Thánh ALBERT CẢ
(1206-1280)
Lược sử
Thánh Albert Cả là
linh mục Đa Minh người Đức có ảnh hưởng đến lập trường dứt khoát của Giáo Hội
đối với triết lý của Aristotle được du nhập vào Âu Châu do sự phát triển
của Hồi Giáo.
Các sinh viên triết
biết đến ngài như vị thầy của Thánh Tôma Aquinas. Sự hiểu biết về
triết Aristotle của Thánh Albert tạo môi trường thích hợp cho Thánh Tôma
Aquinas phát triển quan niệm tổng hợp của ngài về văn hóa Hy Lạp và thần học
Kitô Giáo. Nhưng Thánh Albert vẫn xứng đáng là một học giả am tường, trung thực
và cần cù.
Ngài từ trần ở Cologne
ngày 15-11-1280. Ngài được Đức Giáo Hoàng Piô XI phong thánh và được tuyên xưng
là Tiến Sĩ Hội Thánh năm 1931.
Suy niệm 1: Aristotle
Thánh Albert Cả là linh mục Đa Minh người
Đức có ảnh hưởng đến lập trường dứt khoát của Giáo Hội đối với triết lý của
Aristotle được du nhập vào Âu Châu do sự phát triển của Hồi Giáo.
Aristotle (384 – 322 TCN) là một nhà triết
học và bác học thời Hy Lạp cổ đại, học trò của Platon và thày dạy của
Alexandros Đại đế. Di bút của ông bao gồm nhiều lãnh vực như vật lý học, siêu
hình học, thi văn, kịch nghệ, âm nhạc, luận lý học, tu từ học (rhetoric), ngôn
ngữ học, chính trị học, đạo đức học, sinh học, và động vật học. Ông được xem là
người đặt nền móng cho môn luận lý học. Ông cũng thiết lập một phương cách tiếp
cận với triết học bắt đầu bằng quan sát và trải nghiệm trước khi đi tới tư duy
trừu tượng. Cùng với Platon và Socrates, Aristotle là một trong ba cột trụ của
văn minh Hy Lạp cổ đại.
Các quan điểm của Aristotle:
* “Thầy đã quý, chân lý còn quý hơn”
* "Vật nặng rơi nhanh hơn vật nhẹ, càng nặng rơi càng nhanh."
* "Tốc độ rơi của một vật phụ thuộc vào mật độ môi trường nơi vật rơi
qua, mật độ môi trường càng nhỏ thì tốc độ rơi càng lớn."
"Nếu có
lực tác dụng vào vật thì tốc độ chuyển động của vật sẽ tỉ lệ thuận với lực tác
dụng."
* Aristotle còn cho rằng, chuyển động có thể là "có ý thức" hoặc
"vô ý thức.” Ông dùng thuật ngữ "nature will" (tạm dịch là
"lẽ tự nhiên") để giải thích về nguyên nhân của sự chuyển động:
"Mọi chuyển động có ý thức hay vô ý thức của sinh vật hoặc các vật thể đều
tuân theo lẽ tự nhiên của chúng."
* Aristotle đồng ý với quan điểm của Empedode về 4 nguyên tố đất, lửa, khí,
nước. Sau đó đề xuất thêm rằng các thiên thể chuyển động theo đường tròn, trong
môi trường gọi là ête (ether).
Một số quan niệm của Aristotle sau này bị
Galileo Galilei đánh đổ.
* Lạy
Chúa Giêsu, xin giúp chúng con coi sự quý trọng chân lý.
Suy niệm 2: Thầy của Thánh Tôma Aquinas
Các sinh viên triết biết đến Albert Cả như
vị thầy của Thánh Tôma Aquinas.
Thầy lo xa cho trò: Tại Paris, ngài gặp môn
sinh vừa thông minh vừa thánh thiện: Tôma Aquinas. Ngài đề nghị với Bề trên cho
Tôma học thi các bằng cấp cần thiết để chuẩn bị làm giáo sư. Tôma muốn có bằng
cử nhân và tiến sĩ để làm giáo sư thực thụ ở đại học. Nhưng lúc bấy giờ kinh sĩ
Guillaume de Saint Amour vốn không muốn các tu sĩ dạy ở đại học. Cuộc xung đột
bùng nỗ lớn. các tu sĩ Đa Minh "nhảy vào vòng chiến" chống các giáo
sư nào của chính phủ theo chủ trương bóp chẹt như thế.
Cuộc xung đột ác liệt đến nỗi có một sinh
viên tử thương. Thánh Tôma viết cuốn "Contra impugnantes Dei cultum et
Religionem" để đối đầu lại cuốn "De periclitaris novissimorum
temporum" của Guillaume de Saint Amour. Khi Thánh Tôma "lâm
chiến" như vậy thì Thánh Anbert Cả ráo riết bênh vực cho học trò của mình.
Vả lại, nếu từ trước Thánh Anbert Cả không lo cho Thánh Tôma thi cử thì cuộc
xung đột này, "con gà" của ngài chắc cũng yếu thế. Mới hay trên đời,
một lão sư phong phú, đầu óc tiên kiến tiên liệu là một kho báu.
* Lạy
Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn sống niềm tôn sư trọng đạo đặc biệt đối với
các bậc thầy tinh thần.
Suy niệm 3: Thầy của Thánh Tôma Aquinas
Các sinh viên triết biết đến Albert Cả như
vị thầy của Thánh Tôma Aquinas.
Thầy vun đắp cho trò: Sở dĩ Thánh Tôma có
được bộ óc làm việc theo khoa học, khúc chiết lẫn tổng hợp, và sở dĩ ngài đỡ
tốn công buổi đầu trong việc khảo bình triết học, thần học là nhờ sự chuẩn bị
lâu năm của Thánh Albert Cả. Etienne Gilson trong cuốn "Triết học Trung
Cỗ" đã được Larousse du XXè siècle trích dẫn tư tưởng sau đây: "Nếu
không có công phu phong phú, kinh khủng của thầy ông, thì nhà tổ chức sáng suốt
về những tư tưởng, tức Thánh Tôma phải tốn một phần lớn nỗ lực trên đường
nghiên cứu.”
Những bài mà Thánh Tôma chống Averroès phần
lớn dựa trên những lập luận của Thánh Albert Cả. Đọc hai bộ Summa của Thánh
Tôma, những đoạn ngài nối kết chân lý đức tin với các chân lý của triết Platon,
Aristote, người ta cảm thấy ngay dấu vết công việc của tôn sư ngài là Thánh
Albert Cả, nhưng công trình của trò thì hơn hẳn thầy. Hơn nữa, mặc dầu trong
hai bộ Tổng Luận, Thánh Tôma vay mượn nhiều ở thuyết Aristote, song cái khuôn
lý luận vẫn còn giữ truyền thống của các giáo phụ Hy Lạp. Vốn giáo phụ học này
đã được truyền lại cho Thánh Tôma, không từ ai khác ngoài Thánh Albert Cả. Ta
thấy với tư cách khảo bình, Thánh Tôma đã làm lại nhiều việc tôn sư đã làm,
nhưng đại qui mô hơn nhờ rút được kinh nghiệm và dựa trên tài liệu của thầy
mình. Chẳng hạn, Thánh Albert Cả đã từng khảo bình Aristote, các tác giả Ả-rập,
Do Thái, thì Thánh Tôma cũng khảo bình lại nhưng về nhiều phương diện hơn,
phương pháp tân kỳ hơn. Mà phương pháp nghiên cứu này, Thánh Tô-ma cũng kết
tinh từ tinh thần khoa học của sư phụ ngài vốn là một nhà khoa học tên tuỗi
thời bấy giờ. Ta đừng quên từ đầu thế kỷ XIII, Thánh Albert Cả cùng Roger Bacon
đã đề cao các phương pháp quan sát, thực nghiệm và qui nạp rồi. Riêng trong
lãnh vực giảng huấn thì rõ rệt là Thánh Tôma đã được thầy trui luyện từ cả chục
năm trở lên. Hàng ngày ngài chiêm nghiệm lối giảng dạy rõ ràng, mạch lạc, dứt
khoát của sư phụ. Về sau cộng thêm thiên tư cùng vốn học bao la nữa, Tôma trở
thành một ngôi sao sư phạm là phải. Quả thực, chân sư đã dầy công đầu tư cho
minh đệ vậy.
* Lạy
Chúa Giêsu, xin giúp chúng con sống sao để Trò là danh dự và nguồn an ủi tuổi
già của thầy.
Suy niệm 4: Hiểu biết-chân lý
Sự hiểu biết về triết Aristotle của Thánh
Albert tạo môi trường thích hợp cho Thánh Tôma Aquinas phát triển quan niệm
tổng hợp của ngài về văn hóa Hy Lạp và thần học Kitô Giáo.
Kitô Hữu ngày nay phải đối diện với sự tràn
ngập kiến thức trong mọi lãnh vực. Họ cần đọc báo chí Công Giáo ngày nay để
biết được phản ứng của Giáo Hội trước những khám phá mới về khoa học xã hội, về
lối sống người Kitô Hữu cũng như thần học Kitô Giáo. Khi phong thánh cho Thánh
Albert, Giáo Hội đã coi sự quý trọng chân lý, bất cứ tìm thấy ở đâu, như đặc
tính thánh thiện của ngài. Tính hiếu kỳ của thánh nhân đã khiến ngài đào xới
trong kho tàng khôn ngoan của triết học mà Giáo Hội thời ấy đang sôi nổi với
những khó khăn.
"Có những người muốn hiểu biết chỉ để
hiểu biết; đó là sự tò mò đáng hổ thẹn. Có những người muốn hiểu biết để nhờ đó
họ được nổi tiếng; đó cũng là sự phù hoa và nhục nhã. Những người khác lại muốn
hiểu biết để kiếm tiền hay thăng quan tiến chức; đó cũng là điều mất thể diện.
Nhưng cũng có những người muốn hiểu biết để họ có thể sinh lợi cho chính linh
hồn họ và linh hồn người khác; đó là lòng bác ái. Trong những loại hiểu biết kể
trên, chỉ có loại sau cùng là biết sử dụng kiến thức cách xứng hợp" (Thánh
Bernard, Bài Giảng Về Diễm Ca)
* Lạy
Chúa Giêsu, xin giúp chúng con biết sử dụng kiến thức cách xứng hợp.
Suy niệm 5: Hiểu biết-bác ái
"Có những người muốn hiểu biết chỉ để
hiểu biết; đó là sự tò mò đáng hổ thẹn. Có những người muốn hiểu biết để nhờ đó
họ được nổi tiếng; đó cũng là sự phù hoa và nhục nhã. Những người khác lại muốn
hiểu biết để kiếm tiền hay thăng quan tiến chức; đó cũng là điều mất thể diện.
Nhưng cũng có những người muốn hiểu biết để
họ có thể sinh lợi cho chính linh hồn họ và linh hồn người khác; đó là lòng bác
ái. Trong những loại hiểu biết kể trên, chỉ có loại sau cùng là biết sử dụng
kiến thức cách xứng hợp" (Thánh Bernard, Bài Giảng Về Diễm Ca)
* Lạy
Chúa Giêsu, xin giúp chúng con dùng sự hiểu biết để sinh lợi cho chính linh hồn
mình và linh hồn người khác.
Suy niệm 6: Học giả
Thánh Albert vẫn xứng đáng là một học giả
am tường, trung thực và cần cù.
Ngài là con cả của một lãnh chúa quyền thế
và giầu có ở Đức. Ngay từ nhỏ ngài đã nổi tiếng thông minh. Lớn lên, ngài vào
trường đại học ở Padua, nước Ý, và chính ở đây ngài gia nhập dòng Đa Minh khiến
gia đình thật khó chịu.
Sự lưu tâm vô bờ của ngài đến các lãnh vực
khác nhau đã thúc giục ngài viết các tổng lược về: khoa học tự nhiên, hùng
biện, toán học, thiên văn, luân lý, kinh tế, chính trị và siêu hình học. Công
trình này phải mất 20 năm mới hoàn tất. Ngài nói, "Mục đích của chúng tôi
là đưa ra tất cả những học thuật trước đây để Giáo Hội Tây Phương có thể lĩnh
hội được."
Ngài đạt được mục đích ấy trong khi vừa
giảng dạy tại Paris và Cologne, vừa làm bề trên dòng Đa Minh và ngay cả khi là
giám mục của Regensburg.
* Lạy
Chúa Giêsu, xin giúp chúng con biết sử dụng tài trí Chúa ban để phục vụ Chúa và
Giáo Hội.