SUY NIỆM LỄ CÁC THÁNH
TỬ ĐẠO VIỆT NAM
TỬ ĐẠO VIỆT NAM
MỤC LỤC
13. Chứng nhân
tình yêu - ĐTGM Giuse Ngô Quang Kiệt
32. Video Thánh
Vịnh Nhóm thánh vịnh Nauy
33. Bài đọc lễ
các Thánh Tử đạo Việt nam Catholic.org.tw
34. Các thánh tử
đạo Việt nam Catholic.org.tw
35. Hy sinh mạng
sống đến cùng... Lm.
Phêrô Lê văn Chính
36. Làm chứng
cho Chúa Lm, G.M. Nguyễn Thiên Khải, CMC
37. Tham dự vào
hy tế của Chúa Giêsu Linh Mục Inhaxiô Trần Ngà
39. Truyền đạo
Sưu tầm
42. Chứng nhân
Sưu tầm
1. Các Thánh Tử Đạo Việt Nam
Mừng kính các thánh tử đạo Việt Nam,
chúng ta tìm thấy nơi các ngài những mẫu gương nào?
Trước hết các ngài là những đấng đã làm
chứng cho niềm tin của mình. Thực vậy, trải qua hơn 300 năm Tin Mừng được rao
giảng trên quê hương yêu dấu, từ thế kỷ 16 đến thế kỷ 19, từ thời hậu Lê đến
thời nhà Nguyễn, Giáo Hội Việt Nam đã phải trải qua biết bao nhiêu cơn phong ba
bão táp, đã phải cam chịu biết bao cuộc bắt bớ cấm cách. Biết bao nhiêu người
đã phải rời bỏ gia đình và sản nghiệp tổ tiên, trốn vào những nơi rừng thiêng
nước độc như giáo dân vùng Quảng Trị Lavang để bảo toàn đức tin của mình. Hàng
trăm ngàn người đã bị bắt bớ, tra tấn, tù ngục và đã chết dưới những cực hình
độc ác để tuyên xưng danh Chúa, trong đó 117 vị đã được tông phong lên hàng
chân phước. Qua đó chúng ta thấy các ngài đã ý thức và dành cho Chúa một địa vị
tuyệt đối, cũng như đã ý thức và dành cho đức tin một sự ưu tiên các ngài có
thể nói lên rằng: Phải vâng lời Chúa hơn vâng lời thế gian, thà chết chứ chẳng
thà phản bội Chúa. Bằng một lời nói, bằng một thái độ các ngài có thể giải
thoát mình khỏi những cực hình dã man, nhưng các ngài không làm thế vì các ngài
đã xác tín vào lời Chúa: Được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì được ích
chi.
Cùng với việc làm chứng niềm tin các
ngài còn là những người làm chứng cho tình thương. Tiên vàn là tình thương đối
với Chúa. Các ngài đã lấy chính cái chết để nói lên sự gắn bó mật thiết với
Chúa. Qua cái chết của các ngài, chúng ta thấy được một tình yêu mặn nồng như
lời Chúa đã phán: Không ai yêu hơn người hiến mạng sống vì bạn hữu. Qua cái
chết của các ngài, chúng ta thấy được một tình yêu thực mạnh mẽ, còn mạnh mẽ
hơn cả tử thần nữa. Tiếp đến là tình thương đối với anh em, đặc biệt là những
người đã gây nên đau khổ. Chúa Giêsu trên thập giá đã tha thứ: Lạy Cha, xin Cha
tha cho chúng vì chúng làm chẳng hiểu việc chúng làm. Với các thánh tử đạo Việt
Nam cũng vậy, mặc dù phải chịu nhiều đắng cay nhưng các ngài vẫn an ủi khích lệ
lẫn nhau kiên vững trong đức tin và tha thứ cho những người đã làm cho mình
phải đau khổ và chết chóc.
Sau cùng các thánh tử đạo Việt Nam là
những người làm chứng cho niềm hân hoan Nước Trời. Chúa Giêsu đã phán: Ai xưng
tụng Ta trước mặt người đời thì Ta sẽ xưng tụng nó trước mặt Cha Ta ở trên
trời. Trong bài giảng trên núi, Chúa Giêsu cũng bảo: Phúc cho ai bị bách hại vì
lẽ công chính vì Nước Trời là của họ. Và lời Chúa đã như là một động cơ thúc
đẩy các ngài cam chịu mọi đắng cay và lướt thắng mọi khó khăn, vì những đau khổ
hiện thời không thể nào so sánh được với niềm hạnh phúc bất diệt mà Chúa sắm
sẵn cho những kẻ yêu mến và trung thành với Ngài. Các ngài đã đau khổ một thời
để rồi được hạnh phúc đời đời. Thân xác của các ngài tuy đã chết, nhưng linh
hồn của các ngài lại được vui mừng trong vinh quang thiên quốc và nhất là tinh
thần của các ngài luôn bừng cháy trong tâm hồn mọi người để rồi chúng ta cũng
đi theo dấu chân của các ngài. Đúng thế, hãy làm chứng cho niềm tin và tình
thương của mình để rồi chúng ta cũng sẽ được hưởng niềm hạnh phúc vĩnh cửu như
các Thánh Tử Đạo Việt Nam là những bậc cha ông của chúng ta.
2. Hạt lúa gieo vào lòng
đất – Ga 12,24-26
(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Hôm ấy, có người nông dân mang thóc
giống gieo trên thửa ruộng của mình. Đang khi gieo thì trời nổi gió lớn. Có
nhiều hạt rơi xuống ruộng bùn nhưng cũng có nhiều hạt bị gió thổi bạt lên vệ đường
kề bên.
Bấy giờ những hạt giống nằm trên vệ
đường khô ráo cảm thấy mình quá hên so với bao nhiêu hạt thóc bạn đang phải
ngoi ngóp ngụp lặn dưới bùn, bèn tỏ lòng thương hại và an ủi các bạn thóc dưới
sình bằng những lời ngạo mạn: "Đáng thương thay thân phận khốn khổ của các
anh. Đang khi chúng tôi đây thì được ở nơi khô ráo ngon lành, còn các anh lại
phải chìm lĩm trong vũng bùn tanh tưởi. Đang khi chúng tôi được tắm mình dưới
nắng, thì các anh lại phải ngụp lặn trong chốn tối tăm. Đang khi chúng tôi được
nhìn ngắm bầu trời xanh, nhìn ngắm những bông hoa tươi đẹp bên vệ đường thì các
anh chẳng thấy gì, chẳng biết gì... Cuộc đời chúng tôi đầy hào quang, còn cuộc
đời các anh đang tàn tạ. Bất hạnh thay cho các anh!..."
Hạt lúa ấy vừa dứt lời thì bỗng đâu có
một bàn chân nặng nề dẫm đạp lên mình nó, khiến nó bị gãy đôi. Sau đó, những
bánh xe từ xa chạy đến, lạnh lùng chà nát nó và những hạt lúa khác nát tan.
Những hạt lúa may mắn còn nguyên vẹn lại hoá thành mồi ngon cho côn trùng và
chim chóc!
Trong khi đó, những hạt lúa tưởng là bất
hạnh chìm lĩm trong bùn, thì qua vài hôm sau đã ngoi lên thành những mầm non
đầy sức sống. Những mầm non ấy vươn lên phơi phới, triển nở thành những bụi lúa
sum suê. Không đầy ba tháng sau, từ một hạt lúa nhỏ nhoi chìm ngập trong bùn,
nó trở thành những bông lúa thơm tho tuyệt đẹp, kết thành hàng trăm hạt vàng
khoe mình dưới nắng.
* * *
Ai ngờ một hạt lúa bất hạnh chìm nghỉm
trong bùn, tưởng chừng như đã hư thối mà nay lại chuyển hoá thành hàng trăm hạt
vàng mẩy chắc ngon lành như thế! Thật là một điều kỳ diệu và là một bài học quý
báu cho chúng ta. Bài học đó người đời không biết đến, nhưng Chúa Giêsu đem ra
dạy chúng ta: "Thật, Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất
mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu nó chết đi, nó mới sinh
được nhiều hạt khác."
Một bài học đơn sơ ngắn gọn nhưng lại
chứa đựng một chân lý tuyệt vời.
Nhưng Chúa Giêsu không chỉ dạy chúng ta
biết chân lý rồi để đó. Người muốn chân lý nầy được đem ra áp dụng để đời sống
chúng ta được dồi dào phong phú hơn. Thế nên Người dạy tiếp: "Ai yêu quý
mạng sống mình thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời nầy, thì sẽ
giữ lại được cho sự sống đời đời"
Nói như thế, Chúa Giêsu không muốn chúng
ta tồn tại như một hạt lúa nằm trơ trọi trên vệ đường khô ráo. Người muốn chúng
ta hãy chấp nhận thân phận của một hạt lúa bị vùi lấp trong bùn, để nhờ đó đặt
tới hạnh phúc và thắng lợi.
Khi bước chân vào đời, mang lấy thân
phận con người giữa cuộc đời ô trọc, Chúa Giêsu đã chấp nhận thân phận hạt lúa
bị vùi dập trong bùn đất. Người để cho người ta nghiền tán, vùi lấp Người, huỷ
diệt Người. Người đời tưởng rằng họ đã tiêu diệt Đức Giêsu, xoá sổ Đức Giêsu,
tưởng rằng Chúa Giêsu sẽ bị mục rã trong lòng đất... nhưng họ đã lầm. Thay vì
huỷ diệt Đức Giêsu, họ đã giúp Người đạt tới vinh quang và thắng lợi. Qua cái
chết, Người tiến vào cõi sống; qua thập giá Người đi đến vinh quang và hiển trị
đời đời!
Theo bước chân Chúa Giêsu, các thánh tử
đạo đã vui lòng chấp nhận thân phận hạt lúa bị ném xuống bùn. Các ngài chấp
nhận từ bỏ vinh hoa phú quý người đời hứa hẹn, từ bỏ nhà cửa ruộng vườn, xa lìa
cha mẹ vợ con gia đình thân thuộc, chấp nhận xiềng xích, gông cùm, tù ngục, đòn
vọt và sẵn sàng hy sinh mạng sống, sẵn sàng đổ máu đào làm chứng cho Đức
Ki-tô... Người đời tưởng rằng các ngài bị thua thiệt, bị mất mát, bị diệt
vong... nhưng họ có ngờ đâu, các ngài đang khải hoàn chiến thắng và sống mãi
trong hạnh phúc vinh quang. Nhờ dòng máu các ngài đổ ra, đời sống Đức tin ngày
càng tiến triển, Giáo Hội được lan rộng đến khắp mọi miền đất trên thế giới. Đó
là điều Chúa Giêsu đã tiên báo từ xưa: "nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà
không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được
nhiều hạt khác."
* * *
Hôm nay, một khi đã khám phá điều kỳ
diệu của hạt lúa chìm trong bùn đất, chúng ta không sợ thua thiệt vì phải làm
chứng cho Đức tin, không sợ đau khổ mất mát vì hiến thân cho lý tưởng tông đồ.
Chúng ta sẵn sàng chấp nhận thân phận hạt lúa bị gieo vào bùn đất như
"hạt-lúa-Giêsu", như "hạt-lúa-các-thánh-tử-đạo", bằng lòng
chấp nhận con đường thập giá, bằng sẵn sàng hiến mình để phục vụ Tin Mừng...
Nhờ đó, mai đây, chúng ta sẽ đạt tới vinh quang và thắng lợi với Chúa Giêsu như
lời Người phán: "Ai phục vụ Thầy thì hãy theo Thầy" để rồi "Thầy
ở đâu thì kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó."
3. Suy niệm của Lm.
Ignatiô Trần Ngà
KHÔNG ĐI THEO ĐẠO YÊU THƯƠNG CỦA CHÚA
GIÊSU LÀ BỎ ĐẠO
Khi nào ta bỏ đạo?
Một trong những thử thách mà vua quan
ngày xưa thường bày ra để xử tội người có đạo là đặt một cây thánh giá dưới đất
rồi truyền cho họ bước qua. Ai chấp nhận bước qua là tỏ dấu công khai từ bỏ đạo
Chúa thì được tha về. Ai kiên quyết không bước qua thì được xem là người ngoan
cố, không chịu từ bỏ đạo Chúa thì phải chịu tra tấn, tù ngục, chịu hành hình và
chịu chết.
Có nhiều người kiên quyết không bước qua
thánh giá, dù bị khiêng qua thì cũng co chân lại để khỏi dẫm đạp lên. Có người
lỡ dại dột bước qua, nhưng về sau ân hận nên quay trở lại, khẳng định với quan
quân mình không bỏ đạo nữa và xin được chịu chết vì Chúa.
Tất nhiên có nhiều người vì sợ ngục tù
xiềng xích, gông cùm và tra tấn hoặc sợ chết nên đã bước qua thánh giá. Nhưng
trái lại, cũng nhiều người dứt khoát không bước qua thánh giá, cho dù phải mất
hết mọi sự và mất cả mạng sống mình.
Không đi theo đạo yêu thương của Chúa
Giêsu là bỏ đạo
Đạo là gì? Người Á đông quan niệm rằng
đạo là đường, đường đưa về chân thiện mỹ. Thiên Chúa là Tình Yêu nên đạo của
Ngài cũng là đạo Tình Yêu. Chúa Giêsu đến trần gian để lập nên đạo yêu thương
như một con đường đưa nhân loại về cõi phúc.
Chỉ có những ai giữ tròn quy luật yêu
thương mới thực sự là người người theo đạo Chúa. Chúa Giêsu khẳng định rằng:
"Người ta căn cứ vào dấu nầy để nhận biết anh em là môn đệ của Thầy: là
anh em có lòng yêu thương nhau." (Ga 13, 35).
Những ai theo đạo yêu thương, tức là giữ
tròn giới luật yêu thương Chúa dạy, thì được liệt vào hàng ngũ người con cái
Chúa. Ngày phán xét, Chúa Giêsu mở cửa đón nhận họ vào Vương Quốc của Ngài:
"Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho
các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa"; ai không sống theo luật yêu
thương, là người bỏ đạo Chúa, thì bị liệt vào hàng ngũ những người bị nguyền
rủa và bị loại trừ vĩnh viễn khỏi nhan Thiên Chúa: "Quân bị nguyền rủa
kia, đi đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên Ác Quỷ và
các sứ thần của nó" (Mt 24, 34. 41)
Ngày trước trong thời bách hại, hành
động bước qua thập giá Chúa Giêsu là dấu chỉ cho biết ai là người bỏ đạo. Ngày
nay, hành động chà đạp lên nhân phẩm, chà đạp tình người, là dấu hiệu chứng tỏ
người thực hiện điều đó đã chối bỏ đạo yêu thương của Chúa Giêsu.
Nói cụ thể:
Trong đời sống chung giữa xã hội, ai
nuôi lòng thù oán anh em mình, xúc phạm đến người khác, gây tổn thương thanh
danh, phẩm giá người khác... là người đã từ bỏ đạo yêu thương của Chúa Giêsu.
Trong phạm vi gia đình, đạo yêu thương
của Chúa dạy vợ chồng phải nên một với nhau, phải yêu thương và tôn trọng nhau
suốt đời. Thế nên khi vợ chồng không còn sống yêu thương hiệp nhất nữa mà sống
phân li chia cắt, thì lúc đó, hai người đã lìa bỏ đạo yêu thương của Chúa
Giêsu.
Đạo yêu thương Chúa dạy cha mẹ phải chăm
lo, giáo dục con cái, rèn đúc con cái nên người tài đức. Nếu cha mẹ thờ ơ không
làm tròn nhiệm vụ đó, là cha mẹ đã bỏ đạo Chúa.
Đạo yêu thương Chúa dạy con cái phải thờ
cha kính mẹ, thảo hiếu với ông bà tổ tiên; nếu con cái không giữ tròn chữ hiếu
với cha mẹ, với ông bà tổ tiên là họ đã từ bỏ đạo yêu thương của Chúa rồi.
Trái lại, khi chúng ta theo lời Chúa dạy
mà tha thứ cho người khác khi họ xúc phạm đến mình, cứu giúp những người hoạn
nạn, chia cơm sẻ áo cho người nghèo thiếu, quên mình phục vụ những người chung
quanh... là chúng ta đang đi theo đạo yêu thương của Chúa Giêsu cách triệt để
nhất.
Các thánh tử đạo Việt Nam đã rất anh
dũng bước theo đường lối Chúa Giêsu, theo đạo yêu thương của Chúa Giêsu. Dù
ngục tù, gươm đao, dù bị róc xương xẻ thịt cũng vẫn không làm cho các ngài từ
bỏ đạo Chúa. Chúng ta là con cháu các ngài, mang dòng máu bất khuất anh dũng
của các ngài trong huyết quản mình, thì chúng ta cũng kiên quyết đi theo đạo
yêu thương của Chúa như các ngài, để mai ngày đáng được hưởng triều thiên vinh
hiển với các ngài trên thiên quốc.
Nguyện xin các thánh tử đạo Việt Nam là
ông bà tổ tiên của chúng ta luôn phù giúp chúng ta vững bước đi theo đạo yêu
thương của Chúa.
4. Ai muốn theo tôi phải
từ bỏ chính mình
Một bác tiều phu đi đốn củi. Đốn được
một bó to sắp mang về thì bác bỗng chợt nghĩ thấy đời mình sao khổ quá, tuổi
đời cứ tăng lên, sức khoẻ thì sút đi, mà gánh nặng gia đình vẫn không đổi thay,
lại thấy nhiều người chẳng phải lo đến chuyện cơm áo gạo tiền. Bác mới kêu lớn
lên: “Ước gì tôi được gặp Thần Chết!”
Bác vừa nói xong thì thấy Thần Chết đứng
ngay trước mặt, tay cầm lưỡi hái, miệng hỏi: “Ông lão muốn điều gì?” Bác lập
cập trả lời: “Bó củi to nặng quá! Nhờ ngài đưa giùm lên vai tôi”.
Thế đó, dù khổ đến đâu, sự sống vẫn luôn
được yêu quý hơn mọi giá. Nhưng dù có quý trọng và giữ gìn đến đâu, cái chết
vẫn là một sự thực không ai có thể phủ nhận được: “Mạng người dù giá cao mấy
nữa, thì rồi ra cũng chấm dứt đời đời. Nào phàm nhân sống mãi được sao mà chẳng
phải đến ngày tận số?” (Tv 49,9-10)
Thoạt nhìn, sự chết là một thực tại cay
đắng của phận người, nó đập tan mọi bảo đảm bền vững, mọi dự tính khôn ngoan
của trần gian.
Nhưng phải cám ơn Thần Chết! Vì đó là
người thổi tiếng kèn đánh thức con người khỏi mê ngủ bởi những quyến rũ hào
nhoáng của thế gian, để đi tìm một ý nghĩa cao đẹp cho thân phận cát bụi, để
nhận ra và sống tình yêu thương, đó là cánh cửa đưa chúng ta vào sự sống thực
sự và vĩnh cửu mà Thiên Chúa đã ban tặng khi dựng nên chúng ta theo hình ảnh
Ngài. Sự chết cho chúng ta thấy tình yêu Chúa: “Căn cứ vào điều này, chúng ta
biết được tình yêu là gì: đó là Đức Ki-tô đã thí mạng vì chúng ta. Như vậy, cả
chúng ta nữa, chúng ta cũng phải thí mạng vì anh em” (1Ga 3,16)
Vâng, ai cũng kính phục một người sẵn
lòng chết vì yêu, dù người đó có địa vị thấp hèn đến đâu đi nữa: “Không có tình
thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của
mình” (Ga 15,13). Thế mà tình yêu đẹp nhất đã dành cho chúng ta: Trên cây thập
tự, Chúa nâng chúng ta lên cao khi gọi chúng ta là bạn hữu, và yêu thương chịu
chết cho tội của chúng ta.
Niềm tin Kitô là một nghịch lý trước mọi
suy nghĩ, tính toán của thế gian, ngay từ lời mời gọi của Đức Kitô: “Ai muốn
theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo. Quả vậy,
ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi,
thì sẽ cứu được mạng sống ấy” (Lc 9,23-24).
Nhưng ai đi theo Đức Kitô, bỏ mình vì
yêu, người ấy nghiệm được nơi mình một kho báu vượt trên tất cả và không bao
giờ bị mất.
Tình yêu Thiên Chúa hướng con người đến
một giá trị không tàn phai theo thời gian, và làm cho mọi bóng tối trong cuộc
đời khổ cực được tràn đầy ánh sáng phục sinh: “Những thử thách đó nhằm tinh
luyện đức tin của anh em là thứ quý hơn vàng gấp bội, - vàng là của phù vân, mà
còn phải chịu thử lửa. Nhờ thế, khi Đức Giê-su Ki-tô tỏ hiện, đức tin đã được
tinh luyện đó sẽ trở thành lời khen ngợi, và đem lại vinh quang, danh dự. Tuy
không thấy Người, anh em vẫn yêu mến, tuy chưa được giáp mặt mà lòng vẫn kính
tin. Vì vậy, anh em được chan chứa một niềm vui khôn tả, rực rỡ vinh quang, bởi
đã nhận được thành quả của đức tin, là ơn cứu độ con người” (1Pr 1,7-9)
Năm 1861, khoảng 2300 giáo dân Bà Rịa
đang yên ổn sống đạo thì đến tháng 8 quan tuần vũ Biên Hoà ra chỉ thị cho phủ
Bà Rịa lập danh sách người có đạo. Dân có đạo phải “khắc tự” hai bên má, một
bên chữ Biên Hoà, một bên chữ tả đạo. Đến tháng 9, có khoảng 700 người Kitô hữu
bị giam trong bốn nhà giam được thiết lập tại phủ Bà Rịa.
Lính gác nghiêm nhặt ngày đêm, không cho
ai ra ngoài. Đại tiện, tiểu tiện đều tại chỗ, may lắm mới có được một đứa nhỏ ở
ngoài được cho vào hốt đổ đi. Thời tiết mùa mưa ẩm thấp, phải nằm ngủ dưới nền
đất, lại không phên bạt che nắng mưa nên nhiều người lâm bệnh chết rũ tù.
Dù vậy, chẳng có ai bỏ đạo. Có một ông
bị nhốt trong ngục, vợ và con ở ngục khác trốn thoát được ra ngoài mới tìm chạy
được 30 quan tiền định lo lót cho chồng được tha. Nhưng ông nhất định không
chịu vì coi đó là việc không chính đáng, và sẵn sàng ở lại để chịu chết vì
Chúa.
Cuối tháng 12, Biên Hoà thất thủ, quân
nhà Nguyễn chạy đến Bà Rịa nhưng thấy không đủ sức địch lại quân Pháp nên phải
rút đi. Trước khi rút, ngày 07/01/1862, họ phóng hoả đốt cả bốn nhà giam các
tín hữu.
Người bị giam cố gắng thoát ra, có lính
canh ở ngoài đâm chết, có lính thấy đàn bà trẻ con thì thương tình phá cửa cho
họ chạy, một cai đội chặn họ lại cướp của. Số người tử vì đạo là 444 người.
Họ đã chết, nhưng chết trong niềm vui,
chết trong hy vọng.
Được sinh ra, sống, chết và chịu đau khổ
là những gì không ai tránh được. Nhưng mọi đau khổ trong cuộc sống sẽ nở hoa
niềm vui và hy vọng khi chúng ta để tình-yêu-đến-bỏ-mình của Chúa dẫn đường và
thúc đẩy: “Bởi ân tình Ngài quý hơn mạng sống, miệng lưỡi này xin ca ngợi tán
dương” (Tv 63,4)
Sống yêu thương có phải là chọn lựa của
tôi?
5. Sống chứng nhân – Lm.
Giuse Tạ Duy Tuyền
"Tin đạo chứ không tin người có
đạo". Câu nói này tôi đã nghe nhiều người nói. Nhưng đáng tiếc không phải
là những người ngoại đạo nói mà là những người có đạo nói. Đa số họ là những
người đã lâu năm không tới nhà thờ. Họ bỏ xưng tội rước lễ. Họ bỏ đồng đạo. Họ
có đạo nhưng không sống đạo. Họ mang danh ky-tô hữu nhưng lại bảo rằng
"đạo tại tâm" nên không thể hiện ra bên ngoài dấu chỉ là người ky-tô
hữu. Thế nhưng, họ lại biện minh cho hành động chối đạo của mình là vì chê ghét
một ai đó trong đạo. Họ không đến nhà thờ vì ông A, ông B đã không tốt với họ.
Họ bỏ Chúa vì cha xứ quá khắc khe trong lề luật của Chúa. Họ không còn xưng tội
rước lễ vì bà A, bà B vẫn chứng nào tật ấy có tốt hơn họ đâu? Họ đòi người khác
phải làm chứng cho họ còn bản thân họ thì lại không chịu làm chứng cho tin
mừng. Họ đòi người khác sống tốt còn bản thân họ thì lại nuôi thù oán. Họ đòi
người khác phải bác ái yêu thương còn bản thân họ thì cô lập một mình không gắn
bó với giáo xứ. Họ chính là những cỏ dại đang làm mất đi vẻ đẹp của cánh đồng
lúa Giáo hội Chúa Kitô. Họ chính là những người có đạo nhưng không đáng tin vì
tính cố chấp, nuôi thù hận mà bỏ Chúa, bỏ anh em.
Các thánh Tử đạo Việt Nam năm xưa đã
lãnh nhận cái chết tử đạo nhiều khi cũng bởi chính những con người mang danh ky-tô
hữu nhưng đã không còn sống men tin mừng. Họ đã tố giác anh em vì một chút bổng
lộc. Họ đã bán đứng anh em vì cố chấp trong tội lỗi. Như trường hợp thánh An-rê
Kim Thông, ngài đã bị tố giác bởi chính người cháu tội lỗi, ngang ngược. Ngài
đã từng nhắc nhở người cháu sửa đổi nhưng chứng nào tật ấy. Hắn đã không sửa
đổi mà còn tố giác ngài để cầu vinh.
Trường hợp Thánh Phaolô Hạnh cũng thế.
Ngài là một thanh niên nổi tiếng về sự quen biết những tay anh chị trong giới
giang hồ tại chợ Quán. Một lần, chứng kiến một phụ nữ bị đàn em bóc lột không
thương tiếc. Thánh nhân bỗng xúc động ra tay can thiệp, làm áp lực buộc chúng
trả lại tất cả những gì đã lấy của nạn nhân. Vì hành động nghĩa hiệp này, thánh
nhân phải trả giá: họ tố cáo ngài ngoài tội là Kitô hữu, còn tiếp tay với quân
đội Pháp. Thánh nhân bị bắt, bị cầm tù, sau cùng bị trảm quyết tại Chí Hoà ngày
28-5-1859.
Trường hợp Cha Thánh Luca Vũ Bá Loan còn
đáng thương và cảm động hơn. Có hai tên tội phạm đang chờ xét xử. Họ bàn tính
với nhau đến bắt Cha Loan để lập công chuộc tội. Thế là họ đang tâm nộp Cha cho
quan huyện Phú Xuyên, nhưng quan không chịu nhận, họ phải đưa Cha về Thăng
Long. Sau cùng, ngày 5-6-1840, Thánh Luca Loan bị chém đầu.
Điểm chung của các thánh Tử Đạo chính là
can đảm đón nhận thập giá Chúa gửi đến mà không oán hận kẻ làm hại mình. Các
ngài đã vui nhận hy lễ thập giá vì yêu mến Chúa Kitô. Các ngài luôn xác tín
rằng: những đau khổ đời này không đáng gì so với vinh quang bất diệt mai sau.
Các ngài dầu có chịu khổ hình trong giây lát nhưng được sống lại vinh quang
muôn đời. Đó là điều mà thánh Đaminh Hạnh đã xác tín, khi mà quan triều đình
nói với ngài: "Xem kìa, đạo trưởng Duyệt đã chịu bỏ đạo, được tha về, ông
cứ làm như thế tôi sẽ tha cho ông". Nhưng thánh Đaminh Hạnh bình tĩnh trả
lời: "Kẻ trung thành với Chúa, khi chết sẽ được lên thiên đàng".
Mừng kính các thánh Tử đạo Việt Nam là
dịp nhắc nhở chúng ta hãy sống thể hiện niềm tin trung kiên của mình trong mọi
tình huống. Đừng vì một chút cỏ dại lấn át mà chán nản bỏ đạo. Đừng vì một chút
giận hờn mà thù hận cả niềm tin của mình. Đừng chối đạo vì ghét ai đó hay đánh
mất niềm tin vì bên trong Giáo hội vẫn có cỏ lung xen lẫn. Và nhất là đừng bán
đứng anh em để cầu vinh.
Ngày nay chúng ta không còn những bạo
chúa bách đạo bằng gươm đao súng đạn, nhưng đề sống niềm tin đòi hỏi chúng ta
phải chiến thắng chính mình. Không ai bắt chúng ta bỏ đạo nhưng vẫn còn đó
những người bỏ đạo vì chức vụ trần gian, vì lười biếng ham chơi, vì đam mê truỵ
lạc. Không ai ngăn cản chúng ta thực hành đạo nhưng vẫn còn đó những người luôn
nuôi dưỡng hận thù, luôn bất mãn với tha nhân nên đã sống thiếu yêu thương
trong lời nói và việc làm. Không ai dụ dỗ chúng ta bỏ đạo nhưng nhiều người đã
lao vào những con đường tội lỗi, những quan hệ bất chính nên đã không còn xứng
đáng mang danh là ky-tô hữu.
Quả thực, ngày nay không cần những cuộc
bắt đạo những vẫn có hàng ngàn người bỏ đạo vì những danh lợi thú trần gian.
Ngày nay không ai bắt chúng ta bước qua thập giá nhưng vẫn còn đó nhiều người
vì danh lợi thú đã tự tháo bỏ thập giá khỏi bàn thờ gia đình, khỏi cuộc sống
của mình. Họ đích thực là loại người mà nhân loại kết án "tin đạo chứ
không tin người có đạo", vì lẽ họ không còn sống niềm tin của mình.
Lạy các thánh Tử đạo Việt Nam, là cha
ông chúng con. Xin cho chúng con biết tôn thờ Chúa trên hết mọi sự, biết noi
gương các ngài để thể hiện niềm tin trung kiên của mình trước những cám dỗ lợi
lộc của thế gian. Xin giúp chúng con biết thể hiện niềm tin của mình qua đời
sống thánh thiện, bác ái yêu thương. Amen.
6. Không thuộc về thế
gian.
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
"Tâu bệ hạ, đã 30 năm phục vụ dưới
ba triều vua, lúc nào hạ thần cũng là người hết lòng yêu nước. Nay hạ thần cam
chịu mọi cực hình để nên giống Đức Kitô." Đó là câu trả lời của ông Micae
Hồ Đình Hy khi vua Tự Đức mời ông giả vờ bước qua thánh giá.
Ông là người thanh liêm, được nhà vua
hết sức tín cẩn, cho phụ trách ngành dệt trong cả nước. Nhưng ông cũng là một
Kitô hữu xông xáo làm việc tông đồ.
Ông không thấy có gì xung khắc giữa việc
phục vụ đất nước với việc phục vụ Giáo Hội.
Khi quân Pháp bắn phá cảng Đà Nẵng thì
ông bị bắt, bị kết án là khinh luật nước, chống lại triều đình.
Ông Hy đã chấp nhận cái chết một cách
bình thản. Trước khi chịu chém, ông còn xin hút một điếu thuốc, hương vị cuối
cùng của trần gian mà ông muốn nếm trước khi nếm hương vị của thiên đàng vĩnh
cửu.
Cuộc sống và cái chết của thánh Micae Hy
soi sáng cho đoạn Lời Chúa hôm nay.
Người Kitô hữu có hai đầu dây cần phải
giữ. "Như Cha đã sai Con đến trong thế gian, Con cũng sai họ đến trong thế
gian" (Ga 17,18).
Thế gian là nơi thánh Hy đã sống cho đến
chết. Thế gian là đất nước, là vua quan, là thứ dân... Ngài đã yêu mến và sống
tận tình cho thế gian đó.
Thế gian đã trở nên như máu thịt của
người Kitô hữu vì đó là nơi họ được Chúa sai đến để phục vụ, và là nơi họ trở
thành người Kitô hữu trọn vẹn.
"Họ không thuộc về thế gian, cũng
như Con không thuộc về thế gian" (Ga 17,16).
Ở trong thế gian nhưng không thuộc về
thế gian, nghĩa là không hoàn toàn nghĩ và sống như thế gian.
Người Kitô hữu không coi thường mọi giá
trị của xã hội, nhưng họ có một thang giá trị riêng.
Họ biết đâu là những giá trị mà họ phải
tôn trọng. Nếu hy sinh những giá trị đó, họ sẽ đánh mất chính mình và chẳng
đóng góp được gì cho bộ mặt thế giới.
Họ là nhúm men vùi trong đống bột. Men
không được tách khỏi bột, và men cũng không được biến chất thành bột. Trong cả
hai trường hợp, men đều trở nên vô ích.
Chúng ta vẫn bị cám dỗ buông một trong
hai đầu dây. Bỏ một trong hai đều làm mất căn tính của người Kitô hữu.
Ơn gọi Kitô hữu đặt ta vào một thế đứng
chênh vênh, thế đứng dễ ghét, thế đứng đòi phải trả giá.
Tử đạo là cách làm chứng tuyệt vời trong
thời bách hại.
Trong thời kinh tế thị trường, cần có
những cách làm chứng khác. Người Kitô hữu vẫn bị cám dỗ bước qua lương tâm mình
để mua lấy chút địa vị, lợi nhuận, an toàn, thoải mái...
Thế gian không ở ngoài ta, thế gian ở
ngay trong lòng ta.
Ước gì chúng ta dám chấp nhận thiệt
thòi, phiền hà, mất mát, khi can đảm làm chứng cho lòng tin và tình yêu.
Gợi Ý Chia Sẻ
Kitô hữu vừa phải đồng hành với thế
gian, vừa có lúc phải lội ngược dòng với thế gian. Bạn thấy điều đó có quá khó
không? Làm sao thực hiện được lý tưởng đó?
Thời nào, nơi nào, làm chứng cho Chúa
cũng có cái khó riêng. Đâu là cái khó khi bạn phải làm chứng cho Chúa trong một
xã hội chạy theo tiền bạc và hưởng thụ?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, vị tử đạo tuyệt vời,
Chúa đưa chúng con vào thế giằng co liên
tục. Chúa vừa chọn chúng con ra khỏi thế gian, lại vừa sai chúng con vào trong
thế gian đó.
Thế gian này vàng thau lẫn lộn. Có khi
vàng chỉ là lớp mạ bên ngoài.
Xin cho chúng con giữ được bản lãnh của
mình, giữ được vị mặn của muối, và sức tác động của men, để đem đến cho thế
gian một linh hồn, một sức sống.
Chúng con chẳng sợ mình bỏ đạo, chỉ sợ
mình bỏ sống đạo vì bị quyến rũ bởi bao thú vui trần thế.
Xin cho chúng con đừng bao giờ quên rằng
chúng con mang dòng máu của các vị tử đạo, những người đã đặt Chúa lên trên
mạng sống.
Lạy Chúa Giêsu, nếu thế gian ghét chúng
con, thì xin cho chúng con cảm thấy niềm vui của người được diễm phúc nên giống
Chúa. Amen.
7. Sống chứng nhân.
Truyền thống Giáo Hội bao giờ cũng quý
trọng cái chết tử đạo của con cái mình, coi cái chết đó như vừa nói lên lòng
can đảm của người tử đạo, vừa nói lên chiến thắng của Tin Mừng. Vì thế, khi
nâng 117 vị tử đạo Việt Nam lên bậc hiển thánh, Giáo Hội muốn đưa ra những mẫu
gương cho chúng ta bắt chước. Qua cái chết khổ nhục, các ngài đã làm chứng cho
Đức Kitô trong những hoàn cảnh giới hạn của mình. Noi gương cái ngài, chúng ta
cũng hãy sống làm chứng cho Đức Kitô trong hoàn cảnh riêng của chúng ta. Vậy
chúng ta phải sống làm chứng đức tin như thế nào? Tôi nghĩ rằng chúng ta sẽ làm
cho gương mặt cha ông tử đạo của chúng ta thêm sáng chói, nếu chúng ta biết
tích cực sống tử đạo giữa lòng dân tộc. Đây không phải chỉ là một công thức
đẹp, một câu nói đưa duyên, nhưng là một lựa chọn của Giáo Hội, như thư chung
HĐGMVN năm 1980 đã đề ra. Chính vì thế đối với chúng ta thì đó cũng là một mệnh
lệnh. Chúng ta phải biến mệnh lệnh trên thành việc làm.
Hiện thời chúng ta đang sống trên đất
nước Việt Nam, cùng với những người Việt Nam khác, xây dựng một xã hội Việt Nam
tốt đẹp hơn. Đó là thánh ý nhiệm mầu, làm sao chúng ta dám cưỡng lại, làm sao
chúng ta dám chối từ. Các thánh tử đạo Việt Nam cũng đã không chạy trốn hoàn cảnh
các ngài phải sống. Xã hội trong đó chúng ta đang sống. Môi trường trong đó
chúng ta đang làm việc, những con người hằng ngày chúng ta gặp gỡ trên mọi nẻo
đường, có những điều hay, những cái đẹp, thế nhưng cũng không thể tránh đi cho
hết những cái chưa hay, những điều còn xấu. Chính vì thế, vai trò đức tin của
chúng ta xuất hiện như một nhu cầu cần thiết và sứ mệnh làm chứng của chúng ta
trở thành cấp bách. Chính chúng ta phải tự vạch ra cung cách sống đạo cho chúng
ta trong từng thời điểm, trong từng hoàn cảnh.
Chẳng hạn nếu môi trường chúng ta sống
chưa hoàn toàn tôn trọng sự thật, thì chúng ta phải sống sao cho đời thấy rằng
chỉ có sự thật mới giải thoát chúng ta như Tin Mừng đã dạy. Nếu tại những cơ
quan chúng ta phục vụ chưa được chí công vô tư, đầy dãy chuyện móc ngoặc, tham
nhũng hối lộ, thì chúng ta phải cố sống sao cho siêu thoát, chấp nhận sự đạm
bạc, không màng chi đến việc làm giàu trên mồ hôi nước mắt của người khác. Nếu
những kẻ có quyền có thế lạm dụng chỗ đứng mà ức hiếp người dân, thì chúng ta
phải biết tôn trọng và giúp đỡ những người chung quanh, nhất là những kẻ bất
hạnh và nghèo đói. Nếu chung quanh chúng ta đời sống lứa đôi bị coi thường,
tình yêu vợ chồng bị hạ xuống hàng trò chơi tạm bợ, sự sống của con cái, như là
kết quả của tình yêu, bị chối bỏ dễ dàng, thì đời sống gia đình của chúng ta
phải thấm nhuần tinh thần Phúc Âm, vợ chồng thương yêu nhường nhịn lẫn nhau,
con cái được đón nhận như là hồng ân Chúa ban, sự sống được tôn trọng và yêu
thương. Các khó khăn được giải quyết bằng niềm tin, bằng cầu nguyện chứ không
phải bằng đấm đá, bằng đổ vỡ dễ dàng.
Hẳn nhiên không có cuộc sống làm chứng
nào mà không phải thiệt thòi vào thân. Đó là điều làm cho chúng ta lo ngại
nhất, nhưng đó cũng chính là thước đo mức độ lòng tin của chúng ta vào Giáo
Hội. Để làm chứng cho chân lý, cho tình yêu, Đức Kitô đã phải trả giá bằng cái
chết trên thập tự. Cho nên gặp phải khó khăn trong đời sống chứng nhân là
chuyện bình thường, là quy luật của muôn đời. Bởi vì sống làm chứng là sống tận
căn cái nghịch lý mất mạng để được mạng, là sống triệt để cái biện chứng hạt
lúa gieo vào lòng đất phải chết đi để làm nẩy sinh nhiều bông hát. Đó là điều
các Thánh Tử Đạo Việt Nam đã làm và hơn nữa, đó là điều chính chúng ta cũng
phải làm, nếu muốn trở nên chứng nhân cho Đức Kitô.
8. "Thà chết vinh còn
hơn sống nhục"
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Từ ngày tổ tông loài người thoả hiệp với
ma qủy quay lưng lại với Thiên Chúa, ma qủy thường dùng chiêu thức này để kiếm
thêm đồng minh chống lại Thiên Chúa. Trong vườn địa đàng nó đã nói cùng Adam -
Eva: "cứ ăn đi ngươi sẽ bằng Thiên Chúa". Ông bà đã ăn. Ông bà đã bắt
tay cùng satan để chống lại Thiên Chúa. Con cháu Adam từ đời này đến đời nọ vẫn
còn vô số người vì sự an nhàn bản thân, vì mong tìm kiếm lợi lộc, tìm hư danh
trần thế, họ vẫn bằng lòng quay lưng lại với Thiên Chúa để làm tôi cho ma qủy,
để tận hưởng khoái lạc mau qua trần gian.
Và cũng từ ngày Con Thiên Chúa từ chối
thoả hiệp với sa tan, các môn đệ của Chúa trải qua bao thời đại vẫn còn đó
những tấm gương quả cảm, anh dũng can trường từ chối thoả hiệp với sa tan. Họ
thà nghèo đói để được bình an tâm hồn hơn là kiếm tiền bằng việc phi nhân thất
đức mà lòng chẳng chút bình an. Họ chấp nhận vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng
lời vua chúa trần gian, cho dù phải tù đầy, gian truân khốn khó. Họ chấp nhận
đánh mất mùa xuân hạn hẹp trần gian để đổi lấy mùa xuân bất diệt thiên đàng.
Hôm nay chúng ta mừng kính 117 thánh tử
đạo Việt Nam, là con số tượng trưng cho hơn 130 ngàn vị tiền nhân đã chết trong
các đợt cấm đạo tại Việt Nam từ cuối thế kỷ 17 đến cuối thế kỷ 19. Họ đã chết
không phải vì chống lại triều đình. Họ đã chết không phải vì lỗi công bình bác
ái với tha nhân. Họ đã chết vì không chịu thoả hiệp với thế gian. Giữa sự sống
và sự chết chỉ cách nhau một lằn ranh. Lằn ranh đó chính là cây thập giá. Bước
qua thì được thoát khỏi cực hình trần gian. Bước qua thì được trở về với vợ
con, với xóm làng, với chức tước vua ban và bổng lột trần gian, nhưng các thánh
tử đạo Việt Nam đã không vì thế mà chối Chúa, bỏ đạo. Không thể vì ham sống sợ
chết mà phải chà đạp lên thập giá là bỏ cơ hội sống đời đời để đổi lấy cuộc
sống lây lất tạm thời trần gian. Các ngài thà chịu đòn roi, thà chịu án tử hình
để trung kiên theo Chúa, để lãnh phúc triều thiên vinh quang bất diệt trên quê
trời còn hơn là làm tôi mọi cho ma qủy. Như trường hợp ông đội Bường đã thẳng
thắn trả lời với quan quân: "Bên đạo chúng tôi ai chết trẻ là đi đường
tắt, ai chết già là đi đường trường. Song đàng nào cũng tới quê thật là nước
thiên đàng vậy". Thế nên, thánh nhân đã khuyên nhủ các đồng đạo rằng:
"Chúng ta hãy vui lòng chịu mọi sự khốn khó để giữ nghĩa cùng Chúa cho đến
khi nào thánh ý Chúa định thể khác. Nếu quan có hành hạ thì hãy can đảm chịu
đựng. Hễ xác chết rồi thì hồn chúng ta bay thẳng về trời, không sợ gì roi đòn.
Chịu sự khó như vậy là vác thánh giá theo Chúa Giêsu. Nếu có đau đớn quá thì
hãy xin #ức Mẹ phù trợ cho được bền lòng đến cùng".
Đọc lại tiểu sử các thánh tử đạo Việt
nam chúng ta thấy có vô số lời dụ dỗ thật ngọt ngào. Tại Hà Tĩnh, các quan cho gọi
những người đứng đầu các họ đạo Công Giáo đến và vẽ hình chữ thập xuống đất rồi
bảo họ: "Chúng tôi chẳng muốn bắt ép quí vị điều gì trái nghịch với đạo.
Chúng tôi biết đây không phải là thánh giá mà quí vị tôn thờ. Vậy hãy bước qua
để chúng tôi có thể trình lại với vua là chúng tôi đã thi hành lệnh, nếu không
chúng tôi mắc lỗi trước mặt vua". Riêng tại Nghệ An, ông quan tỉnh đã nói
với người công giáo: "Các ông thật dại dột để mình phải khổ sở. Làm sao
chống lại được với lệnh vua? Đạo ở trong lòng chứ đâu có ở bên ngoài. Tạm chối
đi, rồi hai ba tháng sau theo trở lại. Hãy xem thánh Phêrô đã chối đạo ba lần
mà vẫn còn được cất nhắc lên cao".
Song le, có nhiều phản ứng khác nhau.Có
kẻ giả vờ bước qua để sống an nhàn. Có kẻ đã thản nhiên bước qua vì gia đình và
dòng họ còn cần đến mình. Nhưng vẫn còn đó nhiều người không chịu bước qua dù
chỉ là giả vờ, dù chỉ là tạm thời bỏ đạo rồi khi sóng gió đi qua lại quay lại
với Thiên Chúa. Họ đã vui lòng đón nhận mọi khốn khó để nói lên lòng trung
thành với đức tin vào Chúa.
Riêng cha Anrê Dũng Lạc, dù rằng quan
quân mở lối thoát bằng việc cho giáo dân đem tiền chuộc Ngài nhưng ngài vẫn
cương quyết chối từ. Các giáo dân đã tới trại giam khuyên nhủ cha rằng:
"Thưa cha, cha chịu chết thì một mình cha lên thiên đàng, mà nếu cha còn ở
lại thì bổn đạo chúng con được nhờ, vậy xin cha nghĩ lại". Nhưng cha Lạc
đã cấm họ đem tiền chuộc, cha nói: "Tôi bị bắt lần này là lần thứ ba, thì
đó đúng là thánh ý Chúa định cho tôi như vậy, anh chị em đừng mất tiền chuộc
tôi làm gì. Tôi cũng như Thánh Phêrô, khi phải bắt lần trước được giáo dân cầu
nguyện cho và được về, lần thứ hai giáo dân cũng lo liệu cho được thoát khỏi,
nhưng ý Chúa đã định cho tôi phải chết vì Người như thánh Phêrô, thì xin anh em
đừng chuộc tôi nữa".
Là con cháu các thánh tử đạo Việt Nam,
chúng ta luôn tự hào vì có các vị tiền nhân đã quả cảm để sống niềm tin, nhưng
liệu rằng chúng ta hôm nay còn mấy ai dám khước từ những thoả hiệp trần gian để
trung kiên với đức tin của cha ông để lại? Vẫn còn đó những con người vì chút
bổng lộc trần gian đã bỏ đạo, đã chống đối đạo. Vẫn còn đó những con người vì
miếng cơm manh áo, vì tương lai của con cái đã chẳng giữ đạo hay theo đạo một
cách hời hợt. Có cũng như không. Vẫn còn đó những con người vì tiền mà bán
mình, bán con để kiếm đồng đola bất chính. Họ thà rằng lỗi luật Chúa còn hơn là
bỏ lỡ cơ hội lấy tiền, lấy bạc. Họ thà rằng mắt mặt với bà con xóm làng còn hơn
là mất túi ba gang mà "quạ đen ban tặng". Vẫn còn đó những con người
bỏ Chúa chứ không bỏ tiền, bỏ Chúa chứ không bỏ tình, bỏ giáo hội chứ không bỏ
danh vọng trần gian.
Lạy các thánh Tử Đạo Việt Nam là cha ông
của chúng con, xưa các ngài đã dùng máu đào để bảo vệ đức tin xin gìn giữ chúng
con luôn trung kiên theo Chúa, dám khước từ danh lợi thú trần gian để nên chứng
nhân cho Nước Trời trong cuộc sống hôm nay.
9. Để làm chứng cho vua
quan – Mt 10, 17-22
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Các vị tử đạo Việt Nam đều có kinh
nghiệm sống từng lời của đoạn Tin Mừng hôm nay: bị nộp, bị đánh đập, bị điệu ra
trước vua quan, bị tra hỏi, bị thù ghét và cuối cùng là bị giết. Tất cả những
gì các ngài phải chịu đều vì Đức Giêsu (c.18), vì Danh Đức Giêsu (c.22).
Các ngài cũng có kinh nghiệm về sự hiện
diện của Thiên Chúa.
Bầu khí của toà án là bầu khí của Thiên
Chúa Ba Ngôi. "Chính Thần Khí của Chúa Cha sẽ lên tiếng trong anh em"
để tuyên xưng niềm tin vào Đức Giêsu (c.19-20)
Cái chết của vị tử đạo cho thấy sức mạnh
của Thiên Chúa được thi thố nơi một con người mỏng dòn yếu đuối.
Chết vì Đạo là một cách làm chứng.
Làm chứng cho một niềm tin kiên vững: Vì
tin Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, là Đấng Cứu Độ, nên các ngài không bước qua
thánh giá.
Làm chứng cho một tình yêu nỏng bỏng:
"Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người hiến mạng vì bạn
hữu" (Ga 15,13)
Làm chứng cho một niềm hy vọng mãnh
liệt: có sự sống đời sau, có hạnh phúc vĩnh cửu, cái chết đưa tôi giáp mặt với
Đấng tôi yêu. Các vị tử đạo đã làm chứng bằng cái chết.
Chúng ta được mời gọi làm chứng bằng
cuộc sống.
Làm chứng nào cũng đòi phải hy sinh, mất
mát, thiệt thòi, vì đòi ta lội ngược dòng với thế gian sa đọa.
Các vị tử đạo thường bị đặt trước thánh
giá. Bước qua là được tiếp tục sống sung sướng an nhàn. Không bước qua là phải
chịu tù đày, đòn vọt, mất tất cả và mất chính mạng sống. Chỉ cần một bước chân,
là mọi sự thay đổi.
Đã có người bước qua, và cũng có người
không. Có người bị khiêng qua thánh giá, nhưng đã co chân lên, như thánh Antôn
Nguyễn Đích. Có người bước qua, nhưng sau lại hối hận. Đó là trường hợp của ba
vị thánh quân nhân: Âutinh Huy, Nicôla Thể và Đaminh Đạt. Có người được mời giả
vờ bước qua thánh giá để quan có cớ mà tha, như thánh Micae Hồ Đình Hy, nhưng
họ đã thắng được cơn cám dỗ tinh vi ấy.
Đứng trước thánh giá là đứng trước một
lựa chọn. Tôi chọn Ngài hay tôi chọn tôi? Không có giải pháp dung hoà hay lấp
lửng. Giây phút đứng trước thánh giá là giây phút quan trọng. Quyết định không
bước qua thánh giá là kết tinh của những đêm dài cầu nguyện, của việc chiến
thắng những mời mọc khéo léo, của việc thắng vượt những sợ hãi, giằng co nội
tâm, của những Vườn Dầu trong ngục thất...
Thời nào chúng ta cũng được đặt trước
thánh giá, dấu hiệu của sự từ bỏ để phục vụ. Lúc nào chúng ta cũng có nguy cơ
bước qua thánh giá, bằng đời sống hưởng thụ và ích kỷ của mình.
Gợi Ý Chia Sẻ
Làm chứng bằng cuộc sống. Theo ý bạn,
người Công Giáo Việt Nam phải sống thế nào để làm chứng về Đức Giêsu cho những
đồng bào chưa biết Chúa?
Bị cám dỗ bước qua thánh giá, có khi nào
bạn có kinh nghiệm đó trong đời thường không?
Cầu Nguyện
Lạy các thánh tử đạo Việt Nam, các ngài
đã dám sống đến cùng ơn gọi Kitô hữu trong một hoàn cảnh khó khăn nguy hiểm.
Sự hy sinh của các ngài cho thấy tình
yêu mạnh hơn sự chết và chết là cửa mở vào cõi sống bất diệt. Dù mang phận
người yếu đuối, nhưng nhờ ơn Chúa đỡ nâng, các ngài đã chiến thắng khải hoàn.
Xin cầu cho chúng con là con cháu các
ngài biết can trường sống đức tin của bậc cha anh trong một thế giới vắng bóng
Thiên Chúa, biết nhiệt thành làm chứng về tình yêu bằng một đời hiến thân phục
vụ.
Ước gì ngọn lửa đức tin mà các ngài đã
thắp lên bằng cuộc sống và cái chết, được bừng tỏa trên Tổ Quốc Việt Nam.
Ước gì máu thắm của các ngài thấm vào
mảnh đất quê hương để công cuộc truyền giáo sinh nhiều hoa trái.
10. Truyền đạo.
Người Công giáo Việt Nam thường coi mình
là kẻ có đạo và được tiếng là những kẻ giữ đạo rất nhiệt thành và sốt sắng.
Nhưng có lẽ phần đông chúng ta chưa xác tín rằng: cách giữ đạo tốt nhất là cho
người khác cái đạo của mình, như Chúa Giêsu đã nói: Cố giữ thì mất, liều mất
thì còn.
Các thánh Tử đạo Việt Nam là những người
đã sống theo chân lý đó. Các ngài không phải chỉ là những người có đức tin,
những người giữ vững đức tin đến cùng, mà còn là những người đã cho kẻ khác
niềm tin của mình.
Không có việc trao tặng niềm tin ấy qua
việc hy sinh mạng sống của các ngài thì có lẽ sẽ chẳng có Giáo Hội Việt Nam hôm
nay. Tuy nhiên, có nhiều cách cho đi niềm tin và cách thông thường nhất là chia
sẻ bằng lời rao giảng hay bằng những phương tiện truyền giáo.
Cũng có một cách khác, tuy âm thầm nhưng
hiệu quả cũng không kém, đó là bằng cách sống niềm tin một cách chân thực.
Nhưng cách cuối cùng mà các thánh Tử đạo Việt Nam đã thực hiện là cho chính sự
sống của mình. Trong sự sống được trao tặng đó có hạt giống của đức tin, tựa
hạt của một trái chín, hay như hạt thóc của một bông lúa đã được gặt hái. Đó là
một cách cho trọn vẹn nhất, một cách cho tuyệt đối nhất, bởi vì không ai có thể
đòi lại mạng sống của mình một khi đã dâng hiến.
Hơn thế nữa, trong những cách thế cho
khác, người ta có thể tìm lại được mình trong chính sự dâng hiến. Thật vậy, kẻ
rao giảng Tin mừng có thể gặt hái được thành quả công cuộc rao giảng và hưởng
niềm vui về thành quả đó. Cũng vậy, một người sống đạo cách chân thực, gương
mẫu, có thể được mọi người kính phục và yêu mến. Còn người cho niềm tin trong
cái chết thì không còn để được hưởng những lời ca tụng tán dương.
Khi đọc truyện các thánh Tử đạo Việt Nam
chúng ta thấy phần đông các ngài không phải lúc nào cũng muốn chết. Trái lại,
nhiều vị đã tìm cách trốn tránh, không phải vì sợ chết, nhưng vì muốn tiếp tục
sống vì người khác và cho người khác, hoặc cũng có khi vì lòng khiêm tốn, nghĩ
mình không xứng đáng được phúc tử đạo. Các ngài đã chấp nhận dâng hiến đời
mình, chứ không tự mình tìm đến cái chết.
Đối với chúng ta ngày nay, ngoài một vài
trường hợp đặc biệt như ở Algérie hay tại một vài nước Hồi giáo cực đoan, nơi
các tôn giáo ngoài Hồi giáo có thể bị bách hại, còn khắp nơi trên thế giới hầu
như không còn có chế độ nào được coi như cấm đạo thực sự kiểu Nêrô hay Minh
Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức.
Nhưng nếu hiểu đạo theo nghĩa rộng, thì
vẫn còn có nhiều người tử đạo. Đó là những người dám chết cho công lý, cho hòa
bình. Nói chung là chết vì chính đạo, chết cho con người, nhất là những người
nghèo khổ hay bị áp bức. Đức Kitô cũng đã chết cho cái chính đạo ấy chứ không
phải chết vì đạo của người Do Thái, lại càng không chết vì đạo của mấy ông tư
tế và Biệt phái, bởi vì chính những người này đã chủ mưu giết Ngài vì thấy rằng
Ngài là mối đe dọa cho tôn giáo của họ.
Ngày nay, khi Giáo Hội Công giáo chuẩn
bị hồ sơ phong chân phước cho Savonarole, một linh mục dòng Đaminh ở Florence,
thì điều đó chứng tỏ rằng cả những người trước đây bị giáo quyền kết án, cũng
chính là những vị tử đạo, bởi vì họ đã sống theo chân lý và hy sinh tính mạng
để bảo vệ cho chân lý, cho chính đạo.
Dân chúng Ấn Độ đã tặng cho ông Gandhi
danh hiệu là thánh, không phải ông đã chết vì Ấn độ giáo hay bất kỳ tôn giáo
nào, mà chết vì đấu tranh cho hòa bình, hòa hợp và hòa giải giữa hai cộng đồng
Ấn độ giáo và Hồi giáo. Và mục sư Martin Luther King cũng thật xứng đáng danh hiệu
một vị thánh vì đã chết để bênh vực quyền tự do và bình đẳng của người da đen…
trên đất nước được mệnh danh là dân chủ và tự do nhất thế giới, nhưng thực ra
chỉ là tự do và dân chủ cho người da trắng mà thôi.
Đức Tổng giám mục Rômêrô bên El Salvador
đã bị chính những người lính Công giáo bắn chết đang khi dâng thánh lễ, ngài bị
giết không phải vì là người có đạo hay là vì giám mục, mà vì đã can đảm ủng hộ
chính nghĩa của dân nghèo. Người ta hy vọng ngày gần đây, ngài sẽ được tôn
phong lên hàng thánh tử đạo.
Như vậy, tử đạo là dám sống và dám chết
cho một lý tưởng của Tin mừng. Thế nhưng liệu chúng ta có dám sống và dám chết
như vậy hay không?
11. Sống vì đạo – ĐTGM.
Giuse Ngô quang Kiệt
Chúng ta đang sống trong một xã hội văn
minh vật chất. Khuynh hướng tìm chiếm hữu, hưởng thụ, an nhàn là rất mạnh. Thế
mà Lời Chúa hôm nay kêu gọi ta phải từ bỏ mình, phải vác thập giá, phải hy sinh
mạng sống. Phải chăng Chúa muốn ta tàn lụi đi? Hay Chúa muốn ta trở nên dại
dột? Thưa không phải như thế. Chúa khuyên bảo ta hãy biết từ bỏ mình vì lợi ích
của ta.
Chúa chỉ đường cho ta đến những giá trị
cao quý hơn. Trong đời sống, cơm áo gạo tiền là cần là quý. Nhưng còn những thứ
cao quý hơn. Ví dụ như danh dự, tình yêu, lòng chung thủy. Mạng sống là quý.
Nhưng có những giá trị còn cao quý hơn. Ví dụ như đức tin, tổ quốc. Thân xác là
quý. Nhưng linh hồn còn cao quý hơn. Vì thế, khi không thể chọn cả hai, ta phải
biết chọn những giá trị cao quý hơn.
Chúa chỉ đường cho ta đến những giá trị
bền vững hơn. Vật chất là quý. Nhưng giá trị của nó không lâu bền. Chết rồi ta
chẳng mang theo được vật chất theo mình. Những giá trị tinh thần bền vững hơn.
Dù chết rồi vẫn còn tồn tại. Tục ngữ có câu: "Cọp chết để da, người ta
chết để tiếng". Cuộc sống đời này là quý. Nhưng cuộc sống đời này không
kéo dài lâu. Cuộc sống đời sau mới trường tồn vĩnh cửu. Khi không thể chọn lựa
mọi giá trị, ta phải biết lựa chọn những giá trị có tính cách vĩnh cửu.
Chúa chỉ cho ta đường đến với Thiên
Chúa. Thiên Chúa là nguồn mạch mọi sự thiện hảo. Chọn Chúa mới là chọn những gì
tốt đẹp nhất. Chúa là giá trị cao quý nhất. Chúa là giá trị vĩnh cửu nhất. Chúa
là hạnh phúc hoàn hảo nhất. Hạnh phúc ở nơi Chúa làm ta no thỏa. Hạnh phúc ở
nơi Chúa không bao giờ tàn lụi. Hạnh phúc ở nơi Chúa cho ta đạt được mọi ước mơ
của con người.
Chúa chỉ cho ta con đường đi theo Chúa.
Khi dậy dỗ ta, Chúa Giêsu không nói suông. Chính Người đã thực hành. Người đã
từ bỏ mình, vác thánh giá. Người đã liều mạng sống, chịu chết vì chúng ta.
người đã từ bỏ tất cả những giá trị trần gian để vâng theo thánh ý Đức Chúa
Cha. Cuối cùng Người lại được tất cả. Chết rồi được Phục Sinh. Tự hủy mình ra
không lại được trở thành Vua vũ trụ. Người đã từ bỏ tất cả, nay Đức Chúa Cha
lại ban cho Người tất cả, khi đặt mọi sự dưới chân Người.
Yêu mến Chúa là vâng theo Lời Chúa, các
thánh Tử đạo Việt Nam đã đi theo con đường của Chúa. Để bảo vệ đức tin, các
ngài đã chịu mất tất cả cuộc sống an vui, mất danh vọng chức quyền, mất nhà cửa
của cải. Vì hiểu rằng đức tin là gia tài cao quý nhất. Hướng về sự sống đời sau,
các ngài đã sẵn sàng chịu giam cầm, chịu nhục nhà, chịu hành hạ đau đờn. Vì
biết rằng những đau khổ đời này rồi sẽ qua đi, hạnh phúc đời sau mới vĩnh cửu.
Để trung thành với Chúa, các ngài sẵn sàng chịu mất mạng sống. Vì biết rằng
Chúa sẽ ban lại sự sống mới, sự sống vĩnh cửu cho các ngài. Các ngài thật can
đảm. Vì khi chọn lựa từ bỏ như thế, phải chịu nhiều đau đớn, khổ nhục. Đó là
chọn lựa tuyệt đối quyết liệt, dám liều mất cả mạng sống cho sự lựa chọn của
mình. Các ngài thật khôn ngoan. Đã biết từ bỏ cái tầm thường để lựa chọn điều
cao quý. Đã biết từ bỏ cái tạm bợ để lựa chọn điều vĩnh cửu. Đã biết từ bỏ
những giá trị tương đối để lựa chọn Chúa là giá trị tuyệt đối.
Cuộc sống hôm nay cũng đặt chúng ta
trước nhiều lựa chọn. Để sống đúng lương tâm công giáo, ta phải chối từ những
mối lợi bất chính. Để chu toàn luật Chúa, ta phải từ chối những hưởng thụ ngọt
ngào. Để thực hành luật yêu thương tha thứ, ta phải cắn răng chịu nhịn nhục. Để
chọn Chúa, ta phải vác thánh giá. Những lựa chọn đó nhiều khi khiến lòng ta đau
đớn như bị vết thương. Vết thương rỉ máu âm ỉ suốt cuộc đời. Những lựa chọn đó
nhiều khi khiến ta rơi lệ. Những dòng lệ đau đớn xót xa. Đó thực là những cuộc
tử đạo. Cuộc tử đạo không thấy máu. Vì máu chỉ rỉ trong tâm hồn. Cuộc tử đạo
không thấy lệ. Vì lệ đã nuốt ngược vào trong. Máu ri rỉ đau đớn nhức nhối lắm.
Lệ nuốt vào cay đắng lắm. Để lựa chọn như thế phải có ơn khôn ngoan của Chúa.
Để lựa chọn như thế cần phải có ơn sức mạnh của Chúa. Nhưng có lựa chọn như thế
ta mới xứng đáng là môn đệ Chúa và xứng đáng là con cháu các thánh anh hùng tử
đạo. Chính những lựa chọn đó đem lại cho ta sự sống đích thực.
Chính những lựa chọn đó đưa ta đến hạnh
phúc vĩnh cửu.
GỢI Ý CHIA SẺ
1- Tại sao Chúa bảo ta phải từ bỏ mình?
Chúa muốn ta tàn lụi hay phát triển?
2- Các thánh tử đạo đã theo Chúa cho đến
cùng. Ta có thực sự theo Chúa Giêsu, Đấng chịu khổ hình, vác thánh giá và chịu
chết không?
3- Thời nay không còn cấm đạo, không còn
giết người có đạo, bạn nghĩ rằng thời nay sống đạo dễ hơn xưa không?
12. Con đường hạt lúa –
ĐTGM Giuse Ngô Quang Kiệt
Ga 12, 20-32
Khi đến Rôma, tôi thích đi viếng những
hang toại đạo. Hang toại đạo là hệ thống đường hầm đào sâu dưới lòng đất tại
các khu nghĩa trang ngoại thành Rôma. Những hang hầm dài nhiều cây số. Không
phải chỉ một tầng mà đến 3, 4 tầng sâu dưới lòng đất. Không khí trong hang thật
lạnh lẽo. Hơi lạnh từ lòng đất toát ra cộng với hơi lạnh từ những nấm mồ càng
làm cho khu hầm mộ trở nên lạnh lẽo đáng sợ. Người sống phải đấu tranh với cái
chết. Sự chết luôn đe doạ rình rập cướp lấy mạng sống con người. Tại nơi đây,
các tín hữu sơ khai đã ẩn trốn những cơn bách hại liên tiếp trong 3 thế kỷ. Có
lẽ thánh Phêrô và thánh Phaolô cũng đã từng đi lại sinh hoạt trong những hang
này. Người tín hữu sơ khai đã phải sống trong những điều kiện như thế để bảo vệ
đức tin của mình.
Nhưng thật kỳ diệu. Các vua chúa của đế
quốc Rôma hùng mạnh đã tìm cách tiêu diệt một nhóm người nghèo khổ yếu ớt không
một tấc sắt tự vệ. Không phải chĩ bắt bớ trong một chiến dịch ngắn hạn mà là
một chủ trương kéo dài suốt 300 năm. Vậy mà các vua chúa qua đi rồi, nhóm người
nghèo khổ yếu ớt đó không những chỉ tồn tại mà còn phát triển mạnh mẽ hơn bao
giờ hết. Đi dưới lòng hang toại đạo tôi mới thấm thía ý nghĩa của lời Chúa nói:
“Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn
nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác”. Hạt giống Giáo Hội đã bị chôn
chặt dưới 3, 4 tầng đất. Hạt giống đức tin đã bị vùi sâu đến 300 năm. Tất cả
các thánh Tông đồ, các tín hữu sơ khai đã bị mục nát. Và các ngài đã làm trổ
sinh cả một mùa gặt dồi dào phong phú. Cả châu Âu đã tin theo Chúa.
Nhìn lại lịch sử Giáo Hội Việt Nam, ta
cũng thấy có sự tương tự. Khi đạo Chúa mới được truyền vào Việt Nam, lập tức bị
các vua chúa phong kiến bắt bớ. Cuộc bắt bớ kéo dài khoảng 300 năm. Đủ mọi hình
thức để tiêu diệt đạo. Nào là cấm cách bắt bớ. Nào là đe doạ bạc đãi. Nào là
xua đuổi ra khỏi những vùng trù phú phồn vinh. Nào là phân sáp, tức là tách ly
cha mẹ, anh chị em trong một gia đình bắt đi sống riêng rẽ trong các gia đình
ngoại đạo. Nào là lấy thép nung đỏ khắc chữ “tả đạo” trên má ngưới có đạo. Và
nhất là lên án tử hình những người có đạo. Người tín hữu trung thành với đức
tin phải trốn chạy chết trên rừng thiêng nước độc. Nếu bị bắt có thể bị chết
trong tù. Nếu không cũng bị xử án tử hình. Có đấng bị chém đầu. Có đấng bị trói
chân tay vào chân ngựa. Bốn con ngựa kéo về bốn góc xé nát xác vị tử đạo. Có
đấng bị kết án cho voi dày. Thê thảm nhất có lẽ là án bá đao. Cứ sau một hồi
chiêng trống, đao phủ xẻo một miếng thịt cho đến khi chết.
Dù các vua chúa đã dùng đủ mọi cách tiêu
diệt nhóm người bé nhỏ yếu ớt trong 300 năm. Trong 3 thế kỷ đó có khoảng 100
ngàn người chịu chết vì đạo. Nhưng số người tin Chúa ngày càng gia tăng. Từ một
nhóm nhỏ người bị bắt bớ, nay số tín hữu tại Việt Nam đã hơn 6 triệu người. Hạt
giống đức tin gieo trồng vào quê hương Việt Nam đã bị vùi sâu, đã bị mục nát,
và nay đã trổ sinh một mùa gặt phong phú. Một lần nữa chúng ta lại xác tín lời
Chúa dạy: “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một
mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác”.
Nhìn lại lịch sử, ta càng thêm tin tưởng
vào Lời Chúa. Nếu đang gặp khó khă trong đời sống đạo, ta hãy an tâm. Như Đức
Giêsu đã chịu gian nan khốn khó, phải chịu bắt bớ, nhục mạ, phải chịu chết tủi
hổ trên Thánh giá, các môn đệ con cái Chúa không thể đi con đường nào khác
ngoài con đường Thánh giá. Như các bậc tiền nhân xưa đã chịu vất vả khổ cực để
xây dựng một Giáo Hội vững mạnh như ngày nay, ta tin tưởng những gian nan khốn
khó của ta rồi cũng sẽ trôi qua. Nếu ta biết chịu đựng những đau đớn, khó khăn,
vất vả vì Chúa. Nếu ta vẫn trung thành với Chúa, với đức tin qua mọi gian nan
thử thách, chắc chắn Chúa sẽ ban cho ta một mùa gặt bọi thu, kết quả phong phú
ngoài sức tưởng tượng của ta.
Lạy Các Thánh Tử đạo Việt Nam, xin dạy
con noi gương bắt chước các ngài, luôn trung thành với Chúa trong mọi hoàn cảnh
của cuộc sống. Amen.
GỢI Ý CHIA SẺ
1- Khi mới khai sinh Giáo Hội đã bị bách
hại trong 3 thế kỷ. Nhưng Giáo Hội vẫn phát triển. Điều này dạy ta điều gì?
2- Hãy tóm tắt 3 thế kỷ đầu của Giáo Hội
Việt Nam.
3- Muốn đạo Chúa phát triển ta phải làm
gì?
13. Chứng nhân tình yêu
(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang
Kiệt)
Thánh lễ hôm nay đỏ một mầu máu. Máu của
hơn 100 ngàn anh hùng tử đạo. Máu của 117 vị đã được tôn phong lên hàng hiển
thánh. Máu ngập tràn chảy suốt hơn 3 thế kỷ truyền giáo tại Việt Nam.
Có điều máu lênh láng nhưng không tanh
tưởi bởi không phải là thứ máu oan khốc nơi chiến trường tuôn chảy trong hờn
căm oán ghét. Máu đẹp như những cánh hoa vì phát xuất từ tình yêu cao quí. Máu
dường như toả hương thơm bởi khơi nguồn từ những trái tim chan chứa yêu thương.
Máu không gây ghê tởm nhưng gợi lòng kính trọng. Máu không tạo oán thù nhưng
vực dậy yêu thương. Đó là những dòng máu làm chứng cho tình yêu.
Tình yêu Thiên Chúa.
Các thánh Tử Đạo Việt Nam có lòng tin
mạnh mẽ. Lòng tin của các ngài không biểu lộ trong những hành vi cuồng tín,
nhưng diễn tả trong thái độ chan chứa yêu thương. Đã nhận biết Chúa, các ngài
yêu mến Chúa tha thiết. Đã cảm nhận được tình yêu của Chúa các ngài mong muốn
được đáp đền tình yêu đó.
Tình yêu của các ngài là tình yêu hy
sinh. Nên các ngài đã từ bỏ tất cả: cuộc sống yên ổn, danh vọng tiền tài, kể cả
mạng sống vì Chúa. Thánh Hồ đình Hy sẵn sàng chịu mất chức trong triều đình.
Thánh Tôma Thiện vui lòng dâng hiến tuổi xuân xanh với những lời hứa hẹn chức
quyền của vua quan. Thánh nữ Anê Lê thị Thành mạnh dạn từ bỏ gia đình êm ấm với
những người con ngoan ngoãn dễ thương. Tất cả vì tình yêu Chúa.
Tình yêu của các ngài là tình yêu chung
thuỷ. Các ngài yêu mến Chúa khi bình an, các ngài càng yêu mến Chúa trong những
gian nan thử thách. Các ngài đã thực hiện lời thánh Phao-lô: Tôi tin chắc rằng:
cho dầu là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay
tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài
thọ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên
Chúa thể hiện nơi Đức Ki-tô Giêsu, Chúa chúng ta (Rm 8,35-39).
Tình yêu của các ngài là tình yêu cao
quí. Đáp lại tình yêu của Đức Giêsu Kitô đã hiến thân vì các ngài, các ngài
cũng hiến dâng mạng sống để minh chứng tình yêu với Chúa. Đúng như lời Chúa
nói: Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính
mạng vì bạn hữu của mình (Ga 15,13).
Tình yêu cuộc sống.
Các ngài là những người yêu mến cuộc
sống. Không phải một cuộc sống tầm thường nhưng là cuộc sống với tất cả những
chiều kích cao đẹp của nó. Cuộc sống với những giá trị thiêng liêng như lý
tưởng, như tình yêu, lòng trung tín. Một cuộc sống không nô lệ cho vật chất.
Một cuộc sống trung thực không giả dối. Một cuộc sống không bị đóng khung trong
thế giới hữu hạn mau tàn nhưng mở ra đến vĩnh cửu. Một cuộc sống không hạ con
người xuống nhưng nâng con người lên ngang với các thần thánh. Thật sự yêu mến
cuộc sống nên các ngài sẵn sàng hy sinh tính mạng để làm chứng, để bảo vệ và
xây dựng.
Tình yêu nhân loại.
Cái chết của các ngài minh chứng một tình
yêu vô biên đối với nhân loại. Các ngài không chỉ yêu mến Chúa mà còn yêu mến
gia đình. Hãy nhìn cảnh thánh Lê văn Phụng hoặc thánh nữ Lê thị Thành an ủi con
cháu trước khi ra pháp trường. Tình yêu thương của các ngài lan cả tới lính
gác, cai tù và lý hình. Thánh Lê văn Phụng chữa bệnh cho người cai tù của mình.
Tất cả các thánh vui vẻ ra đi chịu chết. Không có ai tỏ lòng oán hận. Và nhất
là không có vị nào thù ghét các lý hình.
Tình yêu của các ngài phát xuất từ tình
yêu Chúa nên rộng rãi toả lan tới mọi người, mọi nơi các ngài sinh sống. Tình
yêu ấy là tình yêu nguyên tuyền nên không biết đến sự thù ghét, nên sẵn sàng
tha thứ cho kẻ làm hại mình. Tình yêu ấy như bông hoa vẫn toả hương trong tay
kẻ vò nát nó. Tình yêu ấy giống như loài gỗ quí vẫn phả hương thơm cả đến chiếc
rìu bổ vào nó (Fulton Sheen).
Động lực hướng dẫn cuộc đời các ngài là
tình yêu. Cái chết của các ngài làm chứng cho tình yêu. Đó chính là điều mà ta
có thể bắt chước các ngài. Trong hoàn cảnh hiện nay, ta không có hy vọng được
phúc tử đạo, nhưng ta vẫn có thể noi gương các thánh Việt Nam làm chứng cho đạo
Chúa. Nếu ta không được chết cho tình yêu, ta vẫn có thể sống cho tình yêu. Có
lẽ ngày nay Chúa cũng không mong ta chết vì đạo mà mong ta hãy sống vì đạo.
Lạy các thánh Tử Đạo Việt Nam, xin chúc
lành cho quê hương và Giáo Hội Việt Nam. Amen.
14. Suy niệm của ĐTGM.
Giuse Ngô Quang Kiệt.
SỐNG CHỨNG NHÂN TIN MỪNG
Hôm nay Giáo Hội Việt Nam hân hoan và
hãnh diện mừng kính các Thánh Tử Đạo Việt Nam vì 3 lý do:
- Hân hoan và hãnh diện vì các thánh là
người Việt Nam, không gì vui mừng và hãnh diện, tự hào hơn, khi đất nước ta có
những vị thánh góp mặt với Giáo Hội toàn cầu.
- Hân hoan và hãnh diện vì số lượng đông
đảo các Thánh Việt Nam. Với 117 vị Thánh. Giáo Hội Việt Nam được xếp nhất nhì trong
Giáo Hội hoàn vũ về số lượng các Thánh.
- Hân hoan và hãnh diện vì các Ngài là
những chứng nhân anh hùng quả cảm.
Đọc lại tiểu sử các Ngài ta không khỏi
cảm phục đức tin kiên cường của các Ngài. Vì trung thành với Chúa, các Ngài đã
cam chịu thiệt thòi trong đời sống, mất hết chức quyền danh vọng và nhất là
phải chịu muôn ngàn khổ hình, chịu mất mạng sống vì đức tin.
Có những vị như thánh Hồ đình Hy, làm
quan lớn trong triều đình. Quan Án Phạm trọng Khảm, là những vị có chức có
quyền trong xã hội đã thà mất chức quyền, mất danh vọng hơn mất đức tin. Vì
Chúa, các Ngài không những đã sẵn sàng từ bỏ mọi quyền lợi trong xã hội mà còn
sẵn sàng chịu mất mạng sống.
Có những vị như thánh Lê thị Thành, thân
phận phụ nữ yếu ớt, gánh nặng gia đình, nhưng cũng đã sẵn sàng chịu mọi cực
hình để minh chứng tình yêu đối với Đức Giêsu Kitô.
Có những vị đầu xanh tuổi trẻ như Tôma
Thiện, Phaolô Bột, mười mấy tuổi đầu, tương lai còn dài, đường đời còn nhiều
hứa hẹn. Nhưng các Ngài đã cương quyết khước từ tất cả, dâng hiến tuổi thanh
xuân cho đức tin chân chính.
Là người Công Giáo Việt Nam. Chắc chắn
mỗi khi đọc lại tiểu sử các Ngài, ta cảm thấy một dòng máu hào hùng trào dâng
trong huyết quản. Bị cuốn hút bởi cuộc sống và cái chết cao đẹp, anh dũng của
các Ngài, có lẽ ta cũng có đôi lần ao ước được như các Ngài: Sống cao đẹp, chết
anh dũng.
Làm sao ta có thể có được cái chết cao
đẹp như các Ngài. Ngày nay đâu còn cảnh cấm đạo, bắt đạo, giết người có đạo như
thời vua quan ngày xưa. Ngày nay ta không còn hy vọng chết vì đạo. Ta chỉ còn
một cách bắt chước, noi gương các vị tiền nhân anh hùng, đó là sống vì đạo.
Ngày nay, ta ít gặp những khốn khó như
bị bắt bớ giam cầm, giết chết vì đạo. Nhưng để sống đạo trong xã hội hôm nay,
ta gặp không ít khó khăn. Xin kể ra 2 khó khăn tiêu biểu.
Khó khăn thứ nhất đó là chủ nghĩa cá
nhân ngày càng phát triển. Ai cũng muốn thăng tiến bản thân và gia đình của
mình. Ai cũng lo làm ăn. Học hành, xây dựng cho bản thân. Cuộc cạnh tranh ngày
càng khốc liệt. Những nhu cầu của bản thân ngày càng nhiều. Rõ ràng là ngày nay
người ta kiếm được nhiều tiền hơn trước, có nhiều tiện nghi hơn trước, xe cộ
tốt hơn, nhà cửa đẹp hơn. Nhưng chưa bao giờ người ta thấy thỏa mãn, đầy đủ. Vì
thế càng ngày người ta càng đóng kín vào bản thân, không có thời giờ nghĩ đến người
khác. Trong khi đó những người nghèo thì càng nghèo hơn, những người yếu càng
mệt hơn, những người bệnh càng khổ hơn. Họ không đủ sức chạy theo cuộc tranh
đua quyết liệt của chủ nghĩa cá nhân. Họ bị đẩy lùi ra phía sau. Họ bị gạt ra
ngoài lề xã hội. Để lựa chọn sống theo Phúc Âm, để trung thành với Lời Chúa
dạy, ta phải bỏ quên một phần thân mình, gia đình mình để nghĩ đến, giúp đỡ,
vực dậy những anh em kém may mắn. Đó là điều không dễ.
Khó khăn thứ hai là kinh tế thị trường
ngày càng phát triển. Đồng tiền đang trở thành một thước đo gía trị con người.
Đồng tiền đang trở thành một quyền lực chi phối toàn bộ đời sống con người. Ai
cũng muốn có nhiều tiền, và để có nhiều tiền, nhiều người đã không từ chối một
phương cách nào: lường gạt, lừa đảo, làm hàng gỉa, buôn thuốc phiện, tham
nhũng, hối lộ. Tiền bạc quả là một cơn cám dỗ đang làm chao đảo thế giới, tàn
phá những giá trị, biến chất con người.
Đứng trước nhu cầu và ham mê tiền bạc,
người Công Giáo muốn trung thành với Phúc Âm, muốn sống trọn vẹn đức tin, bắt
buộc phải có sự lựa chọn. Thà cam chịu nghèo khổ còn hơn nhận những đồng tiền
phi nhân bất nghĩa. Thà cam chịu thiếu thốn còn hơn đánh mất đức tin. Thà lao
động cực khổ để kiếm miếng cơm manh áo chân chính hơn là chạy theo những đồng
tiền dễ dãi để chối từ Phúc Âm và Luật Chúa.
Quả thực xã hội mới, đang tạo ra những
cơn bắt bớ mới. Để trung thành với Chúa, với Phúc Âm ta cũng phải lực chọn
quyết liệt. Những chọn lựa đó làm cho chúng ta đau đớn không kém gì những khổ
hình. Những hy sinh vì Phúc Âm đó cũng khiến lòng ta rỉ máu không kém gì chịu
tử hình. Các Thánh tử đạo chỉ chọn lựa một lần. Còn chúng ta chết mòn mỏi mỗi
ngày trong những chiến đấu, những từ bỏ đớn đau. Sống Phúc Âm trong thời đại
mới đúng là một cuộc tử đạo liên tục.
Sống vì đạo như thế cũng cao đẹp và anh
hùng không kém gì chết vì đạo. Sống vì đạo như thế, ta cũng góp phần làm chứng
nhân cho Chúa, cho Phúc Âm không kém gì chết vì đạo.
Lạy các Thánh Tử Đạo Việt Nam, xưa các
Ngài đã anh dũng hy sinh cuộc đời, dâng hiến máu đào làm chứng cho Phúc Âm. Xin
giúp chúng con hôm nay cũng biết can đảm, hy sinh sống theo Phúc Âm để làm
chứng cho Chúa trong đời sống hằng ngày. Amen.
15. Chúa Thánh Thần sẽ soi
sáng cho biết phải nói gì
(Mt 10, 17-22)
Qua những lời Chúa Giêsu loan báo cho các
môn đệ về những bách hại gặp phải và thái độ phải có khi đối diện với những
bách hại này. "Đừng lo sợ phải nói gì và nói thế nào, vì Chúa Thánh Thần
sẽ soi sáng cho biết phải nói gì". Sự bách hại là số phận không thể tránh
được của người đồ đệ, bởi vì nếp sống và sứ điệp của người đồ đệ của Chúa phơi
bày những tật xấu của thế gian.
Tác giả Phúc Âm theo thánh Gioan viết rõ
ra lý do của sự thù nghịch giữa thế gian và người đồ đệ như sau:
"Nếu thế gian ghét các con, các con
nên nhận biết rằng thế gian đã ghét Thầy trước các con. Nếu các con thuộc về
thế gian thì thế gian sẽ yêu những gì thuộc về nó, nhưng vì các con không thuộc
về thế gian và vì Thầy đã chọn các con và tách các con ra khỏi thế gian, nên
thế gian ghét các con. Các con hãy nhớ lời Thầy dạy bảo: "Tôi tớ không
trọng hơn chủ". Nếu họ đã bắt bớ Thầy, chắc chắn họ sẽ bắt bớ các
con".
Người đồ đệ được đồng hóa với Chúa Giêsu
và chia sẻ số phận của Ngài, nhưng người đồ đệ cảm thấy mình như là yếu đuối,
không sức mạnh để tự mình chống lại những bách hại. Sự yếu hèn của môn đệ là
sức mạnh của Thiên Chúa. Vì biết mình yếu đuối, người đồ đệ hết lòng tin tưởng
vào Chúa, sống gắn bó với Người.
Phúc Âm theo thánh Mátthêu đã được viết
ra sau cuộc bách hại đầu tiên mà cộng đoàn Giáo Hội đầu tiên đã trải qua, như
cuộc bách hại và tử đạo của thầy Stephano tại Giêrusalem. Các tông đồ cũng đã
từng bị tù rồi chịu chết vì đạo. Phản ứng tự nhiên của con người trước những
khó khăn, những bách hại là lo sợ. Và Chúa Giêsu tiếp tục khuyên các tông đồ
hãy can đảm làm chứng cho Ngài. Người đồ đệ của Chúa cần sẵn sàng cho mọi
nghịch cảnh xảy ra.
Trong đoạn Phúc Âm chúng ta đọc trên
đây, chúng ta có thể ghi nhận là Chúa Giêsu đã kêu gọi "đừng sợ" đến
ba lần:
- "Các con đừng sợ những kẻ vu oan
vì không có gì ẩn khuất mà không bị lộ, vì sự thật luôn là sự thật".
Trung thành với sự thật đôi khi làm ta
phải trả một giá rất đắt và có khi phải trả cả bằng chính mạng sống mình.
- Lần thứ hai Chúa Giêsu nhắc: "Các
con đừng sợ và đừng sợ những kẻ có thể làm hại thân xác, làm thiệt thòi cho
phần vật chất, nhưng không thể nào giết được linh hồn".
Lý do sâu xa của lòng can đảm Phúc Âm mà
Chúa muốn cho các đồ đệ là quan niệm đích thực về con người, bao gồm thể xác và
linh hồn. Thể xác, vật chất có thể bị thiệt thòi, nhưng linh hồn, tinh thần của
con người sẽ không hề hấn gì nếu người đó vững lòng tin tưởng vào Chúa.
- Lần thứ ba Chúa Giêsu nhắc: "Các
con đừng sợ vì lý do các con quí trọng hơn chim sẻ nhiều. Thiên Chúa quan phòng
chăm sóc mọi sự, Ngài chăm lo cho chim sẻ ngoài đồng thì huống hồ là con người
cao trọng hơn mà không được Thiên Chúa chăm sóc cho hay sao".
Đó là ba lý do để đừng lo sợ và hãy tin
tưởng vào Thiên Chúa quan phòng. Ý thức mình được Thiên Chúa yêu thương chăm
sóc, người đồ đệ sẽ nhất quyết dấn thân nhiều hơn, dấn thân làm chứng cho Chúa.
"Ai nhìn nhận Thầy trước mặt mọi
người, thì Thầy cũng nhìn nhận người ấy trước mặt Cha Thầy ở trên trời".
Đó là những lời dạy của Chúa Giêsu cho những đồ đệ đầu tiên ngày xưa, những vẫn
luôn còn giá trị cho những đồ đệ của Chúa ngày hôm nay. Đừng sợ gian nan thử
thách để theo Chúa, đó là sự can đảm của người Kitô qua mọi thời đại.
Lạy Chúa,
Xin giúp con mở rộng mọi cửa nẻo tâm hồn
để đón nhận Chúa đến sống với chúng con, để ban sức mạnh cho chúng con. Xin vì
công nghiệp các thánh Tử Đạo Việt Nam, xin Chúa ban cho mỗi người chúng con
được trở thành những chứng nhân trung thành của Chúa trong mọi hoàn cảnh.
16. Can đảm nói không với
tội lỗi – Lc 20, 27-38
(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Trong thời kỳ bách hại đạo Công giáo tại
Việt Nam, một trong những thử thách mà các kitô hữu bị bắt bớ phải trải qua là
bước qua thập giá. Quan quân thời đó thường đặt một cây thập giá dưới đất rồi
bắt các kitô hữu bước qua. Ai không bước qua thì phải chịu đủ mọi cực hình. Còn
ai chấp nhận bước qua thì được thoát cảnh ngục tù, được trả lại những tài sản
bị tịch thu, được ban thưởng bỗng lộc, được sống đời tự do, được đoàn tụ với
gia đình.
Nói không trước những lời dụ dỗ và thúc
ép
Vậy mà các bậc cha ông tử đạo của chúng
ta ngày trước đã can đảm khước từ tất cả những hứa hẹn hấp dẫn đó, và đã kiên
quyết nói không: Không bước qua thập giá, không bỏ đạo, không chối Chúa, không
từ bỏ niềm tin.
Cũng có những vị được quan quân khuyến
dụ hãy giả vờ bước qua thập giá để cho quan có cớ mà tha, còn sau đó về nhà thì
muốn sao tuỳ ý; nhưng các thánh tử đạo vẫn không chấp nhận một thoả hiệp như
thế. Các ngài vẫn khẳng khái nói không. Không bước qua thập giá, không bỏ đạo,
không chối Chúa.
Nói không trước những cực hình dã man và
khủng khiếp nhất
Để uy hiếp các kitô-hữu và ép buộc các
ngài bỏ đạo, ngoài những lời thuyết phục và dụ dỗ, vua quan ngày xưa còn áp đặt
những cực hình man rợ và hết sức khủng khiếp để uy hiếp các ngài: bắt mang gông
cùm nặng nề, bị giam nhốt trong ngục tối với rắn rết, muỗi mòng ghê sợ, chịu thiêu
đốt, chịu thắt cổ, chịu chém đầu, chịu phanh thây, chịu án lăng trì (tức bị
chặt tay, chặt chân trước rồi mới chém đầu sau), và khủng khiếp hơn cả là án bá
đao như quan quân đã bắt cha Marchand Du phải chịu: chịu xẻo từng miếng thịt
theo tiếng trống, cho đủ trăm miếng rồi mới chém đầu, moi ruột moi gan...
Dù vậy, các thánh tử đạo đã kiên quyết
nói không: không chối Chúa, không bỏ đạo cho dù phải đổ máu, phải chịu xẻ thịt
phanh thây, phải hy sinh mạng sống mình.
Nói không với tội lỗi
Ngày hôm nay, không ai dùng bạo lực,
dùng những cực hình man rợ bắt chúng ta bỏ đạo hay chối Chúa như các thánh tử
đạo ngày xưa. Vì thế, chúng ta không cần nói không trước những hăm doạ, đòn vọt
hay án chết như các ngài.
Nhưng chúng ta cũng phải đương đầu với
những thách thức mới. Đó là những cám dỗ, những lôi cuốn của tội lỗi làm chúng
ta đi trệch con đường của Chúa Giêsu, đi lạc ra khỏi đạo lý của Người.
Noi gương các anh hùng tử đạo Việt Nam,
chúng ta hãy can đảm nói không với các tệ nạn xã hội, với các thói hư tật xấu,
với những lời quyến rũ của bạn bè xấu...
Muốn nâng lên được những tạ nặng, các
lực sĩ cử tạ phải tập nâng những tạ nhẹ trước. Muốn giải được những bài toán
khó, các học sinh phải tập làm những bài toán dễ trước. Những lực sĩ muốn nhảy
thật cao thì trước tiên phải tập băng mình qua những mức thấp trước.
Tương tự như thế, để có thể nói không
trước những cám dỗ lớn lao sẽ đến trong cuộc đời, trước những cái ác, cái xấu
lôi kéo quyến rũ chúng ta nay mai, chúng ta phải tập nói không với các cám dỗ
nho nhỏ xảy ra hằng ngày trước.
Nguyện xin các anh hùng tử đạo Việt Nam
cầu bầu cùng Chúa cho chúng ta, để chúng ta luôn biết noi gương các ngài, anh
dũng nói không với tội lỗi và các cơn cám dỗ, cho dù phải chịu mất mát thua
thiệt trong cuộc sống đời nầy, để mai sau xứng đáng được lãnh vòng hoa chiến
thắng và chung hưởng vinh quang với các ngài trên thiên quốc.
17. Tử đạo hay sống đạo?
Nếu như anh chị chúng ta là những người
giàu có và thành công trên đường đời, hẳn chúng ta sẽ lấy làm hãnh diện. Nếu cha
mẹ chúng ta là những người tốt lành và thánh thiện, hẳn chúng ta cũng sẽ rất
lấy làm hãnh diện. Cũng thế, hôm nay khi mừng kính các thánh Tử Đạo Việt Nam,
chúng ta càng phải hãnh diện hơn nữa vì các ngài những bậc cha ông của chúng ta
đã lấy mạng sống cùng với những giọt máu đào để làm chứng cho Chúa.
Thực vậy, Giáo Hội Việt Nam đã góp phần
vào tiến trình chung của Hội Thánh Công giáo những trang sử hào hùng và dũng
cảm.
Bên Âu Châu, thời kỳ đen tốt nhất Giáo
Hội đã phải trải qua chính là thời kỳ Giáo Hội còn phôi thai, trải dài từ cuối
thế kỷ thứ nhất đến đầu thế kỷ thứ tư, từ triều Nêron đến triều Maximinus. Suốt
trong khoảng thời gian này, Giáo Hội đã bị bắt bớ và cấm cách. Biết bao nhiêu
người đã chết hay đã ngã gục trên pháp trường. Những người muốn sống sót đều
phải chui rúc dưới những hang, được gọi là hang toại đạo., hiện nay vẫn còn tìm
thấy tại Roma. Các sử gia đã gọi đó là thời kỳ Giáo Hội sống dưới hầm. Nhưng
sau cùng, Giáo Hội đã chiến thắng với biến cố hoàng đế Constantinô trở lại và
ngọn cờ thập giá được tung bay trên toàn đế quốc La mã.
Nếu so sánh, chúng ta thấy Giáo Hội Việt
Nam cũng có những điểm thật giống với Giáo Hội Rôma. Đó là ngay sau khi hạt
giống Tin mừng được gieo vãi trên đất nước này, thì lập tức gông bão đã nổi
lên. Từ thời vua Lê chúa Trịnh cho tới những triều đại nhà Nguyễn, trải dài gần
ba trăm năm. Trong suốt thời gian này, biết bao nhiêu người đã bị nhà tan cửa
nát, phải di tản vào những nơi rừng thiêng nước độc, như các giáo dân vùng La
Vang, Quảng Trị. Biết bao nhiêu người đã phải chịu những cực hình khủng khiếp.
Trong số đó, có 117 vị đã được nâng lên hàng hiểm thánh. Ai cũng tưởng rằng
ngọn lửa Phúc âm sẽ bị dập tắt. Thế nhưng, máu các thánh tử đạo là hạt giống
nảy sinh các tín hữu. Vì thế, Giáo Hội Việt Nam đã lớn lên và trưởng thành trên
nền móng vững chắc ấy, xứng đáng được gọi là trưởng nữ của các Giáo Hội tại Á
châu.
Tuy nhiên, hãnh diện mà thôi chưa đủ,
chúng ta còn phải noi gương bắt chước các ngài, bởi vì con nhà tông không giống
lông cũng giống cánh. Đừng vì một con sâu mà làm rầu nồi canh, đừng vì cuộc
sống tội lỗi của chúng ta mà làm nhơ bẩn khuôn mặt Giáo Hội Việt Nam. Hãy sống
thế nào để xứng đáng là con cháu của những bậc anh hùng tử đạo.
Hồi còn bé, tôi rất thích đọc hạnh các
thánh tử đạo và thầm mong một ngày nào đó, tôi cũng đưa cổ cho lý hình chém một
nhát và thế là nghiễm nhiên trở thành thánh tử đạo. Thế nhưng, lớn lên tôi mới
nghiệm ra rằng: mơ ước như vậy chỉ là một sự hão huyền, bởi vì không phải thời
buổi nào cũng có những cấm cách. Hơn thế nữa, hành động chịu chết vì đạo là một
hành động cao cả và tuyệt vời nhất, như lời Chúa Giêsu đã xác quyết:
- Không ai yêu hơn người hiến mạng sống
mình vì bạn hữu.
Hành động cao cả và tuyệt vời này phải
là kết quả của những tháng ngày sống niềm tin yêu và thấm nhuần đạo đức. Không
phải một sớm một chiều mà một thằng quỷ có thể trở nên một vị thánh. Không phải
hễ có bắt bớ là mọi người đều có thể tử đạo, bởi vì sống sao chết vậy, cây xiêu
chiều nào sẽ đổ theo chiều ấy.
Kinh nghiệm cho hay mổi khi có những khó
khăn xảy ra, thì rất nhiều kẻ đã trở cờ, chối bỏ Chúa. Họ chối bỏ Chúa chỉ vì
chén cơm manh áo, họ chối bỏ Chúa chỉ vì một chút địa vị xã hội, họ chối bỏ
Chúa chỉ vì muốn chạy theo những dục vọng thấp hèn. Thế nhưng, lý do chính yếu,
là như phần chìm của tảng băng, đó là họ đã không thực sự sống đạo, đã không
thực sự sống niềm tin của mình. Cũng giống như khi xây nhà, nếu không đổ nền đổ
móng cho vững chắc, thì chẳng bao lâu căn nhà sẽ bị sụp đổ.
Vì thế, chúng ta nên hiểu tử đạo theo
một nghĩa rộng, đó là làm chứng cho Chúa. Chúng ta có thể làm chứng cho Chúa
bằng hành động, bằng việc làm, bằng chính cuộc sống đạo đức và thánh thiện, bác
ái và yêu thương của chúng ta. Đó chính là cái nền tảng vũng chắc để xây dựng
tòa nhà đức tin. Chính trong ý nghĩa này mà Mẹ Maria đã được gọi là Nữ vương
các thánh tử đạo, mặc dù Mẹ đã không đổ máu để làm chứng cho đức tin của mình.
Hãy tập sống tinh thần tử đạo bằng cách
thực hiện những điều tốt lành, bởi vì mỗi khi hành động như vậy là chúng ta đã
tuyên xưng niềm tin của chúng ta. Hơn thế nữa, mỗi hy sinh chúng ta chịu trong
khi phục vụ và giúp đỡ người khác sẽ là như một giọt máu tử đạo chúng ta đổ ra
từng giây và từng phút để làm chứng cho Chúa.
Hãy sống đạo, sống niềm tin của mình.
Nếu cha ông chúng ta đã tuyên xưng niềm tin bằng cái chết anh hùng, thì khi
sống đạo, chúng ta cũng tuyên xưng niềm tin của chúng ta bằng chính cuộc sống
ngập tràn tình bác ái yêu thương của chúng ta.
18. Suy niệm của Lm. Phạm
Thanh Liêm.
Ngày 24 tháng 11, là ngày lễ thánh linh
mục tử đạo Anrê Dũng Lạc. Giáo Hội Việt Nam đã xin Giáo Hội hoàn vũ để mừng lễ
Các Thánh Tử Đạo Việt Nam vào ngày này, và nhận Các Thánh Tử Đạo Việt Nam là
bổn mạng Giáo Hội Việt Nam. Vì là bổn mạng của Giáo Hội Việt Nam, nên lễ Các
Thánh Tử Đạo Việt Nam là lễ trọng và được dời vào ngày Chúa Nhật. Chúa Nhật
cuối cùng của năm phụng vụ là lễ Kitô Vua, nên lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam
được mừng vào Chúa Nhật trước lễ Kitô Vua.
Các thánh tử đạo là những người dám chết
để làm chứng Thiên Chúa yêu thương con người. Các ngài là dấu chỉ cho thấy
Thiên Chúa đang làm những điều kỳ diệu nơi những con người yếu đuối mỏng dòn.
Đời sống trong sáng đáng quý như châu
ngọc
Bài đọc thứ nhất trong sách Maccabêô
quyển thứ hai, thuật chuyện một người đáng kính, từ chối không ăn thịt heo cho
dù phải chết. Ông được nhiều người quý mến nên đổi thịt heo thành thịt mà luật
cho phép ăn, rồi đề nghị ông giả vờ ăn thịt heo để thoát chết. Êlêazarô từ chối
mánh khóe để được sống này, vì khi làm như vậy gây gương xấu cho thế hệ tương
lai. Thế hệ trẻ đâu biết đó không phải là thịt heo, nên tưởng rằng Êlêazarô
tham sống sợ chết mà vi phạm luật Chúa.
Thái độ sống của Êlêazarô rất trong
sáng, rất tự do ngay cả đối với cái chết. Ông cũng là người cho thấy tình yêu
và trách nhiệm đối với thế hệ tương lai. Nơi con người mỏng dòn, Thiên Chúa đã
và đang làm những điều tuyệt vời. Các thánh tử đạo Việt Nam cũng là những người
sống thái độ tự do và yêu mến như vậy. Các ngài là những người cha, người mẹ,
người chồng, người vợ, người con hiếu thảo và tốt lành; tuy vậy các ngài sẵn
sàng chấp nhận cái chết vì yêu mến Thiên Chúa, yêu mến con người và những người
thân.
Cái chết của các ngài, làm rạng danh gia
tộc, giúp cho những người con người chồng người vợ nhìn lên tấm gương của những
bậc cha anh thân yêu mà phấn đấu sống cho nên người và nên người con ngoan của
Chúa. Các thánh tử đạo là những người ảnh hưởng rất lớn trên thế hệ tương lai
mà nhiều người không thấy rõ điều này, khi cho rằng các ngài chết thì đâu có
dạy dỗ hoặc ảnh hưởng gì được trên ai. Nơi các anh hùng tử đạo, lời dạy không
bằng ngôn từ nhưng bằng chính cuộc sống. Và chúng ta biết, lời bằng hành động
hay cuộc sống thì có sức thuyết phục hơn lời nói nhiều.
Không có gì tách tôi ra khỏi tình yêu
của Thiên Chúa
Bài đọc thứ hai trong thư của thánh Phaolô
gởi tín hữu Roma, cho thấy xác tín của thánh nhân. Thiên Chúa yêu thương chúng
ta vô cùng, và không có gì có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa
trong Đức Yêsu. Bằng cớ cho thấy Thiên Chúa yêu thương chúng ta vô cùng, đó là
Ngài đã ban chính Con Một Ngài cho chúng ta. Nếu Thiên Chúa ban chính Con Một
Ngài cho chúng ta, thì Ngài còn tiếc gì với chúng ta nữa?
Không có gì tách chúng ta ra khỏi tình
yêu của Thiên Chúa. Không phải vì chúng ta yêu Thiên Chúa đến độ không có gì
tách chúng ta khỏi tình yêu của Thiên Chúa, nhưng vì Thiên Chúa yêu thương
chúng ta, Thiên Chúa giữ chúng ta trong tình yêu của Ngài. Nếu chính Thiên Chúa
giữ, thì ai giựt chúng ta ra khỏi tay Thiên Chúa được? Nếu chỉ là bản thân con
người ghì chặt Thiên Chúa, thì người mạnh hơn có thể giựt họ ra được, nhưng đây
chính Thiên Chúa giữ. “Không ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên
Chúa trong Đức Yêsu Kitô”. Không ai, cho dù đó là thiên thần hay quỷ dữ, bất cứ
quyền lực nào cũng không thể làm điều này, vì Thiên Chúa là Đấng vô cùng mạnh.
Vì tin vào Thiên Chúa yêu thương tôi,
nên tôi vững dạ an tâm, nên tôi ung dung thư thái bất chấp tất cả. “Nguồn ánh
sáng và ơn cứu độ của tôi, chính là Chúa”. “Đức Chúa là ánh sáng và Đấng cứu độ
tôi, tôi còn sợ chi ai, tôi còn kinh khiếp chi ai”! Chính Thiên Chúa làm cho
các thánh tử đạo trung thành với Ngài, cho dù “kiếm sắc, đầu rơi, gươm đao, xá
gì”. Thiên Chúa là Đấng trung thành, Ngài sẽ hoàn tất những gì Ngài đã khởi sự
nơi chúng ta.
Vác thập giá hằng ngày mà theo Ta
Đức Yêsu nói trong tin mừng theo thánh
Luca: “ai muốn theo Ta, phải bỏ mình, vác thập giá hằng ngày mà theo Ta”. Theo
Đức Yêsu, là một thái độ sống liên lỉ chứ không chỉ là một hành vi riêng lẻ một
lần cho tất cả. Để có thể có hành vi dám chết cho tình yêu, các anh hùng tử đạo
đã luôn chết cho chính mình trong cuộc sống hằng ngày để sống cho Chúa trong
từng hành vi sống của mình.
“Được lời lãi cả thế gian, mà phải mất
mạng sống mình, thì ích gì?” Điều quan trọng là phải sống. Nhưng nếu chỉ sống
một trăm năm, mà phải khổ nhục vĩnh viễn thì ích lợi gì? Sự khôn ngoan đi kèm
với hành vi anh hùng nơi các thánh tử đạo. Các thánh tử đạo, là những người
khôn ngoan, anh hùng và đức hạnh. Các ngài là những người dám sống và dám chết
cho tình yêu. Các ngài chọn đời sống vĩnh cửu hơn đời sống chóng qua này.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Tại sao các vị tử đạo dám chết? Những
người thân của họ được gì?
2. Có người nói: “sống tốt cuộc sống
này, đã là tử đạo rồi”. Bạn có đồng ý không? Tại sao?
3. Để giúp nhau hiểu thêm về lịch sử
Giáo Hội Việt Nam và gương anh dũng của các bậc cha anh, xin bạn kể tiểu sử một
vị thánh tử đạo Việt Nam!
19. Những Đấng Bậc Anh
Hùng
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)
Không kể 117 vị tử đạo tại Việt Nam được
phong thánh năm 1988 và Anrê Phú Yên được phong chân phước năm 1999, còn hơn
một trăm ngàn vị đã anh dũng dâng hiến đời mình, chấp nhận cái chết để làm
chứng lòng trung thành và gắn bó với Đức Yêsu, Đấng yêu thương con người dầu
phải chết.
Họ là ai?
Họ là những người cha người mẹ, họ là
những người con, họ là những người chồng người vợ, họ là thanh niên thanh nữ,
là tráng niên, là bô lão, là chủng sinh, là binh sĩ, là quan là dân, là dì
phước là linh mục. Họ là những bậc tiền bối của dân con Việt Nam hiện nay. Họ
là những người “dường như” không sợ chết. Họ chấp nhận gông cùm tra tấn, chấp
nhận đòn vọt, đói khát, nắng mưa, bệnh tật, và sẵn sàng chấp nhận cái chết.
Họ là ai? Phải chăng họ là những người
điên nên không sợ chết? Phải chăng họ là những người không còn biết trách nhiệm
làm chồng làm cha làm con làm mẹ làm vợ làm dâu? Phải chăng họ không biết trách
nhiệm với vợ dại con thơ? Phải chăng họ không còn ý thức bổn phận làm con phải
sống để báo hiếu cha mẹ già yếu cần nương nhờ nơi họ? Phải chăng họ không còn
rung động trước tình cảm bao người thân dành cho họ, mà “ngoan cố” không chịu
bỏ đạo để phải chết?
Không! Họ là những người cha người chồng
người vợ, vô cùng thương con thương vợ thương chồng. Họ là những người con rất
có hiếu và rất ao ước được sống để phụng dưỡng báo hiếu cha già mẹ yếu. Họ là
những người thông minh có thể làm quan, là những “anh hùng” sẵn sàng hiến mạng
cho quê hương tổ quốc. Họ là những người bình thường chứ không phải là những
người điên, họ rất nặng “tình người” chứ không phải là những người “vô cảm”. Họ
chết vì người ta muốn giết họ, chứ không phải tự họ muốn chết; tuy vậy họ sẵn
sàng đón nhận cái chết chứ không thể chối bỏ Thiên Chúa.
Tại sao họ kiên cường và anh dũng như
vậy?
Họ là những người rất bình thường, nhưng
Thiên Chúa đã làm những điều kỳ diệu nơi những con người yếu đuối mỏng manh.
Ai không sợ chết? Ai không sợ đòn vọt,
tù đầy, gông cùm xiềng xích? Nhưng những bậc tử đạo “dường như” không sợ, vì có
một giá trị nào đó cao hơn, một cái gì đó quý hơn mà cho dù tình yêu gia đình,
cha mẹ, vợ con, và ngay cả mạng sống cũng không đánh đổi được. Với họ, Thiên
Chúa là nhất, Thiên Chúa trên tất cả, trên tình yêu gia đình, trên tương quan
ruột thịt, và trên cả mạng sống mình.
Qua các bậc anh hùng tử đạo, người ta
đọc thấy không phải “con người” anh hùng, nhưng chính “Thiên Chúa” đang thực
hiện những điều kỳ diệu nơi những con người đơn sơ mong manh chất phác, làm họ
như những “bức tường bằng sắt, như những bức vách bằng đồng” và kiên vững không
gì khuất phục được. Người ta có thể hủy diệt mạng sống các ngài, có thể giết các
ngài, có thể nghiền nát xương thịt các ngài, nhưng không thể bắt các ngài làm
theo ý họ. Thiên Chúa vô hình đang hiện diện qua thực tại hữu hình. Thiên Chúa
hiện diện đó, rất rõ, dù người ta không nhìn thấy Ngài bằng mắt trần.
Sống cho đúng là con cháu của những bậc
anh hùng
Chúng ta là con dân đất Việt, là con
cháu của các đấng bậc anh hùng. Phải sống sao để “con nhà tông, không giống
lông cũng giống cánh”. Xin cho chúng ta có tình yêu đối với Thiên Chúa, đối với
Đức Yêsu, và sẵn sàng hy sinh tất cả vì Thiên Chúa.
Ngày nay người ta không còn nhiều dịp để
“tử đạo” như ngày xưa, nhưng ngày nay người ta vẫn còn phải chọn giữa Thiên
Chúa và tiền bạc danh vọng chức quyền; người ta vẫn phải chọn ưu tiên tương
quan với Chúa trên những tương quan khác v.v..Ngày xưa phải đổ máu để sống
đúng, để làm chứng; ngày nay không còn dịp đổ máu thể lý, nhưng để sống đúng
như những người con của Thiên Chúa, người ta vẫn phải đổ máu “vô hình”, vẫn
phải hy sinh, phải chết “chính con người của mình” thì mới có thể sống trọn vẹn
cho Thiên Chúa được.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
(Nên hát “Đây bài ca ngàn trùng” trước
khi chia sẻ)
1. “Ngày nay tử đạo không đổ máu”, bạn
hiểu sao về câu này?
2. Với bạn, đâu là khó khăn nhất của đời
sống kitô-hữu (đòi bạn phải hy sinh)?
3. Bạn biết gì về các thánh hoặc chân
phước tử đạo Việt Nam? (Kể tiểu sử một vị, hoặc điểm nào đó mà bạn thán phục
của một trong các vị mà bạn biết).
20. Anh em làm chứng cho
Thầy.
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Trong số 117 vị Tử Đạo Việt Nam, được
phong thánh năm 1988, có một phụ nữ duy nhất, mẹ của 6 người con. Đó là bà Anê
Lê Thị Thành, còn gọi là bà Đê.
Trước khi là một anh hùng tử đạo, bà đã
là một người mẹ hiền gương mẫu. "Thân mẫu chúng tôi rất chăm lo việc giáo
dục các con. Chính người dạy chúng tôi đọc chữ và học giáo lý, sau lại dạy cách
dự thánh lễ và xưng tội rước lễ." Đó là lời khai của cô con gái út trước
giáo quyền.
Nhà bà Đê là nơi các linh mục trú ẩn.
Buổi sáng lễ Phục Sinh năm 1861, quan Tổng Đốc Nam Định cho quân bao vây làng
của bà. Bà Đê bị bắt lúc đã 60 tuổi. Bà bị đánh đập tra tấn, bị ép phải chối
đạo, bị lôi qua Thánh Giá, bị bỏ rắn độc vào người. Khi con gái đến thăm bà
trong nhà giam, đau đớn vì thấy quần áo mẹ loang đầy vết máu, bà đã an ủi con
với một niềm lạc quan lạ lùng: "Con đừng khóc, mẹ mặc áo hoa hồng đấy, mẹ
vui lòng chịu khổ vì Chúa Giêsu, sao con lại khóc?" Sau ba tháng chịu đủ
mọi cực hình, người phụ nữ ấy đã hiến đời mình cho Chúa.
Cuộc đời của vị thánh nữ tiên khởi của
Việt Nam là một sức nâng đỡ lớn cho chúng ta. Thiên Chúa đã làm điều phi thường
nơi một người phụ nữ già nua, yếu đuối. Quan "Hùm Xám" tỉnh Nam Định
cũng phải bó tay trước sự yếu đuối kiên vững của bà.
Khôn ngoan và đơn sơ, can đảm chịu đau
khổ, bà thánh Đê đã phó mặc cho Chúa đời mình. Bà chẳng lo phải nói gì, phải
làm gì trước tòa án, vì sức mạnh của Thánh Thần ở với bà.
Hội Thánh thời nào cũng cần những người
dám sống vì đức tin, dám làm chứng cho Chúa trước mặt người đời.
Sống đức tin là một loại tử đạo không đổ
máu, không đòi hy sinh mạng sống, nhưng lại đòi hy sinh cả tương lai vững vàng
ổn định.
Mỗi ngày, chúng ta thường bị đặt trước
những chọn lựa, trước thập giá của Đức Giêsu, y hệt như các vị tử đạo ngày xưa.
Có khi chúng ta đã bước qua thập giá,
khi chọn mình, đã chối Chúa bằng chính cuộc sống.
Càng có tự do, ta lại càng dễ sa sút đức
tin. Tiền bạc, tiện nghi, khoái lạc vẫn là những thụ tạo gây ra những cuộc bách
hại êm ả và khủng khiếp mà cuối cùng chúng ta cũng phải đối diện.
Ước gì chúng ta không để mất đức tin
được mua bằng giá máu của bao vị tử đạo, và ước gì chúng ta không ngừng chuyển
giao đức tin ấy cho hơn 70 triệu đồng bào trên quê hương.
Gợi Ý Chia Sẻ
Các vị tử đạo làm chứng cho Chúa bằng
cách hy sinh tính mạng. Theo ý bạn, trong thời đại đất nước mở cửa, đâu là cách
thức làm chứng của người kitô hữu? (làm chứng ở trường, ở nơi làm việc, ở các
chỗ giải trí vui chơi...)
Theo ý bạn, xã hội hôm nay dễ nhạy cảm
với cách làm chứng nào của người kitô hữu? Phải sống như thê nào để người ta dễ
có cảm tình với Đức Giêsu?
Cầu Nguyện
Lạy Các Thánh Tử Đạo Việt Nam, các ngài
đã dám sống đến cùng ơn gọi Kitô hữu trong một hoàn cảnh khó khăn nguy hiểm. Sự
hy sinh của các ngài cho thấy tình yêu mạnh hơn sự chết và chết là cửa mở vào
cõi sống bất diệt. Dù mang phận người yếu đuối, nhưng nhờ ơn Chúa đỡ nâng, các
ngài đã chiến thắng khải hoàn. Xin cầu cho chúng con là con cháu các ngài biết
can trường sống đức tin của bậc cha anh trong một thế giới vắng bóng Thiên
Chúa, biết nhiệt thành làm chứng về tình yêu bằng một đời hiến thân phục vụ.
Ước gì ngọn lửa đức tin mà các ngài đã thắp lên bằng cuộc sống và cái chết,
được bừng tỏa trên Tổ quốc Việt Nam. Ước gì máu thắm của các ngài thấm vào mảnh
đất quê hương để công cuộc truyền giáo sinh nhiều hoa trái.
21. Các Thánh Tử Đạo Việt Nam – Lc. 9, 23-26
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)
Tử đạo, là từ ngữ dịch của chữ martuV,
marturew (martus, martureô), có nghĩa là chứng nhân, làm chứng. Các vị tử đạo
là những chứng nhân, những người đã dùng chính mạng sống của mình để làm chứng
cho điều mình tin, điều mình biết và nói. Trong cuộc sống, người ta có thể chỉ
trời chỉ đất để thề điều người ta nói là sự thật; nhưng lời chứng đáng tin nhất
là lời chứng của kẻ dám lấy chính mạng sống của mình làm bảo đảm.
I. Hiện hữu một Thiên Chúa tình yêu
Các vị tử đạo làm chứng cho điều gì? Các
vị tử đạo Việt Nam là những người bị buộc phải bỏ đạo nếu không họ sẽ bị tra
tấn và bị giết. Những người muốn các ngài bỏ đạo không có cùng niềm tin với các
ngài; những người này không biết như các ngài đã biết. Không chắc rằng những
người có quyền thế này không tin có một Đấng tối cao vượt trên tất cả mà tất cả
mọi loài phải kính tôn thờ phượng. Có lẽ những người có quyền thế này hiểu lầm,
cho rằng các ngài là những người không tốt, cho rằng các ngài bị mê hoặc để tin
theo một tôn giáo dạy điều xằng bậy, hoặc một tổ chức gây phương hại đến sự tồn
vong của đất nước.
Khi trung thành với chính mình, trung
thành với đức tin, trung thành với Thiên Chúa mà các ngài tôn thờ, các vị tử
đạo cho tất cả mọi người, kể cả những người bắt bớ các ngài thấy rằng, có một
điều gì quý trọng hơn cả mạng sống. Có một thực tại nào đó mà các ngài sẵn sàng
chết vì thực tại đó, có một Đấng nào đó mà các ngài đã cảm nghiệm, đã biết một
cách thâm sâu và có tương quan thân thiết; vì nếu không như vậy thì tại sao các
ngài đã dám bỏ cả mạng sống mình, bỏ tất cả kể cả những người thân yêu vì Đấng
đó!
Đành rằng có nhiều người chết vì ý thức
hệ, nhưng những người chết vì đạo là những người chết cho tình yêu, không thù
hận những người giết hại mình, ngược lại, các ngài là những kẻ cầu nguyện và
muốn điều tốt lành cho mọi người, ngay cả những kẻ hãm hại mình. Chính tương
quan với Đấng Siêu Việt đã làm các ngài có cách cư xử khác với những người chết
vì ý thức hệ hay tham vọng trần gian. Các vị tử đạo làm chứng hiện hữu một Đấng
Thiên Chúa yêu thương, và các ngài sẵn sàng đánh đổi tất cả để được chia sẻ sự
sống với Người. Thiên Chúa đang mời gọi các ngài bước lên, chấp nhận tất cả vì
tình yêu, vì sự thật, vì Thiên Chúa tình yêu.
II. Niềm vui và bình an của các chứng
nhân anh dũng
Các chứng nhân đã dám hy sinh chính mạng
sống để sống trung thực với chính mình, và qua đó cho con người của mọi thời
đại thấy rằng, có một điều gì đó siêu vượt và đặc biệt, đã làm các ngài dám hiến
chính mạng sống mình. Đã là người, ai không sợ đau đớn và gian khổ, ai không sợ
chết, ai không muốn được sống gần những người thân yêu của mình, nhưng các ngài
đã vượt lên trên những gì tự nhiên đó, các ngài đã chấp nhận bị hành hạ và ngay
cả cái chết. Nơi các ngài, người ta còn nhận ra có một sự an bình nào đó mà
những người ghét các ngài không thể làm mất được.
Đứng trước các ngài, những người quyền
thế hành hạ các ngài vẫn như là những kẻ thua cuộc. Trước một phụ nữ chân yếu
tay mềm như thánh Anê Lê Thị Thành, các quan quyền với những tra tấn vẫn không
thể thắng được bà. Qua bà, người ta nhận thấy một sức mạnh siêu vời tiềm ẩn mà
thế gian không thể thắng được. Người ta có thể lấy mạng sống của bà, nhưng
người ta vẫn là kẻ thua. Những người bị giết chết lại là những người bất khả
bại. Dưới một khía cạnh nào đó, tra tấn hành hạ và ngay cả giết người, là dấu
chỉ bất lực của sự dữ và những người theo sự dữ.
Giữa những đau đớn của thân xác mà con
người không thể tránh được, người ta vẫn nhận ra nơi các chứng nhân tử đạo một
niềm tin niềm vui và một sức mạnh vô hình. Ngay lúc chết, các chứng nhân mục
kích tường thuật, các ngài vẫn luôn kêu tên Yêsu, điều này cho thấy tình yêu
của các ngài đối với một Đấng đặc biệt, Đấng mà vì Ngài mà các chứng nhân tử
đạo đã dám hiến chính mạng sống, và sẵn sàng mất tất cả vì Ngài. Niềm vui, bình
an và khao khát siêu nhiên đã làm các ngài chiến thắng tất cả. Ngay cả giữa
những đau khổ thể xác, các ngài vẫn cho thấy có niềm tin niềm vui và hy vọng
tràn ngập lòng các ngài.
III. Cuộc chiến vẫn tồn tại mỗi ngày nơi
mỗi người
Ngày nay không còn nhiều những cơ hội
thách đố tín hữu phải chết vì đức tin, nhưng con người của mọi thời đại đều
phải đối diện với những cám dỗ hướng về những thực tại trần thế, khuynh chiều
chỉ muốn sống riêng cho mình bằng cách thỏa mãn quyền lợi và ham muốn thể xác.
Con người phải chọn lựa sống tốt lành hay vi phạm quyền lợi và nhân phẩm của
người khác, chọn tôn trọng tha nhân hay thỏa mãn xu hướng ích kỷ của mình.
Ngày nay, thân xác và những khuynh chiều
của thân xác vẫn luôn hiện diện với con người: bao nhiêu người đã chọn vật chất
trần gian như tiền bạc danh vọng, bao nhiêu người đã chọn đề cao chính mình và
những quyền lợi của họ cho dù chà đạp nhân phẩm. Ngày nay, con người vẫn được
mời gọi để vươn lên từng ngày: con người được mời gọi tôn trọng phẩm giá của
tha nhân cũng như của chính mình; con người được mời gọi tôn trọng quyền lợi
của tha nhân được diễn tả qua việc tôn trọng công bình; con người được mời gọi
sống ơn gọi làm người, ơn gọi yêu thương tha nhân như chính mình, và hơn nữa,
yêu thương tha nhân như chính Đức Yêsu đã yêu thương.
Vượt qua chính mình với những khuynh
chiều của thể xác, là một hành vi cao thượng. Con người phải chết mỗi ngày cho
những khuynh chiều vật chất nơi mình. Làm như vậy, con người cũng trở thành
chứng nhân “tử đạo”: làm chứng có một đời sống mai hậu, hiện hữu một
Tuyệt Đối đằng sau những thực tại hữu hình mau qua này. Con người được mời gọi
làm cho thế giới này tươi đẹp hơn bằng những hành vi yêu thương tha nhân đồng
loại. Kitô hữu Việt Nam hôm nay được mời gọi sống sao cho xứng với các bậc cha
anh, những người đã hiến thân làm chứng cho Thiên Chúa tình yêu.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Bạn có tự hào vì là người Việt Nam
không? Tại sao có? Tại sao không? (Một số người trẻ Việt Nam sinh tại ngoại
quốc có mặc cảm tự ti vì là người Việt Nam. Chỉ có một số thôi, không phải tất
cả!).
2. Bạn có tự hào về các bậc cha anh tử
đạo không? Bạn tự hào vì điểm gì?
22. Nhớ Ơn Các Thánh Tử
Đạo Việt Nam
(Suy niệm của Nguyễn Minh Triệu)
Hôm nay Giáo Hội Việt Nam long trọng
mừng kính các thánh tử đạo Việt Nam, những người anh hùng trong trái tim của
mỗi tín hữu đất Việt.
Đây là một dịp để chúng ta cùng ôn lại
truyền thống hào hùng của Giáo hội Việt Nam, và cũng là một cơ hội để chúng ta
làm mới lại đức tin của mình ngang qua mẫu gương của các ngài. Có lẽ, chúng ta
không bao giờ kín múc hết nguồn suối ân huệ mà các thánh tử đạo Việt nam để
lại. Qua đời sống và cái chết của các ngài, Giáo hội Việt Nam lãnh nhận được
một kho tàng vô giá.
Trước hết, đời sống và cái chết của các
vị tử đạo là một lời chứng hùng hồn nhất cho đức tin của chúng ta. Trong bối
cảnh xã hội mà chúng ta đang sống, một xã hội bị ảnh hưởng nặng nề bởi trào lưu
tục hoá và chủ nghĩa vô thần, niềm tin của chúng ta không ngừng bị đặt lại,
chúng ta phải minh chứng cho niềm tin của mình. Trong kho tàng của Giáo hội,
chúng ta có nhiều chứng cớ để minh chứng cho niềm tin của mình. Tuy nhiên,
ngang qua đời sống và cái chết của các vị tử đạo, chúng ta có một lời chứng
không thể hùng hồn hơn. Vì khi đón nhận hồng phúc tử đạo, các ngài đã dùng
chính mạng sống mình để làm chứng cho đức tin. Mạng sống vốn là điều quý giá
nhất của con người, vậy tại sao các vị lại chấp nhận từ bỏ nó? Ắt hẳn các vị ấy
đã khám phá ra một kho tàng quý giá gấp bội, một kho tàng để các vị dám từ bỏ
chính điều được xem là quý giá nhất nơi con người. Hơn nữa, các ngài đã đón
nhận cái chết trong tự do, vui tươi và bình an. Các vị tử đạo của chúng ta có
tự do để chọn lựa. Thay vì chọn lựa cái chết trong đau khổ, các ngài có thể
chọn một cuộc sống yên ổn bên vợ con, gia đình.. Vâng, tử đạo tự bản chất có
nghĩa là làm chứng. Khi các thánh tử đạo đón nhận cái chết vì Đức Giê-su, đức
tin của chúng ta được minh chứng bởi một bảo chứng vô giá giúp chúng ta vững
tin trong chọn lựa của mình và cũng là một câu trả lời minh bạch nhất cho mọi
chất vấn của con người trong thời đại hôm nay.
Các Thánh tử đạo không chỉ làm chứng về
đức tin, mà còn để lại cho chúng ta một mẫu gương sống động về đời sống đạo.
Qua các ngài chúng ta học được mẫu gương yêu thương, yêu thương Thiên Chúa và
yêu thương con người. Vì yêu thương Thiên Chúa nên các ngài đã chọn cái chết
trong đau đớn thay vì được sống trong an nhàn. Các ngài không chỉ yêu thương
những người thân yêu trong gia đình và bạn hữu mà còn yêu thương và tha thứ cho
kẻ làm hại mình. Sở dĩ các ngài đã can đảm lãnh nhận cái chết vì các ngài hoàn
toàn tự do đối với thế gian, với các thế lực chính trị, trước đau khổ và thậm
chí là cái chết. Vâng, các ngài đã trở nên tự do hoàn toàn để đáp trả lại tiếng
mời gọi của Chúa. Vì tử đạo vốn là một ân phúc, nhưng để đón nhận ân phúc này,
đòi hỏi các ngài phải tự do hoàn toàn với mọi ràng buộc của thế gian. Tự do
chính là yếu tố giúp các vị sống yêu thương, tình yêu dành cho Thiên Chúa và
cho con người.
Như hạt giống gieo vào lòng đất, chết đi
và trổ sinh hoa trái, các vị anh hùng tử đạo đã chấp nhật chết đi, máu các ngài
đã thấm vào lòng Đất Việt, chắc chắn sẽ trổ sinh hoa trái. Hoa trái phát sinh
từ máu các anh hùng tử đạo chắn chắn không chỉ dừng lại ở chính các vị mà còn
được lan toả tới chúng ta là con cháu các ngài. Là những hậu duệ chúng ta chắn
chắn sẽ được hưởng ơn phúc của các ngài để lại. Nhờ máu các anh hùng tử đạo,
Giáo Hội Việt Nam vẫn tồn tại và phát triển dẫu phải chịu biết bao nhiêu khó
khăn, bao nhiêu bách hại. Dù nhiều nước Ki-tô giáo truyền thống đã bị ảnh hưởng
nặng nề bởi sự tục hoá và chủ nghĩa vô thần, Giáo Hội Công Giáo Việt Nam vẫn
giữ được truyền thống đạo đức của mình. Các nhà thờ vẫn còn đầy ắp người, vẫn
còn nhiều người muốn trở thành người công giáo. Hơn hết, Giáo Hội Việt Nam đang
được một mùa bội thu về ơn gọi, nhiều thanh niên nam nữ muốn dâng hiến cuộc đời
mình cho Chúa. Những ân huệ này có được là nhờ vào máu của các anh hùng tử đạo
đổ ra cho chúng ta. Chúng ta biết ơn các ngài, chính nhờ sự quảng đại của các
ngài, chúng đã được lãnh nhận những ân huệ lớn lao như ngày hôm nay.
23. "Đây Bài Ca Ngàn
Trùng"
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Hôm nay lễ các thánh Tử Đạo Việt Nam.
Một bầu khí đại lễ thật hào hùng. Phụng vụ trổi lên lời hoan ca chúc tụng:
"Đây bài ca ngàn trùng. Dâng về Thiên Chúa. Bài ca thắm đượm máu hồng.
Từng bao người anh dũng tiến lên hy sinh vì tình yêu".
Vâng, cuộc đời các thánh tử đạo là một
bài ca dâng về Thiên Chúa. Các ngài ca ngợi Thiên Chúa khi bình an, khi gian
nan, khi dòng đời êm trôi và cả khi sóng gió ba đào. Các ngài ca ngợi Chúa
trong bổn phận thường ngày, khi đầu hôm sớm mai nơi ruộng vườn, nơi phố xá chợ
thị. Các ngài còn ca ngợi Chúa khi đối đầu với sự bách hại vì tin mừng. Các
ngài ca ngợi Chúa trong mọi nơi, trong mọi lúc. Đỉnh cao của lời ca ngợi là bài
ca vinh thắng thắm đượm máu đào. Các ngài đã chiến thắng gian nan, cùm gông, tù
đầy. Các ngài đã vượt lên trên sự sợ hãi của đe doạ đến cả tính mạng để tôn
vinh Thiên Chúa mà các ngài tôn thờ. Các ngài đã dùng cả cuộc đời để ca ngợi
Chúa. Cho dù cuộc sống có nổi trôi, bất định, các ngài vẫn trung kiên tin thờ
Thiên Chúa.
Cuộc đời các ngài là một bài ca, thế nên
các ngài cũng đáng được ca ngợi. Ca ngợi hôm qua, hôm nay và mãi mãi. Vì chưng
các ngài là những người có phúc vì dám sống triệt để trang tin mừng yêu thương
của Chúa trong cuộc sống của mình.
Các ngài dám nói lời tha thứ ngay trong
những xúc phạm mà người đời đang tuôn đổ lên các ngài.
Các ngài đã có thể nhìn thấy hoa hồng nở
rộ ngay trong đau đớn của cực hình.
Các ngài dám đi ngược lại với thế gian,
vì phải vâng lời Thiên Chúa hơn là người ta.
Nhìn vào cuộc đời các ngài, ta thấy, đó
là một cuộc đời thật đẹp. Đẹp trong cuộc sống thường ngày luôn chu toan bổn
phận của mình, luôn sống chan hoà tình bác ái với mọi người. Như bà thánh Đê là
mẹ của sáu người con. Tất cả những người con, cô Nụ, cô Mận khi làm nhân chứng
đều nói rằng: "Mẹ tôi rất đạo đức, luôn dạy con cái ăn ngay ở lành, tối
sớm kinh nguyện...".
Đẹp trong cả những gian nan khi bị người
đời ghét bỏ, các ngài vẫn thương yêu, vẫn thứ tha, vẫn ôn hoà để làm chứng cho
lời tin mừng yêu thương, đế nỗi mà những người hành quyết các ngài vẫn cảm phục
yêu mến đức hạnh các ngài. Như trong vụ án linh mục Gioan Đạt, viên cai ngục
nói: "Tôi thấy cụ khôn ngoan đạo đức thì muốn kết nghĩa huynh đệ lắm, ngặt
vì cụ sắp bị án tử rồi. Tôi xin hứa biếu cụ một cỗ quan tài để biểu lộ lòng tôi
quý cụ".
Đẹp trong cả cái chết luôn một mực nói
lời yêu thương. Như trường hợp ông Cai Tả thì yêu thương để xứng với tình Chúa
yêu, ông thường châm chước cho những người mắc nợ và nói: "Mình quên nợ
người, Chúa quên tội mình ". Với ông Năm Quỳnh thì bác ái rõ rệt là hoa
quả của đức tin, ông từng nói với gia đình: "Bà và các con không đồng ý
cho tôi lấy của nhà để giúp người nghèo, tôi sẽ đi vay mượn hoặc làm thuê kiếm
tiền giúp đỡ họ ". Vì ông nói: "Tôi chưa thấy ai hay giúp người nghèo
khó lại túng bấn bao giờ. Kinh Thánh chẳng dạy chúng ta coi họ như chi thể của
Chúa đó sao? Chúa đã cho chúng ta sống, tất sẽ quan phòng cho ta đủ dùng".
Như vậy, tử đạo không chỉ là đổ máu. Tử
đạo là dám chết đi con người ích kỷ của mình, chết đi cho thói đời tham sân si
mù quáng. Chết đi những đam mê nhục dục để hèn. Tử đạo là dám sống vì tin mừng
mà chịu thua thiệt, chịu mất mát. Tử đạo là yêu cho đến cùng và sống trọn vẹn
những đòi hỏi của luật yêu thương.
Mừng kính các thánh tử đạo Việt Nam, xin
cho chúng ta là con cháu biết noi gương các ngài để tiếp tục là bài ca ca ngợi
Thiên Chúa. Ca ngợi Ngài bằng cả cuộc sống thắm đượm tình Chúa tình người. Ca
ngợi Ngài mọi nơi, mọi lúc và trong mọi hoàn cảnh cuộc sống. Nguyện xin các
thánh Tử đạo Việt Nam dẫn dắt chúng ta luôn bước đi trong tình yêu Chúa. Amen.
24. Sống đạo và chết vì
đạo
Theo truyện kể, thì thánh Giuse Xuyên Giám
mục địa phận Trung Đàng ngoài, đã được phúc tử vì đạo ngày 28.10.1858, ngài đã
bị xử án lăng trì, nghĩa là bị chặt chân chặt tay và bị cắt thịt ra từng mảnh.
Tương truyền rằng khi thọ án ngài đã có những lời ta thán những kẻ hành hình
ngài là độc ác. Nên vì câu nói ấy mà mãi tới ngày 29.04.1951 ngài mới được tôn
lên bậc chân phước.
Truyền thuyết trên đây có thể không đúng
với sự thật, nhưng dù sao nó cũng nhắc nhở chúng ta về điều này: Người tử đạo
không phải là một anh hùng theo kiểu các anh hùng khác của nhân loại.
Thật vậy, các vị tử đạo không phải là
những anh hùng ngã gục trên chiến trường với vũ khí trong tay, trong một cuộc
chiến chống lại quân thù. Các ngài là những con người không biết thù ghét, mà
cũng không được thù ghét bất cứ ai, trái lại luôn luôn tuân giữ mệnh lệnh Chúa
Kitô truyền là “Yêu thương kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi mình”.
Nếu các ngài có phải chiến đấu, thì đó là chiến đấu chống lại sự hèn nhát,
khiếp sợ của chính mình.
Vì thế, nếu có một người nào bị giết,
tuy trên danh nghĩa vì đạo, nhưng lại căm thù những kẻ bách hại mình, hay kiêu
hãnh tự phụ vì tính anh hùng của mình, thì người đó không thể nào là thánh
được, mà cùng lắm chỉ có thể được coi như một anh hùng thôi. Cũng vì lý do đó
mà Giáo Hội Công giáo không bao giờ chấp nhận các tín hữu của mình tự sát, ngay
cả trong trường hợp gọi là để bảo vệ đức tin hay Giáo Hội.
Nói cách khác, người Kitô hữu được mời
gọi trước hết để sống đạo, chứ không phải chết vì đạo, bởi vì Thiên Chúa là
Chúa của sự sống, chứ không phải là Chúa của sự chết. Đàng khác, nếu chúng ta
sống đạo đúng theo đòi hỏi của Tin Mừng, nghĩa là sống trọn tình bác ái đối với
tất cả mọi người, thì cái chết chúng ta cũng có ý nghĩa là một cái chết vì đạo.
Bởi lẽ chết vì đạo, trước hết phải là chết vì lòng yêu mến.
Các thánh Tử Đạo Việt Nam xứng danh là
những vị tử đạo theo cả hai nghĩa: Các ngài đã chết để tỏ lòng trung thành với
Chúa, với Giáo Hội, nhưng các ngài cũng chết cũng chết vì tình yêu mến, yêu
Chúa, yêu Giáo Hội, và yêu cả những người bắt bớ và làm khốn mình. Các ngài đã
không thù ghét, không nguyền rủa, mà có khi còn tỏ lòng biết ơn vì vô tình họ
đã trở thành những người Thiên Chúa dùng để ban phúc tử đạo cho các ngài.
Vua quan phong kiến có thể coi các ngài
như những kẻ phản bội tổ quốc vì theo tả đạo, nhưng các ngài thực sự là những
người yêu nước, yêu đồng bào, nên có vị tuy ước ao được phúc tử vì đạo, nhưng
lại chấp nhận một cuộc sống chui nhủi, nay trốn chỗ này, mai trốn chỗ khác, đói
khát, hiểm nguy không ngại, chỉ muốn tiếp tục được phục vụ anh em tín hữu của
mình. Rồi một khi bị bắt, không một vị nào đã tìm cách chống cự, hay tỏ vẻ thù
nghịch với vua quan lính tráng, trái lại vui vẻ chấp nhận cái chết như một cách
tỏ lòng trung thành với Chúa và tổ quốc.
Thật vậy, nếu không vì muốn trung thành
với tổ quốc, thì các ngài đã có thể phản đối hay chống cự, hoặc lên án những kẻ
cầm quyền đã bách hại mình, nhưng các ngài đã cam tâm và bình thản chấp nhận
cái chết mà không hề oán hận và hối tiếc. Trường hợp của thánh Phanxicô Trần
văn Trung, cai đội, càng chứng tỏ là người Kitô hữu này chẳng hề muốn phản bội
tổ quốc, vì ngài đã tình nguyện xin đi đánh giặc, nhưng vua quan từ chối, vì
ngài không chịu bỏ đạo.
Noi gương ông cha mình, người Việt Nam
Công giáo chúng ta hôm nay cũng phải gắn bó đời sống đức tin của mình với những
đòi hỏi của đời sống con người trong xã hội, và trong cộng đồng dân tộc. Chẳng
có gì mâu thuẫn giữa đức tin và lòng yêu nước. Nếu các vua chúa thời trước tôn
trọng tự do tín ngưỡng, thì nhiều vị tử đạo thay vì phải chết vì đạo, đã có thể
sống đạo mà phục vụ tổ quốc và dân tộc một cách hữu hiệu và tốt đẹp biết bao.
25. Tử đạo, một chọn lựa
của lòng tin
Hôm nay, chúng ta hân hoan cùng với toàn
thể Giáo Hội Việt Nam mừng kính trọng thể lễ các thánh Tử Đạo tại Việt Nam. Đây
là một ngày vui mừng chung của tất cả chúng ta, những kitô hữu mang trong mình
dòng máu con Rồng, cháu Tiên. Cách đây gần 400 năm, hay đúng hơn từ lễ Phục
sinh năm 1615, khi cha Bugiơmi, dòng Tên, người Ý dâng thánh lễ đầu tiên tại
Hội An, Đà Nẵng bây giơ, đạo Công giáo đã được chính thức khai nguyên và lập cơ
sở ở Việt Nam. Hạt giống Tin mừng đã được gieo vãi trên mảnh đất hình chữ “S”
thân yêu này. Cha ông chúng ta những con người có tâm hồn hiền hậu, chất phác
đã đón nhận và sẵn sàng dùng chính mạng sống mình để làm chứng cho Tin mừng đó.
Thật vậy, “Tử Đạo” theo nguyên ngữ là
“Martyr” có nghĩa là “làm chứng”. Vậy thì việc cha ông chúng ta, từng lớp lớp
người sẵn sàng bỏ tất cả vinh hoa, phú quý, vợ con để chết đi làm chứng điều
gì? Chắc chắn việc các ngài sẵn sàng chết không phải vì các ngài không muốn
sống, nhưng là để làm chứng rằng, sự sống nơi trần thế này không phải là tuyệt
đối, và mọi vinh dự ở đời này không phải là vĩnh cửu. Với cái chết của mình,
cha ông chúng ta đã cho thấy rằng: chết chưa phải là hết, nhưng là cửa ngõ để
đi vào một đời sống vĩnh cửu đúng như tâm thức từ bao đời nay trong lòng người
dân Việt: “sống gởi, thác về”. Và chính dòng máu nóng của các ngài đổ ra trên
mảnh đất này, đã làm phát sinh một Giáo Hội Việt Nam hôm nay, như lời Đức Kitô:
“Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình, còn
nếu nó chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác”.
1. Chọn lựa của dân Do thái:
Tuy nhiên, để có thể sẵn sàng đổ máu để
làm chứng cho Tin mừng, cha ông chúng ta đã phải làm một cuộc chọn lựa thật
quyết liệt trong tâm hồn. Bởi vì, trong thực tế, hạnh phúc đời sau thì bây giờ
chúng ta không thấy, còn tiền của, danh vọng cùng với những vinh hoa phú quý
của nó, thì lại nằm ngay trước mắt. Chính dân Do Thái khi bước vào được Đất
Hứa, sau cuộc hành trình 40 năm trong sa mạc, cũng đã phải làm một cuộc chọn
lựa cơ bản này. Ông Môisê đã nói với họ: “Coi đây, hôm nay tôi đưa ra cho anh
em chọn: hoặc là được sống, được hạnh phúc, hoặc là bị chết, bị tai hoạ”. Khi
dân Do thái chọn lựa “yêu mến Đức Chúa,… và gắn bó với Người”, thì không phải
vì trước mắt họ nhận được một cuộc sống sung sướng, dễ dãi. Họ chọn lựa Thiên
Chúa chỉ vì họ tin tưởng vào tình yêu của Giavê Thiên Chúa, Đấng đã từng giải
thoát họ thoát ách nô lệ Ai Cập, kết ước với họ, để họ được làm dân của Ngài.
Đồng thời, còn ban cho họ Đất Hứa làm gia nghiệp.
2. Chọn lựa của cha ông chúng ta:
“Trung thành với Thiên Chúa” cũng chính
là chọn lựa, mà cha ông chúng ta ngay từ những ngày đầu đón nhận Tin mừng đã
quyết định. Một cuộc chọn lựa nhìn bên ngoài có vẻ đơn giản: đó là bước qua
thập giá hay không bước qua. Bước qua thì có ngay tiền bạc, vinh hoa phú quý,
còn như không bước qua thì có thể lập tức lãnh lấy cái chết. Đứng trước thập
giá, đã có người bước qua, nhưng cũng đã có nhiều người không bước qua, không
quá khoá. Đã có người được khiêng qua thánh giá, nhưng đã co chân lên như thánh
Antôn Nguyễn Đích. Đã có người bước qua thánh giá, nhưng sau lại hối hận: đó là
trường hợp của ba vị thánh Augustin Phan Viết Huy, Nicôla Bùi Đức Thể, và Đaminh
Đinh Đạt. Vua quan đã bày ra trước mặt các ông mười nén vàng, một tượng Chịu
Nạn và một thanh gươm rồi nói: “Cho bay tự ý chọn, bước qua tượng thì được
vàng, bằng không thì gươm sẽ chặt đôi người bay ra, xác sẽ bị bỏ trôi ngoài
biển.”
Đúng đây là một chọn lựa nghiêm chỉnh,
chọn lựa này đụng đến tương lai và sinh mạng của chính mình. Chọn lựa này bày
tỏ thái độ của bản thân tôi đối với Đức Giêsu. Tôi chọn Ngài hay tôi chọn tôi.
Thánh Anrê Kim Thông nói với quan tỉnh: “Thánh giá tôi kính thờ, tôi giẫm lên
sao được”. Còn Thánh Têphanô Ven, một linh mục trẻ, chỉ mới 31 tuổi, thuộc Hội
Thừa Sai Paris đã bày tỏ chọn lựa của mình một cách thật dứt khoát, khi trả lời
cho viên quan bảo ngài bước qua Thánh giá: “Tôi đã suốt đời thuyết giảng về đạo
thập giá, nay tôi lại đạp lên thập giá thế nào được? Tôi thiết nghĩ sự sống đời
này đâu quí hoá đến độ tôi phải bỏ đạo mà mua!”. Một chọn lựa có thể nói là đầy
bấp bênh theo cái nhìn tự nhiên của con người. Chính vì bấp bênh như thế mà
những chọn lựa này trở nên có giá trị, vì nó đúng là một chọn lựa của lòng tin.
Vâng, mỗi người chúng ta chỉ nhờ có lòng
tin chứ không phải nhờ bất cứ điều gì khác, mới có thể giúp mỗi người chúng ta
lãnh nhận ơn cứu độ. Ý thức điều đó, thánh Phaolô mời gọi tín hữu thành Côlôsê
và cũng là lời nhắc nhở từng người chúng ta: “Anh em chỉ cần giữ vững đức tin,
cần được xây dựng vững chắc kiên quyết, và đừng vì nao núng mà lìa bỏ niềm hy
vọng anh em đã nhận được khi nghe loan báo Tin mừng”. Đức tin này mỗi người
chúng ta đã được lãnh nhận khi chịu phép Rửa, nhưng như thế thì chưa đủ. Đức
tin đó còn phải được minh chứng bằng chính cuộc sống hàng ngày của mỗi người
chúng ta. Nhiều vị tử đạo đã được mời giả vờ bước qua thánh giá, để quan có cớ
mà tha, còn đức tin bên trong thì quan không đụng đến. Đây là một cám dỗ khá
tinh vi và hấp dẫn, có vẻ như được cả hai, đời này và đời sau. Nhưng liệu tôi
có thể bên ngoài chà đạp một Đấng mà bên trong tôi tôn thờ không? Đứng trước
thánh giá là đứng trước một chọn lựa dứt khoát, không có giải pháp dung hoà hay
lập lờ. Không ai có thể làm tôi hai chủ (x. Mt 6, 24), điều này vẫn đúng cho
những chọn lựa mỗi ngày của các Kitô hữu chúng ta qua mọi thời đại.
3. Chọn lựa của chúng ta hôm nay:
Mừng lễ các thánh Tử Đạo tại Việt Nam hôm
nay, lời Chúa một lần nữa mời gọi mỗi người chúng ta xét lại chọn lựa của mình.
Chọn lựa này không phải chỉ một lần là xong, nhưng cần đựơc lập lại mỗi ngày.
Tôi đang chọn Chúa hay tôi chọn tôi? Và nếu tôi chọn Chúa, tôi đã làm gì để
chứng minh cho lựa chọn của mình? Chọn lựa của chúng ta hôm nay, có thể không
đòi chúng ta phải đổ máu để làm chứng cho Chúa, nhưng tôi thiết nghĩ, cũng
không kém phần gian khó. Đứng trước những bất công, tôi có dám bênh vực, hay
tôi sợ phiền hà rồi im lặng? Trước một trận bóng đá, một bộ phim hay, một giấc
ngủ ngon, một lời rủ đi chơi của bạn bè và tiếng mời gọi của Chúa nơi ngôi
Thánh đường này, tôi chọn điều gì?
Chớ gì, nhờ lời cầu bầu của các thánh Tử
Đạo tại Việt Nam và nhất là sức mạnh của Thánh Thể, quý ông bà anh chị em và
tôi đủ sức thực hiện những chọn lựa của mình. Nhờ đó, vào ngày sau hết, tất cả
chúng ta sẽ cùng được đoàn tụ với cha ông chúng ta như lời hứa của Đức Giêsu:
“Ai phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy, và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở
đó”. Amen.
26. Các thánh Tử Đạo Việt
Nam
Lễ kính các thánh tử đạo là sự tuyên
dương những con người đã dám chết.
Tại sao tuyên dương? Thưa vì người ta
thường nghĩ “Không có gì quí hơn mạng sống”. Khi mạng sống bị đe dọa thì bằng
bất cứ giá nào, người ta cũng tìm cách để thoát khỏi cái chết và bảo tồn mạng
sống của mình. Thí dụ có người khi đói quá đã kiếm cỏ, kiếm vỏ cây để ăn, những
thứ mà bình thường không bao giờ họ ăn; có người bình thường rất tự trọng nhưng
khi quá đói đã phải ăn cắp thức ăn của người khác, đã dành ăn với người khác;
thậm chí có người còn dám ăn thịt người trong lúc không còn gì ăn để giữ mạng
sống. Thực ra những việc làm trên không có gì lạ, vì người ta đã làm theo bản
năng, gọi là bản năng sinh tồn.
Tuy nhiên có những người đã không theo
bản năng sinh tồn ấy. Những người này không nghĩ rằng mạng sống là giá trị cao
quí nhất, mà còn có những giá trị không cao hơn nhiều. Thí dụ:
- Trong trận động đất ở nước Nga, một
người mẹ bị kẹt trong đống gạch vụn cùng với đứa con của mình. Vì không có gì
để ăn, hai mẹ con dần dần yếu. Người mẹ nghĩ rằng nếu tình hình cứ tiếp tục thì
sau cùng cả hai mẹ con đều chết, bởi đó bà đã cắn đầu ngón tay mình, lấy máu
cho con uống. Bà dám chết để con bà được sống.
- Hay như các anh hùng liệt sĩ, những
người đã can đảm hy sinh mạng sống mình để bảo vệ tổ quốc quê hương. Họ đã coi
quê hương đất nước trọng hơn mạng sống bản thân.
- Và các vị thánh Tử Đạo cũng vậy, các
ngài coi đức tin trọng hơn mạng sống thể xác.
Tất cả những người vừa kể trên đều đã
dám chết, tất cả đều đáng ta kính phục. Riêng các thánh Tử Đạo Việt Nam, chúng
ta thấy kính phục đặc biệt vì các ngài có thể thoát chết cách dễ dàng thế mà
các ngài vẫn can đảm chết: chỉ cần nói với quan một câu là “Tôi chịu bỏ đạo”
thì lập tức được thả tự do, hay đơn giản hơn chỉ cần thưa “vâng” khi quan hỏi
“có chịu bỏ đạo không?”, hay đơn giản hơn nữa, không cần nói một lời nào cả,
chỉ một cái gật đầu hay chỉ để yên cho người ta khiêng mình ngang qua cây thập
giá thôi. Thế nhưng các ngài đã không làm như vậy, các ngài dám chịu chết. Cái
chết của các ngài gợi lên cho chúng ta nhiều điều suy nghĩ:
Điều thứ nhất cái chết ấy nói lên một
quan niệm sống: sống không phải chỉ là tồn tại, tồn tại bằng bất cứ giá nào.
Nhưng sống còn là sống theo một lý tưởng. Người không sống theo một lý tưởng
thì chỉ sống như một sinh vật, chỉ lo ăn lo uống, lo sinh tồn. Còn người có lý
tưởng và quí chuộng lý tưởng của mình thì không làm những gì nghịch với lý
tưởng ấy; nếu bị buộc làm điều nghịch với lý tưởng, hay bị cấm cản không cho
sống theo lý tưởng thì các ngài thà chết để trung thành với lý tưởng cao đẹp
của mình.
Một trong những điều tệ hại hiện nay là
nhiều người không còn lý tưởng sống, nhất là các thanh niên ở các nước giàu bên
Âu Mỹ, cả đời họ không biết tìm gì khác hơn là kiếm tiền, rồi ăn nhậu, rồi mua
sắm, rồi vui chơi. Nhưng cũng như người ta không thể ăn hoài được, khi đã no
thì không thể ăn thêm nữa, các thanh niên ấy ăn uống mãi rồi cũng chán, vui
chơi mãi rồi cũng nhàm, thế là họ nghĩ ra những cách hưởng thụ khác như xì ke
ma túy, nghĩ đến những hình thức tình dục khác thường… kết quả là bị mắc bệnh
Aids. Có lẽ không bao lâu nữa cách sống đó cũng du nhập vào xã hội chúng ta,
bởi vậy nhắc lại gương sống của các thánh Tử Đạo là một điều hữu ích: sống
không phải chỉ là tồn tại và hưởng thụ, mà còn phải là sống theo một lý tưởng
cao đẹp.
Điều thứ hai chúng ta kính phục nơi các
thánh Tử Đạo là sự trung thực của các ngài: Trung thực là sống đúng theo điều
mình tin và nói. Các thánh tử đạo tin rằng và nói rằng có Thiên Chúa, có linh
hồn, có đời sau. Vậy khi các ngài dám chết là các ngài đã tỏ ra trung thực với
niềm tin ấy, cái chết của các ngài cho người ta thấy rõ là các ngài thực sự tin
rằng sau khi chết các ngài sẽ gặp được Chúa, linh hồn các ngài vẫn còn sống
trong cõi vinh quang hạnh phúc với Chúa. Thực tế ngày nay, nhiều người không
còn trung thực nữa: họ nói rất hay nhưng họ không làm theo điều họ nói, có khi
họ cũng muốn làm nhưng lại không dám làm vì sợ bị thiệt thòi…
Và điều thứ ba khiến chúng ta kính phục
các thánh tử đạo là các ngài đã mở trí cho chúng ta hiểu rằng đời này không
phải là tất cả. Năm 1980 tại câu lạc bộ những nhân vật vị vọng trong xã hội,
câu lạc bộ Philadelphia Phillies, người ta đã tổ chức một buổi nói chuyện và
người được mời nói chuyện một nhân vật đặc biệt tên là Cordell. Cordell có tật
nơi chân nên đi đứng rất khó khăn. Anh lại ngọng nên nói năng cũng khó. Mặt mày
anh dị hợm nên nhiều người thấy anh phải quay mặt đi hướng khác. Một người như
thế có gì để nói với những nhân vật giàu sang danh vọng trong xã hội? Anh mở đầu
như sau: “Tôi biết rằng tôi rất là khác biệt với các bạn”, rồi anh kể về cuộc
đời mình, một cuộc đời nhiều thất bại, nhiều đau khổ. Sau cùng anh kết luận
“Các bạn có thể thành công suốt cả cuộc đời và lãnh hàng triệu đôla mỗi năm.
Nhưng khi ngày giờ đến, ngày mà người ta đóng nắp quan tài của bạn lại, thì các
bạn sẽ chẳng khác tôi chút nào. Đó là lúc chúng ta đều y như nhau”. Không biết
cử tọa của cuộc nói chuyện hôm đó nghĩ gì, nhưng tôi thì nghĩ đến các thánh tử
đạo: các ngài khôn hơn nhiều người ở chỗ nhiều người đã dùng cả cuộc đời để
kiếm tìm những điều họ sẽ phải bỏ lại hết khi quan tài của họ bị đóng lại, còn
các ngài thì dám bỏ tất cả những gì quí nhất ở trần gian để đổi lấy cuộc sống
vĩnh cửu.
27. Người chứng thứ nhất –
Ga 12,24-26
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Một thanh niên 19 tuổi bị tuyên án tử
hình mà không được nói một lời để bào chữa mình. Người tuyên án là quan trấn
tỉnh Phú Yên. Vào tháng 7 năm 1644 vị quan này từ triều đình nhà vua về, đem
theo sắc lệnh cấm đạo và bắt đầu giam một ông già tên rửa tội là Anrê, rồi sai
một toán lính đến nhà vị thừa sai Đắc Lộc để bắt thầy giảng số một là Inbaxu.
Khi toán lính xông vào nhà tìm thầy Inbaxu thì chỉ gặp người thanh niên Phú Yên
là người mà Cha Đắc Lộ đã rửa tội được ba năm và đã từng cho đi theo để giúp
dạy giáo lý. Người thanh niên này đã can đảm nhận hết các tội chúng gán cho
thầy Inbaxu và các thầy giảng, nên bị chúng trói lại và điệu đi. Anrê Phú Yên
vui vẻ theo toán lính và trong suốt quảng đường không ngừng giảng cho những kẻ
dẫn mình vào ngục biết đường tránh hỏa ngục hầu hưởng phúc Thiên Đàng.
Nhờ sự can thiệp của cha Đắc Lộ và một
số thương gia người Bồ Đào Nha, ông già Anrê được tha bổng, còn Anrê Phú Yên
thì không. Người thanh niên cường tráng này dám cương quyết thà chết chẳng thà
bỏ đạo nên sẽ phải chết để nêu gương cho mọi người biết vâng lệnh nhà vua. Vậy
lính dẫn Anrê Phú Yên tới thửa ruộng cách thành phố chừng nửa dặm. Mặc dầu đeo
gông nặng, Anrê đi rất nhanh đến nỗi cha Đắc Lộ theo không kịp. Tới nơi hành
quyết, thầy giảng trẻ tuổi Anrê quỳ xuống để chiến đấu cho can đảm hơn. Lính
gác chung quanh không cho ai vào phía trong cả, nhưng viên đội trưởng cho phép
cha Đắc Lộ được đứng cạnh thầy. Cha thấy rõ mắt thầy Anrê nhìn trời cao, miệng
luôn hé mở và kêu danh thánh Giêsu.
Một người lính lấy giáo đâm thầy từ phía
lưng, thâu qua ngực chừng hai bàn tay. Khi ấy thầy nhìn cha Đắc Lộ như để vĩnh
biệt và cha khuyên thầy nhìn lên trời là nơi thầy sắp được Chúa Giêsu đón vào
cõi phúc. Từ giây phút đó thầy chăm chút nhìn lên và không còn nhìn xuống nữa.
Người lính rút lưỡi giáo ra đâm phát thứ hai, rồi đến phát thứ ba, hắn cố ý đâm
trúng tim anh nhưng vẫn chưa chết. Thấy thế, một người lính khác lấy mã tấu
chặt vào cổ anh, anh vẫn chưa xong, phải thêm một nhát thứ hai đầu anh mới lìa
khỏi cổ, máu chảy tràn lai làng. Hành quyết xong, toán lính kéo nhau ra bờ sông
để rửa các vết máu. Cha Đắc Lộ nhặt đầu anh gói lại kỹ càng như một báu vật,
còn xác anh ngài tẩm liệm gởi xuống tàu buôn đưa về Macao chôn cất. Ngài biết
đây là một thánh nhân, cần tôn trọng thi thể này để ngàn đời lưu danh. (theo
“Người chứng thứ nhất” của Phạm Đình Khiêm).
Anh chị em thân mến,
Mỗi lần nói đến các Thánh Tử Đạo là
chúng ta nghĩ ngay đến cảnh ngục tù, gông cùm, gươm giáo, đầu rơi, máu đổ. Thế
nhưng, ở thời đại đang tiến dần vào thế kỷ 21, những cảnh hành hình tàn bạo, dã
man, cổ điển ngày xưa và việc bắt đạo của các chính quyền hầu như không thể tái
diễn. Vì hiến pháp của bất cứ quốc gia nào cũng tôn trọng tự do tín ngưỡng và
các quyền cơ bản của con người. Đàng khác, các án tử hình cũng dần dần được
loại bỏ trong các bộ luật hình sự của các nước trên thế giới.
Ngày nay, khái niệm về tử đạo hiểu rộng
rãi hơn. Người tử đạo là người dám chết cho công lý, cho hòa bình, chết cho
quyền sống của con người, nhất là những người nghèo khổ, bị áp bức. Nói chung
là chết vì Chính Đạo, chết vì muốn sống theo con đường Tin Mừng của Chúa Giêsu.
Trong Tông Thư “Tiến đến thiên niên kỷ
thứ ba”, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II kêu gọi Giáo Hội địa phương lập danh mục
các vị tử đạo mới của thế kỷ này. Vì “trong thế kỷ này lại có những người tử
đạo, - thường là âm thầm, họ như thể là “những chiến sĩ vô danh” – vì đại cuộc
của Thiên Chúa. Giáo Hội không chỉ có những người đổ máu vì Đức Kitô mà còn có
những bậc thầy về đức tin, những nhà truyền giáo, những người tuyên xưng đức
tin, những giám mục, linh mục, các trinh nữ, những người kết hôn, góa bụa và
trẻ em” (số 37).
Tại đất nước chúng ta, giai đoạn lịch sử
của 117 Thánh Tử Đạo Việt Nam được ghi nhận kéo dài đúng 117 năm, với hai vị tử
đạo tiên khởi là Thánh Phanxicô Frederic Tế và Matthêu Liciana Dậu, hai linh
mục dòng Đa Minh, cùng chịu tử đạo tại Thăng Long, miền Bắc năm 1745. Nhưng
trước đó hơn một thế kỷ, đã có máu đào đổ ra để làm chứng cho Chúa Kitô, như
thấy nơi cái chết của Thầy giảng Anrê Phú Yên năm 1644 tại miền Trung. Vị Tử
đạo cuối cùng trong số 117 là Thánh Phêrô Đa, giáo dân thợ mộc, vừa bị thiêu
đốt vừa bị chém đầu ngày 17 tháng 6 năm 1862 tại Qua Linh, miền Bắc. Cuối năm
1861 đầu năm 1862, cuộc cấm đạo trước khi chấm dứt còn bùng lên dữ dội ở miền
Nam. Chỉ ở hai nơi là Biên Hòa và Bà Rịa, 846 Kitô hữu đã bị thiêu sống. Vậy
trong ngày lễ kính các Thánh Tử Đạo Việt Nam hôm nay, chúng ta không những kính
117 vị đã được tôn phong hiển thánh nhưng còn tỏ lòng biết ơn hàng trăm người
đã hy sinh tính mạng vì Chúa Kitô và đã có công truyền lại đức tin cho chúng ta
là con cháu.
Nhưng trước hết và trên hết, chúng ta
cần tỏ lòng biết ơn Đấng là hiện thân của tình yêu Thiên Chúa đến với loài
ngừoi chúng ta. Thiên Chúa đã yêu loài người đến nỗi đã ban Con Một Người và
Người Con Một ấy trước khi chết vì chúng ta đã quỳ xuống rửa chân cho từng môn
đệ. Kế đến Ngài đã dành những lời tâm huyết để nhắn nhủ các môn đệ. Ngài ví bản
thân Ngài như hạt lúa mì gieo vào lòng đất, phải chết đi để sinh được nhiều
bông hạt lúa mới (x.Ga 12,24). Rồi Ngài dặn dò các môn đệ về cái thế giới chẳng
mấy thân thiện đối với cả thầy lẫn trò: Họ ghét anh em vì họ đã ghét Thầy
trước.
Chính tình yêu đến hy sinh mạng sống như
Chúa Giêsu là cái giá phải trả để trở nên môn đệ đích thực của Chúa Giêsu. Cái
giá ấy các môn đệ xưa đã trả bằng cách hy sinh mạng sống mình. Cái giá ấy các
Thánh Tử Đạo cũng đã trả để mang lại nhiều hoa trái là nhiều người nhận biết
Chúa Kitô để được ơn cứu độ. Đúng như lời vị Giáo Phụ Tertulianô đã nói: “Máu
các vị Tử Đạo chính là hạt giống phát sinh các Kitô hữu”.
Thưa anh chị em,
Hội Thánh thời nào cũng cần những người
dám sống đức tin, dám làm chứng cho Chúa trước mặt người đời. Sống đức tin là
một loại tử đạo không đổ máu, không đòi hy sinh mạng sống. Mỗi ngày chúng ta
thường vị đặt trước những chọn lựa, trước thập giá của Chúa Giêsu y hệt như các
vị Tử Đạo ngày xưa. Càng có tự do, chúng ta càng dễ sa sút đức tin. Tiền bạc,
tiện nghi, khoái lạc vẫn là những tạo vật gây ra những bách hại êm ả và khủng
khiếp mà cuối cùng chúng ta cũng phải đối diện. Ước gì chúng ta không để mất
đức tin đã được mua bằng giá máu của bao vị Tử Đạo, và ước gì chúng ta không
ngừng chuyển giao đức tin ấy cho anh em đồng bào trên quê hương Việt Nam chúng
ta.
28. Làm chứng
Hôm nay Giáo Hội cho phép chúng ta mừng
kính chung toàn thể các Thánh Tử Đạo Việt Nam. Đây thực là một ngày giỗ tổ làm
cho mọi tâm hồn con dân đất Việt phấn khởi vui mừng. Chúng ta đều biết từ khi
đạo Chúa chính thức bắt rễ vào đất nước chúng ta cho đến cuối thế kỷ XIX, nghĩa
là từ khoảng năm 1638 đến năm 1886, gần 300 năm, lịch sử Giáo Hội Việt Nam là
cả một cuộc tử đạo kéo dài gần như liên tục năm này qua năm khác, không mấy khi
ngừng, mà nếu có ngừng thì chỉ tạm ngừng để chuẩn bị tiến sang một giai đoạn
chịu bách hại khác dữ dội hơn và đẫm máu hơn.
Trong suốt ba thế kỷ bị bách hại, tính
ra có trên 130 ngàn anh hùng tử đạo, và như thế nước Việt Nam chúng ta, tuy nhỏ
hẹp và nghèo khổ nhưng rất hào hùng. Nước nhỏ hẹp nhưng danh tiếng vang lừng
quốc tế. Chúng ta đã đóng góp cho gia sản của Giáo Hội một sự nghiệp đức tin to
lớn. Tuy nhiên, trong số đó mới chỉ có 117 vị được phong chân phước. Và ngày
19.06.1988, cả 117 vị này đã được Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II suy tôn lên
bậc hiển thánh. Các ngài được suy tôn hiển thánh để cho toàn thể thế giới tôn
kính và noi gương anh dũng của các ngài. Đồng thời để cho chúng ta, những người
Công giáo Việt Nam, là con cháu các ngài, biết nối gót cha ông, dù sống trong
hoàn cảnh nào cũng luôn trung thành với Chúa, với Giáo Hội, với Tin Mừng giữa
lòng dân tộc.
Các vị tử đạo cũng là những con người
mang thân xác giòn mỏng như chúng ta, cũng biết rung cảm, cũng biết ham sống sợ
chết như chúng ta. Nhưng giờ phút hy sinh đến, các ngài sẵn sàng tiến lên dâng
hiến cuộc đời cho Thiên Chúa. Do đó cái chết của các ngài có một ý hướng nhất
định: các ngài là những nhân chứng cho đạo Chúa. Đúng thế, danh từ “Tử đạo” có
nghĩa là kẻ làm chứng, và dùng đau khổ, tử hình để bảo đảm cho lời chứng. Mỗi vị
tử đạo chết bằng nhiều hình khổ khác nhau, nhưng tất cả các ngài đều hiên ngang
dùng lời nói và mạng sống mình để giảng đạo, bênh vực chân lý và tuyên xưng đức
tin. Tóm lại, tất cả các ngài đều là những nhân chứng bằng chính đời sống của
mình. Và cái chết của các ngài là một câu trả lời hùng hồn, quyết liệt cho
những ai còn nghi ngờ tôn giáo của các ngài.
Người ta thường nói: “Ăn quả nhớ kẻ
trồng cây” hay “uống nước nhớ nguồn”. Chúng ta là con cháu các vị tử đạo, chúng
ta được thừa hưởng một di sản đức tin phong phú, được chiêm ngưỡng một Giáo Hội
phát triển tốt đẹp như ngày nay, chúng ta không thể quên đó là kết quả của
những dòng máu cha ông đã đổ ra. Bởi vậy, chúng ta phải tưởng niệm đến công lao
to lớn của tiền nhân mà đáp đền cho xứng đáng và ra công phát huy di sản quí
báu cha ông đã để lại. Nhưng nếu chỉ có những cảm tình hân hoan phấn khởi và
biết ơn mà thôi thì chưa đủ, chúng ta còn phải chú ý lắng nghe tiếng gọi tha
thiết của dòng máu tử đạo và khám phá ra những bài học cao quí để áp dụng vào
đời sống. Vậy máu tử đạo nói gì với chúng ta?
Trước hết, máu tử đạo nói lên niềm tin
mãnh liệt, sâu xa và lòng trung thành sắt son của cha ông đối với đạo thánh
Chúa. Đức tin đã thấm nhập và đâm rễ sâu vào tâm hồn các ngài đến nỗi không một
sức mạnh trần gian nào có thể lay chuyển được. Đối với các vị tử đạo, đức tin
là một cái gì cao quí vô cùng, phải bảo vệ bằng mọi giá. Dầu bị đe dọa, tra tấn
với muôn khổ hình dã man ghê rợn, dầu phải đổ đến giọt máu cuối cùng, các ngài
cũng cam chịu, miễn sao bảo tồn được đức tin nguyên vẹn.
Đàng khác, được hấp thụ tinh thần nho
giáo, các ngài đặt chữ “trung” lên trên hết. Không những trung thành với vua
chúa trần gian, với quê hương tổ quốc, mà nhất là trung thành với vua chúa trên
các vua, chúa trên các chúa, trung thành với quê hương tổ quốc siêu nhiên là
Giáo Hội. Đó là tấm gương sán lạn cha ông để lại cho chúng ta.
Thứ hai, máu tử đạo cũng nói lên đức hy
sinh can đảm phi thường của tiền nhân. Người ta ai mà không sợ đau khổ, ai mà
không tham danh tranh lợi, ham sống sợ chết. Nhưng với ơn Chúa, các vị tử đạo
đã thướng vượt mọi trở lực, dầu khó khăn đến đâu, để duy trì đức tin. Ai kể
được những khổ hình dã man các ngài đã phải chịu: kìm kẹp, xiềng xích, voi
giày, thiêu sinh, trầm hà, trảm quyết, lăng trì, bá đao… Nhưng các ngài can đảm
chịu đựng, các ngài đã thắng tất cả: thắng vũ lực, thắng quyền bính vua chúa
trần gian, thắng ma quỉ, và thắng chính mình.
Các vị tử đạo đã chết để nêu cao lòng
hiếu trung. Các ngài đã từ bỏ tất cả, nhận lấy cái chết, không chút oán giận
những kẻ giết mình. Các ngài đã hy sinh đời sống để theo một tôn giáo, minh
chứng cho mọi người biết tôn giáo đó là từ trời ban xuống và đạo Chúa Kitô là
đạo thật. Các ngài chết nhưng luôn sống trong ký ức chúng ta. Các ngài là những
hạt giống tốt đã được gieo để đem lại hoa trái phong phú cho chúng ta. Chúng ta
đang thừa hưởng gia sản của các ngài, chúng ta hãy sống tốt đẹp, xứng đáng với
những hy sinh của các ngài.
Chúng ta hãy nhớ rằng: tử đạo là một ân
huệ đặc biệt Chúa ban cho ai tùy ý Ngài muốn, nhưng nỗ lực làm chứng cho Chúa
thì không dành riêng cho ai cả. Là Kitô hữu là có nhiệm vụ làm chứng: làm chứng
bằng lời nói, bằng hành động và bằng cả cuộc đời cụ thể của mình. Nói rõ hơn,
cách làm chứng tốt nhất cho Chúa, cho đạo là sống bác ái yêu thương. Chúng ta
cần phải thuyết phục những người chưa có đạo, những người không hiểu về chính
nghĩa của đạo chúng ta bằng cách sống trọn vẹn, quyết liệt, dứt khoát tinh thần
bác ái yêu thương đối với nhau và đối với những người chung quanh.
29. Tham dự vào hy tế của
Chúa Giêsu
(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Chúa Giêsu tiếp tục hiến tế cho đến ngày
tận thế để đền tội cho muôn người.
Cách đây hơn 2.000 năm, Chúa Giêsu đã
chịu khổ hình, chịu vác thập giá và chịu chết đau thương trên thập giá để đền
tội cho nhân loại.
Thế nhưng, trong những thế kỷ về sau và
đặc biệt là trong thế kỷ 21 hiện nay, tội lỗi nhân loại tiếp tục gia tăng khắp
nơi trên thế giới với mức độ ngày càng khủng khiếp nên sẽ mang lại những hậu
quả đau thương và cái chết đời đời cho vô vàn người gây ra tội lỗi.
Thiên Chúa không nỡ để cho bao người
phải hư mất đời đời vì tội lỗi họ gây ra, nên Chúa Giêsu vẫn còn phải tiếp tục
chịu khổ nạn, chịu hiến tế để đền tội cho thế gian.
Như thế, cuộc khổ nạn hay nói khác đi là
hy tế thập giá của Chúa Giêsu không chấm dứt sau khi Ngài tắt thở trên thập giá
vào chiều thứ sáu trên đồi Can-vê cách đây 2.000 năm, mà còn được tiếp tục kéo
dài cho đến tận thế để cứu độ muôn người qua suốt dòng lịch sử. Giáo lý công
giáo số 1323 khẳng định điều nầy: “Hy Tế Thập Giá (của Chúa Giêsu) kéo dài qua
các thời đại cho tới khi Ngài lại đến.”
Chúa Giêsu mời các thánh tử đạo tham dự
vào hiến tế của Ngài.
Chính vì công cuộc khổ nạn và hy tế của
Chúa Giêsu cần phải được tiếp tục cho đến tận thế để đền tội cho nhiều người
tội lỗi trong suốt dòng lịch sử nhân loại nên Chúa Giêsu kêu gọi các tín hữu là
những chi thể trong Thân Mình Ngài cùng vác thập giá, cùng chịu khổ nạn với
Ngài. Ngài từng lên tiếng mời gọi: “Ai muốn theo Thầy thì hãy từ bỏ chính mình,
vác thập giá mình mà theo.” (Mt 16, 24)
Thế là hàng hàng lớp lớp ki-tô hữu chấp
nhận đổ máu và hiến tế đời mình cùng với Chúa Giêsu, khởi đầu là máu của các
hài nhi vô tội Bê-lem (Mát-thêu 2,16) của thánh Gia-cô-bê tông đồ và của phó tế
Tê-pha-nô là những vị tử đạo tiên khởi, của các tín hữu tại đế quốc Rô-ma trong
suốt 250 năm bách hại dưới triều các hoàng đế Rô-ma cho đến máu của các thánh
tử đạo thuộc nhiều chủng tộc, nhiều quốc gia, nhiều dân nước trên khắp thế giới
trong suốt hơn 2.000 năm qua.
Trên quê hương Việt Nam, nếu tính từ năm
1644 là thời điểm Thầy An-rê Phú Yên bị trảm quyết cho đến khi vua Tự Đức băng
hà (1883), các tín hữu công giáo đã phải trải qua cơn bách hại ngót 240 năm.
Hàng trăm ngàn tín hữu đã hiên ngang đáp lời mời gọi của Chúa cứu thế, chấp
nhận vác thập giá và hiến tế đời mình với Chúa Giêsu, khốc liệt nhất là trong
khoảng 65 năm dưới thời vua Minh Mạng (1820-1841), Thiệu Trị (1841-1847), Tự
Đức (1848-1883) và đảng Văn Thân (1885-1886) để hồng ân cứu độ được tuôn ban
dồi dào cho dân tộc Việt Nam chúng ta.
Chúa Giêsu mời chúng ta tham dự vào hiến
tế của Ngài.
Từ ngày lãnh nhận Bí Tích Thánh Tẩy, các
tín hữu được tháp nhập vào Thân Mình Chúa Giêsu (giáo lý công giáo số 1267) và
được thông dự vào chức tư tế (chức linh mục) của Ngài (sđd số 1268). Vì là “Thân
Thể của Chúa Giêsu, chúng ta phải tham dự vào hiến tế của Chúa Giêsu là Đầu của
toàn thân.” (sđd số 1368)
Thế nên mỗi ki-tô hữu, không trừ ai, đều
có trách nhiệm và sứ mạng cao cả là tham dự vào hiến tế của Chúa Ki-tô là Đầu
của mình, theo gương các thánh tử đạo Việt Nam là những bậc tổ tiên của chúng
ta.
Hôm nay, chúng ta không còn phải gánh
chịu những cực hình, những đau thương và mất mát lớn lao như các thánh tử đạo
Việt Nam trước đây, nhưng chúng ta cũng được mời gọi tham dự vào hy tế thập giá
của Chúa Giêsu bằng cách chấp nhận vác thập giá với Chúa Giêsu qua những việc
bổn phận hằng ngày, cụ thể là hy sinh thời giờ, công sức, tiền bạc… để phục vụ
những anh chị em chung quanh đang cần đến bàn tay, con tim và khối óc của chúng
ta.
Có như thế, chúng ta mới xứng đáng là
con cháu của các anh hùng tử đạo Việt Nam.
Có như thế, chúng ta mới thật sự là chi
thể trong Thân Mình Chúa Ki-tô là Đấng tiếp tục hiến tế đời mình cho đến ngày
tận thế để đền tội muôn dân.
30. Tỉnh thức trước cơn
bách đạo mới
(Suy niệm của PM. Cao Huy Hoàng)
Là người Công Giáo Việt Nam, chúng ta
rất hãnh diện về Cha ông của chúng ta, Các Thánh Tử Đạo Việt Nam. Không chỉ là
117 vị hiển thánh, mà có cả trăm ngàn tín hữu đã anh dũng làm chứng cho Thiên
Chúa. Không chỉ có thời các vua Chúa cấm cách, mà ngay cả thời nay, Đức Hồng Y
Phanxicô Xavie Nguyễn Văn Thuận và cuộc sống nhân chứng của Ngài là một tiêu
biểu.
Vì niềm tin tuyệt đối và trung kiên vào
Thiên Chúa, vì tình yêu mãnh liệt đáp lại tình yêu tạo dựng và cứu chuộc, vì
bừng bừng ngọn lửa khát khao được sống trọn vẹn và vĩnh cửu trong thế giới mới
của Ba ngôi Thiên Chúa, mà Cha ông của chúng ta đã không ngần ngại từ chối sự
sống hay hư nát của thân xác phàm trần để tuyên tín cho thiên hạ biết rằng có
một đời sau vĩnh cửu, hạnh phúc thiên thu.
Các Thánh Tử Đạo Việt Nam đã bị cấm
cách, bức bách, bắt bớ, tù đày, lăng mạ, lăng nhục và cuối cùng chấp nhận chết
cuộc sống mình, chết thân xác mình, bằng trăm ngàn cực hình dã man, đau đớn.
Sức mạnh để vượt qua và chiến thắng của họ là nhân đức cơ bản, là nguồn ơn cơ
bản Tin Cậy Mến mà Thiên Chúa ban riêng cho mỗi con người và ơn hiệp nhất ban
cho cộng đoàn làm chứng tá phục sinh. Tuyệt đối không phải là sức mạnh của tập
thể theo nghĩa phong trào, có tính hời hợt, nhất thời đấu tranh cho một quyền
lợi thuộc phạm vi trần thế.
Họ đã không bắt chước nhau tử đạo vì
danh vọng trần thế là để tiếng lại cho đời sau, nhưng là vì họ xác tín một cuộc
sống mới được phục hồi sau cái chết quí giá và ý nghĩa ấy: cái chết làm chứng
cho Chúa Kitô đã chết và đã sống lại, cái chết để sống lại với Đức Kitô. Họ đã
thực thi lời huấn thị của Tin Mừng: “từ bỏ chính mình”: vì xác tín sự sống mình
có được là do Thiên Chúa, và thuộc về Thiên Chúa; “vác thập giá mình”: chấp
nhận tất cả những thương khó trong đời theo Chúa Giêsu, để ý định cứu rỗi của
Thiên Chúa Cha được thực hiện, cho mình và cho mọi người.
Đối với các Thánh Tử Đạo Việt Nam, bước
qua thập giá là từ chối ơn cứu chuộc của Đức Kitô, là bội tín với Thiên Chúa.
Vì thế, khi cuộc bách đạo càng khốc liệt, càng đẫm máu, thì niềm tin của họ
càng được nung nấu, được tôi luyện thành sắt thép vững chắc nhờ đức mến nồng
nàn và đức cậy trông mạnh mẽ.
Giáo hội Việt Nam thừa hưởng một di sản
Đức tin quí báu, vì nhờ máu các Ngài đổ ra, mà cánh đồng truyền giáo trổ sinh
muôn hạt vàng tín hữu.
Noi gương Các Thánh Tử Đạo Việt Nam
Theo gương các Thánh Tử Đạo Việt Nam,
các tín hữu Việt Nam đã kiên trung trong đời sống đức tin cá nhân và cộng đoàn
thật đáng khâm phục. Qua bao nhiêu thăng trầm của lịch sử đất nước, qua bao
nhiêu đổi thay của ý thức hệ… nhưng giáo lý Chúa Kitô và niềm tin vào Thiên
Chúa vẫn ngời sáng trên quê hương không chỉ nghèo nàn lạc hậu mà còn chịu bao
thảm họa của thiên tai, dịch nạn..
Tuy nhiên, khi mừng lễ các Thánh Tử Đạo
Việt Nam, cũng là lúc mà mỗi chúng ta phải nhìn lại đời sống chứng tá của mình
và của cộng đoàn.
Ở đấng bậc nào trong Giáo Hội, trong đời
sống hằng ngày, tất cả chúng ta đều phải đối diện, phải đặt mình trước thập
giá, không phải để chúng ta bước qua, mà là để ôm lấy, yêu mến, hôn kính và
nhất là vác đi trong cuộc đời.
Ngày xưa những khổ hình có thể nói là
kinh khủng lắm, man rợ lắm dành cho ai không bằng lòng bước qua thập tự giá.
Thời nay, cuộc bức bách mới dùng cách làm cho tín hữu không thấy dữ tợn mà hiệu
quả không kém kinh khủng hay có thể nói còn kinh khủng hơn: chiêu bài đổi hướng
niềm tin và tình yêu.
Chúng ta không thấy mình đang bước qua
thập giá, khi chúng ta yêu mến của cải tiền bạc, tiện nghi vật chất và những
khoái lạc trần gian hơn là yêu mến Chúa. Hơn nữa, chúng ta vẫn thấy mình rất
xứng đáng vì những việc đạo đức, những việc tông đồ. Chúng ta không thấy mình
bước qua thập giá, khi mình đang làm việc Chúa để tìm chút hư danh cho mình.
Hướng đến của Tình yêu chúng ta là Chúa, đối tượng duy nhất của lòng trí chúng
ta là Thập giá Chúa Kitô, nhưng tài hoa của ma quỉ đã khéo léo chuyển hướng đến
của tình yêu chúng ta là chính chúng ta.
Quả thật, chúng ta đang không làm chứng
cho một Thiên Chúa, nhưng chúng ta đang làm chứng cho chính mình, khẳng định
chính mình, củng cố danh dự chính mình. Chúng ta đang bước qua thập giá mà
không hề hay biết. Không tỉnh thức trước những âm mưu của ma quỉ, chúng ta có
thể nằm gọn trong đúng mục tiêu, đúng tầm ngắm của cuộc bách đạo mới.
Tỉnh thức trước cơn bách đạo thời nay
Mục tiêu của cuộc bách đạo thời nay vẫn
là cản trở, ngăn cấm con người đến với Thiên Chúa, hoặc bằng mọi giá, cắt đứt
tương quan giữa Thiên Chúa và con người. Một loại gông cùm xiềng xích mới, một
loại nhà tù hiện đại đang được sử dụng khắp nơi trên thế giới.
Mục tiêu của cuộc bách đạo mới không chỉ
đơn thuần là việc bắt bớ, bỏ tù một vài người đấu tranh cho tự do nhân quyền,
cho tự do tôn giáo, nhưng là bỏ tù cả ngàn ngàn người trong cái vỏ ốc cầu an,
trong cái hố bằng lòng về sự tự do xem như là tạm đủ, trong cái túi chấp nhận
một loại tự do ảo tưởng, trá hình mà thực ra đó là thứ tự do làm nô lệ.
Cũng vậy, việc đập phá một ngôi thánh
đường, chưa bằng đập phá cả triệu cung điện của Thiên Chúa nơi tâm hồn các tín
hữu bằng những chủ thuyết vô thần, vô luân, vô vọng tưởng một đời sau… để không
còn hòn đá nào trên hòn đá nào, không còn một định luật tôn giáo nào, không còn
một nguyên tắc đạo đức nào, không còn niềm tin tôn giáo nào trong chính tâm hồn
người công giáo.
Nhận lãnh bí tích rửa tội để có một danh
xưng, hoặc hợp thức hóa một tình trạng. Và các bí tích Kitô giáo khác được lãnh
nhận tiếp theo như một thủ tục-Cung điện của Thiên Chúa là một bức họa không
hơn.
- Việc đóng cửa nhà thờ, không cho các
tín hữu hành đạo làm sao nguy hiểm bằng để tự họ cảm thấy việc đến nhà thờ
không còn cần thiết hơn việc xem phim, giải trí và các tiêu khiển khác của một
đất nước đang có đủ thứ món ăn chơi.
- Làm cho cánh cửa tâm hồn các tín hữu
tự đóng lại để không đón nhận được Thiên Chúa, và tự mở ra để đón nhận những
trào lưu thế tục là mục tiêu cuộc bức bách nguy hiểm vô cùng.
- Tâm hồn các trẻ thơ vừa có trí khôn,
mới mở ra với cuộc đời, đã đón nhận bài học con người bởi khỉ mà ra, để sẽ sống
như khỉ và chết như con khỉ – cuộc bức bách về giáo dục không Thiên Chúa.
- Mới ngày nào đây, lương tâm các đôi vợ
chồng, nhất là các tín nữ còn đắn đo, do dự khi phải chọn cho mình một cách
tránh thai hợp với luật Thiên Chúa, và cương quyết bảo vệ sự sống đến cùng thì
hôm nay, lương tâm ấy đã chai đi và có thể chấp nhận bất kỳ một phương pháp nào
để khước từ thiên chức làm Mẹ. Hơn thế nữa, không những khước từ ơn tiếp tục
cuộc sáng tạo của Thiên Chúa, mà còn có thể hủy hoại quà tặng tuyệt vời của
Thiên Chúa ở bất kỳ tháng tuổi nào.
- Không cần thiết phải cấm các em học
giáo lý, vì biết chắc những trang giáo lý khô khan kia sẽ không hấp dẫn bằng
những trò chơi vô bổ hàng giờ trên máy vi tính ở các dịch vụ internet, hoặc
những trang web có sức gieo vào đầu các em một kiểu sống vô luân. Vì thế cuộc
bách đạo hướng đến việc sản xuất và du nhập hàng loạt phim ảnh như những viên
đạn đồng bắn nát đức tin và luân lý của cả một thế hệ.
- Còn một điểm nhắm quan trọng hơn cả
của cuộc bách đạo là làm rạn nứt sự hiệp nhất giáo hội, mà phải là sự rạn nứt
bắt đầu từ những vị thẩm quyền cao nhất, đến các thành phần ưu tú nhất, rồi đến
những cộng sự thân cận, xuống đến các tín hữu. Tinh thần thế tục luồn lách vào
trong mọi bất đồng gây nên những xáo trộn nội bộ không đáng có, dẫn đến những
rẽ chia đáng tiếc.
Mừng kính lễ các Thánh Tử Đạo Việt Nam
không chỉ là những cuộc rước kiệu linh đình, tôn vinh Cha Ông với niềm tự hào
dân tộc, nhưng trước tiên là tạ ơn Chúa đã gieo trồng Hội Thánh Chúa ở Việt Nam
bằng những giọt máu, và tôn vinh Cha ông với niềm tự hào về sức mạnh toàn thắng
của Thánh Giá Chúa Kitô. Nếu không có niềm tin, cậy, mến vào Thiên Chúa và nhất
là vào Thánh giá vô địch của Chúa Kitô, Cha ông chúng ta đã không thể lãnh nhận
phúc tử đạo, làm chứng cho Thiên Chúa.
Mừng kính lễ các Thánh Tử Đạo còn là cơ
hội cho mỗi người chúng ta nhìn lại cách sống chứng nhân của mình và phải luôn
cảnh giác trước cuộc bách đạo kiểu mới, nhất là trong toàn cảnh xã hội Việt
Nam. Có thể chúng ta đang nằm gọn trong mục tiêu cuộc bách đạo, vì đã bước qua
thập giá Đức Kitô lúc nào không hề hay biết, mà vẫn chủ quan tự nhận là những
chứng nhân anh dũng giữa lòng quê hương dân tộc. Có thể chúng ta không những đã
bước qua thập giá, không được diễm phúc tử đạo, mà còn tiếp tay cho cuộc bức
bách tiến đến mục tiêu tối hậu là tách rời tương quan với Thiên Chúa thật hoặc
vẫn còn tương quan với một Thiên Chúa theo mô hình một loại đức tin cập nhật từ
chủ thuyết không Thiên Chúa.
Thiên Chúa sẽ không hài lòng khi chúng
ta từ chối Thập Giá Chúa Kitô. Chính Chúa Giêsu nói: “Kẻ nào hổ thẹn chối Ta và
các lời Ta, thì Con Người cũng sẽ hổ thẹn chối nó, khi Ngài đến trong vinh
quang của Ngài và của Cha cùng các Thiên thần” (Lc 9,26)
Mừng Lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam, thiết
nghĩ mỗi người đều phải đặt mình trước một sự thật: Thiên Chúa đau lòng vì con
người xúc phạm đến Thiên Chúa và vì các tín hữu Chúa chưa can đảm để làm chứng
cho Ngài. Và từ đó, mỗi người phải tự cảnh tỉnh trước những biến dạng thiên
hình vạn trạng của cơn bách đạo hôm nay, để cương quyết “không bước qua Thập
Giá” và càng không tiếp tay nối giáo cho giặc.
Lạy Chúa, Giáo Hội lữ hành, và đặc biệt
Giáo Hội Việt Nam chúng con đang gặp những thách đố lớn lao vì những chủ trương
không Thiên Chúa và không đời sau đang lôi kéo các tín hữu buông bỏ tinh thần
từ bỏ, bóp chết tinh thần tử đạo của Chúa Kitô. Xin Chúa ban cho mọi thành phần
trong giáo hội ơn kiên trung làm chứng cho Chúa qua việc không hướng theo tinh
thần thế tục đang hấp dẫn mọi nơi.
Lạy Chúa, trong đời sống gia đình, chúng
con làm cha, làm mẹ một thiên chức Chúa ban gắn liền với ơn tử đạo, qua việc
hiến dâng cả đời cho con cái với bao hy sinh đầy đắng cay và nước mắt. Xin Chúa
ban cho chúng con, nồng nàn yêu mến và tín thác vào Chúa, để mỗi hy sinh của
chúng con trong đời, xứng đáng là một giọt máu tử đạo rơi xuống, cho mầm đức
tin mọc lên trong mỗi gia đình chúng con.
31. Những tên lý hình thời
đại – PM. Cao Huy Hoàng
Mừng kính lễ các Thánh Tử Đạo Việt Nam
trong Năm Đức Tin, chúng ta không chỉ tự hào về Đức Tin kiên cường của Cha ông
chúng ta, không chỉ tự hào sống trong đất nước của các Thánh Tử Đạo, không chỉ
hãnh diện vì được là con cháu của các Thánh Tử Đạo, không chỉ tri ân những giọt
máu trổ sinh mầm sống mới Đức Tin nơi chúng ta, mà thiết thực hơn, chúng ta cần
noi gương các Ngài: Sống Đức Tin là Tử Đạo hằng ngày.
Nếu cha ông ta đã sống trong một thời kỳ
bách đạo cách tàn bạo, từ việc cấm cản, khủng bố đến việc bắt bớ, bỏ tù tra tấn
dã man, cho đến những án tử hình ghê rợn nhất: xử giảo, lăng trì, bá đao, thiêu
sống, xử trảm, rũ tù…thì thời chúng ta, “những tên lý hình thời đại” với cách
bức bách Đức Tin của ta còn kinh khủng hơn nữa: làm cho con người không còn yêu
mến Chúa Giêsu và Thập Giá của Ngài.
Những tên lý hình thời đại: Ngoài ta
Những người chủ trương không có Thiên
Chúa đang cầm quyền sinh tử nơi đất nước của các Thánh Tử đạo, đưa Giáo Hội
Việt Nam vào một thách đố mới, vào cuộc tử đạo mới: Truyền giáo cho người không
tin có Thiên Chúa hay là để cho người không tin có Thiên Chúa truyền chủ thuyết
của họ?
Tư tưởng “Tôn giáo là liều thuốc phiện”
vẫn đã thấm trong máu thịt của họ và đã chỉ đạo cả cuộc đời họ, cả việc họ làm,
đến nỗi khi con người gần đất xa trời, chờ phút “qui tiên”, họ cũng chẳng chấp
nhận một cõi nào linh thánh. Một cuộc đời bồng bềnh theo năm tháng lơ lững
không định hướng, vì chỉ tin được cái hiện hữu của thân xác mà không tin có
linh hồn bất tử. Một cuộc đời không có chuẩn mực Chân, Thiện, Mỹ nào hơn là
theo cái chuẩn mực mà mình tự đặt định. Đạo đức xã hội là làm sao đem lại lợi
ích trần thế nhiều nhất cho xã hội mà chính mình là trước tiên!
Thời đại này, họ không đặt Thánh Giá
trước mặt chúng ta và yêu cầu chúng ta bước qua để chứng minh cho họ là chúng
ta chối bỏ Đức Tin, nhưng họ đã gieo vào lòng tín hữu bề bộn những chủ thuyết
vật chất, và như thế là cuộc tử đạo mới, tử đạo hằng ngày, đã bắt đầu qua việc
không đồng thuận với những chủ trương không Thiên Chúa:
- Các em học sinh ở nhà trường phải tử
đạo khi không chấp nhận bài học nguồn gốc con người bởi khỉ, bài học không có
Thiên Chúa nào. Không có Đấng Tạo Hóa tác sinh…như “Con chim hay nói, nó nói
tào lao, không có đứa nào, dạy cho tao nói”.
- Các em thanh niên nam nữ vào đời phải
tử đạo khi không theo cách sống thử tự nhiên được xã hội mặc nhiên cổ xúy, để
giữ vững đức khiết tịnh vì biết rằng: sống thử – nhưng sinh con thật – giết
người thật.
- Các gia đình công giáo phải tử đạo khi
lao vào cuộc sống kinh tế. Biết rằng có thực mới vực được đạo, và để ổn định
phát triển kinh tế, phải giảm sinh, nhưng cương quyết không giảm sinh theo kế
hoạch không tự nhiên – vì chẳng khác nào giết con người từ trong trứng nước, và
tự tẩy chay nhân phẩm quí giá của mình.
- Giá trị hôn nhân thời nay đặt trên căn
bản là kinh tế, là của cải vật chất, là hưởng thụ…tạo điều kiện cho trào lưu ly
thân ly dị cách dễ dàng, và tạo nên một sự hỗn độn về đời sống các gia đình
không đáng có: chồng trước, vợ sau, con chung, con riêng, con bỏ, con nuôi… hỗn
độn…. Biết như thế, vì bảo vệ Đức Tin Công Giáo, các gia đình công giáo phải tử
đạo khi dứt khoát không bị cuốn vào trào lưu tục hóa giá trị hôn nhân.
- Khi có của ăn của để, thì việc hành
đạo hầu như không cần thiết hơn việc giải trí tiêu khiển, và việc giữ lễ Chúa
nhật có thể trở thành việc chiếu lệ, nhưng người công giáo đã tử đạo khi vẫn
một lòng yêu mến Chúa Giêsu, khao khát kết hiệp cùng Chúa Giêsu Thánh Thể qua
việc tham dự Thánh lễ và việc rước lễ hằng ngày.
- Người ta muốn giam các tín hữu trong
trại giam mới là chính cái biệt thự sang trọng, hay ít là căn phòng đầy đủ tiện
nghi vật chất thơm phức nệm êm chăn ấm máy lạnh máy nóng …để mà hưởng thụ cuộc
đời nầy, mà quên đi cái đời sau ảo tưởng… nhưng không, họ đã lầm, khi các tín
hữu Việt Nam vẫn quí mến một cuộc vượt qua, và sẵn sàng cho cuộc vượt qua của
chính mình…
- Giữa những băng hoại, suy đồi có nguy
cơ làm phai mờ Đức Tin Công Giáo, các tông đồ của Chúa không đành lòng bó tay,
nhưng tích cực gia tăng đời sống đạo đức gương mẫu, đời sống cầu nguyện, có
sáng kiến phong phú để khắc phục, chận đứng, những trào lưu suy đồi của những
tên lý hình thời đại làm tha hóa các phần tử trong giáo hội. Họ thiết thực trở
nên những con người hướng dẫn thời đại đi vào đúng đường lối của Chúa. Họ thực
sự đang ôm lấy Thánh Giá Chúa Giêsu với lòng quí mến thiết tha nhất. Họ đang tử
đạo trên đất nước của các Thánh Tử Đạo, cùng với Đoàn Chiên Tử Đạo khắp nơi
trên đất nước.
Chúng ta tin rằng các Thánh Tử Đạo Việt
nam vẫn luôn phù hộ, tiếp sức cho các tín hữu Việt Nam chiến đấu trong cuộc bức
bách mới của những tên lý hình thời đại mới đầy mưu ma chước quỉ của Satan luôn
chủ trương chống lại Thiên Chúa.
Tên lý hình thời đại: Trong ta
Truyện rất ngắn “Lòi Cái Tôi Ra” của tác
giả Anh-em-của-mọi-người, viết:
- Thưa cha khi chủng viện xây xong,
người ta chặt cây cho lòi nhà ra nên chủng sinh phải chịu nắng nóng mấy năm
nay. Bây giờ giáo xứ xây xong nhà giáo lý, lại chặt cây cho nhà giáo lý lòi ra
làm thiếu nhi phải chịu nắng nóng!
- Không phải lòi nhà ra đâu mà lòi cái
tôi ra đấy! Để lòi cái tôi ra nguời ta dám chặt bất cứ thứ gì kể cả cây thập
giá nữa chứ cây xanh, bóng mát cho giáo dân là cái gì?
“ … Tôi đến để chiên được sống và sống
dồi dào” (Ga 10,10)
Chiến đấu với những tên lý hình thời đại
ngoài ta có thể không khó khăn lắm, nhưng chiến đấu và chiến thắng với tên lý
hình trong ta, có vẻ không dễ dàng tí nào!
Phải khiêm tốn mà nhận ra rằng, có nhiều
người, trong đó có thể có tôi, có bạn, đã không bước qua thập giá của những tên
lý hình thời đại ngoài ta, nhưng ngược lại, vì cái tôi, mà ta đã chặt và quăng
cây thánh giá đi rồi. Khi đã chặt và quăng đi, thì còn đâu mà bước qua! Khi đề
cao cái tôi một cách quá đáng, người ta chối bỏ Đức Giêsu Kitô và khổ đau của
Ngài một cách không thương tiếc, và cũng không hay biết!
Sự nhàn hạ, thanh thản, phương tiện tiện
nghi, hưởng thụ… đã “lấn sân” tâm linh, tạo cho người ta cái hạnh phúc thật êm
dịu, không còn cảm giác khổ đau của cây thập giá nữa. Và vì thế, khó mà chấp
nhận sự khốn khó gian nan. Sướng quen rồi. Đây mới thực sự là trại giam mới,
trại giam của của danh vọng, của quyền lực, của sự an thân, an vị, an nhàn, và
… rồi an nghĩ trong trại giam ấy tới ngàn thu.
Bỗng dưng, chính ta, đã trở nên những
tên lý hình thời đại. Ta xử trảm chính ta và xử trảm mọi người khi cách sống
“không Kitô”, “không Thập Giá” trở thành gương xấu cứ lan nhanh lan nhanh đến
nhiều người.
Vâng, không ai bắt ta làm nô lệ, chỉ vì
ta bằng lòng để mất tự do. Không ai làm ta mất tự do, chỉ vì ta bằng lòng làm
nô lệ! Nô lệ cho chính cái tôi của mình.
Yêu mến Chúa Giêsu và Thập Giá Chúa
Giêsu
Thiết tưởng lòng yêu mến Chúa Giêsu và
Thập Giá của Ngài, sẽ giúp tôi, giúp bạn vượt qua những cuộc bức bách ngoài ta,
trong ta, sẽ giúp chúng ta vượt qua, giúp chúng ta được hồng phúc tử đạo hằng
ngày, giúp chúng ta trung thành với Đức Tin Công Giáo.
Xin chia sẻ một phần câu chuyện về Thánh
Tử Đạo Anrê Nguyễn Kim Thông (Anrê Năm Thuông) lý trưởng, thầy giảng; sanh 1790
tại Gò Thị, Bình Định; chết 15 tháng Bẩy, 1855, tại Mỹ Tho. Ngài chết rũ tù vì
kiệt sức và đói khát trên đường di tán tại Mỹ-Tho.
“Bị điệu ra trước tòa quan tỉnh tra vấn
về các điều tố cáo. Ông Trùm khiêm tốn, bình tĩnh ung dung trả lời bằng lời lẽ
đanh thép: “Trong nhà tôi không có đạo trưởng. Còn việc tậu thuyền, mãi mã, sắm
ghe, tích trữ lương thực, tôi chẳng hề có, xin quan cho đi khám xét. Tôi chỉ
chuyên cần lo việc nông gia. Tôi không biết Tây Dương, không đem đường chỉ nẻo
cho họ. Tôi cũng chẳng hề đi đâu mà mở đường sơn thủy, vận lương, chuyển binh
cho giặc”. Không tìm ra chứng cớ về các điều cáo giác trên, bọn quan lại bèn
truyền cho Ông Trùm “quá khóa”, tức là bước qua Thánh Giá, thì sẽ được tha về.
Ông nhất quyết không tuân.
Quan bảo: “Kín đáo đạp lên thập giá đi,
rồi về xưng tội”.
Ông Trùm đáp: “Thạch tín là thuốc độc,
uống vô là chết, nhưng cũng có thuốc giải. Thế nhưng có ai liều mình uống thạch
tín bao giờ? Việc xúc phạm Thánh Giá cũng vậy”.
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết yêu mến
Chúa Giêsu và yêu mến Thập Giá của Ngài, để được hồng phúc tử đạo với Chúa mỗi
phút giây trong cuộc đời chúng con. Amen.