (1Ga
4,10-11).
Yêu thương bằng cả con tim và bằng hy sinh cả mạng sống chứ không
phải chỉ yêu thương bằng môi miệng. Tình yêu bao giờ cũng minh chứng bằng việc làm,
bằng hành động. Luật yêu thương còn là điểm nòng cốt để chứng tỏ chúng ta là
môn đệ của Chúa Giêsu. Đây cũng là dấu chỉ để người khác nhận ra chúng ta là
người Kitô. Và đây cũng là chứng tá của các môn đệ Kitô cho thế giới đầy bất
hoà hôm nay. "Mọi người sẽ nhận biết các con là môn đệ của Thầy ở điểm
này, là các con có lòng yêu thương nhau".
Lời Chúa Chúa Nhật thứ 5 Phục Sinh mời gọi mỗi tín hữu Chúa Kitô,
những người môn đệ của Chúa hôm nay hãy xây dựng trời mới, đất mới, bằng chính lòng tin sắt
đá và tình yêu tinh ròng. Hãy kiểm điểm lại cách ăn nết ở của mình, xem
đã nhập tâm giới luật yêu thương của Chúa đến đâu. Bao lâu còn bất hoà chưa sẵn
lòng tha thứ, còn để bụng thù oán, bấy lâu mình chưa phải là môn đệ của Chúa
Kitô.
Lạy Chúa, xin giúp mỗi người chúng con thực thi giới răn yêu
thương. Xin đổ tràn tình yêu của Chúa xuống trên chúng con để chúng con có thể
yêu mến Chúa và yêu thương anh em thật lòng trong mọi hoàn cảnh.
22.
Vương quốc tình yêu – Lm. Anmai.
Lịch sử nhân loại đã mở đầu bằng sáng tạo thì sẽ kết thúc bằng tái
tạo (sáng tạo mới).
Người ta vẫn thường dùng chữ tận thế để diễn tả sự tan vỡ của lịch
sử và vũ trụ vật chất. Sự tan vỡ, sự tận thế là điểm tất yếu để cho thế giới
mới xuất hiện. Tận thế, theo cách nói, cách diễn đạt của con người chính là
giây phút quặn đau để chấm dứt cõi tạm và đưa vào con người vào cuộc sống mới
(Rm 8, 21.22; 2 P 3, 10.13; Kh 21, 1.5)
Gioan đã được "ơn" để thấy vũ trụ thời cánh chung. Trời
cũ đất cũ đã qua đi. Cách riêng, biển là nơi ủ ấp những sự dữ cũng sẽ không còn
nữa. Một trời mới đất mới sẽ xuất hiện để thay cho trời cũ đất cũ. Một
Giêrusalem mới tự trời cũng sẽ xuống và chỉnh tề như một tân nương. Hội Thánh
mới là dân Thiên Chúa sẽ xuất hiện đó là mỗi người chúng ta. Tất cả trong tư
thế sẵn sàng để đón chờ đức lang quân. Người đến đó chính là Thiên Chúa và
Thiên Chúa ở cùng họ. Với tình thương, Thiên Chúa sẽ lau khô giọt lệ trên khuôn
mặt của họ. Chúa sẽ khử trừ sự chết. Thiên Chúa phán: này Ta làm mới mọi sự.
Thế giới mới, cuộc sống mới mà Thiên Chúa hứa này hoàn tất mọi lời
hứa và công trình của Ngài. Ơn cứu độ đã hứa, đã chuẩn bị một thời gian thật
dài trong lịch sử nay hoàn thành. Chúa Giêsu là thủ lãnh của vạn vật tập họp
tất cả trong Ngài và Ngài trong tư cách là con trao lại Thiên Chúa Cha để như
lời Chúa Giêsu nói là tất cả mọi sự là của Cha.
Thế giới mới này đã được hoàn tất và sẽ phục hồi tất cả những gì đã
mất, đã hư hỏng để công trình cứu độ của Thiên Chúa hoàn thành. Thế giới mới
này không chỉ phục hồi tình trạng nguyên khởi của nhân loại mà còn tiến xa hơn,
đạt tới viên mãn hơn. Tất cả cái xấu bị loại bỏ. Cái bất toàn được cải thiện và
nâng cao. Cái tốt do lòng tin - cậy - mến được giữ lại làm chất liệu để xây
dựng trời mới đất mới.
Niềm tin để xây dựng trời mới đất mới được Phaolô và Banaba nhắc
nhở cho mọi người.
Phaolô và Banaba đi rao giảng Tin mừng. Khởi đầu từ Antiôkia là nơi
Thánh Thần "thổi hơi" cho các ông và mời gọi các ông đi rao giảng.
Các ông đã đi từ thành này sang thành khác, đảo nọ sang đảo kia với biết bao
nhiêu khó khăn vất vả, lo lắng, sỉ nhục và thậm chí còn bị cầm tù. Thế nhưng
vượt trên tất cả những khó khăn ấy lại là niềm vui vì danh Chúa và cứu độ các
linh hồn. Lòng các ông dần dần thay đổi. Các ông yêu những người các ông được
sai đến như Chúa Giêsu đã yêu các ông. Các ông đã thực thi giới răn mới nhận
được từ Chúa. Vì thực thi như vậy, những ai tiếp xúc, những ai gặp gỡ nhìn thấy
nơi các ông hình ảnh của Chúa Giêsu.
Cuộc đời của các tông đồ quả là cuộc đời đầy gian nan khốn khổ ấy
vậy mà các ông lại để giờ khích lệ và khuyên nhủ người ta giữ vững đức tin
"Chúng ta phải chịu nhiều gian khổ mới được vào Nước Thiên Chúa." Các
môn đệ có lẽ phần nào giống như Thầy của mình trong bàn Tiệc Ly. Dù biết phải
đón nhận đau khổ, đón nhận cái chết trên thập giá nhưng lại bảo các môn đệ giữ
vững niềm tin. Các môn đệ mời gọi con người ta đi theo con đường hẹp, đi theo
con đường thập giá.
Đó là niềm tin. Niềm hy vọng thì qua thánh Gioan tông đồ, chúng ta
được mời gọi để chờ đợi cái ngày trời mới đất mới đến. Trời mới đất mới mà
Gioan thấy cũng chỉ là trong viễn tượng và là viễn tượng của lòng tin. Nếu
không hy vọng vào trời mới đất mới đến thì sẽ nản lòng và cứ mãi bám vào cái
cũ, bám vào cái trời cũ đất cũ mà con người đang sống. Để có một niềm hy vọng
vào lời của Gioan không phải là chuyện đơn giản.
Thêm một bậc nữa để sống trong trời mới đất mới đó là tình yêu, đó
là lòng mến. Tình yêu và lòng mến đó ngày hôm nay Chúa Giêsu đã trình bày hết
sức rõ ràng trong Tin mừng theo Thánh Gioan
Chúa Giêsu biết trước cái ngày mà Ngài phải ra đi nhưng rồi Ngài
loan báo cách hiện diện mới mẻ của Ngài. "Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời
Thầy. Cha của Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha của Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại
với người ấy" (Ga 14,23). Và thánh Gioan quảng diễn như sau: "Nếu
chúng ta yêu thương nhau, thì Thiên Chúa ở lại trong chúng ta" (1 Ga
4,12).
Vâng, tình yêu đích thực là một "sự hiện diện thực sự"
của Thiên Chúa. "Ở đâu có hai ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy
ở đấy, giữa họ". Chúa Giêsu hiện diện giữa những người cùng nhau cầu
nguyện (Mt 18-20). Những gì các người đã làm (cho ăn, cho mặc, viếng thăm, săn
sóc) cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta, là "các ngươi đã làm
cho chính Ta vậy". Chúa Giêsu luôn hiện diện trong mọi người đang cần đến
tôi và tôi đang phục vụ (Mt 25,31-46).
Nếu thực là thế ! Nếu thực là "Thiên Chúa đã chết", thì
sự vắng mặt của Thiên Chúa trong thế giới hiện tại chỉ là hiện tượng tình yêu
đã chết". Nhưng hãy để ý, vì tiếng nói lừa dối của thế giới hiện đại không
ngừng thay đổi giọng điệu với ta, qua những làn phát sóng, trong mọi thứ quảng
cáo. Người ta chỉ bàn luận, chỉ ca ngợi "tình yêu". Nhưng là thứ tình
yêu nào chứ ? Éros hay Agapè, "tình yêu bản thân" hay "tình yêu
kẻ khác" ? tình yêu là từ hàm hồ nhất, giả dối nhất. Khi chúng ta nói:
"Tôi thích bánh bía Sóc Trăng !"... chúng ta có thích nó thực sự hay
chúng ta sử dụng nó nhằm thoả mãn cho lợi ích của chúng ta ? Khi chúng ta yêu
một người nào đó, chúng ta có yêu họ theo cách đó. .. nghĩa là chỉ vì chúng ta
hay vì họ ? Ngôn ngữ Hy Lạp ít hàm hồ hơn, vì có hai từ khác biệt nhau để diễn
tả hai thực tại yêu thương đối nghịch nhau:
- Éros: Yêu mình... đó là tình yêu lợi dụng kẻ khác đến hủy hoại
họ.
- Agapé: Yêu tha nhân.. . đó là tình yêu sẵn sàng hy sinh cho kẻ
khác.
Chúa Giêsu nói: như Thầy đã yêu thương anh em, anh em hãy thương
nhau. Với một từ "như" hết sức đơn giản. .. nhưng đã vạch trần mọi
hình thức tình yêu giả tạo của chúng ta dễ dàng lặp đi lặp lại.
Yêu như Chúa Giêsu yêu ! Đó là quỳ gối xuống rửa chân cho anh em
mình, một cử chỉ phục vụ thấp hèn nhất (Ga 13,14). Đó là việc Chúa Giêsu vừa
làm. Yêu như Chúa Giêsu yêu ! Đó là "hiến mạng sống cho kẻ mình yêu
thương" (Ga 10,11-15,13). Đó là điều Người sắp thực hiện, vào ngày mai,
trên thập giá.
Chúa Giêsu nói với thánh nữ Angèle de Foligno: "Việc cha yêu
con, đâu phải trò đùa". Tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta đã dẫn
Người đến thái độ hoàn toàn từ bỏ bản thân mình.
Để yêu tha nhân đúng như con người, và nhận biết họ trong chính sự
"khác biệt" của họ, chúng ta cần từ bỏ quan niệm coi mình là trung
tâm mọi giá trị. Đối với Thiên Chúa, tình yêu tha nhân đã dẫn Chúa Giêsu chấp
nhận thập giá Thiên Chúa đã yêu thương con người đến nỗi yêu thương họ, trong
cả khả năng thụ tạo nhầm lẫn của họ. Khả năng đó, "kẻ khác" đã chiếm
hữu trong tự do của họ, để phủ nhận tôi, trở nên một địch thù với tôi, và kết
án tử hình tôi !
Đối với Chúa Gỉêsu, tình yêu không phải là cái gì cứ lặp đi lặp lại
cách dễ dàng và nhàm chán đến độ vô nghĩa. Mọi người xem ra đều nói đến yêu
thương. Thế mà, Chúa Giêsu quả quyết, giới răn của Người thì mới mẻ. Phải, yêu
như Chúa Giêsu hẳn là phải rất độc đáo, rất mới lạ. Đó là một thứ luân lý mới.
Người ta không khi nào biết được nơi mà tình yêu đó dẫn bạn tới.
Ở điểm này, mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy:
"là anh em có lòng yêu thương nhau".
Vỏn vẹn với 3 dòng Tin Mừng, Chúa Giêsu đã ba lần lặp lại điệp
khúc: Yêu thương nhau. Sự lặp lại rất có ý nghĩa. Nhờ đó, Người đã gợi lên ba
lý do bổ sung cho nhau, khiến chúng ta phải yêu thương.
Đó là lệnh truyền của Chúa Giêsu: "Thầy ban cho anh em một
điều răn mới".
Đó là gương mẫu của Chúa Giêsu: "Yêu thương nhau như Thầy đã
yêu thương anh em".
Sau cùng, đó là dấu chỉ Chúa Giêsu: "Người ta sẽ nhận biết anh
em nhờ tình yêu...".
Như vậy, Chúa Giêsu thực sự mời gọi các môn đệ tiếp tục sứ vụ của
Người, lúc Người rời bỏ thế gian. Tình yêu huynh hệ là "thể thức"
thực sự, giúp Đức Kitô tiếp tục hiện diện suốt dòng "Thời gian cuối
cùng", mở đầu bằng cài chết của Người. Gioan đã không thuật lại việc lập
phép Thánh Thể, như ta mong đợi. Nhưng bù lại, ông đã tường thuật việc rửa chân
" và trao ban "giới răn mới quan trọng" như thể dưới mắt ông,
Tình yêu là một tái diễn sự Hiện Diện đích thực của Đức Kitô, cũng thực sự và
hữu hiệu, như dấu chỉ hữu hình, của Bí tích Thánh Thể. Nhằm bổ sung những gì mà
các thánh sử khác không nói đến, có thể nói thánh Gioan đã giảm thiểu tính
thiêng thánh của nghi thức, để đề cao nội dung hơn". Theo thánh Mát-thêu,
Máccô và Luca, Chúa Giêsu nói: "Này là Mình Thầy sẽ bị nộp, và Máu Thầy sẽ
đổ ra". Còn theo Gioan, Chúa Giêsu đã nói: "Thầy rửa chân cho anh em,
Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em". Nhưng, đó cũng
chính là "sự hiện diện" có tình nghi thức và thực sự. Có một điều gì
đó chất vấn mạnh mẽ các Kitô hữu khi tham dự thánh lễ. Dấu chỉ mà người ta nhận
ra môn đệ Chúa Giêsu không chỉ là Thánh lễ. "Ở điểm này, mọi người sẽ nhận
biết anh em là môn đệ của Thầy: là anh em có lòng yêu thương nhau".
Chúa Giêsu từ vương quốc Tình Yêu đến và Ngài lại trở về vương quốc
Tình Yêu. Ngài đã mở đường bằng Tình Yêu và những ai yêu thật sự như Chúa Giêsu
yêu sẽ có một chỗ trong vương quốc Tình Yêu ấy.
Muốn có chỗ trong trời mới đất mới hay vương quốc Tình Yêu của Chúa
Giêsu thì ngay trong cái cõi tạm, ngay trong cái trời cũ đất cũ này con người
phải sống niềm tin, niềm hy vọng và đặc biệt tình yêu mà Chúa Giêsu đã sống.
23.
Suy niệm của Lm Phaolô Cao Thế Bình
Kính thưa qúi ông bà anh chị em, thỉnh thoảng ta xem trên truyền
hình hay băng DVD về những lễ như: lễ đăng quang của Đức Giáo Hoàng, hay lễ phong
vương của vua chúa ngày xưa, mà ngày nay gọi là: lễ nhận chức tổng thống. Tất
cả những người được phong vương, phong chức ấy đều hiểu theo nghĩa “Được tôn
vinh”. Nghĩa là ngày hân hoan vui mừng vì được tôn lên, được đạt đến đích điểm
của quyền cao chức trọng. Và để được sự tôn vinh đó người ta cũng phải trải qua
bao lao nhọc, khó khăn, vất vả bởi học hành, bởi dày công tập luyện.
Hôm nay trong bài Tin Mừng của Thánh Gioan cũng nói tới việc ‘tôn
vinh’. “Đức Giêsu nói: Giờ đây, Con Người được tôn vinh”. Nhưng việc Đức Giêsu
được tôn vinh là qua sự đau khổ, đớn đau bởi: bị phản bội, bị bắt bớ, sĩ nhục,
vu oan, cáo vạ, bị đánh đập và bị giết chết một cách ô nhục trên thánh giá. Một
sự tôn vinh khác hẳn con người nhân loại được tôn vinh. Sự tôn vinh của Chúa Giê-su
là tôn vinh của một Vị Thiên Chúa, mà Chúa Cha được tôn vinh nơi Chúa Giêsu,
đồng thời Chúa Giêsu cũng được tôn vinh. Giờ phút Chúa Giê-su được tôn vinh là
giờ phút mà Giuđa phản bội bỏ ra đi khỏi phòng hội, cử toạ là Thầy Chí Thánh
Giêsu cùng với 11 trò còn lại.
Giờ phút từ giã trần thế, nhất là từ giã những người yêu qúi để đi
cho đến cùng của yêu thương, trong bầu khí liêng thiêng và hệ trọng như thế,
nên lời căn dặn cũng ở tầm mức không những quan trọng mà còn tha thiết, mong
mỏi mọi người thực hành đến nỗi nó trở thành điều răn, lệnh truyền; lệnh truyền
mới: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh
em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”. Chính vì điều này mà:
“Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: Là anh em có lòng
yêu thương nhau”. ( Ga 13, 34-35).
Điều răn mới ở chổ nào? Đó là: “Yêu như Thầy đã yêu thương anh em”.
Khác với giới luật yêu thương cũ: “Yêu thương người ta như chính mình ngươi”.
Yêu thương như thế cũng là tốt lắm rồi; vì ai cũng yêu mình, và nếu yêu mình
thế nào để yêu người khác được như vậy, qủa là một cuộc cách mạng lớn lắm rồi,
thế giới cũng đổi thay lắm rồi; thế mà điều răn Chúa đưa ra còn vượt xa hơn
nhiều: vì lấy Thầy Chí Thánh làm chuẩn mực vì: “Anh em gọi Ta là ‘Thầy’ là
‘Chúa’, quả thật là vậy, Thầy là Thầy, là Chúa. Vậy, nếu Thầy là Chúa, là Thầy,
mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau. Thầy đã làm
gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em.” (Ga 13, 13).
Đây là điều mới không ai tưởng tượng nổi, một vị Thiên Chúa quyền năng cao cả
mà cúi mình xuống phục vụ các môn đệ của mình, kể cả kẻ phản bội mình nữa, Chúa
cúi mình xuống phục vụ như một đầy tớ phục vụ ông chủ. Quả thật cuộc đời của
Chúa Giê-su là hy sinh phục vụ, phục vụ quên mình, phục vụ bằng liều mình chết
bởi tình yêu, với tình yêu và cho tình yêu. Tình yêu (Agapé); tình yêu tuyệt
hảo đó là: yêu và yêu cho đến cùng, yêu cho đến nỗi chấp nhận cái chết không
những cho người dễ thương, dễ yêu mà còn cho kẻ thù nghịch, bội phản, chống đối
mình nữa.
Một tình yêu tuyệt vời, một tình yêu trọn vẹn, một tình yêu mang
lại sự sống đời đời nên: tình yêu này trở nên lệnh truyền, trở nên điều răn
mới. Và khi đã trở thành lệnh truyền và điều răn thì không phải là chuyện (giỡn
chơi), nên dù muốn, dù không thì ai ai cũng phải thực thi, phải tuân giữ, nếu
không thì cuộc sống con người đau khổ, cay đắng và trầm luân. Chính vì thế mà
Chúa phải đưa ra lệnh truyền; vì Chúa muốn thông chia cuộc sống hạnh phúc và sự
sống đời đời cho con người qua sự yêu thương nhau, và chỉ có yêu thương nhau mà
thôi; bởi vì khi con người sống ngược lại với sự yêu thương thì con người sẽ
loại trừ nhau, thanh toán nhau, và đủ bao thảm hoạ đau thương xẩy ra như chúng
ta đang chứng kiến ngày hôm nay; từ cá nhân, gia đình, đến đoàn thể, cộng đoàn,
giáo xứ, xã hội, thế giới, đâu đâu cũng có cảnh đau thương xẩy ra và không
chừng nhiều người trong chúng ta đang ngồi đây là nạn nhân, là những người đang
sống trong cảnh địa ngục trần gian, bởi vì ở đó vắng bóng tình yêu.
Vậy thì, hơn bao giờ hết; từ cá nhân, gia đình, cộng đoàn, giáo xứ,
thế giới muốn có sự hòa bình, muốn có sự bình an đích thực, sống niềm vui và
hạnh phúc thì phải tuân giữ lệnh truyền của Chúa Giê-su: “Các con hãy yêu
thương nhau như Thầy đã yêu thương các con. Thầy truyền cho các con một điều
răn mới là: các con hãy yêu thương nhau” (Ga 13, 34). Đây như một định luật
không có gì có thể thay thế được, cho dù nhân loại đang cố gắng lấy tiền bạc,
tiện nghi, giải trí này, giải trí kia để trám lấp cho tình yêu, và càng sai lầm
khi nghỉ rằng những thứ đó thay thế cho tình yêu đích thực, nhưng than ôi! Đó
chỉ là những sự chắp vá nhất thời, để rồi sau đó là một sự trống vắng, chán
chường, ghê tởm đáng sợ, bởi những đau thương này chồng chất lên đau thương
khác không bao giờ dừng lại.
Và giờ đây, hỡi bạn! tôi mời bạn, kể cả tôi nữa, chúng ta hãy yêu
thương nhau, cho dù bạn là ai đi chăng nữa. Bạn không phải là người Ki-tô hữu
ư? Bạn hãy yêu người khác như chính bạn. Bạn và tôi là những người Ki-tô hữu ư?
Chúng ta lại càng phải vượt xa hơn nữa bởi một tình yêu vị tha; yêu như Đức
Ki-tô đã yêu và đang mời gọi bạn và tôi bước theo con đường tình yêu đó, có như
thế mới cứu vãn được thế giới đang bị băng giá vì thiếu vắng tình yêu sưởi ấm.
Và khi chúng ta có được một tình yêu đích thực thì tình yêu đó sẽ dạy cho chúng
ta có trăm phương, ngàn cách để làm cho người khác được những sự tốt đẹp. Và
đây là lời của thánh Augustino: “Bạn hãy yêu đi đã rồi muốn làm gì thì làm”.
Lạy Chúa, xin tạo cho chúng con một quả tim mới; một quả tim biết
yêu thương nhau, yêu như Chúa đã yêu thương chúng con và truyền dạy chúng con.
Amen. Halleluia.
24.
Trời mới đất mới – Lm. Jos. Phạm Thanh Liêm
Thiên Chúa là Đấng luôn mới, Ngài luôn có những chương trình và
sáng kiến tuyệt vời để can thiệp và cứu độ con người trong những tình huống
khác nhau. Ngài vẫn tiếp tục làm mới tất cả và đặc biệt con người. “Này đây Ta
làm mới tất cả”
“Trăng bao nhiêu tuổi trăng già?
Núi bao nhiêu tuổi, vẫn là núi non!”
Một đồ vật, cũ theo thời gian. Một cái máy, không làm cái gì “mới”
vì người ta biết cái gì sẽ xảy ra. Làm một cách “máy móc”, nghĩa là người ta có
thể biết những hành động tiếp sau.
Con vật không có tự do, thế nên người ta có thể kiểm soát và chi
phối chúng, bắt chúng làm theo ý người ta; chẳng hạn những con vật được dùng để
làm xiếc. Khi một người nô lệ tiền bạc, người khác có thể dùng tiền bạc để chi
phối hay điều khiển họ. Một người ham sắc, có thể bị điều khiển bởi người nữ.
Chuyện Bao Tự- Kỷ vương là một thí dụ. Những người như vậy, tuy tự do mà chẳng
tự do. Ai mà không thể cưỡng lại điều gì, e rằng người đó không còn tự do nữa.
Con người luôn luôn mới vì con người luôn tự do. Con người, có thể
thay đổi. Đổi thành tuyệt hơn hoặc tệ hơn. Tốt hơn và tuyệt hơn, không phải là
chuyện “đã qua”, nhưng luôn là chuyện “hiện tại”. Vấn đề không là “quá khứ tôi
tốt”, nhưng chính yếu là “lúc này tôi có tốt không?” Vấn đề không là “hôm qua
nó xấu”, nhưng chính yếu là “bây giờ người đó thế nào?” Con người, luôn luôn có
thể mới. Không ai biết được! Những lần trước, họ như vậy, nhưng không có nghĩa
họ như vậy lần này. 999 lần trước, họ như vậy, nhưng lần này, có thể họ khác.
Con người có thể mới, con người luôn luôn có thể mới.
Con người có tự do, không ai bắt họ “đổi” được. Cha mẹ, anh em,
những người thân, muốn điều tốt cho họ, thế nhưng tất cả đều bất lực. “May ra
Thiên Chúa có thể làm gì được chăng!” Thiên Chúa có thể làm được, nhưng Ngài
lại cho con người “tự do”, nên dường như Ngài cũng “bất lực”!
Chỉ có Thiên Chúa mới có thể biến đổi con người mà con người vẫn tự
do. Thiên Chúa có thể làm điều đó, vì Ngài yêu con người vô cùng. Ngài có cách
làm con người biến đổi. Dường như chỉ Thiên Chúa mới có thể làm con người biến
đổi, vì “dường như” chỉ Thiên Chúa mới yêu thương “ai đó” vô cùng!
Tình yêu có sức biến đổi con người mà con người vẫn tự do.
Thiên Chúa vẫn đang làm mới tất cả, qua Đức Yêsu chết và phục sinh.
Yêu nhau như Thầy yêu anh em
“Thầy để lại cho anh em một giới răn mới, là anh em hãy yêu thương
nhau. Như Thầy yêu thương anh em, anh em hãy yêu thương nhau. Cứ dấu này mà
người ta nhận biết anh em là môn đệ Thầy, là anh em yêu thương nhau”.
Luật Cựu Ước dạy: “yêu thương tha nhân như chính mình” (Lv.19, 18).
Chúa Yêsu dạy: “yêu thương tha nhân như chính Chúa yêu thương chúng ta”. Chúa
đã yêu thương chúng ta đến độ Ngài sẵn sàng chết để chúng ta được sống, và Ngài
mời gọi mỗi người hãy yêu thương người khác như Ngài yêu họ.
Yêu thương người khác như chính mình, đã là một điều khó; phương
chi bây giờ Ngài mời gọi yêu thương đến hiến mạng sống cho tha nhân. Ai dám nói
yêu thương là điều dễ? Yêu, phải hy sinh quên mình, và làm tất cả những gì là
tốt lành cho người mình yêu.
Dấu chỉ để nhận ra một người là môn đệ Chúa, không là “được rửa
tội”, không là “có đi lễ Chúa Nhật”, cũng không là “mặc áo dòng”, mà là “yêu
thương nhau”! Không yêu thương nhau mà nhận mình là người theo Chúa, là phản
chứng. Không yêu thương mà nói mình biết Thiên Chúa, là nói dối; vì “ai yêu
thương thì biết Thiên Chúa; ai không yêu thương thì không biết Thiên Chúa, vì
Thiên Chúa là tình yêu” (1Ga.4, 7-8). Cái biết ở đây, không là biết nói “như
con vẹt”, nhưng là biết bằng hành động, bằng con tim, bằng cảm nhận.
Thiên Chúa đang làm mới tất cả qua những trung gian
Thánh Thần Thiên Chúa đã dùng các Kitô hữu sai gởi Phao-lô và
Barnaba đi rao giảng Tin Mừng. Thiên Chúa đã dùng Phao-lô và Barnaba để rao
giảng và củng cố đức tin của các tín hữu.
Thiên Chúa vẫn đang dùng những con người hôm nay, những Ki-tô hữu,
để làm con người đương thời tin vào Tin Mừng, tin vào Thiên Chúa, tin vào con
người. Thiên Chúa đang làm mới tương quan giữa con người và Thiên Chúa qua các
chứng nhân rao giảng Tin Mừng, qua thừa tác viên bí tích hoà giải. Thiên Chúa
đang làm mới tương quan giữa người với người qua việc làm con người tin vào
nhau, khi Thiên Chúa làm cho con người biến đổi, khi Thiên Chúa làm cho con
người tin vào Thiên Chúa để có thể tin vào nhau.
Thiên Chúa vẫn đang làm mới con người, trái đất này, vũ trụ này qua
những trung gian và phương tiện khác nhau. Khi tin vào Thiên Chúa, tin vào Đức
Kitô, chúng ta trở thành con người mới, tạo vật mới.
Tạ ơn Chúa, và cám ơn tất cả mọi người- những trung gian của Chúa
cho tôi.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Bạn có thấy ai chán nản và tuyệt vọng không? Đâu là nguyên do
làm con người tuyệt vọng?
2. Con người luôn có thể không trung tín, vậy tại sao con người có
thể tin vào nhau? (chẳng hạn vợ chồng, bạn bè)
3. Bạn có kinh nghiệm được Thiên Chúa dùng như trung gian để làm
mới ai đó không? Nếu được xin bạn chia sẻ.
25.
Ai yêu thương đều là Kitô hữu
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Một buổi tối nọ, Mẹ Têrêsa thành Calcutta tiến lại gần một người,
người ta vừa mang vào căn nhà dành cho những người hấp hối. Đó là một bà lão.
Mình phủ đầy những mảnh giẻ rách, nước da đen đầy những vết thương hôi thối. Mẹ
Têrêsa đã chùi rửa các vết thương và chăm sóc để ngừa bị nhiễm trùng. Nhưng
người đàn bà đáng thương nầy đang hấp hối… có lẽ khó mà qua khỏi, do đó tốt hơn
là nên tìm cách an ủi lần cuối cùng bằng một chén xúp nóng và tràn đầy tình
thương yêu.
Người đàn bàn đáng thương ấy sững sờ nhìn và hỏi Mẹ Têrêsa bằng một
giọng thều thào: “Tại sao bà lại làm như thế?”
Mẹ Têrêsa trả lời:
- “Bởi vì tôi rất yêu mến bà…”.
Một tia sáng hạnh phúc, dù vẫn còn pha chút nghi ngờ, phát xuất tận
đáy lòng đã ngời lên khuôn mặt gầy gò của người đàn bà, nơi dấu ấn của tử thần
đã bắt đầu xuất hiện.
- Ôi, bà hãy nhắc lại một lần nữa đi!
- Tôi rất yêu mến bà, Mẹ Têrêsa lập lại bằng một giọng điệu rất dịu
dàng.
- Hãy nhắc lại, hãy nhắc lại đi bà!
Người đàn bà đang bước vào cõi chết xiết chặt tay Mẹ Têrêsa và kéo
về phía bà ta, như muốn lắng nghe rõ hơn, nghe với niềm hạnh phúc tràn trề
những lời lẽ tuyệt vời nhất trên cõi đời nầy…
Bằng chính tình yêu của mình, Mẹ Têrêsa đã làm chứng cho tình yêu
của Thiên Chúa đối với loài người chúng ta – “Yêu thương anh em như Chúa đã yêu
thương chúng ta” – Và đó cũng là điều răn mới của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu, trong
nỗi bồi hồi xúc động của giây phút chia ly, đã dốc hết lòng mình với các môn
đệ: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau”. Lời
di chúc của người sắp ra đi thật là trang trọng và thâm sâu! Trước đó, Thầy đã
khẳng định đây là mệnh lệnh, là giới răn của Thầy!
Vì là giới răn, là mệnh lệnh của Thầy, nên tình yêu thương
huynh đệ của người môn đệ phải mang chiều kích của Thầy: “Anh em hãy yêu thương
nhau như Thầy đã yêu thương anh em”. Vì là giới răn của Thầy, nên từ nay yêu
thương sẽ là dấu ấn, là bằng chứng, là danh hiệu của người môn đệ: mọi người sẽ
nhận biết anh em là môn đệ Thầy khi anh em yêu thương nhau.
Nhưng, thưa anh chị em, yêu thương nhau, đâu phải chỉ có kitô giáo
mới giảng dạy. Văn hoá Á Đông đã từng nêu châm ngôi: “Tứ hải giai huynh
đệ”: bốn biển là anh em. Đạo lý cha ông ta cũng đã răn dạy: thương người như
thể thương thân, để nói lên tấm lòng thương yêu rộng mở của người đối với người
trong một xã hội.
Vậy thì giới răn yêu thương của Kitô giáo có đem đến cái gì mới mẻ
hơn chăng?
Chỉ dựa vào lời di chúc của Chúa Giêsu trước giờ tử nạn, chúng ta
đã tìm ra được nét độc đáo và đặc thù của tình yêu Kitô giáo. Đó là yêu thương
anh em như Chúa Giêsu đã yêu thương và yêu thương anh em là dấu chứng thuộc về
Chúa Giêsu.
Nét mới mẻ của tình yêu Kitô giáo là ở chỗ: mẫu mực, thước đo tình
yêu đối với tha nhân không còn là “tình anh em máu mủ”, cũng không còn là “bản
thân mình” nữa. Mẫu mực, thước đo của tình yêu Kitô giáo là chính tình yêu của
Chúa Giêsu Kitô. Cả cuộc đời của Chúa Giêsu đã mạc khải cho chúng ta Thiên Chúa
là tình yêu trao ban, là tình yêu dâng hiến. Chúa Giêsu khi nói về tình yêu của
Thiên Chúa và cũng là tình yêu của chính mình, Ngài đã khéo so sánh: “Không ai
có tình yêu lớn hơn người hy sinh mạng sống cho bạn hữu” (Ga 15,13).
Đó là bản đúc kết, là bản tóm tắt nội dung cuộc sống và cái chết
của Đấng bị đóng đinh thập giá để nói lên tình yêu của Chúa Cha dành cho loài
người. Một Thiên Chúa đầy lòng nhân ái, đầy tình thứ tha đối với hết mọi người
không trừ ai. Tình yêu thương vô bờ bến đó phải là mẫu mực để chúng ta noi
theo.
Chúa Giêsu không đòi các môn đệ của Ngài phải thông thái như các
thầy kinh sư và ký lục. Ngài cũng không bắt họ phải sống nhiệm nhặt, gò bó như
nhóm người Biệt phái Pharisêu trong việc tuân giữ các giới luật. Điều Ngài đòi
nơi các môn đệ, chỉ một điều duy nhất mà thôi, là phải yêu thương anh em, yêu
thương người khác như chính Ngài đã yêu thương mọi người đến tột cùng, đến hết
khả năng yêu thương của Thiên Chúa.
Chính tình yêu thương vô vị lợi, phổ quát, bao dung nầy sẽ là dấu
chứng của những người tin theo và tuân giữ Lời Chúa. Người môn đệ Chúa Giêsu là
người biết yêu thương tha nhân và ngược lại. Ngay từ cộng đoàn các Kitô hữu
tiên khởi, dấu chứng tình yêu đã trở thành chứng tá của Chúa Kitô Phục Sinh.
Trong suốt lịch sử Giáo Hội, các người bên ngoài Giáo Hội cũng vẫn nhận ra Chúa
là tình yêu xuyên qua những chứng từ sống động của một tấm lòng vị tha, bác ái
của người tín hữu.
Thưa anh chị em,
Trong cuộc sống hằng ngày, không phải chúng ta không biết đến đòi
hỏi căn bản nhất của Tin Mừng là yêu thương tha nhân như Chúa đã yêu thương họ.
Chúng ta cũng vẫn được giảng dạy: Tình yêu là dấu chứng thuộc về Chúa. Thế
nhưng, từ chỗ biết đến chỗ sống, luôn luôn vẫn có một khoảng cách: chúng ta vẫn
thích lấy lòng mình làm thước đo tình yêu dành cho tha nhân. Chúng ta vẫn muốn
giới hạn tình yêu tha nhân trong một mức độ nào đó để khỏi phải quá thiệt thòi
cho mình. Chúng ta vẫn muốn dựa vào tấm áo hay một danh xưng để xác định chúng
ta thuộc về Chúa, chứ chúng ta chưa dám “liều mạng” để chỉ khẳng định chân tính
Kitô hữu của mình bằng ý nghĩa và hành động yêu thương chân thật. Vì thế mà
ngay đối với người bên cạnh, có thể là linh mục chánh hay phó xứ, có thể là một
anh chị em trong cộng đoàn, có thể là cha, mẹ, vợ, chồng, con cái, chúng ta vẫn
chưa thoát ra khỏi cái lý luận trần tục: người ta đối xử với tôi thế nào, tôi
đối xử lại như thế ấy! Quan hệ của chúng ta với tha nhân còn mang nặng tính vụ
lợi, đổi chác, mua bán. Và cách sống thấp hèn như vậy chẳng nói được với ai điều gì về niềm tin của chúng ta vào Thiên Chúa Tình
Yêu cả! Trái lại, cách sống ấy là một phản chứng về Thiên Chúa, không làm cho
ai tin được Thiên Chúa của chúng ta. Bởi vì “người ta cứ dấu nầy mà nhận ra anh
em là môn đệ của Thầy, là anh em có lòng yêu thương nhau”. “Như Thầy đã yêu
thương anh em, anh em cũng hãy yêu thương nhau”. Vậy, ai không yêu thương nhau,
người ấy không phải là Kitô hữu, hay đúng hơn, đó là kẻ chối đạo. Thiên Chúa là
tình yêu. Đạo Thiên Chúa là đạo yêu thương nhau. Không yêu thương nhau là không
biết Thiên Chúa, là chối đạo.
Hôm nay chúng ta hãy tiếp tục làm chứng bằng cuộc sống Kitô hữu của
chúng ta rằng: Đạo Thiên Chúa là đạo yêu thương nhau. Hãy để cho lòng mình lắng
đọng để ân sủng Chúa giúp chúng ta thấy hết tầm mức của giới răn mới và những
khoảng cách xa vời trong cuộc sống chúng ta, để chúng ta quyết tâm sống giới
răn yêu thương của Chúa như chính Chúa đã sống và truyền dạy chúng ta.
26.
Giới luật yêu thương
Trước khi ra đi chịu chết, Chúa Giêsu đã gửi gấm những tâm sự cuối
cùng cho các môn đệ. Ngài đã trăn trối cho các ông, cũng như cho chúng ta một
sứ điệp quan trọng mà mỗi người phải đem ra thực hành trong cuộc sống. Ngài
nói:
- Các con thân mến, Thầy chỉ còn ở với các con một thời gian ngắn
nữa mà thôi, nên Thầy ban cho các con một điều răn mới, đó là các con hãy yêu
thương nhau, như Thầy đã yêu thương các con.
Như chúng ta đã biết: giới răn thứ nhất đó là lòng kính mến đối với Thiên Chúa. Tuy nhiên, giới răn thứ hai
cũng quan trọng như giới răn thứ nhất, đó là tình yêu thương đối với anh em.
Thế nhưng, nếu kiểm điểm lại cuộc sống, chúng ta thấy mình đã thực
hiện hai giới răn ấy như thế nào? Bởi vì tất cả đều xuất phát từ lòng mến Chúa
và tình yêu người. Tất cả mọi lời khuyên nhủ và ngăn cấm cũng chỉ là kết quả
đương nhiên của hai giới răn ấy mà thôi.
Đúng thế, nếu chúng ta thực sự yêu thương anh em, hẳn chúng ta sẽ không còn thù oán và ghen tương, hẳn
chúng ta sẽ sẽ không còn nói hành và nói xấu, hẳn chúng ta sẽ không còn gian
tham và bất công. Trái lại, trong mọi hoàn cảnh, chúng ta đều cố gắng chia sẻ
và giúp đỡ họ. Trong chiều hướng đó, chúng ta mới hiểu được lời nói sâu xa của
thánh Augustinô:
- Ama et fac quod vis, nghĩa là hãy yêu và hãy làm điều mình muốn.
Sở dĩ như vậy, vì tất cả những hành động xuất phát từ tình yêu
thương đều có giá trị riêng của chúng.
Không phải chỉ trong ngày sau hết chúng ta mới bị xét xử về tình
yêu thương, mà hơn thế nữa, ngay từ bây giờ tình yêu thương đã trở thành dấu
chỉ của người môn đệ Chúa. Không có tình yêu, thì mọi hành động chỉ là tiếng
não bạt ầm vang, nhọc nhằn mà chẳng nên công cán gì. Chính vì thế, Chúa Giêsu
đã phải nhấn mạnh:
- Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ Thầy, là các
con yêu thương nhau.
Như vậy, tình yêu thương vừa là một điểm đặc sắc nhất của người
Kitô hữu, vừa là một bảo chứng chắc chắn nhất cho niềm hạnh phúc đời đời.
Thực vậy, hẳn chúng ta còn nhớ lời Chúa phán trong ngày phán xét.
Với những người lành, Ngài bảo:
- Hỡi những kẻ đã được Cha Ta chúc phúc, hãy đến lãnh lấy phần
thưởng đời đời đã được sắm sẵn cho các ngươi từ muôn ngàn thuở trước, vì khi Ta đói, các ngươi đã cho ăn. Khi Ta
khát, các ngươi đã cho uống, Khi ta mình trần, các ngươi đã cho mặc. Khi Ta đau
yếu và bị cầm tù, các ngươi đã viếng thăm.
Vậy lúc này đây, chúng ta đang thuộc về nhóm người nào: nhóm người
lành hay nhóm kẻ dữ? Nhóm chiên hay nhóm dê? Nhóm ở bên phải hay nhóm ở bên
trái? Nhóm được chúc lành hay nhóm bị chúc dữ? Nhóm được ân thưởng hay nhóm bị
trừng phạt?
Từ đó, hẳn chúng ta đã nhận ra điều gì cần phải làm ngay? Đó là
tình yêu thương. Điều ấy tuy dễ dàng, nhưng lại vô cùng quan trọng,bởi vì nó sẽ
ấn định số phận đời đời của mỗi người chúng ta. Tuy nhiên, yêu thương bằng miệng
lưỡi, bằng lời nói mà thôi chưa đủ, điều quan trọng và cần thiết, đó là phải
biểu lộ tình yêu thương ấy bằng những việc làm cụ thể.
Bác tài xế của Đức Thánh Cha Phaolô VI kể lại rằng:
Có một cụ già chẳng may bị mất một con lừa. Cụ ta bèn viết thư xin Đức
Thánh Cha giúp đỡ, lúc bấy giờ ngài mới chỉ là một vị Tổng Giám Mục. Sau khi
biết được giá mua của một con lừa, ngài liền gửi số tiền ấy cho cụ già.
Là một vị Hồng Y, bận rộn nhiều công chuyện lớn lao, thế mà ngài
vẫn không quên những nhu cầu nhỏ bé cần phải giúp đỡ cho những kẻ bất hạnh.
Chính vì những hành động nhỏ bé này mà người ta xác định được tình yêu thương
chân thành của người Kitô hữu. Một linh mục ở Milan cũng đã nhận xét: Tôi
thường thấy đức Hồng Y quỳ gối chăm sóc cho những
người nghèo túng và bệnh tật.
Với chúng ta cũng vậy, Hãy biểu lộ tình yêu thương của chúng ta đối
với những người chung quanh bằng những việc làm cụ thể, bởi vì chính những việc
làm cụ thể này sẽ là như một tấm vé để chúng ta được đón nhận vào Nước Trời.
27. Điều
răn mới
Bài Phúc âm của Chúa nhật V Phục sinh hôm nay ghi lại những lời từ
biệt của Chúa Giêsu nói với các môn đệ trong bữa tiệc ly, trước khi Chúa chịu
tử nạn và sau khi Giuđa đã bỏ bàn tiệc đi ra thực hiện ý đồ phản bội Chúa.
“Căn cứ vào điều này mà người ta nhận biết các con là môn đệ của
Thầy là các con hãy thương yêu nhau”. Yêu thương là một lệnh truyền phải thi
hành chứ không phải là một lời khuyên hay một sự kêu mời muốn làm hay không
cũng được: “Đây là lệnh truyền của Thầy là các con hãy yêu thương nhau”. Nếu
chúng ta yêu thương anh chị em thì chúng ta đã qua sự chết mà vào sự sống. Trái
lại, kẻ không yêu thương anh chị em mình thì ở trong sự chết. Vì phàm ai ghét
anh chị em thì là kẻ sát nhân mà đã là kẻ sát nhân thì không có sự sống đời
đời.
Yêu thương nhau là một giới răn mới, bởi vì Đức Kitô đã biến đổi
luật yêu thương cũ của Cựu ước: “Ngươi phải yêu thương anh chị em như chính
mình ngươi” bằng cách gắn liền nó với tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta.
Do đó, Ngài đã mặc cho nó một bản tính siêu việt mới là chính tình yêu của
Ngài: “Thầy ban cho các con một điều răn mới là các con hãy yêu thương nhau như
Thầy đã yêu thương các con”.
Như Thầy đã yêu thương các con là điều răn mới mà Đức Kitô thêm vào
luật cũ của Cựu ước. Nói con phải yêu thương anh chị em như chính mình con, nơi
thánh Gioan 12,34 Chúa Giêsu nói: “Thầy ban cho các con một điều răn mới là các
con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con”.
Như vậy, tình yêu thương này không còn phát xuất từ chính chúng ta
nữa, nhưng là phát xuất từ Thiên Chúa. Lòng mến phát xuất từ Thiên Chúa như thư
I của thánh Gioan 4,7 diễn tả như sau: “Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta như
thế thì chúng ta cũng phải yêu thương nhau như vậy”.
Tình thương của chúng ta đối với anh chị em là tham dự vào tình thương
của chính Thiên Chúa đối với chúng ta. Cũng chính vì vậy giới răn yêu thương
mới này được đồng hoá bởi tình yêu mến mà chúng ta có đối với Chúa. Yêu
thương anh chị em và mến Thiên Chúa là một, và ai không yêu thương anh chị em
thì cũng không mến Chúa. Nếu ai nói tôi mến Chúa mà lại ghét anh chị em mình
thì là kẻ nói dối.
Chính vì thế mà yêu thương là dấu chỉ chúng ta là những người thuộc
về Thiên Chúa, là môn đệ của Chúa: “Cứ dấu này mà người ta nhận biết các con là
môn đệ Thầy là các con hãy yêu thương nhau”. Chỉ khi nào ta hiểu và sống thực
sự điều này thì mới là điều làm đẹp lòng Thiên Chúa. Nhưng đây là việc khó,
chúng ta cần phải cố gắng hằng ngày: “Chúng con hãy nên trọn lành như Cha chúng
con ở trên trời là Đấng trọn lành”. Chúng con hãy làm việc tốt để anh chị em
chúng con nhìn thấy những việc tốt chúng con làm mà ngợi khen Cha các con ở
trên trời.
28.
Yêu thương
Tình yêu là gì? Nó có phải là thứ mà tất cả chúng ta đều khao khát
không? Điều chắc chắn rằng mỗi chúng ta ai cũng muốn yêu và được yêu. Vì thế,
tình yêu trở nên một đề tài muôn thuở, nhất là vào thời bây giờ, nó là một mặt
hàng đắt khách. Tình yêu xuất hiện trên sách vở, báo chí, phim ảnh, mọi ngành
nghệ thuật những bản tình ca, tạp chí chuyên đề về tình yêu vẫn thu hút mọi
người. Có vẻ như tình yêu hiện diện khắp nơi và chi phối đời sống nhân loại.
Thế nhưng sự thật lại khác hẳn. Con người hôm nay đã dùng chính sức mạnh để
triệt tiêu lẫn nhau thay vì phải dùng chính nó để kiến tạo nên hoà bình và yêu thương.
Sức mạnh đích thực của con người không nằm trong khả năng chinh
phục hay đàn áp kẻ khác để chứng tỏ quyền lực của một kẻ mạnh trên một kẻ yếu,
mà chính là trong khả năng có thể chế ngự được chính mình, vượt thắng sự ích kỷ
để hiến mình cho tha nhân. Đó là điều mà Chúa Giêsu đã thể hiện qua cuộc sống
và nhất là qua cái chết của Ngài. Chúa Giêsu đã chứng tỏ sức mạnh vô biên của
tình yêu. Vì thế, Ngài mới có thể để lại cho chúng ta một điều răn mới như một
lời di chúc: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau
như Thầy đã yêu thương anh em”.
Yêu thương nhau là điều răn mới của Chúa Giêsu. Tại sao mới? Mới ở
chỗ nào? Từ ngàn xưa, vănhoá Á Đông từng nêu câu châm
ngôn: “Tứ hải giai huynh đệ” (bốn bể là anh em) và đạo lý cha ông cũng răn dạy:
“Thương người như thể thương thân”. Luật Cựu ước cũng thừa nhận luật tự nhiên
đó khi dạy: “phải yêu người thân cận như chính mình”. Người thân cận ở đây đối
với người Do thái chỉ là anh em bà con ruột thịt không phải là tất cả mọi
người. Điều răn này đối với Kitô hữu hôm nay vẫn là điều quan trọng nhất mà họ
phải giữ khi sống với tha nhân. Nhưng với Chúa Giêsu, “yêu thương nhau” là điều
răn mới, nó mới bởi vì:
Trước hết, đối tượng của tình yêu thương là tất cả mọi người, không
loại trừ ai kể cả kẻ thù nữa, không phân biệt chủng tộc, màu da, tiếng nói và
tôn giáo. Đó là nét đặc thù của điều răn này. Tiếp theo, nó còn mới ở chỗ có
tính đòi hỏi hơn, vì dựa trên một tiêu chuẩn cao hơn, tiêu chuẩn của tình yêu
thương là chính tình yêu của Thiên Chúa. Luật Cựu ước dạy: “Hãy yêu người thân
cận như chính mình” tức là lấy bản thân mình làm tiêu chuẩn. Còn Chúa Giêsu dạy
phải yêu thương như Ngài đã yêu thương chúng ta, tức là phải lấy tình yêu của
Chúa làm tiêu chuẩn, làm kiểu mẫu cho tình yêu của chúng ta. Ngài yêu ta đến
nỗi tự ý nộp mình chịu chết vì ta. Sau hết, điều răn này được coi là mới, vì nó
gắn liền với giao ước mới, giao ước đã được thiết lập trong Máu Đức Giêsu. Đây
không phải là điều răn được khắc trên bia đá, nhưng được ghi vào tâm hồn các
Kitô hữu do tác động của Chúa Thánh Thần. Như vậy, điều răn “yêu thương” chỉ
thực sự là mới khi mỗi Kitô hữu phải yêu thương người như Chúa yêu.
Sự thật yêu người như chính mình đã khó, nhưng yêu người như Chúa
yêu lại càng khó hơn. Vì thế khoảng cách vẫn còn đó từ chỗ biết đến chỗ sống.
Chúng ta vẫn thích lấy lòng mình làm thước đo tình yêu dành cho tha nhân –
người ta đối xử với tôi thế nào, tôi đối xử lại như vậy. Yêu người chỉ vì người
đó xinh đẹp, dễ thương để cuối cùng cũng chỉ là tình yêu vụ lợi, chiếm đoạt cho
riêng mình. Một tình yêu như thế thì không thể bước qua được mọi cản trở của
tình yêu: vong ân, báo oán nhưng có thể vượt qua nếu yêu bằng tình yêu phát
xuất từ Thiên Chúa.
Gandhi, một vị cha già của dân tộc An Độ đã vĩnh viễn nằm xuống sau
nhát gươm của một thanh niên quá khích, vì anh ta không thể chấp nhận sự kiện
vị cha già ấy bày tỏ lòng quảng đại yêu thương ngay cả những người Hồi giáo.
Hàng triệu người An Độ than khóc, để tang vì dân tộc đã mất đi một con người vĩ
đại, trường kỳ lãnh đạo cuộc đấu tranh giành độc lập cho tổ quốc mà không hề
dùng đến khí giới của bạo động và hận thù.
Cũng thế, mẹ Têrêxa đã dùng chính khí giới của tình thương để cho
những người không nhà không cửa, những mảnh đời đang hấp hối nơi đầu đường xó
chợ được sống và chết như những con người. Vì sống yêu thương, mẹ Têrêxa đã cảm
nhận được cõi thẳm sâu niềm khao khát được yêu thương của người bất hạnh. Mẹ kể
“Khi ở Luân Đôn, tôi có dịp đến thăm những người vô gia cư mà các nữ tu của
chúng tôi săn sóc tại một trung tâm phân phát thức ăn. Một người đàn ông nọ, mà
nơi cư trú là một thùng giấy cứng, cầm lấy tay tôi rồi nói: “Đã lâu lắm rồi tôi
mới cảm nhận được hơi ấm của một bàn tay”. Mẹ nói tiếp, yêu thương không phải
là thương hại. Điều quan trọng không phải là tiền, của cải, mà hãy đưa bàn
tay ra ngồi bên cạnh họ, tiếp xúc diện đối diện.
Những mẫu gương trên đây là những phản ảnh của một tình yêu trọn
vẹn hơn, đó là tình yêu đi bước trước, hoàn toàn phục vụ trong khiêm tốn và
chịu chết cho người mình yêu của Đức Giêsu. Vì thế bác ái đích thực chỉ có một
kiểu mẫu chính là Ngài: mỗi Kitô hữu hãy sống cho tình yêu đó: Yêu thương như
Chúa yêu thương. Nếu có ai trong chúng ta đang nhiệt tình trong các công việc
từ thiện, phân phát cho đi một cái gì, hăng say hoạt động rao giảng hoặc đảm
nhận việc này, việc khác… điều đó rất tốt nhưng chúng chỉ có ý nghĩa đích thực
và bác ái Kitô giáo khi chúng ta làm chỉ vì yêu thương mà thôi, chứ không vì
những gì có thể nhận lại, thi hành mọi việc phải làm với lòng tự nguyện, bằng
một tinh thần hy sinh và lòng quảng đại vì những va chạm, bất đồng ý kiến là
điều không thể tránh khỏi: mọi thành kiến, hận thù và lòng ganh tị là những thứ
cản trở cho tinh thần hợp tác trong cộng đoàn giáo xứ, gia đình, đoàn thể… Đồng
thời làm phân hoá, đổ vỡ tình yêu thương và bác ái đối với nhau.
Hãy tha thứ cho nhau vì những thiếu sót hạn chế nơi mỗi người là
điều kiện để có thể đến gần nhau hơn, sống hiệp nhất vì Chúa đã yêu ta qua mầu
nhiệm Nhập thể, sống quên mình quan tâm đến tha nhân vì Đức Kitô đã hiến mình
cho nhân loại và phải trở nên sức sống cho người khác sẵn sàng phục vụ vì Chúa
đã yêu ta qua Bí tích Thánh Thể.
Tóm lại: Điều răn mới của Chúa Giêsu là “Anh em hãy yêu thương nhau
như Ngài yêu thương”. Quả thật, một tình yêu có ranh giới là yêu thương không
có ranh giới, nghĩa là không chỉ cho đồng bào ruột thịt, mà là cho mọi người
hết thảy.
Ước gì mỗi Kitô hữu chúng ta luôn biết sống trọn vẹn điều răn yêu
thương. Điều đó sẽ trở nên dấu chỉ cho một tình yêu Kitô giáo đích thực.
29.
Yêu như Thầy yêu – Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Chúa nhật thứ V Phục Sinh, Phụng vụ Giáo hội (Tin Mừng cho cả 3 năm
A, B, C) mời gọi chúng ta đọc và suy niệm về những điều răn của Chúa chúng ta
là Đức Giêsu Kitô truyền ban trước khi Ngài đi về Trời. Quả thật: nếu chúng ta
muốn về Trời với Đức Kitô như lời hứa (Ga 14, 2), người kitô hữu cần phải thực
hành trong đời sống “Điều răn mới” (Năm C), tất cả những “Chân lý” (Năm A). Và
khi mỗi chúng ta áp dụng cách triệt để Tình Yêu và Bác Ái vào đời sống thường
ngày, chúng ta sẽ mang lại nhiều hoa quả, trở thành “Vườn nho đích thực” (Năm
B). Lúc đó mọi người sẽ cùng nhau: Hát lên mừng Chúa một bài ca mới, vì Người
đã thực hiện bao kỳ công; Người mặc khải đức công chính của Người, cho muôn dân
được thấy.
* Bài đọc Phụng vụ năm A
- Tđcv 6, 1-7: Họ chọn 72 người đầy Thánh Thần
- Tv 33, 1: Lạy Chúa, xin tỏ lòng từ bi Chúa cho chúng con
- 1 Pr 2, 4- 9: Anh em là dòng giống được tuyển chọn, là hàng tư tế
vương giả
- Ga 14, 1-12: Thầy là Đường, là sự thật và là sự sống
* Bài đọc Phụng vụ năm B
- Tđcv 9, 26-31: Ngài thuật lại cho các ông biết trên đường đã thấy
Chúa thế nào.
- Tv 22, 26: Lạy Chúa, bởi Chúa mà lời tôi ca ngợi vang lên trong
đại hội
- 1 Ga 3, 1-2: Đây là giới răn của Người: là chúng ta phải tin và
yêu thương nhau
- Ga 15, 1-8: Ai ở trong Thầy, và Thầy ở trong người ấy, kẻ ấy sẽ
sinh nhiều hoa trái
* Bài đọc Phụng vụ năm C
- Tđcv 14, 12-27: Cuộc hành trình của Phaolô và Barnaba
- Tv 145, 8: Lạy Chúa, lạy Chúa thiên binh, tôi sẽ chúc tụng danh
Chúa đến muôn đời.
- Kh 21, 1-5: Thiên Chúa đổi mới mọi sự
- Ga 13, 31-35: Điều răn mới
Chúng ta tự hỏi, phải chăng chúng ta dùng những tình cảm tự nhiên
để yêu nhau như bạn bè yêu nhau, cha mẹ yêu thương con cái và ngược lại, đồng
lớp đồng niên yêu nhau, nam nữ yêu nhau là khác với tình yêu Đức Kitô đã yêu
chúng ta sao mà Đức Giêsu còn dạy chúng ta phải: Yêu như Thầy đã yêu anh em ?
Vậy, “yêu như Thầy đã yêu” là yêu như thế nào, có gì mới mẻ chăng ?
Xem ra chữ “như” có chất chứa hy sinh khi yêu, có nét mới mẻ và
đáng sợ, vì chính chữ này làm nên nét đặc trưng của Kitô giáo. Thánh Augustinô
viết: khi nói “Yêu như Thầy đã yêu anh em” là Đức Giêsu nói đến tình yêu của
mình đối với các môn đệ với hy sinh và tha thiết: “Không ai có tình yêu lớn hơn
tình yêu của người hy sinh mạng sống vì bạn hữu mình”. Chết vì bạn hữu là hành
vi lớn nhất của tình yêu. Đức Giêsu đã yêu các môn đệ nói riêng, và con người
nói chung bằng tình yêu hiến mạng. Nay Ngài đòi buộc các môn đệ, cụ thể là
chúng ta phải yêu nhau đến mức đó. Tình yêu mà Đức Giêsu yêu chúng ta phát xuất
từ Chúa Cha: “Như Cha đa yêu Thầy thế nào, Thầy cũng yêu anh em như vậy”. Như
vậy là có một nguồn suối tình yêu chảy tràn từ Chúa Cha đến Đức Giêsu, và tiếp
tục chảy tràn xuống các môn đệ, dòng suối ấy không ngững chảy trên chúng ta,
nếu chúng ta giữ lại, tình yêu đó sẽ trở nên ao tù nhơ nhớp, nên chúng ta phải
yêu thương nhau như Chúa đã yêu thương chúng ta, yêu mến Thiên Chúa hết lòng để
đáp lại tình yêu Chúa. Sermons sur l'évangile de Jean, no 65 (trad. cf bréviaire 4e
jeu. de Pâques). “Thầy ban cho các con một điều răn mới” là thế đấy.
Thánh Augustinô nói tiếp: “Yêu như Thầy đã yêu anh em», khác với
lòng mến tự nhiêu thuần túy. Bởi: “Các bộ phận vì ích chung mà đùm bọc lấy
nhau. Cho nên một bộ phận phải đau, thì hết các bộ phận đau chung; một bộ phận
được vinh, thì hết các bộ phận vinh chung!” (1Co 12,25-26). Thật vậy, ai nghe
điều răn này, hay đúng hơn là ai tuân giữ lời này, họ sẽ được biến đổi trở nên
đồng thừa tự với Đức Kitô. Họ yêu thương nhau không đơn giản với bản tính tự
nhiêu, nhưng vì họ là “thần” (Jn 10,35) nên tất cả họ yêu nhau và “họ là con
Đấng Tối Cao» (Lc 6,35). Họ yêu thương nhau là vì họ được Đức Kitô yêu thương.
Sermons sur l'évangile de Jean, no 65 (trad. cf bréviaire 4e
jeu. de Pâques). Tình yêu vì Chúa.
Chúng ta thấy, cuộc sống cần tình yêu, nhân loại cần tình yêu, mỗi
người sống trong cuộc đời này đều cần tình yêu và rất cần tình yêu. Có thể nói,
tình yêu là lẽ sống, là niềm hạnh phúc, là sự bình an của tất cả mọi người
không trừ ai. Nên có bao nhiêu tiểu thuyết là có bấy nhiêu chuyện tình. Có bao
nhiều phim truyện, tiểu phẩm, bài hát là bấy nhiêu cách diễn tả tình yêu. Người
ta khai thác tình yêu trên mọi lĩnh vực: thơ ca, hò vè, quảng cáo.v.v...
Sống ở trên đời có trăm bẩy loại tình yêu, tôi xin tạm liệt kê.
Chúng ta tự hỏi, tại sao cha mẹ lại yêu con cái và con cái lại yêu cha mẹ. Thưa
là vì ông bà ấy là người sinh ra chúng, chúng là con của ông bà đó. Đây là tình
yêu huyết tộc. Ngày nay phú quí sinh lễ nghĩa, đay đó chúng ta gặp những buổi
hội ngộ đồng niên, đồng lớp, đồng ngũ, đó là thứ tình đồng niên, bạn bè cùng lớp
cùng tuổi mến thương nhau. Một loại tình yêu lấn át mọi thứ tình yêu, khi nói
đến người ta nghĩ ngay đến nó, nhất là những người trẻ, đó là tình yêu nam nữ.
Đây là tình yêu đơn phương, vì con người yêu nhau. Tình yêu đôi lứa, tình yêu
bạn bè, tình yêu đồng đội, tình yêu của anh chị em một nhà... tình yêu của cha
mẹ với con cái. Tất cả những tình yêu đó đều cao đẹp, đều phù hợp ý Chúa.
Một thứ tình yêu cao thượng mà Chúa dạy chúng ta là tình yêu vì
Chúa. Kinh Kính Mến chúng ta vẫn đọc: “...vì Chúa thì con thương yêu người ta
như mình con vậy”. Như thế, tình yêu của chúng ta không còn giới hạn bởi huyết
tộc, bạn bè quen biết, mà mở rộng tới hết mọi người, tôi yêu họ vì Chúa yêu tôi
và truyền dạy tôi .
Yêu thương là điều Chúa dạy, hơn nữa đó là lệnh truyền của Chúa:
"Thầy truyền cho các con điều này là: các con hãy yêu mến nhau", vì
thế không ai có quyền từ chối yêu thương, càng không có quyền thù nghịch anh
chị em mình. Có yêu nhau thật lòng, người ta mới có thể sống cho nhau, chết vì
nhau. Thử tưởng tượng, một thế giới không có tình yêu, không ai yêu ai, thì thế
giới sẽ kinh khủng biết chừng nào. Bởi đi tới đâu, ta cũng chỉ thấy thù hận,
bạo động, diệt chủng... Hãy yêu thương, hãy trao tặng cho nhau tình yêu thật
lòng để cuộc đời đáng yêu và đáng sống. Tình yêu sẽ làm cho cả người đang yêu
lẫn người được yêu bình an và hạnh phúc. Hãy yêu thương nhau như Thiên Chúa đã
yêu thương chúng ta. Amen.
30.
Tình thương
Tất cả chúng ta đều biết: Trong bữa ăn cuối cùng với các môn đệ vào
chiều ngày thứ năm Tuần Thánh, quen gọi là bữa tiệc ly, Chúa Giêsu đã nói với
các môn đệ nhiều điều quí giá. Những lời này được coi là những lời trăn trối
đầy thân tình. Đây là những lời tâm huyết rất chân thật và cũng là những chỉ
thị cuối cùng của Ngài. Chúa nhắc đi nhắc lại với các môn đệ: Ngài yêu thương
họ lắm, Ngài yêu thương họ vô cùng, và Ngài bảo họ: “Thầy ban cho anh em một
điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”. Tại
sao Chúa Giêsu lại gọi “yêu thương nhau” là điều răn mới? Mới ở chỗ nào và mới như
thế nào?
Tình yêu thương thì xưa như trái đất. Tại sao Chúa Giêsu lại gọi
đây là điều răn mới? Đúng thế, khi bắt đầu có con người là có tình yêu thương,
và cũng từ đó bắt đầu có lời dạy: hãy yêu thương nhau. Kinh thánh Cựu ước cũng
dạy yêu người, nhưng tình yêu đó còn giới hạn và chưa loại bỏ được hết những
động lực vị kỷ. Chúa Giêsu đến để hoàn tất Cựu ước. Ngài đưa ra những đòi hỏi
mới về tình yêu thương, và đưa tình yêu thương đó lên tột đỉnh mà không ai
trong loài người dám nghĩ tới. Chúa Giêsu tuyên bố đây là điều răn mới, trước
hết, vì là điều răn của giao ước mới, giao ước được ký kết bằng máu của Ngài để
chứng tỏ tình yêu của Ngài đối với Thiên Chúa và tình yêu của Ngài đối với con
người. Và Chúa còn đưa ra một lý do mới nữa, đó là tiêu chuẩn hay kiểu mẫu yêu
thương. Cựu ước dạy: “Hãy yêu thương đồng loại như chính mình”, nghĩa là lấy
bản thân mỗi người làm tiêu chuẩn: tôi yêu tôi thế nào thì tôi cũng hãy yêu
người khác như vậy. Tình yêu đó còn giới hạn và chưa loại bỏ được hết những
động lực vị kỷ. Còn Chúa Giêsu dạy: phải yêu thương nhau như chình Ngài đã yêu
thương chúng ta. Cách Ngài yêu thương vượt hẳn tiêu chuẩn của Cựu ước, Ngài yêu
thương chúng ta hơn chính Ngài. Như vậy, tiêu chuẩn và kiểu mẫu cho chúng ta
yêu thương nhau, chính là tình yêu thương của Ngài đối với chúng ta, và tình
yêu thương của Ngài là động lực thúc đẩy chúng ta yêu thương nhau. “Yêu thương
như Chúa Giêsu đã yêu” nghĩa là: nếu Chúa đã hiến mạng sống mình vì ta, thì ta
cũng phải hiến mạng sống mình vì anh em. Nếu Chúa vốn là Thiên Chúa nhưng đã
không dành cho mình chức trọng quyền cao mà đã hiến thân làm người để phục vụ
loài người, thì họ cũng phải biết quên mình phục vụ nhau. Nếu Chúa là Thầy và
là Chúa mà còn cúi xuống rửa chân cho các môn đệ, thì đến lượt các ông cũng phải
rửa chân cho nhau. Nói cách khác, Chúa Giêsu Đấng mà các môn đệ đã nhận ra là
Chúa sau Phục sinh phải là khuôn mẫu cho cuộc sống của họ. Họ phải sống như
Ngài đã sống, phải yêu thương như Ngài đã yêu thương. Ngài là qui luật hành
động của người môn đệ. Vì vậy, “yêu như Chúa đã yêu” còn có nghĩa là yêu vì đã
được Chúa yêu. Thực vậy, Chúa Giêsu chính là hiện thân tình yêu của Thiên Chúa
đối với loài người. Trọn cuộc đời Ngài, từ khi làm người cho đến khi chết trên
thập giá, là yêu thương. Nếu Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta như thế, thì
chúng ta cũng phải yêu thương nhau. Người môn đệ sẽ nối bước theo Thầy trên
chính con đường Thầy đã đi và vạch ra cho họ thấy. Khi Chúa Giêsu còn sống trên
trần thế thì không cần có dấu chỉ mới nhận ra được ai là môn đệ của Ngài. Chỉ
cần thấy họ nghe và đi theo Ngài là đủ. Nhưng khi Chúa Giêsu không còn hiện
diện hữu hình giữa họ nữa, thì làm thế nào mà những người không tin có thể nhận
ra họ là người môn đệ của Chúa? Theo thánh Gioan, chỉ có một tiêu chuẩn duy
nhất, đó là lối sống được xây dựng trên tình yêu huynh đệ, một tình yêu thực sự
bằng việc làm chứ không phải nơi đầu môi chót lưỡi. Một cộng đoàn Kitô hữu nếu
muốn được nhận ra là một cộng đoàn của Chúa, thì phải chứng minh bằng đời sống
thấm nhuần tình yêu thương nhau. Không có một dấu chỉ nào khác có thể thay thế
dấu chỉ ấy, dầu là nghi lễ, lề luật hay những biểu thức đức tin. Nhìn vào dòng
lịch sử, chúng ta thấy yêu thương nhau vẫn là một nét tiêu biểu của các tín hữu
buổi sơ khai. Sách Công Vụ Tông đồ cho thấy: họ coi mọi sự như là của chung. Họ
đồng tâm nhất trí chuyên cần lui tới đền thờ cầu nguyện và bẻ bánh, cùng nhau
chia sẻ của ăn nuôi thân. Ông Tetulianô đã ghi nhận về cộng đoàn các Kitô hữu
thời sơ khai như sau: “Dân chúng nhìn họ, tức các Kitô hữu, và nói về họ rằng:
“Hãy xem họ yêu thương nhau biết bao và sẵn sàng hiến mạng cho nhau chừng nào”.
Những người ở ngoài gọi họ là Kitô hữu, nhưng họ vẫn gọi nhau là anh em”. Đó là
cộng đoàn Kitô hữu sơ khai ở Giêrusalem. Gần chúng ta hơn, ở Việt Nam, cha
Gaspar d’Amaral đã ghi nhận về cộng đoàn tín hữu đầu tiên ở Thăng Long, Việt
Nam chúng ta sau năm năm truyền giáo đầu tiên như sau: “Giáo hữu ở đây có chừng
hơn một ngàn. Họ yêu thương nhau đến nỗi những người ngoại ở chung quanh, vì
không biết gọi tên đạo mới là gì, nên căn cứ vào cách sống của họ mà gọi họ là
“Những người theo đạo yêu nhau”. Là con cháu của thế hệ Kitô hữu theo đạo yêu
nhau ấy, chúng ta hãy tự hỏi: những người chung quanh hôm nay nhìn vào cách
sống của chúng ta họ có nhận ra chúng ta là những người theo “đạo yêu nhau”
không? Thiết tưởng không có gì phản chứng hơn trước mặt mọi người, khi các Kitô
hữu bất hoà, chia rẽ nhau, thậm chí bài xích và loại trừ nhau. Rất có thể
người ta thấy chúng ta chuyên cần nghe giảng, siêng năng đi lễ và cầu nguyện,
nhưng lại không có sự hiệp thông huynh đệ, đồng tâm nhất trí với nhau. Điều đó
đã và đang xảy ra nơi mỗi người chúng ta, gia đình chúng ta và cộng đoàn chúng
ta chăng? Thiên Chúa là tình yêu, đạo Thiên Chúa đạo là tình yêu. Chúng ta hôm
nay cũng phải tiếp tục làm chứng cho mọi người thấy đạo Thiên Chúa là đạo yêu
nhau. Trong những năm gần đây, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II cũng thường đề
cập đến một nền văn minh tình thương. Thực vậy, con người chỉ được coi là văn
minh khi biết bước ra khỏi sự man rợ của thú tính, khi biết sống yêu thương và
nhìn nhận kẻ khác cũng là người như mình, bất chấp những khác biệt về chủng
tộc, màu da, tôn giáo hay quan điểm chính trị. Xây dựng một nền văn minh dựa
trên tình thương đó là bổn phận cấp bách của người kitô hữu hôm nay. Và đó cũng
là ý muốn của Chúa Giêsu khi Ngài nói với chúng ta: “Thầy ban cho các con một
điều răn mới, là các con hãy yêu thương nhau”.
31.
Văn minh tình thương - Lm Phêrô Bùi Quang Tuấn
“Hỡi các con bé nhỏ, Ta chỉ còn ở với các ngươi một ít nữa… Ta ban
cho các ngươi một điều răn mới: là hãy yêu thương nhau. Như Ta đã yêu mến các
ngươi, các ngươi cũng hãy yêu mến nhau. Chính điều này mà mọi người sẽ biết các
ngươi là môn đồ Ta: ấy là nếu các ngươi có lòng yêu mến lẫn nhau”(Ga
13:33a-35).
Một câu nhắn nhủ biến thành một lệnh truyền, với bốn lần tiếng gọi
yêu thương được nhắc đến, phải là một tâm tình quan yếu được ôm ấp qua bao
tháng năm, nay được thổ lộ vì e rằng ngày giờ đã tận.
Một linh mục nhận xét: những gì được trăn trối trong giây phút cuối
đời là những tâm tư sâu kín, tha thiết, và chân thành nhất của một con người.
Những đứa con thảo hiếu, những môn đệ trung tín, hay các bạn bè tâm giao, không
thể không ghi lòng và thi hành những lời nói sau cùng của người thân yêu sắp ra
đi.
Đức Giêsu, trước tử nạn, ngay trong buổi biệt ly, đã thố lộ với các
môn đệ nỗi niềm sâu kín nhất mà Ngài đã dành trót cuộc đời để phát hoạ và dẫn
lối con người: Hãy yêu thương nhau.
Yêu thương chính là dấu chỉ thuộc về Đức Kitô. Mỗi tôn giáo đều có
một số hình ảnh tiêu biểu giúp nhận diện tôn giáo mình. Ví dụ, với người Hồi
giáo là việc cầu nguyện năm lần mỗi ngày. Với người Ấn giáo là hãm mình phạt
xác và kiêng thịt bò. Với anh em Phật giáo có thể là diệt dục hay chay trường.
Nhưng riêng những người tin Chúa Kitô, dấu tỏ mình theo Ngài phải là dấu yêu
thương.
Yêu thương chính là Đạo Giêsu. Người có Đạo phải là người biết yêu
thương. Ai sống yêu thương là đang bước đi trên lối đường của Đạo. Khi chân
thành thực thi bác ái, người có Đạo phô diễn rõ nét chân dung vị Sư Phụ của mình:
“Chính nơi điều này mà mọi người sẽ biết các ngươi là môn đệ Ta: ấy là các
ngươi có lòng yêu mến nhau” (Ga 13:35).
Nhưng lòng yêu mến đó không chỉ dừng lại trên căn bản của cảm xúc,
đam mê, hay ích lợi riêng tư. Vì yêu như thế chỉ là yêu như tôi muốn chứ không
phải yêu như Chúa muốn. Điều mà Đức Giêsu trăn trối trong bữa tiệc ly là hãy
yêu nhau như Ngài đã yêu thương. Yêu đến hy sinh, phục vụ, và quảng đại thứ tha
như Ngài đã làm gương.
Kể là chuyện bất thường khi đường đường là một bậc thầy mà lại quì
xuống rửa chân cho môn đệ. Đây hẳn là một hành động quên mình phục vụ tha nhân.
Đức Giêsu muốn dùng chính hành động này để dạy bảo: “Như Ta đã yêu mến các
ngươi, các ngươi cũng hãy yêu mến nhau” (Ga 13:34). Thế ra quên mình phục vụ
tha nhân là dấu chỉ của tình yêu mà Đức Kitô mong muốn.
Yêu như Đức Kitô đã yêu còn là việc hy sinh tự hiến. William
Barclay đã diễn tả trong một bài viết: “Nếu tình yêu là Thập giá thì Chúa Giêsu
cũng sẵn sàng tiến tới đó. Lắm khi người ta lầm tưởng tình yêu là những thứ gì
hạnh phúc. Phải, đích cùng sẽ là thế. Nhưng tình yêu cũng thường mang lại đau
thương và đòi hỏi khổ giá”. Tình yêu đã thúc đẩy Đức Giêsu tiến lên khổ giá để
mang lại hạnh phúc và sự sống cho con người.
Yêu như Đức Kitô đã yêu cũng còn đòi hỏi một tấm lòng quảng đại tha
thứ. Từ trên thập giá, trong nỗi đau đớn tận cùng, trước bao tiếng la hét cuồng
dại, cứ tưởng Đức Giêsu sẽ căm giận và ngăm đe một hình phạt tàn khốc. Thế
nhưng người ta lại chỉ nghe được lời khẩn nài: “Lạy Cha, xin tha cho chúng, vì
chúng không biết việc chúng làm” (Lc 23:34). Lại nữa, với những môn đệ đã từng
bỏ rơi hay chối từ Ngài trong lúc cần kíp, Ngài cũng không chấp nhất. Đúng là
không có lầm lỗi nào mà tình yêu của Đức Kitô không vươn tới và bao trùm.
Như vậy, để trở thành môn đệ chân chính của Đức Kitô, tôi phải
thường xuyên tự vấn mình có đang sống yêu thương như Tin Mừng đòi hỏi chăng?
Tình yêu của tôi có chứa đựng một cân lượng nào của phục vụ, hy sinh, hay tha
thứ không? Nếu không thì dấu chỉ tôi có Đạo hẳn còn mờ mịt lắm thay! Chắc hẳn
biến cố sau đây cũng đáng cho ta ghi nhận khi nói đến yêu thương như Đức Kitô:
Căn nhà của Frank Turner, trong thành phố Dallas bị phóng hoả. Một
vài câu nói mang tính chất kỳ thị được viết trên cánh cửa ga-ra. Thiệt hại vật
chất vượt quá 50 ngàn đô la. Những tổn thương tinh thần cũng không nhỏ lắm. Thế
nhưng lời tâm sự của anh Frank đã làm cho nhiều người ngỡ ngàng: “Là con người,
tự nhiên nghĩ đến việc trả thù. Nhưng rồi tôi nhận ra rằng không phải mọi người
da trắng đều xấu, cũng như không phải tất cả mọi người da đen đều tồi… Nếu tôi
trả thù thì không chừng tôi lại xúc phạm đến các người lành. Điều tôi mong ước
bây giờ là được Thiên Chúa dẫn lối đưa đường.” Frank nhìn nhận rằng chính niềm
tin đã giúp anh tránh được thù hận.
Được biết Frank đang tu học để trở thành một thừa tác viên trong
hội thánh Thanh Tẩy. Điều này đã khiến anh cương quyết hơn trong việc tha thứ
và không nghĩ đến báo thù. Sự kiện bị đốt nhà và những tâm tình của Frank đã
được báo chí địa phương Dallas nói đến.
Không biết sau này anh ta có trở thành một thừa tác viên để phục vụ
hội thánh của mình không, nhưng tinh thần và thái độ hy sinh tha thứ, không gây
hận thù tang thương cho bất cứ ai-vì anh tin vào Đức Giêsu- đã trở nên dấu
chứng hùng hồn cho tình yêu và sự hiện hữu của Đức Kitô giữa lòng cuộc đời.
Có nhiều người tự cho mình là văn minh ưu chủng, đồng thời khinh
miệt và huỷ diệt kẻ khác-không chỉ thể xác nhưng còn cả trí tuệ, không chỉ là
sự sống thể lý nhưng còn cả phương diện tâm linh. Như thế là phản văn minh. Vì
như một tác giả nhận định: “Loài người đã vượt qua những chặng đường văn minh:
từ văn minh của lửa, của thời đồ đá, đồ đồng, đến văn minh nông nghiệp, công
nghiệp, tin học. Thế nhưng chóp đỉnh của tất cả mọi nền văn minh mà con người
đang không ngừng vươn tới từng ngày là văn minh tình yêu. Ai biết yêu thương,
người ấy mới thật sự là người văn minh, có văn hoá thật, và là người có sự sống
sung mãn.”
Có yêu thương là có sự sống. Càng thương yêu sự sống càng phong phú
tràn đầy.
Trước khi bước lên thập giá như một dấu chỉ yêu thương tột đỉnh,
Đức Giêsu đã truyền đạt cho con người nền văn minh tình yêu-văn minh sự sống.
Nhưng thử hỏi hiện nay tôi đang đạt đến thứ văn minh nào? Đồ đá hay đồ đồng? Sự
sống hay sự chết? Tha thứ hay hận thù? Trấn áp hay phục vụ?
Để đạt được cao điểm của văn minh, điều tôi phải thực thi là nhắm
thẳng vào Đức Kitô mà tiến bước.
32.
Anh em hãy yêu thương nhau
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Thể Hiện)
Bài Tin Mừng hôm nay gồm hai phần: lời giải thích của Đức Giêsu về
cuộc Vượt Qua của Người (Ga 13,31-32) và lệnh truyền mới của Đức Giêsu cho Hội
Thánh (Ga 13,33a.34-35).
1. Lời giải thích của Đức Giêsu về cuộc Vượt Qua của Người (Ga
13,31-32)
Giuđa bắt đầu thực hiện âm mưu nộp Đức Giêsu. Khi Giuđa đã đi rồi,
Đức Giêsu giải thích bản chất của những thực tại đang diễn ra. Nhìn bề ngoài,
Người đang đi vào một cuộc thất bại kinh khủng, nhưng thực chất, cái chết của
Người chính là một cuộc bày tỏ vinh quang và tình yêu ở mức tròn đầy: “Giờ đây
Con Người được tôn vinh và Thiên Chúa được tôn vinh nơi Người” (Ga 13,31). Thực
hiện chương trình của Thiên Chúa, Con Người diễn tả tình yêu và vinh quang của
Người ở mức độ cao nhất và trọn vẹn nhất. “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư
ngụ giữa chúng ta. Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang
mà Chúa Cha ban cho Người, là Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật” (Ga 1,14).
Với tất cả tự do, Đức Giêsu phó nộp mình trong tay kẻ dữ và đón nhận cái chết
thảm khốc, vì yêu mến và để cứu độ thế gian. Cái chết của Người, quả thực,
chính là bằng chứng lớn lao và vĩ đại nhất của tình yêu mà Thiên Chúa dành cho
loài người: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con
của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16). Chính theo
nghĩa đó, “Thiên Chúa cũng được tôn vinh nơi Người” (Ga 13,31).
“Nếu Thiên Chúa được tôn vinh nơi Người, thì Thiên Chúa cũng sẽ tôn
vinh Người nơi chính mình, và Thiên Chúa sắp tôn vinh Người” (Ga 13,32). Cần
đọc lời này của Đức Giêsu trong liên hệ với Ga 12,28: “Lạy Cha, xin tôn vinh
Danh Cha." Bấy giờ có tiếng từ trời vọng xuống: "Ta đã tôn vinh Danh
Ta, Ta sẽ còn tôn vinh nữa!”.
Tình yêu mà Đức Giêsu bộc lộ trong cuộc thương khó và cái chết của
Người, tình yêu đã được thi thố đến mức tận cùng qua hình ảnh máu và nước chảy
ra từ cạnh sườn bị đâm thâu của Người, tình yêu ấy sẽ đổ tràn vinh quang của
Thiên Chúa nơi chúng ta. Và “từ nguồn sung mãn của Người, tất cả chúng ta đã
lãnh nhận hết ơn này đến ơn khác” (Ga 1,16). Đó chính là cách Thiên Chúa tôn
vinh Con Một của Người nơi chính mình. Nói cách khác, chính khi Đức Giêsu sống
thân phận hạt lúa bị thối rữa trong lòng đất, lại là lúc xảy đến cuộc Thiên
Chúa tôn vinh Người bằng cách đổ tràn trên nhân loại tất cả ơn nghĩa và sự
thật: “Đức Giêsu nói: "Đã đến giờ Con Người được tôn vinh! Thật, Thầy bảo thật
anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một
mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác” (Ga 12,23-24).
Như thế, ở tận cùng của sự ô nhục của thập giá lại là cuộc tôn vinh
tuyệt vời của Con Thiên Chúa, cuộc tôn vinh vì tình yêu và ơn cứu độ dành cho
thế gian. Nơi tận cùng của cái chết bi thảm lại là điểm khởi đầu của sự sống
mới mẻ và viên mãn, bởi vì, nơi sự chết mà Đức Giêsu đang đi vào, “Con Người
được tôn vinh, và Thiên Chúa cũng được tôn vinh nơi Người. Nếu Thiên Chúa được
tôn vinh nơi Người, thì Thiên Chúa cũng sẽ tôn vinh Người nơi chính mình, và
Thiên Chúa sắp tôn vinh Người” (Ga 13,31-32).
2. Căn tính của cộng đoàn Hội Thánh – cộng đoàn Mêsia (Ga
13,33a.34-35)
Chính trong tư thế của Đấng được Thiên Chúa tôn vinh đó, Đức Giêsu
nói những lời từ biệt các đồ đệ: “Hỡi anh em là những người con bé nhỏ của
Thầy, Thầy còn ở với anh em một ít lâu nữa thôi. Thầy ban cho anh em một điều
răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã
yêu thương anh em. Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này:
là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13,33a.34-35).
Đức Giêsu sắp rời khỏi thế gian, nhưng các đồ đệ của Người vẫn còn
ở trong thế gian (Ga 13,1; 17,11). Đức Giêsu thiết lập họ thành cộng đoàn và
ban cho họ căn tính riêng biệt của những con người thuộc về cộng đoàn đó. Trước
đây, các đồ đệ đã biết Đức Giêsu là Đấng Mêsia (1,41.45.49); và bây giờ, các
ông sẽ biết đâu là đặc tính quan trọng bậc nhất của cộng đoàn Mêsia: “Thầy ban
cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau” (Ga 13,34a).
Khi nói “điều răn mới”, Đức Giêsu có ý đặt điều răn này đối lập với
luật cũ. Luật Môsê được thay thế bằng lệnh truyền tràn đầy ân sủng và sự thật
của Đức Giêsu. Sự khác biệt giữa hai giao ước được xác định. “Quả thế, Lề Luật
đã được Thiên Chúa ban qua ông Môsê, còn ân sủng và sự thật, thì nhờ Đức Giêsu
Kitô mà có” (Ga 1,17). “Đấng từ trên cao mà đến thì ở trên mọi người; kẻ từ đất
mà ra thì thuộc về đất và nói những chuyện dưới đất. Đấng từ trời mà đến thì ở
trên mọi người. Quả vậy, Đấng được Thiên Chúa sai đi, thì nói những lời của
Thiên Chúa, vì Thiên Chúa ban Thần Khí cho Người vô ngần vô hạn” (Ga 3,31.34).
Vinh quang của Thiên Chúa là sự dẫy tràn ân sủng và sự thật (Ga 1,14), nên đòi hỏi
dành cho những người được đưa vào vinh quang ấy cũng phải là tình yêu và chân
lý, bởi vì “từ nguồn sung mãn của Người, tất cả chúng ta đã lãnh nhận hết ơn
này đến ơn khác” (Ga 1,16).
Điều đáng chú ý: trong điều răn mới, Đức Giêsu không hề đòi hỏi các
đồ đệ phải làm gì cho chính Người hoặc cho Thiên Chúa, mà chỉ đòi hỏi các đồ đệ
yêu thương nhau. Thiên Chúa không tập trung chú ý của Người về chính bản thân
mình. Tình yêu của Người là tình yêu năng động hướng đến toàn thể vũ trụ và
nhân loại. Tình yêu của Người là tình yêu hiến tặng cho nhân loại: “Thiên Chúa
yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải
chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16).
Khuôn mẫu và tiêu chuẩn của tình yêu mà các đồ đệ phải thi thố là
chính Đức Giêsu: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga
13,34b).
Đức Giêsu đã từng mời gọi các đồ đệ đồng hóa với Người trong sự
sống và trong cái chết của Người: “Thật, tôi bảo thật các ông: nếu các ông
không ăn thịt và uống máu Con Người, các ông không có sự sống nơi mình” (Ga
6,53). Bây giờ, Người xác định rằng các hành động của Người chính là khuôn mẫu
cho cách sống của các độ đệ: điều răn mới chính yếu hệ tại ở chỗ các đồ đệ yêu
thương nhau như Người đã yêu thương họ vậy. Đức Giêsu là tiêu chuẩn, là thước
đo, là khuôn mẫu, là lý tưởng và là cùng đích tối hậu của tình yêu thương.
Có thể lấy hai hành động mà Đức Giêsu vừa thực hiện làm điểm quy
chiếu giúp giải thích thế nào là yêu thương nhau “như Thầy yêu anh em”: sự kiện
Đức Giêsu rửa chân cho các đồ đệ (Ga 13, 1-20) và thái độ của Người đối với
Giuđa, kẻ nộp Người (Ga 13,21-32). Bằng việc rửa chân cho các đồ đệ, Đức Giêsu
cho thấy điểm quan trọng trong tình yêu là đón nhận người khác và đặt mình
trong tư thế phục vụ người khác bằng cách đem lại cho họ phẩm giá và sự tự do
nhờ tình yêu mến. Cách hành xử của Đức Giêsu đối với Giuđa cho thấy tình yêu đó
không được giới hạn vào một loại đối tượng nào và không được loại trừ bất cứ
ai, nhưng luôn luôn hết mực tôn trọng tự do của người khác một cách đúng đắn.
Lệnh truyền mới của Đức Giêsu được ban cho những người thuộc về
Người, tức là những kẻ được Thiên Chúa sinh ra nhờ Thánh Thần (Ga 1,13: “Họ
được sinh ra, không phải do khí huyết, cũng chẳng do ước muốn của nhục thể,
hoặc do ước muốn của người đàn ông, nhưng do bởi Thiên Chúa”; 3,5-6: “Không ai
có thể vào Nước Thiên Chúa, nếu không sinh ra bởi nước và Thần Khí; cái bởi xác
thịt sinh ra là xác thịt; cái bởi Thần Khí sinh ra là thần khí”). Do Thiên Chúa
sinh ra, những người đó đã đón nhận quyền trở nên con cái Thiên Chúa (Ga 1,12),
và họ sẽ thực sự trở nên con cái Thiên Chúa khi họ yêu thương như chính Đức
Giêsu, Con Thiên Chúa, đã yêu thương: chính Người là con đường, là sự thật và
là sự sống (Ga 14,6).
Tình yêu thương giữa các đồ đệ với nhau phải là một thực tại có thể
thấy được và có thể được mọi người nhận biết. Vì thế, tình yêu ấy cần phải được
diễn tả bằng những hành động thực tế, như Đức Giêsu đã thực hiện. Và đây sẽ là
một dấu hiệu đánh dấu dung mạo và phản ánh căn tính của cộng đoàn. Sự kiện các
đồ đệ thuộc về Tôn Sư chí thánh (“anh em là môn đệ của Thầy”) không phải là một
điều lý thuyết, mà là một thực tại cụ thể được diễn tả trong thực tế của cuộc
sống tràn đầy yêu thương. Cộng đoàn các đồ đệ của Chúa Giêsu sẽ không “đánh
dấu” mình bằng những lý thuyết khôn ngoan độc đáo, cũng không phải bằng những
bài diễn thuyết hùng hồn, cũng chẳng phải bằng những lời giảng khuyên tốt lành,
cũng không phải bằng những tư tưởng cao xa về Thiên Chúa. Cộng đoàn Hội Thánh
thể hiện mình trong khả năng yêu thương đến tận cùng và trong việc xây dựng một
xã hội mới của tình yêu thương đến tận cùng ấy. Và đó chính là điều làm cho
Chúa Cha được nhận biết giữa thế gian.
Thay cho hòm bia của giao ước cũ, Đức Giêsu muốn thiết lập một
không gian và nơi chốn yêu thương trong giao ước mới. Thế gian sẽ nhận ra sự
hiện diện của Thiên Chúa trong chính tình yêu thương mà các độ đệ của Đức Giêsu
thi thố giữa thế gian. Không phải những cơ cấu hoàn chỉnh, không phải những
cuộc lễ tưng bừng hay những thứ khác tương tự, sẽ là dấu hiệu để thế gian nhận
biết các độ đệ của Đức Giêsu, mà là tình yêu thương như chính Đức Giêsu đã yêu
thương. Đó là tiêu chuẩn duy nhất mà Đức Giêsu đã thiết lập để “đánh dấu” dung
mạo của cộng đoàn Mêsia.
Khi thiết lập tiêu chí duy nhất để cộng đoàn Hội Thánh được nhận
biết giữa thế gian như thế, Đức Giêsu đã loại trừ tất cả những tiêu chí khác.
Căn tính của Hội Thánh không được đặt nền trên luật lệ hay phụng tự. Tình yêu
thương tha nhân là bằng chứng duy nhất của sự hiện diện đích thực của tình yêu
của Thiên Chúa nơi con người. Hội Thánh là mầu nhiệm tình yêu ấy giữa thế gian.
Các thành phần của Hội Thánh hiệp thông với nhau trong tình yêu ấy, và cùng
nhau làm chứng cho Chúa Kitô bằng cách thực thi tình yêu ấy.
33.
Hãy yêu như chính Thầy - Jos.Vinc. Ngọc Biển
Đọc lại lịch sử Giáo hội Công giáo Việt Nam thuở ban đầu, chúng ta
thấy cha ông chúng ta sống hết lòng yêu thương và đoàn kết với nhau. Các ngài
đã lấy Chúa làm trung tâm, làm điểm tựa cho mọi hoạt động. Lấy tinh thần bác
ái, yêu thương làm nên bản chất của mình. Vì thế, những người ngoài Công giáo
thời đó không biết tiền nhân của chúng ta theo đạo gì mà lại sống những giá trị
cao đẹp như vậy, nên họ nói với nhau: những người này họ sống "Đạo Yêu
Nhau".
Tại sao các tín hữu lại có lối sống như thế? Lối sống đó bắt nguồn
từ đâu? Thưa, mọi giá trị và ưu phẩm đó khởi đi từ một Đấng đã sống và dạy cho
con người bài học "yêu thương".
1. Đức Giêsu là hiện thân của tình yêu giữa Chúa Cha và loài người
Từ lúc xuống thế, nhập thể để ở với loài người, Đức Giêsu đã sống
và đem "Đạo Yêu" đến trần gian. Ngài đã diễn tả nó qua hành động và
lối sống của Ngài để làm toát lên khuôn mặt của một Thiên Chúa hết lòng yêu
thương con người. Tình yêu ấy được bắt nguồn từ Thiên Chúa Cha: "Thiên
Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi
phải chết, nhưng được sống muôn đời" (Ga 3,16). Đến lượt Đức Giêsu, Ngài
cũng sống triệt để sứ mạng đó khi yêu và yêu đến cùng bằng việc chết trên thập
giá để hiến mạng vì người mình yêu: "Không có mối tình nào lớn lao cho
bằng mối tình của kẻ chết vì người mình yêu" (Ga 15,13).
Quả thật: Vì yêu, "Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà
không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã
hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống
như người trần thế" (Pl 2,6-8).
Vì yêu, Đức Giêsu đã chấp nhận sinh ra nơi máng cỏ bò lừa giữa đêm
đông lạnh giá. Chấp nhận bị phiêu bạt nơi đất khách quê người vì vua Hêrôđê bạo
chúa tìm cách bắt bớ. Khiêm tốn vâng lời cha mẹ của Ngài là Thánh Giuse và Mẹ
Maria.
Vì yêu, Đức Giêsu đã hạ mình để Gioan làm phép rửa thống hối cho
Ngài, mặc dù Ngài vô tội; đã ăn chay suốt 40 đêm ngày để làm gương cho mỗi
chúng ta; đã rao giảng Tin Mừng khắp đó đây để cho mọi người được ơn cứu độ;
luôn cảm thông với người tội lỗi, nâng đỡ kẻ yếu đuối, vỗ về người thất vọng.
Ngài đã "chạnh lòng thương" đến đoàn chiên bơ vơ không người chăn
dắt; đã nuôi sống họ bằng phép lạ hóa bánh ra nhiều; đã chữa lành những người
ốm đau tật nguyền; đã cúi xuống rửa chân cho các môn đệ; đã làm ơn cho kẻ hại
mình; đã yêu luôn cả kẻ thù và sẵn sàng tha thứ cho họ.
Vì yêu, Đức Giêsu đã trao ban chính mình Ngài cho chúng ta qua Bí
tích Thánh Thể và ở lại mọi ngày với loài người cho đến tận thế. Vì yêu, Ngài
đã chấp nhận bị môn đệ thân tín bán đứng, bị Phêrô chối là không biết mình và
bị người đời khinh khi nhục mạ. Cuối cùng, đã đón nhận chính cái chết để cứu
chuộc loài người.
Như vậy, cả cuộc đời của Đức Giêsu đã sống và chết vì yêu. Qua đó,
Ngài cũng dạy cho các môn đệ bài học về tình yêu: "Đây là Điều Răn của
Thầy: Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em" (Ga
15,12); hãy yêu như Thầy: "Không có tình yêu nào quý hơn tình yêu của
người hiến mạng vì người mình yêu" (Ga 15,13).
"Hãy yêu thương nhau" là gia tài, là di chúc của Đức
Giêsu dành cho các môn đệ khi sắp lên đường chịu chết. Lời trăng trối này thật
thiêng liêng trong một không gian thánh giữa lúc thầy trò chuẩn bị ly
biệt:"Hỡi anh em là những người bé nhỏ của Thầy, Thầy còn ở với anh em ít
lâu nữa thôi", vì thế, "anh em hãy yêu thương nhau".
2. Tại sao lại phải yêu thương nhau?
Có yêu thương nhau thì mới cùng nhau vượt qua được thử thách khi
thấy cảnh Thầy của mình bị bắt, bị trói, bị đánh đập và bị giết chết trần trụi
trên thập giá.
Có yêu thương nhau thì mới đón nhận nhau là anh em và không tranh
dành chỗ cao thấp trong cuộc đời khi không còn Thầy hiện diện ở giữa nữa.
Có yêu thương nhau thì mới cùng nhau loan truyền và làm chứng về
Thầy cho người khác.
Có yêu thương nhau thì mới đến được với người nghèo, người khổ đau,
bệnh tật để an ủi họ. Mới dám cùng nhau chấp nhận cái chết để minh chứng cho
mọi người biết mình đã tin vào Đấng là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống.
Yêu nhau và dám chết cho nhau thì mới là người đáng tin và mọi
người mới biết mình tin vào ai. Ngược lại, chỉ yêu nhau trong những lúc vui vẻ,
thành công thì chỉ là một thứ tình yêu đầu môi chóp lưỡi.
Lời trăng trối của Đức Giêsu không chỉ là "hãy yêu thương
nhau", mà còn đi một bước xa hơn và mới hơn nữa là "hãy yêu như chính
Thầy". Yêu nhau là tình bằng hữu, nhưng chết cho nhau là một tình yêu cao
cả. Yêu như Thầy là dám chết cho người mình yêu. Yêu như Thầy là một tình yêu
bằng cả cuộc đời: từ lời nói, hành động và cái chết luôn thống nhất với nhau.
Nếu yêu thương nhau là cốt lõi của Tin Mừng, thì chết cho nhau là
đỉnh cao của tình yêu ấy. Khi yêu nhau, ta làm toát lên vẻ đẹp của mình, khơi
gợi cho con người niềm hy vọng và xác tín mạnh mẽ vào Đấng đã yêu thương chúng
ta trước. Và như thế, "mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm
này: là anh em có lòng yêu thương nhau" (Ga 13,35). Khi yêu như thế, ta
cũng được ở lại trong Chúa và Chúa ở trong ta. Bởi vì, "Thiên Chúa là Tình
Yêu: ai ở lại trong tình yêu thì ở lại trong Thiên Chúa và Thiên Chúa ở lại
trong người ấy" (1 Ga 4,16).
Yêu thương là yếu tính của Đạo chúng ta. Cha ông chúng ta đã sống
và làm chứng cho những giá trị cao quý ấy bằng cả mạng sống của mình để minh
chứng niềm tin vào Đấng đã yêu và chết cho mình trước. Đấng ấy là chính Đức
Giêsu. Hoa trái của các ngài đã toả lan và lưu truyền nơi Giáo Hội. Còn chúng
ta, chúng ta đã thực hiện Lời Chúa dạy về đức yêu thương như thế nào? Xin để
lại nơi suy nghĩ của mỗi chúng ta trước mặt Chúa...
34.
Người môn đệ đích thực
Ngày hôm nay, các tổ chức, các công ty-xí nghiệp họ thường có những
huy hiệu hay những bộ đồng phục để người ta nhận ra thành viên của tổ chức ấy,
hoặc để các thành viên trong tổ chức đó nhận ra nhau. Bài Phúc âm chúng ta vừa
nghe, CG không dùng những hình thức bên ngoài để người ta nhận ra ai là môn đệ
Chúa, nhưng dấu hiệu để chứng tỏ mình là môn đệ đích thực của Chúa đó là phải
có lòng yêu thương.
Có lẽ khi nói đến hai chữ "yêu thương" ai trong chúng ta
cũng đều hiểu và cảm nhận được ngay. Vì con người không thể sống nếu không biết
yêu thương. Ngay khi tạo dựng con người, Thiên Chúa đã đặt để trong lương tâm
của mỗi người khả năng yêu thương. Nhờ đó con người có thể yêu mến Thiên Chúa
và yêu thương nhau. Chính vì hai chữ "yêu thương" nó quan trọng như
thế cho nên khi CG sắp bước vào cuộc khổ nạn, CG đã để lại cho các môn đệ lời
trăn trói sau cùng, đó là: "các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu
thương các con".
Nhưng yêu thương như Chúa yêu thương là như thế nào?
Tâm lý tự nhiên, chúng ta thường yêu thương những người trong gia
đình, trong huyết tộc, hay yêu thương những người thương ta, làm ơn cho ta.
Nhưng CG yêu thương tất cả mọi người, từ những em bé, những kẻ tội lỗi, những
người bị xã hội ruồng bỏ, và cả những kẻ làm hại Ngài, giết chết Ngài. Tình yêu
đó đã làm cho Ngài không ngại khi cúi xuống rửa chân cho các môn đệ. Ngài không
ngại rửa chân cho Giuđa kẻ sắp phản bội Ngài. Ngay cả lúc trên thập giá, khi
còn chút hơi mọn, thay vì Ngài trách mắn những kẻ làm khổ mình nhưng Ngài lại
"xin Chúa Cha tha cho họ". Ngài không nhìn họ là kẻ thù nhưng Ngài
thấy nơi họ là những con người cần được thương xót.
Khi yêu thương chúng ta, Chúa không so đo hơn thiệt, không đặt bất
cứ điều kiện nào. Ngài cho tất cả, hy sinh tất cả, kể cả mạng sống để ta được
hạnh phúc. Ngài cũng muốn chúng ta là môn đệ của Ngài cũng phải biết yêu thương
tất cả mọi người như vậy.
Nhìn vào đứa con người ta có thể nhận ra cha mẹ của chúng, qua nét
mặt, lời nói. Cũng thế, Chúa Giêsu sẽ được nhiều người nhận biết khi chúng ta
là những môn đệ của Chúa biết phác hoạ lại chân dung của Thầy bằng một đời sống
biết yêu thương.
Mẹ Têrêxa Calculta đã dùng chính cuộc đời của mình để yêu thương và
giúp đỡ người nghèo. Một lần nọ, mẹ đưa về nhà dòng một ông lão bị bỏ rơi trên
đường phố, mình đầy ghẻ chóc. Sau một thời gian được mẹ săn sóc, ông xin được
rửa tội. Mẹ mới hỏi: tại sao ông muốn được rửa tội. Ông trả lời: vì tôi thấy
tình thương của Chúa dành cho tôi qua sự săn sóc của mẹ. Chính cách sống yêu
thương của Mẹ Têrêxa không chỉ làm cho nhiều người tin vào Chúa mà còn làm cho
cả thế giới thấy được tinh thần yêu thương của kitô giáo.
Làm sao chúng ta có thể nói với anh chị em lương dân đạo công giáo
là đạo của tình yêu, Thiên Chúa chúng ta thờ, Ngài yêu thương hết mọi người mà
chính bản thân, gia đình của chúng ta lại không yêu thương, không giúp đỡ nhau.
Tuy nhiên, nói yêu thương thì rất dễ nhưng để yêu thương như Chúa
yêu không phải là chuyện dễ chút nào. Bởi vì đã gọi là yêu thương thì phải chấp
nhận hy sinh: hy sinh tiền của, sức khoẻ, thời giờ, nhất là khi phải yêu thương
những người chúng ta không thích, những người làm khổ chúng ta. Tự sức chúng ta
thật khó để thực hiện lệnh truyền yêu thương của Chúa nhưng chúng ta sẽ làm
được nếu dựa vào Chúa, noi gương Chúa. Nhờ kết hợp với Chúa qua đời sống cầu
nguyện, chúng ta sẽ tập nhận ra Chúa qua anh chị em. Bởi vì Chúa Giêsu đã đồng
hoá Ngài nơi tha nhân, nhất là những người nghèo khổ, bất hạnh.
Xã hội ngày hôm nay, người ta có thể mua được nhiều thứ bằng tiền,
nhưng cái đang rất cần để mang lại hạnh phúc là yêu thương thì lại càng ít được
quan tâm. Chính vì sự vắng bóng tình yêu nên cuộc sống của con người càng trở
nên khô cằn. Biết bao gia đình tan vỡ, con cái chống lại cha mẹ, vợ chồng ly
tán, anh chị em bất hoà cũng chỉ vì thiếu vắng tình yêu.
Trong thánh lễ hôm nay, chúng ta cùng cầu xin Chúa giúp cho mỗi
người chúng ta, biết can đảm thực thi lệnh truyền yêu thương của Chúa trong
cuộc sống hằng ngày. Bằng một đời sống biết quan tâm và giúp đỡ nhau, không chỉ
là cơm áo gạo tiền, nhưng một lời nói tốt, một lời cầu nguyện, một sự thông cảm
tha thứ đó cho nhau đó cũng là chúng ta đang thực hiện lệnh truyền yêu thương
của Chúa, đó là chúng ta đang làm chứng cho Chúa.
35. Đức
Giêsu luôn luôn hiện diện
(Chú giải và suy niệm của Lm. FX. Vũ Phan Long)
Sự kiện Đức Giêsu đã đạt tới mục tiêu là đảm bảo cho các Kitô hữu
là họ cũng sẽ đạt tới đó, Người sẽ đón họ vào trong cuộc sống vinh phúc của
Người.
1.- Ngữ cảnh
Đoạn văn này thuộc về Phần II của TM IV ("Sách về Giờ của Đức
Giêsu") và ở trong "Diễn từ cáo biệt thứ nhất" (13,31-14,31):
Đức Giêsu nói những lời này sau khi đã rửa chân cho các môn đệ (13,1-20) và
loan báo Giuđa phản bội (13,21-30). Người mời gọi các môn đệ đừng hoang mang
trước viễn tượng Người ra đi (14,1): Chúa Cha sẽ cử đến một Đấng Bảo Trợ khác
để trợ giúp các ông, đó là Thánh Thần (14,16-17). Còn chính Người thì sẽ trở
lại với các ông; thế gian không thấy Người, nhưng những ai tin vào Người thì
thấy được Đấng ấy (14,18-21). Giuđa đã diễn tả sự kinh ngạc của tất cả các môn
đệ: "Thưa Thầy, tại sao Thầy phải tỏ mình ra cho chúng con, mà không tỏ
mình ra cho thế gian?" (14,22). Ông mơ một cuộc tỏ mình cụ thể, khả giác,
của Đức Giêsu; ông chưa hiểu là biến cố Đức Giêsu và Thánh Thần ngự đến chỉ có
thể nhận biết trong đức tin.
Thoạt nhìn, dường như câu trả lời của Đức Giêsu (c. 23) không liên
hệ đến câu hỏi và sự ngạc nhiên của Giuđa. Thực ra, câu trả lời đã đi thẳng vào
câu hỏi, bởi vì Đức Giêsu loan báo sự hiển lộ mầu nhiệm của Người và lý do
khiến thế gian không thấy được sự hiển lộ này.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành ba phần:
1) Chúa Cha đến (cùng với Đức Giêsu) (14,23-24);
2) Chúa Cha sai phái Đấng Bảo Trợ đến giảng dạy (14,25-26);
3) Đức Giêsu ban bình an và ra đi (14,27-29).
3.- Vài điểm chú giải
- lời (23): Đối với một người Sê-mít, "lời" (logos)
có tính cụ thể; "lời" diễn tả hữu thể thâm sâu, chính bản thân con
người.
- Thánh Thần ... Đấng đó sẽ dạy anh em mọi
điều (26): Từ ngữ "Thánh Thần" (to pneuma to hagion) ở trung
tính; vậy mà chủ ngữ "Đấng đó" (ekeinos) thay cho "Thánh
Thần" (to pneuma to hagion, ho...) lại ở nam tính. Khi viết như
thế, tác giả muốn cho thấy rằng Thần Khí còn hơn là một xu hướng hay là một ảnh
hưởng; Người là một nhân vật, một Đấng. Có thể nói ekeinos ở nam tính vì thay
cho paraklêtos, nhưng gần hơn, vẫn là thay cho to pneuma to hagion, ho...
- sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm anh em nhớ lại (26): Bultmann có lý khi
cho rằng, "dạy" và "làm nhớ lại" không phải là hai chức
năng khác nhau của Thánh Thần, nhưng là hai phương diện của cùng một chức năng.
Như thế, "dạy anh em" và "làm anh em nhớ lại" song đối với
nhau.
- bình an (27): Khi ra đi, Đức Giêsu nói shalôm (bình an) với
các môn đệ. Nhưng đây không phải là lời chào thông thường, mà là ân ban cứu độ.
Đây không phải chỉ là tình trạng không có chiến tranh, hay là chấm dứt sự căng
thẳng về tâm lý, hay là một cảm giác thư thái. Theo ngôn ngữ Ga, "bình
an", "sự thật", "ánh sáng", "sự sống",
"niềm vui" là những từ mang nghĩa ẩn dụ để diễn tả các phương diện
khác nhau của ân huệ lớn lao mà Đức Giêsu đã mang từ Chúa Cha đến cho con
người. "Thầy ban cho anh em bình an của Thầy" là một cách khác để nói
"Tôi ban cho chúng sự sống đời đời" (10,28). "Bình an của
Thầy" ở đây cũng giống như "niềm vui của Thầy" ở 15,11 và 17,13.
- nếu anh em yêu mến Thầy (ei êgapate, 28): Động từ
ở thì vị hoàn (imperfect) để nói về một điều kiện "không có thật",
chưa xảy ra [1].
- Chúa Cha cao trọng hơn Thầy (28): Câu này đã là đề
tài cho nhiều cuộc tranh luận về Kitô học và về Ba Ngôi. Phái Ariô đã dựa vào
câu này để biện minh cho Kitô học của họ, và do đó, để chống lại thần tính của
Đức Giêsu. Đã có hai cách giải thích cổ điển: (1) Một nhóm Giáo Phụ (Origiênê,
Téctulianô, Athanasiô, Hilariô, Êpiphanê, Grêgôriô Nadien, Gioan Đamát) cho
rằng bản văn diễn tả sự phân biệt giữa Chúa Con và Chúa Cha: Con được nhiệm
sinh trong khi Cha thì không. Tuy nhiên, cách giải thích này phát xuất từ suy
tư tín lý về Kinh Thánh sau này chứ không dựa trên chú giải câu văn. Cho rằng
tác giả Ga đã giới thiệu Đức Giêsu nói với các môn đệ về quan hệ nội tại giữa
Ba Ngôi là sai niên đại. (2) Một nhóm Giáo Phụ khác (Xyrilô Alêxandria,
Ambrôsiô, Âutinh) đã giải thích rằng trong tư cách là con người, Chúa Con Nhập
Thể kém hơn Chúa Cha. Lối giải thích này thoạt tiên có vẻ có lý hơn lối giải
thích trước, nhưng vẫn nhằm phân biệt các bản tính nơi Đức Giêsu. Và đây là
điều không chắc là Ga đã nghĩ tới. Không lẽ Ga lại nghĩ đến một sự phân biệt
giữa Đức Giêsu nói như con người và Đức Giêsu nói như Thiên Chúa? Nhất là một
cách phân biệt như thế có phù hợp chăng trong Diễn từ cuối cùng, vì ở đây hơn ở
bất cứ nơi nào khác, Đức Giêsu, Đấng đang nói, siêu việt lên trên cả thời gian
lẫn không gian?
Khi đã bỏ ra ngoài sự can thiệp của khoa tín lý hình thức của thời
sau này, chúng ta thấy rất có thể chìa khóa nằm ở 13,16: "Kẻ được sai đi
không lớn hơn người sai đi". "Cha quan trọng hơn tôi" nghĩa là quan
trọng hơn những gì anh em đã thấy nơi tôi. Đức Giêsu chỉ quan trọng do chỗ
Người là Đấng "mạc khải" Chúa Cha. Sự phân biệt được đưa vào không
đối lập bản tính nhân loại với bản tính thần linh trong Đức Kitô (theo cách
giải thích truyền thống), mà là đối lập "cách giới thiệu bản thân Người
trong hình thức nhân loại" (trong phẩm cách Mêsia) với ý nghĩa tròn đầy
của bản thân Người trong tư cách là Thiên Chúa, đó là mạc khải Chúa Cha. Vậy
vấn đề là nhận biết Chúa Cha nơi Đức Giêsu. Khi các môn đệ đã đạt được tới đó,
sẽ không còn vấn đề thấp hơn hay cao hơn, bởi vì Chúa Cha và Người chỉ là một.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Chúa Cha đến (cùng với Đức Giêsu) (23-24)
Đức Giêsu khẳng định rằng người nào yêu mến Người, thì phải
"giữ lời" Người, nghĩa là gắn bó với lời loan báo của Người và nhận
biết bằng đức tin những gì Người đã yêu cầu (x. 14,15.21.23), và đáp lại bằng
trọn cuộc đời dấn thân thực tế và quảng đại. Khi ấy, họ sẽ được đón tiếp Chúa
Cha. Đối với Đức Giêsu, bằng chứng cho thấy Người liên kết với Chúa Cha là
những việc Người làm (x. 14,10-11). Trong Cựu Ước, dân Israel đi tới chỗ biết
Thiên Chúa của họ do họ thấy Ngài che chở kẻ nhỏ bé nhất, yếu đuối nhất, những
ngoại kiều, trẻ mồ côi, và các quả phụ. Nếu Đức Giêsu đang làm những việc tương
tự, điều đó có nghĩa là Thiên Chúa đang ở trong Người và Người đang ở trong
Thiên Chúa.
Không những các môn đệ đầu tiên, mà bất cứ ai tin vào Người và yêu
thương Người, liên kết với Người theo cách này ("giữ lời"), thì đều
sẵn sàng đón Chúa Cha và Chúa Con khi các Đấng đến; các Đấng sẽ cư ngụ nơi
người ấy và sẽ ở lại bền bỉ với người ấy. Người đã liên tục nhắc lại:
"Thầy không cô độc đâu, vì Chúa Cha ở với Thầy" (16,32; x. 8,29).
Điều này đúng cho bất cứ ai yêu thương Đức Giêsu: người ấy không phải cô độc,
không bị lạc lõng và bỏ rơi; dù không hữu hình, Đức Giêsu và Chúa Cha vẫn ở bên
người ấy.
* Chúa Cha sai phái Đấng Bảo Trợ đến giảng dạy (25-26)
Đức Giêsu nhắc lại một lần nữa là Thánh Thần sẽ đến (x. 14,16-17);
Chúa Cha sẽ ban Thánh Thần theo lời Đức Giêsu thỉnh cầu. Đức Giêsu để lại cho
các môn đệ lời của Người, sứ điệp của Người. Đây sẽ mãi là những yếu tố đưa các
môn đệ đến với Người. Nhưng các môn đệ sẽ không phải dựa vào sức riêng mà hiểu
lời Người: họ sẽ được Chúa Thánh Thần trợ giúp. Sự hỗ trợ hữu hiệu của Thánh Thần
sẽ được biểu lộ rõ ràng trong việc dạy cho họ hiểu lời của Đức Giêsu. Thánh
Thần sẽ không đưa đến một giáo huấn mới: thật ra toàn thể mạc khải đã được ban
nơi Đức Giêsu. Tất cả hoạt động của Thánh Thần sẽ là quy về những gì Đức Giêsu
đã nói và giải thích cho các môn đệ. Được Thánh Thần dạy dỗ, các ông sẽ có thể
đi theo sát hơn nữa lời của Đức Giêsu và được chuẩn bị đi vào hiệp thông với
Chúa Cha và Chúa Con.
* Đức Giêsu ban bình an và ra đi (27-29)
Đức Giêsu không để các môn đệ phải mồ côi (x. 14,18), nghĩa là bỏ
rơi các ông, mặc cho các ông sợ hãi, không được hỗ trợ nâng đỡ. Người từ giã và
ban sự bình an của Người cho các ông. Người từ giã các môn đệ nhưng ban một sự
bình an, một sự đảm bảo và một sự che chở chỉ có thể phát xuất từ Người. Sự
bình an này không phải chỉ là một lời nói (một lời chào), cũng không phải là sự
bình an mà thế gian ban tặng: một sự bình an giả trá, một sự bình an được đặt
trên sự chuyên chế, bạo động và bất công. Sự bình an Đức Giêsu ban chính là ơn
cứu độ, là "sự thật", "ánh sáng", "sự sống",
"niềm vui", dựa trên việc loan báo do Người thực hiện, dựa trên sự
hiệp thông với Chúa Cha và với Chúa Con và dựa trên sự hiện diện của Chúa Thánh
Thần. Sự hiệp thông ấy đưa lại sự an toàn và che chở. Nếu Thiên Chúa ở cùng
chúng ta, ai có thể đe dọa chúng ta và đứng lên chống lại chúng ta?
Khi đi chịu chết, thật ra Đức Giêsu trở về nhà Cha (x. 13,1); như
thế Người đã đạt được mục tiêu của hành trình trần thế của Người. Đối với
Người, không có niềm vui nào to lớn hơn là sự hiệp thông trọn vẹn với Cha. Điều
này hẳn cũng phải có giá trị cho các môn đệ Người. Sự thông hiệp với Cha và với
Con, một sự hiệp thông được ban cho họ ngay từ bây giờ, là nền tảng cho sự bình
an của họ. Sự hiệp thông trọn vẹn của Con với Cha, vì là mục tiêu Đức Giêsu đã
đạt, là nền tảng chắc chắn nhất cho niềm vui của họ.
+ Kết luận
Mọi sự tùy thuộc vào việc nhìn các sự việc một cách đúng đắn. Nhìn
từ bên ngoài, cái chết của Đức Giêsu dường như là tai họa và sự đổ vỡ tan tành
thành mây khói. Nhưng ai tuân giữ lời của Người, thì đã không mất sự an toàn do
cái chết của Người, mà lại còn được củng cố trong niềm tin vào Người và trong
niềm vui vì chiến thắng của Người. Đức Giêsu làm cho chúng ta tất cả những điều
này xuyên qua hoạt động của Thánh Thần: chính Thánh Thần sẽ dẫn dắt chúng ta,
dạy bảo và nhắc chúng ta nhớ lại tất cả những gì Đức Giêsu đã nói.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Sự hiệp thông với Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần cất đi
mọi mối bận tâm, sợ hãi và lo lắng bất an, nhất là khi ta sống sự hiệp thông ấy
trong đức tin. Bởi vì chỉ Đức Giêsu mới giúp chúng ta đi vào hiệp thông với
Chúa Cha, thì cũng chỉ Người mới có thể ban cho chúng ta sự bình an này. Người
tín hữu phải luôn luôn biết rằng, ngay cả khi họ bị cái chết dằn vặt, Đức Giêsu
và Chúa Cha vẫn ở bên họ, chứ không bao giờ bỏ rơi họ trong tình cảnh khốn
quẫn. Sự hiệp thông với Đức Giêsu và với Chúa Cha không chỉ bắt đầu khi chúng
ta được tiếp đón vào nhà Cha (14,2-3), nhưng là một thực tại đã có bây giờ và
sẽ hoàn tất với cuộc hưởng kiến vinh quang.
2. Ngược với việc tuân giữ những luật lệ chi li cách tỉ mỉ và máy
móc, không quan hệ gì với con tim của người tín hữu, Đức Giêsu đặt các tương
quan của Người với các môn đệ trên nền tảng là các dây liên kết riêng tư trong
tình yêu. Muốn thấy Đức Giêsu, muốn sống nhờ Người và với Người, người tín hữu
phải "giữ các lời Người" (c. 24). Sự sống này, như Đức Giêsu xác
định, lại chính là sự sống của Người và cũng là sự sống mà Người nhận từ Chúa
Cha, nhưng cũng có chung với Chúa Cha.
3. Các Kitô hữu hôm nay cũng phải vui mừng cho chính mình: sự kiện
Đức Giêsu đã đạt tới mục tiêu là đảm bảo cho họ là họ cũng sẽ đạt tới đó, Người
sẽ đón họ vào trong cuộc sống vinh phúc của Người.
4. Cái chết của Đức Giêsu rất có thể có vẻ là chiến thắng của ông
hoàng của thế gian này và của các quyền lực bóng tối, là sự khải hoàn của các
đối thủ của Người. Nhưng Đức Giêsu không hề bị áp đảo bởi một quyền lực bên
ngoài, chống lại ý muốn của Người. Người đã tự ý nhận lấy cái chết của Người,
bởi vì Cha đã định đoạt như thế cho Người. Cái chết của Người là một dấu chỉ về
tình yêu của Người đối với Cha.
--------------------------------------------
[1] M. Zerwick, Biblical Greek *313.
36.
Chú giải của Noel Quesson
Từ đây cho đến hết Mùa Phục sinh, chúng ta sẽ đọc một số trích đoạn
“cuộc nói chuyện cuối cùng của Đức Giêsu” vào chiều Thứ Năm Thánh, hôm trước
ngày Người "ra đi": đó là di chúc tinh thần của Ngài.
Khi Giuđa đi rồi, Đức Giêsu nói
Ta có cảm tưởng rằng, Đức Giêsu được tự do, Người có thể bắt đầu
bày tỏ một số tâm sự... như thể sự hiện diện của kẻ phản nộp đã bít cứng cổ
họng Người, khiến không có dịp thốt nên lời.
Khi chúng ta nghĩ đến những nỗi cô đơn thương đau, những khó khăn
trong mối quan hệ, những tình trạng chặn nghẽn tâm lý, đôi khi ngăn cản chúng
ta không thể nói hết những gì' cần phải diễn tả... lúc đó ta hãy nghĩ đến Đức
Giêsu, vì trong thân phận con người, Người đã thấu cảm những tình huống đau
thương như thế.
Khi chúng ta chịu đựng những xung đột giữa người đời, trong các
nhóm, những chống đối và hiểu lầm... chúng ta hãy nghĩ đến Đức Giêsu, vì Người
cũng đã chịu đựng những điều như thế. Chiều hôm đó, bầu khí trong nhóm đang tụ
tập chung quanh bàn ăn với Người, trở nên bi thiết: một người trong họ vừa bước
ra ngoài... để phản bội nhóm. Đó là thái độ quá quắt của kẻ "không có, tình
yêu”: tố cáo bạn hữu, ruồng bỏ một người mà mình đã trải qua nhiều năm tháng
kết tình kết nghĩa.
Đức Giêsu không phải là không có khả năng thông cảm mọi khó khăn
của ta. Người đã sống những khốn khó đó.
Giờ đây, Con Người được tôn vinh, và Thiên Chúa cũng được tôn vinh
nơi Người. Nếu Thiên Chúa được tôn vinh nơi Người, thì Thiên Chúa cũng sẽ tôn
vinh Người nơi chính mình, và Thiên Chúa sắp tôn vinh Người.
Đức Giêsu luôn hoàn toàn thanh thản. Trong tình trạng nguy kịch
phải đường đau, Người vẫn giữ được một sự bình an siêu phàm. Lạy Chúa, xin ban
cho chúng con sự bình an đó.
Sự bình an của Đức Giêsu được diễn tả trong một câu nằm giữa hai
phó từ: giờ đây... sắp sửa. Những động từ ở đầu câu thuộc thời hiện tại (nhằm
diễn tả một tình trạng bất định theo tiếng Hy Lạp, nghĩa là thời gian của
"các vật chưa hoàn tất"), và những động từ ở cuối câu thuộc thời
tương lai. Toàn thể một thái độ tinh than tiềm ẩn đằng sau cấu trúc ngôn ngữ
trên. Trong giây phút hiện tại, giây phút đầu tiên của cuộc Thụ Khổ mà Giua đã
mở ra… Đức Giêsu đã nghĩ đến kết quả của tiến trình sắp được thể hiện qua biến
cố Phục sinh. Như thế, niềm hy vọng đã giúp ta cảm thấy trước những gì vẫn còn
ở trong tương lai! "Tôi nghĩ rằng: những đau khổ chúng ta chịu bây giờ
sánh sao được với vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mạc khải nơi chúng ta" (Rm
8,18). Cũng như Đức Giêsu, ngay từ bây giờ, giữa đau khổ hiện tại, tôi có thể
đã nếm cảm được thứ hạnh phúc vô biên đó, sẽ được thể hiện cách trọn vẹn, mãi
mãi nhưng muộn hơn, sau này.
Giờ đây, Con Người được tôn vinh và Thiên Chúa cũng được tôn vinh
nơi Người.
Chúng ta trở lại mạc khải đáng ngạc nhiên trên đây, khiến ta có dịp
bước sâu vào "nội tâm của Đức Giêsu. Tiến trình cuộc Thương khó vừa mới
được mở ra, do thái độ bước ra ngoài của "kẻ trao nộp Đức Giêsu”. Do đó,
ngay tức khắc, đối với Đức Giêsu, vinh quang của Người đã hiện ra rồi! Đó là sự
thực. Thật là khó khăn chúng ta mới tin được rằng, thập giá đã là vinh quang
của Đức Giêsu. Chúng ta có khuynh hướng dễ khóc thương trong Ngày Thứ Năm, Thứ
Sáu Thánh dù rằng ngay sau đó phải vội bỏ qua để sống niềm vui rộn rã của Chúa
nhật Phục sinh. Thế nhưng, chính "Đấng chịu đóng đinh" đã được tôn
vinh và làm vinh quang Thiên Chúa? Đến khi nào ta mới hết coi thập giá như một
vật ghê tởm, cần phải tìm hết cách thủ tiêu? Thực sự, nhìn theo quan điểm của
Đức Giêsu, thập giá của Người, chính là vinh quang của Người? "Không có
tình yêu nào lớn hơn" (Ga 15,13). Tuy nhiên, kẻ yêu thương, theo kinh nghiệm, luôn
biết rằng, tình yêu thương dẫn đến hy sinh bản thân cho người mình yêu mến. Còn
kẻ chỉ biết yêu bản thân mình, sẽ không thể hiểu được.
Bạn có muốn biết mình thương yêu người nào không?
Bạn hãy tự hỏi xem bạn có thể hiến thân mình cho họ vì yêu thương
không. Nhưng coi chừng, một giọng nói lừa đảo của thế giới hiện đại sẽ trấn an
bên tai bạn rằng, hiến thân như thế là lầm to, bạn sẽ thành nạn nhân, sẽ mất
nhân vị, bạn phải nghĩ đến mình một chút; để cho đời thêm tươi.
Hỡi anh em là những người con bé nhỏ của Thầy, Thầy còn ở với anh
em một ít lâu nữa thôi
Đó là những lời đầy âu yếm, những lời nói của người mẹ. Trong tất
cả các Tin Mừng, đây là lần duy nhất Đức Giêsu dùng kiểu xưng hô: “Hỡi các con
bé nhỏ của Thầy…”
Đức Giêsu phải ra đi. Người biết rõ điều đó. Người đã phát biểu
thành lời. Nhưng thật đáng tiếc, Sách Bài đọc đã cắt bỏ một câu như sau: ‘Anh
em sẽ tìm kiếm Thầy, nhưng như Thầy đã nói với người Do Thái: Nơi tôi đi, các
ngươi không thể đến được’, bây giờ Thầy cũng nói với anh em như vậy”. Thế giới
ngày nay đang đặt nặng vấn đề sự vắng mặt hiển nhiên của Thiên Chúa. Đức Giêsu
biết rằng, buổi chiều mà Người đang sống với các bạn hữu của mình là buổi chiều
cuối cùng. Người sắp để họ ở lại một mình, không có sự hiện diện của Người cách
hữu hình, nhân loại, cụ thể... nhưng rất hữu ích? Sẽ có thời gian vắng mặt.
Nhưng rõ ràng, Đức Giêsu muốn nói lên điều gì về vấn đề này. Chúng ta hãy lắng
nghe tiếp.
Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau
Đức Giêsu phải ra đi. Nhưng Ngài loan báo cách hiện diện mới mẻ của
Ngài. "Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha của Thầy sẽ yêu mến người
ấy. Cha của Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy" (Ga 14,23). Và
thánh Gioan quảng diễn như sau: "Nếu chúng ta yêu thương nhau, thì Thiên
Chúa ở lại trong chúng ta" (1 Ga 4,12).
Vâng, tình yêu đích thực là một "sự hiện diện thực sự” của
Thiên Chúa. "Ở đâu có hai ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở
đấy, giữa họ". Đức Giêsu hiện diện giữa những người cùng nhau cầu nguyện
(Mt 18-20). Những gì các người đã làm (cho ăn, cho mặc, viếng thăm, săn sóc)
cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta, là “các ngươi đã làm cho chính
Ta vậy". Đức Giêsu luôn hiện diện trong mọi người đang cần đến tôi và tôi
đang phục vụ (Mt 25,31-46).
Nếu thực là thế! Nếu thực là "Thiên Chúa đã chết", thì sự
vắng mặt của Thiên Chúa trong thế giới hiện tại chỉ là hiện tượng tình yêu đã
chết". Nhưng hãy để ý, vì tiếng nói lừa dối của thế giới hiện đại không
ngừng thay đổi giọng điệu với ta, qua những làn phát sóng, trong mọi thứ quảng
cáo. Người ta chỉ bàn luận, chỉ ca ngợi "tình yêu”. Nhưng là thứ tình yêu
nào chứ? Éros hay Agapè, "tình yêu bản thân" hay "tình yêu kẻ
khác"? tình yêu là từ hàm hồ nhất, giả dối nhất. Khi bạn nói: "Tôi
thích kẹo cao su!”… bạn có thích nó thực sự hay bạn tiêu huỷ nó nhằm lợi ích cho bạn? Khi bạn yêu một người
nào đó, bạn có yêu họ theo cách đó... nghĩa là chỉ vì bạn hay vì họ? Ngôn ngữ
Hy Lạp ít hàm hồ hơn, vì có hai từ khác biệt nhau để diễn tả hai thực tại yêu
thương đối nghịch nhau:
-Agapé: Yêu tha nhân... đó là tình yêu sẵn sàng hy sinh cho kẻ
khác.
Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em.
Chỉ một từ “như” đơn giản... nhưng đã vạch
trần mọi hình thức tình yêu giả tạo của chúng ta dễ dàng lặp đi lặp lại.
Yêu như Đức Giêsu! Đó là quỳ gối xuống rửa chân cho anh em mình,
một cử chỉ phục vụ thấp hèn nhất (Ga 13,14). Đó là việc Đức Giêsu vừa làm. Yêu
như Đức Giêsu! Đó là "hiến mạng sống cho kẻ mình yêu thương" (Ga
10,11-15,13). Đó là điều Người sáp thực hiện, vào ngày mai, trên thập giá.
Đức Giêsu nói với thánh nữ Angèle de Foligno: "Việc cha yêu
con, đâu phải trò đùa". Tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta đã dẫn
Người đến thái độ hoàn toàn từ bỏ bản thân mình.
Để yêu tha nhân đúng như con người, và nhận biết họ trong chính sự
"khác biệt" của họ, chúng ta cần từ bỏ quan niệm coi mình là trung
tâm mọi giá trị. Đối với Thiên Chúa, tình yêu tha nhân đã dẫn Đức Giêsu chấp
nhận thập giá Thiên Chúa đã yêu thương con người đến nỗi yêu thương họ, trong
cả khả năng thụ tạo nhầm lẫn của họ. Khả năng đó, "kẻ khác" đã chiếm
hữu trong tự do của họ, để phủ nhận tôi, trở nên một địch thù với tôi, và kết
án tử hình tôi!
Đối với Đức Gỉêsu, tình yêu không phải là cái gì cứ lặp đi lặp lại
cách dễ dàng và nhàm chán đến độ vô nghĩa. Mọi người xem ra đều nói đến yêu
thương. Thế mà, Đức Giêsu quả quyết, giới răn của Người thì mới mẻ. Phải, yêu
như Đức Giêsu hẳn là phải rất độc đáo, rất mới lạ. Đó là một thứ luân lý mới.
Người ta không khi nào biết được nơi mà tình yêu đó dẫn bạn tới.
Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh
em có lòng yêu thương nhau
Chỉ có ba dòng Tin Mừng, mà Đức Giêsu đã ba lần lặp lại điệp khúc:
Yêu thương nhau. Sự lặp lại rất có ý nghĩa. Nhờ đó, Người đã gợi lên ba lý do
bổ sung cho nhau, khiến chúng ta phải yêu thương.
1. Đó là lệnh truyền của Đức Giêsu: "Thầy ban cho anh em một
điều răn mới".
2. Đó là gương mẫu của Đức Giêsu: "Yêu thương nhau như Thầy đã
yêu thương anh em”.
3. Sau cùng, đó là dấu chỉ Đức Giêsu: "Người ta sẽ nhận biết
anh em nhờ tình yêu...".
Như thế, Đức Giêsu thực sự mời gọi các môn đệ tiếp tục sứ vụ của
Người, lúc Người rời bỏ thế gian. Tình yêu huynh hệ là "thể thức"
thực sự, giúp Đức Kitô tiếp tục hiện diện suốt dòng "Thời gian cuối
cùng", mở đầu bằng cài chết của Người. Gioan đã không thuật lại việc lập
phép Thánh Thể, như ta mong đợi. Nhưng bù lại, ông đã tường thuật việc rửa chân
" và trao ban "giới răn mới quan trọng" như thể dưới mắt ông,
Tình yêu là một tái diễn sự Hiện Diện đích thực của- Đức Kitô, cũng thực sự và
hữu hiệu, như dấu chỉ hữu hình., của Bí tích Thánh Thể. Nhằm bổ sung những gì
mà các thánh sử khác không nói đến, có thể nói thánh Gioan đã giảm thiểu tính
thiêng thánh của nghi thức, để đề cao nội dung hơn". Theo thánh Mát-thêu,
Máccô và Luca, Đức Giêsu nói: "Này là Mình Thầy sẽ bị nộp, và Máu Thầy sẽ
đổ ra". Còn theo Gioan, Đức Giêsu đã nói: "Thầy rửa chân cho anh em,
Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em". Nhưng, đó cũng
chính là “sự hiện diện" có tình nghi thức và thực sự. Có một điều gì đó
chất vấn mạnh mẽ các Kitô hữu khi tham dự thánh lễ. Dấu chỉ mà người ta nhận ra
môn đệ Đức Giêsu không chỉ là Thánh lễ. "Ở điểm này, mọi người sẽ nhận
biết anh em là môn đệ của Thầy: là anh em có lòng yêu thương nhau".
Nhờ những điều kiện nào, để người ngoài Kitô giáo có thể đọc được
dấu chỉ này? Làm sao dấu chỉ này chỉ dành riêng cho những giây phút các Kitô
hữu quy tụ giữa bốn bức tường của Giáo hội? Chắc chắn Đức Giêsu đã nói đến một
dấu chỉ được trao gởi trong đời thường: đó là dấu chỉ duy nhất mà "mọi
người" có thể nhìn thấy. Trong những điều kiện đó, chúng tá của Kitô hữu
chỉ có thể được nhận biết nếu chúng ta quan tâm đến những trách nhiệm lớn lao
của thế giới hiện nay: công lý, hoà bình, đói khổ, phẩm giá con người. Bí tích Thánh
Thể sẽ "dẫn" chúng ta tới phố xá, các văn phòng làm việc, những nẻo
đường đời, tới trường lớp và đại học ta đang theo đuổi tới mọi nơi ta đang phục
vụ".